Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam

 

 

 

ĐỰƠC CHỌN GIỮA LOÀI NGƯỜI
VÀ CHO LOÀI NGƯỜI  (x. Dt, 5.1)

 

GIÁO SĨ:

Xuất phát từ giáo dân, hiện diện vì giáo dân và cậy dựa vào giáo dân

 

ĐỂ CÙNG LÀM VINH DANH THIÊN CHÚA

 

www.conggiaovietnam.net                          giaosivietnam@gmail.com

Đặc San Điện Tử    Giáo Sĩ Việt Nam    Số 94, Chúa Nhật 31.05.2009


MỤC LỤC 

Sắc Lệnh Về Các Phương Tiện Truyền Thông Xã Hội (Inter Mirifica)                    Vatican 2

Thư chung của Đức TGM Hà Nội                                                 TGM Giuse Ngô Quang Kiệt

LINH MỤC, NGƯỜI LÀ AI?                                                              GM Phêrô Nguyễn Soạn 

SỨ MẠNG CỨU ĐỘ CỦA HỘI THÁNH                                                 Lm Nguyễn Hồng Giáo

“CÓ CHÚA CÙNG HOẠT ĐỘNG VỚI...”                                            Lm. Lê Quang Uy, DCCT

ĐỨC THÁNH CHA BIỂN ĐỨC XVI VÀ CUỘC HÀNH HƯƠNG ĐẤT THÁNH              Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh

NÓI VỚI CHÚNG, KHÔNG NÓI CHO CHÚNG (BÀI 2)                              Lm. Lê văn Quảng

THÁNG NĂM, NHỚ SINH NHẬT NHỮNG CON NGƯỜI VĨ ĐẠI              Gioan Lê Quang Vinh

CON TẮC KÈ TRÊN NGỌN CÂY DỪA                                                         Nhà văn Quyên Di

NGƯỜI NỮ TU SỐNG TU ĐỨC TOÀN DIỆN  (tiếp theo)                     Lm. Micae-Phaolô Trần Minh Huy pss 

THUỐC Ở TRONG RAU                                                                           Nguyễn Ý-Đức, M.D.

QUỸ ĐEN                                                                                     Chuyện phiếm của Gã Siêu 


Sắc Lệnh Về Các Phương Tiện Truyền Thông Xã Hội (Inter Mirifica)

 

Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia


 

Lời Giới Thiệu

 

Mục đích của Công Ðồng Vaticanô II là "chiếu giãi ánh sáng Chúa Kitô tới muôn dân... bằng việc rao giảng Phúc Âm" 1. Công Ðồng đã làm một cố gắng để rao giảng Phúc Âm và đối thoại với thế giới. trong số các phương tiện đắc lực nhất để rao giảng Phúc Âm và đối thoại với thế giới, chúng ta phải kể tới phương tiện truyền thông xã hội. Vì thế Công Ðồng, do Chúa Thánh Thần thúc đẩy và soi sáng, đã đề cập tới vấn đề truyền thông xã hội một cách long trọng.

Một tài liệu mới mẻ

Từ xưa tới nay, ngoài một số văn kiện của các Ðức Giáo Hoàng về vấn đề liên quan đặc biệt đến các phương tiện, Giáo Hội chưa bao giờ đề cập tới vấn đề truyền thông xã hội một cách đầy đủ và bao quát. Ðây là tài liệu đầu tiên trình bày lập trường của Giáo Hội. Chính vì là tài liệu đầu tiên, nên có lẽ nó không được hoàn hảo và đầy đủ như một số người công giáo có thẩm quyền trong ngành truyền thông xã hội mong muốn.

Lược trình Sắc Lệnh

Tháng 2 năm 1962 một tài liệu tựa đề "Lược đồ Hiến Chế về các phương tiện truyền thông xã hội" được gởi tới các Nghị Phụ khắp thế giới. Cuối tháng 11 năm 1962, các Nghị Phụ họp nhau lại để thảo luận về tài liệu này. Tất cả có tới 57 Nghị Phụ góp ý kiến, và vài hôm sau, phần đông đã bỏ phiếu chấp nhận sắc lệnh, rồi kỳ họp thứ nhất của Công Ðồng bế mạc.

Căn cứ theo đề nghị của các Nghị Phụ, lược đồ đã được sửa đổi, bớt phần lý thuyết, và được gọi là Sắc Lệnh thay vì Hiến Chế, vì nó ngắn hơn vì có tính cách mục vụ cụ thể.

Trong kỳ họp thứ hai, tháng 11 năm 1963 các Nghị Phụ bỏ phiếu một lần nữa và đã chấp nhận Sắc Lệnh, nhưng lần này có 503 nghị Phụ bỏ phiếu "chống". Một số ký giả và Nghị Phụ đã chỉ trích Sắc Lệnh là nông cạn, tiêu cực và khô khan. Họ cố gắng gây dư luận chống đối Sắc Lệnh. Nhưng đầu tháng 12 năm 1963 Sắc Lệnh được phê chuẩn và công bố.

Ðặc tính của Sắc Lệnh

Mục đích của Sắc Lệnh không phải là xác định và giải thích những nguyên tắc tín lý về việc truyền thống xã hội. Trái lại Sắc Lệnh mang tính chất cụ thể và mục vụ. Tất cả được gồm tóm trong hai phần chính: phần thứ nhất nói về các nguyên tắc luân lý để sử dụng và kiểm soát các phương tiện; phần thứ hai hướng dẫn cách tổ chức công việc dùng những phương tiện này trong các hoạt động tông đồ của Giáo Hội. Phải công nhận Sắc Lệnh hơi nặng nề về phần luân lý, cảnh cáo và đề phòng.

Ðây là một tài liệu kết thúc một giai đoạn lịch sử Giáo Hội, tức là giai đoạn ý thức về sự lợi hại của các phương tiện, và mở ra một giai đoạn lịch sử mới, là giai đoạn tổ chức lại những nỗ lực của tất cả những người và những cơ quan Công Giáo đang hoạt động trong lãnh vực truyền thông.

Sắc Lệnh với Giáo Hội Việt Nam

Giáo Hội Việt Nam từ hơn ba thế kỷ nay đã rao giảng Phúc Âm bằng máu của các vị tử đạo, bằng gương sáng của mọi tín hữu, bằng lời cầu nguyện thiết tha, bằng những ngôi nhà thờ dựng lên từ Bắc chí Nam. Nhưng có lúc sự rao giảng đó ở Việt Nam, cũng như ở bao quốc gia Tây Phương khác, có tính cách hạn hẹp và thiếu cởi mở.

Công Ðồng Vaticanô II đã khai sinh một chiều hướng mới một chiều hướng cởi mở thay cho thái độ tự vệ, và đối thoại với các tôn giáo bạn thay vì coi họ như "lương dân".

Các phương tiện truyền thông xã hội, vì có khả năng đạt tới mọi người, nên có thể là những dụng cụ rất thích hợp để rao giảng Phúc Âm trong tinh thần phổ quát và thông cảm của đức bác ái công giáo.

 


Chú Thích:

1 Hiến chế tín lý về Giáo Hội, số 1

còn tiếp

VỀ MỤC LỤC
Thư chung của Đức TGM Giuse Ngô Quang Kiệt


Thư chung của Đức Tổng giám mục Giuse
Gửi cộng đoàn Dân Chúa Tổng giáo phận Hà nội
Nhân dịp tháng Thánh Tâm Chúa Giêsu năm 2009

Hà nội ngày 18 tháng 05 năm 2009

Anh chị em thân mến,

Tháng Sáu năm nay thật đặc biệt. Ngoài việc tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu, Đức Thánh Cha còn mở Năm Thánh Linh Mục nhân kỷ niệm 150 năm ngày qua đời của thánh Gioan Maria Vianê.

THÁNG THÁNH TÂM

Trong tháng Thánh Tâm, Giáo hội mời gọi ta hãy siêng năng tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu. Hình ảnh Chúa Giêsu chỉ tay vào Trái Tim có vòng gai và ngọn lửa bốc cháy là một lời mời gọi của Tình Yêu Thương.

Chúa mời gọi ta chiêm ngắm Tình Yêu Thương của Chúa. Trái Tim thường được coi là trung tâm phát xuất tình yêu. Chúa cũng có một trái tim như ta. Trái Tim Người là ngọn lửa tình yêu bừng bừng cháy đêm ngày. Vì Người mãi thao thức băn khoăn cho chúng ta là đoàn chiên yêu quí của Người. Trong Kinh Thánh ta đã thấy người “chạnh lòng thương” khi nhìn thấy đám đông tất tưởi bơ vơ như đàn chiên không người chăm sóc (Mc 5, 34). Người “khóc” thương Lazarô (Ga 11, 35). Trên thánh giá, Người thương tha thứ cho anh trộm lành (x. Lc 23, 39-43) và thương cầu nguyện xin Đức Chúa Cha tha thứ cho những kẻ hành hình Người (x. Lc 23, 34). Tình Yêu Thương của Chúa được diễn tả chi tiết qua hình ảnh người Mục Tử nhân lành. Người Mục Tử nhân lành biết từng con chiên nên có thể gọi tên từng con một. Người Mục Tử chăm sóc cho từng con chiên. Con nào bị thương tích sẽ được băng bó cẩn thận. Con nào đau yếu sẽ được chăm sóc. Tất cả đoàn chiên sẽ được hướng dẫn đến đồng cỏ non xanh có dòng suối mát trong (x. Ed 34, 14-16). Người đi tìm con chiên lạc. Và khi tìm được thì vác nó lên vai đem về mở tiệc ăn mừng (x. Lc 15, 4-7). Nhất là khi sói dữ đến tấn công người Mục Tử nhân lành sẽ liều mình đương đầu với sói dữ để bảo vệ đoàn chiên (x. Ga 10, 11-15). Chúa Giêsu là người Mục Tử Nhân Lành. Người biết rõ ta vì Người đã dựng nên ta. Người thông cảm với hoàn cảnh khốn khổ của ta. Người từ trời xuống thể để đi tìm chúng ta là những con chiên lạc. Người dưỡng nuôi chúng ta bằng Lời Người và bằng Mình Máu Thánh Người. Người yêu thương chúng ta nên đã liều mạng sống hi sinh chịu chết thay cho chúng ta.

Chúa mời gọi ta ở lại trong Tình Yêu Thương của Chúa. Chúa không chỉ mời gọi ta chiêm ngắm mà còn mời gọi ta đến với Chúa để được hưởng tình yêu thương của Chúa. Khi hai môn đệ Gioan và Anrê muốn đến nơi Chúa ở, Chúa đã mời gọi các ngài: “Hãy đến mà xem”. Xem để thấy tình yêu thương của Chúa và nhất là để hưởng nếm Tình Yêu Thương đó. Hai môn đệ đã ở với Chúa một buổi chiều. Buổi chiều đó đã để lại trong lòng các ông những kỷ niệm êm đềm không bao giờ quên được. Hơn nửa thế kỷ sau, thánh Gioan mới ghi lại kỷ niệm ngày đầu tiên gặp gỡ với Chúa, thế mà Ngài vẫn nhớ như in từng lời nói, từng cử chỉ và tất cả những gì đã diễn ra buổi chiều hôm ấy. Ngài còn nhớ cả thời gian gặp Chúa vào khoảng 5 giờ chiều (x. Ga 1, 35-39). Thật là một kỷ niệm ngọt ngào. Quả vậy Chúa mời gọi ta đến để hưởng Tình Yêu Thương của Chúa. Chúa muốn ấp ủ ta như gà mẹ ấp ủ gà con (x. Mt 23, 37). Chúa mời ta đến để bổ sức cho ta, để ta có thể gánh nổi những gánh nặng cuộc đời, những gánh nặng bổn phận, những gánh nặng của riêng mình và những gánh nặng của người chung quanh. “Hỡi tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11, 28). Chúa mời gọi ta đến với Chúa để được thỏa lòng khao khát, để lấp đầy những khát vọng thâm sâu của ta. “Ai khát, hãy đến với tôi, ai tin vào tôi, hãy đến mà uống ! Như Kinh Thánh đã nói: Từ lòng Người, sẽ tuôn chảy dòng nước hằng sống”(Ga 7, 37-38). Chúa mời gọi ta hãy ở lại trong Tình Yêu Thương của Chúa, để ta được hưởng Tình Yêu Thương của Chúa, để chúng ta được hưởng niềm vui trọn vẹn, để cuộc đời chúng ta sinh hoa kết quả dồi dào và những kết quả đó sẽ tồn tại mãi mãi (x. Ga 15, 9-17).

Chúa mời gọi ta đáp đền Tình Yêu Thương của Chúa. Tình yêu kêu gọi tình yêu. Tình yêu đền đáp tình yêu. Chúa tha thiết yêu ta và mong ta đền đáp. Ta đền đáp trước hết bằng tuân giữ điều răn của Chúa như Lời Chúa dậy: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy”(Ga 14, 15). Ngoài ra Chúa còn mời gọi chúng ta hãy tích cực đáp lại tình yêu của Chúa bằng việc sùng kính Thánh Tâm Chúa. Theo thánh nữ Magarita, Chúa mong muốn ta hãy sùng kính Thánh Tâm Chúa bằng việc thánh hóa ngày Thứ Sáu, đặc biệt là ngày Thứ Sáu đầu tháng. Mỗi ngày thứ Sáu đầu tháng ta hãy hi sinh hãm mình, xưng tội chịu lễ, đi đàng Thánh Giá, làm giờ thánh Đền Tạ Thánh Tâm Chúa. Việc tôn sùng Thánh Tâm Chúa đang là nguồn ơn lành đem lại nhiều lợi ích thiêng liêng cho Giáo hội và cho các linh hồn. Từ năm 2000 Đức Cố Giáo hoàng Gioan-Phaolô đệ nhị còn quảng bá việc tôn sùng Lòng Chúa Thương Xót. Lòng Chúa Thương Xót được Chúa mặc khải cho thánh nữ Faustina. Tuy mới khởi sự được 10 năm nhưng việc sùng kính Lòng Chúa Thương Xót đang phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ. Vì việc sùng kính này xem ra đáp ứng được những nhu cầu tâm linh của thế giới hôm nay.

NĂM THÁNH LINH MỤC

Ngày 19-06-2009, lễ kính Thánh Tâm Chúa Giêsu năm nay, Giáo hội sẽ khai mạc Năm Thánh Linh Mục nhân kỷ niệm 150 năm ngày cha thánh Gioan Maria Vianê qua đời. Việc cử hành này trước hết nói lên tầm quan trọng của các linh mục trong việc rao giảng Tin mừng. Đồng thời nêu cao tấm gương linh mục thánh thiện của cha thánh Gioan Maria Vianê. Và mời gọi các linh mục hãy noi gương cha thánh tìm về Thánh Tâm Chúa như cội nguồn, như đích điểm, như trường đào tạo của đời linh mục.

Thánh Tâm Chúa là cội nguồn của chức linh mục. Chức linh mục là chức vụ cao quí vì được khai sinh nơi Tình Yêu Thương của Chúa. Chúa yêu thương nhân loại và mong muốn nhân loại được tiếp tục yêu thương qua các linh mục. Chúa yêu thương các linh mục nên đã sinh ra các linh mục từ Trái Tim rất yêu thương của Chúa, để các linh mục tiếp tục là sự hiện diện yêu thương của Chúa giữa trần gian. Thật cao quí và ngọt ngào thay. Linh mục là sáng kiến đầy yêu thương của Chúa và là quà tặng của Tình Yêu Thương của Chúa cho nhân loại.

Thánh Tâm Chúa là đích điểm của chức linh mục. Được sinh ra từ Trái Tim Chúa, linh mục phải trở về với Trái Tim Chúa. Được sinh ra để đem Tình Yêu Thương của Chúa đến cho mọi người, linh mục phải đem mọi người về với Tình Yêu Thương của Chúa. Linh mục là người được hiến dâng cho Tình Yêu Thương của Chúa. Nên mọi tư tưởng, lời nói, việc làm của linh mục đều nhằm bày tỏ, phát triển và giúp mọi người đạt tới Tình Yêu Thương của Chúa.

Thánh Tâm Chúa là trường đào tạo linh mục. Trong lò lửa mến hằng cháy của Thánh Tâm Chúa, linh mục được thanh luyện khỏi mọi tội lỗi, khỏi mọi ích kỷ, khỏi mọi toan tính nhỏ mọn. Thánh Tâm Chúa sẽ là trường dạy về Tình Yêu Thương, sự hiền lành khiêm nhường, sự khoan dung tha thứ, sự hi sinh quên mình, sự quảng đại phục vụ. Đó chính là những môn học rất cần thiết cho cuộc đời linh mục.

Nếu Giáo hội mời gọi mọi tín hữu hãy tôn sùng đền tạ Thánh Tâm Chúa, Giáo hội mong muốn các linh mục hãy đi tiên phong trong công việc này. Vì đó chính là nguồn sức sống của các linh mục.

Trong Năm Thánh Linh Mục, anh chị em hãy hiệp ý với các linh mục tạ ơn Tình Yêu Thương của Chúa dành cho chúng ta và cách riêng dành cho các linh mục. Anh chị em hãy cầu nguyện cho các linh mục được trở nên dấu chỉ của Tình Yêu Thương của Chúa giữa lòng thế giới. Anh chị em cũng hãy cầu nguyện và khuyến khích cho nhiều bạn trẻ hiến dâng đời sống trong nhiệm vụ linh mục. Thế giới hôm nay đang rất cần các linh mục, vì thế giới hôm nay cần Tình Yêu Thương của Chúa, cần sự hiện diện của Tình Yêu Thương, cần bằng chứng của Tình Yêu Thương của Chúa.

Tôi tha thiết mời gọi anh chị em, cách riêng các linh mục hãy đáp lại lời mời gọi của Thánh Tâm Chúa. Hãy theo lời thánh nữ Magarita tôn sùng đền tạ Thánh Tâm Chúa, thánh hóa ngày Thứ Sáu Đầu Tháng. Hãy đến học nơi ngôi trường Thánh Tâm Chúa. Và nhất là hãy là những chứng nhân của Tình Yêu Thương của Chúa giữa trần gian.

Xin Thánh Tâm Chúa Giêsu ban tràn đầy ơn Tình Yêu xuống trên từng anh chị em, từng gia đình, từng giáo xứ. Xin cho Nước Tình Yêu của Chúa hiển trị giữa chúng ta.

Thân ái,

Tổng giám mục Hà nội

+ TGM Giuse Ngô Quang Kiệt

VỀ MỤC LỤC
LINH MỤC, NGƯỜI LÀ AI?

 

  Ví như Tôn Tẩn đã nói răng: “Tri kỹ tri bỉ, bách chiến bách thắng” (Biết người biết ta, trăm trận trăm thắng), thì linh mục chúng ta, trong cuộc chiến đấu vật lộn với đời, chúng ta cần phải biết chính mình.

   Hôm nay, xin nói về vấn đề: “Linh mục, người là ai?”

   Để đào tạo linh mục, Giáo Hội phải tốn bao nhiêu công sức và thời gian. Chúng ta là người trong cuộc, nhiều khi gần quá hóa quen, nên ít khi đặt lại vấn đề, ít khi xét lại để thấy căn tính của mình. Hôm nay trong những ngày phòng ngắn ngủi này, chúng ta hãy dành một ít phút để suy gẫm về chính mình, rà soát lại xem thế nào là linh mục đích thực, và chúng ta đã sống thiên chức linh mục ấy thế nào. 

   Vậy, linh mục, người là ai?

   Hình ảnh của linh mục rất đa dạng nơi cảm nghĩ của dân chúng. Cách đây ba bốn mươi năm, linh mục là người dâng thánh lễ, cử hành các Bí tích, giảng dạy đức tin, luân lý, Kinh Thánh, là con người của Giáo Hội, độc thân, xa lìa thế gian, mặc áo dòng đen, một viên chức có quyền thế, một nhà quý phái có bàn tay trắng. Nhưng gần đây hơn, danh từ linh mục gợi lên trong trí óc người ta, hình ảnh của một người bạn nghèo, có bàn tay chai cứng, đấu tranh cho hòa bình, cho độc lập, cho tự do, tham gia chính trị, vận động yêu nước, chống tham nhũng…

   Những ý tưởng chồng chất ngổn ngang, có khi mâu thuẫn và hời hợt như người ta móc đầy áo đủ loại trên một cái móc áo. Chúng ta hãy bắt đầu cởi bỏ những gì gán cho linh mục và chỉ giữ lại thực chất của linh mục, được truyền thống giới thiệu bắt đầu từ Chúa Giêsu cho đến các linh mục ngày nay. 

   Đã từ lâu, các nhà thần học, vì muốn truy tìm chính xác, đã tháo gỡ guồng máy Giáo Hội ra và đã định vị từng bộ phận. Do đó, họ đưa Đức Giáo Hoàng ra khỏi Giám mục đoàn, Giám mục ra khỏi linh mục đơn giản, tu sĩ ra khỏi những người được rửa tội, linh mục khỏi giáo dân, Đức Nữ Đồng Trinh khỏi các thánh khác và khỏi Hội Thánh chung chung, bảy phép Bí tích ra khỏi những động tác Bí tích của Hội Thánh. Tháo rời như vậy để hiểu rõ hơn từng bộ phận một. 

   Giờ đây, có chiều hướng đổi ngược. Các nghị phụ Công Đồng Vatican II cũng như các nhà thần học mới, ráp lại, đặt các bộ phận vào trong toàn khối. Họ đặt Đức Giáo Hoàng trong Giám mục đoàn và trong Hội Thánh (Phêrô tuy đứng đầu, nhưng cũng là một trong nhóm 12 và nhóm 12 cũng là toàn thể dân Chúa), đặt linh mục trong cộng đoàn tín hữu, đặt đời sống tu trì trong đời sống những người được rửa tội, đặt các Bí tích trong Hội Thánh và Hội Thánh được coi là Bí tích Mẹ, đặt Đức Trinh Nữ Maria vào Mầu nhiệm Chúa Kitô và Hội Thánh Người. 

   Đặc biệt đối với các linh mục, sự biến cải hiện thời của lịch sử, liên kết với nền thần học mới, đưa linh mục trở về hàng ngũ thực sự của mình. Ngày nay, linh mục có uy tín và thế giá, không phải chỉ vì ông được thụ phong linh mục, có chức thánh, mà quan trọng là do đời sống tông đồ và mục vụ của mình. Bởi lẽ, xưa kia người ta coi linh mục là người thông biết mọi sự. Ngày nay, cùng với sự phổ thông văn hóa, linh mục không còn là người duy nhất nắm giữ kiến thức. Người giáo dân bây giờ cũng thông thái, có khả năng chuyên môn, ngay cả cũng đào sâu Kinh Thánh, giáo luật; có những người có bằng cấp cao trong các trường đại học công giáo. Còn về tu đức, có những giáo dân được công nhận như bậc thầy. Họ cũng giảng phòng, làm cố vấn thiêng liêng như các linh mục, chẳng hạn như anh Francois Duff, sáng lập Legio Mariae. 

   Đàng khác, trong xã hội tục hóa hiện nay, các linh mục không có vai trò nổi bật nữa. Không còn lối sống riêng cho linh mục nữa, không có chỗ dành riêng cho các linh mục trên khán đài danh dự nữa. Linh mục cũng không than phiền về vấn đề này. Không còn là tai mắt đáng được để ý, linh mục lấy làm hạnh phúc sống hòa mình trong cộng đoàn huynh đệ, thích làm một tín hữu giữa các tín hữu, thích làm một công dân như các công dân khác. 

   Nhưng không phải vì thế mà chúng ta từ bỏ căn tính độc đáo của linh mục. Trong thánh lễ truyền chức linh mục, Đức Giám Mục hỏi ứng viên:

   - “Con quý mến, con có muốn trở thành linh mục, cộng tác viên của Giám Mục trong chức linh mục, để phục vụ và dẫn dắt Dân Chúa dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần không?” 

   - “Con có muốn trung thành chu toàn tác vụ Lời Chúa, nghĩa là rao giảng Tin mừng và trình bày giáo lý Đức Tin công giáo theo truyền thống của Hội Thánh để ngợi khen Thiên Chúa và thánh hóa Dân Kitô giáo không?” 

   - “Con có muốn mỗi ngày kết hiệp với Linh Mục Thượng Phẩm là Chúa Kitô, Đấng tận hiến mình cho Cha Người và với Người, thánh hiến con cho Thiên Chúa để cứu rỗi loài người không ?” 

   Sau khi ưng thuận và hứa vâng phục Đức Giám Mục, tiến chức đến quỳ gối đặt tay vào lòng bàn tay Đức Giám Mục. Rồi cộng đoàn đọc kinh cầu Các Thánh, cả triều thần thánh, cộng đoàn Dân Chúa đều tập hợp và cầu nguyện cho tiến chức đang nằm phủ phục dưới đất. Đó là hình ảnh tuyệt đẹp, gây xúc động trong ngày thụ phong linh mục. 

   Các câu hỏi trên đây trình bày súc tích căn tính của linh mục, đó là hợp tác với Giám Mục điều hành dân Chúa, rao giảng Lời Chúa và trao ban các Bí tích. Làm mọi sự liên kết Đức Giám Mục trong kính trọng và vâng lời. Nói cách khác, linh mục là hiện thân của Đức Kitô, làm đầu của Nhiệm Thể Người là Hội Thánh, kéo dài sự nghiệp Chúa Giêsu ở trần gian để điều hành Dân Chúa, thánh hóa và rao giảng Tin mừng. Nếu thánh Phaolô đã nhận xét về mình trong câu bất hủ: “Nay tôi sống, nhưng không còn là tôi, mà Chúa Kitô sống trong tôi”, thì linh mục cũng có thể khiêm tốn tự hào nói lên: “Nay tôi nói và làm, nhưng không còn là tôi, mà Chúa Kitô nói và làm qua tôi”. 

   Khi nhìn ngắm đóa hoa phô sắc trên bàn thờ, người ta dễ quên đi quá trình hình thành của nó. Nếu chúng ta theo dõi cây hoa từ khi mới được ươm trong vườn, nó phải chống chọi với sương nắng, với gió lạnh, đương đầu với khí nóng, phải hút lấy nhựa sống, hô hấp khí trời và thải ra những chất carbon. Tất cả những tiến trình này phải lựa chọn và từ bỏ liên tục mới đi đến thành công, giúp chúng ta đánh giá đúng mức sự quý báu của đóa hoa mà chúng ta đang nhìn ngắm.

   Cũng vậy, từ một cậu bé chập chững đi vào Tiểu Chủng Viện với cả một trời bí mật bao trùm trên con đường ơn gọi cho đến lúc lớn khôn, trưởng thành dần dần, chú rồi thầy, rồi mới đến cha, bao nhiêu là thử thách, bao nhiêu là cố gắng, bao nhiêu là kiên nhẫn đợi chờ. Quá khứ nặng nề ấy chúng ta đã vượt qua, nhưng đàng trước, là bổn phận, là trách nhiệm. Đời sống linh mục có vẻ đầy đủ, có khi khá huy hoàng, nhưng là đời sống hy sinh, phục vụ quên mình, thì làm sao không đau khổ. Trách nhiệm chồng chất, trách nhiệm trong sự đều đều đến kinh sợ, và trước tiên, là đời sống cô độc. Có thể ví cuộc đời linh mục với thân phận con gà treo, tuy bên ngoài đầy đủ thức ăn nước uống, nhưng phải đứng im trong ô chuồng không cựa quậy, trong một không gian chật hẹp, mỗi ngày có bổn phận đẻ cho chủ một quả trứng, không được đi đó đi đây, không được bươi móc như các con gà khác, vì nếu được tự do thong thả thì mất trứng. 

   Trong xã hội vật chất và hưởng thụ, người ta bảo đời sống linh mục như vậy là gò bó, không thoải mái. Nhưng có đời sống nào trên trần gian này hoàn toàn thoải mái? Công nhân, thợ thuyền, giáo chức, nông dân, thương gia, sinh viên…, mỗi người cũng phải nai lưng làm việc, phải chu toàn mọi trách nhiệm của mình, phải đấu tranh vật lộn với đời và phải tuân thủ mọi lề luật. Chỉ có lúc ngủ quên hay chết, chớ không bao giờ nói đến chuyện thoải mái, nếu mỗi người muốn sống nghiêm chỉnh theo căn tính của mình.

   Còn hơn thế nữa, linh mục là người của muôn người, được sai đi để phục vụ, để làm đầy tớ thiên hạ, thế tất phải sống đời hy sinh, còn lâu và còn xa mới nói đến chuyện thoải mái vô tư trong đời sống mục vụ. Đúng như Cha Chevrier đã nói: “Linh mục là người bị ăn”. Bị ăn, thế tất phải hao mòn thân xác và tinh thần. 

   Không thể nghe theo những kẻ bệnh hoạn, kêu la ầm ỹ, lượng định cách lệch lạc giá trị cao cả của chức linh mục. Còn tệ hơn nữa, là đang mang trong mình kho tàng quý báu, không biết coi trọng, lại làm hoạt kê chân dung linh mục trong đời sống mình. Đa số 90% linh mục âm thầm làm việc, tiến bước trên con đường trọn lành bằng những bước chân vững chắc, can đảm đương đầu với mọi thử thách gian lao. Những người không sanh sự, không khoác lác, ồn ào thì không được dư luận để ý đến, còn thiểu số kia bỏ cuộc, thì báo chí, truyền thanh, truyền hình làm rùm beng gây tiếng vang ầm ỷ. Sức sống thiêng liêng do các linh mục mang lại đang trào dâng từ đầu não, lan tỏa khắp thân thể là Giáo Hội. Tại sao nói là đầu não? Bởi lẽ linh mục, hiện thân cho Chúa Giêsu, là Đầu của Thân Thể Người là Giáo Hội. Trong sắc lệnh về “Chức vụ và Đời sống linh mục”, Công Đồng Vatican II có dạy: “Vì được liên kết với chức Giám Mục, nên chức năng của các linh mục cũng tham dự vào quyền bính mà chính Đức Kitô đã dùng để kiến tạo, thánh hóa và cai quản thân mình Người. Vì vậy, chức linh mục tuy dựa trên các Bí tích khai tâm Kitô giáo (rửa tội, thêm sức và Thánh Thể), nhưng lại được một Bí tích riêng in dấu đặc biệt khi họ được Chúa Thánh Thần xức dầu và làm cho nên giống Chúa Kitô Linh Mục, hầu làm cho họ có khả năng nhân danh Đức Kitô Đầu mà hành động”. 

   Trong quyển sách tựa đề “Hình ảnh mới của Hội Thánh”, Đức cha Ancel viết như sau: “Muốn hiểu các linh mục, phải nhìn vào Giám Mục; muốn hiểu các Giám Mục, phải nhìn vào các tông đồ;muốn hiểu các tông đồ, phải nhìn vào Đức Kitô xét như Đầu của thân thể, là Đấng sáng lập và cứu chuộc Hội Thánh, một Hội Thánh đang nhờ trung gian của Chúa Thánh Thần mà Người đã sai đến để giảng dạy, thánh hóa và dẫn đưa mọi người về với Chúa Cha”. 

   Như vậy, linh mục vừa là người được rửa tội, trước hết và luôn luôn, linh mục ở trong cộng đoàn tư tế của dân Chúa, là chi thể cùng với các chi thể khác trong thân mình của Đức Kitô. 

   Vừa là người được truyền chức, linh mục đồng thời cũng là người đứng trước cộng đoàn, như thể một ai khác đang triệu tập và nói với cộng đoàn, như thể là Đầu của Thân Mình ấy. 

   Như vậy, chúng ta có thể rút từ đây, những phận sự chính yếu của linh mục là rao giảng Tin mừng, cử hành các Bí tích và dẫn dắt đoàn chiên Chúa giao phó. 

   Linh mục là cộng sự viên của Giám mục, nên trước tiên có nhiệm vụ loan báo Tin mừng của Thiên Chúa. Lãnh nhưng không, phải cho nhưng không. Lãnh Lời Chúa để phát, linh mục mắc nợ với mọi người. Các linh mục phải thông truyền chân lý Tin mừng mà Chúa đã trao cho họ và phải ra sức thực hiện điều này trong mọi trường hợp, dù khi họ sống một cuộc đời tốt đẹp gương mẫu giữa dân ngoại, lôi kéo dân ngoại ca tụng Thiên Chúa, dù khi họ công khai giảng thuyết cho những người chưa tin, dù khi họ dạy giáo lý Kitô giáo hay giải thích học thuyết của Hội Thánh cho các tín hữu, hoặc chuyên lo nghiên cứu những vấn đề thời đại đi nữa, nhất là chu toàn bổn phận truyền giáo đối với lương dân.

   Cha Andrée Depierre đã viết trong quyển “Gió muốn thổi đâu thì thổi” những lời trăn trở sau đây: “Tôi thiết tưởng không phù hợp với Kitô giáo khi đa số linh mục đều phục vụ các cộng đoàn dân Chúa được quy tụ trong Hội Thánh và chỉ một số nhỏ các linh mục lo cho những người chưa nhận biết Đức Kitô, mà số này đông biết bao”. 

   Phận sự thứ hai của linh mục là thánh hóa Dân Chúa: các linh mục được Thiên Chúa hiến thánh để tham dự đặc biệt vào chức linh mục của Chúa Kitô và để trong khi cử hành các việc thánh, họ hành động như những thừa tác viên của Đấng, nhờ Thánh Thần của mình, vẫn không ngừng thi hành chức vụ để mưu ích cho chúng ta. Thực vậy, nhờ phép rửa, họ dẫn đưa con người gia nhập vào Dân Thiên Chúa; nhờ Bí tích thống hối, họ giao hòa tội nhân với Thiên Chúa và Hội Thánh; nhờ việc xức dầu bệnh nhân, họ xoa dịu những ai đang đau đớn; nhất là nhờ việc cử hành thánh lễ, họ tiến dâng hy lễ của Đức Kitô cách Bí tích. Như thế, tiệc Thánh Thể là trung tâm của cộng đoàn tín hữu mà chủ sự là linh mục. Ngoài ra, kinh Nhật Tụng hay Phụng Vụ Các Giờ Kinh làm cho linh mục kéo dài thánh lễ suốt ngày, đồng thời qua đó, các linh mục nhân danh Giáo Hội, thành khẩn cầu cùng Thiên Chúa cho toàn dân đã được trao phó cho các Ngài, và hơn nữa, các Ngài cầu cho toàn thể thế giới. 

   Thừa tác vụ thứ ba là làm chủ chăn Dân Thiên Chúa. Tuy phân biệt thừa tác vụ linh mục làm ba chức năng như xưa nay, đáp ứng với những khía cạnh thật của sứ mệnh linh mục, nhưng trong cụ thể, khi sinh hoạt, thì cả ba gắn liền và hòa trộn lẫn nhau chẳng khác nào việc hô hấp, tiêu hóa và tuần hoàn trong cùng một cơ thể. Lời Chúa không ngừng lại ở ngưỡng cửa Bí tích, trái lại ở đó, nó còn âm vang mạnh mẽ vì tất cả các Bí tích đều là những Bí tích đức tin. Cũng vậy, chức vụ chủ chăn quy tụ Dân Chúa không phải là chuyện làm sau khi cử hành xong phép Thánh Thể, nhưng là quy tụ để cử hành Thánh Thể. Một khi đã dành ưu tiên cho việc phúc âm hóa và quan tâm đến các con chiên lạc, thì các bổn phận khác sẽ được bảo đảm và hòa chung trong một chức vụ chăn chiên. Như vậy, linh mục là người quy tụ mọi người trong Đức Kitô Giêsu, xây dựng cộng đồng, mở rộng cộng đồng ấy và liên kết với mọi cộng đồng trên thế giới, nói cách khác, đào tạo và làm tăng trưởng Thân Thể Chúa Kitô. 

   Sau khi ôn kỹ bản chất và các chức năng của linh mục, chúng ta hãy xét xem chúng ta sống chính danh như thế nào. Mỗi ngày chúng ta có luôn trau dồi kiến thức về Kinh Thánh để rao giảng không phải lời riêng của mình, mà Lời Chúa cho giáo dân đang khao khát của ăn nuôi hồn không ? Chúng ta có chịu khó suy gẫm trước và thực hành những điều chúng ta phải trình bày cho dân Chúa không? Hay chúng ta đã lợi dụng tòa giảng như diễn đàn để tranh biện, để tự khẳng định mình hoặc chửi mắng la rầy giáo dân? Thật ra, có lúc cần phải sửa dạy, nhưng luôn dùng lời tao nhã, luôn dùng văn từ sao cho xứng với thiên chức linh mục của mình. Hãy bắt chước tiên tri Nathan khi phải sửa sai Đavit. 

   Chúng ta có luôn ra sức dâng lễ sốt sắng, không đọc lua láu quá nhanh hay kề cà quá chậm, làm sao cho Dân Chúa tham dự thánh lễ sốt sắng và tiếp cận với hy lễ tuyệt vời này một cách hữu ích để lãnh nhận tối đa ơn thánh không?

   Hãy rà soát lại cung cách chúng ta giải tội. Có coi đó như một phương tiện tốt để hòa giải nhân loại với Chúa, những người anh em với nhau, hay coi đó chỉ là xâu bơi cực nhọc?

   Linh mục trong tòa giải tội đóng nhiều vai trò tế nhị: vừa là cha, là thầy thuốc, là bạn, vừa là thẩm phán, nhưng cũng là thầy dạy, là mẹ hiền.

  • -Chúng ta có sẵn sàng giải tội khi giáo dân cần đến, hay chúng ta cứng nhắc tính giờ định khắc để biến việc xưng tội của giáo dân thành khổ cực và đáng ngại không?

  • -Chúng ta có sẵn sàng đi kẻ liệt vào bất cứ giờ nào trong niềm xác tín đây là dịp cuối cùng để chúng ta tiễn đưa một cách quyết định người con chiên của chúng ta vào cõi sống muôn đời không?

  • -Chúng ta có chuẩn bị thanh niên nam nữ đi vào cuộc hôn nhân cách chu đáo không?

  • -Chúng ta có tích cực tìm hiểu ơn gọi, nuôi lấy những mầm non để sau này đưa các thanh niên ấy vào các dòng tu, các chủng viện, và tích cực tạo điều kiện tốt để họ sống đời sống dâng hiến trong tôn thờ và phục vụ đắc lực hơn không?

  • -Chúng ta có làm mọi sự với nhiệt tình Nhà Chúa không?

  • -Trong đời sống mục vụ, trong giáo xứ, trong môi trường đào tạo, chúng ta có cư xử đầy tình bác ái và xây dựng với những cộng sự viên của chúng ta không?

  • -Chúng ta có để cho các linh mục đồng nghiệp, cho những ông câu, ông biện, những người trong ban hành giáo có sáng kiến không? Chúng ta có tôn trọng những đề nghị của họ không?

  • -Chúng ta có lắng nghe trong đối thoại chân thành và quyết định cách khách quan không? Hay chúng ta biến họ thành những dụng cụ sai vặt như những người đầy tớ phải tuyệt đối vâng lời ông chủ? Chúng ta có bóp chết mọi sáng kiến của họ, chỉ đề cao cá nhân của mình một cách chủ quan, chỉ cho mình là trung tâm truyệt đối bất khả ngộ?

  • -Chúng ta có ra sức tổ chức các lớp giáo lý có hệ thống, có tìm những giáo lý viên đắc lực, có sắp xếp các lớp theo lứa tuổi và theo nhu cầu?

  • -Chúng ta có tìm mọi cách biết rõ con chiên của mình để tận tình giúp đỡ hay là dửng dưng sống chết mặc bay?

  • -Trong đời sống xã hội, với người lương cũng như giáo, chúng ta có ngay thẳng trong lời nói, trong phong cách, trong lối đối xử, cách ăn uống, nhất nhất phải ý tứ cẩn thận, vì qua đời sống của linh mục, người ta phải nhận ra dáng dấp của Chúa Giêsu Cứu Thế?

   Những tiêu chuẩn được đưa ra cho các linh mục xưa nay là: Thánh thiện, nhiệt thành, trở nên muối đất đèn đời, hoàn toàn quên mình trong sứ vụ, bất chấp khó khăn, hoạt động hăng say dưới nhiều hình thức khác nhau để mở mang Nước Chúa, nêu gương nhân đức, chăm lo cho con chiên cả tinh thần lẫn vật chất. Muốn đạt được những tiêu chuẩn ấy, linh mục cần phải tự huấn luyện mình quảng đại, nhiệt thành, nội tâm sâu sắc, sống giản dị, phục vụ tận tình, sẵn sàng đối thoại không định kiến 

   Như vậy có quá đòi hỏi nơi linh mục hay không?

   Tại sao phải dồn hết gánh nặng trên vai của linh mục?

   Đúng là sứ vụ của linh mục rất vinh dự nhưng cũng rất nặng nề. Một viên ngọc quý được đặt trong bình sành. Nhưng có Chúa ở cùng, chúng ta không lo sợ. Vì theo sát gót Chúa Giêsu, nên bổn phận chúng ta cũng làm con người-Chúa như chính Đức Kitô. Có nghĩa là làm trung gian giữa trời và đất. 

   Sau đây tôi xin giới thiệu một chứng nhân anh hùng: suốt đời chứng nhân đó đã theo sát gót Chúa Giêsu trong ơn gọi của mình. Người đó là cha Đamiên, biệt danh tông đồ người hủi ở đảo Molokai, một đảo nằm trong quần đảo Hawai, giữa Thái bình dương. Tại đây, từ 700 đến 800 người mắc bệnh phong hủi đàn ông, đàn bà, trẻ con chồng chất trong một phòng nhỏ của đảo, bị đuổi ra khỏi những đảo lân cận mà trước kia họ ở, để khỏi lây bệnh cho người khác. Mảnh đất chật hẹp dành cho họ phía trước mặt là đại dương, phía sau là một dãy núi sừng sững bao quanh, khó bề thoát ra được. Lúc đó, người ta đã biết rõ thế nào là phong cùi: một bệnh làm cho thân xác mỗi ngày thêm thối rữa, người ta chứng kiến cảnh thối dần, thối dần, cho tới khi toàn thân biền thành cái thây ma. Khi bệnh phát hiện, người ta biết từ đây trở nên dị dạng dị hình, không thuốc men, chỉ có một việc là chờ chết. 

   Mọi người chỉ sống trong những túp lều cất bằng gốc cây già và lợp lá; quần áo của họ chỉ còn là những tấm giẻ rách thối tha. Nước quá thiếu để được tắm sạch, muốn có một chút khí để thở phải ra khỏi lều. Người bệnh nhẹ luôn bị ám ảnh trước mắt mình những khuôn mặt biến dạng, tay chân cụt ngủn đầy những ung nhọt, và rơi rụng dần dần, xông ra những mùi nồng nặc. Rồi đây họ cũng sẽ trở nên giống như vậy. Không ai săn sóc họ, họ chỉ sống nhờ nguồn tiếp tế duy nhất đến từ chính phủ Hawai. Khi dù mang thực phẩm được thả xuống, họ cướp giật tranh nhau, họ không thiết gì canh tác trồng trọt, chỉ có một điều cần duy nhất là rượu, uống rượu để quên hết những đau khổ và ưu phiền. Với những người mới đến, người ta tuyên bố ở đây không có luật lệ gì hết. Đó là sự thất vọng hoàn toàn, một sự dơ bẩn ghê tởm nhất. Không có ai mang lại cho những người xấu số này một chút hy vọng sao? Cho tới lúc đó, chỉ có những nhà truyền giáo tạm dừng chân một vài ngày rồi lại đi mất, nhưng Thiên Chúa đã không thể bỏ con cái Ngài. 

   Năm 1873, một nhóm sáu nhà truyền giáo họp với Đức Giám mục. Đức Giám mục bày tỏ: “Khắp nơi trong địa phận nhà đã được Phúc âm hóa”. Một trong các vị truyền giáo trả lời: “Thưa Đức Cha, Đức Cha đã quên một hòn đảo, phải, hòn đảo đó là Molokai. Các nơi khác có thể là thiên đàng, nhưng Molokai quả là một hỏa ngục”. Một vị khác tuyên bố: “Con đây sẵn sàng được chôn sống giữa họ”. Mọi người quay nhìn vị truyền giáo đó và nhận ra là cha Đamiên, một linh mục trẻ, sinh tại nước Bỉ vào năm 1840 và từ 18 tuổi, đã ước ao làm nhà truyền giáo. Ngài có mặt ở quần đảo Hawai từ 10 năm nay, thay thế anh ruột mình, một linh mục trẻ định sang truyền giáo ở đây nhưng chết trước khi thi hành ý nguyện. Đức Giám Mục chấp thuận đề nghị nhưng với ý định chỉ để cha ở đó ít tháng thôi. 

   Sau một thời gian, Đức Giám mục nhận được thư những người hủi, trong đó có viết: “Thưa Đức Cha, cám ơn Đức Cha vì đã gởi đến cho chúng con một linh mục, nhưng tại sao Ngài lại muốn cất linh mục ấy đi, vì linh mục này yêu thương chúng con nồng nàn và rất muốn ở lại với chúng con?”. Đức Giám Mục bằng lòng chấp thuận, và trước mặt những tín hữu mới của Ngài, cha Đamiên tuyên bố: “Các con quý mến, cha sẽ ở với các con cho đến mãn đời. Đời sống các con là đời sống của cha, và nếu Chúa muốn, một ngày nào đó bệnh của các con cũng là bệnh của cha. Cha sẵn sàng trở nên hủi với chúng con”. Trong cái nghĩa địa sống đó, cha Đamiên không ngừng làm phát triển đức ái. 

   Một ngày khi trở về lều mình, cha nghe một tiếng yếu ớt phát ra từ miệng hố. Ngài nhìn xuống và thấy một người hủi nằm gọn trong đó. Ngài hỏi: “Con làm gì ở dưới vậy?”, người hủi trả lời: “Những người khác đuổi con, con không chống lại được, người ta nói con không cần lều để chết”. Cha Đamiên đưa người đó vào lều mình và đặt người đó trên giường mình.

   Lần khác, Ngài đi ngang qua một hố đổ rát, thấy một người đẩy một chiếc xe cút kít, sau đó hắt một vật gì trên xe xuống đống rác, cha tưởng là đồ dơ, nhưng khi vật đụng đến đất, một tiếng người khẽ rên lên. Người ta đã không đợi cho anh ấy thở hơi cuối cùng để vứt vào đống rác. 

   Cha Đamiên, từ đó, tự đi đóng cho mỗi người một cái hòm. Để chôn những người xấu số này, cha đã lập một nghĩa địa. Cha Đamiên lo lắng chăm sóc cho hết mọi người, băng bó mọi vết thương, đỡ nâng những người không đi nổi, khai mở nước từ xa về để cho người phong cùi tắm rửa sạch sẽ. Những túp lều cũ thối hôi đầy gián, mối, cha phá đi để cất những lều mới. Cha Đamiên quả thật là một người cha của mọi người, ngay cả đối với những người lúc đầu tìm cách trục xuất Ngài khỏi đó. Có những lúc Ngài gặp những trở ngại to lớn: chính phủ từ chối không cho Bề trên Ngài đến thăm Ngài, hay đến nơi Ngài ở. Ngài đành phải đứng dưới thuyền để xưng tội to tiếng cùng với một linh mục đứng giải tội trên tàu, vì sợ lây bệnh, nhà nước không cho cha ấy xuống đảo. 

   Năm 1885, sau một lần đi thăm bệnh trở về, cha thấy chân mình nhúng vào nước sôi mà không biết nóng. Đó là dấu Ngài bị lây hủi. Ngài viết cho Đức Giám Mục: “Người ta thấy có những vết đỏ trên má con, bên tai trái con, lông mày rụng, rồi đây con sẽ trở nên dị dạng. Con cảm thấy rất an bình và hạnh phúc hơn bao giờ ở giữa dân tộc của con”. Ngài tiếp tục làm việc bốn năm nữa với cơn bệnh ngày càng phát triển. Ngày 30.03.1889, Ngài nằm liệt giường, Ngài nói: “Hãy xem tay tôi: các vết thương đều đóng lại, vảy trở thành đen. Đó là dấu chỉ sự chết đến gần. Hãy xem mắt tôi: tôi đã giúp bao người hủi hấp hối, tôi không lầm, sự chết không còn xa”. Ngài chết ngày 15.04.1889.

   Tấm gương anh hùng trên đây đã nhắc cho chúng ta bổn phận sống lời cam kết mà chúng ta đọc mỗi ngày: “Lạy Chúa, chúng con loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại cho tới khi Chúa lại đến”. Loan truyền và tuyên xưng không phải chỉ bằng môi miệng, hay như người ta thường nói “đầu môi chót lưỡi”, nhưng bằng chính cuộc sống mình. Biết hy sinh, biết chết đi như Chúa Kitô trên thập giá, như cha Đamiên tông đồ người hủi, trong niềm hy vọng sống lại với Chúa.

   Không cần gì dốc lòng nhiều lời, hãy cố tâm thực hiện cho bằng được những cử chỉ, dầu nhỏ mọn, để hy sinh và mang lại niềm hy vọng, được như thế, là chúng ta đạt được những gì Chúa muốn và những gì lòng ta, những linh mục chân chính, đầy thiện chí, hằng ước mơ. 

   + GM Phêrô Nguyễn Soạn          VietCatholic News (28/02/2005) 

VỀ MỤC LỤC
SỨ MẠNG CỨU ĐỘ CỦA HỘI THÁNH

(Đọc lại một bài giảng)

http://www.conggiaovietnam.net/index.php?m=home&v=detail&ia=6337

Lm Nguyễn Hồng Giáo

Bài sách Công vụ Tông Đồ 16, 22-34) được Phụng vụ chọn đọc trong thánh lễ ngày thứ Ba tuần VI mùa Phục sinh mới đây, kể về hai ông Phaolô và Sila bị tống vào ngục vì rao giảng Đức Giêsu Kitô;  khoảng nửa đêm hai ông cất tiếng ca hát ngợi khen Thiên Chúa, tiếng hát vang đến nỗi các tù nhân khác đều nghe được cả. Rồi bỗng có động đất mạnh làm cho các cửa tù mở toang và xiềng xích tất cả các tù nhân buột tung ra; viên cai ngục choàng dậy thấy cảnh tượng đó thì rút gươm định tự tử vì tưởng các tù nhân đã trốn hết, nhưng ông Phaolô can lại : “Đừng làm càn! Chúng tôi còn cả đây mà!”. Viên cai ngục bảo thắp đèn, nhảy bổ vào, run rẩy sấp mình xuống dưới chân hai ông Phaolô và Sila, rồi đưa hai ông ra ngoài và nói: “Thưa các ngài, tôi phải làm gì để được cứu độ?” … Nghe bài đọc này, tôi nhớ lại một ý tưởng rất hay trong bài giảng của Đức cha Phêrô Nguyễn Văn Khảm tại lễ tấn phong Giám mục giáo phận Ban Mê Thuột vừa qua, đó là:  người bị giam cầm chưa chắc đã không còn tự do, và kẻ ở ngoài, thậm chí kẻ bắt giam và kẻ canh giữ người khác không đương nhiên là người tự do. Thế là tôi muốn tìm đọc lại bài giảng ấy một cách kỹ lưõng hơn. Và vì tôi gặp thấy vài tư tưởng của Đức cha Phêrô trong bài giảng có những ý giống với tư tưởng của ĐGH Bênêđíctô và ĐGH Gioan-Phaolô VI, nên tôi chọn thử đọc lại bài giảng trong viễn tượng của các ngài. Dĩ nhiên, đây chỉ là những suy nghĩ khởi đầu, không phải bài nghiên cứu.

Bài giảng của Đức cha Phêrô với đầu đề “Bước đi trong Thần Khí” (Gl 5,16), là một bài “giải thích-suy gẫm” về đoạn sách ngôn sứ Isaia: Người sai tôi đi công bố cho kẻ giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố năm hồng ân của Chúa”. Đoạn sách này khá quen thuộc với người Kitô hữu và cũng rất nổi tiếng bởi vì đã được chính Chúa Giêsu “bình luận” vào lúc Người bắt đầu rao giảng công khai, Người tuyên bố: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe” (x.Lc 4,18-21). Giống như nhiều bài giảng khác của Đức cha, nghe nói bài giảng này cũng đã được cộng đoàn phụng vụ trực tiếp đón nhận nồng nhiệt, và sau khi được đưa lên mạng, vẫn gây được sự chú ý của nhiều người.

Vấn nạn khởi đầu

Phần đầu, tác giả nêu một thắc mắc không hề mới mẻ, trái lại từ xưa tới nay đã không ngừng được nêu lên trong suốt dòng lịch sử, và không phải chỉ bởi những người ngoài Kitô giáo: Chúa Giêsu đã làm cho lời ngôn sứ Isaia nên ứng nghiệm ở chỗ nào? Tuy Người đã rao giảng, đã làm một số việc cứu giúp người đau khổ -người bệnh, người tàn tật, người đui mù, người đói khát, người bị khinh dể, loại trừ …-, và hơn nữa, Người còn làm cho một vài người chết sống lại, nhưng bấy nhiêu có thấm thía gì giữa bể khổ của con người, chỉ riêng trong đất nước của Người mà thôi, nói gì đến cả nhân loại! Quả thực thì có lúc quần chúng cũng đã phấn khởi đi theo Người, thậm chí còn muốn bắt Người tôn phong làm vua của họ. Nhưng cuối cùng, chính Người đã bị bắt, bị xiềng, bị đánh đập, bị treo trên thập giá và đã chết. Mọi kỳ vọng xem ra đã hoàn toàn tan thành mây khói.

Dù Giáo Hội tuyên xưng Đức Giêsu đã phục sinh và nay vẫn sống, vẫn tiếp tục công trình cứu độ con người qua Giáo Hội, nhưng vấn nạn trên vẫn còn, và thậm chí có vẻ còn gay gắt hơn. Trong tác phẩm Muối cho đời, Đức Bênêđitô XVI lúc còn là Hồng y Joseph Ratzinger đã phải trả lời cho thắc mắc: “Có thực là thế gian được cứu rỗi? Có thể gọi những năm sau Đức Kitô là những năm của ơn cứu độ không?” (Muối cho đời, tr 215.).  Chính ĐGH Gioan-Phaolô II trước đó, cũng đã gặp câu hỏi : “Lịch sử cứu độ đã ra sao sau hai ngàn năm Kitô giáo?” (x. Bước qua ngưỡng cửa của Hy vọng, bản tiếng Anh, New-York 1994, tr 50-63, 102).

Vấn nạn mà Đức cha Phêrô nêu lên, xét trong cơ bản không khác vấn nạn mà Đức Gioan-Phaolô II và Bênêđích XVI phải đối diện.

Vậy Đức cha Phụ tá Sài-Gòn đã trả lời như thế nào?

Thế nào là mù và mất tự do?

Câu trả lời của Đức cha Phêrô nằm trong phần thứ II của bài giảng và cốt ở cách “đọc lại” (tức hiểu hoặc giải thích) những lời ngôn sứ Isaia. Bài giải thích tập trung vào hai cặp từ (hay hai cặp khái niệm) đối chọi nhau của đoạn Kinh Thánh: đối lại với sáng, ngục tù (hay bị giam cầm) đối lại với tự do. Điều có vẻ nghịch lý là người mù có khi lại là người sáng và người sáng lại là kẻ mù;  cũng thế, người bị giam trong ngục có khi lại tự do và ngược lại, - tùy theo người ta hiểu mỗi từ (hay ý niệm) trên theo nghĩa “vật chất” (thể lý, bề ngoài, hữu hình) hay “tinh thần ( “bề trong”, sâu xa và vô hình). Cụ thể:

- Mù thể lý : một khuyết tật của thể xác khiến người ta bị bịt kín khỏi ánh sáng mặt trời và không nhìn thấy thế giới bên ngoài;

- Mù “tinh thần” theo 3 cấp độ : tri thức (“như khi ta nhìn một sự kiện, một biến cố mà không rõ ngọn nguồn sự việc vì thiếu hiểu biết”), tâm lý ( là “cố chấp” khiến ta tuy “mở mắt thật to để nhìn mà vẫn không thấy được cái tốt của người khác”), và tâm linh (ví dụ “nhiều khi ta nhìn rõ thế giới vật chất nhưng lại không thấy mối tương quan giữa thế giới này và Đấng tạo dựng nên nó”).

- Ngục tù vật chất, với song sắt cửa sắt hay hàng rào kẽm gai, lính gác … Nó “chỉ có thể giam hãm thân xác con người chứ không thể giam hãm tự do hiểu như một giá trị tinh thần, không thể giam hãm suy tư và cảm xúc, tắt một lời, đời sống tinh thần của con người”.

- Ngục tù vô hình: Rất lắm lúc người ta không hề bị giam cầm, thậm chí coi mình hoàn toàn tự do trong một số hành động nào đó (như sống buông thả, làm bất cứ điều gì mình thích, v.v.), nhưng kỳ thực họ là “nô lệ” và bị “tha hoá” nặng vì tự giam hãm mình trong những ngục tù vô hình là: đam mê dục vọng, ham muốn quyền lực, hận thù, ích kỷ, phe nhóm dối trá. Đức cha Phêrô nhận xét: chính vì chưa được giải thoát khỏi những thứ ngục tù vô hình như thế nên có những người khi “bị giam giữ trong nhà tù với hàng kẽm gai vây bọc” thì chỉ mong được tự do, nhưng một khi đã được tự do, chính họ lại dựng nên những nhà tù khác để giam giữ đồng loại và để bảo vệ “cái gọi là tự do của mình”. Câu này có thể khiến người nghe (hay người đọc) “khoái chí” khi suy diễn theo một cách nào đó. Nhưng cũng nên gắn nó với ví dụ tác giả nêu lên ngay sau đó về ông Nelson Mandela, vị anh hùng dân tộc Nam Phi: “khi bước chân ra khỏi nhà tù đã giam giữ ông suốt 30 năm, ông tự nhủ: nếu tôi còn giữ hận thù với những tên cai ngục, thì tôi vẫn còn bị giam giữ, chưa trở thành người tự do thực sự”. Nghĩa là tác giả vẫn muốn đưa “tự do” lên độ cao hoặc ở chiều sâu của thực tại con người mà Chúa Giêsu muốn cứu chuộc, hơn là dừng lại ở một cách hiểu bề ngoài nào.

Lời Kinh Thánh ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu

Cách hiểu về sự mù loà và ngục tù như trên giúp ta hiểu rõ hơn Chúa Giêsu làm cho lời ngôn sứ Isaia được nên ứng nghiệm như thế nào. Đức cha Phêrô nói:

“Chúa Giêsu và chỉ có Chúa Giêsu là ánh sáng để trong ánh sáng đó, ta có thể nhìn thấy chân tướng của sự vật và của đời người. Ánh sáng đó là ánh sáng chân lý và chỉ khi sống trong chân lý, ta mới có tự do đích thực”. “Chúa Giêsu không giải thoát con người khỏi những ngục tù bằng hàng kẽm gai nhưng giải thoát con người khỏi tình trạng nô lệ và tha hoá sâu xa nhất, và chúng ta cần đến ơn giải thoát đó. Chúng ta cần đến ơn giải thoát đó ngay giữa một thời đại phát triển tri thức khoa học đến mức cao nhất”.

Ở đây tôi đặt thêm câu hỏi: Tình trạng nô lệ và tha hoá sâu xa nhất đó là gì? Chắc hẳn là tội lỗi. Thánh Gioan quả quyết: “Ai phạm tội, ấy là một kẻ nô lệ” (Ga 8,34). Còn thánh Phaolô thì viết trong thư gởi tín hữu Galát: “Chính là để chúng ta được tự do mà Đức Kitô đã giải thoát chúng ta” (Gl 5,1). Gốc rễ sâu xa của mọi tội lỗi là lòng con người : “Từ bên trong, từ lòng người phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, vô lương tri” (x Mc 7,21-22). Còn theo cách nói của thánh Phaolô, gốc rễ đó là tính xác thịt vốn thù nghịch với Thiên Chúa, chống lại Thần Khí của Chúa: “Anh em đã được gọi để hưởng tự do. Có điều là đừng lợi dụng tự do để sống theo tính xác thịt” (Gl 5,13). Luật của Thần Khí là luật của Tự Do, mang lại tự do, còn luật của xác thịt là luật của Nô Lệ, đưa con người vào tròng nô lệ. Hai luật đó luôn kình địch nhau: “Tôi xin nói với anh em là hãy sống theo Thần Khí, và như vậy, anh em sẽ không còn thoả mãn đam mê của tính xác thịt nữa. Những việc do tính xác thịt gây nên, thì ai cũng rõ, đó là: dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, hận thù, bất hoà, ghen tương, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, hận thù, bất hoà, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén, và những điều khác giống như vậy… Tôi nói cho mà biết: những kẻ làm những điều đó sẽ không được hưởng Nước Thiên Chúa” (Gl 5,16.19-21). Còn “hoa quả của Thần Khí là: bác ái, vui tươi, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ. Không có luật nào chống lại những điều như thế.  Những ai thuộc về Đức Kitô Giêsu thì đã đóng đinh tính xác thịt vào thập giá cùng với các dục vọng và đam mê” (Gl 5,22-24). Vậy ai sống theo Thần Khí mới là kẻ tự do.

Đó là thứ tự do mà Chúa Giêsu mang tới, đó là thứ tự do mà con người của thời đại khoa học kỹ thuật cao nhất thời nay lại càng cần đến. Quả thật, khoa học kỹ thuật đã mở rộng quyền lực thống trị của con người trên thiên nhiên vạn vật, nhưng con người lại đang bị đe doạ bị đè bẹp bởi chính sức mạnh của mình (ví dụ, ta hãy nghĩ tới vấn đề môi sinh, vấn đề vũ khí nguyên tử, các vấn đề đạo đức sinh học, cái gọi là cuộc cách mạng tình dục …).  Các ý thức hệ lạc quan của thế kỷ 19 và thế kỷ 20 lần lượt sụp đổ hết, các hứa hẹn “cứu thế” nối tiếp nhau tan vở khiến con người càng loay hoay không biết tiến về đâu. Con người của nền văn minh kỹ thuật thống trị nhiều thứ bên ngoài,  nhưng không làm chủ nổi cõi lòng mình. Nó tưởng rằng phải loại trừ Thiên Chúa, chối bỏ chiều kích siêu việt, tâm linh ra khỏi thế giới và cuộc nhân sinh thì nó mới được tự do, tự lập và thể hiện chính mình cách sung mãn. Nhưng như công đồng Vatican II và nhiều vị Giáo Hoàng thời nay từng nhận xét, lịch sử đã cho thấy khi làm như thế, nền văn minh hiện đại xây dựng trên những tiến bộ vượt bậc đã gia tăng không ngừng quyền lực của con người và cung cấp cho họ đủ thứ của cải hưởng thụ, nhưng không làm cho họ “khôn ngoan” hơn, tự do hơn, triển nở hơn trong “tính người” và hạnh phúc hơn, mà ngược lại mới đúng.

Giáo Hội đã làm được gì trong sứ mạng được trao phó?

Sứ mạng của Giáo Hội không nằm ngoài sứ mạng của Chúa Giêsu, tức là “loan báo Tin Mừng cho người nghèo, cho người mù được sáng mắt, cho kẻ bị giam cầm được tha, trả tự do cho người bị áp bức”. Nói cách khác, đó là sứ mạng “cứu độ thế gian”. Nhưng sứ mạng chung đó được giao – một cách ưu tiên và đặc biệt- cho các giám mục là những người kế vị các thánh Tông Đồ, và cho các linh mục, những cộng sự viên trực tiếp của giám mục. Đức cha Khảm khai triển phần cuối cùng này của bài giảng để trực tiếp đưa vào ngày lễ phong chức giám mục. Tôi không đi theo ngài trong phần này nữa, mà quay lại với vấn nạn khởi đầu: từ khi Giáo Hội đảm nhận trách nhiệm tiếp tục sứ mạng của Chúa Giêsu đến nay, ơn cứu độ đã tiến triển tới đâu? Có thực là thế gian đã được cứu độ không? Hay là Kitô giáo thực ra là vô hiệu? Đó là đại khái những câu hỏi đã được các ký giả đưa ra phỏng vấn Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô năm 1993, và hồng y Joseph Ratzinger năm 1996, khoảng 9 năm trước khi được bàu làm Giáo Hoàng. Và cả hai nhà phỏng vấn đều dựa vào tình hình chẳng mấy lạc quan của Giáo Hội và thế giới ngay chính trong thế kỷ 20, như: người Kitô hữu càng ngày càng trở nên thiểu số, chiến tranh, hận thù, chia rẽ, bạo lực, tội ác … không giảm mà còn tăng khốc liệt hơn.

Tôi xin tóm tắt mấy ý chính trong các câu trả lời của Đức Gioan-Phaolô II và Hồng y Ratzinger, cộng sự viên gần gũi và đắc lực của ngài.

Không thể đánh giá tiến bộ hay thoái lùi ở đây bằng số lượng, vì ơn cứu độ đến từ Thiên Chúa, không phải là một thực thể có định lượng và do đó không thể tính toán, đo lường, thêm bớt.

Thứ đến, ơn cứu độ luôn gắn liền với tự do của con người; Thiên Chúa muốn cứu độ con người nhưng vẫn tôn trọng tự do của họ; ơn cứu độ là một ân ban nhưng Chúa chờ đợi con người phải cọng tác vào. Vì thế, nói theo Hồng y Ratzinger, nó mang tính mạo hiểm; nó không bao giờ được áp đặt từ bên ngoài vào, hoặc được xây dựng kiên cố với một cơ cấu vững chắc, nhưng nó được đặt trong một chiếc bình dễ vở, đó là tự do của con người. “Cho nên trong một mức độ nhất định, nó vẫn có thể bị tan vỡ”. Và “một khi ta muốn và chấp nhận Thiên Chúa tôn trọng tự do của ta, ta cũng phải học tôn trọng và quý chuộng tính cách mong manh trong hành động của Ngài” (Men trong bột, 217 và 218)

Loan báo Tin Mừng nhằm đổi mới con người tự bên trong, hoán cải cùng lúc lương tâm cá nhân và tập thể của con người, hoán cải đời sống, sinh hoạt và hoàn cảnh của họ, bằng cách đem ân sủng và tinh thần Phúc Âm thấp nhập vào mọi thực tại nhân sinh. Thành công của sứ mạng cứu độ, vì thế, cũng không thể định lượng hoá được. Dĩ nhiên, người ta vẫn có thể dựa vào những con số, những thành tựu bên ngoài, nhưng đó chỉ có thể là một dấu chỉ, và là dấu chỉ không thật sự hiển nhiên.

Nhưng có điều chắc chắn là Kitô giáo đã đưa tới những chuẩn mực, những giá trị mới, tác động tích cực trên lịch sử và cuộc sống nhân loại, đặc biệt những giá trị liên quan tới con người, chẳng hạn: phẩm giá con người và sự bình đẳng căn bản giữa mọi người, tình yêu như giá trị cao nhất, ý nghĩa cuộc sống và niềm tin tưởng mãnh liệt vào sự chiến thắng cuối cùng của sự Thiện. Những giá trị đó cũng tạo nên một lực chống lại sự Dữ thường xuyên và mạnh mẽ… Trong thời buổi xáo trộn hiện nay, Giáo Hội làm hết cách để “duy trì cái cốt lõi làm nên con người, làm cho con người sống còn, bảo vệ phẩm giá của con người. Giáo Hội cần giữ vững điểm này và mở đường cho con người hướng lên cao, hướng về Thiên Chúa, vì sức mạnh hoà bình trên dương thế chỉ đến từ nơi cao đó” (Men trong bột, 220). ĐGH Gioan-Phaolô II cũng nhấn mạnh: “Mọi thời và mọi nơi Tin Mừng sẽ vẫn là một thách đố đối với sự yếu đuối của con người. Nhưng tất cả sức mạnh của nó nằm chính trong thách đố này. Có lẽ một cách vô thức, con người chờ đợi một thách đố như thế; quả vậy, con người cảm thấy cái nhu cầu nội tâm phải vượt lên trên chính mình. Chỉ bằng cách vượt lên chính mình như thế mà con người trở thành người cách trọn vẹn” (Bước qua ngưỡng cửa của hy vọng, bản Anh ngữ, tr. 104).

Để kết luận

Trên đây, tôi nhìn sứ vụ loan báo hồng ân cứu độ ở mức sâu xa hay cao siêu của nó, mà tôi nghĩ  bài “Bước đi trong Thần Khí” muốn nhắm tới, cho dù có một vài kiểu nói có thể được hiểu là liên quan tới những hoàn cảnh thực tế. Nhưng như thế không có nghĩa là tôi cho rằng ơn cứu độ không liên quan gì tới xã hội, tới các công cuộc “trần thế” của con người. Đã đến lúc tôi phải trích dẫn một đoạn của Hồng Y Ratzinger về điểm này:

“ Ta cũng phải nhìn nhận rằng Kitô giáo đã luôn toả ra một tình nhân ái dạt dào. Những gì Kitô giáo đã mang vào lịch sử thật đáng kể […] Đúng thế, chỉ qua Kitô giáo mà hệ thống chăm sóc bệnh nhân, cưu mang người yếu kém và cả một hệ thống tổ chức từ thiện đã hình thành. Cũng nhờ Kitô giáo, mới phát sinh sự tôn trọng con người trong mọi hoàn cảnh. Một sự kiện lịch sử đáng ghi nhận: sau khi chấp nhận Kitô giáo, việc đầu tiên hoàng đế Contantinô thấy phải thi hành, là cải tổ luật lệ, chọn ngày chủ nhật làm ngày nghỉ cho mọi người và nô lệ được hưởng một số quyền lợi (…)” (sđd, 217).

Người ta vẫn thường trách Giáo Hội rao giảng một sự cứu độ “bề trong”, “thiêng liêng”, không “ăn chung” gì tới cuộc sống cụ thể. Ta thấy lời phê bình đó không phải bao giờ cũng đúng. Thực ra, Giáo Hội thường phải đứng giữa hai chước cám dỗ đối nghịch nhau: một đàng thì muốn dấn thân sâu vào những lãnh vực trần thế -văn hoá, xã hội, chính trị, kinh tế- khi mình được hoàn toàn tự do và có thể “làm chủ”, và như thế dễ biến mình thành một thế lực cạnh tranh với xã hội và quyền bính thế tục; đàng khác, khi phải sống trong một hoàn cảnh gọi là “khó khăn” Giáo Hội lại dễ dàng rút lui vào lãnh vực “thuần túy” tôn giáo, tránh phải đụng chạm vào những vấn đề thực tế “tế nhị” của con người và xã hội, và trong trường hợp này, Giáo Hội có thể đánh mất hoặc coi nhẹ bổn phận “thăng tiến con người” (toàn diện), vốn là một thành tố của sứ mạng loan báo Tin Mừng, cũng như nhiệm vụ ngôn sứ là phản kháng sự dữ, sự tội dưới mọi hình thức. Dù sao chăng nữa, phận sự chính yếu của Giáo Hội không nằm trong lãnh vực “trần thế” , và sức mạnh của Giáo Hội phải là một sức mạnh tinh thần, một sức mạnh luân lý. ĐGH Gioan-Phaolô II tự hỏi: sức mạnh của Hội Thánh nằm ở đâu?, và ngài tự trả lời: “Đương nhiên, qua các thế kỷ, ở phương Tây cũng như phương Đông, sức mạnh của Giáo Hội đã nằm trong bằng chứng (chứng tá) của các thánh, nghĩa là của những ai đã làm cho chân lý của Đức Kitô trở thành chân lý của chính mình, đã đi theo con  đường là chính Đức Kitô và đã sống bằng sự sống phát xuất từ Đức Kitô trong Thần Khí” (sđd, 176).

20-5-2009

Lm Nguyễn Hồng Giáo

VỀ MỤC LỤC
“CÓ CHÚA CÙNG HOẠT ĐỘNG VỚI...”

 

Quý độc giả Ephata và Giáo Sĩ Việt Nam thân mến,

Hôm qua, tôi nhận được từ người quen qua E-Mail một đường link Youtube. Subject của E-Mail ghi là: “Please watch this video – Priest arrested at Notre Dame”. Tôi mở xem ngay vì nếu có liên quan đến Trường Đại Học Notre Dame, tiểu bang Indiana bên Mỹ trong những ngày này, ắt phải là chuyện Bảo Vệ Sự Sống ! Link như sau, xin mời mọi người cùng click vào:

http://www.youtube.com/watch?v=iiz4tfjSuPc&eurl=http%3A%2F%2Fapparitionscomments%2Eblogspot%2Ecom%2F&feature=player_embedded 

Đoạn phim Youtube chỉ dài hơn 8 phút, tôi vừa xem vừa ứa nước mắt. Hình ảnh, lời nói và giọng hát của cha Norman Weslin, đặc biệt là những câu ca đứt quãng hụt hơi và lạc điệu của ngài trong bài hát kính Đức Mẹ Lộ Đức rất quen thuộc, khắp nơi trên thế giới đã hát, trong đó có cả Việt Nam chúng ta: Ave, Ave, Ave Maria...

Cha Norman Weslin có lẽ phải đến hơn 80 tuổi, bị Cảnh Sát áo xanh da trời xúm lại gỡ cây Thánh Giá gỗ khá lớn khỏi vai, đẩy nằm xuống, lấy giây trói tay giật về phía sau, lại vần cho ngài lăn lên một tấm bạt nhựa rồi xúm lại khiêng ngài đi, đúng y như cái cảnh Ngôn Sứ Isaia đã mô tả cách đây hơn hai ngàn mấy trăm năm ( x. Is 53, 7 – Thứ Sáu Tuần Thánh ):

“Bị ngược đãi, người cam chịu nhục,

Chẳng mở miệng kêu ca.

Như chiên bị đem đi làm thịt,

Như cừu câm nín khi bị xén lông,

Người chẳng hề mở miệng...”

Những ngày vừa qua, Tổng Thống Obama đã được mời đến thăm trường Đại Học Công Giáo Notre Dame và đọc diễn văn nhân Lễ Bế Giảng niên khoá 2008 – 2009. Ông ta còn được trao tặng một danh hiệu hết sức cao quý của trường. Và vấn nạn Phá Thai đã nổ tung. Ngoài dư luận báo chí truyền thông Công Giáo khắp nơi lên tiếng phản đối, bản thân Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ đã mạnh mẽ và quyết liệt phản kháng Hội Đồng Quản Trị, đa số các giáo sư trong trường và nhất là Linh Mục hiệu trưởng, cha John Jenkins, mặc cho những lập luận biện hộ của ngài.

Bên trong Trung Tâm Joyce, nơi tổ chức buổi lễ hôm Chúa Nhật 17.5, rền vang tiếng reo hò vỗ tay hoan hô Obama của gần một vạn sinh viên, với 2.900 em ra trường dịp này. Ngược lại bên ngoài cũng có được mấy trăm người kéo đến biểu tình, hầu hết là các nhóm Bảo Vệ Sự Sống – Chống Phá Thai ( Pro Life – No Abortion ) trong đó có một số Linh Mục và Mục Sư. Họ đã tập trung nhiều ngày trước tại đây với các tấm biểu ngữ: Abortion is murder” và ảnh Đức Mẹ Guadeloupe của người Mexico. Và mới hôm thứ sáu 15.5, cha Norman Weslin cùng với 21 anh chị em Giáo Dân trong đoàn biểu tình ôn hoà đã bị Cảnh Sát bắt giữ vì sợ có ảnh hưởng đến an ninh của Tổng Thống.

Tắt Youtube đi, tôi ngồi thừ người trước máy vi tính. Hôm nay đúng sinh nhật tròn 50 tuổi, tự dưng tôi thấy mình sao mà... hèn thế ! Nhiều nơi nhiều người vẫn nhắc đến tôi như một Linh Mục DCCT nỗ lực lo việc Bảo Vệ Sự Sống ở Việt Nam. Đúng là trong 5, 6 năm qua, anh em DCCT ở Sàigòn, rồi sau đó là Nha Trang, Hà Nội, Huế, Đà Lạt, chúng tôi đã dấn thân rất mạnh vào Mục Vụ Bảo Vệ Sự Sống. Mà đây là chuyện rõ ràng đi ngược lại chính sách Kế Hoạch Hoá Dân Số của một nhà nước vô thần ở Việt Nam. Vậy thì can đảm đấy chứ ! Anh hùng đấy chứ ! Ai gặp cũng khen, ai gặp cũng chúc mừng vì đã cứu được gần một ngàn trường hợp sắp phá thai, mở các Nhà Tình Thương cưu mang được hơn 250 người mẹ và cháu bé, lại chôn cất được cả chục vạn xác thai nhi chỉ riêng vùng Sàigòn.

Nhưng rồi hôm nay, tôi xin lập lại, tự dưng, không hề cường điệu, đóng kịch để mỵ dân, tôi chân thành sám hối và thấy mình sao mà... hèn quá !

Tôi còn hèn lắm so với một ông bộ đội phục viên tên Ba Mẫn ở huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương ( x. bài “Người đàn ông khùng cưu mang nhiều cô gái lỡ làng” của Bích Hà trên báo Người Lao Động đăng trên Ephata kỳ này ). Ông ấy chắc là không tin vào Chúa Giêsu, không chừng còn là một đảng viên cốt cán nữa, thế mà ông ấy can đảm hơn tôi nhiều. Ông Mẫn đến tận các bệnh viện và phòng khám có dịch vụ phá thai, công khai để lại địa chỉ và số điện thoại để liên hệ báo tin xin giúp đỡ khi có ai sắp phá thai vì một hoàn cảnh éo le này đấy. Còn phần tôi, tôi vẫn còn sợ, chưa một lần dám đến tận nơi gặp gỡ trực tiếp các bác sĩ phá thai để ngỏ lời thuyết phục, hay ít ra cũng đề nghị cùng họ giúp đỡ mà cứu các trường hợp sắp phá thai. Tôi đã sợ bị gây khó dễ, sợ bị CA bắt nhốt tù.

Tôi cũng còn hèn lắm khi so với cha già Norman Weslin, người Mỹ, vị sáng lập ra Nhóm Bảo Vệ Sự Sống mang tên “Những con chiên của Chúa Kitô” ( Lambs of Christ ). Tôi chỉ dám mạnh miệng “quát tháo” trong Nhà Thờ khi giảng về phá thai. Tôi chỉ dám viết và... lách với các bài về Bảo Vệ Sự Sống trên báo Ephata, trên Blog, trên Website. Tôi chỉ dám cầm nến sáng điều khiển cộng đoàn hát cầu nguyện với Đức Mẹ cho Công Lý và Sự Thật trong Đền Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, vậy thôi ! Tôi chưa dám một lần đi chung với các anh chị Bảo Vệ Sự Sống, vào ngồi mà cầu nguyện giữa các hàng ghế chờ phá thai ở bệnh viện Hùng Vương. Tôi lại càng chưa dám nhận lời các bạn trẻ Nhóm FIAT rủ tôi cùng ra đứng thinh lặng lần chuỗi Mai Khôi bên vỉa hè bệnh viện Từ Dũ.

Rõ ràng tôi là một Kitô hữu mà không quả cảm như một ông cựu chiến binh già và nghèo. Rõ ràng tôi là một Linh Mục còn khá trẻ mà không hiên ngang như một cha già đã đến tuổi vào Nhà Hưu Dưỡng từ lâu. Rõ ràng tôi có lòng tin đấy, nhưng chỉ nói rất to nơi miệng mà không đủ mạnh tin trong thâm tâm vào Chúa Giêsu của tôi, Đấng mà Tin Mừng Máccô đã khẳng định là vẫn “cùng hoạt động với” các Tông Đồ, với chính tôi !

Trước đây, tôi vẫn cứ thường hay càm ràm than phiền với các anh em Linh Mục khác cùng chí hướng và tâm huyết Bảo Vệ Sự Sống, rằng thì là, sao Hội Đồng Giám Mục Việt Nam của mình, sao các Bề Trên thượng cấp của các Dòng mình, không thấy mạnh mẽ lên tiếng trước những chuyện bất công này kia về tôn giáo, về xã hội, nhất là sao chờ mãi không thấy có một Thư Mục Vụ hướng dẫn cho bà con Giáo Dân ba miền biết cách sống luật Chúa mà thôi không ngừa thai, phá thai nữa...

Bây giờ thì tôi chợt nghiệm ra: tôi không được xét đoán người khác, nhất là xét đoán các phẩm trật Hội Thánh, tôi phải bắt đầu ngay từ chính mình, khởi đi từ việc đặt lòng tin một cách vừa quyết liệt vừa hồn nhiên vào Chúa Giêsu của chính tôi, nhất là tôi đã trót... chọn sống và chết trong Dòng Tu mang tên Chúa Cứu Thế nữa cơ chứ. Vâng, tôi phải làm lại từ đầu ! Còn kịp, 50 tuổi đời chưa phải là trễ !

Cám ơn tấm gương ông Ba Nguyễn Minh Mẫn ở Bình Dương. Cám ơn tấm gương cụ già Linh Mục Norman Weslin. Cám ơn các anh chị Nhóm Bảo Vệ Sự Sống khắp nơi trên quê hương Việt Nam và trên toàn thế giới. Cám ơn các bạn trẻ sinh viên Công Giáo và các bạn Nhóm Fiat.

Cuối cùng là cám ơn Thánh Máccô đã ghi rất rõ trong Tin Mừng của Lễ Thăng Thiên, lời của Chúa Giêsu vừa như một lệnh truyền, vừa như một cam kết bảo đảm: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. Ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ... Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ. Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc, thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khoẻ...” ( Mc 16, 15 – 18 ).

Đã có những ngày tháng bất khuất của Toà Khâm Sứ, Giáo Xứ Thái Hà chống lại chuyện gian tham cướp đất để chia chác và tư túi. Đã có những kiến nghị với cả vạn người trong Nam ngoài Bắc và ở các nước tự nguyện ký tên chống Bauxite Đỏ để cứu lấy Tây Nguyên khỏi ô nhiễm và cả đất nước khỏi nguy cơ ngoại bang. Tuy cục diện chưa phân thắng bại, nhưng chính nghĩa đã được nêu cao, lương tâm đã được đánh động. Vậy thì chuyện Bảo Vệ Sự Sống – Chống Phá Thai cũng sẽ phải được hô toáng lên giữa cuộc đời như thế, hơn thế !

Xin Chúa hãy cùng hoạt động với chúng con và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời chúng con rao giảng... Amen.

Lm. LÊ QUANG UY, DCCT, 22.5.2009, sinh nhật tròn 50 tuổi

VỀ MỤC LỤC
ĐỨC THÁNH CHA BIỂN ĐỨC XVI VÀ CUỘC HÀNH HƯƠNG ĐẤT THÁNH
 

 

Trung Đông luôn luôn là điểm nóng trên thế giới, đặc biệt đất thánh Jerusalem. Ba tôn giáo độc thần có cùng một tổ phụ Abraham là Do Thái Giáo, Hồi Giáo và Kito giáo cũng lại là đầu mối của tranh chấp trong suốt chiều dài lịch sử. Đức Thánh Cha Biển Đức XVI hành hương Đất Thánh Jerusalem phải chăng Ngài mong ước có một cuộc hòa giải thương yêu nhau, kết hợp mọi người lại với nhau chứng tỏ cùng do một tổ phụ Abraham và là cùng con một cha chung ở trên trời.

 

Quan sát cuộc hành hương Đất Thánh của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI qua vô tuyến truyền thanh Radio, truyền hình TV và báo chí, hồn tôi rộn rã không thể cầm lòng được mà cám ơn Chúa đã ban cho Giáo Hội Công Giáo một vị thủ lãnh gốc dân Đức thông minh xuất chúng và khôn ngoan tuyệt vời nhưng đạo đức, hiền hòa và nhã nhặn. Cả thế giới đổ dồn mắt và để tai lắng nghe và quan sát mọi cử chỉ hành động và phát biểu của Ngài trong cuộc hành hương lịch sử này. 

 

Ngày 13 tháng 5 năm 2009 Đức thánh Cha rời Jerusalem đi Bethlehem từ sáng sớm lúc trời còn mờ sương giữa những bàn tán phê bình chỉ trích thấp thoáng ở những vùng địa phương quanh quẩn đâu đó. Nhưng chỉ cần để ý một chút cũng nhận ra ngay được sứ mạng duy nhất của Ngài nơi miền đất hứa này, một vùng đất đã bị xé nát vì chiến tranh và tranh chấp liên tục về mọi vấn đề từ lãnh thổ cho đến những chuyện nhỏ nhặt chẳng mấy quan trọng về học thuyết, giáo lý hay chủ nghĩa.

 

ĐỨC THÁNH CHA NÓI VỚI HẾT MỌI NGƯỜI VÀ CHO HẾT MỌI NGƯỜI

 

Đức thánh cha du hành đất thánh không phải vì chính trị phe phái, cũng không phải vì cái “đảng” của ngài. Ngài cũng không đơn thuần đến Đất Thánh với tư cách đại diện Giáo Hội Công Giáo, nhưng đích thực là với tư cách của tất cả mọi người, những ai ít nhiều đã từng liên hệ tới vùng đất này trong suốt không gian và thời gian lịch sử từ khởi đầu cho đến ngày nay, với tư cách là một con người, con người nhân loại của mình.

 

Đức Thánh Cha đến đất thánh như một người hành hương, nhưng không phải chỉ để viếng những địa danh của người Kitô giáo. Ngài còn thăm viếng những địa danh của Do Thái Giáo và Hồi Giáo như đài tưởng niệm Yad Vashem, Bức Tường Than Khóc ở hướng Tây, Đền thờ Hồi Giáo / Dome of the Rock. Ngài coi tinh thần của ba tôn giáo này như của chính ngài vậy. Vì lý do đó mà ngài được mời tới thăm viếng những địa danh thánh này. Ngài là một giáo hoàng Kito giáo, nhưng cũng là một giáo hoàng của tất cả mọi người, vượt qua khỏi mọi ngăn cách chia rẽ và khác biệt. Đó là một gương sáng đặc biệt chúng ta cần phải chú ý.

 

Đức Thánh Cha cũng là giáo hoàng đầu tiên đến thăm ranh giới chia cách giữa Israel và West Bank. Ngài đến đây đề cầu xin Thiên Chúa và cả con người hãy phá bỏ những bức tường ngăn cách này bằng cách khép kín lòng lại, bỏ lại phía sau những tâm tư ý nghĩ thiển cận và khác biệt. Không còn đổ máu, không còn khủng bố, không còn chiến tranh nữa.

 

Đức Thánh Cha phát biểu / tuyên bố nhân danh người Do Thái. Ngài ca tụng truyền thống đạo giáo cổ kính của Do Thái và bảo vệ quyền tự quyết, quyền được sống an toàn và bình an của họ. Ngài phát biểu / tuyên bố nhân danh dân Palestine với tất cả những quyền lợi tối thượng về độc lập và tự do của họ. Ngài phát biểu / tuyên bố nhân danh những tín đồ Hồi Giáo, kêu gọi mọi người nhớ đến truyền thống tôn giáo tuyệt đẹp của họ là tin tưởng và thờ kính hết lòng Thiên Chúa là Chúa độc nhất của mình. Ngài nói cho những tín hữu Kitô giáo là thành phần thiểu số khốn khổ đang phải sống trong tình trạng khó khăn ngặt nghèo hiện nay.

 

Tóm lại, Đức thánh Cha đã lên tiếng nói với hết mọi người và cho hết mọi người. Đó là tiếng nói và lời kêu gọi duy nhất của ngài.

 

CHỈ TRÍCH  ĐỨC THÁNH CHA LÀ QUÁ ĐÁNG

 

Nhưng giữa những lời qua tiếng lại bẻ cong lời nói và sứ điệp của ngài lại có những phiền trách cho rằng  Đức Thánh Cha không đi sát đủ với bất cứ một phe phái nào cả. Nhưng tất cả mọi người chúng ta đều thấy rằng sự hiện diện của Ngài nơi Thánh Địa là vĩ đại, có một không hai. Không một vị thủ lãnh nào trên thế giới lại có đầy đủ thẩm quyền và tư cách đối với tất cả mọi đảng phái để phát biểu, lên tiếng về vấn đề luân lý một cách vô tư như vậy. Chính vì không chịu đứng về bất cứ một phe nhóm nào mà thông điệp của ngài đã bị từ chối, nhưng đó lại chính là lý do khiến cho thông điệp của ngài có tầm mức quan trọng vô cùng.

 

Một trong những chỉ trích nặng nề nhất về thông điệp của Đức Thánh Cha là ông Rabbi Ysrael Meir Lau, Giám đốc đài Yad Veshem[1] tưởng niệm các Anh Hùng và Nạn Nhân Đức quốc xã, cho rằng Đức thánh Cha đã không tỏ ra dấu hiệu hối tiếc về chuyện Lò Sát Sinh của Đức Quốc Xã, “không tỏ ra một mảy may gì gọi là có lòng trắc ẩn, thương tiếc và đớn đau trước thảm cảnh kinh hoàng của 6 triệu nạn nhận người Do Thái”.

 

Nếu để ý theo dõi tin tức truyền thanh và trên truyền hình thì rất dễ dàng nhận ra Lau, ông chẳng phải là người xa lạ gì, ông là người luôn luôn tìm cớ để đả kích các Đức Giáo Hoàng. Nói về Đức Giáo Hoàng thì ông như người ăn phải vật lạ khó tiêu khiến bao tử ông bị óch ách khó chiu. Ông cũng là một tay công kích Đức PIO XII không biết ngượng, ngay cả việc bẻ cong sự thật. Vào năm 1998 kỷ niệm 60 năm ngày Kristallnacht -9 tháng 11 năm 1938- đêm Đức quốc Xã phát động chiến dịch bài Do Thái, đốt phá các cơ sở thương mại, nhà cửa, tài sản của dân Do Thái; lúc bấy giờ ông là người đứng đầu các rabbi đã được mời để phát biểu cảm tưởng…Trong lúc phát biểu quá hăng say kích động ông đã đặt một câu hỏi hằn học như trách móc: “Hỡi PIÔ XII, lúc đó ngài đang ở đâu? Tại sao ngài câm lặng trước biến cố Kristallnacht?” . Ngày hôm sau hai tờ báo Ý đã chạy tít lớn với tiêu đề “Xấu Hổ Cho Sự Yên Lặng Của Piô XII”. Nhưng không hiểu ông có biết rằng lúc đó Đức Piô XII chưa là Giáo Hoàng, phải đợi đến tháng 3 năm 1939 ngài mới được bầu đứng đầu Hội Thánh Công Giáo, nghĩa là bốn tháng sau biến cố Kristallnacht bài Do Thái xẩy ra. Ấy vậy mà cũng chẳng ai thấy Rabbi Lau chứng tỏ một chút gì là hối hận vì đã đả kích Đức PIÔ XII một cách hàm hồ và bất công.

 

Đọc bản tiểu sử tự thuật “Milestones”[2] của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI, tôi không khỏi áy náy thương cảm cho tuổi thơ của ngài bị khuấy động khi Hitler lên nắm quyền, và có biết bao nhiêu thanh niên trai trẻ người dân Đức tốt lành khác cũng bị cuốn hút vào cơn lốc Hitler một cách bất công ngoài ý muốn. Như vậy hỏi rằng nếu những lời chỉ trích Đức Biển Đức là đúng thì phải chăng bất cứ ai sống ở nước Đức vào những thập niên 1930 và 1940 đều là có tội đối với tập đoàn Do Thái hay sao?

 

May thay cũng có một vài tiếng nói quan trọng bắt đầu thấy nổi lên trong số những người Do Thái ở Jerusalem như thông cảm hoàn cảnh của Đức Thánh Cha. Chẳng hạn ông Noah Frug, người đứng đầu tập hợp tổ chức những người Do Thái sống sót sau vụ lò sát sinh, đã cho rằng những chỉ trích nhắm vào Đức thánh Cha là quá đáng.

 

Ông nói: “Đức Thánh Cha đến Đất Thánh là muốn Công Giáo và Do Thái giáo sát lại gần nhau hơn. Chúng ta nên coi đó là thiện chí của ngài và là điều quan trọng”.

 

Bây giờ mọi con mắt lại đổ dồn về Bethlehem, thị trấn vua David, nơi Chúa Giêsu Kitô sinh ra làm người và cũng là một phần lãnh thổ của Palestine. Vừa tới Bethlehem, ngay lập tức Đức Thánh Cha đã bày tỏ tình liên đới, cảm thông sâu xa của ngài luôn luôn gắn bó với dân Palestine đang triền miên đau khổ. Ngài cũng không quên xác quyết vị thế và lập trường của Ngài đối với những quyền lợi tối thượng mà dân Palestine có quyền được hưởng.

 

-“Thưa Tổng Thống -Đức Thánh Cha phát biểu- tôi hoàn toàn ủng hộ mọi đòi hỏi về những quyền lợi tối thượng của dân Palestine về lãnh thổ mà tổ tiên đã để lại, quyền được bảo đảm sinh sống trong hòa bình an lạc với nước lân bang láng giềng trong phạm vi biên giới của mình đã được quốc tế chấp nhận”.

 

Về mặt lý thuyết, ý kiến đó không thể gọi là đã gây bất đồng, bởi lẽ vị thế của quốc gia Israel cũng giống như vị thế của Vatican. Israel cũng đã công nhận quyền lợi tối thượng của dân Palestine về lãnh thổ, một khi một sự dàn xếp như vậy có thể thực hiện được mà không làm tổn tương đến an ninh của Israel. Dĩ nhiên, cũng không tránh khỏi những va chạm này nọ.

 

QUÊN ĐI CŨNG CÓ THỂ LÀ MỘT ĐỨC TÍNH CẦN THIẾT.

 

Tại đất thánh, Đức Thánh Cha đã nói với những người có những nguồn gốc, lập trường và kinh nghiệm sống khác nhau, nhưng có một điều chung cho hết mọi người mà ai cũng có là hình như tất cả mọi người đều đã và đang bị đau khổ. Mỗi một người, ai cũng muốn nói ra những nỗi đắng cay cơ cực cũng như những bất công mà mình đang phải gánh chịu, hoặc thuộc về cá nhân hay có tính cách chung của lịch sử. Mỗi một người đều có câu chuyện đau buồn phiền muộn riêng muốn giãi bày. Nhưng hình như không một ai muốn nhắc lại những bất công mà mình đã làm, trái lại tất cả đều vẫn còn nhớ những nỗi đau khổ mà mình đã phải gánh chịu vì những bất công đó.

 

Tôi không thể không thông cảm những nỗi đau khổ ấy mà không khỏi thắc mắc là ở cái phần đất có quá nhiều khổ đau và phiền muộn này mà người dân lại luôn luôn hãnh diện để “nhớ lại”, trong khi đó đôi khi chính sự “quên đi” lại có thể là một “đức tính cần thiết”.

 

Ở Bethlehem, Đức thánh cha đã khuyến khích, thúc dục những tín hữu đến nghe ngài, mỗi người hãy trở nên “nhịp cầu đối thoại và hợp tác xây dựng hầu thiết lập một nền văn hóa hòa bình để thay thế cho những lời đe dọa, những cuộc tấn kích xâm lăng cũng như những nỗi u hoài thoái chí nản lòng”.

 

KẾT LUẬN:  HÒA BÌNH VÀ HY VỌNG

 

Ba mươi bài phát biểu của Đức Thánh Cha, Một Thông Điệp Duy Nhất: HÒA BÌNH. Ngài nhắc đi nhắc lại không biết mệt cùng một chủ đề dưới nhiều hình thái khác nhau: HÒA BÌNH giữa người Israel và người Palestine. HÒA BÌNH giữa người Do Thái, người Hồi Giáo và người Kitô Giáo. HÒA BÌNH trong Giáo Hội, giữa phép Hòa Giải và các Nghi Thức phụng tự. HÒA BÌNH ngoài Xã Hội và trong Gia Đình. HÒA BÌNH giữa Thiên Chúa, loài người và tạo vật. HÒA BÌNH ở trong Lòng, ở Trung Đông và trên khắp Thế Giới…. Đó chính là điều mà Đức Thánh Cha đang cố gắng thực hiện, nhờ sự hiện diện của ngài nơi đây, nhờ những lời nói của ngài, sự nhẫn nại, lòng can đảm của ngài để rao giảng Tin Mừng Chúa “trong lúc thuận tiện cũng như những lúc không thuận tiện” (2Timothy 4:2).

 

Với lời kêu gọi Hòa Bình, Đức Thánh Cha kết thúc cuộc hành hương của ngài bằng niềm HY VỌNG cho một tương lai HÒA BÌNH nơi đất thánh ở một khoảnh khắc cực kỳ khẩn trương nào đó. Xin Thiên Chúa dẫn dắt chỉ lối cho những chuyên viên hòa giải cả về phía tôn giáo lẫn dân sự và chính trị biết lấy công bằng, công lý và tình thương yêu nhau mà giải quyết vấn đề.

 

Fleming Island, Florida 16-5-2009

NTC

 

[1] Đài tưởng niệm 6 triệu nạn nhân Do Thái tại lò sát sinh Đức Quốc Xã được thiết lập năm 1953 do Israeli Knesset.

[2] .Trên đoạn đường đời có những mốc biến cố đặc biệt thay đổi cuộc đời….

Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh

VỀ MỤC LỤC
NÓI VỚI CHÚNG, KHÔNG NÓI CHO CHÚNG (BÀI 2)

 

Nếu chúng ta muốn con cái chúng ta thay đổi quan niệm của chúng, chúng ta phải dẫn chúng đi xem để cho chúng thấy một sự thay đổi quan niệm sẽ đưa đến lối làm việc kết quả hơn. Chúng ta cần phải chấp nhận con cái chúng ta như những thành viên trong việc tạo nên một sự hài hòa trong gia đình. Tư tưởng và cái nhìn của chúng thì quan trọng, cách riêng vì chúng phù hợp với con trẻ. Những tư tưởng nầy tạo nên lối lý luận riêng của đứa trẻ – lý luận một cách vô ý thức cho cách cư xử của nó. Bảo một đứa trẻ đừng làm điều nó đã biết là sai là một điều vô ích, vì làm sai là phương tiện để đạt được mục đích sai lầm của nó. Những cảnh cáo như thế chỉ làm tăng sự quyết tâm của nó. Nó cảm thấy nó có quyền đối với ý kiến của nó. Những điều nầy không thể bị phủ nhận bỡi lý luận. Người ta phải xem lý luận tâm lý cho rằng một sự không hài lòng cũng được ước muốn nếu nó mang lại sự chú ý hoặc uy quyền. Lắng nghe đứa con chúng ta, có nghĩa là khám phá cái lý luận của nó. Giúp nó có nghĩa là hướng dẫn nó đến một cái nhìn khác mà từ đó nó có thể thấy những cái lợi không được thấy trước đây. 

Một đứa trẻ muốn uy quyền thì cũng muốn được yêu thích. Ở đây, chúng ta có thể thảo luận những khó khăn của việc muốn được cả hai. Nó có thể bắt đầu thấy rằng nó sẽ không được quí mến nếu nó muốn là một người hay gây sự, và nó sẽ phải bổ túc lối suy nghĩ mà nó thích. Nói thẳng với nó rằng: “Con không được yêu thích nếu con là một đứa hay gây sự” chỉ làm nó thêm thù ghét mà thôi. “Người ta cảm thấy thế nào đối với một người hay gây sự? Nếu một người hay sinh sự muốn được yêu thích, họ sẽ làm gì? Họ có sự chọn lựa không?” Những câu hỏi như thế dẫn đứa trẻ khám phá ra cái gì nên tiếp tục và nó nên góp phần. Nó phải chấp nhận: việc đó hoàn toàn tùy thuộc vào nó. 

Giả sử rằng bà mẹ nghe thấy hai đứa con trai của mình đang đánh nhau vì một đứa chơi gian trong khi đánh bài. Bà quyết định đứng ngoài cuộc. Nhưng sau đó, vào một lúc yên tĩnh, thân thiện, bà cảm thấy muốn có một cuộc thảo luận về việc gian trá: “Cả hai con biết: gian trá là sai. Nó cũng làm mất đi sự vui thích mà các con có thể có nếu các con chơi tử tế. Tại sao không quyết định chơi theo luật của trò chơi và không gian trá.”  Bà nói một cách lịch sự trong một cách thế thân thiện. Nhưng đây không là thảo luận mà là bài giảng huấn. Nó có lý luận nhưng không tâm lý. 

Tuy nhiên, giả sử rằng một hai ngày sau, bà mẹ nói với hai đứa con trai bà rằng: “Mẹ lấy làm lạ một điều.” Bấy giờ cả hai đứa trẻ sẽ tò mò, hỏi: “Mẹ lấy làm lạ về điều gì?” Bà gây được chú ý của chúng. Bây giờ bà tiến hành một cách gián tiếp: “Giả sử rằng hai người chơi bài và một người gian dối. Cái gì xảy ra? Chúng đánh nhau? Hãy thử nghĩ tại sao một trong họ gian dối?” Từ đây trở đi, câu trả lời sẽ cho thấy bằng chứng về cách mỗi đứa trẻ nghĩ. Một đứa nói: “Vì nó muốn thắng” hoặc “vì nó muốn làm kẻ trên”. Đứa khác có thể nói: “Vì con không muốn luôn bị loại bỏ lại đàng sau.” Mỗi lần như vậy, bà mẹ hỏi đứa kia nghĩ gì về câu trả lời đó. Bà đang tìm tin tức và đồng thời muốn để cho những đứa trẻ nhận thức được rằng cái gì đang trong đầu chúng. Cuối cùng, bà có thể hỏi: “Đứa ăn gian cảm thấy thế nào về đứa bị nó ăn gian? Con có nghĩ hai đứa nầy có thể học chơi bài cách công bình không? Cách nào? Mỗi người có thể làm gì?” Sau câu hỏi và câu trả lời, bà mẹ đã hiểu được cách thông suốt vấn đề là do sự cạnh tranh, bà có thể nói một cách thân tình: “Mẹ vui là biết được các con nghĩ gì? Điều nầy giúp mẹ rất nhiều. 

Bà mẹ đã gieo giống cho tư tưởng. Bà không cần nói gì cả về điều bà nghĩ nên được thực hiện. Con cái đã được hướng dẫn để xem cái gì là vấn đề, và đâu là những giải quyết có thể đạt được. Hãy để chúng nghiên cứu và xem cái gì xảy ra. 

Không ai, trẻ con cũng như người lớn, thích đối diện với vấn đề, trong đó họ có thể là sai nếu nó được trình bày như một sự tố cáo để bắt đầu. Nếu chúng ta nói một cách chung chung về cái khó khăn của người khác hơn là của hai thằng bé con mình, chúng ta có một khoảng cách để tạo nên một sự khách quan. Chúng ta càng muốn nhìn vào vấn đề của người khác khi thảo luận những khó khăn với con cái chúng ta, chúng ta càng xem ra dễ dàng hơn và cũng dễ đạt được kết quả tốt đẹp hơn. 

Tuy nhiên, nhiều lúc chúng ta cũng cần dùng những cách thế trực tiếp như: “Mẹ có vấn đề. Mẹ không biết con nghĩ gì về việc đó? Khi mẹ cố gắng dọn bữa tối lên bàn, con lại muốn mẹ giúp con làm bài. Mẹ làm sao làm được hai việc trong cùng một lúc. Con nghĩ cần phải làm gì?” 

Bất cứ vấn đề nào chúng ta có thể nêu ra trong cuộc thảo luận đều có thể là cơ bản cho hành động tương lai về phía chúng ta. Chúng ta sẽ không có thông tin nếu chúng ta cố gắng sửa một ý tưởng sai lầm bằng cách dạy đời. Điều nầy chỉ làm chúng ta thất bại. Con cái chúng ta không thể cởi mở nếu chúng ta gây cho chúng ấn tượng rằng chúng thì quá sai lầm. Nếu chúng đưa ra một tư tưởng rõ ràng là không thể chấp nhận, chúng ta cũng phải chấp nhận nó ít là một thời gian. “Con có thể có điểm hay đó, nhưng mẹ ngẫm nghĩ làm sao nó có thể làm được nếu mọi người đều như vậy?” Nếu đứa trẻ tỏ ra cưỡng ép để tiếp tục thảo luận vì chúng ta nói rằng ý tưởng của nó không làm được, hãy để nó qua một bên. “Chúng ta sẽ suy nghĩ về việc đó và sẽ thảo luận trong một ít ngày nữa. Có thể chúng ta sẽ có những tư tưởng khác lúc bấy giờ.” 

Nói cho con trẻ có nghĩa là nói cho chúng cách chúng ta muốn những điều đó được làm, diễn tả một đòi hỏi vâng lời, đòi hỏi một kiểu mẫu về cách suy nghĩ của riêng chúng ta. 

Nói với con trẻ có nghĩa là chúng ta và chúng cùng nhau tìm kiếm tư tưởng như một cái gì nên làm để giải quyết vấn đề và thăng tiến tình thế. Vậy, chúng có một phần sáng tạo trong việc xây dựng một sự hài hòa cho gia đình và nhận thức rằng cả chúng nữa cũng phải đóng góp vào cho cái toàn thể. Điều nầy không có ý nói chúng có quyền điều khiển gia đình theo ý muốn riêng của chúng. Sự thảo luận là một tiến trình mà qua đó chúng ta cố gắng đi đến một giải quyết tốt đẹp nhất vấn đề chúng ta đang gặp phải cho lợi ích của tất cả những người có liên quan. Nhiều người nghĩ rằng phương cách tâm lý mới có nghĩa là nhượng bước cho con trẻ, bỏ đi sự lãnh đạo của người lớn. Trái lại thì đúng hơn. Khi chúng ta không ngồi xuống với con trẻ để nói chuyện về những vấn đề hiện tại, khi chúng ta không để cho chúng bộc lộ tư tưởng của chúng và lắng nghe chúng, bấy giờ chúng thật sự làm điều chúng muốn và chúng ta mất đi ảnh hưởng trên cách sống của chúng. Sự cộng tác cần phải được thuyết phục – nó không thể bị cưỡng bách – và cách tốt nhất để chiếm được sự cộng tác là cho tự do nói về điều mỗi người nghĩ và cảm thấy, và cùng nhau tìm xem những cách thế tốt hơn để giải quyết những vấn đề với nhau.  

Lm. Lê văn Quảng, tiến sĩ Tâm lý

VỀ MỤC LỤC
THÁNG NĂM, NHỚ SINH NHẬT NHỮNG CON NGƯỜI VĨ ĐẠI

 

Trên Internet tình cờ tôi đọc được những câu thơ:

 

Ngày dài lắm!

Tôi được kể rằng, ai sinh ra trong tháng 5 sẽ được sống dài,

Cùng nắng, cùng gió, cùng những loài hoa ngào ngạt hương.

Rồi ôm trọn lòng mình…như ngày tháng năm.”

Và bỗng nghĩ đến những người vĩ đại “sống dài cùng nắng cùng gió cùng những loài hoa ngào ngạt hương”. Tháng năm, tháng Hoa của Mẹ mà. Ở thời đại nào thế giới cũng có những con người vĩ đại. Họ vĩ đại không phải vì họ sống khác người hay họ làm cho thế giới rúng động và hoảng sợ, nhưng họ vĩ đại vì họ đã sống trọn vẹn sứ mệnh làm người. Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội Công Giáo dạy rằng con người có một nhân vị và nhân vị ấy cao quí vì biết hướng về siêu việt. Chính Đấng Tạo Hoá, Đấng Cứu Độ và Đấng Thánh Hoá làm cho con người là con người, chứ không phải ai hay cái gì khác. Sống cho trọn kiếp người cho ra người không phải là điều dễ dàng. Nhưng đã có những con người như thế. Tháng năm, tháng có ngày sinh của những con người biết hướng về siêu việt chứ không phải chối bỏ siêu việt.

Người vĩ đại đầu tiên chúng tôi muốn nhắc đến, sinh vào ngày 18/5 năm 1920. Con người ấy đã lớn lên âm thầm nhưng đến một thời điểm đặc biệt mà Thiên Chúa định trước, người đã góp phần xoay chuyển lịch sử. Cứ khoảng 9 hay 10 năm là cuộc đời người thay đổi. Rước lễ lần đầu lúc 9 tuổi, lãnh phép Thêm Sức lúc 18 tuổi, rồi người thụ phong linh mục năm 26 tuổi, làm Giám mục  38 tuổi (1958), rồi 9 năm sau làm Tổng Giám mục Krakow năm lúc 46 tuổi. Tám năm sau người được phong làm Hồng Y do Đức Giáo Hoàng Phaolô VI vào (năm 1967), lúc 47 tuổi, và 11 năm sau, lúc 5 giờ 15 chiều ngày 16 tháng 10 năm 1978 , người được bầu làm vị Giáo hoàng thứ 263 kế vị Thánh Phêrô ở tuổi 58. Con người vĩ đại ấy có sinh ở Balan với tên gọi là Karol Josef Wojtyla, là Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, vị Giáo Hoàng làm cho thế giới ngưỡng mộ. Người đã làm cho Balan rồi Đông âu quay trở lại, thục hiện lời Mẹ Fatima báo trước năm 1917, năm mà nước Nga trở thành nước Cộng sản. Người đã thổi luồng sinh khí của “ngưỡng cửa thiên niên kỷ” vào Giáo Hội Công Giáo. Và chính người đã làm gương cho lời người rao giảng bằng việc tha thứ cho Mehmet Ali Agca, kẻ đã bắn người. Ông này hiện đã tuyên bố sẽ xin trở lại đạo. Nói hết về cuộc đời vị thánh giáo hoàng này là điều không thể, chúng tôi chỉ xin tóm gọn lại rằng người vĩ đại vì người đã chu toàn sứ mạng trong khiêm tốn, yêu thương và đầy nhiệt huyết vì lòng yêu mến Chúa Giêsu và Mẹ Ngài.

Những con người Việt nam vĩ đại khác được mừng sinh nhật bách niên (trăm tuổi) vào tháng 5 là là Đức Cha Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi (về cùng Chúa năm 1988) và Đức Cha Micae Nguyễn Khắc Ngữ đang hưu dưỡng ở Long Xuyên.  Một con người vĩ đại khác là người Việt nam sinh năm 1919 (ngày 20/5) ở Ninh bình là Đức Hồng Y vừa từ giã cuộc đời này là Đức Hồng Y Phaolô Giuse Phạm Đình Tụng. Nhiều người đã nói và viết về các ngài, về cuộc đời các ngài trong những ngày qua, cho nên chúng ta không cần viết thêm nữa. Các ngài là những vị chỉ nghĩ đến việc thực thi Thánh Ý Thiên Chúa và làm cho con người được sống đúng phận  người. Các ngài dù đã ra đi hay đang sống những năm tháng cuối của cuộc đời mình, các ngài giống nhau ở chỗ là luôn “trung tín trong những việc nhỏ nhất” như Lời Đức Giêsu đã nói.

Từ những cuộc đời của những người Cha hết mình vì đoàn dân ấy, chúng ta cảm nghiệm được rằng những đòi hỏi của Tin Mừng về cuộc sống, về kiếp người và về sứ vụ mục tử. Nhìn vào tấm gương sáng chói của các ngài, chúng ta cảm thấy Học Thuyết Xã Hội Công Giáo là thực tế, phù hợp với con người của mọi thời đại, mọi xã hội và mọi tầng lớp. Như trên đã nói, con người tự bản chất là siêu việt, là vĩ đại. Nhưng để vươn tới tầm siêu việt ấy, chỉ có một cách duy nhất là thực hành ý định nhiệm mầu của Đấng Tạo Hoá. Giáo lý Công giáo dạy rằng lý trí con người bằng những phương thế tự nhiên – chưa cần đến lời rao giảng – vẫn có thể nhận biết Đấng Tạo Hoá và sống theo tiếng Ngài trong lương tâm. Như thế không ai có thể biện minh rằng vì tôi không biết Ngài nên tôi không thể sống như ý Ngài. Và khi chối bỏ Ngài, hay chống đối Ngài, thì con người tự mình chối từ giá trị siêu việt của mình.

Theo Học Thuyết Xã Hội Công Giáo, con người siêu việt hay vĩ đại trước hết là vì “Giáo Hội nhìn thấy nơi mỗi người, nam cũng như nữ, hình ảnh sống động của chính Thiên Chúa. Hình ảnh này mỗi ngày được triển khai thêm một cách trọn vẹn và sâu sắc hơn nơi mầu nhiệm Đức Kitô, hình ảnh tuyệt hảo của Thiên Chúa, Đấng duy nhất đã mạc khải Thiên Chúa cho con người và mạc khải con người cho chính con người”. (103) Giáo Hội dạy rằng: “Thông điệp căn bản của Thánh Kinh cho biết con người là thụ tạo của Thiên Chúa (x. Tv 139,14-18), và theo thông điệp ấy, hình ảnh Thiên Chúa nơi con người chính là yếu tố định tính và phân biệt con người: “Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình, Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa; Ngài sáng tạo con người có nam có nữ” (St 1,27). Thiên Chúa đặt con người vào trung tâm và chóp đỉnh của trật tự sáng tạo. Con người (theo tiếng Hipri là “adam”) được tạo dựng từ đất (adamah) và Thiên Chúa thổi hơi sự sống vào mũi Ađam (x. St 2,7).” (108).

Con người cao cả là thế, vĩ đại là thế, nhưng có những kẻ chối từ đặc ân ấy. Họ không làm cho Đức Giêsu “lớn lên” mà lại muốn trao nộp Người vào tay kẻ dữ. Và khi không làm gì được Người thì họ trao nộp những môn đệ trung kiên bước theo Người. Thế gian vốn đã chọn bóng tối và sự chết làm thủ lãnh, không dám mở mắt ra trước ánh sáng chói loà. Còn những con người vĩ đại thì lại khác. Các ngài “biết mình, làm chủ mình, tự do hiến mình và tự nguyện hiệp thông với người khác. Hơn thế nữa, con người được ơn Chúa mời gọi ký kết giao ước với Đấng Tạo Hoá của mình, lấy đức tin và tình yêu đáp trả Ngài, một sự đáp trả mà không thụ tạo nào có thể làm thay con người” như Học Thuyết Xã Hội Công Giáo dạy. Những con người vĩ đại của tháng 5 rõ ràng nhắc cho chúng ta ba chiều kích, ba tương quan mà chúng ta phải cố gắng sống trọn vẹn: tương quan với Thiên Chúa Tạo Hoá (là hình ảnh Ngài), tương quan với chính mình (biết mình, làm chủ mình) và tương quan với anh chị em (tự nguyện hiệp thông với người khác).

Đừng đòi hỏi giá trị cao cả, siêu việt cũng đừng đòi người khác nhận thấy nét siêu việt của mình nếu con người chối từ Đấng tạo thành mình, chẳng biết mình là ai trong vũ trụ bao la này và không ngừng chà đạp anh chị em mình. Nhân quyền được hiểu đơn giản là quyền mà Đấng Tạo Hoá tặng ban cho con người, là quyền bất khả xâm phạm, và điều mà thế gian không hiểu được, bởi lẽ họ không hiểu được quyền ấy đến từ đâu.

Tháng Năm, tháng Hoa của Mẹ. Mẹ vĩ đại nhất trong con cái loài người vì Mẹ là hình ảnh đẹp nhất của Thiên Chúa, Mẹ biết rõ giá trị của mình khi Mẹ thưa “tôi là nữ tỳ Thiên Chúa” và Mẹ làm cho giá trị ấy thành vĩ đại khi Mẹ thưa “Fiat”, Xin Vâng. Nhờ đó Mẹ làm cho phần lớn nhân loại được đi vào siêu việt. Xin Mẹ cho chúng con và người thế gian sống đúng phận người cũng như giúp anh chị em sống đúng phận người ấy, mà không ngăn cản cách này cách khác. 

Gioan Lê Quang Vinh

VỀ MỤC LỤC
CON TẮC KÈ TRÊN NGỌN CÂY DỪA

  

Năm mười bốn tuổi,  tôi bị đau ruột dư. Một trận đau kinh hồn chợt ùa đến làm tôi tái nhợt mặt mày, gập người lại. Bố mẹ tôi chở tôi đến nhà thương Cơ Đốc ở Phú Nhuận. Mẩu ruột dư đã mưng mủ sắp vỡ. Bác sĩ quyết định chụp thuốc mê và giải phẫu liền. Tôi thoát chết.

Thoát chết nhưng không thoát nạn! Họa vô đơn chí: cậu em họ con chú thím tôi bị thương hàn, người nhà cũng đưa vô nhà thương Cơ Đốc. Thằng bé không may mắn như tôi, các bác sĩ bó tay trước tế thần. Thằng bé bước sang thế giới bên kia khi chưa hiện diện đủ mười năm ở cõi thế. Họ hàng đến viếng xác em họ tôi ở nhà xác bệnh viện, sau đó, nhân tiện lên thăm tôi đang nằm trên phòng bệnh. Có lẽ hơi lạnh khiến vết mổ của tôi làm độc, mưng mủ. Vì chuyện không may đó, thay vì chỉ ở nhà thương khoảng một tuần như những bệnh nhân đau ruột dư khác, tôi phải nằm lại hơn một tháng trời.

Vì bận rộn công việc, bố tôi thỉnh thoảng mới vào bệnh viện thăm tôi được, mặc dầu ông cụ rất quan tâm đến sức khỏe của tôi. Mẹ tôi thì đi đi về về. Sau ba giờ chiều, bà phải rời nhà thương về nhà, lo cơm nước và các công việc linh tinh cho gia đinh. Chín, mười giờ tối bà mới quay trở lại nhà thương săn sóc tôi.

Những ngày đã tạm đỡ đau, nằm mãi cũng buồn, tôi bám tay vịn cầu thang, leo lên sân thượng bệnh viện, nhìn xuống đường phố xem người ta và xe cộ qua lại. Nhìn chán, tôi ngắm cây dừa cao chót vót mọc ngay trước cửa nhà thương. Cây dừa cao thiệt l Cao hơn cả cái cao ốc mấy tầng này. Tôi không biết cây dừa này sống bao nhiêu năm rồi, nhưng nó cao lớn và trên ngọn có nhiều tàu lá rậm lạp, xen kẽ vào đó là những chùm quả, to có nhỏ có.'

Một lần, tôi thấy trong đám lá cây, một cái đầu đen nho nhỏ với đôi mắt thao láo đang dòm tôi chăm chú. Sau phút đầu hốt hoảng, tôi nhìn kĩ thì hoá ra đó là đầu một con tắc kè.

Con tắc kè này lớn lắm, gần như gấp đôi những con thường. ẩn trong đám lá là cái thân đen, mốc thếch với cái đuôi dài loằng ngoằng. Là con trai, nhưng hồi ấy tính tôi rất nhát. Tôi sợ những con vật nho nhỏ, nhũn nhũn hay những con vật thuộc lại bò sát. Tắc kè là một trong những con vật làm tôi sợ và gớm ghiếc. Cái đầu của nó trông cổ quái và rất dữ. Cái thân đầy những vảy cộm cộm, khi thì đen, khi thì biến đổi thành màu xanh, màu vàng, màu đỏ. Cũng là những màu ấv. mà sao hiên trên mình mấy con cá thì đẹp, mà trên mình con tắc kè thì khủng khiếp quá ! Bởi thế, lần đầu tiên khi nhìn thấy con tắc kè trên ngọn cây dừa, phản ứng tự nhiên là tôi thụt lùi lại.

Con tắc kè trườn người ra, để lộ cả cái thân và chiếc đuôi dài. Nó vẫn dòm tôi không chớp mắt. Bấy giờ tôi cũng nhìn lại nó, và cảm tưởng sợ hãi, gớm ghiếc mất dần.

Thế rồi tôi chăm chú quan sát con tắc kè đớp mấy con ruồi, con muỗi bay qua mũi nó. Nó đớp rất nhanh, rất chính xác rồi nhóp nhép cái miệng có con mồi trong đó một cách thích thú. Dù vậy, mỗi lần con tắc kè há miệng đớp con mồi bay ngang, lòng tôi cũng hồi hộp, chỉ sợ nó đớp hụt.

Đêm hôm ấy, trong giấc ngủ của thằng bé mười bốn tuổi là tôi có bóng dáng con tắc kè.

Dần dà, con tắc kè là một hình ảnh quen thuộc, rồi cuối cùng trở thành một người bạn. Những buổi chiều mẹ tôi vào nhà thương muộn, tôi chỉ biết leo lên sân thượng, tìm con tắc kè trên ngọn cây dừa. Thấy nó, tự nhiên tôi vui vẻ trong lòng và lại lặng lẽ quan sát nó đớp mồi. Quan sát để hồi hộp theo từng cú đớp của nó. Những ngày tìm mãi không thấy con tắc kè đâu, lòng tôi buồn hiu hắt, những tưởng như thiếu vắng một người bạn thân. Con tắc kè hình như cũng quen với thằng bé hay leo lên sân thượng kiếm nó là tôi. Nó nhìn tôi không sợ hãi, không trốn tránh. Và có đôi lần nó bò ra tận đầu tàu lá vươn dài, đụng tới thành sân thượng. Đưa dài tay ra, tôi có thể với được tới nó.

Chính vì ngày nào cũng nhìn thấy con tắc kè nên tôi tò mò nhờ mẹ tôi kiếm sách viết về loại sinh vật này. Con tắc kè trông thì kinh khiếp như vậy, nhưng thật sự rất hiền, có thể nói là nhát nữa. Nó chỉ ăn ruồi muỗi, cây cỏ chứ không đớp người bao giờ. Nghe tiếng động, con tắc kè đã vội co giò, phóng mình vào bụi rậm trốn mất. Tắc kè cũng không có nọc độc, không làm hại ai, không làm chết ai. Một điều tức cười nữa là tôi bắt đầu nhận thấy những màu sắc trên mình tắc kè cũng có vẻ đẹp riêng của nó, chứ không đến nỗi xấu xa gớm ghiếc như cảm nhận ban đầu của tôi.

Ngày tôi bình phục, mẹ tôi đưa tôi về nhà . Trước khi về, tôi đòi cho bằng được để lên sân thượng nhìn con tắc kè lần cuối. Mẹ tôi hơi ngạc nhiên nhưng cũng chiều cái ý mà có lẽ mẹ cho là kì quặc của tôi. Tôi nhìn thấy nó. Nó cũng nhìn tôi, và bất chợp tôi nhận ra rằng mắt tôi ươn ướt. Ít năm gần đây, khi xem phim E.T., tôi rất thông cảm cho chú bé trong phim, E.T. trông xấu xí, gớm ghiếc quá, nhưng chú thương E.T., vì đã xem E.T. là bạn. Mà khi xa bạn, ai mà không buồn, không nhớ thương, không khóc !

Câu chuyện về con tấc kè trên ngọn cấy dừa cho tôi những khám phá mới về cuộc đời và những người chung quanh. Những khám phá này không phải đến một lần, một lúc, ngay khi tôi còn nhỏ; nhưng nó đến dần dà, mỗi khi một chút. Thường nó đến khí tôi đã trường thành, trải qua nhiều biến cố lớn nhỏ trong cuộc sống; tiếp xúc đụng chạm với nhiều người; rồi có dịp ngồi lại, bình tĩnh nhìn chính mình và quãng thời gian quá khứ. Khi đó hình ảnh con tắc kè thuở thiếu thời hiện đến và tôi khám phá ra qua hình ảnh ấy những suy tư riêng cho mình.

Tôi khám phá ra nhu cầu chia sẻ nơi con người và sự cần thiết của người chung quanh đối vối mình. Thường thì những khi khỏe mạnh, hoạt động bình thường, không mấy ai cảm thấy mình cô đơn, yếu đuối, trái lại, cho là mình rất mạnh. Khi ấy người ta nghĩ rằng có thể sống một mình, không phải dựa vào tinh thần hay tình cảm của ai, tự mình mình sống, không cần chia sẻ, tâm sự. Nhưng khi hoàn cảnh buộc người ta sống cô lập, nhất là lại bị cô lập lúc mình đang yếu sức, bệnh tật, mình mới thấy sự hiện diện của người chung quanh là cần thiết, và sự chia sẻ, cảm thông là một nhu cầu. Giá mà tôi không buồn rầu, cô độc ở phòng bệnh trong một thời gian dài thì đã không có chuyện tôi dần dần làm thân với con tắc kè, mong muốn nhìn thấy nó, hồi hộp quan sát nó đớp mồi, và nhớ nhung lưu luyến khi phải rời xa nó .

Tôi khám phá ra mình có những thành kiến rất tai hại về người chung quanh. Có những người, mới nghe nói đến hay mới nhìn thấy, tôi đã không ưa. Có những người tôi tưởng là xấu tính xấu nết, nguy hiểm, độc ác, kiêu căng v.v... Nhưng gần họ, rồi có dịp hoạt động lâu với họ, tôi thấy họ không phải như tôi nghĩ. Khi chưa bao giờ nhìn ngắm, quan sát kĩ một con tắc kè, tôi vẫn nghĩ rằng đó là một con vật xấu xa, gớm ghiếc, hung hăng dữ tợn, có nọc độc cắn chết người. Nhưng con tắc kè không phải như vậy: Nó không có nọc độc, không hề tấn công ai, không dữ tợn mà lại rất nhát. Sự thay đổi thành kiến không phải tự nhiên tôi có được, mà phải trải qua một thời gian tôi nhìn thấy nó, biết nó, và tìm hiểu về nó. Kết quả là khi bình phuc, rời bỏ bệnh viện về nhà , tôi không nhớ các ông bác sĩ, các cô y tá cho bằng nhớ con tắc kè.

Tôi khám phá ra giá trị của một tình bạn. Trong tình bạn chân thành, người ta không cần nói nhiều, nhưng la hiểu nhiều; không cần những hành vi, cử chỉ bên ngoài cho bằng tình cảm thật bên trong. Tôi và con tắc kè không nói với nhau một lời nào, lí do giản dị là con tắc kè ... không biết nói! Tôi cũng không vuốt ve con tắc kè, không dang tay ôm nó, tôi chỉ nhìn nó. Nhưng dù không nói, không đụng chạm đến nó, tôi biết rõ tôi đang thương nó; và ít nhiều - vì không phải là tắc kè nên tôi không biết rõ - tôi biết nó cũng có chút cảm tình với tôi. Tôi cũng khám phá ra rằng khi đã coi nhau là bạn thì người ta chấp nhận con người của nhau và nhìn thấy vẻ đẹp trong con người ấy. Dần dà, tôi thấy con tắc kè đẹp, vì tôi thích nó, thương nó; chứ tôi biết trong những bạn đọc, có nhiều người, nhất là các bà các cô, vẫn cho con tấc kè là con vật xấu xí gớm ghiếc, cho dù tôi cố gắng thuyết phục đến đâu đi nữa. Lí do là những vị này không coi con tắc kè là bạn, như tôi đã coi nó là bạn.

Còn nhiều cái về cuộc đời tôi khám phá được qua con tắc kè của tuổi thiếu thời. Ngay cả đến bây giờ, tôi vân còn đang khám phá cuộc đời mình qua hình ảnh nó. Thê mới biết, một người bạn, dù đã cách xa, vẫn ảnh hưởng trên cuộc đời mình đến như thế nào. 

Có nhiều khi trong giấc mơ, tôi thấy con tắc kè của thuở thiếu thời bò ra tận đầu tàu lá dừa, nhìn tôi không chớp mắt và mon men định leo lên thành bờ tường sân thượng cho được đến gần tôi hơn. Tỉnh dậy, tôi thấy nhớ nhung và buồn buồn. Cái buồn nhẹ nhẹ len vào tâm hồn tôi. Tôi nghĩ, nếu đối với Thiên Chúa, tôi cũng có thái độ tìm cách đến gần Ngài, như con tắc kè tìm cách đến gần tôi, chắc cuộc sống tôi đã hạnh phúc hơn nhiều. Thiên Chúa không hề gớm ghiếc tôi, mặc dù có thể tôi đáng gớm ghiếc. Ngài cũng không có thành kiến với tôi, mặc dù có nhiều lầm lỗi tôi phạm đi phạm lại, không phải hằng chục, mà hằng trăm, có khi hằng ngàn lần. Thiên Chúa xem tôi là bạn. "Thầy không còn gọi con là tôi tớ... Thầy gọi con là bạn hàu thân tình.'' Vậy mà tôi vẫn không cố gắng đến gần Ngài hơn, có khi còn tìm cách lánh xa Ngài. Trong tôi như có chút gì mặc cảm và sợ hãi .

Điều đó không có trong con tắc kè, khi nó tìm cách tiến lại gần tôi.

Nhà Văn Quyên Di

VỀ MỤC LỤC
Sống triển nở đời sống cộng đoàn, yếu tố sống còn của tu sĩ (tiếp theo)

NGƯỜI NỮ TU SỐNG TU ĐỨC TOÀN DIỆN  

tác giả: Lm. Micae-Phaolô Trần Minh Huy pss 

LỚP THẦN HỌC LIÊN TU SĨ - TÒA GIÁM MỤC BÙI CHU  (2008 - 2009)

Chương V : Sống triển nở đời sống cộng đoàn, yếu tố sống còn của tu sĩ

(tiếp theo)

IV. NHỮNG TRỞ NGẠI TRONG VIỆC NHẬN BIẾT VÀ PHÁT TRIỂN CÁC ÂN BAN TÀI NĂNG     

Hành trình vào những ân ban tài năng cá nhân của một người không phải là không có những trở ngại và rào cản dọc đường.  

Dù ước muốn khám phá các ân ban tài năng của một người là thực tế, chung chung vẫn có đối kháng và tránh né khiến các ân ban tài năng đó không lộ ra một cách trọn vẹn.

 Các chướng ngại giữ một người không nhận ra được các ân ban tài năng riêng biệt cho cá nhân mình. Có năm trở ngại chung cho mọi người đáng cho chúng ta lưu ý. 

Những chướng ngại trong việc nhận dạng và phát triển các ân ban tài năng

1)      Ý niệm sai lầm về đức khiêm nhường hay đặt nó không đúng chỗ.

2)      Quan niệm rằng một tài năng là tầm thường và bình thường.

3)      Tin rằng ân ban tài năng của một người là cái mà bất cứ ai cũng có được một cách phổ quát.

4)      Ghen ghét về ân ban tài năng của kẻ khác.

5)      Những nỗi lo sợ.

 

1. Trở ngại đầu tiên: Ý niệm về đức khiêm nhường đặt không đúng chỗ 

Do văn hóa và bối cảnh gia đình, có thể có một khuynh hướng tự ti bẩm sinh làm giảm thiểu các khả năng tích cực của một người: Người ta thực hành nhân đức khiêm nhường như thể bởi từ chối các ân ban của Chúa.  

Trái lại, các tài năng và đức tính của một người là những ân ban của Chúa và như thế thành lý do để ca tụng lòng tốt lành của Chúa: “Tôi không là gì và cũng chẳng làm được gì cả, nhưng tôi có là gì và có làm được gì thì tất cả đều nhờ bởi ơn Chúa” (Thánh Phaolô). 

Điều đó không hàm ý rằng khoe khoang hay phô trương là một lời đáp trả thích hợp hay có thể chấp nhận được đối với những ân ban tài năng cá nhân của một người. 

Lòng khiêm nhường đích thực nhìn nhận sự thật về ân ban tài năng của mình, nhưng nguồn gốc của chúng chính là Thiên Chúa nhân lành và quảng đại để cám ơn Chúa. 

2. Trở ngại thứ hai: xem ân ban tài năng là tầm thường và bình thường

Trở ngại thứ hai là không để cho một ân ban tài năng được nhìn nhận vì nó xem ra tầm thường và bình thường. 

Quan niệm sai lầm rằng tất cả các ân ban tài năng phải thật ngoạn mục có thể cản trở một người chấp nhận các ân ban tài năng đó. 

Khi kỳ vọng quá cao vào một ân ban tài năng thì những ân ban tài năng bình thường như lắng nghe, cảm thông, tính vui vẻ, dễ gần, hiếu khách… là những cái làm cho cuộc đời con người được phong phú sẽ bị coi thường.

3. Trở ngại thứ ba: coi ân ban tài năng của một người là phổ quát.

Kiêu ngạo nghĩ rằng các ân ban tài năng của một người thì bất cứ ai cũng có một cách phổ quát và do đó không đáng quan tâm tìm biết và phát triển tài năng của nhau là chướng ngại thứ ba trong việc khám phá ân ban tài năng. 

Một chị lớn tuổi nọ đang tham dự vào một tiến trình biện phân các ân ban tài năng phải vất vả để nhận ra các ân ban mà chị đã cống hiến cho cộng đoàn. 

Khi cả nhóm khẳng định ân ban tài năng “dễ gần” của chị thì chị nhún vai nói rằng: “Ồ, bình thường thôi, bất cứ ai cũng có ơn đó” 

Cả nhóm mau mắn thách thức chị, chỉ ra cho chị thấy đó là sự thật, nếu không thì tại sao nhiều người bị lôi kéo liên hệ với chị cách đặc biệt khi họ cần một lời khuyên hay an ủi. 

Việc họ đánh giá cao ân ban tài năng của chị đã dẫn chị đến ý thức rằng chị sở hữu một ân ban tài năng mà không phải bất cứ người nào cũng có được. 

4. Trở ngại thứ tư: ghen ghét các ân ban tài năng của kẻ khác.

Trong khi ân ban tài năng của người khác là một thách đố để mình nhìn thấy ân ban tài năng của mình mà cố gắng (ông nọ bà kia làm thánh được thì tôi cũng làm được), thì lắm khi lại dễ làm mình chú ý tới ân ban tài năng của người khác rồi đâm ra ghen ghét họ. 

Những ân ban tài năng nổi bật có thể là đối tượng của ao ước và người ta hao tốn nhiều nghị lực trong việc ham muốn, thèm khát các ân ban tài năng của người khác. 

Có những người đã phung phí nghị lực của mình để chú tâm vào những ân ban tài năng mà mình không có đó, đến đỗi bỏ quên khám phá và phát triển những ân ban tài năng mà mình có (tự ti). 

5. Cản trở thứ năm: Những nỗi sợ hãi.

Đây có thể là chướng ngại đặc biệt khó vượt qua vì gốc rễ của sợ hãi có nhiều mặt: Việc nhận ra một số ân ban tài năng nào đó đi kèm theo một thách đố trong việc sử dụng chúng. 

Đối với một số người, sợ hãi có thể nổi lên do cảm nhận không chắc chắn hay không an toàn trong khả năng phát triển những ân ban tài năng mới khám phá được (quá rụt rè). 

Một chiều kích khác của sợ hãi là do việc biện phân những ân ban tài năng có thể đòi hỏi thay đổi trong cuộc sống. Những thay đổi này có thể xuất hiện ra trong thái độ, cách ứng xử, các hoạt động, sứ vụ, công việc và ngay cả lối sống. 

Chướng ngại thông thường đối với sự thay đổi mà ai cũng kinh nghiệm thấy có thể rõ nét ở đây và làm cho việc thắng vượt sợ hãi trở nên đặc biệt khó khăn.

“Tình yêu không biết đến sợ hãi; trái lại, tình yêu hoàn hảo loại trừ sợ hãi, vì sợ hãi gắn liền với hình phạt và ai sợ hãi thì không đạt tới tình yêu hoàn hảo” (1 Ga 4,18). 

Sự có mặt của các trở ngại có thể tạo nên một sự tê liệt làm nản lòng một người trong tiến trình khám phá và chấp nhận các ân ban tài năng Chúa ban cho. 

Suy nghĩ về những chướng ngại cá nhân cản trở việc tự do chấp nhận các quà tặng tài năng của Chúa thật là ích lợi cho tiến trình biện phân một ân ban tài năng. 

Câu hỏi suy nghĩ:

·         Những chướng ngại hay rào cản nào ngăn không cho chị nhận ra và chấp nhận các ân ban tài năng của mình?

·         Bầu khí trong cộng đoàn của chị khích lệ và khẳng định các ân ban tài năng khác nhau của các thành viên của cộng đoàn như thế nào?

·         Những ân ban tài năng nào của các thành viên của cộng đoàn mà chị khó nhận ra và khẳng định nhất? Tại sao?  

V. ÂN BAN TÀI NĂNG ĐỂ SỐNG TỐT ĐỜI SỐNG CỘNG ĐOÀN 

·         Ân ban tài năng lắng nghe

·         Ân ban tài năng ăn nói 

·         Ân ban tài năng nhạy cảm

·         Ân ban tài năng kiên trì

·         Ân ban tài năng khẳng định mình là ai

·         Ân ban tin rằng mình được yêu thương

·         Ân ban tài năng hài hước 

1. ÂN BAN TÀI NĂNG LẮNG NGHE 

Có người nói rằng “Chúa đã ban cho chúng ta hai lỗ tai và một cái miệng, do đó chúng ta hãy nhớ nghe nhiều hơn nói hai lần.” Tỉ lệ hai/một này xem ra đúng đó. Quả vậy, người lắng nghe tốt trong một cộng đoàn tu là một kho tàng. Người đó thường chú ý tới những thành viên khác của cộng đoàn.

Ân ban tài năng lắng nghe thường phát xuất từ một ý thức lành mạnh về chính các giới hạn và thiếu sót của mình. Càng ý thức về những bất toàn của mình, chúng ta càng nhận thấy chúng ta cần lãnh nhận từ người khác. 

Để lắng nghe cần phải có lòng khiêm tốn, vì cái căn bản để mình lắng nghe là người khác chắc chắn có cái gì giá trị để nói, có cái gì đó mà chúng ta có thể được lợi ích.

Nhưng tài năng lắng nghe vượt quá việc chúng ta nghe với đôi tai. Người lắng nghe tốt thực sự cũng nghe với trí não của mình (cởi mở và không kết án), nghe với con tim của mình (nhạy cảm với nhu cầu tình cảm của chính mình và của tha nhân), nghe với đôi mắt của mình (biết cái gì phải lưu ý và cái gì phải bỏ qua), và nghe với xúc giác của mình (cảm nhận khi phải tiến ra và khi phải yên lặng rút lui).  

2. ÂN BAN TÀI NĂNG ĂN NÓI

Điều rất quan trọng là tài năng lắng nghe cần một người bạn đồng hành, đó là ân ban tài năng ăn nói. Có lẽ tất cả chúng ta đều có kinh nghiệm sống với người không nói. Tôi không muốn đơn giản ám chỉ một người tự nhiên kín đáo hay trầm lặng ít nói. Tôi ám chỉ một người thực sự không nói: người bí hiểm, người như ngôi mộ. Những người không nói không bao giờ để cho chúng ta biết được cái gì diễn ra ở sau vừng trán hay trong con tim của họ. Sau khi sống với họ cả năm, hay ngay cả hai mươi năm trời, cho đến bây giờ chúng ta hầu như chẳng biết được gì về tư tưởng hay cảm nhận cá nhân của họ, cả loại bánh họ thích hơn cũng không, nói chi đến những gì họ nghĩ tưởng hay cảm nhận về tình trạng đời tu hiện nay.  

Những cộng đoàn lành mạnh cần đến những cá nhân sẵn sàng và có thể nói cách cởi mở. Chúng ta cần những con người có can đảm và tình thương để đặt vài ý tưởng của họ (nếu không phải là tất cả) ra trong cộng đoàn để được đánh giá, chắc chắn không phải để biết các ý tưởng của họ được hoan nghênh, bị tấn công hay bị bỏ vào quên lãng. 

Chia sẻ như thế có thể đưa đến những rủi ro. Những gì chúng ta nói có thể không phù hợp hay không đúng. Lời nói của chúng ta có thể làm tổn thương ai đó, hoặc làm cho ai đó nổi giận hoặc không thoải mái. Và những gì chúng ta nói luôn có thể bị hiểu lầm. Nhưng những lợi ích phát sinh do điều nói lên với người khác sẽ lớn hơn xa tất cả các rủi ro kia. Bất chấp những hậu quả và khó khăn, ngôn ngữ là phương tiện tốt nhất cho đến nay để truyền thông với người khác, và nhờ vậy mà làm thêm mạnh mẽ các mối ràng buộc hiệp nhất chúng ta lại với nhau.

Nhưng truyền thông là sinh tử, không phải chỉ vì nó là một phương tiện trao đổi các ý tưởng và cảm nhận, mà còn hết sức quan trọng cho cộng đoàn chung sống vì nó nuôi dưỡng các nhân đức kitô khác. Truyền thông xây dựng niềm tin cậy. Truyền thông còn giúp chúng ta làm sáng tỏ các tư tưởng và cảm nhận của chính chúng ta, đem lại can đảm và làm dịu đi cảm giác cô độc của chúng ta (đau đớn nhất là nỗi cô đơn giữa cộng đoàn đông người). Thật đáng mừng là ngày nay nhiều cộng đoàn đã đầu tư nhiều thời gian đáng kể và nghị lực để học và thăng tiến các kỹ năng truyền thông. Đó là một đầu tư khôn ngoan. 

3. ÂN BAN TÀI NĂNG NHẠY CẢM    

Một số người trong chúng ta có thể nghĩ rằng sự nhạy cảm là thánh giá hơn là ân ban. Họ nói: “Nếu tôi không quá nhạy cảm như thế thì có lẽ tôi đã không quá bị tổn thương vì những lời của chị ấy” hoặc “Nếu tôi đã không quá nhạy cảm thì tình huống đã không làm tôi quá bực mình như thế.”   

Mặc dù tính nhạy cảm có thể gây nên cho chúng ta nỗi đau lớn như vậy, nó vẫn là một ân ban quí báu và trong thời gian dài liên tục nó sẽ làm cho cộng đoàn chung sống trở nên tốt hơn (“Đi lâu mới biết đường dài, ở lâu mới biết con ngài phải chăng”). Quả thật, hầu hết điều tốt lành đã được thực hiện trên thế giới là kết quả trực tiếp của sự nhạy cảm của một người nào đó. Chẳng hạn việc thiết lập một cộng đoàn tu thường là kết quả của sự nhạy cảm của một cá nhân đối với nhu cầu của những người khác.

Tính nhạy cảm quan trọng vì nó cũng là mầm móng phát sinh của tất cả những nhân đức căn bản khác như lịch sự, thiện cảm, thấu hiểu, nhẫn nại, cảm thông. Trái lại, sự thiếu nhạy cảm có thể sản sinh ra sự khiếm nhã, ác cảm, ích kỷ, tiên kiến và ngay cả bạo lực. 

Trong cuốn sách Sống Cùng Nhau Trong Cộng Đoàn, Carlos Valles nói về tính nhạy cảm như sau: “Nhạy cảm là nghệ thuật của cái nhỏ. Không phải những hy sinh lớn, những kế hoạch cao, những giải pháp anh hùng, mà đúng là những chú ý nhỏ mọn, những chi tiết dễ thương, lời nói thích hợp, một cái nhìn, một cuộc thăm viếng, một tiếp xúc.” 

4. ÂN BAN TÀI NĂNG KIÊN TRÌ

(“Cần cù bù thông minh”) 

Ân ban kiên trì gây được nhiều tín nhiệm bởi vất vả làm việc. Người ta giả thiết rằng Michelange lần kia đã nói “Nếu người ta biết tôi đã phải làm việc vất vả thế nào để đạt được sự thành thạo của tôi thì sự việc có lẽ chẳng xem ra kỳ diệu như thế đâu!” 

Ân ban tài năng để làm việc vất vả và kiên trì như thế cũng là một ân ban tốt phải có ở trong cộng đoàn. Người năng nổ, làm việc hăng say, sẵn sàng chia sẻ gánh nặng đem lại niềm vui cho người khác để sống với họ. Những người làm việc giỏi không sợ khi phải bắt đầu một công việc. Và quan trọng hơn là họ không sợ hoàn thành công việc đó cho đến cùng. 

5. ÂN BAN TÀI NĂNG KHẲNG ĐỊNH MÌNH LÀ AI.            

Có một câu chuyện cũ về một rabbi đã cầu nguyện rằng “Lạy Chúa, xin làm cho con nên thánh thiện! Xin làm cho con nên giống Mosê!” Ông ngừng lại rồi nghe Chúa trả lời “Sao Ta lại cần phải có một Mosê khác làm chi! Ta đã có một Mosê rồi! Nhưng cái mà Ta thực sự có thể sử dụng là ngươi.”  

Câu chuyện nói lên một chân lý sâu xa. Nó nhắc cho chúng ta rằng Chúa không cần dòng vô tính, kể cả dòng vô tính của các vị đại thánh của Ngài. Đúng ra Chúa cần những nguyên bản độc đáo, một trong các loại, tắt lại là chị và tôi. Và chúng ta sẽ mang lại cho Chúa niềm vui và vinh quang lớn nhất khi chúng ta là những cá nhân duy nhất mà Chúa kêu gọi chúng ta trở thành.  

Có một mối nguy hiểm vốn có khi sống trong cộng đoàn: đó là chúng ta có thể trở nên quá giống nhau. Các thành viên khác của cộng đoàn có thể giẫm bẹp tính cách riêng của chúng ta, hoặc là chính chúng ta có thể bắt đầu phản bội lại tính cá biệt duy nhất của chúng ta để thích hợp với nhóm.  

Người ta nói rằng các đôi vợ chồng sau nhiều năm bắt đầu xem ra giống nhau. Đúng như thế, vì sau nhiều năm, họ có thể một cách vô ý thức chấp nhận sắc mặt diễn tả của nhau, các kiểu cách, ngôn ngữ và sở thích của nhau, và như thế càng ngày họ càng trở nên giống nhau.  

Một cái gì tương tự có thể xảy ra trong cộng đoàn tu trì. Sự nhân nhượng lẫn nhau của cuộc sống chung cách không may có thể làm giảm thiểu tính cách riêng của chúng ta thành cái mẫu số chung thấp nhất. Chúng ta có thể bắt đầu nhìn thấy, suy nghĩ và hành động giống nhau, và như thế làm mờ nhạt đi sự phong phú của đặc tính duy nhất của chúng ta nhân danh các giá trị như sự bình an, tính hữu hiệu và ngay cả vì chính cộng đoàn. 

Phải giữ tỉnh táo và nghị lực để vẫn duy trì là một cá vị trong khi sống trong một nhóm. Cũng phải xác tín rằng chính tính cách riêng tư của chúng ta nâng cao cộng đoàn trong đó chúng ta sống. Quả vậy, nếu chúng ta thành thật, chúng ta sớm nhận ra rằng chúng ta không muốn sống với những người quá giống chúng ta, có thể so sánh như sống trong một cái hộp gương phản chiếu lại hình ảnh của chúng ta.  

Chúng ta vừa thách đố vừa làm phong phú lẫn cho nhau nhờ tính cách riêng biệt của chúng ta. Có lẽ chúng ta có thể nói thế này: Nếu chúng ta hỏi Chúa “Hoa nào Chúa thích nhất?” Có lẽ Chúa sẽ không nói là hoa hồng, hay hoa phong lan, hay hoa thủy tiên, mà Chúa sẽ nói “Cả bó hoa!”  

Hy vọng cộng đoàn tu sĩ của chúng ta là những bó hoa tuyệt đẹp gồm nhiều loại khác nhau những bông hoa quí giá, duy nhất và hiếm hoi.  

6. ÂN BAN TIN RẰNG CHÚNG TA ĐƯỢC YÊU THƯƠNG    

Victor Hugo đã viết rằng “hạnh phúc tột đỉnh của cuộc sống là xác tín rằng chúng ta được yêu thương.”  

Trong cộng đoàn, những cá nhân nào cảm nhận được sự xứng đáng và tính dễ thương của mình thường là những người rất dễ sống với. Tại sao? Vì một điều thôi, là họ không cần phải chứng tỏ cho những người họ sống với là họ xứng đáng, qua những chiến thuật cũng như những lý luận dai dẳng, cạnh tranh không lành mạnh và nhu cầu kiểm soát thái quá.

Xác tín rằng chúng ta được yêu thương đặt chúng ta thoải mái với người khác và làm cho chúng ta dễ dàng sống với họ. Các thành viên cùng sống trong cộng đoàn với chúng ta có thể gia tăng cảm giác về tính dễ thương của chúng ta là đích thật, nhưng chúng ta không được quá dựa vào họ để cảm thấy mình xứng đáng. Lòng tự trọng của chúng ta cũng có thể lớn lên qua mối tương quan của chúng ta với gia đình và bạn bè của chúng ta ở bên ngoài cộng đoàn, qua sứ vụ của chúng ta, và qua sự kết hiệp thân mật sâu xa với Chúa trong cầu nguyện. 

7. ÂN BAN TÀI NĂNG HÀI HƯỚC    

Một cuộc nghiên cứu chỉ ra rằng một ngày cười một trăm lần tránh được bệnh tim mạch tương đương với mười phút chèo thuyền. Một cuộc nghiên cứu khác lại cho hay người có ý thức hài hước tốt làm việc tốt hơn, có tính cách sáng tạo và uyển chuyển hơn, có khả năng thực hiện các ý tưởng và phương pháp mới.

Chắc chắn rằng cười là tốt cho cả thân xác lẫn linh hồn. Cười làm dịu bớt những căng thẳng của cuộc sống hằng ngày. Cười làm nên mềm mại những sắc cạnh của những cá nhân phải sống với nhau. Vì thế, chúng ta cần tinh thần hài hước. Nó có mặt khắp nơi, trong nơi chúng ta làm việc, trên báo chí, trên truyền hình, trong nhà thờ, trong hiệu buôn, trong gia đình chúng ta, và trong cộng đoàn địa phương của chúng ta. Việc nỗ lực tìm kiếm hài hước gia tăng cơ may cho chúng ta gặp được nó.

Một cách khác để trau dồi ý thức hài hước là bằng cách nới rộng ra các viễn ảnh của chúng ta trên cuộc sống. Một tình trạng căng thẳng không phải là lúc bông đùa, nhưng về sau, khi chúng ta dừng lại và nhìn lui nó với một viễn ảnh rộng lớn hơn, chúng ta có thể bắt đầu khám phá được vài nét hài hước trong đó.

Chúng ta cũng có thể nuôi dưỡng tinh thần hài hước bằng những cách khác, như đọc chuyện khôi hài, sách bông đùa, cắt các bức tranh biếm họa, sắp đặt các tranh quảng cáo ngộ nghỉnh, lướt qua những bài viết khôi hài, để thời giờ chòng ghẹo một ai đó hay trêu đùa người ấy. Khi chúng ta sống trong những thời khắc khó khăn, một cảm thức hài hước trở thành gần như cần thiết. Hài hước cũng liên kết mật thiết với đức tin, vì nó giúp chúng ta tin tưởng vào sự khéo léo và tình thương của Chúa hơn là tin tưởng vào các kỹ năng và sự thành thạo của chúng ta.

Đó là bảy ân ban tài năng có thể giúp cho cuộc sống chung được dễ dàng. Một cá nhân không cần phải có tất cả bảy ân ban đó để trở nên một người tốt trong cộng đoàn. Không ai trong chúng ta được độc quyền về các ân ban tài năng. Mỗi người trong chúng ta sở hữu được một số ân ban tài năng nào đó và thiếu những ân ban tài năng khác. Nhưng chính nhờ đó mà có nét đẹp của việc sống chung với nhau. Tôi có thể có một ý thức hài hước tốt, nhưng tôi lại cần đến tính nhạy cảm của chị. Chị có thể lắng nghe tuyệt vời, nhưng chị lại cần ân ban tài năng của tôi để nói ra lưu loát những gì chị suy nghĩ. Nói cách khác, ân ban tài năng của người này đổ đầy sự thiếu sót của những người khác.

Nhưng chúng ta không được chước miễn khỏi việc phát triển một số ân ban tài năng mà tự nhiên chúng ta không có được. Tất cả mọi ân ban tài năng đã được nêu trên phải được học hỏi và trau dồi, nếu chúng ta muốn. Hãy nhớ lại câu chuyện của Michelange.

Và cũng hãy nhớ lại Chúa Giêsu. Rõ ràng Ngài cho thấy tầm quan trọng của những ân ban tài năng này bằng cách bộc lộ chúng ra trong chính cuộc sống của Ngài. Chúa đã lắng nghe tuyệt vời những tiếng kêu lớn giọng cũng như những tiếng kêu không lời ở chung quanh Ngài. Ngài đã làm phép lạ đáp lại tiếng kêu xin công khai của mười người phung cùi, cũng như nỗi lo âu không lời của người đàn bà góa ở Naim.

Chúa Giêsu đã nói cách rõ ràng và hùng biện. Ngài đã phát ra những bài giảng tuyệt diệu, đã nói những câu chuyện không thể quên được, và Ngài đã thẳng thừng lên án những kẻ giả hình và biệt phái. Đồng thời Ngài đã nói riêng điều bí mật cho các tông đồ, thích thú những câu chuyện riêng tư với các bạn thân tín, và thường xuyên sống thân mật với Chúa Cha trong kinh nguyện. Ngài đã liều mình mạc khải những điều Ngài tin và cảm nhận với những người khác và đã chịu đóng đinh thập giá vì điều đó.

Chúa Giêsu rất nhạy cảm: Khi người đàn bà bị bệnh loạn huyết chỉ chạm đến áo ngoài của Ngài mà Ngài cũng cảm nhận được nó. Khi người đàn bà góa bỏ hai đồng xu vào kho tàng đền thờ, Ngài cũng để ý thấy. Khi khách của ông Simon lẫm bẫm chống lại người đàn bà đã xức dầu thơm cho Chúa, Ngài cũng nghe thấy hết.

Chúng ta có thể kết thúc suy niệm về các ân ban tài năng này bằng một lời cầu nguyện ngắn:

“Lạy Chúa là Đấng ban phát mọi ân ban tài năng, Chúa đã ban cho chúng con nhiều ân ban tài năng để sống chung với nhau – ân ban tài năng lắng nghe, ân ban tài năng ăn nói, nhạy cảm, kiên trì, là duy nhất, tin tưởng vào tính dễ thương và tinh thần hài hước. Xin làm cho chúng con càng ngày càng ý thức về những ân ban tài năng mà chúng con đã sở hữu, và xin giúp chúng con phát triển các ân ban tài năng mà chúng con còn cần đến. Xin cho chúng con biết quí trọng hơn các ân ban tài năng của chúng con, cũng như các ân ban tài năng của những cá nhân mà chúng con sống và làm việc với. Chúng con cảm tạ Chúa về tất cả những ân ban tài năng này nhân danh Chúa Giêsu, quà tặng lớn nhất của Chúa. Amen.”

C. CỘNG ĐOÀN CẢM THÔNG       

I. MỜI GỌI CẢM THÔNG 

Phúc cho ai thương xót người vì họ sẽ được xót thương” (Mt 5:7): Chúa Giêsu đã hứa rằng vì họ cảm thông nên họ sẽ nhận được lòng thương xót. 

Một người không cảm thông thì lạnh lùng, vô cảm “sống bên nhau mà như nước mây hững hờ…” Một người như vậy không thể đồng cảm với người khác, không thể thấu hiểu cái gì xảy ra trong họ và cho họ.  

Sự vô cảm đưa tính ích kỷ và chỉ chăm lo bản thân đến độ thái quá (tự say mê mình, narcissisme: “tôi mê tôi”). 

Trái lại, sự cảm thông đưa người ta đến với người khác và đồng cảm với họ (x. Đôi bạn Quản Trọng và Bảo Thúc Nha). 

Cảm thông bao gồm khả năng nhận biết, kể cả tưởng tượng ra, hoàn cảnh thực tế của tha nhân.

Phim truyện, truyền hình và bây giờ các thực tế ảo của máy tính có thể đánh động trí tưởng tượng và các cảm nhận ở một mức độ sâu xa.

Người xem có thể bật khóc khi nghe những lời cuối cùng của Jeanne d’Arc trên giàn lửa thiêu. Ai cũng cảm phục câu trả lời khôn khéo của ngài: “Nếu tôi không có ơn nghĩa Chúa, xin Chúa dẫn tôi vào; nếu tôi đang sống trong ơn nghĩa Chúa, xin Chúa giữ gìn cho tôi.”

Tuy nhiên, việc phơi bày nỗi đau khổ của người khác có thể có phản tác dụng, chẳng hạn người xem có thể trở nên nhẫn tâm trước những điều trông thấy và bỏ đi. 

Những hình ảnh truyền hình về chiến tranh, bạo lực trên trẻ em và phụ nữ động viên những người này chống chiến tranh, nhưng cũng có thể đóng lòng trí những người khác lại trước thực tế thương tâm ấy, kể cả phủ nhận nó và coi nó như là một cuốn phim đã được dàn dựng nên.  

II. CẢM THÔNG VÀ CÔNG BẰNG 

Thấy được mối liên hệ giữa cảm thông và công bằng, và biết rằng nếu không có cảm thông thì không thể sống cách công bằng được là điều quan trọng: tỏ sự bất bình và can thiệp khi người lớn bắt nạt trẻ nhỏ, người mạnh ăn hiếp người yếu… ‘KIẾN NGHĨA BẤT VI BẤT NGHĨA” 

Do đó, việc lấy lại được cảm thức thương xót và coi nó như căn bản của bất cứ cảm thức luân lý và công bằng nào là điều rất quan trọng.  

Cảm thông là tâm điểm của công bằng đích thực.

Nếu chúng ta nhìn thấy những người chung quanh chúng ta đau khổ mà kết luận là "do lỗi của chính họ", và nếu chúng ta nghe các nhà chính trị nói về sự cân bằng ngân sách trên lưng người lao động (người nghèo) mà vẫn thản nhiên, thì chúng ta đã đánh mất, không chỉ cảm thức cảm thông, mà còn đánh mất cả cảm thức của chúng ta về công bằng nữa.  

Khi nghe có kẻ nói "Tại sao đồng tiền của người khó nhọc làm việc lại phải giúp cho những kẻ biếng nhác?", chúng ta phải thấy là “không ổn” vì không những lời nói đó có thể dựa trên những thông tin sai lầm, mà còn đánh giá thấp những người đau khổ, trẻ em, người già, thất nghiệp (x. dụ ngôn người làm từ giớ thứ 11), và tạo nên hố sâu giữa chúng ta và những người đang phải đau khổ.  

Lời kêu gọi công bằng không phải là việc của một chọn lựa, song đúng hơn là việc của trách nhiệm.  

Đó là một lời mời gọi căn bản đối với nhân tính.

Dù được các tôn giáo kêu gọi và hỗ trợ, công bằng tự nó thuộc bản chất của nhân tính. Ngay cả trẻ con cũng nhận ra cái gì là công bằng và cái gì là không công bằng, và chống lại những việc bất công.  

Cái dễ làm cho chúng ta trở nên bất nhân đối với nhau chính là khuynh hướng thiết lập sự đối chọi "chúng ta - chúng nó."

Nếu chúng ta nhìn mình đối nghịch với tha nhân thì càng dễ trở nên độc ác hơn nữa. 

III. TRỌNG TÂM ĐỜI SỐNG CỘNG ĐOÀN 

Một thực tế vừa phát triển vừa suy tàn trong thế giới hiện đại là khát vọng sống cộng đoàn, bởi vì thực tế đời sống cộng đoàn (sống hiệp nhất với) bị áp đảo bởi nhu cầu cá nhân bảo vệ chính mình (cá nhân chủ nghĩa). 

Sống cộng đoàn có nghĩa là hợp nhất với nhau và cam kết trả cái giá của sự hợp nhất ấy: sẵn sàng cống hiến sự trợ giúp cũng như sẵn sàng tìm kiếm sự trợ giúp.  

Có một sự hỗ tương trong cộng đoàn đòi hỏi cả hai, vừa trao ban vừa lãnh nhận: Cộng đoàn không thể tồn tại nếu không có sự hiểu nhau và lòng cảm thông.  

Mỗi thành viên được kêu gọi giúp đỡ chính mình, giúp đỡ người khác và để người khác giúp đỡ mình. 

Cộng đoàn cảm thông phải được ưu tiên xây dựng trên lòng tín nhiệm và mối tương quan. Công trình này phải được thực hiện bởi các nỗ lực cá nhân và nhóm.  

Hạt giống đã được gieo sâu vào văn hóa nhân bản (con người là con vật có tính xã hội cao), nhưng cần phải được nuôi dưỡng, nhất là vào thời điểm mà lòng cảm thông và nếp sống cộng đoàn bị đe dọa bởi sự tự vun quén cho bản thân của một số người.

Chúng ta cần được chuyển vào một giai đoạn liên đới quan trong của lịch sử con người. Nhu cầu đã tạo nên những khả năng để phát triển một thực tại dân sự mới, trong đó người ta đáp ứng nhu cầu của tha nhân mà không nhận thấy rằng lợi ích của nhiều người được gắn liền với lợi ích của chính họ, và ngược lại.  

Nhiều người viết và nói đến giá trị của một “xã hội tốt đẹp” phối hợp lợi ích cá nhân với ý thức cộng đồng. Chúng ta thấy gương của những người đã kinh nghiệm một biến đổi nội tâm khiến họ chìa tay ra cứu giúp những người đang gặp khó khăn. Các nhóm tình nguyện là một tuyên bố hùng hồn rằng khi chúng ta chăm sóc những người khác là chúng ta giúp đỡ chính chúng ta, không ít hơn những ai chúng ta cứu giúp.  

Thời đại mới đòi hỏi những cơ cấu mới phục vụ công ích.   Nếu chúng ta muốn phát triển những cơ cấu như thế, chúng ta sẽ cần đến những con người có quan tâm và khả năng thực hiện những quan niệm mới và những chương trình hành động mới.

Do đó, ta cần không ngừng đổi mới quan niệm, cách nhìn, cách nghĩ, cách hành động, cách sống và cách yêu thương. Lòng cảm thông là cái cần phải có để mang lại sự đổi mới các yếu tố cộng đoàn rất cần thiết cho ngày hôm nay. Các cơ cấu nhân bản cần được trở về với một thực tại cảm thông hơn và chú tâm tới đời sống cộng đồng. 

Cảm thức tùy thuộc lẫn nhau phải là tâm điểm của bất cứ cộng đoàn đích thực nào. Người ta không thể quay lưng lại với nhau: cùng đi trên một chiếc thuyền, để thuyền chìm thì cùng chết tất cả. Nhưng tinh thần thuộc về nhau này bị đánh mất vì cái tôi chủ nghĩa, và những hình thức bạo động chống đối và loại trừ lẫn nhau.  

Cộng đoàn cảm thông vận hành một cách đúng đắn rõ ràng là nhu cầu thiết yếu cho thế giới hiện tại. Chính cộng đoàn cảm thông và công bằng làm cho hành trình thiêng liêng của chúng ta càng ngày càng tiến bộ.  

IV. LÒNG CẢM THÔNG VÀ LẦM LỖI CỦA NGƯỜI KHÁC  

Chúng ta đừng quên tiến trình chỉ bảo huynh đệ để sửa chữa lầm lỗi của người khác mà Chúa Giêsu dạy trong Phúc âm Mt.18, 15-17. 

“Nếu anh chị em ngươi trót phạm tội, thì hãy đi sửa lỗi nó, riêng ngươi với nó thôi. Nếu nó nghe ngươi, ngươi đã lợi được người anh chị em. Nếu nó không nghe ngươi, ngươi hãy kèm theo một/hai người nữa, để tất cả công việc được đoán định do miệng hai/ba nhân chứng. Nếu nó không màng nghe họ, hãy thưa với cộng đoàn…”  

Một người có thể phạm lỗi cố tình hay vô tình, biết rõ hay không biết gì. Người có trách nhiệm có thể có hai thái độ hành xử:

-          hoặc là phòng bệnh,

-          hoặc là chữa bệnh.

Người cảm thông phòng bệnh đi bước trước, ngăn ngừa những ảnh hưởng tác hại từ bên ngoài, hay dập tắt ngay từ trứng nước cái mầm bệnh từ bên trong, để lỗi lầm không thể xảy ra.

Như người làm nông năng thăm vườn cây, khi phát hiện cây bị sâu bệnh liền phun thuốc diệt sâu bệnh hại cây, người cảm thông đón trước, khuyến cáo ngay lỗi lầm có thể, ngăn ngừa các ảnh hưởng và nguyên nhân từ bên ngoài, hay những yếu đuối từ bên trong thân phận con người.  

Người cảm thông tin tưởng vào sự biến đổi tốt đẹp trong tương lai, cho người phạm lỗi biết lỗi, lắng nghe lời giải thích biện hộ, kết luận xác định đúng lỗi lầm, cho đương sự cơ hội và thời gian sửa chữa, và nhẫn nại giúp đương sự tập đức tính ngược lại, hy vọng vào kết quả sẽ có trong tương lai. 

Như dụ ngôn cây vả của Chúa Giêsu: "Người kia có một cây vả trồng trong vườn nho mình. Bác ta ra cây tìm trái mà không thấy, nên bảo người làm vườn: ‘Anh coi, đã ba năm nay tôi ra cây vả này tìm trái, mà không thấy. Vậy anh chặt nó đi, để làm gì cho hại đất?’ Nhưng người làm vườn đáp: ‘Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó. May ra sang năm nó có trái, nếu không thì ông sẽ chặt nó đi’” (Lk 13: 6-9) 

Người thiếu cảm thông mới khám phá thấy lỗi lầm đã có biện pháp ngay, vì óc cầu toàn đòi hỏi và đốt giai đoạn, coi người khác như đã đạt tới trình độ của mình. Thật đáng tiếc! 

Hoặc khá hơn, người thiếu cảm thông sẽ chờ đợi lỗi lầm trở nên rõ ràng để có biện pháp, nhất là khi người có lỗi che đậy, giấu giếm vì một lý do nào đó. 

Cũng tùy thái độ ngoan cố và thiếu tinh thần phục thiện của người lầm lỗi, người thiếu cảm thông thường âm thầm theo dõi, hoặc tệ hại hơn, (ngược với sư phạm giáo dục đích thực), đặt người theo dõi và báo cáo, có khi còn “gài bẩy” cho mắc phải để đương sự không thể cãi lại, chữa mình hay chối cãi được nữa. 

Một khi người lớn thẳng tay, Chao ôi, ngậm đắng nuốt cay thế nào, Nỗi lòng biết tỏ làm sao, Bất công đành chịu tuôn trào nước mắt, Nhiều phen muốn bỏ đi phắt, Ra sao mặc kệ số dắt số dìu! 

Chớ gì tiến trình chỉ bảo huynh đệ của Chúa Giêsu được thực thi. Cha ông chúng ta cũng từng quan niệm: “Nhân thùy vô quá, hữu quá tắc cãi, thị vị vô quá” (Đã là người thì ai ai cũng đều có lỗi, có lỗi thì sửa lỗi, và như vậy sẽ không còn lỗi nữa) 

Tuy nhiên, để thực hiện lòng nhân ái ấy, chúng ta cần khéo léo sử dụng kỹ năng chỉ bảo huynh đệ “feed-back”, áp dụng vào Đào tạo và Tự đào tạo, cả về chiều dọc lẫn chiều ngang. 

Người và ta, trên và dưới gặp được nhau, đối thọai được với nhau, hiểu được nhau trong mọi quan điểm thì mọi việc đều được giải quyết dễ dàng và tốt đẹp. Tiến trình này sẽ dễ dàng hơn khi cùng nhận ra hoạt động của Thiên Chúa xuyên qua các biến cố thăng trầm của cuộc đời. Gương David khiêm tốn nhận ra chương trình của Chúa trong cơn hoạn nạn chạy trốn khỏi chính con trai của mình: “Người đưa tin đến nói với vua Đavít: ‘Lòng người Ít-ra-en đã theo Áp-sa-lôm.’ Vua Đa-vít bảo toàn thể triều thần ở với vua tại Giê-ru-sa-lem: ‘Đứng lên! Chúng ta chạy trốn đi, vì chúng ta sẽ không thoát được Áp-sa-lôm. Đi cho mau, kẻo chẳng mấy chốc nó đuổi kịp chúng ta, giáng tai hoạ xuống chúng ta và dùng lưỡi gươm giết dân thành.’ Vua Đa-vít lên dốc Cây Ô-liu, vừa lên vừa khóc, đầu trùm khăn, chân đi đất, và toàn dân đi với vua ai cũng đầu trùm khăn, vừa lên vừa khóc. (2 Sm 15,13-14.30) 

“Khi vua Đa-vít đến Ba-khu-rim thì kìa có một người từ đó đi ra. Y thuộc cùng một thị tộc với nhà Sa-un, và tên là Sim-y, con ông Ghê-ra. Y vừa đi ra vừa nguyền rủa. Y ném đá vào vua Đa-vít và tất cả bề tôi vua, mặc dầu có toàn thể quân đội và toàn thể các dũng sĩ ở bên phải và bên trái vua. Sim-y nói thế này trong lời nguyền rủa của y: ‘Cút đi, cút đi, tên khát máu, thằng vô lại! Đức Chúa đã đổ xuống đầu mày tất cả máu của nhà Sa-un, người đã bị mày chiếm ngôi, và Đức Chúa đã trao vương quyền vào tay Áp-sa-lôm, con mày. Và này, mày phải tai hoạ, vì mày là tên khát máu!”(2 Sm 16, 5-8) 

“Ông A-vi-sai, con bà Xõ-ru-gia, thưa với vua: ‘Tại sao thằng chó chết này dám nguyền rủa đức vua là chúa thượng tôi? Xin cho tôi qua chặt đầu nó!’ Vua nói: ‘Chuyện của ta can gì đến các ngươi, hỡi các con bà Xõ-ru-gia? Nếu nó nguyền rủa và nếu Đức Chúa bảo nó: ‘Hãy nguyền rủa Đa-vít’, thì ai dám hỏi: ‘Tại sao mày làm nhý thế?’ Vua Đa-vít nói với ông A-vi-sai và tất cả bề tôi: ‘Này con trai ta, do chính ta sinh ra mà còn tìm hại mạng sống ta, huống chi là tên Ben-gia-min này! Cứ để nó nguyền rủa, nếu Đức Chúa đã bảo nó. May ra Đức Chúa sẽ đoái nhìn đến nỗi khổ cực của ta và Đức Chúa sẽ trả lại cho ta hạnh phúc, thay vì lời nguyền rủa của nó hôm nay.”  (2 Sm 16: 9-12)

V. CỘNG ĐOÀN VÀ ĐƯỜNG LỐI CẢM THÔNG

“Hãy trắc ẩn như Chúa hằng động lòng trắc ẩn” (Lk 6,36) 

Người thời nay nhấn mạnh đến quyền lực kinh tế và sự thống trị chính trị. Nhiều ngýời lãng quên giáo huấn trọng tâm của Chúa Giêsu: “Anh chị em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh chị em”  

Cuộc sống chúng ta cách nào đó xa lạ với Chúa Giêsu, Đấng đã bước đi giữa dân chúng, chữa lành người ốm đau, nuôi ăn người đói khát, tha thứ cho người ngoại tình bị bắt, và dạy luật mới của tình yêu: yêu nhau như Chúa yêu, và yêu cả kẻ thù.  

Cộng đoàn chúng ta phải làm chứng tá cho các giá trị Phúc âm như con đường canh tân cuộc sống và các mối tương quan, và truyền lại sức sống ấy cho thế giới đã lạc đường hay có lẽ đã “bán quyền trưởng nam đổi lấy bát cháo.”  

Việc khám phá ra và thực sự sống sự phong phú của đời sống tu đức giúp chúng ta đạt tới một ý thức được canh tân về một cộng đoàn cảm thông và công bằng.  

Tu đức nhắc nhở chúng ta rằng yếu tố quan trọng nhất của cuộc sống trên trần gian này được nối kết sâu xa với một cái gì lớn hơn thế giới này, tức Nước vĩnh hằng của Thiên Chúa, và ta phải nỗ lực thiết lập một nền tảng vững chắc cho một cộng đoàn nhân ái, cảm thông và công bằng, vốn là dấu chỉ và chứng tá của Nước Trời. 

Kinh Thánh luôn nói đến tầm quan trọng của việc chăm sóc người nghèo, người đau khổ, cô nhi quả phụ, người đau ốm. Và cám õn Chúa, đó là một nét nổi bật của đạo Công giáo chúng ta.

Đối với Chúa Giêsu, lòng cảm thông trắc ẩn là phẩm chất nồng cốt trong đời sống của bất cứ ai lấy Chúa làm trọng tâm để bắt chước: “Hãy có lòng trắc ẩn như Cha trên trời hằng động lòng trắc ẩn” (x. Lk 6:36) - “Vui với người vui, khóc với người khóc” (Rm 12:15). 

Sự bắt chước Chúa này vượt quá đầu óc duy lý của con người trần gian. Việc bắt chước Chúa Giêsu chú trọng tới cảm nhận nỗi đau của người khác, khiến chúng ta phải ra tay làm một cái gì để làm nhẹ bớt nỗi đau khổ đó. Việc cảm nhận lòng thương xót dẫn chúng ta đến từ tâm trong hành động.  

“Ngày sabát kia, Đức Giêsu giảng dạy trong một hội đường. Ở đó, có một phụ nữ bị quỷ làm cho tàn tật đã mười tám năm. Lưng bà còng hẳn xuống và bà không thể nào đứng thẳng lên được. Trông thấy bà, Đức Giêsu gọi lại và bảo: "Này bà, bà đã được giải thoát khỏi tật nguyền! " Rồi Người đặt tay trên bà, tức khắc bà đứng thẳng lên được và tôn vinh Thiên Chúa. Ông trưởng hội đường tức tối vì Đức Giêsu đã chữa bệnh vào ngày sabát. Ông lên tiếng nói với đám đông rằng: "Đã có sáu ngày để làm việc, thì đến mà xin chữa bệnh những ngày đó, đừng có đến vào ngày sabát!“ Chúa đáp: "Những kẻ đạo đức giả kia! Thế ngày sabát, ai trong các người lại không cởi dây, dắt bò lừa rời máng cỏ đi uống nước? Còn bà này, là con cháu ông Ápraham, bị Xatan trói buộc đã mười tám năm nay, thì chẳng lẽ lại không được cởi xiềng xích đó trong ngày sabát sao?" Nghe Người nói thế, tất cả những kẻ chống đối Người lấy làm xấu hổ, còn toàn thể đám đông thì vui mừng vì mọi việc hiển hách Người đã thực hiện” (Lk 13,10-17)

Chúa Giêsu kể câu chuyện vị tư tế và trợ tế đã tránh đi qua bỏ mặc người bị nạn trên đường Giêricô, trong khi người Samaritanô đã băng bó vết thương, mang vào quán trọ cứu giúp và trả tiền chăm sóc cho người ấy. Ngài đã coi người không bỏ đi là mẫu gương của người cảm thông. 

Theo Chúa Giêsu, cộng đoàn nào bỏ đi khỏi người đang có nhu cầu nhất liều mình làm cho Chúa không hài lòng. “Kẻ nào áp bức người nghèo là lăng mạ Đấng dựng nên mình, còn kẻ nào tốt với người quẩn bách là tôn vinh Thiên Chúa” (Cn 14,31)  

Chúa Giêsu nhận cho sứ mệnh mình câu định nghĩa của Isaia: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Ngài đã xức dầu sai tôi loan báo Tin mừng cho người nghèo khó, giải thoát kẻ tù đày, cho người mù được thấy, trả tự do cho người bị áp bức, công bố năm hồng ân của Thiên Chúa” (Lk 4, 18-19). 

Sự công chính đích thực mà Chúa mời gọi đòi hỏi một đáp trả sâu xa và cảm thông, hơn là một sự công bằng đơn thuần. Và thường chúng ta không đạt tới những đòi hỏi của Chúa.  

Còn tệ hơn nữa là biết rõ những gì Chúa đòi hỏi, nhưng lại làm hỏng lời mời gọi đó bằng cách rao giảng và sống một sứ điệp thiếu cảm thông, thiếu ân cần đối với người nghèo, dù có nói là Giáo Hội ưu tiên chọn đứng về phía người nghèo, người bị bỏ quên, người quẩn bách, người đứng bên lề, người bị áp bức, người không có tiếng nói…

“Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Người là Cha giàu lòng từ bi lân ái, và là Thiên Chúa hằng sẵn sàng nâng đỡ ủi an.             Người luôn nâng đỡ ủi an chúng ta trong mọi cơn gian nan thử thách, để sau khi đã được Thiên Chúa nâng đỡ, chính chúng ta cũng biết an ủi những ai lâm cảnh gian nan khốn khó” (2 Cr 1,3-4) 

VI. CÔNG BẰNG BÊN TRONG CỘNG ĐOÀN CẢM THÔNG    

“Hỡi dân Ta, Chúa đã tỏ cho ngươi biết cái gì là tốt, và cái gì Chúa đòi hỏi ngươi, nếu không phải là thực thi công bình, đối xử tốt với nhau và khiêm tốn bước đi cùng Chúa” (Mica 6:8)  

Trong đời sống phục vụ với tư cách là tu sĩ, nhiều việc chúng ta cho là bác ái, nhưng kỳ thực là việc của đức công bằng: chăm sóc một thành viên bị ốm thuộc về công bằng, chăm sóc một cụ già hàng xóm neo đơn… thuộc về bác ái. 

Suy tư về từ ngữ bác ái và công bằng, chúng ta nhận thấy mỗi chữ có một cảm nhận khác nhau.

Khi nghĩ tới bác ái, cái đến ngay trong trí chúng ta là những công việc của lòng từ tâm phát ra từ sự giàu có dư dật hay những cảm nghĩ cao thượng của chúng ta. Những việc này chúng ta không bị bó buộc phải làm, nhưng vì chúng ta động lòng.  

Điều này cho chúng ta thấy hậu quả của lòng cảm thông trắc ẩn. Bị động lòng vì đau khổ của người khác, chúng ta làm một việc bác ái, nghĩa là chúng ta làm một việc gì đó không đòi hỏi chúng ta bị bó buộc phải làm. 

Công bằng là một cái gì đi trước bác ái. Chúng là hai chị em ruột. Thiên Chúa rất công bằng, nhưng từ bi thương xót và hay tha thứ: Loài người phạm tội phải chết, nhưng Chúa đến cứu độ. 

Công việc chữa lành không phải là bác ái, vì dân chúng có quyền có sức khoẻ và được giúp đỡ trong khi đau ốm. Cho người đói ăn là cho họ cái mà họ có quyền là của họ.  

Sự sống, tự do và tìm kiếm hạnh phúc là quyền mà người dân phải có. Nhưng họ không thể có được những thứ đó, nếu họ không có lương thực, nhà ở, sức khoẻ, việc làm và giáo dục. Và Nhà Nước có bổn phận phải cung cấp cho họ. 

Một xã hội đúng đắn nhìn nhận một số quyền căn bản mà tất cả mọi người đều được hưởng. Dân chúng thường coi hệ thống trợ cấp như một thứ quỹ có thể được tiếp tục hay bị cắt bỏ vì nó là một hình thức bác ái của nhà nước. Nhưng không phải như vậy đâu. 

Kỳ thực, đó là một trong những đường lối mà Nhà Nước chu toàn các yêu sách về công bằng đối với dân chúng của mình. Mọi người đều có một đòi buộc về công bằng. 

Hành động một cách đúng đắn là một đặc tính của một con người tốt cũng như của một xã hội tốt. Một người công bằng không chỉ trực tiếp quan tâm đối với cộng đồng gia đình mình, nhưng cũng đối với cộng đồng rộng lớn hơn là quốc gia và Giáo hội, có thể trải rộng ra cả thế giới.  

Sống công bằng là một thách đố.

Người ta quan tâm đến người nghèo, cô nhi quả phụ, và người đau ốm vì đức công bằng đòi hỏi như vậy. Dù chúng ta chấp nhận hay không, bác ái có một yếu tố là làm cái gì chúng ta có khả năng, hay do lòng tốt của chúng ta, nếu chúng ta có thời gian rảnh rỗi hay tiền bạc dư thừa.

Trái lại, công bằng đòi hỏi chúng ta làm tất cả những gì chúng ta phải  làm, bất kể cái giá phải trả. Như một phần thiết yếu của cuộc sống tốt, đức công bằng là mối quan tâm và trách nhiệm của mỗi người chúng ta.  

Công bằng là một lời mời gọi cá nhân, dựa trên tình nhân loại, và cũng là một đức tính cần thiết của các cơ cấu tốt, hệ thống tốt và chính quyền tốt.

Nếu chúng ta không công bằng trong cuộc sống và hoạt động của chúng ta, nếu chúng ta không có những hệ thống tốt, và nếu chính phủ của chúng ta không thực thi chức năng của mình cách công bằng với tất cả mọi người, thì bác ái trở nên một trợ lực thiết yếu bù đắp cho một thực tế bất công của thế giới quanh chúng ta.  

Trải qua lịch sử nhân loại, đã có những thời kỳ đức công bằng rất yếu nên vai trò của bác ái trở nên thiết yếu. Thường công việc bác ái của các Giáo Hội, của những hiệp hội thiện nguyện, của những người thiện chí cố gắng bù đắp cho những bất công của chính phủ và của thế giới thương mại.

Cái khó khăn là chỉ có bác ái không thể bù đắp cho những bất công trên mức độ rộng lớn. Do đó cần có tiếng kêu của các liên minh vì công bằng. Công bằng và cảm thông phải cùng nhau hành động. Chúng ta bịt mắt lại với bất công khi chúng ta không thể cảm thông.

Chúng ta có thể khoan dung cho bất công bằng cách tự nhủ rằng “vì họ thích như vậy”, hay “vì họ khác chúng ta”, hay “vì họ không cảm nhận sự việc cùng đường lối với chúng ta”. Chúng ta tách mình ra với tâm thức “chúng ta - chúng nó”. Dù giải thích thế nào đi nữa, chúng ta hỗ trợ cho bất công, và chúng trở nên có lỗi. 

Phải đối mặt với bất công. Chúng ta cần nói với các hệ thống và cơ cấu đã tạo nên các nạn nhân, các người đau khổ vì những bất công căn bản của chúng.  

Chúng ta cũng cần quan tâm đến những người phạm vào bất công vì họ cũng phải gánh chịu hậu quả hành vi của họ, cả khi họ không ý thức rằng họ bị hạ thấp đến mức nào do các chọn lựa của họ.  

Công bằng và bác ái phải sát cánh bên nhau. Công bằng mà không có bác ái có thể trở nên lạnh lùng và vô cảm. Bác ái mà không có công bằng sẽ không thể tiếp cận với hết những ai phải đau khổ. Mọi cá nhân, hiệp hội, chính phủ và các hệ thống đều cần phải vừa công bằng vừa bác ái.

Đòi hỏi đó còn cao hơn đối với cộng đoàn tu sĩ chúng ta, qua chứng tá cá nhân và tập thể cho tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta: “Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con… Cứ dấu này mà thiên hạ nhận biết các con là môn đệ của Thầy là các con hãy yêu thương nhau” ; và đối với thế giới: “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến đỗi ban Con Một Ngài cho thế gian được sống” (Ga 3,16) 

D. CÁC XUNG ĐỘT CỘNG ĐOÀN VÀ CÁCH GIẢI QUYẾT  

Chúa biết rõ các vấn đề của chúng ta hơn chúng ta: “Cha anh em đã biết rõ anh em cần gì, trước khi anh em cầu xin” (Mt 6,8). 

I. CỘNG ĐOÀN LÀ NƠI CÁC THÀNH VIÊN CÓ THỂ GIẢI QUYẾT CÁC XUNG ĐỘT 

Xem ra lạ lùng là cộng đoàn lành mạnh hơn có khả năng có những xung đột, nhưng với định nghĩa: “xung đột là có khác biệt.”

Tuy nhiên, xung đột thường có một ý nghĩa tiêu cực: đụng chạm, kỳ cục với nhau, chống nhau… Nhưng xung đột không cần phải được nhìn trong đường lối tiêu cực này. 

Xung đột có thể được nhìn như một phần của tiến trình sáng tạo. Có thể chị em là thành viên của một nhóm tranh luận, trong đó các tư tưởng và ý kiến có thể xem ra kỳ cục. Tuy nhiên, những người có các ý kiến xung đột không chống nhau, ngay cả khi tư tưởng họ khác biệt nhau. 

Mặc dù những lời nói nảy lửa bay ra, nhưng chị em không sợ, mà vẫn đứng vững. Nhóm trăn trở mong nắm chắc các vấn đề phức tạp đang có. Nếu không có xung đột lành mạnh, tức có các ý tưởng khác biệt nhau, nhóm không thể đạt tới sự hiểu biết đầy đủ vấn đề được.  

Những nhóm có một thái độ thân hữu đối với xung đột sẽ có khả năng sống cộng tác với nhau hơn. Xung đột không đưa tới chiến tranh, nếu nó được hiểu là khác biệt hơn là đối chọi: bất đồng mà không bất hòa.

Khi các thành viên được mời gọi có khác biệt và biểu lộ các khác biệt của mình vì công ích, thì sẽ ít có giận dữ. Một giận dữ lớn nổi lên trong cộng đoàn khi ý tưởng bị hiểu lầm hay phớt lờ đi, chẳng được đếm xỉa tới. 

II. NhỮng đẶc tính cỦa cỘng đoàn giẢi quyẾt tỐt các xung đỘt 

Những cộng đoàn làm tốt với các xung đột có những đặc điểm này:

-          Có một hiểu biết tích cực về sự xung đột: Xung đột là một phần của tiến trình sáng tạo.

-          Đồng ý có khác biệt và giải quyết để yêu thương.

-          Nỗ lực để hiểu biết những khác biệt của nhau.

-          Xem xung đột như một tiến trình khó khăn phải vượt qua, chứ không phải một vấn đề nan giải.

-          Chấp nhận sự giận dữ khi nó nổi lên. Một cách nghịch lý là thái độ chấp nhận của cộng đoàn làm giảm thiểu các cơ hội nổi giận.

-          Có khả năng khoan dung với tình trạng nhập nhằng không rõ ràng, vì khi cho phép có những lập trường khác biệt thì ít cần đến một phương pháp cứng nhắc.

-          Có ý hướng học lắng nghe nhau và lắng nghe Chúa.

-          Có những đường lối chính thức và không chính thức để vượt qua các khác biệt và khẳng định lẫn nhau. 

III. NhỮng đẶc tính cỦa cỘng đoàn có khó khăn vỚi các xung đỘt                           

Những cộng đoàn có những khó khăn đối với các xung đột có các đặc điểm này:

-          Có một thái độ tiêu cực đối với các xung đột: tin rằng xung đột và chiến tranh là như nhau.

-          Không hiểu vai trò của xung đột hay khác biệt trong tiến trình sáng tạo.

-          Chống nhau vì những khác biệt: coi ai cũng như ai, không có khác biệt. Thay đổi coi như mối đe dọa.

-          Coi xung đột như một vấn đề: khả thể có xung đột phải được loại trừ bất cứ khi nào có thể.

-          Không chấp nhận giận dữ: Bởi vì giận dữ không được bộc lộ đầy đủ sẽ trở thành oán giận biểu lộ ra trong những con đường che đậy, giấu giếm.

-          Không thể chấp nhận tình trạng không rõ ràng:

            Đời sống và sứ vụ của cộng đoàn sẽ dễ dàng hơn, nếu Cộng đoàn thoải mái hơn với sự đúng/sai, cách của chúng ta/cách của chúng nó. 

Lưu ý luận lý bây giờ không phải là lưỡng giá, mà là đa giá trị: “chọn lựa của người lớn phức tạp hơn nhiều con ạ, không phải không trắng là đen, không tròn là méo, mà còn cái chọn lựa miễn cưỡng, bất đắc dĩ” (“Đứa trẻ đến từ Thiên đường”)   

Tưởng rằng họ lắng nghe nhau vì lắm lần họ chỉ giả định là giống nhau, mặc dầu không phải.  

Mặc dầu hết lòng hiến dâng cho Chúa, họ dựa vào các lãnh đạo tôn giáo để giải thích ý Chúa. 

Tìm giải quyết các xung đột bên ngoài cộng đoàn trực tiếp của mình (x. “đóng cửa dạy nhau”).

IV. MẤu chỐt cỦa vẤn đỀ 

Một cách nào đó, hầu hết các cộng đoàn rơi vào giữa hai nhóm này: dễ và khó giải quyết xung đột. Quả thế, đa số cộng đoàn bị lúng túng về cách đáp ứng của mình đối với các xung đột. 

Bỏ ra một số thời giờ suy nghĩ về hai viễn tượng này là rất hữu ích đối với các cộng đoàn tu. Tiến trình tranh luận thực sự về xung đột theo một đường lối khách quan là hữu ích. 

Ta không thể có được một cuộc tranh luận hữu lý về lập trường của mình liên quan đến xung đột cộng đoàn khi ta đang ở giữa lòng cuộc chiến! 

Một số cộng đoàn khó tìm được một diễn đàn hay một cuộc hội thảo về cách giải quyết xung đột. Họ sợ nói về sự xung đột và tránh tranh luận về nó. Họ giống như đám trẻ con tin rằng khi cha mẹ chúng cãi nhau thì họ sắp sửa ly dị đến nơi rồi! 

Tuy nhiên, khi cộng đoàn tranh luận về thái độ của mình và lên kế hoạch để giải quyết xung đột thì nỗi sợ hãi của những ai sợ sự xung đột cộng đoàn sẽ bị giảm sút đi.

Thật hữu ích khi ta nhìn thẳng vào lãnh vực mà trong đó cộng đoàn đã có xung đột. Nhờ vượt lên trăn trở về các vấn đề đó, ta có thể đánh giá việc cộng đoàn đã xử lý thế nào với chúng trong quá khứ. 

Ta cũng có thể thấy rõ sự việc còn tồn đọng đó như thế nào và ai là người còn bị tổn thương. 

V. MỘT SỐ XUNG ĐỘT ĐIỂN HÌNH TRONG CỘNG ĐOÀN TU           

Dưới đây là một số lãnh vực xung đột tìm thấy trong các cộng đoàn tu:

-          Những bất hòa cá nhân: hiểu lầm, những cảm nhận bị tổn thương giữa các cá nhân.

-          Những bất đồng liên quan đến đường lối lãnh đạo và sự bảo dưỡng nhóm: các vấn đề liên quan đến quyền hành, tiền bạc, cơ sở và tài sản của cộng đoàn.

-          Sứ vụ: cái gì cộng đoàn tin là phải làm hay nên làm.

-          Giáo thuyết, thực hành đức tin và đời sống tu trì, đường lối chung của Giáo Hội.

-          Những chuẩn bị hướng tới Tổng Tu Nghị: đào sâu linh đạo, tìm lại đặc sủng của vị sáng lập, những thách đố mới, những người lãnh đạo tương lai…          

-          Các vấn đề và thực hành xã hội: ngày nay có nhiều vấn đề về giới tính: thủ dâm, kế hoạch hóa gia đình, giới tính tiền hôn nhân, phá thai, xu hướng tính dục, độc thân, đồng tính luyến ái, vai trò của phụ nữ, những vấn đề nổi cộm về nhân quyền và dân quyền…

-          Sự thay đổi: Các cơ cấu sợ thay đổi và thay đổi được kinh nghiệm như sự đe dọa. Thay đổi là hậu quả của một thế giới đang đổi thay: “Này đây Ta làm mọi sự nên mới”         (Kh 21:5)

-          Thay đổi như cộng đoàn đang bắt đầu sẽ bị một số người hoài vọng “những ngày xưa tốt lành” coi như sự đe dọa nguy hiểm.    

O tempora o mores! Thời nào phong tục ấy! Thời thế thế thời phải thế! 

“Phàm ai ở trong Đức Kitô đều là thọ tạo mới. Cái cũ đã qua, và cái mới đã có đây rồi. Mọi sự ấy đều do bởi Thiên Chúa là Đấng đã nhờ Đức Kitô mà cho chúng ta được hoà giải với Người, và trao cho chúng tôi chức vụ hoà giải. Thật vậy, trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã cho thế gian được hoà giải với Người. Người không còn chấp tội nhân loại nữa, và giao cho chúng tôi công bố lời hoà giải” (2 Cr.5: 17-19)

Khi hiểu xung đột là vì có khác biệt thì tìm giải quyết xung đột là cùng nhau đi tìm mẫu số chung cho những khác biệt. Công cuộc tìm kiếm mẫu số chung này là một áp dụng của “biện chứng pháp tiến lên”, nhờ đó sự hòa hợp ngày càng gia tăng và sự hiệp thông cộng đoàn sẽ được thực hiện. 

Tiền đề ↔ Phản đề → Hợp đề

Hợp đề này lại trở thành một tiền đề mới, có một phản đề mới tương ứng, sản sinh ra một hợp đề mới tương ứng... Và cứ thế mà tiến triển và tiến bộ.

Xin đừng quên lời dặn của cha ông mình:

“Khôn ngoan đối đáp người ngoài, Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau”    

Khi tìm được mẫu số chung thì người và ta, trên và dưới gặp được nhau, hiểu được nhau trong mọi quan điểm thì mọi việc đều được giải quyết dễ dàng và tốt đẹp. 

“Anh chị em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương. Vì thế, anh chị em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hoà và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh chị em người này có điều gì phải trách móc nưýời kia. Chúa đã tha thứ cho anh chị em, thì anh chị em cũng vậy, anh chị em phải tha thứ cho nhau. Trên hết mọi đức tính, anh chị em phải có lòng bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt hảo”  (Cl 3,12-14) 

“Vì thế, anh chị em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa kia, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh chị em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh chị em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện” (Eph 4: 22-24)

E. CỘNG ĐOÀN HIỆP THÔNG 

I. VÀO ĐỀ 

Tại sao chúng ta cần suy tư thần học về công đoàn hiệp thông? - Vì đó là nhu cầu và xác tín của tu sĩ chúng ta, được huấn quyền Giáo Hội xác nhận. 

Quả thế, cộng đoàn tu sĩ đưýợc khai sinh bởi một lời mời gọi của Thiên Chúa. Nói cách khác, cộng đoàn tu sĩ là kết quả của một lời đáp trả của con người. 

Số 1a văn kiện “Đời sống huynh đệ trong cộng đoàn” tuyên bố:  “Tình yêu Chúa Kitô đã qui tụ một số đông môn đệ để họ trở nên một, để như Ngài và nhờ Ngài, trong Chúa Thánh Thần, qua dòng lịch sử, họ có thể đáp lại tình yêu của Chúa Cha, yêu mến Ngài ‘hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn’ (x. Dnl 6,5) và yêu thương cận nhận như chính mình (x. Mt 22,39)”.

Được sinh ra không phải “bởi ý muốn xác thịt”, cũng không phải do sự hấp dẫn của con người hay bởi những động lực nhân loại, song bởi Thiên Chúa (x. Ga 1,13), bởi lời kêu gọi và sự hấp dẫn của Thiên Chúa, cộng đoàn tu sĩ là dấu chỉ sống động của tình yêu ưu tiên của Chúa, Đấng thực hiện những điều kỳ diệu, và cũng là dấu chỉ của tình yêu cho Chúa và cho anh chị em, như đã được biểu lộ và thực hành bởi Chúa Kitô. 

Bởi đó, cộng đoàn tu sĩ là một thực tại thần học, là kết quả của một cuộc đối thoại giữa Thiên Chúa và con người. Cả nguồn gốc sâu xa và mục đích tối hậu của cộng đoàn tu sĩ đều có tính cách thần học. Vì thế, chúng ta cần học hỏi và suy tư về cộng đoàn tu sĩ với tinh thần đức tin. 

II. MỤC TIÊU HỌC HỎI 

Mục tiêu của cuộc học hỏi này là suy tư tính cách thần học về nguồn gốc, sự hiện hữu và mục đích của cộng đoàn tu sĩ. 

Do đó, chúng ta sẽ đề cập đến:

-          nền tảng Thánh Kinh của cộng đoàn tu sĩ, với chú ý đặc biệt về các linh hứng Phúc âm.

-          sự tăng trưởng có tính cách thần học và tu đức của cộng đoàn tu sĩ bên trong lịch sử Giáo Hội.

-          căn tính của cộng đoàn tu sĩ trong Giáo Hội hiện đại và sứ mệnh của Giáo Hội trong thế giới hôm nay. 

III. KINH NGHIỆM VỀ SỰ PHÂN MẢNH 

Kinh nghiệm chung của con người hôm nay là sự phân mảnh, ở mọi cấp độ và mọi lãnh vực cuộc sống. Chúng ta thấy sự phân mảnh hiện nay về các thực thể địa lý, chính trị: Liên bang Sô viết cũ tách ra thành nhiều thực thể quốc gia và chính trị. Những xung đột quốc gia ở Trung Đông vẫn dai dẵng giữa Israel và Palestine. Những chia rẽ về dân tộc thiểu số và các bộ lạc. 

Tôn giáo là một yếu tố rõ nét trong sự phân chia dân chúng và các cộng đồng: xung đột Công giáo - Hồi giáo ở Indonesia, xung đột Ấn giáo - Hồi giáo ở Ấn độ, v.v… 

Cả những tương quan về giống cũng bị phân mảnh và tương quan nam-nữ vẫn chưa được chữa lành. Toàn cầu hóa mang lại tình trạng loại trừ, phân biệt đối xử và bất bình đẳng. Trong nhiều quốc gia, người nghèo, phụ nữ và trẻ em bị gạt ra bên lề. 

Việc phá hủy môi trường tự nhiên, phá hủy văn hóa bản xứ và làm băng hoại các giá trị nhân bản càng gây thêm sâu hơn nữa tình trạng phân mảnh. 

Sự phân mảnh cũng tác động ở mức độ cá nhân: Cuộc sống cá nhân xem ra đánh mất sự duy nhất nội tâm và cấu thành, cũng như sự phô diễn ra bên ngoài và định hướng của mình. Đúng hơn là xem ra nó bị lèo lái bởi những thúc đẩy của tình trạng phân tán, phân mảnh và tha hóa. 

Do đó lời mời gọi thăng tiến những liên hệ của tình liên đới trở nên cấp bách. Phải thay đổi tình trạng loại trừ, gạt ra bên lề và bất bình đẳng do nền văn hóa phân mảnh ngày nay mang lại. Cũng cần nuôi dưỡng một não trạng sinh thái, nghĩa là tất cả mọi vật được tạo thành đều kết nối với nhau, bổ túc lẫn nhau, có cùng một số phận, phá hủy một cái sẽ gây nên những hậu quả sinh tử. 

Đứng trước bối cảnh phân mảnh đó, tìm kiếm hiệp thông quả thật là một việc phức tạp. Nó bao trùm mọi cấp độ và mọi khía cạnh của cuộc sống: liên chủng loại, liên sắc tộc, liên quốc gia, liên cộng đồng, liên nhân vị và nội tại trong mỗi con người nữa. Do đó, nó đòi hỏi một câu trả lời phức tạp, toàn thể và hòa hợp. Cái mà con người ngày nay cần đến là một hiệp thông đời sống vừa trao ban vừa nhận lãnh cách hỗ tương. 

IV. KINH NGHIỆM TÌM KIẾM HIỆP THÔNG 

Ở Nhật, người ta thiết lập những đường điện thoại dành cho các trẻ em không thuộc nhóm nào, và cũng mở ra cho những người cần có ai đó để nói chuyện. 

Một buổi tối nọ, nhà tư vấn tâm lý Nishiga nhận một cú điện thoại. Một cậu bé hỏi: “Tôi có thể nói chút việc được không ạ?” Rồi cậu thêm: “Mà xin lỗi, đừng cúp máy nhé!” 

Nishiga bảo đảm với cậu bé rằng ông vẫn giữ đường dây. Rồi cậu bé hỏi: “Tôi muốn cảm nhận như tôi đang nói với một người nào đó, được không ạ?” Nishiga lại bảo đảm với cậu bé là cậu cứ việc nói. Cậu bé đáp: “Cám ông ông” Rồi cậu im lặng. 

Ba phút sau, cậu lên tiếng hỏi: “Ông có còn đó không ạ?” Nishiga hỏi cậu đang nghĩ gì. Và cậu bé trả lời: “Tôi rất vui vì có một người chịu để mất thời giờ cho một ai đó như tôi.” Và cậu còn thêm: “Tôi có thể gọi lại không ạ?” Rồi cậu cúp máy. 

Rõ ràng cậu bé cần kết nối. Cậu tìm một người đồng hành. Biết bao nhiêu người trẻ trên thế giới cùng trải qua cùng kinh nghiệm tìm kiếm ấy. Thật chẳng may, nhiều người trong họ kết cục nhập bọn với đám trẻ đường phố, hay tương tự như thế. 

Tương tự, nhiều người lớn cũng đi tìm người đồng hành, tìm tình bạn. Và nhiều người đã gia nhập vào bất cứ nhóm nào họ gặp: đủ thứ câu lạc bộ và hiệp hội, nhóm cầu nguyện, ngay cả các nhóm giáo phái…

V. KHAO KHÁT HIỆP THÔNG LÀ RẤT NGƯỜI 

Hiệp thông là cái con người hôm nay tha thiết ao ước. Hãy nghe Henri Nouven nói: “Chúng ta thực sự ao ước cái gì? Khi tôi cố gắng lắng nghe ước muốn sâu xa nhất của chính tôi, cũng như ứớc muốn của kẻ khác, thì xem ra từ ngữ tốt nhất để tóm tắt ước muốn của trái tim con người là HIỆP THÔNG. 

Hiệp thông có nghĩa là “hiệp nhất với”. Thiên Chúa đã ban cho chúng ta một trái tim sẽ không nghỉ ngơi cho đến khi nào tìm được sự hiệp thông trọn vẹn.  

Chúng ta tìm sự hiệp thông nơi tình bạn, nơi hôn nhân, nơi cộng đoàn. Chúng ta tìm hiệp thông trong sự thân mật giới tính, trong những lúc xuất thần, trong sự nhận biết các ân ban của mình. Chúng ta tìm hiệp thông qua thành công, thán phục và phần thưởng.  

Hiệp thông là một khao khát do Chúa ban, một ước ao mang lại đau khổ miên man cũng như vui sướng bao la. Chúa Giêsu đã đến tuyên bố rằng khao khát hiệp thông của chúng ta sẽ không ra vô ích, nhưng sẽ được lấp đầy bởi Đấng đã ban cho chúng ta khao khát ấy.  

Những khoảnh khắc hiệp thông chóng qua chỉ là dấu hiệu lờ mờ của Hiệp thông mà Chúa hứa cho chúng ta. Chúng ta phải đối mặt với một nguy hiểm thực sự là nghi ngờ sự khao khát hiệp thông của chúng ta. Hiệp thông là khao khát Chúa ban mà nếu không có nó thì cuộc sống chúng ta mất đi sức sống và con tim chúng ta ra giá lạnh. 

Một đời sống thiêng liêng đích thực là một đời sống trong đó chúng ta không tìm được an nghỉ cho đến khi nào tìm được nghỉ ngơi trong vòng tay của Đấng là cha và mẹ của mọi khao khát.  

VI. HIỆP THÔNG VỚI CHÚA 

Cựu Ước thấm đậm ý muốn sáng tạo - hiệp thông của Giavê và khao khát đi vào trong sự hiệp thông với Thiên Chúa của Israel (nhân loại).  

Sự khao khát hiệp thông hỗ tương hay đi theo này bắt nguồn từ ý muốn tự do cao cả của Giavê, khi kêu gọi, tuyển chọn và cam kết với Israel, thiết lập với Israel một mối liên hệ mật thiết.  

Chúng ta lùi lại thời điểm sáng tạo để thấy ước muốn của Thiên Chúa làm cho nhân loại trở thành một phần của sự hiệp thông của Ngài khi Ngài phán: “Chúng ta hãy làm nên con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta…” (St 1, 26). 

Cái mà Thiên Chúa quyết định dựng nên phải có mối liên hệ với Ngài. Việc sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa nhằm đến cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người. 

Tạo Hóa dựng nên một tạo vật tương ứng với Ngài: một ai đó mà Ngài có thể nói với và kẻ đó lắng nghe Ngài. 

Nhưng phải lưu ý rằng từ ngữ “con người” là một từ ngữ tập thể. Vì thế, liên quan đến việc sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa, chúng ta không được nghĩ đến một con người cá vị hiện hữu, mà phải nghĩ đến tất cả mọi người, tức nhân loại. Nhân loại đã được tạo dựng để trở nên đối tác của Thiên Chúa. 

Tên “Giavê” được mạc khải cho Mosê và cho dân chúng chỉ rõ ý tưởng của Thiên Chúa là “ở với” hay “cho” Israel. Giavê “ở với” Israel: sự hiện diện trở nên cánh tay hữu hình trong cuộc giải phóng của biến cố Xuất Hành và xuyên suốt lịch sử của dân tuyển chọn.  

Thiên Chúa hằng sống luôn xuất hiện cho Israel như vị Thiên Chúa cho con người, một Thiên Chúa luôn mong muốn đem con người đi theo mình. 

Ước muốn hiệp thông hay sự gần gũi của Thiên Chúa với con người là một đề tài rất được nhấn mạnh. Chẳng hạn trong những mô tả liên quan đến các tổ phụ: Enoch “bước đi với Chúa” (St 5,22, 24), Noe “một người công chính bước đi với Chúa” (St 6,9). 

Tương quan trực tiếp với Chúa không được tái lập sau Đại hồng thủy: sự yếu đuối của con người đặt mình giữa Thiên Chúa và con người, tạo nên một hố sâu quyết định giữa con người với Thiên Chúa. 

Ngay cả với Abraham cũng đã được nói “bước đi trước mặt Chúa” chứ không phải “bước đi với Chúa” (x. St 17: 1). Thiên Chúa không đến “bước đi với” con người nữa (x. St 3,8), mà chỉ đơn giản hiện ra trong thị kiến (x. St 17,1; 35,9). 

Tuy nhiên, chúng ta biết rằng với Abraham, Thiên Chúa bắt đầu phục hồi sự hiệp thông của Ngài với con người. Ngài muốn là Chúa của Abraham và miêu duệ ông (x. St 17, 8b), một diễn tả nhắm đến sự đi theo, sự gặp gỡ giữa Thiên Chúa và dân Người. 

Những biến cố lớn của nỗ lực về phía Thiên Chúa để phục hồi sự hiệp thông của Ngài với con người là: Lời hứa cam kết vĩnh viển với Abraham và miêu duệ ông, cuộc giải phóng Israel khỏi ách nô lệ Ai cập (x. Xh 6, 6-7), và việc xây dựng Đền Thờ, nhờ đó Ngài luôn luôn hiện diện giữa dân (x. Xh 25,8; 29, 45-46).

Bước thứ tư đòi hỏi cam kết của Israel là chu toàn các chỉ thị phượng tự và tuân giữ giới răn của Chúa. Trong sách Lêvi, Thiên Chúa tuyên bố: “Nếu các ngươi theo các quy tắc của Ta, tuân giữ các mệnh lệnh của Ta và đem ra thực hành, Ta sẽ đặt nơi ở của Ta giữa các ngươi, và sẽ không chán ghét các ngươi. Ta sẽ đi đi lại lại giữa các ngươi; Ta sẽ là Thiên Chúa của các ngươi, còn các ngươi sẽ là dân của Ta” (Lv 26, 3, 11-12).   

F. TIẾN TRÌNH XÂY DỰNG MỘT CỘNG ĐOÀN YÊU THƯƠNG THỰC SỰ

I. Bài hỌc tỪ đàn ngỖng trỜi

Chị em hãy nhìn xem đoàn ngỗng trời di trú bay sang một vùng đất ấm áp hơn để tránh mùa đông. Hãy lưu ý rằng chúng bay theo đội hình chữ “V” Có lẽ chị em sẽ thích thú khi biết tại sao chúng làm như vậy. 

Chị em sẽ cầu nguyện và quyết tâm hõn để xây dựng Hội Dòng và cộng đoàn mình thành một cộng đoàn yêu thương thực sự. Xin Chúa chúc lành cho tất cả chị em. 

Đàn ngỗng trời đang sắp xếp bay thành đội hình chữ V. Nhưng chúng chưa thực hiện được đội hình bay hiệu quả…  vì một con còn bay đơn độc một mình 

Bài học 1

Khi có cùng một lòng một chí hướng và làm việc liên kết với nhau, chị em sẽ đạt đến mục tiêu nhanh hơn và dễ dàng hơn. Nhờ giúp đỡ lẫn nhau, công việc chị em thực hiện được sẽ lớn hơn.

Khi một con ngỗng lìa bỏ đội hình…Nó sẽ cảm nhận sức cản của gió và những khó khăn khi bay một mình. Bấy giờ nó sẽ mau chóng quay trở lại trong đội hình, để hưởng lợi ích sức mạnh của nhóm bay đàng trước nó. 

Bài học 2

Đừng ai tự mình rời bỏ cộng đoàn, và cộng đoàn cũng đừng lìa bỏ hay cô lập ai. Khi sống ăn khớp và hiệp nhất bên cạnh những người cùng đi theo một chí hướng, chị em sẽ bớt gắng sức hơn. Như thế, chị em sẽ đạt đến mục đích dễ dàng và vui thú hơn. Chiều hướng chung của mọi người là chấp nhận và sẵn sàng giúp nhau.

Thánh Phaolô nhắc nhở về đời sống cộng đoàn: "Anh chị em không còn phải là người xa lạ hay người tạm trú, nhưng là người đồng hương với các người thuộc dân thánh, và là người nhà của Thiên Chúa, bởi đã được xây dựng trên nền móng là các Tông Đồ và ngôn sứ, còn đá tảng góc tường là chính Đức Kitô Giêsu. Trong Người, toàn thể công trình xây dựng ăn khớp với nhau và vươn lên thành ngôi đền thánh trong Chúa. Trong Người, cả anh chị em nữa, cũng được xây dựng cùng với những người khác thành ngôi nhà Thiên Chúa ngự, nhờ Thần Khí“ (Eph 2,19-22) 

Khi con ngỗng đầu đàn bay đã mỏi mệt…Nó sẽ lui vào cuối đội hình chữ V, trong khi một con ngỗng khác sẽ bay lên dẫn đầu…

Bài học 3

Công cuộc lãnh đạo là một vinh dự, nhưng cũng là một gánh nặng, mọi người cần phải biết tôn trọng và sẵn sàng giúp đỡ trong mọi lúc… Chị em hãy luôn sẵn sàng chia sẻ những vấn đề và những phận vụ khó khăn nhất của Bề Trên...

Người lãnh đạo cũng sẽ được tận tình nâng đỡ, nếu biết chia sẻ với người dưới… Người lãnh đạo phải biết khôn khéo qui tụ các năng lực và kết hợp các khả năng, tài năng và các nguồn nhân lực vật lực của các thành viên lại với nhau và sử dụng đúng người đúng việc…

Cái thành công lớn nhất của người lãnh đạo là chuẫn bị cho có người sẽ thay thế mình, qua tiến trình bốn bước:

-          Dạy cho người ta làm,

-          Giúp người ta làm,

-          Để người ta làm

-          Và mình rút lui, vì sứ mệnh đã hoàn thành.

Các con ngỗng trời bay trong đội hình chữ V kêu quang quác để khích lệ những con bay ở tuyến đầu. Nhờ cách đó, chúng giữ cùng một tốc độ với nhau. 

Bài học 4

Khi có được khích lệ và can đảm, sự tiến bộ chung sẽ lớn hơn. Một lời khích lệ đúng lúc luôn thúc đẩy, giúp đỡ và tăng sức mạnh… Nó sẽ sản sinh ra những lợi ích tốt nhất cho cộng đoàn. 

Khi một con ngỗng trời bị ốm, bị thương hay bị mệt…Và nó phải lìa bỏ đội hình… Một số những con ngỗng khác cũng lìa bỏ đội hình để bay với nó, giúp đỡ và bảo vệ nó. Chúng ở lại với nó cho đến khi nó chết hoặc có thể bay trở lại theo kịp nhóm đội của chúng, hoặc chúng sẽ tạo nên một đội hình chữ V khác và bầy đàn tiếp tục được phát triển. 

Người bệnh, yếu mệt, lầm lỗi trong cộng đoàn chị em được đối xử thế nào? Có được như ngỗng trời không? Mỗi người đều chịu trách nhiệm về sự thăng trầm và có khi ra đi của một người chị em nào đó.  

Cô đơn chớ để một ai,                                        

Thử thách dồn dập nhạt phai dần dần.                                                    

“Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Người là Cha giàu lòng từ bi lân ái, và là Thiên Chúa hằng sẵn sàng nâng đỡ ủi an. Người luôn nâng đỡ ủi an chúng ta trong mọi cơn gian nan thử thách, để sau khi đã được Thiên Chúa nâng đỡ, chính chúng ta cũng biết an ủi những ai lâm cảnh gian nan khốn khó” (2 Cr 1,3-4)

Chị em đừng bao giờ quên đi rằng một khi từ bỏ gia đình tự nhiên mà vào Dòng, chị em có một đại gia đình thiêng liêng với nhiều thế hệ, và việc dấn thân tuyên khấn trong linh đạo và truyền thống Hội Dòng càng biến gia đình ấy thấm đậm tình người và tình Chúa, vừa nhân loại vừa thiêng liêng. Có ai tự chặt bớt tay chân mình đi không? Hay đành lòng nhìn thấy tay chân mình bị cắt lìa? 

Bài học 5

Chị em hãy ở lại sát cánh bên nhau, bất chấp những khác biệt của nhau, đặc biệt trong những lúc khó khăn và những thách đố lớn lao của mỗi người.  

Nếu chị em sống ràng buộc với nhau và trợ giúp lẫn nhau, nếu chị em làm cho tinh thần đồng đội trở nên thực sự… chẳng bận tâm đến những khác biệt của nhau…, chị em có thể đương đầu được với các thách đố cam go của chị em. 

Nếu chị em hiểu được giá trị của tình bạn thân thiết đích thực, và không lo sợ nhầm lẫn đồng hóa nó với “đồng tính luyến ái”, để rồi nói vô nói ra, phân biệt đối xử, cô lập nhau,… 

Nếu chị em ý thức đầy đủ về tình gia đình thiêng liêng của mình, chị em sẽ tìm mọi cách thích hợp để bảo vệ, phát triển và thăng tiến nó, vì việc dấn thân tuyên khấn trong linh đạo và truyền thống Hội Dòng thực sự đã đưa chị em vào một gia đình thấm đậm tình người và tình Chúa, vừa nhân loại vừa thiêng liêng, trong mối tương quan của tình mẩu tử và tỉ muội.

Nếu chị em ý thức được lợi ích của cảm nhận được chia sẻ và cộng tác…CUỘC SỐNG SẼ TRỞ NÊN DỄ DÀNG HƠN VÀ CỘNG ĐOÀN CHỊ EM SẼ PHONG PHÚ HƠN.  

II. MƯỜI ĐIỀU RĂN CỦA ĐỜI SỐNG CỘNG ĐOÀN

1. Quà tặng tình yêu chăm sóc

Không phàn nàn lẫn nhau. Mỗi người là quà tặng, là biểu lộ tình yêu và chăm sóc của Chúa cho nhau. Tạ ơn Cha trên trời vì đã qui tụ chị em lại với nhau:

“Chị em vui sống một nhà, Bao là tốt đẹp bao là sướng vui”

2. Dụ ngôn tình yêu và hiệp thông

Đừng quên rằng mỗi người là một dụ ngôn tình yêu và hiệp thông của Chúa Thánh Thần, để làm cho con đường dẫn tới đức tin được dễ dàng hơn cho những ai chưa biết Chúa Giêsu Kitô (chiều kích truyền giáo).  

3. Thánh Giá, đường theo Chúa

Hãy sẵn sàng từ bỏ chính mình, chấp nhận thánh giá (vốn là con đường theo Chúa Kitô), bởi vì một cộng đoàn đích thực chắc chắn có khả năng từ bỏ và chết đi cho chính mình (chiều kích khổ chế): “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ chính mình, vác thập giá hằng ngày mà theo Ta”  

4. Cộng đoàn Dòng là Tổ Ấm

Cộng đoàn vệ tinh sở tại không phải là cộng đoàn duy nhất của chị em. Mỗi thành viên đều sống trong sự tùy thuộc của mình với Hội Dòng (Nhà Mẹ). Dù ra khỏi nhà, chị em không bao giờ ra khỏi cộng đoàn, “ly hương bất ly tổ”: Chị em luôn luôn ở trong Cộng đoàn Hội Dòng.

Mỗi người sẽ sẵn sàng để được sai đến bất cứ nhà nào của Hội Dòng hay đảm trách bất cứ sứ vụ nào Hội Dòng trao cho. Vì đi tu là phải chấp nhận một cuộc sống bất định:

-          có thể được sai đến nơi mình không muốn,

-          ở với người mình không ưa,

-          và làm việc mình không thích. 

5. Gắn bó với cộng đoàn cầu nguyện

Một cộng đoàn cầu nguyện chung với nhau sẽ luôn ở lại gắn bó cùng nhau. Hãy làm cho cộng đoàn của chị em sống như "cô dâu" đích thực của Chúa Giêsu, luôn luôn cầu nguyện trong sự kết hiệp mật thiết với "Chú Rễ".

Hãy làm cho cộng đoàn của chị em trở nên phản ánh đẹp đẽ của Giáo Hội cầu nguyện. Chị em phải cảm thấy buồn lòng vì sự vắng mặt của một thành viên khỏi giờ cầu nguyện của cộng đoàn. Đừng quên cầu nguyện cho người chị em vắng mặt ấy, dù vắng mặt vì bất cứ lý do gì. 

6. Sự Tự Do của con cái Chúa

Nếu chị em là con cái của Cha trên trời, chị em đừng bắt nhau phải sống như những người nô lệ, trái lại phải sống với tự do của những con người có phẩm giá là con cái của Thiên Chúa. Không một ai có quyền bẻ gãy tình huynh đệ nền tảng ấy: "Các ngươi đều là anh chị em với nhau."

Trong cộng đoàn, mỗi người nên được tự do nói và bộc lộ đúng như mình suy nghĩ. Dĩ nhiên lời nói cuối cùng và quyết định tối hậu phải thuộc về Bề Trên. Điều đó sẽ dẫn đến vâng lời đối thoại và vâng lời trưởng thành trong mối hiệp thông xây dựng cộng đoàn.  

Nếu người và ta, trên và dưới gặp được nhau, hiểu được nhau trong mọi quan điểm thì mọi việc đều được giải quyết dễ dàng và tốt đẹp. Đáng tiếc là lắm khi thiếu đối thoại và giải thích thỏa đáng. 

7. Tinh thần liên đới cộng đoàn

Tất cả chị em phải tham dự vào việc quản trị cộng đoàn, chứ không phải chỉ một vài thành viên lấy mọi quyết định thay cho cả cộng đoàn.  

Mỗi người đều có quyền nói lên ý nghĩ và bày tỏ quan điểm của mình trong sự tôn trọng lẫn nhau vì ích lợi chung của cộng đoàn. Hãy thực thi tự do của con cái và ngôn sứ của Chúa, cả khi việc đó có thể làm cho bản thân chị em phải đau khổ, miễn là nó làm gia tăng sự hiệp thông huynh đệ và phát triển cộng đoàn.

Sứ vụ tiên tri là vừa loan báo điều tốt lành vừa tố cáo điều xấu. Tuy sứ vụ tố cáo điều xấu và bất công là một nhiệm vụ khó khăn và nguy hiểm, tu sĩ phải đóng vai trò chỉnh sửa vì “kiến nghĩa bất vi bất nghĩa”

Dĩ nhiên phải khôn khéo nói làm sao cho người ta có thể nghe được, mà vẫn theo đúng nguyên tắc của thánh Phêrô: “Các ông nghĩ thế nào cho phải lẽ trước mặt Chúa, vâng lời các ông hay là vâng lời Chúa hơn” (Tđcv 4,19) – “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời con người” (Tđcv 5,29) 

8. Nhận diện Chúa Giêsu trong người nghèo

Đừng bỏ quên người nghèo. Hãy mở rộng cửa nhà chị em cho họ. Hãy biến họ thành những vị khách được ưu đãi của chị em. Chúa Giêsu đến viếng thăm chị em qua họ. Hãy dành cho họ một chỗ trong nhà, một chỗ nơi bàn ăn của chị em.    

Chớ gì chị em không bao giờ phải chịu đựng nỗi bối rối và ân hận, vì đã xua đuổi Chúa của chúng ta đang ẩn mình nơi người cùng khổ (x. Mt 25)  

9. Công đoàn gần gũi dân chúng

Hãy là một cộng đoàn gần gũi với dân chúng. Hãy thường xuyên đối thoại với họ bằng cuộc sống và hành động, như Chúa Giêsu đã từng làm.

Tuy nhiên, đừng đánh mất căn tính tu sĩ của chị em trong quá trình đó, khiến người ta khó chịu: “Tu gì vậy mà tu?” Hãy hòa đồng chứ không đồng hóa: Dân chúng cần đến chị em với tý cách chị em là tu sĩ.  

10. Cộng đoàn hiệp thông

Hãy là một cộng đoàn vừa ở trong nhà vừa ở ngoài sứ vụ, vì cuộc sống chị em vừa chiêm niệm vừa hoạt động, nghĩa là vừa xuất thế vừa nhập thế. Hãy tránh mọi hình thức cá nhân chủ nghĩa, để khỏi đánh mất những đặc tính tối ưu của sứ vụ cộng đoàn là tinh thần hiệp thông.   

Đối với một tu sĩ, một việc nhỏ mọn được thực hiện trong tinh thần hiệp thông có giá trị và ý nghĩa hơn một kế hoạch lớn lao làm theo quan điểm cá nhân chủ nghĩa. Hiệp nhất trong sứ vụ là một dấu hiệu hùng hồn của Nước Chúa.

Như trên đã nói, chị em hãy sống tinh thần Hội Dòng là một đại gia đình gồm nhiều thế hệ, luôn biết đón nhận nhau, yêu thương tha thứ, quên bỏ lỗi lầm và xây dựng cho nhau: “Dập dìu kẻ trước người sau, sức riêng một ít góp vào lợi chung” 

III. TÂM SỰ CỦA CHA MẸ GIÀ CHO CON

Chị em hãy lắng nghe những lời tâm sự của cha mẹ cho con cái. Đó cũng là những lời tâm huyết của các Đấng Bề Trên và của thế hệ các tu sĩ lớn tuổi cho thế hệ tu sĩ trẻ hôm nay. 

Chị em hãy nghĩ đến các Đấng Bề Trên, những người đồng hành đào tạo, những vị cao niên, những người đi trước Chị em, vốn đã dày công hy sinh vất vả để đào luyện, nâng đỡ, dìu dắt Chị em bằng cuộc sống đầy gương sáng và lời cầu nguyện không ngừng của các ngài.  

Chị em hãy tri ân các ngài, cầu nguyện và nâng đỡ các ngài, ngõ hầu trong những ngày cuối đời, chờ đợi giờ Chúa gọi về nhà Cha, các ngài cảm nhận được đền đáp, an ủi, yêu thương, bình an và hạnh phúc. Hy vọng đến lượt Chị em, thế hệ mai sau cũng làm cho Chị em như vậy.

Con yêu dấu... 

Ngày nào con thấy cha mẹ quá già, thì con cố nhẫn nại và thông cảm cho cha mẹ, nghe con.  

Nếu cha mẹ tay chân run rẩy, ăn uống đổ lên đổ xuống… Hãy thông cảm và nhớ lại ngày con còn bé cha mẹ nhẫn nại bón cơm cho con ăn như thế nào!

“Ngồi buồn ta nhớ mẹ xưa,

Miệng nhai cơm búng lưỡi lừa cá xương!” 

Hãy nhớ lại số thời giờ mà cha mẹ đã bỏ ra để dạy cho con biết bao điều khi con còn thơ… Nếu cha mẹ cứ nói đi nói lại mãi một điều… Hãy cố lắng nghe, con nhé!   

Khi con còn bé, con vẫn muốn cha mẹ đọc đi đọc lại mãi một chuyện, từ đêm này sang đêm kia, cho đến khi con thiếp ngủ. Và cha mẹ đã chiều con…

Nếu cha mẹ không còn siêng năng tắm rửa như trước, thì đừng la rầy cha mẹ và nói rằng như vậy là điều nhục nhã. Hãy nhớ lại cha mẹ phải tìm ra bao nhiêu sáng kiến để cho con chịu tắm lúc con còn bé thơ.  

Nếu thấy cha mẹ không biết gì về những công nghệ mới, thì đừng chế nhạo cha mẹ, mà hãy để từ từ cho cha mẹ hiểu ra. Cha mẹ đã dạy con biết bao nhiêu điều… dạy ăn… dạy mặc… dạy đối xử… dạy phương cách cho con đương đầu với cuộc sống…  

Nếu thỉnh thoảng cha mẹ quên đi điều gì, hay không theo kịp điều con nói thì con hãy để cho cha mẹ đủ thì giờ mà nhớ lại,  và nếu cha mẹ không nhớ ra, thì đừng cau có cằn nhằn nghe con, bởi vì điều quan trọng nhất đối với cha mẹ là muốn được ở cạnh con và nói chuyện với con thôi. 

Dù khi con còn nhỏ dại, hay bây giờ đã lớn khôn, hằng đêm hằng đêm cha mẹ vẫn luôn cầu nguyện cho con… Dù con đi đâu hay làm gì, thì tình thương và lời cầu nguyện của cha mẹ vẫn hằng theo con. 

“Con ơi, hãy săn sóc cha con, khi người đến tuổi già; bao lâu người còn sống, chớ làm người buồn tủi. Người có lú lẫn, con cũng phải cảm thông, chớ cậy mình sung sức mà khinh dể người. Vì lòng hiếu nghĩa đối với cha sẽ không bị quên lãng, và sẽ đền bù tội lỗi cho con. Thiên Chúa sẽ nhớ đến con, ngày con gặp khốn khó, và các tội con sẽ biến tan như sương muối biến tan lúc đẹp trời. Ai bỏ rơi cha mình thì khác nào kẻ lộng ngôn, ai chọc giận mẹ mình, sẽ bị Đức Chúa nguyền rủa” (Hc 3,12-16)  

Khi cha mẹ không muốn ăn thì đừng có ép nữa! Cha mẹ biết khi nào mình đói và khi nào thì không. 

Khi chân cha mẹ không còn sức để bước đi, con hãy đi chậm lại, đừng hối thúc và lôi kéo mạnh tay nghe con… Con hãy giúp cha mẹ như xưa kia cha mẹ đã từng giúp con chập chững đi những bước đầu đời…  

Rồi đến ngày kia, khi cha mẹ nói rằng mình không còn muốn sống nữa… con chớ noåi giận lên… vì sẽ đến lúc, tới lượt mình, con sẽ hiểu vì sao.  

Con hãy cố hiểu rằng đến một tuổi nào đó, người ta không còn thực sự sống nữa, nhưng chỉ tồn tại với đời sống thực vật mà thôi.

Một ngày kia, con sẽ hiểu rằng, mặc cho bao nhiêu sai lầm, cha mẹ lúc nào cũng muốn điều tốt đẹp nhất cho con và đã chuẩn bị tương lai để con sống cuộc sống trưởng thành.  

Con đừng buồn khổ hay bối rối trước tuổi già và thể trạng của cha mẹ. Con cứ ở cạnh cha mẹ, gắng hiểu lối sống của cha mẹ, và cố gắng hết sức mình như cha mẹ từng cố gắng hiểu con ngày con mới ra đời.

Hãy giúp cha mẹ bước đi… giúp cha mẹ hoàn tất cuộc đời với tâm tình yêu thương và nhẫn nại.  

Cách duy nhất để cha mẹ còn có thể cám ơn con, ấy là nở với con một nụ cuời kèm với cả yêu thương. 

Cha mẹ yêu con lắm, con ơi !

Cha mẹ của con… 

Tôi chuyển cho bạn vì những lời này làm tôi rất xúc động. Và tôi nghĩ rằng hẳn là bạn cũng cảm động như tôi.

IV. LỜI CỦA CON TRẺ CHO CHA MẸ 

Sau đây, xin chị em cũng hãy lắng nghe những ước nguyện của con cái đối với cha mẹ. Đó cũng là lời nói chân thành của các thành viên trẻ đang trải qua các giai đoạn đào tạo thưa với Bề Trên và các vị hữu trách.  

1. Đôi tay con quá bé nhỏ, xin cha mẹ đừng trông đợi sự hoàn hảo khi con tập tễnh làm việc nọ việc kia…

Đôi chân con quá ngắn, xin cha mẹ đi chầm chậm để con có thể bước theo kịp cha mẹ.

Và khi con không thể đi kịp, xin cha mẹ cổ chờ con với, đừng bỏ con lại một mình trên đường đời… 

2. Đôi mắt con không nhìn được thế giới như cha mẹ đã nhìn thấy,  xin cha mẹ để cho con được khám phá từ từ... và xin cha mẹ đừng hạn chế con một cách không cần thiết. 

3. Công việc vẫn luôn bề bộn, nhưng con còn quá nhỏ đối với một lượng công việc như thế trong một thời gian ngắn. Xin cha mẹ hãy sẵn lòng dành thời gian giải thích cho con các việc liên quan đến thế giới kỳ diệu này.

4.  Các cảm nhận của con còn non nớt, xin cha mẹ vui lòng nhạy cảm với các nhu cầu của con, những mong đợi của con, những lo sợ của con, cả những chán nản và không còn muốn cố gắng nữa của con…

Xin cha mẹ đừng lúc nào cũng rầy la con, và nhắc lại lầm lỡ cũ của con. Xin cha mẹ hãy cho con cơ hội và thời gian để đổi mới. Xin cha mẹ hãy đối xử với con như cha mẹ đã muốn được đối xử khi còn nhỏ.

5. Con là một quà tặng đặc biệt Chúa gửi đến cho cha mẹ, xin cha mẹ hãy trân trọng và giúp con đạt tới lý tưởng tương lai của con như Chúa mong muốn.

Xin cha mẹ coi con có trách nhiệm về các việc làm của con và giúp con phát triển các tài năng của con. Xin cho con những chỉ dẫn để sống, và bắt con giữ kỷ luật một cách đầy yêu thương. 

6.  Con cần  được cha mẹ động viên và khích lệ để lớn lên, chứ không phải những lời chỉ trích. Xin cha mẹ vui lòng giữ mình đừng lúc nào cũng chê bai chỉ trích con. Xin cha mẹ nhớ rằng cha mẹ có thể chỉ trích những việc con làm, chứ không chỉ trích bản thân con, như Chúa ghét tội, nhưng vẫn hằng yêu thương tội nhân.

7.  Xin cha mẹ vui lòng cho con được tự do có những quyết định liên quan đến chính con, đến ơn gọi và cuộc đời của con như Chúa muốn.  

Xin cho phép con được vấp ngã, nhờ đó con có thể học được từ những lầm lỗi của con mà nên tốt hơn, vì mỗi vị thánh đều có một quá khứ và mỗi tội nhân đều có một tương lai.

Như thế, nhờ rút tỉa được bài học kinh nghiệm quá khứ, con sẽ đứng vững và được chuẩn bị để một ngày kia lấy những quyết định mà cuộc sống đòi hỏi ở con.

8.  Xin cha mẹ đừng làm các việc thay con. Việc đó làm cho con buồn lòng cảm thấy các nỗ lực của con không đáp ứng được những trông đợi của cha mẹ.

Con biết như vậy là khó khăn cho con, nhưng xin cha mẹ hãy dạy con cách làm, giúp con làm, rồi để con làm, và đừng so sánh con với các anh chị của con.  

9.  Xin cha mẹ đừng sợ vắng mặt khỏi nhà. Trẻ con cần có những lúc không có cha mẹ, giống như cha mẹ cần có những lúc  không bận vướng con cái.  

10. Xin cha mẹ thường xuyên đưa con đến nhà thờ, nêu cho con một gương tốt để noi theo. Con thích thú được học hỏi thêm về Chúa.  

Đó cũng có thể là lời của những người mới bắt đầu tiến trình tu luyện nói với các nhà đào tạo đòi hỏi những tiêu chuẩn đánh giá quá cao, so với trình độ tuổi tác, kiến thức, sự trưởng thành nhân bản và thiêng liêng của họ.

Thánh Phaolô đã viết: “Tôi đã cho anh em uống sữa, chứ không phải đồ ăn cứng, bởi khi ấy anh em chưa sao chịu nổi, mà cả bây giờ anh em cũng chưa chịu nổi đâu!” (1 Cr 3,2) 

Còn chính Chúa Giêsu lại phán: “Thầy còn nhiều điều cần nói với các con, nhưng hiện giờ các con không thể hiểu nổi. Khi Thần Chân Lý đến, Ngài sẽ dắt các con đi vào Chân Lý toàn vẹn, vì Ngài không tự mình mà nói, nhưng sẽ nói mọi điều Ngài nghe và báo cho các con những gì sẽ đến” (Ga 16,12-13)

Xin cha mẹ, Bề Trên và các nhà đào tạo hãy nhẫn nại cho con. Không ai một sớm một chiều mà nên trưởng thành và  hoàn hảo ngay được. Xin đừng đốt giai đoạn. Đốt giai đoạn là đốt cháy luôn cả cuộc đời con.  

Chúa Giêsu phải thực sự là TÂM ĐIỂM của đời sống cộng đoàn trong Chúa Thánh Thần…  

Chớ gì mỗi thành viên cộng đoàn thực sự sống điều Chúa Giêsu dạy: "Điều Thầy truyền cho các con là hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con" - "Không có tình yêu nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình" - "Các con là bạn hữu của Thầy nếu các con tuân giữ những diều Thầy truyền dạy." 

Quả thế, khi Chúa Giêsu thực sự là TÂM ĐIỂM đời sống cộng đoàn của chị em trong Chúa Thánh Thần, cộng đoàn chị em sẽ mở ra với thế giới, và thế giới sẽ hiệp nhất và được cứu độ. 

LẠY CHÚA THÁNH THẦN, XIN CHÚA TIẾP TỤC CHO ĐẾN HOÀN THÀNH TỐT ĐẸP TIẾN TRÌNH XÂY DỰNG HỘI DÒNG CHÚNG CON THÀNH CỘNG ĐOÀN YÊU THƯƠNG THỰC SỰ MÀ CHÚA ĐÃ KHỞI SỰ CHO CHÚNG CON VÀ VỚI CHÚNG CON.  AMEN.

VỀ MỤC LỤC
THUỐC Ở TRONG RAU
 

Kinh nghiệm dân gian ta vẫn thường nói: “Đói ăn rau, đau uống thuốc”.

Nhưng thực ra, rau không chỉ là món ăn nhiều chất dinh dưỡng mà còn là những liều thuốc trị bệnh quý giá. Chẳng thế mà danh y Hải Thượng Lãn Ông của ta đã có nhận xét:

“Nên dùng các thứ thức ăn

Thay vào thuốc bổ có phần lợi hơn”

Và thánh tổ y học phương tây Hippocrates có đưa ra một đề nghị hết sức thuyết phục là “Hãy để rau là vị thuốc”.

Mà những loại rau củ có vị đắng chứng tỏ các nhận xét này là rất đúng.

 

Trái Mướp Đắng màu xanh có bề ngoài gồ ghề ngộ nghĩnh đã được ghi trên sáu con tem biểu tượng cho sáu loại cây thuốc thiên nhiên có dược tính trị bệnh cao mà Liên Hiệp Quốc phát hành vào năm 1980.

Mướp đắng chứa  đầy đủ các  chất dinh dưỡng căn bản như nước, đạm, carbohydrat, béo, sinh tố và một số khoáng chất với tỷ lệ khác nhau

Mướp đắng có thể dùng để ăn sống, nấu canh, xào với thịt bò, muối dưa, phơi khô làm trà pha nước uống...

Canh thịt heo bằm nhỏ nhồi vào mướp đắng là món ăn đặc biệt ở miền Bắc Việt Nam.

Mướp đắng hấp với tôm tươi, thịt nạc, mộc nhĩ, nấm hương, hành khô, mắm muối tiêu, xảo với thịt.. tạo ra vị hơi đắng hòa với hương thơm mùi tôm thịt là món ăn giải nhiệt, bổ dưỡng..Món xà lách mướp đắng cũng rất hấp dẫn, ăn vào mát cơ thể..

Mướp đắng được coi như  có khả năng làm hạ đường huyết, hạ huyết áp, chữa ho, giảm đau nhức, sát trùng ngoài da, trừ rôm sẩy ở trẻ em.

Trong mướp đắng cũng có một hóa chất có khả năng ngăn ngừa sự thụ thai ở loài chuột.

Trên thị trường hiện nay có bán trà khổ qua, được giới thiệu là có thể giúp ngủ ngon, đại tiện dễ dàng, mát gan, bổ mật, giải nhiệt, giải độc trong cơ thể và khi dùng thường xuyên sẽ ngừa được các biến chứng của bệnh tiểu đường, sỏi thận, mật....

 

Actiso Đà Lạt là loại thảo mộc nổi danh ở nước ta. Nổi danh vì khí hậu luôn luôn mát lạnh nơi cao nguyên nhiều nắng khiến cho actiso có năng suất cao.

Actisô có nhiều chất dinh dưỡng như  các sinh tố C, B, folacin, chất xơ và một vài khoáng chất như sắt, kali. 

Về phương diện ẩm thực, actisô thường được luộc, hấp cách thủy để ăn hoặc ninh với thịt gà, thịt lợn. Actisô có thể được dùng tươi,  để đông lạnh hoặc đóng hộp.

Nhiều nghiên cứu cho biết Actisô có tác dụng  bảo vệ gan,  làm hạ cholesterol trong máu và đường huyết,  kích thích sản xuất mật, giảm đau khớp xương, thông tiểu tiện.

 Tại vài quốc gia, dung dịch chế biến từ actisô được dùng làm thuốc chích chữa các bệnh về gan.  Trà Actisô là thức uống được rất nhiều người ưa dùng.

Theo nhiều nhà chuyên môn, actisô không gây tác hại cho cơ thể.

 

Diếp cá hoặc rau Giấp  là món ăn ưa thích của bà con miền Nam.

Cách đây mấy chục năm, dân cư miền sông Hồng, núi Ngự vào giao lưu với Cửu Long Giang là rất lắc đầu “nhăn mặt” vì vị tanh tanh “lợm dọng” khi ăn phải cọng rau này. Vậy mà bây giờ, Nam Trung Bắc một nhà, nhiều người cũng đều ưa thích diếp cá.

Nhưng cái tanh tanh, béo béo của diếp cá lại rất “hiệp nhất” với cái tanh của những miếng cá còn tươi. Phải chăng đây là duyên tiền định với tên “diếp cá”. Trung Quốc gọi diếp cá là “Ngư Tinh Thảo” và tiếng Anh gọi là Fish Mint

Ở nước ta, diếp cá mọc hoang khắp vùng đất ẩm thấp và cũng được trồng làm rau ăn hoặc làm thuốc trị bệnh.

Diếp cá có thể ăn sống hoặc dùng làm gia vị chung với các rau khác trong bữa ăn. Có người hầu như ghiền với diếp cá, thiếu nó như thiếu người tình hơi “bị” cho là chanh chua nhưng dễ thương.

 Lá diếp cá ăn vào rất mát, có thể làm trĩ hậu môn sẹp xuống. Ngoài ra, diếp cá cũng được y học dân gian tại nhiều quốc gia dùng làm lợi tiểu tiện, hạ cao huyết áp, giảm ho, tiêu diệt vi khuẩn.

Nghiên cứu tại viện y dược Toyama, Nhật Bản, cho hay diếp cá có chất chống oxy hóa rất mạnh quercetin có thể ngăn chặn nhiều loại ung thư và tăng cường tính miễn dịch..

Trong Lĩnh Nam Bản Thảo, danh y Hải Thượng Lãn Ông tóm tắt:

“Ngư Tinh Tảo gọi cây rau Giấp

Ấm cay, hơi độc, mùi hôi tanh

Ung thũng, thoát giang với đầu chốc

Đau răng, lỵ ngược chữa mau lành”. 

Khát khô cả họng trong nắng tháng Bảy của Sài Gòn mà gặp một xe bán Nước Rau Má xanh mát thì cơn khát không những hết đi mà tâm hồn cón thấy sảng khoái.

Thực vậy, nghiên cứu tại Ấn Độ cho hay nước triết rau má không những tăng khả năng trí tuệ của trẻ em có thương số thông minh (IQ) thấp mà còn làm người cao tuổi  giảm bớt những quên này quên kia, giúp thị lực bớt nhạt nhòa.

Nhiều nghiên cứu khác còn gợi ý rằng rau má trị được cả bệnh vẩy nến, vết phỏng, vết thương, viêm khí quản, chống nhiễm trùng, chống độc, giải nhiệt, lợi tiểu.

Từ những năm 1960, Giáo sư Bửu Hội đã nghiên cứu tác dụng trị bệnh phong với rau má. Ngày nay, nhiều khoa học gia cho là chất Asiatioside của rau má có tác dụng tương đương với dược phẩm trị phong chính là Dapsone.

Rau má có tính lạnh cho nên người tỳ vị hàn, hay đi tiêu chảy, cần cẩn thận khi dùng. 

Rau Đắng  đã đi vào văn hóa âm nhạc trong những bài viết nhiều tình người, tình quê  hương của nhạc sĩ Bắc Sơn từ rừng cao su Dầu Tiếng.

Nhăc phẩm “Còn thương rau đắng mọc sau hè” với tiếng hát Hương Lan, Như Quỳnh đã làm bao nhiêu khách ly hương khi nghe mà mắt nhòe ướt lệ.

          “Ai cách xa cội nguồn

          Ngồi một mình nhớ lũy tre xanh

          Dạo quanh khung trời kỷ niệm

          Chợt thèm rau đắng nấu canh” 

Vì nhớ tới những lũy tre xanh nơi có người chị đầu bạc tóc ân cần nhổ tóc sâu cho chú em từ xa về thăm quê. Có những bà mẹ hiền luôn luôn chăm sóc miếng ăn, thức uống cho chồng cho con.

Rau đắng nấu canh với các loại cá,  nhúng lẩu hoặc chấm mắm kho là những  món ăn tuyệt hảo của bà con miệt đồng. Rau đắng còn có thể nấu với thịt heo bầm nhuyễn, với tép, với tôm…

Mới ăn rau có vị khá đắng, chỉ kém có khổ qua, nhưng ăn quen lại thấy ngòn ngọt, nhớ hoài.

Rau đắng cũng được dùng trong y học.

Theo Giáo sư Đỗ Tất lợi, rau đắng được dùng làm thuốc lợi tiểu, bổ thận, giúp ăn ngon và giảm đau khi đắp lên nơi tê thấp, rắn cắn.

Kết luận

Nhà dinh dưỡng uy tín Hoa Kỳ Jean Carpenter phát biểu rằng “Trong thực phẩm có dược phẩm.  Thay đổi dinh dưỡng có thể ngăn ngừa và giảm sự trầm trọng của bệnh tật”

Đây là lời khuyên khá hữu ích mà chúng ta cũng nên theo. 

 Nguyễn Ý-Đức, M.D. Texas- Hoa Kỳ.

VỀ MỤC LỤC
QUỸ ĐEN    Chuyện phiếm của Gã Siêu 

 

Khi…”ngâm kíu” về tiếng Việt, gã nhận thấy như thế này : tiếng nước ta hơi bị nghèo về lãnh vực trừu tượng, chăng hạn như khoa học kỹ thuật, triết học và tâm lý…Các từ chuyên môn trong  những lãnh vực này thường được dịch từ tiếng tàu.

Thế nhưng, tiếng nước ta lại rất giàu về tình cảm, chẳng hạn để tiễn tả thái độ không được hài lòng, thì tùy theo mức độ của nó, gã có thể ghi nhận : bực, tức, giận, dỗi và hờn…

Có lần một ông bạn người Pháp chính hiệu con gà trống “Gô loa” đang hoc tiếng Việt, đã nhờ gã dịch chữ…”hờn” sang tiếng “Phăng xe”. Gã cảm thấy rất bối rối, không biết phải chọn từ nào để mà dịch. Cuối cùng đành bó tay, phải cắt nghĩa một cách vòng vo tam quốc cho ông ta hiểu mà thôi.

Ngoài ra, tiếng nước ta vừa tượng thanh lại vừa tượng hình, rất cụ thể và lại giàu về hình ảnh. Chẳng hạn, cứ nhẩn nha đọc lại bài “Thu Điếu” của Nguyễn Khuyến, là đã thấy hình ảnh và âm thanh xuất hiện trong đầu óc :

- Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,

  Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.

  Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,

  Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo.

Hay để diễn tả về màu trắng, thì tùy theo mức độ đậm nhạt, chúng ta có : trắng đục, trắng ngà, trắng bạc, trắng dã,  trắng bong, trắng hếu, trắng nõn, trắng phau phau, trắng như trứng gà bóc.

Hôm nay, gã xin được tán hươu tán vượn về màu đen. Đây cũng là màu nói lên tính cách khác biệt giữa Đông phương và Tây phương. Thực vậy, để diễn tả nỗi đớn đau tang tóc khi có người thân yêu qua đời, bên Đông phương thường dùng màu trắng, còn bên Tây phương lại thường dùng màu đen.

Vậy đen là như thế nào ?

Theo định nghĩa thông thường thì đen có nghĩa là màu thẫm,  màu tối, không được phản chiếu ánh sáng. Trái với đen là trắng. Cũng như màu trắng, tùy theo mức độ đậm nhạt, chúng ta có : đen sạm, đen sặm, đen giòn, đen kịt, đen bóng, đen lánh, đen ngòm, đen huyền, đen tuyền, đen thui, đen sì…

Hơn thế nữa, tùy theo đối tượng, chúng ta có được những tên gọi khác nhau để chỉ màu đen. Chẳng hạn : Lọ dành cho da mặt. Thâm dành cho môi và hàng vải. Mực dành cho lông chó. Mun dành cho lông cọp, lông beo và lông mèo. Ô dành cho lông gà, lông ngựa và  lông chim…

Tương truyền rằng : Chức nữ là cháu gái của Ngọc Hoàng Thượng Đế, chuyên trông nom việc dệt vải, được gả cho Ngưu Lang. Sau khi lấy Ngưu Lang, Chức Nữ bắt đầu chểnh mảng công việc, liền bị Ngọc Hoàng Thượng Đế phạt, cho dời về phía đông sông Ngân Hà, mỗi năm chỉ cho gặp mặt Ngưu Lang một lần, đó là đêm thất tịch, mồng bảy tháng bảy.

Trong đêm ấy, tất cả chim quạ và chim khách, tức là chim ô và chim thước, hai loại chim đều có lông màu đen, kết thành nhịp cầu cho Chức Nữ và Ngưu Lang gặp nhau tại sông Ngân Hà. Nhịp cầu này được gọi là “ô thước kiều”, cầu ô thước. Cả hai mừng mừng tủi tủi, ôm lấy nhau mà khóc. Nước mắt rơi xuống thành những giọt mưa ngâu :

- Khi xưa ai biết ai đâu,

  Vì chim ô thước bắc cầu sông Ngân.

Trong ngôn ngữ thường ngày, gã thấy người ta hay ghép tĩnh từ đen này với một vài danh từ, chẳng hạn sổ bìa đen là sổ ghi chép những người cần phải quan tâm với những tội trạng của họ.

Vào năm 1984, gã liên tục được công an chiếu cố, mời tới làm việc hoài. Mỗi lần một cấp khác nhau. Thế nhưng mỗi anh công an đều có một cuốn sổ, trong đó mọi lời nói, mọi việc làm của gã đều được ghi chép cẩn thận. Để bắt đầu làm việc, anh công an bèn mở sổ ra, rồi dựa vào đó mà hạch hỏi…

Ngày nay, trong những tai nạn máy bay thảm khốc, người ta thường hay nói tới chiếc hộp đen. Chắc hẳn đây là chiếc hộp màu đen, ghi lại những mẩu đối thoại giữa phi hành đoàn và các trạm không lưu. Dựa vào những lời được ghi lại ấy, người ta sẽ biết được nguyên nhân khiến cho máy bay bị lâm nạn : vì thời tiết, vì trục trặc kỹ thuật hay vì bị khủng bố…

Ngoài ý nghĩa cụ thể về màu sắc như trên, chữ đen bên tây cũng như bên ta, còn mang nhiều nghĩa bóng, nhiều ám chỉ khác nữa.

Đen là xui, là rủi. Trò đỏ đen là trò cờ bạc, vốn dựa trên những hên xui.

Đen là  bi quan và buồn phiền, đau khổ và thất vọng, như khi chúng ta nói : những tư tưởng đen tối.

Đen là giận dữ, độc ác như khi chúng ta bảo : những ý đồ đen tối.

Đen là xấu bụng, tệ bạc, như khi chúng ta xác quyết : tình đời thay trắng đổi đen.

Đen là bậy bạ, khiêu dâm.

Tới đây, gã xin trình bày một vài cái “đen” đang được bàn dân thiên hạ nói tới, nhất là tại Việt Nam. 

Thứ nhất là những trang Web đen. 

Đó là những trang Web chuyên môn chuyển tải những hình ảnh khiêu dâm cho bàn dân thiên hạ chiêm ngắm. Những trang Web này thật ê hề và nhan nhản như nấm mọc sau cơn mưa. Một khi đã vô mạng, thì bất cứ gõ vào chữ nào, cũng thấy chúng xuất hiện. Chính vì lý do này, mà nhiều bậc cha mẹ, ngại mua sắm vi tính. Và nếu đã mua sắm thì lại ngại nối mạng, vì sợ con em mình, cố ý hay vô tình, lang thang vào những trang Web đen này. 

Thứ hai là những quán cà phê…đen.  

Cà phê đen ở đây không phải là cà phê phin, cái nồi ngồi trên cái cốc, để rồi được thưởng thức những giọt đắng tuyệt vời, làm sảng khoái tận tâm can tỳ phế, đúng với tiêu chuẩn cà phê quốc tế :

- Đen như thằng quỉ, nóng như hỏa ngục và lịm như tình yêu.

Những quán cà phê…đen ở đây chính là những ổ mại dâm trá hình, mà bất cứ thành phố nào cũng có. Một bài viết mới xuất hiện trên báo Công An Thành phố đã mô tả một quán cà phê “đen” như sau :

Theo chân anh bạn “thổ địa”, đầu tháng 10 năm 2006, chúng tôi vòng quanh đoạn đường có các quán cà phê “đen” để tìm hiểu thực hư. Từ cầu Tân Thuận rẽ vào đường Nguyễn Văn Linh, sau ba phút, những quán cà phê trá hình đã xuất hiện trước mắt. Bất thình lình hai thanh niên từ quán PT nhảy ra vịn xe chúng tôi lại, mời vào uống…cà phê. Hai người, một mặc áo sơ mi trắng, một mặc áo carô sọc xanh, nở nụ cuời cầu hòa khi chúng tôi tỏ vẻ khó chịu :

- Vào quán em uống cà phê đi, ở đây có nhiều trò dzui lắm, em út chiều hết mình luôn.

Rơi vào tình thế đã đành, chúng tôi gượng gạo xuống xe. Anh bạn đi cùng rỉ tai :

- Hai người này làm nhiệm vụ giữ xe, lôi kéo khách và kiêm luôn cảnh giới.

“Má mì” của quán là một pêđê. Tưởng khách quen, gã tỏ ra vồn vã khi chúng tôi bước vào :

- Dạo này sao hổng thấy các anh tới chơi. Mấy con bé quán em cứ nhắc hoài.

Đúng như lời giới thiệu, vừa thoáng thấy bóng khách, hai cô gái đon đả tiếp cận, “dìu” vào trong. Trước mặt chúng tôi là những chiếc bàn uống cà phê đặt chỏng chơ, vắng tanh không có vị khách nào :

- Sao quán vắng thể ?

Nghe chúng tôi hỏi, hai cô gái chỉ tay về phía dãy nhà lá tối om cặp sát bờ tường.

- Sao giống cà phê…chòi quá vậy ?

Một trong hai cô đáp :

- Còn hơn cà phê chòi nữa.

Đến cửa đã thấy một cô gái khác chờ sẵn, tay cầm chiếc đèn pin nhỏ dẫn đường. Yên vị, chúng tôi gọi cà phê sữa đá, thì được trả lời :

- Các anh thông cảm, quán này chỉ bán nước ngọt thôi.

Lát sau, cô gái mang ra hai chai Number One rồi ngồi xuống gạ gẫm. Vờ như không để ý, tôi bắt đầu hỏi chuyện. Cô gái rỉ rả về lai lịch nơi đang làm việc : quán mới mở được vài năm. Ban đầu lượng khách chẳng bao nhiêu, chỉ có bốn người thế mà vẫn thường xuyên phải ngồi chơi xơi nước. Nhưng gần đây nam công nhân khu chế xuất Tân thuận có “nhu cầu” nhiều, nên quán liên tục phát triển…Ở đây người ta gặp gỡ, chọn hàng, ngã giá và rồi đi…tới bến!!! 

Thứ ba là xã hội đen 

Đây là những cá nhân, hay những băng đảng sống ngoài vòng phấp luật, được tổ chức theo kiểu “mafia”. Sẵn sàng dùng bạo lực như súng đạn, dao găm, mã tấu…để thanh toán kẻ thù, cũng như thanh toán lẫn nhau, theo luật giang hồ : răng đền răng, mắt thế mắt… Mỗi băng nhóm thường có một “ông trùm” hay một “đại ca”. làm sếp để chỉ huy bọn đàn em của mình. Những năm gần đây thấy nổi cộm lên những vụ án như Năm Cam ở Saigon, Hà Lê ở Nha Trang… 

Thứ tư là chợ đen 

Nói một cách đơn giản, chợ đen là nơi bán hàng lậu, hàng trốn thuế. Thị trường đen này dường như mỗi lúc một bành trướng và đáp ứng mọi nhu cầu của thượng đế là khách hàng, từ một dĩa phim mới toanh đến một cuốn bách khoa tự điển, từ một chai rượu tây đến một chiếc xe hơi đời mới…muốn mua gì cũng có, miễn là biết gõ đúng cửa và gặp đúng người.

Cách đây vài năm khi cuốn phim “Cuộc thương khó của Chúa Giêsu” vừa mới ra lò và được chiếu thử ở một vài nơi bên Mỹ, thế mà tại Việt Nam đã thấy bày bán dĩa phim này.

Cũng thế, khi chương trình XP của Microsoft, chưa được trình làng, thế mà tại Việt Nam, những người sử dụng vi tính đã được cài đặt chương trình này, mà chẳng tốn một đồng xu cắc bạc nào. Quả là nạn ăn cắp bản quyền ở đất nước này đã đạt tới trình độ…siêu đẳng!!! 

Sau cùng là…quỹ đen.

Đó là số tiền được dành riêng để chi dùng một cách kín đáo, mà không cần phải ghi vào sổ sách hay tính toán chi cả. Những cái “đen” trên kia, nói theo ngôn ngữ nhà nước hiện nay, không ít thì nhiều, đều mang tính cách “vĩ mô”, nghĩa là có tầm mức to lớn. Còn quỹ đen mà gã muốn bàn ở đây là quỹ đen của các anh chồng, thì mang tính cách “vi mô”, nghĩa là có tầm mức nhỏ bé, chỉ ảnh hưởng tới gia đình, chị vợ và anh chồng mà thôi.

Gã nhớ hồi còn bé, mỗi khi xin tiền bố mẹ để đóng học phí, hay mua sắm sách vở, thế nào cũng được bố giảng cho một bài “luân lý giáo khoa thư” về giá trị của đồng tiền do mồ hôi nước mắt mới tìm kiếm được, cũng như về đức tính tiết kiệm trong việc chi tiêu : cái gì cần thì mua, cái gì xa xỉ thì không. Rồi sau đó mới xùy ra cho gã những đồng tiền còm.

Đôi khi các chị vợ cũng đối xử với các anh chồng hơi bị giống như là bố mẹ vậy. Điều đó có nghĩa là tiền vào thì dễ mà tiền ra thì khó. Chị vợ cũng hơi bị giống như ông nhà nước, chỉ có thu mà không có chi. Và nếu có chi, thì cũng phải trải qua những thủ tục rất là phức tạp : tiêu bao nhiêu, tiêu vào việc gì và việc ấy có chính đáng hay không, vân vân và vân vân.

Mỗi khi đem tiền lương về giao nộp đầy đủ, xem ra chị vợ nào cũng  hớn hở và hồ hởi :

- Cuối tháng tui mới lãnh lương,

  Vợ tui bỗng chốc dễ thương vô cùng.

  Về tới nhà, bả ôm hun,

  Bả nói lòng bả nhớ nhung quá trời.

  Xong rồi bả mới mở lời :

  Tiền lương cuối tháng em coi xem nào.

  Dứt lời, túi trước túi sau,

  Hai tay bả móc…tui đau đớn lòng.

  Chỉ vài ba phút là xong,

  Tiền trong tay bả, tui không còn gì.

  Thế rồi bả cất bước đi,

  Nét duyên khi nãy còn gì nữa đâu.

  Một tháng hai chín ngày sầu,

  Ngày vui duy nhất qua mau quá trời.

  (Trần Thành Nghĩa)

Kinh nghiệm cho thấy, trong mọi vấn đề thì vấn đề “đầu tiên” bao giờ cũng vẫn là vấn đề…”tiền đâu”. Ngay cả trong sinh hoạt thường ngày cũng vậy. Sau đây là một mẩu đối thoại giữa hai vợ chồng về chuyện chi tiêu trong gia đình.

Chị vợ lên tiếng hỏi :

- Tiền lương mau hết quá đi,

  Anh tiêu những gì ? Em tính không ra !

  Để xem…sắm sẵn trong nhà,

  Bánh, trà, thuốc lá với cà phê ngon,

  Nào là rượu thuốc, bia lon,

  Đủ tiêu chuẩn ấy lo tròn cho anh,

  Trong nhà sẵn món ngon lành,

  Sao anh còn khoản tiêu nhanh ngoài lề ?

Anh chồng gãi tai trả lời :

- Ra đường gặp gái…thì sang,

  Về nhà gặp vợ hỏi han…hết giàu.

  Vợ ơi ! Đừng hỏi gắt gao,

  Lương anh đâu có được cao bằng người.

  Mà vào mấy chỗ “mát tươi”,

  Trăm đô mua lấy trận cười như không.

  Anh luôn ghi nhớ trong lòng,

  Những lời em đã khổ công dặn dò :

  Ra đường đừng phí tiền cho,

  Những gì được miễn phí no ở nhà.

  Lương anh mau hết chẳng qua,

  Vì con nhà lính tính nhà quan trên,

  Bạn bè lui tới, xuống lên,

  Chén thù, chén tạc cho nên tốn tiền.

  Từ nay anh sẽ cữ kiêng,

  Bớt phần giao tiếp liên miên gọi mời.

  Để em khỏi phải than ôi,

  Nâng khăn sửa túi…thủng rồi lại lo.

  (Linh Cơ)

Theo một bài viết của Nguyễn Diễm trên báo Phụ Nữ Chủ Nhật, số 39, ra ngày 01 tháng 10 năm 2006, thì đa số các anh chồng không mấy quan tâm đến thu nhập của vợ, thì ngược lại với thiên chức “tay hòm chìa khóa, hầu hết các chị vợ đều muốn “thâu tóm” tiền bạc về một mối, để mình quản lý. Vì thế, lắm ông chồng rất khổ sở trong việc chi tiêu “ngoài luồng”, bởi sống đâu chỉ cần hai bữa cơm nhà, vài chục ngàn đồng dằn túi vợ phát mỗi ngày! Túng thì phải tính, chuyện các anh chồng lập quỹ đen thì ai cũng biết, các chị vợ cũng biết, nhưng đành bó tay, vô phương kiểm tra truớc “trăm phương ngàn kế” của các anh chồng.

Thực vậy, hầu như anh chồng nào cũng có những nhu cầu ngoài luồng, có khi chính đáng và cũng có khi không chính đáng. Những nhu cầu ngoài luồng này chỉ có thể bật mí với bè bạn, chứ chẳng thể nào huỵch toẹt ra cho chị vợ, thành thử làm sao mà năn nỉ ỉ ôi, hay cò kè bớt một thêm hai với chị vợ cho được. Đành phải âm thầm lập quỹ đen.

Việc lập quỹ đen thì cũng có đủ mưu đủ chước và bài báo đã “bật mí” một vài mưu chước như sau :

Anh chồng nọ làm nghề nhiếp ảnh, thỉnh thoảng cũng được vác máy đi chụp mấy cô người mẫu. Chuyện bia bọt giao tiếp, cũng như chuyện chơi sao cho đẹp với các cô người mẫu tất nhiên phải có, nhưng “quyết toán” thế nào với chị vợ đây ? Chỉ cần tiêu mất vài trăm ngàn mà “giải trình” chẳng xuôi là không êm liền tù tì. Tiêu vào bia bọt với bạn bè còn “nhức mình” vì  chị vợ cằn nhằn, nói gì đến khoản giao lưu cùng các cô em xinh đẹp.

Thế là thay vì cất tiền trong bóp, anh giấu khắp nơi. Từ các ngăn bí mật trong cái túi xách to đùng, lỉnh kỉnh đồ nghề, có nhiều ngăn lớn nhỏ của anh cho đến trong cốp xe, trong sổ tay…Giấu tiền khắp nơi, nên nhiều khi anh cũng không nhớ nổi mình còn bao nhiêu tiền, lúc cần có khi tìm hoài không thấy.

Một lần, con gái anh mới sáu tuổi nghịch phá đã mở hộp đựng một cuộn phim anh vừa chụp chưa kịp tráng. Thế là đi đoong cuộn phim, nhưng anh không bực mà còn…vui, vì một “phát kiến” lớn chợt đến. Còn chỗ nào giấu tiền mà chị vợ không dám động đến tốt hơn là hộp đựng phim ? Thế là vài trăm ngàn được gấp nhỏ lại, cho vào cái hộp đen đen be bé đó, dán trên nắp một miếng băng keo, ghi vài chữ “phim chưa tráng” là hoàn toàn yên tâm. Còn ai dám mở hộp phim ngoài anh? Cho dù cái hộp ấy có để ngay trước mặt, chị vợ cũng chẳng dám động vào. Cũng từ đó, mỗi khi rủ rê đi nhậu, bạn bè thường hỏi anh :

- Mày còn…hộp phim chưa tráng nào không ?

Có anh chồng thì cất giấu tại cơ quan. Có anh chồng thì gửi nơi người thân tín. Có anh chồng thì mở tài khoản riêng ở ngân hàng, nhất là từ khi các ngân hàng phát hành thẻ ATM, cho rút tiền ở các máy được đặt sẵn khắp nơi…Thôi thì đủ chước đủ vành, đến quỷ thần cũng không lường nổi.

Nếu quỹ đen được dùng để bao bồ nhí, hay đi bia ôm thì đó là điều sai trái, không thể chấp nhận được và chắc chắn sẽ dẫn tới những hậu quả thảm khốc, nhẹ thì vợ chồng cãi vã, nặng thì tình cảm đổ vỡ và dẫn tới ly hôn.

Thực tế, có nhiều chị vợ chỉ muốn chồng nộp tiền vào mà không muốn chi tiền ra, khi anh chồng cần, ngay cả cho những nhu cầu chính đáng. Cũng có không ít chị vợ muốn kiểm soát chặt chẽ, chi ly từng đồng chi tiêu vặt vãnh của anh chồng, muốn hàng ngày phát tiền cho chồng, như phát tiền cho con. Mà nếu các chị đã làm như vậy, thì cũng khó trách các anh lập quỹ đen.

Nếu chị vợ hiểu biết, để cho chồng giữ lại một khoản tiền tương đối mà tự do chi xài những chuyện lặt vặt như : đổ xăng, uống cà phê, dùng vài ly bia khi gặp bè bạn…thì có lẽ các anh chồng nghiêm túc sẽ không cần phải tính đến chuyện lập quỹ đen làm gì.

Để kết luận, gã xin ghi lại nơi đây lời tâm sự của một anh chồng :

- Thật ra mình cũng chẳng muốn chuyện quỹ đen, quỹ trắng, nhưng để yên nhà yên cửa thì không có không được. Đi nhậu với bạn bè tốn vài trăm ngàn là chuyện bình thường đối với đàn ông, nhưng đối với mấy bà thì chẳng bình thường chút nào. Cứ thử về nhà bảo vợ : Em đưa cho anh vài trăm ngàn đi nhậu…xem có yên thân được không ? Chẳng lẽ mỗi chút lại phải xòe tay xin vợ ? Mà xin không có lý do chính đáng thì đừng hòng…

Nói cho cùng, cũng phải hiểu cho các bà. Đi chợ mua một miếng thịt cũng phải kỳ kèo trả giá, làm sao không xót khi biết chồng mình tiêu xài vào những chuyện mà các bà cho là vô bổ, tốn kém…

Quỹ đen thì cứ quỹ đen, nhưng tôi vẫn xác định : tiền giao cho vợ là yên tâm nhất, vì khi gia đình cần đến là có ngay, mình mà giữ tiền, đến lúc cần, tiền đã bốc hơi từ lúc nào không hay…

Tóm lại, lập quỹ đen hay không là do nhu cầu của các anh chồng, nhưng đồng thời cũng do cách xử sự của các chị vợ nữa!!!

Gã Siêu     gasieu@gmail.com

VỀ MỤC LỤC

- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến, bài vở..., xin gởi về địa chỉ

giaosivietnam@gmail.com

- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:

Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục vụ của Giáo sĩ;  Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh vực; Mỗi  Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)

- Quy vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại

www.conggiaovietnam.net

Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị

Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác nhau.

TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam

Lm. Luca Phạm Quốc Sử  USA

 

 

Duoc chon giua loai nguoi va cho loai nguoi; GIAO SI: Xuat phat tu giao dan, hien dien vi giao dan va cay dua vao giao dan, de cung lam VINH DANH THIEN CHUA

*************