Viện Đại Học Đà Lạt
Giữa Ḷng Dân Tộc Việt Nam
1957-1975
(Bản Bổ Sung Lần I, 2/2008)
Hoà Giang Đỗ Hữu Nghiêm
TRI ÂN
Kính Dâng
Hương Hồn Ba Vị Ân Sư,
*Giám Mục Ngô Đ́nh Thục, Tiến Sĩ Thần Học, Giáo Luật, Kinh Thánh
Chưởng Ấn kiêm Viện Trưởng Tiên Khởi Viện Đại Học Đà Lạt (1957-1960)
**Linh Mục Simon Nguyễn Văn Lập, Cử Nhân Sử Địa,
Viện Trưởng Thứ Hai Viện Đại Học Đà Lạt (1961-1970)
***Linh Mục Phanxicô Xaviê Lê Văn Lư, Giáo Sư Tiến Sĩ,
Viện Trưởng Cuối Cùng Viện Đại Học Đà Lạt (1970-1975)
“Đại Học Chi Đạo, Tại Minh Minh Đức, Tại Tân Dân, Tại Chỉ Ư Chí Thiện”.
ĐẠI HỌC
Người biên khảo cố tổng hợp một h́nh ảnh hết sức đầy đủ về những chặng đường của Viện Đại Học Đà Lạt theo cái nh́n chắc chắn có hạn chế. Nhưng người viết đă thực hiện bằng tất cả tấm chân t́nh xây dựng, yêu mến, lương tri và nhận thức sử học tích lũy được từ các bậc ân sư tiền bối. Chắn hẳn có thể có những sự kiện chi tiết không làm vừa ư người này người khác, nhưng xin hăy đọc mấy ḍng chữ này với tâm hồn b́nh thản, tha thứ, cảm thông, quảng đại và thân ái. Người biên khảo tiếp tục đón nhận mọi phê b́nh và góp ư xây dựng từ mọi nơi, mọi phía độc giả. Người biên khảo luôn tâm niệm rằng: “Thà đốt lên một đốm lửa, con hơn là ngôi yên nguyền rủa bóng tối”, dù vẫn biết là công việc ḿnh làm c̣n đầy khuyết nhược điểm, chủ quan.
Xin cám ơn các bậc trưởng thượng đáng kính, các linh mục, các giáo sư đồng nghiệp, các môn sinh khả úy, các thân hữu đă chia sẻ nhiều tài liệu quí giá, khuyến khích, góp ư, sửa chữa, bổ sung để người biên khảo đủ sáng suốt, nghị lực và nhiệt t́nh hoàn thành tập biên khảo này với thời gian kỷ lục trong thời đại vi tính ngày nay, tuy đă được ấp ủ từ lâu. Hy vọng càng tránh được nhiều sai lầm chủ quan càng tốt. Tuy nhiên, mọi khuyết nhược điểm, giới hạn nhân bản của tập khảo luận này hoàn toàn do người biên khảo chịu trách nhiệm. Đặc biệt người biên khảo xin tri ân các quí vị thân hữu có phương danh dưới đây:
Linh Mục Vũ Minh Thái, (Kentucky, USA)
GS Phó Bá Long (McLean, VA, USA)
GS Thế Tâm Nguyễn Khắc Dương (Huế, Việt Nam)
Linh Mục Nguyễn Văn Đời (Sydney AU, RIP 15/5/2006)
GS Trần Long (Portland, OR, USA)
GS Trần Văn Mầu (Đà Lạt, Việt Nam)
GS Trần Văn Cảnh (Paris, Pháp)
Các Thế Hệ Môn Sinh Thụ Nhân Bằng Hữu:
Linh Mục Hoàng Đ́nh Mai, cựu chủng sinh GHHV/PIOX (Rạch Giá, Việt Nam)
Hồ Trí Thức, cựu chủng sinh GHHV/PIOX (CA, USA)
Nguyễn Văn Chi (Montréal, Canada)
Tạ Duy Phong (Houston, TX, USA)
Linh Mục Nguyễn Hữu Quảng, SBD (Melbourne, AU)
Phạm Văn Bân (Santa Ana, CA, USA)
Nguyễn Văn Năm (Houston, TX, USA)
Phạm Đ́nh Đắc (San Jose, CA, USA)
Trần Thanh Việt (Seattle, WA, USA)
Vĩnh An Nguyễn Văn Sơn (G̣ Vấp, Sàig̣n, Việt Nam)
Vơ Quỳnh Mai (Denmark, Europa)
Vũ Sinh Hiên (Sàig̣n, Việt Nam)
Đỗ Tấn Hưng (Vancouver, Canada)
Phạm Văn Lưu (Melbourne, Australia)
Xin Trời đổ tràn Ơn phù trợ xuống trên chúng ta.
Kỷ Niệm Mùa Đại Hội Thụ Nhân Vancouver, BC, Canada, Ngày 1&2/7/2006
Ḥa Giang Đỗ Hữu Nghiêm
Dayton, OH, USA, June 4th 2006. Pentecostal Sunday
Oakland, CA Hiệu Chính Và Bổ Sung Từ Ngày 10/1/2008.5
Viện Đại Học Đà Lạt Giữa Ḷng Dân Tộc
Chương I. Từ Thiên Nhiên Đến Con Người
Chương II. Lư Tưởng và Mục Tiêu
Chương III. Điều Kiện Hợp Pháp đến Hoạt Động Thực Tiễn
Chương IV. Hội Đại Học Đà Lạt
Chương V. Quá Tŕnh Thành Lập Viện Đại Học Đà Lạt
Chương VI. Khối Hành Chánh
Chương VII. Khối Tâm Linh
Chương VIII. Khối Phục Vụ Chuyên Biệt
Chương IX. Khối Học Thuật
Chương X. Một Số Dự Án của Viện Đại Học Đà Lạt
Chương XI. Trường Sư Phạm
Chương XII. Trường Văn Khoa
Chương XIII. Trường Khoa Học
Chương XIV. Trường Chánh Trị Kinh Doanh
Chương XV. Trường Thần Học
Chương XVI. Số Liệu Thống Kê Toàn Viện
Chương XVII. Những Mẩu Sinh Hoạt Rời Rạc
Chương XVIII: Những Ngày Xáo Trộn Từ Tháng 4/1975 Của Viện Đại Học Đà Lạt Tại Sàig̣n
Chương XIX. Ṿng Tay Liên Kết Thân Hữu Thụ Nhân
I. Hội Thân Hữu Thụ Nhân Quốc Ngoại
II. Hội Thân Hữu Thụ Nhân Quốc Nội
Giáo Tŕnh Trích Ngang:
Sư Phạm, Văn Khoa, Khoa Học, Chánh Trị Kinh Doanh
Danh Sách Phương Danh Các Giáo Sư Niên Khóa 1973-74
Trường Sư Phạm (28)
Trường Văn Khoa (69)
Trường Khoa Học (47)
Trường Chánh Trị Kinh Doanh (84)
Trường Thần Học
Phụ Lục III
Danh Sách Một Số Cựu Sinh Viên Đă Thành Danh
Phụ Lục IV
Các Văn Kiện Bàn Giao Viện Đại Học Đà Lạt Sang Chính Quyền Mới
Tài Liệu Tham Khảo
___________________________________________________
Chương Một: Từ Thiên Nhiên Đến Con Người
1. Môi Trường Thiên Nhiên Cao Nguyên Lâm Viên
Không ai không thấy điều kiện tự nhiên thuận lợi của Đà Lạt trong một miền nhiệt đới gần xích đạo. Đến nỗi người ta hiện nay hầu như chỉ nói, chỉ nghĩ đến Đà Lạt như một thành phố du lịch nghỉ ngơi với khí hậu trong lành giữa trời xanh tươi với bao thắng cảnh mê hồn. Nhưng ít ai chú ư đến cải vẻ thanh thoát ấy của Đà Lạt lại giúp cho con người học hành rất thú vị, dễ hiểu dễ nhớ, và làm việc quên mệt v́ nó giúp cho con người dễ đắm ḿnh học hành, làm việc vào trong cảnh trí hữu t́nh trong mát. Vùng trời tĩnh mịch, êm ả và mát mẻ giúp cho con người có nhiều khả năng tập trung. Đúng là thiên nhiên đă ưu đăi con người nơi đấy, bằng cách tạo cho con người một môi trường quyến rũ lạ thường ở một đất nước có lúc nóng bức như thiêu. Người viết đă sang bên Baguio, một thành phố của Phi Luật Tân nằm trên vùng núi phía Bắc của đảo Luzon, hải đảo lớn nhất của đât nước quần đảo này. Baguio có cao độ tương tự như Đà Lạt của Việt Nam nhưng không hề duyên dáng, quảng đại xinh đẹp và dịu hiền bằng Đà Lạt. Đà lạt có một không gian đủ thoáng rộng với địa h́nh nhấp nhô vừa phải, chứ không quá dốc hẹp gắt mạnh như tại Baguio mát mẻ nhưng gồ ghề, tuy Baguio cũng có quân trường nổi tiếng.
Môi trường tự nhiên đặc biệt đó không chỉ ở cao độ trung b́nh 1.500mét cao hơn mặt biển mà c̣n có những rừng thông, cỏ cây hoa lá cả ôn đới với đồi núi và hồ suối tự nhiên rất nên thơ mà ít nơi có. Chính v́ rừng thông Đà Lạt là bộ máy khổng lồ lọc không khí trong lành nhờ tính sát trùng của dầu thông. Tôi không muốn nói đến thiên nhiên Đà Lạt kiểu mổ tả địa lư, mà khơi lên những đặc điểm rất thực tế gần gũi mọi người đang cư trú tại đó. Đà Lạt là một vườn cảnh thu hẹp của thiên nhiên anh đào Tokyo Nhật Bản những ngày cuối tháng hai đầu tháng ba mỗi năm.
2. Môi Trường Văn Hóa Cao Nguyên Lâm Viên.
Nói đến đặc điểm lịch sử văn hóa và nhân văn của Tây Nguyên, th́ không thể không nói tới những người dân tộc sống hồn nhiên trong các buôn plei xa tít măi trong rừng. Họ bảo lưu một kho tàng quí giá rất hiếm hoi mà các nhà dân tộc gọi là văn minh truyền miệng, đặc biệt là nhà dân tộc học Dambo Jacques Dournes (1922-1993). Jacques Dournes vốn là một nhà truyền giáo nhiệt thành thuộc Hội Thừa Sai Paris, từng phục vụ cộng đồng dân tộc người Srê ở Lâm Đồng (1947-54) và cộng đồng dân tộc người Jơrai ở giáo phận Kontum (1955-1970).
Tất cả các dụng cụ may mặc, trồng trọt, âm nhạc, điêu khắc, hội họa và xây dựng nhà cửa, mộ táng đều là sản phẩm từ thiên nhiên: cây tre, cây nứa, ḥn đá, củi lửa, trường ca, tập tục như lễ đâm trâu, …. Trong cả vùng rừng thăm thẳm như thế, c̣n nằm yên không biết bao nhiêu kho tàng chôn vùi ở dưới đất, thậm chí người ta c̣n nói đến chiều dài và bề dầy lịch sử các đế quốc người Mạ cổ xưa, và dân tộc Churu. Những người này có bà con gần gũi với người Chàm cư trú từ duyên hải Phan Rang, Phan Rí cho đến Phan Thiết và đang cất giữ rất nhiều cổ tích văn hóa Chàm ở vùng núi và cao nguyên Phan Thiết giáp ranh với Lâm Đồng.
Kho tàng quan trọng khác là các ngôn ngữ và tập tục mà chúng ta cần nghiên cứu học hỏi. Họ, các cộng đồng dân tộc ́t người hiện nay, chính là h́nh ảnh thơ ấu của cộng đồng dân tộc người Kinh ngày nay. Thường chỉ có những tâm hồn đơn sơ yêu mến thiên nhiên mới muốn t́m thấy đến họ và chia sẻ với họ. Họ có một lịch sử của chính họ, dù mong manh theo cách riêng của họ. Họ dậy chúng ta hiểu thế nào là lịch sử truyền miệng mà các nhà sử học dân tộc học hiện nay rất coi trọng. Đó là nghiên cứu lịch sử cách sống của những cộng đồng người làm sao tồn tại được khi họ buộc phải sống len lỏi giữa chốn núi rừng tự do nhưng thật khắc nghiệt. Họ vẫn tồn tại giữa miền nhiệt đới pha tạp với các thảm thực động vật và khí hậu thuộc ôn đới ở các cao độ khác nhau, xa các nơi có nếp sống tiến tiến hơn ở vùng đồng bằng.
Tôi chưa chú ư đển những địa thế và nguồn nước khiến cho người ta có thể khai thác được thủy điện, hay nhiều khoáng loại đặc biệt như quặng bauxít, thậm chí quặng uranium và nhiều thứ thạch anh mà một thời nhiều nhà địa chất người Pháp đă từng miệt mài thám quật như Henri Fontaine, Edmond Saurin làm việc với Trường Khoa học ở Sàig̣n. Ít ai nghĩ đến việc hợp tác với người Mỹ, như Wilhelm Solheim II, giảng dậy tại Trường Đại Học Hạ Uy Di, để khai thác nhiều di chỉ của khảo cổ ở miền Tây Nguyên, để học được nơi các chuyên gia khảo cổ kinh nghiệm, kỹ năng trổi vượt của họ và những khoản tài trợ cần thiết hữu ích của họ trong lúc đất nước chúng ta c̣n thiếu thốn, vừa thoát cảnh đô hộ. Người Mỹ cũng rất nhiều chuyên gia ngữ học và dân tộc học chú trọng tới các ngôn ngữ, tập tục độc đáo của nhiều cộng đồng ngữ tộc ở Tây Nguyên. Người ta không thế không biết trân trọng nhiều công tŕnh ngữ học công phu của nhiều học giả Viện Chuyên Cứu Ngữ Học Mùa Hè (SIL- Summer Institute of Linguistics, Inc.) thuộc Trường Đại Học North Dakota. Tôi thầm ước ao có rất nhiều sáng kiến từ tập thể đại học Đà Lạt dấn thân năng động vào các dự án t́m hiểu vùng đất này về các mặt địa lư, địa chất, nhân văn, kể cả chánh trị kinh doanh, sư phạm và văn chương. Những nghệ sĩ tuyệt vời như Siu Black đă từng làm nổ tung Cao Nguyên với tiếng hát đầy nhựa sống...
Sau cùng người ta không thể không biết đến rất nhiều nỗ lực và hy sinh của các nhà truyền giáo Công giáo và Tin Lành đang có mặt, chen vai thích cánh ở địa bàn Cao Nguyên miền Trung Việt Nam.
Dường như họ cạnh tranh hay đối đầu quyết liệt với nhiều hoạt động của các nhà chánh trị thuộc nhiều xu hướng và phe phái quyền lợi khác nhau như Cộng Sản, không Cộng Sản trên đất nước Việt Nam. Sâu xa hơn là tác động của những thành phần chánh trị của người Pháp, Mỹ, Ấn Độ, Trung Hoa, kể cả Kampuchia, Thái Lan, Mă Lai, Lào c̣n tham vọng đối với các dân tộc và nguồn lợi ở Cao Nguyên miền Trung sát vùng Tam Biên Việt-Miên-Lào truyền kiếp này.
Nh́n vào lịch sử Phi Luật Tân, Mă Lai, hay Nam Dương nói riêng và Đông Nam Á nói chung, th́ nếu số phận người dân tộc thiểu số, vốn cùng chung gốc với nhiều dân tộc trong vùng, được chính quyền liên hệ ở Việt Nam quan tâm hơn, th́ họ sẽ phát triển khởi sắc không thua kèm nhiều dân tộc làm thành các quốc gia có phần tiến bộ như ở các quốc gia vừa kể,…
3. Việt Nam Vào Thời Điểm 1954-1957
Thời gian mấy năm sau cuộc đại di cư tiếp theo sau Hiệp Định Genève 1954 cho ta thấy một t́nh h́nh có nhiều sắc thái đặc biệt thúc đẩy cho hoạt động văn hóa giáo dục như dự án thành lập Viện Đại Học Đà Lạt.
Việt Nam vừa bị chia cắt thực tế làm hai miền theo các điều khoản lịch sử của Hiệp Định Genève ngày 20/7/1954. Miền Bắc theo chế độ Cộng sản từ vĩ tuyến 17 trở ra lấy tên nước là Việt Nam Dân Chủ Cộng Hỏa. Con sông Bến Hải là ranh giới tự nhiên tạm thời giữa hai miền. Miền Nam theo chế độ tự do lấy tên là Việt Nam Cộng Ḥa, ở phía Nam vĩ tuyến 17.
Miền Nam phải đối phó với một cuộc di cư vĩ đại vượt quá tầm vóc của chính ḿnh, nếu không có quốc tế, nhất là Hoa Kỳ, giúp đỡ. Ngoài những khó khăn của một nước nghèo nàn lạc hậu, Miền Nam rất thiếu chuyên gia sau cuộc phân chia đó về mọi mặt, đồng thời phải xây dựng một chế độ miền Nam vững mạnh. Sau cuộc di cư miền Nam phải đối phó mời nhiều khó khăn. Mấy vấn đề cơ bản sau khi ổn định xong cuộc di cư mà miền Nam phải đối phó là:
Thứ nhất cần xúc tiến thống nhất quân đội, các đảng phái, các tôn giáo và dành lại chủ quyền độc lập dân tộc từ tay người Pháp và từ tham vọng bá chủ của người Mỹ.
Thứ hai là xây dựng các cộng đồng di dân theo một chiến lược định cư có kế hoạch đa diện để vừa xây dựng kinh tế, vừa bảo vệ an ninh lănh thổ. Miền Nam phải canh chừng cuộc xâm nhập t́nh báo CS đủ loại cố nằm sâu trong các lực lượng quân dân cán chính toàn quốc ở miền Nam, nhất là trong các cộng đồng di dân, các dân tộc thiểu số ở Cao Nguyên và các lực lượng cựu kháng chiến Việt Minh c̣n lại tại miền Nam.
Thứ ba là củng cố một chính quyển dân chủ vững mạnh, ngay trong t́nh h́nh phải đối phó với chính sách hiếu chiến đầy tham vọng vốn có của miền Bắc nhằm áp đặt chế độ độc tài lên cả nước. Miền Nam hy vọng có thể đứng vững và bảo vệ lănh thổ và xây dựng chế độ xă hội độc lập dân tộc thực sự, và cùng thi đua phát triển với miền Bắc trong quá tŕnh thương thảo tiến tới thống nhất bằng con đường ḥa b́nh.
Không phải chỉ có GHCG mới đối phó với CS hữu hiệu nhất, nhưng nhiều hành vi của CS nhắm tập trung vào cộng đồng Công giáo mănh liệt nhất ở bất cứ nơi nào có sự xâm nhập của chủ nghĩa CS trên thế giới. Chính ví thế người CG có một vai tṛ tích cực, nếu không phải là tiên phong trong mặt trận ứng phó vói chủ trương chuyên quyền xây dựng đất nước, và tiêu diệt tôn giáo một cách có hệ thống.
Muốn thế cần phải tạo ra tài nguyên và huấn luyện nhân lực đủ tài đức. Trong khuôn khổ chế độ giáo dục toàn dân ở các cấp, nhất là cấp đại học quốc gia. GHVN qua HDGMVN, cũng ư thức được trách nhiệm đào tạo, góp phần vào công tŕnh xây dựng tài nguyên nhân lực chung của đất nước trong t́nh huống đa đoan ấy.
Thực tế lịch sử diễn ra chỉ trong năm 1955 đến gần hết năm 1956 bộc lộ nhiều khó khăn. Đây là giai đoạn có nhiều vấn đề phức tạp đặc biệt: người Pháp t́m cách kéo dài quyển lợi thực dân của họ ở Đông Dương, bằng cách mua chuộc các chính đảng, các lực lượng quân sự tôn giáo có nền tảng từ nhiều giáo phái chống lại chính quyền do TT Ngô Đ́nh Diệm cầm đầu, ngơ hầu phân hóa lực lượng quân sự, chính trị và tôn giáo trong nước.
Cuộc đối phó với ba tổ chức chính trị có nền tảng tôn giáo: B́nh Xuyên, Hỏa Hảo, Cao Đài và lực lượng gắn bó với Pháp, vào thời điểm 1957-58 tương đối tạm lắng xuống, ít ra bề ngoài. Chính trong bối cảnh xă hội ấy, th́ chính quyền Ngô Đ́nh Diệm tập trung sức lực vào xây dựng cơ chế vững vàng hơn. Hồng Y Spellman là một trong nhiều yếu tố xúc tác khá quan trọng lôi kéo quốc tế vào quá tŕnh định cư và xây dựng ở miền Nam ở giai đoạn từ 1954 đến 1965. Cuộc xây dựng VDHDL chắc chắn đă có bàn tay của ngài, thể hiện trong ṭa giảng đường nguy nga mang tên Spellman theo một tầm nh́n có tính chiến lược lâu dài và cơ bản.
Chính những tiền đề đó là bối cảnh cho việc GHVN đi đến thành lập một Hội Đại Học để xây dựng một Viện Đại Học Đà Lạt trên chốn cao nguyên này.
Chương Hai: Lư Tưởng và Mục Tiêu Giáo Dục
Người viết rất đồng ư với nhiều suy tư của GS Nguyễn Khắc Dương về mục tiêu của giáo dục đại học Công giáo. Trong bài huấn dụ sinh viên nhân lễ tốt nghiệp khóa I của Trường Đại Học Sư Phạm, GM Chưởng Ấn[1] Ngô Đ́nh Thục tiên khởi đă phát biểu:
“Ở bất cứ đâu, Giáo Hội Công Giáo đă từng góp phần giáo dục thanh thiếu niên. Trên khắp lănh thổ Việt Nam thân yêu của chúng ta, từ Bắc chí Nam, từ làng quê đến thành thị, các trường trung tiểu học được Công giáo bảo trợ đang hoạt động hăng hái. Rất nhiều cựu học sinh của những trường này đang phục vụ dân tộc chúng ta trong nhiều lănh vực hoạt động khác nhau.
Nhưng Đất Nước vào giai đoạn phát triển mới cần có những nhân sự được huấn luyện đầy đủ đế có thể đáp ứng với những đ̣i hỏi mới.
Nhằm tiếp tục truyền thống giáo dục của Giáo Hội Công giáo góp phần vào nhiệm vụ quan trọng là đào tạo giới ưu tú cho Đất Nước, toàn thể các Giám Mục Việt Nam đă quyết định thành lập Viện Đại Học Đà Lạt, mặc dù có nhiều khó khắn về tài chánh và nhân sự. Các Giám Mục tin tưởng rằng các sinh viên của chúng ta - nhờ các giáo sư giảng dậy tận tâm, có giáo thuyết trong sáng bảo đảm, sẽ đạt tới những kết quả thỏa đáng, trong toàn môi trường cảnh quan và khí hậu cao nguyên trong mát này[2]”.
Tiếp lời vị GM Chưởng Ấn, Bộ Trưởng Quốc Gia Giáo Dục Trần Hữu Thế cũng phát biểu:
“Xứ sở chúng ta đă cố gắng phấn đấu kiến thiết nền tảng tinh thần và vật chất do yêu cầu tiến bộ của toàn dân. Chúng phủ kêu gọi đến thiện chí của các cá nhân và tổ chức. Viện Đại Học là một gương sáng hợp tác đó, và sự thành công của Viện Đại Học Đà Lạt chứng tỏ cho tôi viện có đủ tinh thần tham dự vào việc đào tạo các kỹ thuật gia và các nhà trí thức cho Việt Nam, cùng với các viện đại học quốc gia[3].”
Trong bản tường tŕnh cũng của GM Chưởng Ấn Viện Đại Học Đà Lạt kính gửi Bộ Trưởng Bộ Quốc Gia Giáo Dục, sau bốn năm xây dựng và hoạt động, những mục tiêu của việc thành lập một Viện Đại Học đă được nhắc lại rơ rệt:
a. Nhằm cung ứng cho sinh viên Việt Nam nói chung, và cách riêng cho những người Công giáo. Chính họ vẫn mong muốn học hỏi, nhưng thiếu một trung tâm cho họ có thể tiếp tục những công cuộc học hỏi ở đó.
b. Nhằm đảm lănh cuộc phục hưng đạo lư của những trí tuệ đă đi lạc đường trong nhiều năm rối loạn chiến tranh đă qua.
c. Nhằm mở rộng nền giáo dục Đại Học nơi quần chúng, nhất là nơi những người Công giáo, ngơ hầu bắt kịp tiến bộ chung của nhân loại[4].
Thực ra suy nghĩ sâu xa hơn, việc thành lập Viện Đại Học Đà lạt, cũng như bất cứ sinh hoạt nào của Giáo Hội đều thực hiện sứ mạng “truyền giáo”, tức là loan Tin Mừng cứu độ cho mọi loài thụ tạo, cho đến tận cùng trái đất, tận cùng thời gian. Truyền giáo là một trong những bổn phận căn bản của Kitô giáo, của từng Kitô hữu.
Giáo Hội muốn Kitô hóa mọi giá trị tốt đẹp của trần thế; muốn cứu độ mọi sinh hoạt văn hóa xă hội và kể cả kinh tế chính trị, nên Đại học Công giáo cũng nhằm nhập thể giá trị cứu độ vào mọi sinh hoạt văn hóa của mọi dân tộc, mọi thời đại, mọi nền văn minh, chứ không nhằm mục đích chính trị nào cả. Nền văn hóa được giảng dạy trong Đại Học Công giáo không theo (chứ không chống lại) duy vật và vô thần về mặt tư tưởng nhằm tạo điều kiện cho con người tiếp nhận chân lư hữu thần của Kitô giáo. Đạo Kitô muốn thâu gồm và bổ khuyết mọi giá trị chân chính của các triết lư khác.
Chẳng hạn, theo cái nh́n của một giáo sư triết học, th́ chủ thuyết vô thần Mác–xít ít nhất cũng có ba yếu tố được nh́n với thiện cảm:
“1. Mọi tài sản ở trần gian đều có mục đích phục vụ cộng đoàn nhân loại, trái với chủ nghĩa duy lợi nhuận cá nhân của chủ trương tự do kinh doanh quá trớn.
2. Giá trị kinh tế cũng như tinh thần và đạo đức của người lao động, và tôn trọng lao động chân tay; Thánh Phụ Giuse, Chúa Giêsu, các Thánh tông đồ hầu hết là thành phần lao động chân tay.
3. Công bằng xă hội trong việc phân phối sản phẩm của lao động… Thậm chí cả yếu tố duy vật và vô thần cũng được xem như có phần tác dụng tích cực nào đó; giúp người tín hữu lưu tâm hơn đến khía cạnh mầu nhiệm “Thiên Chúa mang lấy xác phàm” khỏi bị lạc vào cái sai lầm duy tâm (idéalisme); tinh luyện quan niệm về Thiên Chúa, thoát khỏi sa lầy vào một sự mê tín dị đoan ngấm ngầm vô thức [trang 174] nào đó, có nguy cơ tha hóa con người, vốn được Thiên Chúa ban cho có lư trí và tự do làm chủ đời ḿnh, xă hội và thiên nhiên.”[5]
2/. Truyền giáo và chính trị trần thế
Mục đích là thế, c̣n việc có bị ai lợi dụng không? Có thể thấy rằng đương nhiên; chính quyền nào cũng muốn lợi dụng tất cả để phục vụ cho mục tiêu của ḿnh! Giáo Hội và cá nhân thừa hành có chủ ư phục vụ cho một mưu đồ chính trị đảng phái không hay có vô t́nh để cho người ta lợi dụng không, như thế không thể vơ đũa cả nắm. Giáo Hội không chủ trương dùng Đại Học Đà Lạt để phục vụ chính trị cho chế độ nào cả!
Theo nhận định của GS Nguyễn Khắc Dương, từng phục vụ tại Viện Đại Học Đà Lạt chín năm (1966-1975):
“C̣n phần cá nhân các linh mục, các thành viên trong giáo ban th́ đó là chuyện riêng tư cá nhân họ, tôi không biết thâm tâm họ ra sao, nhưng tôi không thấy ai đă làm công việc cụ thể nào phục vụ cho mục tiêu chính trị nào cả! Mà tôi, riêng bản thân tôi, tôi xác định rằng tôi không phục vụ cho mục tiêu chính trị nào cả, mà tôi cũng đă cố gắng hết sức nếu có thể, không để cho ai lợi dụng ḿnh phục vụ cho một mục tiêu chính trị nào cả, c̣n hỏi tôi rằng có đủ khôn ngoan già dặn để đối phó, thoát khỏi mưu mô của những tay cáo già chính trị hay không? Th́ tôi xin hỏi lại, có ai dám quả quyết ḿnh tài giỏi như vậy, để tôi xin cắp sách đến học.
Tôi chỉ có thể nói rằng tôi không thấy có việc cụ thể nào (nhằm mục đích ấy) tôi làm để phục vụ cho một mục tiêu chính trị. Có chăng là một vài việc trong đó tôi bị phê b́nh là: “Có lợi cho Cộng sản”, ví dụ quá tích cực trong việc xin miễn dịch, hoăn dịch cho sinh viên hoặc để cho các sinh viên tá túc qua đêm trong pḥng tôi (dù họ đến gơ cửa lúc đêm khuya) không cần biết họ có phải là Việt Cộng nằm vùng hay không, mà chỉ biết họ là người quen lỡ đường, th́ theo lời Chúa dạy ḿnh phải đón tiếp họ như chính Chúa vậy, người sinh viên ấy có thể là Đại Việt, Cần Lao, là Việt cộng, là thành phần thứ 3 thứ 4 ǵ đó, tôi không thể biết được và tôi cũng không muốn biết, tôi chỉ biết họ là con người gặp khó khăn chờ tôi giúp đỡ, thế thôi!
Tôi không kể công với ai, mà tôi nghĩ tôi cũng chẳng có tội với ai về mặt chính trị v́ tôi là một con người vốn phi chính trị từ trong bản chất và dù chỉ là một giáo dân thường, [trang 175] tôi phát nguyện trọn đời phục vụ Thiên Chúa, và với cương vị giáo sư một Trường Đại học Công giáo, tôi là cán bộ văn hóa làm việc dưới sự quản lư của Hội Thánh Công giáo Việt Nam, để chống trả ba kẻ thù của Chúa Giêsu - Đó là: dốt nát, đau khổ và tội lỗi.
Trước hết là nơi chính bản thân tôi, sau nữa là nơi những anh chị em mà Chúa để cho tôi gặp gỡ trên mỗi nẻo đường không phân biệt ai, không hỏi căn cước lư lịch ai, v́ ai cũng là thân phận làm người trong một cơi thế gian mà sự dữ đă len vào để quấy phá chương tŕnh của Thiên Chúa dưới mọi h́nh thức, ở khắp mọi nơi; ngay cả trong ḷng Hội Thánh và trong ḷng tôi nữa. Và v́ thế tất cả đều cần được ơn cứu độ của Thiên Chúa. Do đó, khi ư Chúa nhiệm mầu đưa Viện Đại Học đến chỗ ngưng sinh hoạt, tôi vui vẻ nhẹ nhàng theo ư Chúa đi đến những nơi khác, làm những việc khác (ví dụ, gánh phân bón ruộng) với tất cả ḷng tin cậy mến b́nh an vui vẻ, cố gắng thương yêu mọi người trong t́nh yêu Chúa. Cố nhiên đó là cố gắng tối đa, c̣n đạt được bao nhiêu là việc Chúa thẩm phán, tôi không tự đánh giá ḿnh và cũng chẳng quan tâm đến lời thiên hạ (dù là ai) thị phi khen chê cả! Chỉ sợ ḿnh vô ư làm buồn ḷng anh chị em mà thôi.”[6]
“Phải chăng, đáng lẽ tôi phải biết như thế để bỏ cái ham mê ấy mà cố gắng tạo một sự nghiệp văn hoá thế tục trần gian. Tôi chỉ hỏi thế thôi, chứ với sự giải thể Viện Đại Học Công giáo Đà Lạt năm 75 th́ cũng chưa rơ ư Chúa mầu nhiệm muốn ǵ, bởi v́ như tôi đă ghi ở trên, kể từ năm 73, tôi đă t́m cách bắt tay vào, tuy có hơi muộn nhưng cũng là chưa muộn màng lắm! Dầu sao, đến năm 75, th́ lịch sử đă sang trang! Viện Đại Học Đà Lạt nay là một trường đại học của một nền giáo dục xây dựng trên nền tảng lư thuyết Mác-Lê, Giáo Hoàng Học Viện nay là cư xá của công nhân viên chức thuộc Viện Nghiên Cứu Hạt Nhân!”[7]
Tưởng cần giải thích chiều hướng ư nghĩa mà tập thể Viện Đại Học Đà Lạt đă nhận thức và chọn lựa. Có thể ư nghĩa trở nên rơ rệt hơn từ thời LM Viện Trưởng Nguyễn Văn Lập cùng với nhiều người đă ghi khắc chữ Thụ Nhân cho huy hiệu Viện Đại Học Đà Lạt, với cây thông xanh cây đứng hiên ngang giữa vùng trời cao nguyên. Lư tưởng Thụ Nhân này bắt nguồn từ danh ngôn cổ truyền của văn hóa Á Đông:
“Nhất Niên Chi Kế, Mạc Nhi Thụ Cốc, Thập Niên Chi Kế Mạc Nhi Thụ Mộc, Bách Niên Chi Kế Mạc Nhi Thụ Nhân” (Kế Hoạch Một Năm, Không Ǵ Bằng Trồng Lúa, Kế Hoạch Mười Năm, Không Ǵ Bằng Trồng Cây, Kế Hoạch Trăm Năm, Không Ǵ Bằng Trồng Người).
Từ đó Thụ Nhân trở thành phương châm biểu tượng và thực hành cho lư tưởng giáo dục “trồng người” của Viện Đại Học Đà Lạt cho đến nay.
Chương Ba. Điều Kiện Hợp Pháp Đến Hoạt Động Thực Tiễn
1. Việc Thành Lập Theo Luật Pháp
Về pháp lư dân sự, Hội Đại Học Đà Lạt được giấy phép hoạt động chính thức theo Nghị Định số 67/BNV/NA/P5 của Bội Nội Vụ kư ngày 8/8/1957[8] và bắt đầu từ niên khóa 1957-58. Nhưng trong thực tế chính nhiều người có trách nhiệm của Viện Đại Học Đà Lạt lại nói Viện này được thành lập vào những thời điểm khác nhau. Như vậy thực sự Căn bản pháp lư của Hội Đại Học Dà Lạt đă có từ ngày 8 tháng 8 năm 1957.
Và để tạo điểu kiện cho Hội ĐHĐL hoạt động th́ nhà nước gửi sinh viên của chính phủ lên thụ huấn bởi chính những giáo sư từ Sàig̣n đến Viện Đại Học Đà Lạt giai đoạn ban đầu, ít nhất là ba năm từ các niên khóa 1958-1959 đến 1961. Đây là năm có khóa tốt nghiệp đầu tiên của ba năm thụ huấn tại Đà Lạt của sinh viên ban Triết Học và Pháp Văn, do nhà nước gửi tới.
Văn kiện thứ hai là Sắc Lệnh số 232/NV do Tổng Thống Việt Nam Cộng Ḥa kư ngày 9/9/1959[9] công nhận Hội Đại Học Đà Lạt là một hội công ích và công nhận Hội Đồng Quản Trị của Hội này là một tổ chức pháp nhân[10]. Căn bản đó giúp Hội Đại Học có đầy đủ tư cách pháp nhân để tạo măi tài sản hợp pháp, được hưởng nhiều thứ quyền lợi về kinh doanh, nhất là xuất nhập cảng, với nhiều ưu tiên khác, như không phải đóng thuế v́ hoạt động công ích.
Đây là hai văn kiện pháp lư đầu tiên giúp Hội Đại Học Đà Lạt có điều kiện để hoạt động kinh tài xây dựng Viện Đại Học. V́ thế việc tạo măi đầu tiên mà Hội Đại Học Đà Lạt đă thực hiện do việc thành lập một Nhóm Cố Vấn Pháp Lư[11] để thi hành các thủ tục và thương thuyết với Chính Phủ. Chỉ đến tháng Ba năm 1960, Chính Phủ Việt Nam mới chấp nhận yêu cầu của Hội. Chính Phủ đă dành cho Đai Học Đà Lạt quyền chiếm hữu khuôn viên hiện có trong thời gian vô hạn định.
Như thế theo thủ tục pháp lư, Hội đă mua hẳn cơ sở Trường Thiếu sinh quân trước kia, lúc đó chuyển thành Camp Robert, mà nhà nước Việt Nam tiếp quản từ quân đội Pháp với giá tương trưng là 1 đồng bạc Việt Nam. Nhà nước Việt Nam bán đứt cho Hội Đại Học Đà Lạt với giá cao hơn (xin xem dưới cũng trong bài viết này, trang 17). Với lợi tức phát triển dần dần, Hội Đại Học đă mua hẳn những tài sản kinh doanh để tài trợ cho các hoạt động giáo dục lâu dài, ổn định của Viện Đại Học.
Những văn kiện tiếp theo chỉ có tính cách bổ sung về các phương diện học vụ củng cố cho việc phát triển của Viện Đại Học Đà Lạt ở những giai đoạn khác nhau về sau. Những văn kiện đó sẽ được khai triển trong quá tŕnh cấu trúc thích hợp của nghiên cứu này.
2. Những Cảm Nhận Và Chứng Từ Thực Tế Khác
Chính hai thời điểm của văn kiện pháp lư đó và những cuộc thương lượng gay go có liên quan đă giải thích những cảm nhận khác nhau về quá tŕnh h́nh thành Viện Đại Học Đà Lạt sau này. Theo Niên Giám 2005 của HĐGMVN trang 777, Viện Đại Học Công giáo được thành lập vào tháng 8 năm 1957[12] tại Đà Lạt, thuộc quyền sở hữu của Hội Đại Học Đà Lạt, mà hội viên là toàn thể các giám mục trong Hội Đồng Giám Mục Việt Nam. Viện có mục đích phát huy văn hóa dân tộc, bảo lưu các giá trị văn hóa cổ truyền tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, kết hợp hài ḥa với luồng văn hóa quốc tế, phù hợp với tinh thần Tin Mừng Công giáo và góp phần vào giáo dục các thế hệ để phát triển đất nước và dân tộc. Trong bối cảnh xă hội tại Việt Nam, thiết tưởng nên phân tích thêm một số mặt để làm rơ mục tiêu tôn chỉ[13] này như trên.
1. Quá Tŕnh H́nh Thành.
Hội Việt Nam Viện Trợ Giáo Dục Cao Đẳng.
Ban đầu chính TGM Ngô Đ́nh Thục chủ động thiết lập “Hội Việt Nam Viện Trợ Giáo Dục Cao Đẳng[14]” ngay từ năm 1957, nhằm mục đích kinh tài yểm trợ cho các hoạt động phục vụ xây dựng Viện Đại Học Đà Lạt.
Có nhiều vận động yểm trợ từ Cơ quan Viện Trợ Công giáo Hoa Kỳ, qua các ông Đinh Văn Bài[15] và Công Chứng Viên Phạm Quang Lộc, khi đó là cố vấn cộng tác với LM phụ trách do HĐGMVN chỉ định[16]. Ông Bài, một nhân viên xă hội làm việc tại Cơ Quan đó, cho biết có nhiều bất động sản khởi đầu được dự tính trao cho Hội làm phương tiện kinh doanh.
Các lợi tức có được, dùng để tài trợ cho việc tạo măi tài sản, thiết lập và duy tŕ liên tục công cuộc phát triển Viện Đại Học Đà Lạt. Khi đó, có cả những bất động sản như: khu rừng Cao su ở Củ Chi, Trảng Bàng, B́nh Long, và Thủ Đức, do người Pháp trao trả hay bỏ lại. Hội Việt Nam Viện Trợ Giáo Dục Cao Đẳng dường như có vai tṛ hoạt động kinh tài song hành một thời gian nhất định yểm trợ cho việc thành lập Hội Đại Học Đà Lạt. Hội Đại Học này trở thành chính thức vào tháng 8/1957.
Trong số những h́nh thức vận động tài trợ của Hội Đại Học Đà Lạt, ngoài những vận động tài chánh ở hai ngoai, c̣n vận động tài trợ từ phía chính phủ Việt Nam.[17]
- Công văn số 415-TTP/ĐL/M ngày 4-12-1957 của Đổng Lư Văn Pḥng Phủ Tổng Thống gởi Bộ Trưởng Bộ Tài Chánh ghi lại:
“Do công văn số 1570-BTC/DC/B ngày 5-8-1957, ông Bộ trưởng có đề nghị Tổng thống tặng dữ đồn điền tại Blao, tịch thâu của Lê Văn Viễn, cho trường Đại học sắp thành lập tại Đà Lạt. “Sự tặng dữ này khi trường Đại học nói trên đă hoàn thành và có tư cách pháp nhân để nhận lănh. “Tôi trân trọng tin để ông Bộ trưởng rơ: Tổng thống chấp nhận đề nghị trên đây của ông Bộ trưởng.” [18]
- Tiếp đến, theo yêu cầu của Giám Mục Ngô Đ́nh Thục, ngày 31-7-1958, Bộ trưởng Bộ Kiến thiết và Thiết kế đô thị đă gởi Công văn số 1392/BKTĐT/KOC đến ông Ngô Đ́nh Diệm đề nghị cho trường Đại học này được ứng trước 5.000.000 đồng để dùng vào việc xây cất trường. Công văn viết:
“Với mục đích giúp phương tiện cho Đức Tổng (Chú thích của người viết: thực sự, Giám Mục Ngô Đ́nh Thục măi năm 1960 mới lên chức Tổng Giám Mục khi được bổ nhiệm làm Tổng Giám Mục Huế) Giám Mục, Chưởng Ấn Trường Đại học Đà Lạt, thực hiện ngay việc xây cất nhà trường trong dịp nghỉ hè, để kịp khai giảng vào niên khóa 1958-1959, Thiểm bộ kính xin ông Tổng thống cho phép Ngân Sách Tự Trị Quốc Gia Kiến ốc Cục, tài khóa 1958, ứng trước ra một ngân khoản 5.000.000 đồng để sử dụng vào công tác nói trên.”[19]
- Để xúc tiến hợp thức việc ứng trước, ngày 2-8-1958, chính quyền Ngô Đ́nh Diệm ra nghị định số 272-KT/TKĐT “cho phép mở một kỳ Xổ số đặc biệt để xây dựng Trường Đại học Đà Lạt.” [20]
Dĩ nhiên nên biết là 5 triệu đồng vào thời đó có giá trị rất lớn, và cứ kéo dài măi việc thực hiện đề nghị trên một cách nào đó là bất hợp lư, nhưng để làm giải quyết nhu cầu, số tiền trên đă được chuẩn chi đặc biệt như một ngoại lệ.
Công văn số 33.275B/19.057-TP/NSNV/CT/3B, ngày 12-8-1958 của Tổng Thư kư Phủ Tổng thống nói rơ trường hợp này: “Riêng về phần pháp lư… là một cơ quan tư, trường Đại học Đà Lạt có thể đứng ra vay tiền của Quốc Gia Kiến Ốc Cục. Trên căn bản, cơ quan này khó ḷng thỏa măn đơn vay ấy được, v́ trái với mục tiêu cho vay của cơ quan.”
Có lẽ v́ lư do ấy nên Bộ Kiến Thiết mới tŕnh lên Tổng thống để ứng trước, v́ là một ngoại lệ. Thủ tục này có phần đúng, nhưng về phương diện tài chánh, một khi Tổng thống cho phép, tất nhiên chính phủ đă mặc nhiên bảo đảm số nợ cho tư nhân, và như vậy Ngân Sách Quốc Gia bị buộc trả, nếu tư nhân không trả được. Trên nguyên tắc, sự đảm bảo như vậy khó ḷng thực hiện được. Tuy nhiên, nếu việc nâng đỡ trường Đại học Đà Lạt là cần thiết và được thượng cấp chấp nhận, Nha này tưởng có thể áp dụng thủ tục sau đây:
“a. Để Hội Đồng Quản Trị của Quốc Gia Kiến ốc Cục quyết định về đơn vay của trường Đại học; mặc dầu không đúng với mục tiêu của cơ quan, nhưng Hội đồng có thể xét được v́ tánh cách của công tác;
“b. Áp dụng Điều thứ 16 của nghị định ngày 15-6-1951… quyết định cho vay phải được Tổng thống chuẩn y để có hiệu lực thi hành;
“c. như vậy số chi phí trên sẽ được ghi vào Ngân Sách Của Kiến Ốc Cục.”
Và ngay ngày hôm nay (13-8-1958), bằng Nghị định số 281-KT/TKDT, chính quyền NĐD đă “cho phép Quốc Gia Kiến Ốc Cục ứng trước cho trường Đại học Đà Lạt một số tiền là năm triệu đồng (5.000.000)” (Điều 1) và “trường Đại học Đà Lạt phải hoàn lại số tiền ứng trước cho Kiến Ốc Cục khi thâu được lợi tức kỳ Xổ số “Loại đặc biệt Trường Đại học Đà Lạt” phát hành năm 1958” (Điều 3) [21].
Dù thế nào chăng nữa th́ dưới cái nh́n của nhiều người nhất là người tin theo đạo Phật, Trường Đại Học Đà Lạt đă được xây dựng phần nào bằng phương tiện và tài chánh quốc gia, và phản ứng của giới Phật Giáo, nếu có, khi đó là một điều dễ hiểu.
Báo Newsweek ra ngày 27-5-1963 viết, phản ảnh một phản ứng về phía Phật giáo vào thời điểm ấy: “Khi một Viện Đại học Công giáo được thiết lập tại thành phố miền sơn cước Đà Lạt, một công chức Phật tử đă than phiền rằng: “Chúng tôi là tín đồ Phật giáo nên không thể được như thế.” [22]
Công tŕnh xây dựng. Nhờ tài trợ[23] của Hội Việt Nam Viện Trợ Giáo Dục Cao Đẳng, các bộ phận sau đây đă lần lượt được xây dựng trên khuôn viên VĐHĐL: các pḥng thí nghiệm Lư Hóa, Thư Viện, văn pḥng, giảng đường, xe hơi, sách vở, trang thiết bị pḥng thí nghiệm, pḥng đọc sách, nhà chơi, nhà y tế, sửa chữa, bài tŕ giảng đường, nhà cơm, nhà vệ sinh, nhà bếp, nhà bảo vệ, san bằng nền đất, thiết trí điện thoại, xây dựng nhà hội để cử hành lễ nghi tôn giáo (1958-61)
Yểm Trợ tài chánh ngắn hạn để sửa chữa bảo tŕ cơ sở vật chất, để trả lương giáo sư và nhân viên, để lập Quỹ Dự Trữ từ đầu tài khóa 1958 đến hết tháng 6/1961.
Yểm trợ tài chánh dài hạn để tạo măi ba cở sở:
Bất động sản hạng nhất ngay trung tâm Sàig̣n, ở góc Lê Lợi-Nguyễn Huệ (133 Nguyễn Huệ Sàig̣n).
Bất Động Sản ở Đa Kao, ở góc Đinh Tiên Hoàng-Nguyễn Văn Giai
Bất Động sản ở Công Trường Lam Sơn.
Các tài sản khác đă lần lượt được tạo măi làm phương tiện phục vụ công ích của Hội Đại Học Đà Lạt
Hội Đại Học Đà Lạt.
Hội Đại Học Đà Lạt được tổ chức theo quy chế[24] đă được ấn định và có thể h́nh dung theo biểu đồ sau đây:
Biểu Đồ 1: Cơ Cấu Tổ Chức Hội Đại Học Đà Lạt
|
Hội Đại Học Đà Lạt |
|
|
Hội Đồng Quản Trị |
|
|
Ủy Ban Thường Trực |
|
|
Tổng Quản Lư
|
|
(Các Cơ Sở Kinh Doanh) |
||
Thương Xá TAX |
Thư Quán Xuân Thu |
Ngân Hàng Nông Thôn Đức Trọng |
Thương Xá Đinh Tiên Hoàng |
Cao Ốc Lam Sơn |
Đồn Điền Đại Nga |
Cơ sở Viện Đại Học tại Đà Lạt |
|
Đồn Điền Di Linh |
Chú thích: 1/Chức vụ Tổng Quản Lư có nhiệm vụ Quản Trị & Điều Hành các Cơ Sở Kinh Doanh của Hội Đại Học Đà Lại. Lợi Tức Thuần Tính (Net Income) do những Cơ Sở này mang lại, một phần lớn đượcc đưa vào Ngân Sách Chi tiêu của Viện Đại Học Đà Lạt. Từ 6/70-4/75, Các Cơ Sở Kinh Doanh do G.S Trần Long phụ trách) 2/ Cơ sở xây dựng Viện Đại Học Đà Lạt gồm ba khu đồi A, B, C. Diện tích khuôn viên khu A xây dựng trường sở gồm chừng 38-40 ha |
Hội Đồng Quản Trị Hội Đại Học Đà Lạt hoạt động khởi đầu theo Qui Chế ấy, được đính kèm Nghị Định số 67-BNV/NA/P5 ngày 8/8/1957. Hội Đồng Quản Trị cho năm 1961 gồm có TGM Ngô Đ́nh Thục, Chưởng Ấn quản trị viên, và ba Giám Mục quản trị viên là Nguyễn Văn B́nh, Nguyễn Văn Hiền và P. Piquet[25]. Vào thời gian đầu ấy, Ông Phạm Quang Lộc, công chứng viên tại Sàig̣n được chọn làm cố vấn pháp lư và tài chánh cho Hội Đồng.
Hội Đồng Quản Trị về sau được thành lập gồm: Chủ Tịch (GM Nguyễn Văn Hiền, GM Đà Lạt), Hội Viên 1 (GM Phạm Ngọc Chi, GM Đà Nẵng), Hội viên 2, Chưởng Ấn VĐHĐL (Giám Mục Nguyễn Ngọc Quang, Gp Cần Thơ)[26]. HĐQT cử nhiệm một Ủy Ban Thường Trực để điều hành công việc.
Ủy Ban Thường Trực về sau cuối cùng gồm Chủ tịch (linh mục Viện Trưởng Lê Văn lư), một ủy viên tổng quản lư (GS Trần Long) và một ủy viên tổng kiểm soát (Ông Trần Văn Bốt). Trong một thời gian lâu dài, chính LM Nguyễn Văn Thạnh làm Quản lư của GP Sàig̣n kiêm nhiệm quản lư Hội Đại Học Đà lạt. LM Nguyễn Hữu Trọng[27] làm kiểm soát viên. Ông Đỗ Văn Thành coi nhà sách Xuân Thu, kiêm thư kư phụ trách Chánh Văn Pḥng Liên Lạc của Viện Đại Học Đà Lạt tại Sàig̣n.
Khi Linh Mục hồi hưu, th́ người được cử nhiệm làm Tổng Quản Lư là GS Trần Long. Theo Hồi Kư của GS Trần Long, th́ “tháng 7/1970, tôi được bổ nhiệm làm Tổng Quản Lư Hội Đại Học Đà Lạt (Dalat University Foundation), và về Sàig̣n để cai quản những cơ sở sinh lợi của Hội. Đầu năm 1971, khi tôi dọn vào căn pḥng mới lầu hai Catinat Building ở trung tâm Sàig̣n”[28], có ông Vũ Anh Tuấn đặc trách hành chánh địa ốc.
a. Về t́nh h́nh tài chính của viện h́nh thành thực sự sau 1/11/63 bằng các nguồn sau đây:
- học phí của sinh viên hầu như có tính tượng trưng, v́ chỉ ấn định là 500 đồng/năm/người
- tài trợ của quốc hội khoảng 30.000/năm, nằm trong Ngân Sách Bộ Giáo Dục được công bố hằng năm
- trợ cấp của Ṭa Thánh Vatican gồm 20.000 Mỹ kim/năm, tương đương trợ cấp dành cho một giáo phận
Tổng số tiền trợ cấp nói trên chỉ đủ chi tiêu tiết kiệm cho viện. Nếu có dư chút ít th́ dành để trợ giúp sinh viên. Nếu cần vài ba triệu dồng th́ có mạnh thường quân là bạn bè của linh mục viện trưởng ở Sài G̣n cho vay.
Nên biết để mời các giáo sư thỉnh giảng từ Sài G̣n lên Đà Lạt giảng day, mỗi tháng Viện phải trả 3, 5 triệu đồng[29].
Trong khoảng thời gian từ lễ Giáng Sinh cho đến Tết âm lịch hằng năm, một nét đặc trưng của Viện Đại Học Đà Lạt là các nhóm sinh viên thường tổ chức party thâu đêm suốt sáng, Điều này thường chỉ có thể thực hiện được là nhờ giúp đỡ tài chánh của linh mục Viện Trưởng Lập. Thật vậy, trong Viện lúc đó có rất nhiều nhóm, như Nhóm Rong Biển Nha Trang, Nhóm Bông Bưởi Biên Ḥa, Nhóm Huế, Thanh Niên Thiện Chí, Thanh Niên Chí Nguyện… Thời đó, ít nhất cũng có từ 30 đến 40 nhóm. Mỗi nhóm khi tổ chức party, tất cả đều lên xin tiến linh mục Viện Trưởng.
Đây là điển h́nh câu chuyện diễn ra như thế này:
Trưởng Nhóm:
-Nhóm chúng con muốn tổ chức party mừng Giáng Sinh (hoặc Tết), xin cha giúp cho chúng con một ít tiền.
Linh mục trả lời:
-Các con tổ chức, con phải đóng góp trước đă.
-Thưa cha, chúng con cung đă cố gắng đóng góp nhưng không đủ, nhất là tụi con ở xa nhà không có nhiều tiền.
Linh mục trả lời:
-Như vậy, party dự định bao nhiêu người?
-Thưa cha khoảng 100 người, chúng con đă đóng góp mỗi đứa 5 đồng. Tổng cộng được khoảng 500 đồng. Xin cha cho them một ít, để party thêm xôm tụ.
-Bây giờ cha cho hai ngàn rưỡi được chưa?
-Xin cha cho chúng con thêm một ít nữa. Cha bảo:
-Thôi cha cho 4 ngàn đó. Cầm giấy này, qua pḥng kế toán kư giếy nhận tiền.
Sau chuyện liên hoan, là chuyện sinh viên về nhà ăn Tết. Viện Đại Học Đà Lạt thường nghỉ Tết đặc biệt hơn các Đại Học khác, là nghỉ một tháng. Trước Tết, các sinh viên (đa số là các nữ sinh viên) hay đến mượn tiền linh mục để mua vé máy bay về nhà ăn Tết, thường với lư do bưu phiếu gởi lên chưa kịp. Nhưng sau khi mua được vé máy bay rồi, các anh chị này c̣n trởlại gặp linh mục và thường nói rằng:
“Cám ơn cha rất nhiều đă cho con mượn tiền mua vé máy bay, nhưng bây giờ đi xa về nhà mà không có quà cáp cho gia đ́nh th́ kỳ quá. Xin cha cho con mươn thêm một ít tiền nữa để mua quà cáp cho bố mẹ và các em trong gia đ́nh”.
Thế rồi linh mục cũng đành bấm bụng cho các anh chị này mươn thêm tiền. Nhưng có một điều đáng nói, là số sinh viên mượn tiền trả lại ṣng phẳng cho Viện thường không bao nhiêu. Đến năm 1970, lúc linh mục Lập rời chức vụ Viện trưởng để về Huế, danh sách các sinh viên c̣n thiếu tiền khá dài. Linh mục đă bảo pḥng kế toán xé bỏ đi, trước khi bàn giao sổ sách lại cho người kế nhiệm[30].
TTheo thiển ư người viết, việc chi tiêu ban đầu không có nguyên tắc nào cả chỉ có thể thực hiện được khi sĩ số không nhiều và không bị lơi dụng, nhưng khi VDH trở nên đông hơn, th́ mọi vấn đề quản trị tài chính cần có những tiêu chuẩn đàng hoàng để điều hành
Ngoài ra không có nguồn tài trợ nào khác. Tiền của cơ sở kinh doanh như Thương xá Tax, Thương xá Da Kao… được dùng để duy tŕ sửa sang cơ sở hạ tầng của Viện.
Hội Đại Học Đà Lạt do TGM Ngô Đ́nh Thục điều khiển chuẩn chi mỗi khi cần, chứ không qua hệ thống Giáo Hội. Hội có ông Phạm Quang Lộc làm Chưởng Khế, một người miền Nam không Công giáo. Sau biến cố 1/11/1963, không ai biết tin tức về ông và việc quản lư của Hội được trao cho GS Trần Long.
b. Đă có lúc Linh mục Nguyễn Văn Thạnh, quản lư Ṭa Giám Mục Sàig̣n, thành lập ngân hàng. Muốn thành lập ngân hàng, linh mục phải kê khai tài sản hiện có. Linh mục Thạnh đă khai chung tiền mặt và tài sản của Ṭa Giám Mục Sài G̣n và Hội Đại Học Đà Lạt. Lúc đó, GS Vũ Quốc Thúc vừa là thành viên Uỷ Ban Cứu Xét vừa là Giáo sư của Viện. V́ thế Giáo sư hỏi và khuyến cáo Linh mục Viện Trưởng là nếu để Linh mục Thạnh làm như vậy, sau này Viện sẽ không nhận được tài trợ của các nơi khác nữa, v́ Viện đă trở nên giàu sang v́ có ngân hàng.
Linh mục Viện trưởng tŕnh lại sự việc này với Giám mục Nguyễn Văn B́nh, nhưng Linh mục Thạnh vẫn cứ làm. Từ khi ấy Linh mục Viện Trưởng thấy không có quyền về việc này và v́ thế không biết t́nh h́nh hoạt động của ngân hàng ra sao, kể cả các cơ sở Xuân Thu, Tax, Caravelle, …. Linh mục chỉ nhận được tiền xây dựng cơ bản, chứ không phải tiền chi dụng cho sinh hoạt hằng ngày của Viện. Ngay đến lương bổng của các nhân viên giảng huấn được thanh toán thế nào, ngài không biết đầy đủ, nhưng không thấy ai than phềin điều ǵ [31]
c. Theo LM Viện Trưởng tiết lộ cho người viết [32], trước khi cha đi Pháp năm 1980. Theo đó, ít tháng trước biến cố 30/4/1975, GS Trần Long làm Tổng Quản Lư có yêu cầu với LM Viện Trưởng là được hoàn toàn đứng tên một ḿnh, chứ không phải hai người, trên các chứng từ hành chánh và tài chánh. Dó là thông lệ vẫn áp dụng cho những chữ kư quan trọng (chi tiêu, thu nhập) trên các chứng từ hành chính và tài chính của Hội Đại Học Đà Lạt, theo luật pháp chung của quốc gia cũng như quốc tế đối với người đại diện một Hiệp Hội có pháp nhân. Lư do GS Trần Long nêu ra là uy tín cụ thể của GS ở cương vị một Tổng Quản Lư của Hội Đại Học Đà Lạt trong Giáo Hội Công Giáo. Nếu không, trong bối cảnh đang diễn ra ở miền Nam (VNCH), GS không thể làm việc được. LM VT đứng trước nhiều áp lực do t́nh h́nh, trong đó có việc Linh Mục Nguyễn Hữu Trọng xin nghỉ hưu, đă nhượng bộ.
Sau 30/4/1975, một hôm, LM Lê Văn Lư nói với người viết là Hội Đồng Giám Mục Việt Nam có hỏi ngài về t́nh h́nh các bất động sản và tài khoản của Hội Đại Học Đà Lạt hiện ra sao, th́ ngài trả lời là bất động sản và tài khoản (tiền mặt, ngân chi phiếu, chứng thư, chứng từ tài chánh…) đều do nhà nước mới quản lư và phong tỏa các trương mục có thể kiểm soát được.
Như vậy số phận các tài sản - nhất là ngân quỹ chung của Giáo Hội do Hội Đồng Giám Mục Việt Nam quản nhiệm cao nhất - trong các trương mục ở trong nước hay ở nước ngoài mang danh nghĩa Hội Đại Học Đà Lạt như thế nào khi Cộng Sản chiếm toàn miền Nam từ ngay trước và sau 30/4/1975 đến nay?
3. Các Tài Sản Của Hội.
Thực sự về sau, v́ nhiều nguyên nhân phức tạp khác nhau, Hội Đại Học Đà Lạt chỉ c̣n sở hữu và quản lư các cơ sở ở vùng Sàig̣n và Bảo Lộc, Đà Lạt như:
Thương Xá Tax (Ô. Thái Văn Phải giám thị).
Thương Xá Đinh Tiên Hoàng Đa Kao (Ô. Âu Văn Kiệt khán thủ).
Cao Ốc Lam Sơn (Ô. Nguyễn Văn Thành làm giám thị).
Nhà sách Xuân Thu (tiếp quản từ nhà sách Portail do người Pháp trao lại. Bà Ánh Nguyệt tức Bà Trần Long làm giám đốc).
Các cơ sở trực thuộc VĐHĐL tại Sàig̣n, do LM Nguyễn Hữu Trọng, Đại Diện VT điều hành với ông Đỗ Văn Thành làm Tổng Thư Kư phụ trách gồm ba bộ phận:
Pḥng Liên Lạc (Ô. Nguyễn Hữu Phước và Ô. Đoàn Văn Gấm),
Pḥng đại diện sinh viên vụ (Ô. Dương Hiệp Nghĩa, cô Lê Ḥa Ánh), và
Ban Cao Học Trường Chánh Trị Kinh Doanh. Ngoài GS PBL làm Khoa Trưởng, có các GS Nguyễn Lâu, Pt Khoa Trưởng, GS Nguyễn Chánh Đoan, GS Nguyễn Đ́nh Quế làm GS đặc vụ, Ông Đỗ Văn Thành làm CVP, với một số nhân viên (Bà Công Tằng Tôn Nữ Thị Cảnh, Cô Phạm Thị Chính, Ông Nguyễn Tri Lương, Ông Vơ Lang, và ông Nguyễn Văn Yến)
Đồn Điền Đại Nga (cơ sở ở Lâm Đồng, trồng trà và nhiều loại cây ăn trái, do Tu Huynh Đinh Quang Trí, CSC, trông coi).
Đồn Điền Di Linh Djirato (do Tu huynh Bùi Chu Tràng, CSC, trông coi)
Ngân Hàng Tín Dụng Nông Thôn Đức Trọng (Lm Nguyễn Hữu Trọng đặc trách, dường như một thời gian có GS Lương Hữu Định làm Giám Đốc)
Ba Khu Đồi xây dựng làm cơ sở Viện Đại Học tại thị xă Đàlạt.
4. Các Nguồn Tài Trợ.
Trong quá tŕnh xây dựng và phát triển Viện Đại Học Đà Lạt, phục vụ ngày càng đông sinh viên, các quản trị viên không chỉ trông nhờ vào nguồn tài trợ giới hạn từ các cơ sở của ḿnh mà cần có tài trợ của các nguồn khác, như:
Các mục thu:
a. Nguồn thu học phí của sinh viên.
b. Trợ cấp của chính phủ Việt Nam.
Bộ Quốc Gia Giáo Dục (Bộ Trưởng Trần Hữu Thế, Nguyễn Quang Tŕnh), nhất là Viện Đại Học Sàig̣n và Trường Văn Khoa, Trường Sư Phạm, Trường Khoa Học[33] Bộ Tài Chánh (thời Viện Trưởng Lê Văn Lư)
c. Trợ cấp của chính phủ hay tổ chức kinh doanh, thiện nguyện, tôn giáo, văn hóa giáo dục. quốc tế, như:
Hội Việt Nam Viện Trợ Giáo Dục Cao Đẳng
Cơ Quan Catholic World Service, CWS
US Catholic Relief Service, CRS
World University Service, WUS.
Canada và Pháp (giúp tài trợ và cử nhiệm giáo sư sang giảng dậy tại VĐH Đà Lạt
Cơ Quan Văn Hóa Á Châu (The Asia Foundation).
Phái Bộ Viện Trợ Hoa Kỳ (The USAID Mission)
Đức Phao Lô VI
Hồng Y Spellman
Khâm Sứ Ṭa Thánh
Chính GM Ngô Đ́nh Thục
Hội Đồng GMCHLBTây Đức, nhất là Ṭa Giám Mục Koln giúp 10.000 Đức Mác mua sách)
Trường Đại Học Công Giáo George Mason University (4400 University Drive, Fairfax, VA 22030) bảo trợ.
d. Trợ cấp nói chung của các tổ chức hay cá nhân ân nhân khác, …
Tất cả những nguồn tài trợ đó chi cho các mục, như:
Lương, vận phí các giáo sư và nhân viên công tác
Chi Phí Xây Cất Mới, Trang Thiết Bị, Pḥng Thí Nghiệm và Bảo Tŕ các Cơ Sở
Dự Trữ Tiếp Tân và các hoạt động an toàn xă hội tối thiểu
Học Bổng, Hoạt Động Sinh Viên
Biểu Đồ 2. Tổ Chức Tổng Quát Hội và Viện Đại Học Đà Lạt[34]
Hội Đồng Giám Mục Việt Nam |
|||||
Viện Đại Học Đà Lạt |
|
Hội Đại Học Đà Lạt |
|||
Chưởng Ấn |
Hội Đồng Quản Trị |
||||
Hội Đồng Viện –VT-UBPhTr&KếH - UBHVụ |
|
Uỷ Ban Thường Trực |
|||
|
|
|
|
Tổng Quản Lư |
|
Văn Pḥng Viện |
Đại Diện VT/Sàig̣n |
Cơ Sở Kinh Doanh |
|||
1.GĐ/ĐHX(TVKư,Kiêm Ái,Bminh) |
1.Văn Pḥng Liên Lạc |
1.Thương Xá Tax |
|||
2.GĐ/Sinh Viên Vụ |
2.TrCTKD/Ban Cao Hoc |
2.Cao Ốc Lam Sơn |
|||
3.TU/Tuyên Úy Vụ |
3.VP Dại Diện Sinh Viên |
3.Thương Xá ĐTHoàng |
|||
4.GĐ/Tu Thư & Báo Chí |
|
5.Thư Quán Xuân Thu |
|||
5.GĐ/Thư Viện |
6.Đồn Điền Đại Nga |
||||
6.QL/Pḥng Quản Lư |
7.Đồn Điền Di Linh |
||||
7.KT/TrCTKDoanh/Ban Cử Nhân |
8.Ngân Hàng NT Đức Trọng |
||||
8.KT/TrĐH Khoa Học |
|
||||
9.KT/TrĐH Sư Phạm |
|||||
10.KT/TrĐH Văn Khoa |
|||||
11.KT/TrĐH Thần Học |
|||||
TC: (11) bộ phận |
(3) bộ phận |
(8) bộ phận |
|||
Chú thích: Biểu đồ này cho thấy tương quan giữa các bộ phận của Hội Và Viện Đại Học Đà Lạt |
|||||
5.Cơ Sở Viện Đại Học tại Đà Lạt.
Cơ sở bất động sản khu đồi chính dùng để xây dựng, phát triển tiện nghi sinh hoạt quản trị, giảng huấn, cư trú của Viện Đại Học Đà Lạt được tiếp quản từ cơ sở cũ của Trường Thiếu Sinh Quân do người Pháp để lại.
Nhưng người Pháp đă chuyển đổi mục đích xử dụng. Như lời xác nhận của chính Linh mục Nguyễn Văn Lập do Vũ Sinh Hiên ghi thuật[35]:
“Về cơ sở, Viện Đại Học Đà Lạt vốn là trung tâm an dưỡng của sĩ quan Pháp có tên là Camp Robert. Bộ Tài Chánnh Chính Phủ Việt Nam lúc bấy giờ đă bán lại cho các Giám mục với giá hai triệu đồng, giấy tờ bằng khoán đầy đủ, do Đức Cha Ngô Đ́nh Thục đứng tên. Tôi gửi giấy tờ ở Ṭa Khâm Sứ và chỉ giữ một bản sao ở Viện Đại Học.
Camp Robert có hai khu , một ở gần thành phố Đà Lạt, bên bờ hồ, phía trường Yersin, một ở phía trong rừng xa thành phố, rộng 40 ha với 40 ngôi nhà lớn nhỏ. Các Đức Giám Mục đă mua khu thứ hai này, gia công tu sửa những ngôi nhà trong trong khuôn viên, xây nhà nguyện ở độ cao 1500m, chung quanh có pḥng ốc dành cho các giáo sư cư ngụ và một pḥng học rât yên tĩnh. Cùng với việc chỉnh trang là viêc đặt tên cho những ngôi nhà, những con đường trong khuôn viên Viện: Nguyện đường Năng Tĩnh, nhà Đôn Hóa (văn pḥng Viện), Ṭa Viện Trưởng Ḥa Lạc, đường Tiền Giang (tư cổng dẫn đến Nhà thờ), đường Hậu Giang (tư cổng xuống kư túc xá sinh viên), các giảng đường Minh Thánh, Đạt Nhân, Tri Nhất, Thượng Hiền, Hội Hữu.”
Ngay thời điểm trước 30/4/1975, bất động sản này gồm có ba Khu:
Khu A: Khu đồi chính ở đường Phù Đổng Thiên Vương cuối Đồi Cù phía Tây thành phố Đà Lạt; Diện tích chừng 40 ha, cách Trung Tâm Thành phố Đàlạt 1 km 5 Khuôn viên Đại Học Đà Lạt Khu A khởi đầu chỉ có chừng hơn mười ṭa nhà, với các đường đi lối lại được trải đá dăm.
Khu B: Khu đồi Minh Ḥa, nơi lúc đó có cư xá sinh viên Rạng Đông và Chủng viện Minh Ḥa thuộc GP Đà Lạt, ở đường Thông Thiên Học.
Khu C: Khu C ở đường Vạn Kiếp và đường Trần Hưng Đạo có chừng 38 biệt thự sẵn sàng dùng làm Cư Xá Nhân Viên Giảng Huấn[36].
Cả ba khu đang có kế hoạch mở mang theo đúng chức năng được hoạch định. Chính Linh Mục Viện Trưởng, ủy nhiệm cho GS phụ tá hành chánh vai tṛ chuẩn bị với sự trợ giúp của Ṭa Tỉnh Trưởng Đà Lạt, thu xếp một chuyến máy bay trực thăng từ Nha Trang lên, và đă bay ở cao độ 300 m để chuyên viên nhiếp ảnh (nhiếp ảnh gia Nguyễn Ngà của Photo Hồng Châu, Khu Chợ Ḥa B́nh Đà Lạt) có thể chụp các không ảnh cả ba khu ABC của Viện Đại Học Đà Lạt. Chính nhờ những không ảnh này mà các chuyên viên kỹ thuật tùng sự tại Trường Chiến tranh chính trị Đà lạt có thể giúp thiết lập một mô h́nh (sa bàn) thu nhỏ toàn bộ Khu A của Viện Đại Học Đà Lạt. Mô h́nh này cũng được dùng để triển lăm tại Trung Tâm Công giáo ở số 72/12 Đường Nguyễn Đ́nh Chiểu Tân Định Sàig̣n nhân kỷ niệm 350 năm truyền giáo ở Việt Nam vào thời điểm 1972 trước khi được trưng bày ở Trung Tâm Sinh Viên VĐH Đà Lạt.
Các bất động sản thuộc cả ba khu A, B và C nói trên, theo người viết được biết, đă được Đại Diện của HĐGMVN cho nhà nước mới mượn theo một hợp đồng được kư kết sau 30/4/1975, giữa đại diện hai phía Giáo Hội và Nhà Nước Việt Nam.
6. Cảnh Quan Khuôn Viên Viện Đại Học
Nói đến Viện Đại Học Đà Lạt mà không nói đến cảnh quan tuyệt diệu yêu kiều, đầy mộng mơ, là một thiếu xót khó chấp nhận, như chưa biết ngỏ lời khen tặng một bông hồng đẹp đẽ duyên dáng trong ḍng đời thanh xuân. Thay cho một mô tả khô khan, thiết tưởng nên dơi theo ḍng suối ấn tượng của những đôi mắt nam nữ sinh viên ghi lại những cảm nhận rất chân thành hồn nhiên của ḿnh:
“ Sau buổi cơm chiều, tôi thường đi dạo sân trường, thơ thẩn thưởng thức Khung Trời Đại Học, nhớ lời một vị Giáo Sư: “Viện Đại Học Đà Lạt là một trường đại học đẹp nhất Đông Nam Á, dù quy mô không phải là lớn nhất.”…”Nét đẹp thơ mộng lăng mạng, và rất thiên nhiên. Từng con đường ngọn cỏ in dấu bước chân học tṛ, in dấu trong kư ức tôi cho đến hôm nay và có lẽ măi măi…
Con dốc Kiêm Ái đây, nhưng sao không đưa tôi về những dăy pḥng trọ, nơi tôi có nhiều niềm buồn vui với bạn bè, với tiếng cười rộn ră vô tư, với những đêm thức học bài, xúm nhau nấu ḿ gói ăn khuya. Nhớ nhiều buổi trốn học, tôi đi phố mua dâu tây, về học xá lặt rửa sạch sẽ, trộn đường cho lên men thành rượu, dành khi về Sàig̣n tặng Má…”[37]
Hay
“Viện Đại Học Đà Lạt rộng, cổ kính và quí phái, bốn mùa thắm sắc những loài hoa, Mùa Đông hoa anh đà nhuộm hồng phố xá, trên những lối nhỏ dẫn đến giảng đường, dọc bờ Hồ Xuân Hương, thắm thềm bướm trắng…”[38]
Nhưng có những bạn nam sinh viên biểu tả vẻ đẹp của Viện Đại Học Đà Lạt dưới ng̣i bút “hoa không thua thắm, liễu hờn kém xanh!” thế này:
“Phong trào sinh viên học sinh băi khóa biểu t́nh chống chính quyền dữ quá, nên tôi quyết định về quê và xin phép gia đ́nh đi học trường Chánh Trị Kinh Doanh. Đây là quyết định quan trọng đầu đời của tôi, may sao lại là quyết định hoàn toàn đúng. Trường Chánh Trị Kinh Doanh có cuốn hút diệu ḱ bao hoài băo và ước mơ bay bổng của tôi.”
“Hơn nữa Đà Lạt là thành phố đẹp nhất mà tôi từng được biết. V́ vậy bốn năm học ở Đà Lạt là thời tuổi trẻ tươi đẹp mà tôi chẳng thể nào quên. Buổi sáng tinh sương đi học, ḥa vào ḍng người bước chân đến trường mới tuyệt làm sao. Con dốc dưới chân đồi leo lên cổng viện, một bên có hàng mimosa nở hoa trắng xóa, từ nhóm bạn bè đi bên nhau nói cười vui vẻ, mưa bụi li ti bám trên tóc, trên vai, trên mặt các bạn nữ má đỏ môi hồng, nên thơ và đẹp đẽ làm sao… Ở trường CTKD có những môn học hồi đó đối với tôi hay đến lạ: “điển cứu”, “tu từ văn thể”, “quảng cáo, tiếp thị”, “xác xuất thống kê”, v.v…”[39]
Biểu Đồ 3: Tổ Chức Thực Tế Viện Đại Học
|
Viện Đại Học Đà Lạt |
|
|||||||
|
Chưởng Ấn |
|
|||||||
|
Viện Trưởng |
|
|||||||
|
Hội Đồng Viện |
|
|||||||
Uỷ Ban Hành Chánh & Kế Toán |
Uỷ Ban Học Vụ & Hội Đồng Kỷ Luật |
||||||||
|
|||||||||
Khối Hành Chánh |
Khối Tâm Linh |
Khối Học Vụ |
Khối Phục Vụ |
||||||
Văn Pḥng Viện |
Nhà Nguyện |
Thư Viện |
Pḥng Quản Lư |
||||||
Tại Đà Lạt |
Pḥng Liên Lạc tại Saigon |
||||||||
|
Tuyên Úy Vụ |
Tu Thư & Báo Chí |
Nhà Khách |
||||||
Sinh Viên Công Giáo |
Tri Thức |
Thụ Nhân |
SIVIDA |
||||||
|
|
Sư Phạm |
Sinh Viên vụ |
||||||
Tại Đàlạt |
Pḥng Đại Diện/Sàig̣n |
||||||||
|
|
Văn Khoa |
Đại Học Xá |
||||||
B́nh Minh |
Kiêm Ái |
Trương VĩnhKư |
|||||||
|
|
Khoa Học |
Pḥng Y Tế |
||||||
|
|
Chánh Trị Kinh Doanh |
Nhà Bếp Viện Trưởng |
||||||
Ban Cử Nhân (Đà Lạt) |
Ban Cao Học (Sàig̣n) |
||||||||
|
|
Thần Học |
|
||||||
Biểu đồ trên đây phản ảnh tổ chức và sinh hoạt thực tế của Viện Đại học Đà Lạt và được mô tả theo các khía cạnh hoạt động chức năng của mỗi đơn vị trong Viện.
Nói về tổ chức, Linh Mục Nguyễn Văn Lập xác định:
“Về tổ chức của Viện Đại Học Đà Lạt, chúng tôi có một Chưởng Ấn, một chức vị chỉ có ở Viện Đại Học Công giáo. Đây phải là một nhân vật có kinh nghiệm, uy tín, thường là một vị Giám mục, được suy tôn lên làm Chưởng Ấn.”[40]
Ngài c̣n nhớ vị Chưởng Ấn đầu tiên là Giám Mục Ngô Đ́nh Thục, sau là Giám Mục Trần Văn Thiện và kế tiếp là Giám mục Nguyễn Ngọc Quang.
2. Các Chưởng Ấn.
Giám Mục Ngô Đ́nh Thục, Chưởng Ấn Tiên Khởi Viện Đại Học Đà Lạt
HĐGMVN khởi đầu xây dựng Viện Đại Học Đà Lạt, với thúc đẩy tích cực của GM niên trưởng Ngô Đ́nh Thục[41]. Theo truyền thống các Viện Đại Học Công Giáo Quốc Tế, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam nhất trí cử một vị Chưởng Ấn[42].
Vị Chưởng Ấn đó sẽ cử một người quản trị. Vị Chưởng Ấn kiêm nhiệm Viện Trưởng đại học đầu tiên vận động cho sáng kiến thiết lập Hội Đại Học Đà Lạt là chính GM Phêrô Martinô Ngô Đ́nh Thục, khi đó c̣n làm Giám Mục quản trị Địa Phận Vĩnh Long. Với tính cách niên trưởng Hội Đồng Giám Mục Việt Nam và là người anh ruột của Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm và Cố Vấn Ngô Đ́nh Nhu. Giám Mục có một vị thế có nhiều ảnh hưởng trong xă hội và giáo hội thời đó.
Giám Mục Trần Văn Thiện, Chưởng Ấn Thừ Hai VĐHĐL (1963-1970)
Năm 1963, TGM Ngô Đinh Thục đi dự Công Đồng Vatican II rồi kẹt v́ chính biến ngày 1-2/11/1963 không về được[43], nên HĐGMVN bầu ngay Vị Chưởng Ấn kế tiếp là chính GM Trần Văn Thiện, GM Mỹ Tho. Linh mục Trần Văn Thiện không làm Viện Trưởng tiên khởi[44], mà chỉ Giám Đốc Kư Túc Xá Sinh Viên nhưng v́ Viện Trưởng không thường xuyên có mặt ở Đà Lạt, nên thực tế đảm nhiệm mọi trách vụ của Viện Đại Học và do vậy, nhiều người đă lầm tưởng ngài là Viện Trưởng[45]. V́ thế GM Trần Văn Thiện làm Chưởng Ấn thứ hai kế tiếp sau TGM Ngô Đ́nh Thục.
Giám Mục Chưởng Ấn Thứ Ba Giacobê Nguyễn Ngọc Quang
Đến năm 1970, th́ HĐGMVN bầu GM Giacôbê Nguyễn Ngọc Quang[46], GP Cần Thơ (1965-1990) làm Chưởng Ấn thứ ba và cuối cùng cho đến 30/4/1975.
3. Các Viện Trưởng
Viện Trưởng đầu tiên là chính là Giám Mục Ngô Đ́nh Thục (1957-1961). Khi LM Trần Văn Thiện làm Giám Mục năm 1961, th́ Lm Simon Nguyễn Văn Lập, Cử Nhân Sử Địa (Sorbonne, Paris), cũng được bổ nhiệm làm Viện Trưởng[47] (1961-1970).
Giám Mục Viện Trưởng Thứ Nhất Ngô Đ́nh Thục.
Nhiệm vụ Viện Trưởng đầu tiên chính là xây dựng, tổ chức và quản trị giai đoạn h́nh thành Viện Đại Học Đà Lạt. Mấy lănh vực quan trọng nhất là quản trị ban đầu, tồ chức kỹ thuật, và xây dựng cơ sở học thuật, tiếp nhận và sử dụng viện trợ. Sau cùng là tính chất công ích của Hội Đại Học Đà Lạt.
T́nh H́nh Quản Trị Ban Đầu. Bộ Quốc Gia Giáo Dục đă biệt phái một số nhân sự chuyên biệt có nhiệm vụ điều hành những công việc về hành chánh quản trị. Các chuyên gia này đều nhận tiền lương từ Bộ Giáo Dục và họ chỉ nhận thù lao chức vụ của Viện. Như vậy làm nhẹ bớt gánh năng chi phí ban đầu.
Kỹ Thuật..Trường Văn Khoa tiếp nhận một số linh mục giáo sư đang giữ nhiều trọng trách tại Sàig̣n lên giảng dậy tại Đà Lạt. Trường Sư Phạm và Khoa Học cũng được nhiều giáo sư từ các phân khoa Sàig̣n lên như vậy
Học Vấn. Việc học vấn của sinh viên đă diễn ra chật vật như những số liệu thống kê dưới đây chứng minh. Việc tổ chức các môn học của Trường Văn Khoa và Sư Phạm theo chế độ học vấn không giống nhau.
Trong khi Sư Phạm có xu hướng áp dụng Niên Chế th́, Văn Khoa có xu hướng theo Chứng Chỉ. Riêng Khoa học th́ được tổ chức theo Giáo tŕnh. Đặc biệt là ở Khoa này, hai năm đầu tiên có khóa đào tạo kỹ thuật. Các kỳ thi cuối năm của mỗi Phân Khoa cũng được chia nhỏ cho từng lớp học, dù theo chế độ học vấn nào. Sau ba năm học, khóa đầu tiên tốt nghiệp. V́ thế Viện Đại Học đă phải làm tờ phúc tŕnh tổng thế này lên chính phủ (Bộ Giáo Dục) để có thể đề xuất hướng cải tiến các phương diện cần bổ sung trong giai đoạn tiếp theo và được trợ giúp của chính phủ.
Biểu đồ 4. Tổ chức giảng dậy, sĩ số và kết quả bốn năm đầu (1957-1961)[48]
Năm Học 1957-58 |
||||
Phân Khoa |
Môn Học |
Thí Sinh |
Tốt nghiệp |
Chú thích |
Sư Phạm |
Khoa Học Kỹ thuật Năm I |
85 |
49 |
Khóa năm 1 dự bị khoa học, đào tạo kỹ thuật[49] |
Năm Học 1958-59 |
||||
|
Khoa Học Kỹ Thuật Năm II |
56 |
13 |
|
|
||||
Sư Phạm |
Triết Năm I |
27 |
27 |
Có các lớp cho học viên chưa tốt nghiệp trung học, trau giồi thêm và lớp sư phạm giáo lư |
|
Pháp Văn Năm I |
22 |
22 |
|
|
|
49 |
49 |
|
Năm Học 1959-60 |
||||
Sư Phạm |
Triết Năm I |
30 |
29 |
Ngoài phần chuyên môn về sư phạm, các sinh viên cũng ghi danh học phần nội dung kiến thức của ngành chuyên môn ở các khoa khác |
|
Triết Năm II |
27 |
25 |
|
|
|
57 |
54 |
|
Văn Khoa |
Dự Bị |
28 |
11 |
|
|
C/c Văn Chương Pháp |
03 |
00 |
|
|
C/c Đạo đức và Xă Hội Học |
10 |
02 |
|
|
|
41 |
67 |
|
Khoa Học |
Toán Học Đại Cương |
37 |
16 |
|
|
|
37 |
16 |
|
Năm Học 1960-61 |
||||
Sư Phạm |
Triết Năm I |
25 |
21 |
Tổng số sinh viên tốt nghiệp sau ba năm học là 143 so với sĩ số ghi danh là 160. Một tỷ lệ rất cao |
|
Triết Năm II |
32 |
29 |
|
|
Triết Năm III |
24 |
24 |
|
|
Pháp Năm I |
34 |
30 |
|
|
Pháp Năm II |
28 |
21 |
|
|
Pháp Năm III |
20 |
18 |
|
|
|
160 |
143 |
|
Văn Khoa |
Dự Bị |
43 |
18 |
|
|
Văn Chương Pháp |
04 |
01 |
|
|
Đạo Đức và Xă Hội Học |
14 |
03 |
|
|
Tâm Lư |
13 |
03 |
|
|
|
74 |
25 |
|
Khoa Học |
Toán Học Đại Cương |
45 |
06 |
|
|
Toán Lư Hóa |
34 |
06 |
|
|
|
79 |
12 |
|
LM Viện Trưởng Thứ Hai Nguyễn Văn Lập.
Ngài đảm lănh trách nhiệm viện trưởng trong thời gian lâu dài nhất trong các nhiệm vụ ngài gánh vác từ trước, kể cả thời gian sau này ngài trở về giáo phận Huế làm Chủ tịch Hội Đồng Linh Mục và làm Tổng Đại Diện Giáo Phận Huế (1970-75)
Thời ngài, Văn Pḥng Viện Trưởng được tổ chức gọn nhẹ, có tính gia đ́nh và tiết giảm nhiếu chi phí. Ngài có một vị phụ tá Viện trưởng , lúc đầu là Linh mục Nguyễn Ḥa Nhă, kế đến là Linh mục Ngô Duy Linh sau khi Linh mục này rời chức vụ Giám Đốc Nhạc Viện Huế (1963) và đặc trách kư túc xá sinh viên.
Tại Văn Pḥng có ông Trần Quang Diệu, người của Bộ Giáo Dục biệt phái sang, ông Đỗ La Lam và một số thư kư
Trong nhiệm vụ Viện trưởng, nhiều người chú ư đến quan hệ của ngài
1. Quan hệ với gia đ́nh họ Ngô
Trước khi làm Viện Trưởng qua những vai tṛ ở nhiều nhiệm vụ và quan hệ khác nhau. Trước khi nhận trách nhiệm Viện trưởng, Viện Đại Học đă hoạt động được ba niên khóa, đă có LM Lê Văn Lư làm Phó Viện Trưởng, kiêm Khoa Trưởng Văn Khoa, và LM Hoàng Quốc Trương làm Khoa Trưởng Khoa Học và Sư Huynh Pierre Trần Văn Nghiêm làm Khoa Trưởng Sư Phạm.. Khi LM về làm Viện Trưởng th́ các lớp sư phạm Triết được trả về cho Đại Học Sư Phạm Sàig̣n, nhưng vẫn duy tŕ môn triết ở Trường Văn Khoa.
Linh Mục NVL quen biết rất nhiểu người ở các địa phương và các chức vụ khác nhau, nhưng không v́ ư đồ chính trị gắn bó với bất kỳ ai. Đối với gia đ́nh họ Ngô, Linh mục được mọi người quí mến về t́nh cảm, nhưng không can dự vào công việc của các ông Diệm, Nhu và Cẩn. Không bao giờ Linh mục để ông Diệm vào Viện Đại Học Đà Lạt
Theo Linh mục kể lại, [Có một lần duy nhất ông nói với tôi:
“Cha về nói với ông thị trưởng Đà Lạt – khi đó là ông Trần Văn Phước – là khi nào tiện, tôi lên Đà Lạt, ông thị trưởng sắp xếp chương tŕnh sao tôi có dịp vào thăm Viện của cha”.
Tôi nói: “Thưa cụ, c̣n nhiều nơi cần được cụ đến thăm viếng, cụ không cần phải đến Viện tôi. Viện tôi, cụ để tôi liệu.”
Có lần Tổng Thống tới, tôi ra ng̣ai cổng đón ngài, ngay chỗ sân Cù, nói chuyện một chập rồi Tổng Thống đi.]
Ông Ngô Đ́nh Nhu yêu cầu tới Viện nói chuyện với sinh viên về Ấp Chiến Lược, nhưng Linh mục trả lời:
“Ông cố vấn nên đi nói chuyện ỡ những nơi khác cần hơn, “Áp Chiến Lược” của tôi để tôi liệu lấy”.
Trong lần làm việc thứ sáu ngày 12/12/2000 với LM NVL tại Tu Hội Bác Ái B́nh Triệu của Nhóm Vũ Sinh Hiên, Linh mục tâm sự về nhà Ngô:
“Theo tôi, anh em nhà Ngô bị hiều lầm. Ông Nhu có thể khác, nhưng Đức Cha và Ông Diệm là người tốt. Chỉ v́ tin cậy mọi người đến với ḿnh, rồi sa lầy lúc nào không hay.”
Rồi trong buổi làm việc tiếp theo, ngày 4/1/2001, Linh mục lại phát biểu về ông Diệm:
“Đối với ông Diệm, tôi nghĩ bản thân ông là người rất tốt, rất tin người. Khi xảy ra cuộc đảo chính 1963, tôi vẫn b́nh tĩnh và không hề có ǵ xảy ra cho tôi, cho Viện Đại Học. Tôi cũng không phải thay đổi ǵ trong Viện.
Ông Diệm có một người cháu là nữ tu Trương Thị Lư t́m được trong túi áo ngực của ông một tràng chuỗi.Có lần ông bảo Vơ Văn Hải mua cho ông cuốn lịch có ngày Tây ngày Ta và các ngày lễ Công giáo. Ông Hải t́m không ra. Ngày nay loại lịch này khá nhiều, nhưng hồi đó th́ chưa. Những người chung quanh ông Diệm làm hư ông. Ông quá tốt.”
Linh mục c̣n kể cho Nhóm Vũ sinh Hiên
“nghe rằng năm 1960, khi GM Ngô Đ́nh Thục về nhận giáo phận Huế, có ư kiến đề cử ông Ngô Đ́nh Nhu ra dự lễ thay mặt chính quyền trung ương. Ông Ngô Đ́nh Diệm phản đối. Ông Tôn Thất Trạch phải dung đường dây điện thoại riêng, nhờ cha Lập tŕnh với ông Diệm cử Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ ra dự. Không ai dám và đủ uy tín bằng cha Lập để tŕnh điều này với Tổng Thống, Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm đă chấp thuận.”
Ngài là Viện Trưởng sáng lập Trường Chính Trị Kinh Doanh năm 1964, kiện toàn các cơ cấu phân bố và tuyển mộ nhân sự vào các chức vụ then chốt. Từ năm 1970, linh mục đă từ chối thỉnh ư của Ṭa Thánh muốn tiến cử ngài làm GM Đà Lạt v́ lư do tuổi tác, sau khi GM Simon Ḥa Nguyễn Văn Hiền từ trần (25/9/1973). Ngài có nguyện vọng trở về phục vụ tại Giáo Phận Huế.
2. Quan hệ với tướng lănh khác
.
Khi chế độ đệ nhất công ḥa bị lật đổ, các tướng lănh vẫn trọng nế linh mục Nguyễn Văn Lập. Có lần tướng Vĩnh Lộc, Tư Lệnh Quân Đoàn II, đă cho máy bay chở “sinh viên lính” về dự lễ măn khóa. Tướng Tôn Thất Đính thường nhờ Linh mục tŕnh bày một số vấn đề với TGM Nguyễn Văn B́nh, nhưng linh mục không làm. Tướng Trần Văn Đôn thỉnh thoảng có đến thăm linh mục, và có đến tham dự khóa hội thảo về “Mục Tiêu quốc gia” do VDHDL tổ chức dưới sự bảo trợ của các Viện Đại Học ngày 24-26/7/1967. Linh mục không quen biết với tươớg Dương Văn Minh, có quan hệ với cụ Phan Khăc Sửu, nhưng không quen cụ Trần Văn Hương
3. Nhiệm vụ Viện Trưởng
Ngài quan niệm phải tổ chức Viện Đại Học Đà Lạt cho có thực chất với một phong cách Việt nam. Có người đề nghị gọi VDLDL là Đại Học Công Giáo. Ngài từ chối, mọi người Công giáo có nhiệm vụ rao giảng Tin Mừng bằng cuộc sống tốt, làm gương tốt. Ngài yêu cầu các nam tu sĩ đều mặc thường phục tránh hiều lầm các sinh viên đạo được chấm đậu hết, khác với sinh viên đời.
Khi người Mỹ có ư đề nghị có cố vấn đến giúp đại học, th́ ngài không cần, v́ nghĩ rằng khi các giám mục chọn ngài làm viện trưởng th́ ngài đủ khả năng và đức độ xây dựng Viện đại học này theo tinh thần Việt Nam.
Sự thực là trong lần tham quan Hoa Kỳ với bốn Viện trưởng khác là GS Trần Quang Đệ, Viện Trưởng VĐH Sàig̣n, GS Nguyễn Thế Anh, Viện Trưởng VĐH Huế, GS Phạm Hoàng Hộ, Viện Trưởng VĐH Cần Thơ, Thượng Tọa Thích Minh Châu, VĐH Vạn Hạnh, th́ Thứ Trưởng Ngoại Giao Hoa Kỳ, Philip Habib, từng phục vụ lâu năm ở Việt Nam, đă tuyên bố chỉ có VĐH Đà Lạt mới là một Viện Đại Học thật sự.
Ngài tỏ ra ngại ngùng v́ lời tuyên bố này, nhưng GS Trần Quang Đệ quay sang nói với Linh mục Nguyễn Văn Lập:
“Cụ đừng ngại, tôi cũng đồng ư với nhận xét này. Bởi như tôi đây, có mấy khi dành đủ tám giờ một ngày cho công việc của Viện Đại Học Sài G̣n đâu. Những gặp gỡ, những giao tế hằng ngày cũng chiếm mất nhiều thời giờ. C̣n cụ, 24/24 giờ, cụ sống chết với VĐH Đà Lạt, cụ xứng đáng được đánh giá như vậy
Trong suốt chín năm trời LM Nguyễn Văn Lập thực tế là vị Viện Trưởng xây dựng truyển thống của Viện Đại Học[50].
Chẳng hạn khi LM đến Mỹ, cùng với nhiều vị Viện Trưởng Việt Nam khác, LM được mời vào Ṭa Bạch Ốc, LM được biếu một quyển Chỉ Dẫn in thật đẹp và thật đầy đủ, giúp LM có thể đi bất cứ chỗ nào ở nước Mỹ, mà không sợ bị lạc. Rồi LM đề nghị Hội Sử Địa có thể soạn cho Viện một cuốn Địa Phương Chí (Monography) về Đà Lạt, trong đó có phần về Lịch Sử, Địa Lư H́nh Thể, Nhân Văn, Kinh Tế, và phần Chỉ Dẫn Du Lịch thật chi tiết, để biếu cho các vị khách đến Viện. Khi tác phẩm này hoàn thành vào đầu năm 1970, lúc đó LM Lập sắp rời Viện. LM bảo ngài không c̣n nhiều thời giờ để xuất bản và đă để lại cho vị Viện Trưởng kế nhiệm tùy nghi sử dụng. Sau này, không thấy Viện xuất bản, Phạm Văn Lưu gởi phần Lịch Sử cho Tập San Sử Địa của Trường Đại Học Sư Phạm Sài G̣n đăng tải[51]
Kỷ Niệm Mười Năm thành lập Viện Đại Học. Ngài đă tổ chức lễ kỷ niệm mười năm thành lập Viện Đại Học Đà Lạt vào năm 1969 (1959-1969). Người ta tổng kết trong mười năm Linh mục Viện trưởng Nguyễn Văn Lập đă làm ǵ, được tŕnh bày trong các mục riêng biệt trong cơ cấu của Viện.
Trong viện lúc đó, ngoài cơ cấu nhân sự của Viện với văn pḥng Viện Trưởng như đă tŕnh bày, c̣n có Hợp Tác Xă sinh viên SIVIDA do GS Trần Long tổ chức để ấn hành và dịch các tài liệu. Viện có khoảng 3000 sinh viên mà quá nửa là sinh viên CTKD. Họ tổ chức thành Tổng Hội Sinh viên.
Như một công tŕnh giáo dục có hiệu quả tác dụng truyền giáo lớn lao, năm 1969, Đức Phaolô VI gửi lời chúc mừng đến ngài và toàn thể các thành viên của Viện Đại Học Đà Lạt rất ưu ái của Toà Thánh. Nguyên văn bằng tiếng Pháp, kèm theo bản dịch tạm thời bằng tiếng Việt như sau:
Cher Fils, le Révérend Père Nguyên
Van Lâp,
Recteur Magnifique de l’Université Catholique de Dalat
Au moment où va être célébré le dixième anniversaire de l’Université catholique de Dalat, Nous sommes heureux de Nous associer aux Evêques protecteurs, aux autorités civiles et académiques et à tous les membres de l’Université, pour féliciter tous ceux qui ont courageusement contribué à son développement. De grand cœur, Nous formons le voeu que cette jeune Université poursuive le service culturel et moral si appréciable qu’elle rend aux familles vietnamiennes et à tout le pays, en préparant notamment des maîtres et des cadres compétents, en même temps qu’elle aide les jeunes chrétiens à approfondir leur foi et à témoigner activement de leur charité.
En priant le Seigneur de favoriser cette œuvre éducative dans un avenir paisible, Nous implorons sur tous les assistants, et spécialement sur le Recteur, les professeurs et les élèves de l’Université de Dalat, en témoignage de Notre affectueuse bienveillance, l’abondance des bénédictions divines.
Du Vatican, le 6 janvier 1969.
PAULUS PP. VI[52]
***********
Con thân yêu, Cha Nguyễn Văn Lập trọng kính,
Viện Trưởng Huy Hoàng của Viện Đại Học Công giáo Đà Lạt
Vào lúc Viện Đại Học Công Giáo Đà Lạt sắp cử hành lễ kỷ niệm thứ mười, Ta sung sướng cùng liên kết với các Giám Mục bảo trợ, các nhà chức trách dân sự và hàn lâm và tất cả các thành viên của Viện Đại Học, ngơ hầu khen ngợi tất cả những ai đă can đảm đóng góp vào sự phát triển Viện Đại Học. Từ thâm tâm, Ta nguyện chúc Viện Đại Học trẻ trung này theo đuổi công cuộc phục vụ văn hóa và đạo đức rất đáng trân trọng mà Viện Đại Học đă đem lại cho các gia đ́nh Việt Nam và cho cả nước. Nhất là bằng cách chuẩn bị các thầy dậy và các cán bộ xứng đáng, Viện đồng thời cũng giúp đỡ các thanh niên Kitô hữu sống đức tin sâu xa hơn và chứng tỏ ḷng bác ái tích cực hơn.
Xin Chúa đoái thương công cuộc giáo dục này trong một tương lai an b́nh. Với tấm ḷng nhân hậu tŕu mến, Ta khẩn cầu Thiên Chúa xuống dồi dào ơn lành cho tất cả những người giúp tay vào, và nhất là cho cha Viện Trưởng, các giáo sư, và các sinh viên của Viện Đại Học Đà Lạt.
Từ Vatican, ngày 6 tháng 1 năm 1969
Linh Mục Nguyễn Văn Lập đă củng cố nền móng vật chất và truyền thống tinh thần “trồng người” cho Viện Đại Học Đà Lạt. Trong suốt nhiệm kỳ của cha, cách ứng xử nhân bản và tài năng lănh đạo của cha đă gây ấn tượng sâu xa đối với nhiều người thuộc đủ mọi tầng lớp.
LM Viện Trưởng Thứ Ba F.X. Lê Văn Lư.
Ngài được HĐGMVN cử nhiệm làm Viện Trưởng thứ ba và sau cùng (1970-1975). Từ ngày thành lập cho đến trước 30 tháng 04 năm 1975, Viện Đại Học Đà lạt lần lượt có năm phân khoa: Viện khai giảng thực tế từ năm 1958 với các khoa Sư Phạm, Văn Khoa với ba môn Văn Học, Triết lư và Địa Lư học, và Khoa học, về sau đến khoa Chánh Trị Kinh Doanh. Khoa Thần học th́ cũng đă có ở Giáo Hoàng Học Viện Thánh Piô X từ 1958, nhưng chưa hoàn toàn được công nhận về giáo quyền cũng như thế quyền là một phân khoa thuộc Viện Đại Học Đà Lạt.[54]
Linh Mục Lê Văn Lư[55] được bổ nhiệm làm Viện Trưởng. Ngài đậu văn bằng Tiến Sĩ Văn Chương Quốc Gia do Viện Đại Học Paris (Sorbonne, Luận án chuyên khoa Ngữ Học), Pháp cấp. LM Hoàng Quốc Trương, Ph.D. in Biology, làm Phó Viện Trưởng, với GS Đỗ Hữu Nghiêm, Cao Học Sử Học, làm phụ tá hành chánh cho LM Viện Trưởng Lê Văn Lư thực sự từ năm 1972. Thời kư ban đầu, LM Nguyễn Ḥa Nhă từng giữ nhiệm vụ Phó Viện Trưởng cho LM Viện Trưởng Nguyễn Văn Lập.
Nhiệm kỳ của LM Lê Văn Lư quá ngắn ngủi, nên chưa thể phát huy các sáng kiến của ngài một cách đầy đủ. Chắc chắn LM Lê Văn Lư có học vấn uyên bác và hội đủ văn bằng đại học cần thiết, và có uy tín đối với giới học giả, giáo sư và sinh viên. Nhưng ngài chỉ thi hành trách nhiệm trong thời gian ngắn ngủi, cải tiến một số lănh vực nhất định[56]. Linh mục gặp nhiều khó khăn diễn ra trong bối cảnh xáo trộn quân sự, chính trị, xă hội ở trên toàn lănh thổ quốc gia, nhất là ở phần đất phía Nam vĩ tuyến 17, sau cuộc chiến Tết Mậu Thân (1968) trở về sau.
4. Tổ Chức Hội Đồng Viện và Hội Đồng Khoa.
Có thể chưa thể hiện hoàn chỉnh các văn kiện qui định chính thức, như Quyết Định thành lập, xác định Hiến chế, Nội qui điều hành và hoạt động cùng quyền hạn và trách nhiệm, giấy tờ thành văn mô tả từng chức vụ trong Viện, để kiện toàn sinh hoạt của Viện Đại Học Đà Lạt. Thực tế, có thể diễn tả mô h́nh tổ chức như sau:
a. Hội Đồng Viện.Tất cả các Khoa Trưởng hợp thành Hội Đồng Viện, do LM Viện Trưởng chủ tọa với Phó Viện Trưởng và một số nhân sự chủ chốt, như Tổng Thư Kư Viện Đại Học (vẫn không liên tục), các Phó Khoa Trưởng, Giám Đốc hay/và Phó Giám Đốc Pḥng Sinh Viên Vụ, Giám Đốc Thư Viện, Pḥng Quản Lư, Pḥng Tuyên Úy, Pḥng Cư Xá Sinh Viên, các Phụ Tá, và một số nhân sự được mời tham dự. Nói chung Viện vẫn cần bổ sung đầy đủ hơn nhiều văn kiện điều hành, bổ dụng nhiều nhân sự chủ chốt có khả năng đức độ và uy tín quản lư các bộ phận sinh hoạt trong Viện. Đó là công việc thường xuyên cho bất cứ tổ chức nào trong quá tŕnh phát triển.
Ủy Ban Hành Chánh & Kế Toán có vai tṛ Hành Ngân Kế, theo Qui chế chính thức, nghiên cứu các dự án, chiết tính các chi phí cần thiết đề giúp các cơ quan quản trị trong Viện làm việc.
Ủy ban Học Vụ và Hội Đồng Kỷ Luật là bộ phận hoạch định tiên liệu trong tổ chức của Viện về học vụ và kỷ luật. Nhưng trong thực tế quá tŕnh hoạt động của Viện, tác dụng của hai cơ cấu này hầu như chưa được vận dụng đúng mức trong thực tế[57]…
b. Hội Đồng Khoa, thường gồm Khoa Trưởng, Phó Khoa Trưởng và một số nhân viên cốt cán trong khoa như các Trưởng Ban phụ trách các bộ môn, Chánh Văn Pḥng Khoa và các nhân viên giảng huấn được mời tham gia.
Nhiệm vụ của Hội Đồng Khoa thường giải quyết các vấn đề liên quan đến hành chính cơ bản, chương tŕnh giảng dậy, thi cử, nguyên tắc đánh giá điểm học và điểm thi, cùng các vấn đề linh tinh thuộc quyền hạn của mỗi khoa.
Hội đồng Khoa khi cần thiết cũng đóng vai tṛ Hội Đồng Kỷ Luật như có sinh viên vi phạm Kỷ Luật hay Học Vấn trong Phân Khoa[58]
Nhiệm vụ của Viện thường bao quát hơn liên quan đến các vấn đề về học vụ, tài chánh chung, giao tế hợp tác đối ngoại, quản trị tổng quát, phối hợp hoạt động học vụ hay phục vụ học vấn của các khoa và các bộ phận khác trong Viện, và vấn đề quan hệ với Hội Đại Học Đà Lạt. Sau cùng là trách nhiệm với Hội Đồng Giám Mục Việt Nam về công việc điều hành và những vấn đề nảy sinh cần giải quyết liên quan đến Hội và Viện Đại Học Đà Lạt.
5. Qui chế nội bộ Viện Đại Học.
Để kiện toàn tổ chức Viện Đại Học Đà Lạt, một qui chế điều hành tổng quát cho Viện Đại Học Đà Lạt cũng được Giám Mục Chưởng Ấn ban hành theo văn thư số 183/71/VC, kư ngày 23/8/1971 và chính thức áp dụng từ ngày 25/11/1971.
Triển khai cụ thể hơn, GM Chưởng Ấn cũng ban hành liên tiếp văn thư số 285/72/VC, kư ngày 20/11/1972, xác định quy chế cho nhân viên giảng huấn. Tất cả những qui chế này chỉ được áp dụng một cách giới hạn, linh động và uyển chuyển theo t́nh h́nh chung như lịch sử và tài chánh cùng sáng kiến cụ thể ở mỗi giai đoạn. Đây chính là chiều hướng ổn định trong việc quản trị Đại Học dưới thời Linh Mục Lê Văn Lư làm Viện Trưởng
6. Nhân Sự Giảng Huấn Và Hành Chánh.
Ban Giảng huấn niên khóa 1960-61 có khoảng 29 nguời cả giáo sĩ và giáo dân thường. Trong số các giáo sĩ, các các linh mục ḍng Tên, Đa Minh 1 linh mục ḍng SAM và 1 sư huynh Lasan, 1 linh mục Xuân Bích. Các giáo sư thuộc nhiều quốc tích: Việt Nam, Pháp, Bỉ và Tây Ban Nha.
Đây là một số vị giáo sư ban đầu mà cựu sinh viên Triết Nguyễn Văn Lục[59] c̣n nhớ được:
Về triết lư có: ÔÔ. Lư Chánh Trung, Trần Văn Toàn, Bửu Lịch, BS Đào Huy Hách, Bà Monavon; Giám Mục Hoàng Văn Đoàn OP; Các Linh mục Bửu Dưỡng OP, Lê Tôn Nghiêm; SH Pierre Trần Văn Nghiêm Lasan; Các Linh mục Alexis Cras OP, Marie-Bernard Pineau OP, Joseph Tchen SJ, Matthias Tchen SJ, C. Larre SJ, Palacios SJ, Y. Raguin SJ, Gaultier SJ.
Về Pháp Văn có: Bùi Xuân Bào, Vơ Văn Lúa, Trương Bửu Lâm, Đoàn Mừng, Linh Mục Nguyễn Ḥa Nhă; René Cabrière, Beucher, Lm Alexis Cras OP, Mlle Tiot, Père Duluth, Donini
Ngoài một số nhân viên giảng huấn cơ hữu gia tăng của Viện, về sau gồm có một số giáo sư và các phụ khảo, hai nguồn cung ứng nhân sự chính yếu cho Đại Học Đà Lạt được tận dụng là:
Nguồn nhân sự tại chỗ: nhiều sĩ quan, giáo sư thỉnh giảng từ nhiều cơ sở giáo dục và nghiên cứu, như Giáo Hoàng Học Viện Thánh Piô X, Đại Chủng Viện Minh Ḥa, Trung Tâm Nguyên Tử Lực, Trường Vơ Bị Đà Lạt, Trường Chiến Tranh Chánh Trị và Trường Bùi Thị Xuân cùng một số ḍng tu tại Đà Lạt
Nguồn từ các Trường đại học, Viện nghiên cứu và các Giáo phận trong nước nhưng ở ngoài Đà Lạt, như nhiều trường thuộc các Viện Đại Học công và tư tại Sàig̣n, và Huế, Hải Học Viện Nha Trang, …
Biểu đồ 5. Phân Bố Nhân Sự Hành Chánh Niên khóa 1973-74
TT |
Bộ Phận |
Hành Chánh |
Giảng huấn |
Chú thích |
1 |
Hội Đại Học Đà Lạt |
06 |
|
|
2 |
Hội Đồng Viện ĐHĐL |
11 |
|
|
Đà Lạt |
||||
3 |
Văn Pḥng VĐH/ĐL |
07 |
|
|
4 |
Trường Sư Phạm |
04 |
28 |
Hầu hết là thỉnh giảng, chung cha cả Đà Lạt và Sàig̣n |
5 |
Trường Văn Khoa |
05 |
70 |
|
6 |
Trường Khoa Học |
09 |
48 |
|
7 |
Trường Chánh Trị KD |
07 |
83 |
|
8 |
Thần Học |
|
|
Chưa có |
9 |
Thư Viện |
02 |
|
|
10 |
Tu Thư & Báo Chí |
02 |
|
|
11 |
Tuyên Úy Vụ |
01 |
|
|
12 |
Sinh Viên Vụ |
01 |
|
|
13 |
Pḥng Quản Lư |
21 |
|
|
14 |
Đại Học Xá B́nh Minh |
02 |
|
|
15 |
ĐHX Kiêm Ái |
05 |
|
|
16 |
ĐHX Trương Vĩnh Kư |
04 |
|
|
17 |
Pḥng Y Tế |
02 |
|
|
Sàig̣n |
||||
18 |
Hệ Thống Tổng Quản Lư |
09 |
|
8 cơ sơ kinh doanh |
19 |
Cơ Sở thuộc VĐHĐL |
16 |
|
3 bộ phận: VPLL, SVV, Ban Cao học CTKD |
|
|
116 |
229 |
|
Tổng Kết: Tổng cộng 19 bộ phận gồm 342 người cả về hành chánh và giảng huấn. Một số người kiêm nhiệm cả hai lănh vực hành chánh và giảng huấn, hay cùng một người giảng dậy ở nhiều phân khoa khác nhau, không tính con số nhân sự của Học Viện Giáo Hoàng Thánh Piô X với tính các là Phân Khoa Thần Học. |
Nhân viên hành chánh nói chung gồm một số người cố định tham gia công việc hành chánh và quản trị, nhưng tŕnh độ đào tạo chưa được chuyên môn hóa cao và cần được chỉnh đốn cho thích hợp với đà tiến chung của xă hội. Các nhân viên hành chánh làm việc tại các đơn vị khác nhau, như ở Văn pḥng Hành Chánh Viện, Khoa, Thư Viện, Trung Tâm Sinh Viên, Sinh Viên Vụ, Pḥng Quản lư, Tu Thư & Báo Chí
7. Sĩ Số Sinh Viên Ghi Danh.
Với lư tưởng Thụ Nhân, Viện Đại Học Đà Lạt lấy mục tiêu giáo dục con người, “trồng người” là chính. V́ thế Viện không nhắm nhiều đến sĩ số sinh viên ghi danh để tính lợi nhuận kinh tế. Tuy nhiên sĩ số thay đổi theo từng niên khóa trong giai đoạn đầu tiên 1958 đến 1975. Cho đến nay, với một số chứng liệu cơ bản, có thể lập được một bảng thống kê đầy đủ về tiến tŕnh thay đổi sinh viên trong tất cả các năm. Trong những năm đầu chắc là con số rất khiêm tốn. Nhưng từ năm 1970-1975, con số sinh viên ghi danh thay đổi từ khoảng 3000-4000, chỉ tại cơ sở Viện Đại Học ở Đà Lạt.
Biểu Đồ 6. Sĩ Số Sinh Viên Theo Học Viện Đại Học Đà Lạt (1958-1973)[60]
PhânKhoa |
Sư Phạm |
VănKhoa |
Khoa Học |
CTKD |
Thần Học |
Tổngcộng |
Niên Khóa |
(1) |
(2) |
(3) |
(4) |
(5) |
(6) |
1958-59 |
019 |
|
|
|
23 |
0019 |
1959-60 |
109 |
0011 |
037 |
|
20 |
0187 |
1960-61 |
163 |
0071 |
079 |
|
17 |
0316 |
1961-62 |
177 |
0158 |
091 |
|
23 |
0456 |
1962-63 |
140 |
0247 |
072 |
|
25 |
0459 |
1963-64 |
112 |
0271 |
061 |
|
33 |
0444 |
1964-65 |
051 |
0295 |
094 |
1075 |
26 |
1515 |
1965-66 |
000 |
0405 |
112 |
0865 |
25 |
1382 |
1966-67 |
109 |
0633 |
149 |
0878 |
26 |
1769 |
1967-68 |
083 |
0952 |
253 |
1165 |
29 |
2153 |
1968-69 |
120 |
1071 |
400 |
1136 |
28 |
2750 |
1969-70 |
250 |
1277 |
434 |
1386 |
28 |
3347 |
1970-71 |
336 |
1091 |
685 |
1379 |
30 |
3191 |
1971-72 |
343 |
1003 |
751 |
1391 |
32 |
3891 |
1972-73 |
565 |
1379 |
767 |
1708 |
32 |
4319 |
1973-74 |
|
|
|
|
30 |
|
1974-75 |
|
|
|
|
23 |
|
Tổng cộng |
2805 |
9870 |
3985 |
13206 |
450 |
27866 |
Chú thích: 1/Tổng Kê này (Chỉ Nam SV 73-74, t. 9) chỉ có tính tương đối, v́ đối chiếu với các số liệu do chính phân khoa [Chỉ Nam SV 73-74, t.31 (SP) ghi 2805; t. 49 (VK) ghi tổng số sinh viên của khoa là 8838; t.74-75 (KH) ghi 3985; t. 103 (CTKD) ghi tổng số sinh viên của Trường là 10.871, th́ chỉ có trường SP và KH là phù hợp, c̣n hai Trường VK và CTKD là không phù hợp, trong cùng một tài liệu nói trên. 2/ Tổng kê này không phản ảnh số liệu về sinh viên nam và nữ. 3/Nếu đối chiếu với các số liệu về sinh viên ở Bảng thồng kê toàn viện 1958-73 (CNSV 73-74), bản thống kê 1957-61 (Dalat University), và các thống kê 1958-73 của từng Phân Khoa trong Chỉ Nam Sinh Viên 1973-74, th́ rất khó phê phán chính xác về nhiều phương diện, v́ các số liệu không trùng khớp nhau! 3/ Sinh viên GHHV c̣n tiếp tục học tới niên khóa 1977-1978. Số chủng sinh làm linh mục là 245, trong đó có 10 người được thụ phong Giám Mục và một số đă qua đời. Như thế số người chuyển hướng ra đời thường là 205 người ( Linh mục F. Gomez (Lịch sử tóm tắt Giáo Hoàng Học Viện Thánh Piô X Đà Lạt, www.dunglac.net) đưa ra con số ít nhất có 358 sinh viên theo học, Kết quả có 178 người làm linh mục và 10 giám mục cho đến (2007) |
Như thế vấn đề tổ chức giảng dậy và sinh hoạt cho sinh viên Viện Đại Học Đà Lạt cũng thật là phức tạp, v́ hầu hết sinh viên từ nơi khác đến và c̣n bị chi phối bởi vấn đề thời cuộc, như quân dịch (quân sự học đường). Số lượng sinh viên ghi danh hằng năm làm tăng cường nhịp sống kinh tế, th́ cũng làm cho các vấn đề văn hóa xă hội ở thành phố Đà Lạt trở nên nhiều khê hơn. Nhịp độ các hoạt động liên hệ như thăm viếng du lịch, chuyên chở các thân hữu của giáo sư, nhân viên và sinh viên đến và đi khỏi thành phố miền Cao nguyên này, nhất là những tháng cuối cùng của chế độ Việt Nam Cộng Ḥa tại Miền Nam cũng tăng tốc.
Khi sĩ số sinh viên lên cao, th́ các nhu cầu chuyên biệt cho tập thể sinh viên cũng lớn lên. Có thể đó là một khía cạnh trong cách giải thích sự xuất hiện cần thiết của tổ chức Sinh Viên Vụ.
8. Chung quanh những ngày hấp hối của Viện Đại Học Đà Lạt
Vài h́nh ảnh những ngày cuối cùng của Viện.
Vào những ngày cuối tháng 3/1975, Sư huynh Théophane Nguyễn Văn Kế đang băn khoăn có nên ở lại hay chạy đi khỏi Đà Lạt. Các sư huynh trẻ đang vội vă lấy Honda rủ nhau đi theo lối xuống Nha Trang, v́ ngả đường đi theo dốc đèo Prenn đă bị cắt đứt. Ông chưa sẵn sàng đi, th́ cô Hoàng Yến, một cựu sinh viên Viện Đại Học Đà Lạt bay từ Kontum về Đà Lạt bằng trực thăng quân sự. Cô t́m đến ngay biệt thự số 6 Trần Hưng Đạo, như một sứ thần báo tin. Gặp cô, ông hỏi ngay:
“Phải làm ǵ trong giờ phút quyết liệt này?”.
“Thưa Frère, con vừa trên Dinh Tỉnh Trưởng xuống đây. Ông Tỉnh Trưởng ra lệnh đóng cửa tất cả các ngơ ra vào Đà Lạt khởi sự từ chiều nay. Con đến nói với Frère là nên rời Đà Lạt ngay cho sớm. Từ biệt Frère.
Ấy thế là ông quyết định rời bỏ Đà Lạt và từ biệt VĐHĐL vào 1 giờ trưa một ngày vào hạ tuần Tháng Ba năm 1975
Ngày 30/3/75, một ḿnh Giáo sư Nguyễn Khắc Dương bám trụ tại khuôn viên Viện Đại Học tại Đà Lạt. Trước đó người viết, sau ngày 20/3/1975, nhận được từ Đà Lạt gửi xuống Sàig̣n một danh thiếp cá nhân GS Nguyễn Khắc Dương, Q. Khoa Trưởng Trường Đại Học Văn Khoa Đà Lạt. Mặt sau danh thiếp có ghi chú mấy lời là ủy nhiệm người viết làm Quyền Khoa Trưởng trông coi về công việc liên quan đến Trường Văn Khoa qua Văn Pḥng Liên Lạc của Viện tại Sàig̣n.
Trong những ngày cuối cùng c̣n ở Đà Lạt, GS Phó Bá Long đến Viện c̣n tận mắt thấy GS Nguyễn Khắc Dương qú lạy trước cha Viện Trưởng Lê Văn Lư, tha thiết van xin ngài ra đi khỏi Viện trong cảnh hỗn loạn, và hăy để một ḿnh GS đứng mũi chịu sào đối phó với những người chủ mới đến Viện![61]
Hồi ức của GS Phó Bá Long mô tả lại những cảm nghĩ hành động và phản ứng trong giờ phút dẩu sôi lửa bỏng ấy như sau:
Chuyến đi khỏi Đà Lạt vôi vă như ma đuổi
“Ông gợi ư Đà Lạt nên đón nhận toàn bộ phân khoa và bộ phận sinh viên của Viện Đại Học Huế đến trú. Chuyện đă diễn ra là sinh viên của Viện Đại Học chạy ùa ra lấy vé hàng không, chuồn càng nhanh càng tốt khỏi Đà Lạt.Chuyện diễn ra dường như ông hoàn toàn không chú ư đến t́nh thế của Viện Dại Học Đà Lạt.
Một tuần trước Chủ Nhật lễ Lá, Viện Đại Học Đà Lạt chính thức đóng cửa và những sinh viên c̣n lại được di tản về Sàig̣n. Bà Claire và ông quyết định rằng khôn ngoan là di chuyển chính gia đ́nh họ. Sau một số khó khăn, ông t́m cách xoay sở, kiếm được vé cho tất cả mọi người thuộc gia đ́nh ông. Ông tháp tùng gia đ́nh ông về Sàig̣n, thấy họ yên ổn định cư và trở về Đà Lạt, bàn luận về số phận của Viện Đại Học Đà Lạt. Viện Trường Viện Đại Học và ông quyết định ông sẽ chuyên chở toàn bộ hồ sơ thành tích ghi điểm học vấn của sinh viên về Sàig̣n và lập một khuôn viên tại đó. Ban Kinh doanh tốt nghiệp đă sẵn sàng được bố trí tại Sàig̣n. Như thế kế hoạch của Viện là phát triển ban đó để tiếp nhận trường đại học sinh viên học đế tốt nghiệp.
Trước khi rời bỏ Đà Lạt, ông tham dự thánh lễ cuối cùng trong khuôn viên hoang vắng. Hôm đó là Ngày Thứ Năm Tuần Thánh và ông có linh cảm là một cái ǵ rất quan trọng sắp xảy ra. Ông cầu nguyện tha thiết cho sinh viên của ông và cho các con ông. Sáng hôm sau, Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, ông rời bỏ Đà Lạt với hai chiếc xe hơi. Ông lái một xe và hai giáo sư Pháp lái các chiếc khác. Đem vào trong hai xe đó, ông nhồi nhét mọi thứ có thể - kể cả mấy con gà, một lô ảnh chụp, và bất cứ thứ ǵ ông có thể kéo ra từ trong hồ sơ của Bà Claire. Nhưng khối lượng đồ đạc cồng kềnh là những hồ sơ thành tích ghi điểm học vấn của mấy ngàn sinh viên của trường kinh doanh.
Họ cùng ông theo đường ra lối biển hơn là lối đi Blao, mà ông có nghe một cha xứ chỉ dẫn, các ngư phủ theo đúng nghĩa từng chữ là khiêng và mang hai chiếc xe và để chúng lên chiếc thuyến tam bàn đánh cá có gắn động cơ. Suốt đêm ngày Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, mọi người đi thuyền dọc theo bờ biển và sáng sớm hôm sau th́ đến Vũng Tàu. Không có những tiện nghi lên bộ, v́ thế lại một lần nữa, các ngư phủ khiêng xe hơi ra khỏi thuyền đế lên bến. Từ đó ông lái về Sàig̣n. Mắc dù nhiều phiền toái, nhất là về đêm, th́ đó là một chuyến đi không có xảy ra chuyện ǵ.
Gia đ́nh ông có hai căn nhà tại Sàig̣n, một tại An Phú, một tại Phong Phú. Gia đ́nh ông quyết định ở lại An phú, gần Sàig̣n hơn. Lễ Phục Sinh năm 1975 được cử hành với các cha Phanxicô tại ngôi nhà thờ mới tinh ở Đa Kao.
Chẳng bao lâu, có tin quân lính Cộng Sản đang tiến nhanh về thủ đô và dường như người Mỹ không chặn họ lại. Về sau ông phát hiện họ đă có một thỏa thuận ngầm là Cộng Sản cho phép người Mỹ rút lui trọn bộ trước khi chiếm khu vực này. Đó là Tháng Tư khó chịu ở Sàig̣n: ông cố để thi hành các nhiệm vụ của ông với tư cách Khoa Trưởng Trường Cao Học Kinh Doanh. Trong khi giảng dậy giáo tŕnh thông thường, ông cũng cố nhồi cho sinh viên hiểu biết tầm quan trọng là làm trọn việc học tập bất kể việc ǵ xảy ra. Đấy là cách ông chia sẻ điều ông tin là sẽ có một chế độ mới và họ cần phải chọn lựa điều ǵ tốt nhất cho họ và tốt nhất cho đất nước. Ông thực sự cảm nhận cái này là một cuộc nội chiến sẽ kết thúc với thắng lợi cho Miến Bắc.[62]
Trong Hồi Kư Quia Respexit Humilitatem Meam ghi lại một số chi tiết ngay trước và ngay sau những ngày Đà Lạt đổi chủ:
“ …nằm sau đường mương đàng sau nhà Ḥa Lạc, tức là nhà của Viện Trưởng Đại Học Đà Lạt, nh́n trường Vơ Bị Quốc Gia, ḿn đạn nổ như sáng rực cả một góc trời, tôi như người sực tỉnh khỏi một cơn mơ dài”[63].
“Ở lại Đà lạt tôi có ư: một là sớm được cùng gia đ́nh đoàn tụ, hai là nếu Viện Đại Học Đà Lạt vẫn được chế độ mới chấp thuận để cho Giáo hội quản lư, th́ tôi vẫn tiếp tục phục vụ tại Viện Đại Học; nếu như chế độ mới không cho phép Viện Đại Học Đà Lạt được tiếp tục dưới sự quản lư của Giáo Hội, th́ có thể tôi vẫn được lưu dụng, [trang 168] c̣n nếu không được lưu dụng th́ tôi sẽ đề nghị Toà Giám mục Đà Lạt sử dụng tôi làm việc ǵ cũng được. V́ vậy, trong ban giáo sư thuộc Viện Đại Học Đà Lạt cũ, tôi là giáo sư
duy nhất (cùng với một phụ khảo duy nhất có gia đ́nh tại Đà Lạt) ở lại, không di tản về Sài G̣n. Sau khi toàn bộ Ban Giám Hiệu rời Đà Lạt, tôi được Đức Giám Mục chỉ định ở lại Viện như thành phần của Ban Giám Hiệu, bảo quản cơ sở vật chất, cùng với toàn bộ anh em công nhân lao động chân tay đều ở lại cả.
Từ đêm 30/3/1975 chính quyền cũ rút khỏi Đà Lạt, cho đến ngày tôi bị đưa vào trung tâm thẩm vấn Đà Lạt (24/4/75), mọi sinh hoạt đều b́nh thường, tôi có tŕnh diện tại Ủy Ban Quân Quản, vị đại diện cho biết rằng: tại Đà lạt, thành phần giáo sư Đại học chỉ có một ḿnh tôi, nên tôi hăy chờ đợi có chính sách chung. Và sau khi một số anh em giáo sư di tản xuống Phan Rang vài ngày, tôi trở về Đà Lạt, tôi có cử người tiếp xúc với bộ phận đặc trách văn hóa giáo dục của Cách Mạng th́ cũng được trả lời như vậy. Và điều sau đây là cái sai lầm lớn (đúng hơn là cái khờ dại của tôi) trong những ngày ấy: đó là tham gia vào việc thành lập Hội Liên Tôn ở Đà Lạt!!!”[64]
[“Nay tôi cũng không nhớ rơ, trước hoặc sau khi Ủy Ban Quân Quản ra mắt đồng bào một hôm, tức là ngày 2 hoặc 4 tháng 4 (h́nh như trước một hôm, tức là ngày mùng 2 tháng 4 th́ có lẽ đúng hơn), trong lúc tôi đứng trước Rạp Chiếu Bóng Ḥa B́nh (nay là rạp 3/4) một nhà sư áo vàng thuộc hệ khất sĩ, c̣n trẻ tuổi (khoảng trên dưới 30) đến chào tôi và tự xưng là “Đại Diện” của Phật giáo nhờ tôi giới thiệu với Ṭa Giám Mục Đà Lạt, bàn về việc tổ chức thành lập một tổ chức gồm đại diện các tôn giáo để thực hiện hai mục đích:
1. Là tạo sự đoàn kết, hài ḥa giữa các thành phần nhân dân, tránh những xô xát tranh chấp do sự chưa ổn định thời cuộc (lúc ấy Sài G̣n chưa giải phóng).
2. Là giải quyết vấn đề ổn định những xáo trộn xă hội: cướp phá, thiếu lương thực, thực phẩm, các gia đ́nh ly tán neo đơn. Tôi thấy hai mục đích ấy không có tính cách chính trị mà chỉ là vấn đề nhân đạo [trang 169] xă hội phù hợp với tinh thần nhân ái của các tôn giáo, nên tôi đă dẫn vị sư này đến Ṭa Giám Mục.
Đức Giám Mục vui vẻ nhận lời, và chỉ định một Linh Mục Đại Diện, c̣n tôi Đại Diện Giáo Dân đến dự cuộc họp thành lập Hội Liên Tôn nói trên lại Chùa Linh Sơn. Sở dĩ như vậy là v́ từ năm 1963, hầu hết giới Công Giáo đều nghĩ rằng: giữa Phật Giáo và Cách Mạng có một sự thỏa thuận, cho nên những ǵ do Phật Giáo đề xướng hẳn là đều có sự chỉ đạo hoặc đồng ư của Cách Mạng! Hội Liên Tôn ấy hoạt động không đầy 10 ngày th́ tan ră, sau khi nhiều lần xin Ủy Ban Quân Quản cho yết kiến để lănh ư mà không được!
Thế nhưng có ai ngờ, h́nh như v́ việc thành lập Hội Liên Tôn ấy mà phần nào tôi trở nên đối tượng của sự ngộ nhận khá nặng nề! Thậm chí có người cho rằng: đó là lư do làm cho tôi bị đưa đi học tập cải tạo. Riêng tôi, tôi không nghĩ như vậy, v́ tôi nghĩ rằng Cách mạng đủ sáng suốt để thấy Hội Liên Tôn túc ấy thực chất chẳng có ǵ là phản cách mạng cả. H́nh như đương sự (tức là vị sư khất sĩ áo vàng nói ở trên đây) chỉ có ư đồ là nấp ḿnh ở dưới Hội Liên Tôn, không phải để chống đối Cách mạng mà chỉ là để né tránh sự xử lư của Cách Mạng đối với một số sai lầm của đương sự trong chế độ cũ (mà có lẽ đương sự là một Tuyên Úy Phật giáo của quân đội chế độ cũ, nay muốn nhờ Liên Tôn mà xóa nḥa cái vết tích ấy, sự việc có lẽ chỉ có vậy).
C̣n việc tôi bị đưa đi học tập cải tạo xảy ra như sau: theo chính sách của Cách mạng th́ những ai ra khỏi hàng ngũ ngụy quân ngụy quyền trước hiệp định Paris, th́ xem như không có vướng mắc ǵ cả; mà tôi th́ giải ngũ năm 1956, từ đó tôi chỉ sống hoàn toàn trong khuôn khổ Hội Thánh, không dính líu một tổ chức hoạt động chính trị nào cả! Hơn nữa, dưới cái nh́n của một số anh em sinh viên và giáo chức tại Đà Lạt có ít nhiều tương quan với cá nhân tôi, tôi được xem như là thành phần tốt (hay ít nhất là vô can, vô sự; chỉ là một tu sĩ hụt, một trí thức trùm chăn!)
Hơn nữa, nếu v́ lư do chính trị mà tôi bị đưa đi học tập tại các trung tâm dành cho những thành phần ấy! Đàng này tôi đi học tập với tư cách là sĩ quan ngụy (mặc dù đă giải ngũ năm 1956) và như vậy là không đúng [trang 170] chính sách. Đến nay tôi cũng chưa rơ tại sao lại xảy ra sự việc như vậy! Lầm lẫn chăng? Nhưng thôi, chuyện đă qua rồi, hậu quả chẳng có ǵ trầm trọng lắm! Trái lại chỉ có lợi cho tôi về nhiều mặt như tôi đă tŕnh bày trên kia, và tôi cũng xác nhận rằng: chế độ của trại học tập của Tổng Trại 8 do Quân Khu 5 quản lư tại Sông Mao là rất tốt, hầu hết anh em học tập ở đó ra đều giữ một kỷ niệm tốt về thời gian học tập nhất là đối với số cán bộ thuộc thành phần bộ đội: cởi mở, chân thành đúng với truyền thống chân chính của danh hiệu “Bộ Đội Cụ Hồ”[65]]
“Sau ngày tôi trở về Viện Đại học Đà Lạt, tôi tiếp tục cư trú tại Trường Đại học (bấy giờ do một ban quản lư gồm đại diện của Nhà nước và đại diện của Giáo hội quản lư, nghiên cứu thể thức chuyển giao cho Nhà nước). Trong quy ước giữa hai bên th́ tất cả mọi giáo viên, nhân viên cũ của Đại học, nếu c̣n ở lại th́ được Nhà Nước lưu dụng, ngày 3/4/ 1975 tôi là giáo sư duy nhất ở lại. Thế nhưng, trong danh sách những người ở lại (lập trong thời gian tôi đi học tập vắng mặt, tôi bị lọt sổ hay bị gạch sổ) nên khi Đại học Đà Lạt hoạt động lại dưới sự quản lư của Nhà nước, tôi không được lưu dụng. Tôi bắt đầu tự mưu sinh bằng cách làm vườn trồng rau, đây là một kinh nghiệm quư và là một vinh dự lớn: tôi làm được ba vụ rau bắp cải, bán cho hợp tác xă phường 4 Đà Lạt!
Nhân dịp này tôi cũng xin ghi lên đây lời thành tâm tri ân đối với một số anh chị em đă có ḷng thương giúp đỡ tôi về mọi mặt, trong thời gian tôi lưu trú tại Đại học Đà Lạt; giúp đỡ lao động sản xuất, chia sẻ lương thực thực phẩm, áo quần và tiền nong - quả là bát cơm phiếu mẫu đáng giá ngh́n vàng! Điều quư hóa là phần đông các ân nhân ấy là những người đôi khi không có liên lạc ǵ với tôi trước, nay biết tôi ở vào hoàn cảnh khó khăn th́ giúp đỡ v́ ḷng từ thiện, ngoài ra tôi cũng [trang 171] như bất cứ người nào đi học tập về đều gặp nhiều khó khăn đôi khi khá căng thẳng về mọi mặt”[66].
“Từ cuối đêm 26 rạng ngày 27 tháng 8 năm 1976, đêm đầu tiên tôi trở về lại Đà Lạt sau 16 tháng cải tạo, tại nhà Hoà Lạc của Đại Học Đà Lạt, tôi quỳ gối phỏng ư bài thơ “Lên Đỉnh Cát Minh”, ghi lại những ḍng sau đây:
“Đêm nay mới thật là đêm
Bao năm lạc bước êm đềm về đây
Về đây sau những tháng ngày
Đau thương phúc lạc tràn đầy cả hai
Bắt đầu tất cả đêm nay:
B́nh an, phúc lạc, an b́nh, b́nh an”. [trang 191]
Và sau mấy câu thơ ấy, tự nhiên tôi thay đổi chữ kư.
Trước th́: [chỗ này có chữ kư dài]
Nay đổi sang như sau: [chữ kư tắt]
Sự thay đổi tự nhiên bột phát đêm hôm ấy có phải chăng là dấu hiệu tôi bước sang một giai đoạn mới hoàn toàn mới của cuộc đời? Sự thay đổi mà trước kia bao nhiêu người khuyên tôi, v́ họ cho chữ kư cũ là rất xấu và rất nguy, nhưg tôi đă nhất định không chịu nghe. Đêm ấy, gần như một cách vô thức, vô ư định, tôi đổi chữ kư, một việc làm mà tôi không hiểu do đâu, mà chính tôi cũng lấy làm ngạc nhiên! Và quả thực, cuộc đời tôi đổi mới hoàn toàn”[67].
“Sau ngày trở về lại Đà Lạt, anh Viện[68] là người đầu tiên đến thăm tôi tại trường Đại học Đà Lạt. Điều đáng nói nhất là trong một buổi toạ đàm do trường tổ chức tại pḥng khách nhà Viện trưởng cũ. Tôi ngồi nghe anh Viện nói chuyện, mà cứ như trong mộng. Thật khó ngờ được rằng lại có cái ngày anh Viện tôi đến thuyết tŕnh cho anh em cán bộ Trường Đại Học Đà Lạt, ngồi tại chính cái pḥng khách ấy! Và lẽ ra, ít nhất tôi cũng được đón anh tôi với tư cách giáo sư duy nhất ở lại Viện Đại Học, lúc toàn ban giáo sư di tản, thế nhưng, lại ngồi nghe anh như một anh ngụy quân đi học tập về chưa có quyền công dân! Tôi thương ḿnh th́ ít mà thương anh th́ nhiều! Chẳng biết thâm tâm anh ra sao, nhưng tôi thấy anh có thương tôi nhiều mới lên thăm tôi để hai anh em chúng tôi phải sống những giây phút khá oái oăm như vậy!”[69]
Trong lúc GS Nguyễn Khắc Dương phải rắc rối với nhiều chuyện nan giải, th́ số phận Viện Đại Học Đà Lạt vẫn được những người làm chủ mới quyết định. Năm 1975, Ban Quân Quản thị xă Đà Lạt và GS Nguyễn Lam Kiều từ phía Bắc vào tiếp quản Viện, phối hợp với nhân viên của Viện “canh gác bảo vệ” cho Viện[70].
Chương Sáu: Khối Hành Chánh
1. Văn Pḥng Hành Chánh
Gồm các thư kư phụ trách một số công việc khác nhau, điện thoại viên, tùy phái trong Ṭa Viện Trưởng, phụ tá các hoạt động hành chánh cho Viện Trưởng. Viện Trưởng có một Phó Viện Trưởng công tác. Một Tổng Thư kư đôn đốc mọi việc hành chánh và một sống công việc do Viện Trưởng uỷ nhiệm trong văn pḥng Viện. Lần luợt có các Phó Viện Trưởng Nguyễn Ḥa Nhă làm việc dưới thời LM Nguyễn Văn Lập, và ông Trần Quang Diệu làm Tổng Thư Kư. Trước đó, anh Sử[71] nắm nhiệm vụ Chánh Văn Pḥng Hành Chánh ở Toà Viện Trưởng. Đến thời kỳ Linh Mục Lê Văn Lư làm Viện Trưởng th́ có LM Hoàng Quốc Trương làm Phó Viện Trưởng nhưng không có chức vụ Tổng Thư Kư. Năm 1972, Lm Viện Trưởng bố trí GS Đỗ Hữu Nghiêm làm Phụ Tá Hành Chánh[72] cho Viện Trưởng trông coi việc hành chánh[73].
Ṭa nhà hành chánh (Ḥa Lạc) Viện Đại Học Đà Lạt gồm các ông Phan Phát Tường, Nguyễn Viết Khai, Nguyễn Hữu T́nh, Nguyễn Đức Hảo.
Hầu hết các nhân viên kế thừa từ nhiệm kỳ của LM Viện Trưởng tiền nhiệm Nguyễn Văn Lập. Một vài vấn đề khó khăn tự nhiên trong giai đoạn chuyển tiếp nhiệm kỳ giữa Viện Trưởng mới và cũ về tâm lư của những người cùng cộng tác nhưng chưa hiểu nhau rơ và chưa ḥa đồng được ngay. Có những khó khăn do tŕnh độ đào tạo, địa phương của một số người. Nhưng cách xử dụng người theo tinh thần bác ái nhân bản không thể một sớm một chiều làm thay đổi tất cả. Nhưng rồi mọi việc vẫn diễn tiến êm xuôi ít ra trước mắt cho đến ngày 30/3/1975 ở vùng Đà Lạt
2. Pḥng Liên Lạc tại Sàig̣n: Viện có một Văn Pḥng Liên Lạc tại Thương xá Tax ở Sàig̣n, do Ông Đỗ Văn Thành phụ trách chung vào giai đoạn năm 1971-1974.
Một trong những hoạt động chính yếu của Pḥng Liên Lạc là chuẩn bị việc đưa rước các giáo sư đi Đà Lạt để dậy học và đưa các vị đó về lại Sài g̣n. Pḥng Liên Lạc mua vé máy bay cho các giáo sư nào muốn đi đường hàng không hay điều chuyển xe chuyên chở các giáo sư nào muốn đi lại bằng đường bộ.
Văn pḥng này lúc đầu đầu được đặt tại số 262 Trương Minh Giảng Sàig̣n 3. Nhân sự gồm một Trưởng Pḥng với một vài thư kư và tài xế. Khi Ban Cao Học CTKD được thiết lập tại Sàig̣n và khai giảng ngày 11/1/1969 tại Lầu II, Ṭa Nhà Thư Quán Xuân Thu và Trường Taberd. Sau đó Cơ sở trường chuyển sang Lầu II, Thương Xá Tax, đường Nguyễn Huệ Sàig̣n 1 th́ Văn Pḥng này cũng chuyển theo.
1. Nguyện Đường:
Khu nguyện đường đi liền với sinh hoạt tâm linh này, năm 1970-1975, có một Lm tuyên úy sinh viên là Lm Lă Thanh Lịch cũng từ Gp Cần Thơ, gốc Gp Hà Nội lên phục vụ.
Nguyện đường Năng tĩnh là kiến trúc biểu trưng cao đẹp nhất của lư tưởng phục vụ của Viện Đại Học Đà Lạt. Ngôi thánh đường được xây dựng ở khu đất trang trọng, uy nghi, trên đỉnh đồi cao nhất khu A được san bằng. Thánh đường được thiết kế theo đồ h́nh tổng quát là tam giác, phù hợp với ngọn tháp tam giác cao vút lên trời xanh, biểu tượng huyền nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, cao 38 mét.
Toàn thể cấu trúc ấy hiển nhiên nói lên quan hệ Trời Đất Người – Thiên Địa Nhân, trong tâm thức giao lưu của văn hóa Á Đông cổ truyền - triết lư Tam Tài. Trước Ṭa Nhà Năng Tĩnh là một sân trải sỏi đất đỏ được vẫn dùng làm nơi tổ chức những buổi lế tiếp đón quan khách hay nghi lễ truyền thống, kỷ niệm như lễ quan thầy của Viện và lễ phát bằng tốt nghiệp hằng năm. Nguyện Đường này là nơi cử hành thành lễ hằng ngày của Linh Mục Viện Trưởng và các Linh Mục sinh hoạt trong Viện Đại Học phục vụ tại chỗ hay từ nơi khác đến. Thời LM VT NguyễnVăn Lập, thánh lễ hằng ngày được cử hành ở ṭa nhà có văn pḥng Viện
Theo Linh mục Nguyễn Văn Lập nhớ lại, các sinh viên Công giáo lập nên Liên Đoàn sinh viên Công giáo lúc đó chiếm khoảng 10% sĩ số toàn viện tương đương với tỷ lệ ngoài xă hội. Các sinh viên Phật giáo tổ chức các sinh hoạt trong Chùa, có một ít sinh viên Tin Lành. Tất cả đều sống hài ḥa, không có vấn đề kỳ thị tôn giáo.Nhà nguyện Công giáo tọa lạc trên đồi cao, chung quanh là các pḥng dành cho các giáo sư và các pḥng học của sinh viên.
Có những lúc sinh viên Công giáo cầu nguyện bên trong, bên ngoài sinh viên các tôn giáo khác học bài trong bầu không khí thinh lặng và thân thiện. Có thánh lễ vào buổi trưa nhưng không có các hội đoàn trong viện. Linh mục thường nói với sinh viên: “Chúng con ai là Công giáo th́ phải là Công giáo 100%, ai là Phật Giáo th́ cũng phải là Phật Giáo 100%, th́ tự nhiên có ḥa đồng.”
Linh mục Nguyễn Văn Lập biểu hiện t́nh cảm thân cận với các tu sĩ Phật giáo bên Chùa Linh Sơn. Có một đại đức trẻ đự định sang Nhật du học tại một trường Phật Giáo. Bên Nhật đ̣i vị đó phải xuất tŕnh bằng cấp đă đậu ở Việt Nam, nhưng các tăng ni ít khi tham dự khảo thí để lấy bằng phần đời. Nếu không, ít nhất phải có thư giới thiệu của một giáo chức cao cấp có uy tín trong ngành giáo dục. Linh mục sẵn sàng nhận giới thiệu ngay để giải quyết khó khăn cho vị đại đức ấy. Trước ngày lên đường, vị đại đức tố chức một buổi tiếp tân cám ơn và từ biệt các thân nhân, bằng hữu và ân nhân. Trong số các khách mời , có Thượng Tọa Thích Minh Châu, Thích Thiện Minh và nhiều vị Thượng Tọa khác cùng Linh mục giáo sư Trần Thái Đỉnh. Khi linh mục Viện Trưởng tới, các ThuợngTọa hỏi Lm Đỉnh người vừa đến là ai. Linh mục bắt tay chào các Thượng Tọa và khi biết Linh mục Lập đă có cư chỉ ưu ái với đại đức, các Thượng Tọa ngỏ lời cám ơn.
H́nh ảnh một nguyện đường đại học
2. Tuyên Úy Vụ
a. Linh Mục Tuyên Úy được thành lập từ năm 1959 cho một tập thể sinh viên nhỏ bé ban đầu. Nhiệm vụ chính của Tuyên úy là “phát huy văn hóa Việt Nam trong khía cạnh nhân bản, dân tộc và khoa học, dung ḥa các giá trị cổ truyền quốc gia với mọi tư tưởng quốc tế, nhất là tinh thần Phúc Âm Công Giáo[76]”. Pḥng Tuyên úy c̣n giúp đỡ các sinh viên ngoài Công giáo muốn t́m hiểu đức tin Kitô. Khi sinh viên Công giáo đông hơn, th́ các sinh viên được qui tụ và tổ chức thành Đoàn Sinh Viên, rồi Liên Đoàn Sinh Viên Công giáo, do các trường hay phân khoa hợp thành. LĐSVCG được các vị LM tuyên úy sau đây lần lượt hướng dẫn:
Palacios, SJ
Phạm Văn Nhượng, gốc giáo phận Phát Diệm
Trịnh Việt Yên, gốc giáo phận Thanh Hóa
Từ năm 1971, Lm Lă Thanh Lịch, gốc giáo phận Hà Nội, sát nhập giáo phận Cần Thơ, được cử nhiệm làm tuyên úy[77].
b. Đoàn Sinh Viên Công Giáo Đà Lạt. Tập thể sinh viên Công Giáo Đà Lạt có tỷ lệ trung b́nh là khoảng 41% (sau Phật giáo là khoảng 45%) theo thống kê tháng 4/1973 trong sĩ số sinh viên ghi danh thụ huấn ở các khoa trong Viện. Đó là một số liệu thanh niên Công giáo tương đối cao trong một nước mà đa số không phải là Công Giáo
LĐSVCGĐL qui tụ các đoàn sinh viên thuộc các đại học xá: B́nh Minh, Kiêm Ái, Trương Vĩnh Kư, Trinh Vương và sinh viên ngoại trú. Ban Chấp Hành LĐ gồm các chức vụ Chủ Tịch, Tổng Thư Kư và hai Ủy Viên Nội và Ngoại Vụ, làm việc chặt chẽ với Ban Chấp Hành các đoàn hội viên.
Các hoạt động SVCG được các Pḥng chuyên biệt phụ trách. Pḥng Cố Vấn và Nội Vụ lo Ca Đoàn Thụ Nhân, ca đoàn Phụng vụ, Tĩnh Tâm, Giáo Lư và Truyền bá Phúc Âm. Sau cùng, Pḥng Nội vụ cũng hợp tác với Đoàn Thanh Niên Công Giáo Đại Học (JUC) tổ chức thuyết tŕnh và ấn hành nội san Năng Tĩnh để thông tin và huấn luyện. Pḥng Ngoại vụ cùng Ban Chấp Hành mỗi đoàn lo các hoạt động đối ngoại và xă hội, quốc nội cũng như quốc tế
LĐSVCG Đà Lạt cũng giao lưu sinh hoạt với LĐSVCG các nơi như Sàig̣n, Huế và sau này Cần Thơ lập nên một Tổng Liên Đoàn SVCGTQ, từ sau chính biến 1/11/1963.
Ba phái đoàn sinh viên Công Giáo Sài g̣n, Đà Lạt và Huế gặp nhau tại Trung Tâm Phục Sinh ở Sàig̣n vào đúng ngày 1/11/1963. Ngày thảo luận về qui chế tổ chức và hoạt động của giới sinh viên Công giáo toàn quốc lại là ngày đất nước Việt Nam đi vào một chiều hướng chính trị mới. Ngày 2/11/1963, các thành viên của ba phái đoàn sinh viên vẫn lặng lẽ kiên tŕ làm việc cẩn trọng.
Kể từ khi thành lập TLĐ/SVCGVN th́ TLĐ trực thuộc hệ thống Phong Trào SVCG Quốc Tế Pax Romana (MIEC). TLĐ/SVCGVN được điều hành bởi Văn Pḥng Tổng Thư Kư, TLĐ/SVCGVN, gồm có Tổng Thư Kư, Phó TTK Nội Vụ, Phó TTK Ngoại Vụ và Thủ Quĩ.
Hội nghị bầu cử một Ban Chấp Hành Lâm Thời, gồm các thành phần sau đây:
Chủ Tịch: Đào Duy (Đại Học Sàig̣n)
Phó Chủ Tịch: Lê Thị Thiện (Đại Học Đà Lạt)
Tổng Thư Kư kiêm Thủ Quỹ: Nguyễn Văn Đương (Đại Học Huế)
Ban Tuyên Úy của TLĐ gồm có các Lm Nguyễn Huy Lịch (Sàig̣n), Nguyễn Ḥa Nhă (Đà Lạt) và Nguyễn Văn Trinh (Huế).
Tổ chức TLĐSVCGVN được tài trợ từ TGM Nguyễn Văn B́nh (1000$ làm quỹ hoạt động ban đầu), và Lm Nguyễn Văn Lập, Viện Trưởng Viện Đại Học Đà lạt. Chính vào khoảng năm 1966, LĐSVCGSG, Đoàn SVCG Huế, Đoàn SVCG Đàlạt (năm sau mới có Đoàn SVCG Cần Thơ) họp tại Sàig̣n, đồng ư tiếp tục xúc tiến tổ chức Tổng Liên Đoàn SVCGVN, đặt trụ sở và BCH tại Sàig̣n. Phái đoàn Đà Lạt gồm có:
Nguyễn Sĩ Bạch (VK), Chủ Tịch (nay là Thầy Sáu, Houston, TX),
Huỳnh Đắc Chương (CTKD), Phó Chủ Tịch (nay Thầy Sáu, Houston, TX)
Đặng Đ́nh Soạn (hiện ở Houston, TX).
Năm 1969, Tổng Liên Đoàn SVCG được tổ chức ở Huế, đại diện cho Viện Đại Học Đà Lạt là Nguyễn Sĩ Bạch là Chủ Tịch Đoàn SVCG Đà Lạt, dù có thể NSB đă ra trường[78].
Về phương diện tôn giáo, ngày 16/4/1973, Viện cũng thống kê t́nh h́nh tín ngưỡng tôn giáo cho tập thể sinh viên là 3475 người, không kể sinh viên Ban Cao Học CTKD ở Sàig̣n. Đây là một bức tranh liên tôn đẹp đẽ hiếm có trong tập thể sinh viên thuộc nhiều xu hương tín niệm khác nhau cùng chung vai sát cảnh thi nhau học tập để trở nên người hữu ích cho xă hội. Thụ nhân để thành nhân chắn hẳn là một mẫu số chung hay một sợi chỉ xuyên suốt những tấm ḷng các tầng lớp thanh niên ưu tuyển trong xă hội Việt Nam khi đó.
Dù đất nước đang bị chiến tranh xâu xé, họ vẫn tiến lên để giành một vị trí xứng đáng trong công cuộc xây dựng xứ sở thân yêu nhưng đau khổ này. Điều có nhiều ư nghĩa là không phải càng trở nên tri thức th́ người ta càng xa tôn giáo và tín ngưỡng mà trái lại những tín niệm ấy trở nên cần thiết, trưởng thành và sâu sắc hơn. Con người có niềm tin tôn giáo chân chính và thuần thành càng sống nhân bản và vị tha hơn. Điều này cũng chứng minh một chân lư khác là con người càng nhân bản th́ càng gần gũi với tôn giáo, chứ không phải ngược lại như một số chủ trương nào đó.
PhânKhoa
|
Ch.Trị K. Doanh |
Khoa Học |
Sư Phạm |
Văn Khoa |
Tổng Số Liệu
|
|
Toàn Viện |
Tỷ Lệ % |
|||||
Tín Niệm |
(1) |
(2) |
(3) |
(4) |
(5) |
(6) |
Phật Giáo |
597 |
229 |
151 |
331 |
1308 |
45,45% |
Tin Lành |
014 |
003 |
011 |
019 |
0047 |
01,63% |
Cao Đài |
019 |
000 |
002 |
003 |
0024 |
00.83% |
Ḥa Hảo |
000 |
000 |
000 |
001 |
0001 |
00.34% |
Khổng giáo |
069 |
021 |
025 |
038 |
0153 |
05,3% |
Gia Tiên |
008 |
007 |
002 |
023 |
0040 |
01,39% |
Công Giáo |
344 |
151 |
231 |
445 |
1181 |
41,11% |
Không TG |
311 |
045 |
035 |
059 |
0450 |
15,63% |
Không rơ |
000 |
88 |
111 |
072 |
0271 |
07,29% |
Tổng Cộng |
1362 |
544 |
568 |
991 |
3475 |
|
Chú thích: Tỷ lệ đáng chú ư nhất là Phật Giáo, rồi Công giáo, và không Tôn giáo trong một Viện Đại Học Công giáo ở Việt Nam. Nền tảng tín người cổ truyền như Khổng giáo và Thờ Cúng gia tiên không mấy quan trọng trong thực trạng này. Thống kê này cũng toát lên tinh thần liên tôn và dung hợp rất đậm đà nhân bản, dù có hay không có tôn giáo. |
Chương Tám: Khối Phục Vụ Chuyên Biệt
1. Pḥng Quản Lư:
Khoảng năm 1972-75, LM Phan Công Chuyển, từ Gp Cần Thơ, gốc Gp Phát Diệm và Thầy Đinh Quang Trí, Ḍng Đồng Công phụ trách, quản lư bộ phận tạp vụ, trông coi và bảo tŕ các cơ sở vật chất và phương tiện vận chuyển và điện nước, thực phẩm trong Viện.
Từ trước, trong một thời gian sư huynh Théophane đảm lănh trách nhiệm quản lư cho Viện (1964-1968). SH Théophane được mọi người coi là người nội trợ đảm đang cho cha Viện Trưởng. Đi vào chi tiết th́ việc quản lư rất đa đoan khó khăn. Chinh v́ thế công việc quản lư vật chất được quan niệm là một loại công việc chuyên biệt.
Khi ông làm quản lư, th́ vào chính thời gian ấy, tài chánh của Viện phong phú hơn hết. Tài năng xoay sở của GS Trần Long đă giúp cải thiện t́nh h́nh kinh tài cho Viện, đặc biệt dưới thời LM Lê Văn Lư làm viện trưởng. Ông thầm cảm tạ những nỗ lực của GS Trần Long lo cho việc chung.
Không bao giờ thiếu tiền chợ, nên thịt cá, cơm ngon, gạo thơm lúc nào cũng đầy đủ no nê. Có tiền trả thù lao cho các Giáo Sư, nhân viên của viện. Mọi người đều thấy thoải mái kư sổ trước khi lănh lương ra về. Đúng là “Có tiền mua tiên cũng được”, và “Phú quư đa nhân hội”
VĐH phải tự cung cấp nước dùng hằng ngày. Có lúc t́nh h́nh cung cấp nước khó khăn. Nuớc được bơm từ sườn đồi lên bể lọc ở đỉnh đồi khu Năng Tĩnh rồi phân phối lại cho các ṭa nhà ở các cao độ thấp hơn. Hồ cạn, thường Quản lư Viện phải điều đ́nh với nhà máy nước Đà Lạt, xin nước đổ vào giếng của Viện, để bảo đảm cho mọi sinh hoạt b́nh thường trong viện
Phải luôn luôn dự trữ xăng đầy đủ để bảo đảm xe chạy đều đặn, đưa đoàn giáo sư lên xuống sân bay Liên Khương, nhất là khi vận chuyển khó khăn. Xăng cần thiết cho mọi loại hoạt động bất thường khác như đưa sinh viên ốm đi bệnh viện, và vô vàn thứ việc không tên đột xuất khác. Quản lư lo trữ xăng, c̣n phải giữ xăng cẩn thận. Nếu không, có thể gây cháy nổ nguy hiểm…
Qua vai tṛ ấy, SH để lại một kho tàng kinh nghiệm giao tế nhân sự trong môi trường Đại Học Thụ Nhân. Để làm tṛn trách nhiệm quản lư, SH thấy cần phải sống chan ḥa b́nh dị. Ông thực sự đă sống gần gũi đặc biệt với mọi người mà Văn pḥng Quản Lư chịu trách nhiệm trực tiếp. SH biết pha tṛ cười trong lúc cần giảm bớt căng thẳng. Là một nhà giáo dục, SH không bao giờ bi kịch hóa chuyện làm việc chung với nhau ở bất kỳ hoàn cảnh nào.
SH Théophane coi việc đắc nhân tâm là một bí quyết quản lư quan trọng trong giao tế nhân sự và xă hội. Học hỏi tâm lư học, tâm tính học, đạo đức học trong sách vở, ông c̣n rút tỉa kinh nghiệm sống lâu năm với nhiều người, từng trải về tâm lư giáo sư và sinh viên, tim hiểu tính tính mọi loại người Trung Nam Bắc, Tây Tàu. Thời gian du học của ông ở Rôma, sống chung với bốn mươi sư huynh dị chủng là một trường học kinh nghiệm quốc tế về giao tế cộng đoàn. SH thấy phải sống đời sống nội tâm sâu xa, để tự biết ḿnh chính xác, th́ ḿnh sẽ hiểu người. Câu châm ngôn ở cửa miệng người đời “Suy bụng ta ra bụng người” là ch́a khóa dẫn đến thành công mà SH cố áp dụng trong những năm làm việc ở Viện Đại Học Đà Lạt.
SH Théophane chú ư t́m hiểu sở thích của từng Viện Trưởng như một “nhà t́nh báo thượng thặng”, nhưng chỉ để làm vui ḷng nhau. Cha Lập th́ thích hút cigare, nên có ai cho, th́ SH liền đem biếu cha Lập. Cha Lư th́ sống khổ hạnh, không hút thuốc mà cũng không uống rượu, chỉ ghiền tennis mà thôi. Cha Lư thường hay nhắc nhở mọi người câu nói bất hủ gây ấn tượng thật mạnh mẽ như một điệp khúc: “Rồi cũng chết!”. Ngài cũng thích vui đùa với SH Théophane như hồi hai người c̣n là bạn học thời thơ ấu ở Hà Nội. Sau này SH mới có cơ hội cộng tác với những Linh Mục khác, như cha Vũ Minh Thái tươi trè và dễ tính.
Ông làm quen thân với từng nhân viên dưới quyền, t́m hiểu các nhu cầu của họ. Họ cần thứ ǵ, như thuốc men, th́ ông giúp, có gạo, có quà th́ ông cũng nhớ phân phối cho họ, chia sẻ với họ. Sư huynh nhớ một điều họ thích nhất là đề nghị cha Viện Trưởng chia đất trồng trọt cho họ. Linh Mục Viện Trưởng Lê Văn Lư đă đồng ư cho họ đất đai làm của riêng vớí văn tự chính thức kèm theo.
Nhiều bài học sư huynh đúc kết được trong cuộc sống: Phải rất tế nhị với những người nghèo túng và ít học làm việc chung với ḿnh, ứng xử công b́nh với mọi người. Chớ quở trách ai mà không có lư do rành mạch; hăy rất b́nh tĩnh nhă nhặn khi bị chỉ trích.
Mấy tháng trước biến cố 30/4/75, sư huynh nhận được một lá thư như đùa bỡn nhưng có tính tiên tri: “Chúc Frère ở lại măi măi trong Viện để cho sinh viên và nhân viên trong Viện được gặp Frère cới cái áo ḍng thâm và cái cổ trắng mỗi ngày. Nhưng có người lại nói: “Frère ơi! rất tiếc là chúng ḿnh phải ly biệt nhau. Frère ở lại đây không được lâu đâu…”
2.Nhà khách Năng Tĩnh
Thực tế đây là nhà khách văng lai dành cho các giáo sư thỉnh giảng cư ngụ tạm thời trong thời gian lên giảng dậy hay công tác tại Viện Đại Học Đà Lạt. Được bố trí ở nơi gần thánh đường nhất và ở nơi cao nhất, thể hiện tinh thần “tôn sư trong đạo”, và “muốn con hay chữ phải yêu lấy thầy”, mỗi căn pḥng trên Ṭa nhà này được trang bị đầy đủ tiện nghi như một pḥng khách sạn. Ngay bên ngoài khu pḥng cá nhân là một pḥng khách lớn liên hợp với nhà cơm. Một phần ṭa nhà Năng Tĩnh dùng làm pḥng riêng của Lm Tuyên Úy và các bàn thờ phụ dùng để các Linh Mục giáo sư cần dâng thánh lễ mỗi buổi sớm, khi công tác trên Viện Đại Học.
Vài thí dụ về cách ứng xử với nhân viên giảng huấn của LM Nguyễn Văn Lập
Đối vơi các giáo sư, có một vài việc LM. Viện Trưởng Nguyễn Văn Lập đă thực hiện đặc biệt, gây nhiều ấn tượng mà không mấy người biết đến.
1./ Chẳng hạn, khi mời một giáo sư ở Sài G̣n lên dạy ở Đà Lạt, linh mục đích thân đến nhà vị giáo sư đó, nhưng linh mục bảo người tài xế đậu xe cách nhà chừng 100 mét, linh mục đi bộ vào nhà. Và khi vị giáo sư đó tiễn linh mục, ra cổng thấy xe của linh mục đậu xa, hỏi ngài lư do tại sao?
Linh mục trả lời:
“Ngày xưa Lưu Bị đi mời Khổng Minh phải tam xa cố thảo lư. Bây giờ tôi đậu xe xa có 100m, đâu có ǵ khó nhọc so với công lao của giáo sư sẽ giúp cho Viện sau này”
Nhưng nếu có vị giáo sư nào từ chối lời mời của linh mục lần đầu, ngài sẽ trở lại lần thứ hai, ngài bảo người tài xế đậu xe cách nhà khoảng 200m. Khi vị giáo sư đó tiễn linh mục ra cổng lấy làm lạ tại sao linh mục cho đậu xe xa hơn lần trước, ngài cũng trả lời tương tự như lần vừa rồi. Trong thực tế cũng có vị từ chối đến lần thứ hai, ngài sẽ quyết định trở lại lần thứ ba, lần này ngài cho đậu xe xa hơn 300m và cuối cùng vị giáo sư đó thực sự cảm động về t́nh cảm sâu đậm của ngài nên đă nhận lời.
LM. Lập không chỉ ưu đăi những giáo sư đang giảng dạy ở Viện, mà c̣n đối xử nhiệt t́nh với những người chưa được mời dạy hay thân nhân trong gia đ́nh của các giáo sư. Thật vậy có những người đang học ở Pháp hay ở Mỹ chưa tốt nghiệp, nghỉ hè về Việt Nam chơi, lên Đà Lạt ở khách sạn Palace, nếu linh mục biết được ngài cũng đích thân đến khách sạn mời về Viện ở trên Năng Tĩnh và ăn ở chung với các giáo sư khác, khiến họ rất cảm kích t́nh cảm quí báu đó của ngài. Khi họ về nước, cha mời họ, th́ họ không thể nào từ chối được.
Nhưng ban đầu ít người làm việc cho Viện và điều kiện c̣n dễ dăi, làm việc giao tế quá nặng về t́nh cảm mà không có nguyên tắc th́ sẽ khó điều hành một cơ sở như Viện Đại Học.
2./ Ngay cả đến thân nhân của các giáo sư cũng vậy, LM. cũng đối xử thật hết t́nh, thí dụ như phu nhân của một bác sĩ, em ruột của một giáo sư dạy trong Viện, có quen biết ngài từ trước ở Huế. Khi ba lên Đà Lạt ở trong Viện, và một buổi sáng bà cần xe của Viện đưa bà đi chơi thác Cam Ly. Ông Ḥa người phụ trách nội dịch lên báo với ngài, mà trong Viện không c̣n xe nào để đưa bà đi, nhưng không dám kêu taxi, v́ sợ phật ḷng vị khách này, ngài liền bảo lấy xe riêng của ngài đưa bà đi chơi. Dù sau đó, chính ngài phải đi xe taxi đến dự lễ khai giảng của Trường Trung Học Bùi Thị Xuân gần đó. Vế sau, gia đ́nh của vị giáo sư biết chuyện, họ hết sức cảm động về nghĩa cử đấy thâm t́nh này của ngài, nhưng chắc có ân hận v́ đ̣i hỏi như thế, trong lúc ngài bận mộ việc chính đáng.
Một việc làm của cố Viện Trưởng có thể là một bài học về chính sách của Viện, nên có thể nêu lên một số trường hợp cho các thành viên của Viện suy nghĩ.
3./ Một lần GS. T. N. T. lên dạy ở trường Đại Học Khoa Học. chỉ đi một ḿnh, nhưng giáo sư đề nghị pḥng Nội Dịch của Viện bố trí cho giáo sư ở pḥng đôi. Nếu Viện hết pḥng đôi, th́ GS. sẽ ra khách sạn Palace, hôm sau sẽ lấy taxi vào Viện dạy học. Pḥng Nội Dịch rất lúng túng, v́ GS. T. là người nhiều uy tín trong giới khoa học, mà c̣n là nhân vật có thể lực trong Hội Đồng Quản Trị Ngân Hàng Việt Nam Thương Tín và giáo sư là người có nhiều cổ phần nhất trong ngân hàng này. Lúc đó, ở Năng Tĩnh không c̣n pḥng đôi nào nữa hết.
Nhưng GS. Ph. V. D. đang ở pḥng đôi. Nếu bây giờ yêu cầu thầy D. dời sang pḥng chiếc, để thầy T. ở pḥng đôi thầy D. sau này biết được, có thể tức giận lắm. Lúc đó, nhân viên nội dịch chạy lên cầu cứu LM. Viện Trưởng.
Ngài đề nghị lên mời thấy D. xuống giải nghĩa những câu thơ chữ Hán cho ngài. Thầy D. được LM. Viện Trưởng, mời xuống giải nghĩa thơ chữ Hán như vậy dĩ nhiên thầy D. rất vui vẻ và hănh diện xuống nhà Đôn Hóa để ngủ. Thế là LM. Viện Trưởng giải quyết rất khôn khéo, tế nhị và kín đáo không làm phiền đến ai.
4./ GS. Trần L. đă tính nhầm giờ dạy và tiền thù lao của LS. V. V. B. khoảng 10 ngàn đồng. LS. B. báo và yêu cầu văn pḥng Trường CTKD điều chỉnh lại. Nhưng GS. Trần L. từ chối. Sau đó, LS. B. quyết định không tiếp tục các giảng khóa tại Viện nữa. LM. Lập biết chuyện, đích thân về Sài G̣n, đến văn pḥng LS. B. xin lỗi về việc đáng tiếc kia.
Theo phán đoán của ngài, LS. B.từng cho ngài biết rằng , tiền bạc đối với Luật Sư không quan trọng lắm, nếu xét công việc trên căn bản lợi nhuận, chắc ông không bao giờ lên dạy ở Viện Đại Học Đà Lạt. V́ một buổi sáng làm việc ở Văn Pḥng tại Sài G̣n, Luật Sư B. có thể kiếm từ 30 ngàn đến 40 ngàn đồng. Trong khi giảng dạy ở Viện Đại Học Đà Lạt, mỗi giờ chỉ trả thù lao một ngàn 500 đồng. Nhưng ông quyết định nhận dạy ở Viện Đại HọcĐà Lạt v́ ông thương sinh viên và trân trọng t́nh cảm sâu đậm mà LM. Viện Trưởng dành cho ông. Kết quả của việc dàn xếp này là LS. B.vui ḷng trở lại cộng tác với Viện[80].
Sư huynh làm việc trên Năng Tỉnh, ân cần tiếp đón các giáo sư, lo pḥng nghỉ ngơi, chuẩn bị bữa ăn ngon miệng, sắp đặt tiền lương giáo sư và trao tận tay cho từng người trước khi họ rời Đà Lạt trở về Sài g̣n. Ông c̣n nuôi thỏ chuẩn bị những món ăn đặc biệt tiếp đăi các GS[81]. Đó là món civet lapin. Nhà bếp học cách làm món này thật thơm ngon hợp khẩu vị, nấu với rượu trắng hoặc bia. Ông c̣n pha chế thêm rượu anh đào và có cả Bénédictine, Cointreau mà phụ huynh sinh viên khi lên Đà Lạt thăm con, đem biếu tặng sư huynh.
3. Sinh Viên Vụ.
Thời Linh mục Nguyễn Văn Lập. Đối với sinh viên, ngài hết ḷng với sinh viên trong mọi lúc mọi nơi. Ban đêm nếu có sinh viên nào ngă bện, ch1nh Linh mục Viện Trưởng đưa đi, ví khi có ngài hiện diện, bác sĩ y tá đều tỏ ra mau măn tận t́nh hơn với sinh viên.
1./Cho tiền hay cho mượn tiền. Mối thân t́nh với sinh viên như thế đă khiến sinh viên rất gần gũi quí mến ngài,”kể cả để mượn tiền lúc gia đ́nh chưa kịp gởi lên, mà tôi chẳng bao giờ ghi sổ sách, cũng chẳng nhớ đă trao cho ai.”
Mỗi buổi sáng LM. Viện Trưởng thường đứng trước văn pḥng Viện, chào đón các sinh viên, trước khi họ vào các giảng đường. Và mỗi buổi chiều, LM. cũng đứng đó để tiễn đưa các sinh viên ra về. Và trên văn pḥng của LM.Viện Trưởng ở lầu 2, bàn làm việc của ngài nh́n ra cửa sổ, có thể nh́n thẳng xuống cổng Viện. V́ thế, bất cứ lúc nào ngài cũng có thể nh́n thấy các sinh viên ra vào cổng Viện. Chính v́ các sự việc này, cộng thêm trí nhớ c̣n rất tốt của LM., ngài có thể thuộc hầu hết tên các sinh viên trong Viện vá đặc biệt LM. c̣n biết rơ những mối t́nh của các cặp sinh viên trong Viện thời đó như cặp Tân & Việt, Nho & Xuân Lang v.v. mà ngay cả sau này, khi không c̣n ở Viện nữa, đôi lúc LM. cũng nhắc lại trong nhiều buổi tṛ chuyện.
Có lẽ nhiều sinh viên có dịp đi học lại, nghiên cứu, làm việc và giảng dạy ở khá nhiều đại học trên thế giới, anh Lưu chưa thấy có một viện trưởng nào dành những cảm t́nh sâu đậm như vậy cho sinh viên của họ. Hầu như sinh viên tại các đại học ở Úc hay ở Mỹ, chỉ biết mặt ông viện trưởng vào ngày măn khóa, khi ông đến chủ tọa lễ phát bằng tốt nghiệp cho sinh viên.
LM. Viện Trưởng cũng thường cho các sinh viên tiền tổ chức party vào dịp Giàng Sinh và mượn tiền về nghỉ Tết hằng năm và nhiều người không trả lại, cũng được LM. xí xóa bỏ qua luôn.
2./ Bênh vực sinh viên. Sau Tổng Công Kích Tết Mậu Thân 1968, chính quyền tiến hành chương tŕnh huấn luyện quân sự học đường cấp tốc cho nam sinh viên. Do đó Viện đă yêu cầu Trường Vơ Bị Quốc Gia sang đảm trách chương tŕnh huấn luyện cho sinh viên của Viện Đại Học Đà Lạt. Trường Vơ Bị đă cử Thiếu tá Hạnh làm Liên Đoàn Trưởng Liên Đoàn Khóa Sinh, và các sinh viên năm thứ 4 của Trường Vơ Bị làm huấn luyện viên.
Thường ngày, các sinh viên của Viện và của trường Vơ Bị hay theo đuổi các nữ sinh viên trong Viện. Nhưng v́ không rơ lư do ǵ, các nữ sinh viên thường thích các nam sinh viên của Viện hơn bên Vơ Bị.
Do đó, theo nhận định của sinh viên Phạm Văn Lưu lúc đó, khi qua huấn luyện quân sự cho sinh viên của Viện, đây là cơ hội bằng vàng cho các sinh viên Vơ Bị dằn mặt sinh viên của Viện. Cơ hội đó đă đến, khi các nam sinh viên tập đi diễn hành ngang qua một nhóm nữ sinh viên đang tụ tập trước thư viện, một số anh đă vẫy tay và là ó để chọc ghẹo các cô.
Chiều hôm đó, các huấn luyện viên đă tập họp tất cả liên đoàn khóa sinh trong sân khu Năng Tĩnh. Rồi các sinh viên Vơ Bị lên lớp giảng đạo đức cho sinh viên của Viện. Sau đó họ bảo ban chiều ai đă chọc ghẹo các nữ sinh viên, nên tự giác ra nhận lỗi và chịu phạt hoặc ai biết người nào phạm lỗi, nên báo cáo lên để bắt người đó ra phạt. Nếu không sẽ bắt tất cả khóa sinh phải chịu phạt hít đất và nhảy xổm. Không có ai nhận lỗi và tố cáo.
Các huấn luyện viên này nói những câu mà các sinh viên nghĩ là xúc phạm đến họ. Một số anh, trong đó có sinh viên Phạm Văn Lưu, đă đứng lên phản đối. Mấy sinh viên đó lập luận rằng ai có lỗi, người ấy phải bị phạt. Đó là điều cần phải làm để duy tŕ trật tự và sức mạnh của quân đội.
Nhưng sinh viên phản đối, không thể áp dụng h́nh phạt như một phương cách để hành xác và lăng nhục tất cả tập thể sinh viên được. Sau đó, toàn thể sinh viên khóa sinh đă vỗ tay tán đồng, rồi la ó phản đối, nên các huấn luyện viên đă phải nhượng bộ và cho giải tán.
Tối hôm đó, các huấn luyện viên này báo cáo với Thiếu tá Hạnh và yêu cầu phải áp dụng kỷ luật nghiêm khắc với các sinh viên thụ huâấ quân sự.Thiếu tá Hạnh gặp LM. Viện trưởng, xin cho ông được nghiêm phạt các sinh viên, v́ kỷ luật là sức mạnh của quân đọi. Nếu lời thỉnh cầu này không được chấp thuận, Trường Vơ Bị sẽ ngưng chương tŕnh huấn luyện.
Vẫn theo sinh viên Phạm Văn Lưu, LM. Viện trưởng trả lời:
“Các ông đừng nóng giận, các ông không hải là nhà giáo dục, nên các ông mới hành xử như vậy. Các ông nên hiểu rằng, kh các sinh viên tụ họp thành đám đông th́ hay phá phách chọc ghẹo các nữ sinh viên như vậy, cũng như khi đi dự các buối liên hoan đông người, các sinh viên cũng nghịch ngợm lấy confetti ném lên tóc, lên áo các cô gái.
Nhưng nếu giao cho một nam sinh viên nó cũng biết gallant (người đánh vi tính: galant), biết chiều chuộng, tiếp đăi lịch sử, tử tế và ân cần săn sóc cô gái đó. Trong số những sinh viên chiều nay, chỉ vài tháng nữa thôi, chúng nó tốt nghiệp ra trường, chúng sẽ làm ông này, bà nọ, cũng là giáo sư, là giám đốc, phó giám đốc của các cơ quan, xí nghiệp. Chúng ta không thể áp dụng những h́nh phạt như con vịt đó với chúng nó.”
Cuối cùng, Thiếu tá Hạnh phải nhượng bộ và chương tŕnh huấn luyện được tiếp tục như cũ. Điều này chứng tỏ LM. Lập luôn thông cảm và hiểu biết sâu sắc về tâm lư sinh viên, mà luôn đứng về phía sinh viên để ủng hộ và bảo vệ. Đó là những kỷ niệm của những ngày LM.c̣n làm viện trưởng[82].
Các sinh viên đều hỏi ư kiến ngài trong những vấn đề quan trọng như có nên tham gia biểu t́nh không, khi có lộn xộn. Linh mục khuyến khích họ “các con phải đi biểu t́nh với đồng bào”, và ngài nhắc lại câu châm ngôn của phương Tây: “Cái ǵ người khác làm mà ḿnh không làm, th́ người ta sẽ làm để chống lại ḿnh.”[83]
Cách ứng xử như thế nặng về t́nh cảm, tùy hứng hơn là theo bất cứ m65t nguyên tắc quản lư nào.
Tổ chức Sinh Viên Vụ được h́nh thành từ niên học 1970-71, có mục đích tạo điều kiện cho mọi sinh hoạt của sinh viên, ngoài chương tŕnh giảng huấn trực tiếp. Tất cả đều là môi trường giáo dục để sinh viên tập luyện và phát triển toàn diện nhân cách về các đức tính và tác phong lănh đạo, giao tế xă hội, nghệ thuật ăn nói trước công chúng và thể dục thể thao. Những sinh hoạt sinh viên cũng là nơi cho họ gặp gỡ trao đổi, phát triển t́nh thân hữu.
Tổ chức sinh viên. Một Ban Đại Diện Sinh Viên Liên Khoa có nhiệm kỳ một năm, do Ban Đại Diện các Phân Khoa và các Đại Học Xá (Trương Vĩnh Kư, Kiêm Ái, B́nh Minh) bầu lên. BĐD có CT, PCT, TTK, TQ và nhiều Ủy viên. Dưới có các Nhóm (theo Ban học), Lớp. Sinh Viên Đà Lạt gồm nhiều đoàn thể: nào Tôn giáo (SV Phật Tử, Công Giáo, Thanh Sinh Công), nào Văn hóa (Thanh Niên Thiện Chí, Thanh Niên Công Tác Xă Hội, Kappa Delta, Scipéco, Hoài Băo, Sinh Viên Phụng Sự Khoa Học, kịch đoàn Thụ Nhân), hay Địa phương (Sinh Viên Đất Quảng, Huế, Cần Thơ, Biên Ḥa, Nha Trang, Phú Yên, Cam Ranh, B́nh Định, Quảng Ngăi, Phan Rang, Lâm Đồng)
Tổ chức sinh viên ngoài chương tŕnh giảng huấn trực tiếp này cũng đồng thời được phát triển ở cơ sở Trường CTKD tại Sàig̣n, đặt trụ sở tại Lầu II, Thương Xá Tax, 135, Nguyễn Huệ Sàig̣n, do Ông Dương Hiệp Nghĩa làm phụ tá.
Sinh Hoạt Sinh Viên. Trung Tâm Sinh Viên được xây dựng tại Đà Lạt với tài trợ của tổ chức Asia Foundation năm 1972. Vừa được thiết lập, TT đă có nhiều loại sinh hoạt đa dạng được tổ chức, như bầu cử Ban đại diện Lớp, Tổng Hội Sinh Viên Viện, Ngày Huynh Đệ (tựu trường), Ngày Cựu Sinh Viên (do Hội Cựu Sinh Viên Đà Lạt), Lễ Ra Trường (Đầu năm dương lịch), Ngày Sinh Viên, Ngày Đại Học (Giới thiệu Dại Học và Cao Đẳng cho học sinh lớp 12 ở thị xă Đà Lạt). Sinh viên c̣n tổ chức những cuộc họp mặt lớn như Trại Sinh Hoạt Liên Viện, Trại Nối Ṿng Tay Lớn, Công Tác Thiện Nguyện. Sau cùng là các tập thể sinh viên nhỏ hơn tổ chức Picnic Thân Hữu, Báo Chí, Văn Nghệ, Bầu Cử, Học Tập, Du Khảo, Diễn Thuyết, …
Năm 1970-1973, LM Vũ Minh Thái làm giám đốc có LM Nguyễn Hữu Toản và GS Đỗ Hữu Nghiêm làm phụ tá cùng với một số nhân sự cộng tác như sinh viên Nguyễn Văn Năm sinh viên SP/VK, huấn luyện viên thể thao Nguyễn Văn Khiêu. Cơ quan sinh viên vụ quản lư tất cả các hoạt động sinh viên, như Trung Tâm Sinh Viên. Ớ đó, có quán cơm sinh viên do tu sĩ Đồng Công hợp tác với các nữ tu Tu Hội Tận Hiến, với LM Giáo sư Nguyễn Việt Anh làm Trưởng Tu Hội. Đoàn Sinh Viên Công giáo đă do LM Nguyễn Ḥa Nhă, gốc Bắc Ninh, thuộc Gp Sài g̣n, làm tuyên úy một thời gian. Ban thể thao phụ trách các sinh hoạt và cơ sở thể dục thể thao sinh viên, và hoạt động du lịch của sinh viên nhưng c̣n thiếu huấn luyện viên.
Trước năm 1970, dưới thời Giáo Sư Trần Long và năm 1971, khi Giáo Sư Phó Bá Long nhận chức Khoa Trưởng Trường CTKD, Giáo Sư Ngô Đ́nh Long đều được cả hai vị cựu và tân Khoa Trưởng tín nhiệm và đề cử giữ chức vụ Phó Khoa Trưởng Trường này.
Giáo Sư Ngô Đ́nh Long giữ chức vụ này đến năm 1973 th́ được Linh Mục Viện Trưởng Lê Văn Lư bổ nhiệm làm Giám Đốc Sinh Viên Vụ do. Nhiệm vụ Phó Khoa Trưởng được trao lại cho Giáo Sư Tạ Tất Thắng. Ở chức vụ mới này, Giám Đốc Sinh Viên Vụ đă có dịp cộng tác mật thiết với các anh chị em sinh viên trong Ban Kịch Thụ Nhân, các ban nhạc, cũng như các hội đoàn sinh viên sắc tộc, thể thao[84], v.v. Các vị tiền nhiệm như LM Vũ Minh Thái, và lăo thành như SH Théophane Nguyễn Văn Kế, tiếp tục làm cố vấn cho hoạt động sinh viên vụ[85].
Nội Qui Sinh Viên. Đề điều ḥa các loại hoạt động của sinh viên, Viện ban hành một Nội Qui Sinh Viên. Nội Qui này gồm 37 điều được chia làm Năm Chương: Ch. I (mục đich và tôn chỉ, 1-2), Ch. II (nhập học, kỷ luật học vấn, tác phong sinh viên, 3-10), Ch. III (những quyền lợi sinh viên, 11-27), Ch. IV (biện pháp chế tài, 28-34), Ch. V (viễn ảnh tương lai, 33-37)
Một sinh hoạt khác do Sinh viên Công giáo phối hợp với Lm Tuyên Úy là tổ chức một ca đoàn và ban hợp xướng sinh viên thật điêu luyện, nhưng việc này chưa được kiên tŕ liên tục v́ thiếu các Linh mục và giáo sư chuyên môn và say mê các bộ môn âm nhạc này, tuy một thời gian LM Ngô Duy Linh, nhạc sư Trần Hải Linh, nhạc sĩ Hùng Lân từng tham gia hoạt động, giảng dậy trong Viện này. Sau chuyến đi tu nghiệp tại Pháp, LM Ngô Duy Linh không bao giờ trở lại Viện Đại Học Đà Lạt nữa. Hơn nữa sinh viên sau khi tốt nghiệp, th́ không c̣n sinh hoạt trong ca đoàn dành riêng cho sinh viên, nên có nhiều khó khăn
4. Các Cư Xá Sinh Viên
Từ thời Linh mục Nguyễn Văn Lập đă h́nh thành hai kư túc xá, một cho nam sinh viên, trong khuôn viên do Linh mục Ngô Duy Linh điều hành, với các nữ tu Tận Hiến của Linh Mục Việt Anh lo việc cơm nước. Chính các sinh viên định giá sinh hoạt qua Ban Dại Diện Kư Túc xá.
Kư túc xá Trương Vĩnh Kư dành cho các nữ sinh viên, là một ṭa nhà do thị xă Đà Lạt tăng, do các nữ tu ḍng Mến Thanh Giá Thanh Hóa trông coi , cũng co Ban Dại Diện sinh viên như bên nam sinh viên. Viên không tài trợ ǵ cho các kư túc xá ngoài chương tŕnh trợ cấp học bổng cho các nữ tu sinh viên cư ngụ trong kư túc xá.
Đại Học Xá Nữ Sinh Viên. Cư xá này được thành lập năm 1960 tại đường Trương Vĩnh Kư dành cho nữ sinh viên.
Đầu năm 1971, các nữ sinh viên được chuyển từ đại học xá Trương Vĩnh Kư vào trong đại học xá B́nh Minh.
Với nhu cầu phát triển, một học xá nữa được thiết lập dành cho nữ sinh viên, mang tên Kiêm Ái. Thực ra học xá này đă xuất hiện từ năm 1962, dành riêng cho nữ sinh nguyên là nữ tu, ở phía Tây Đồi Năng Tĩnh. Khu này được tổ chức gồm bốn “Lầu” với những tên rất thánh thiện: Khiêm Ái, Từ Ái, Nhân Ái. Sinh viên thường gọi chung là các lầu “Từ Ái” đủ chỗ sinh hoạt cho khoảng 80 sinh viên. Các nữ sinh viên được săn sóc theo từng cụm 20 người và có một Chị Cả trông nom săn sóc. Khoảng năm 1971-1975, các nữ tu ḍng MTG Thanh Hóa được mời làm quản nhiệm coi sóc hai cư xá trong khuôn viên của Viện.
Biểu đồ 8. T́nh h́nh cư xá sinh viên VĐHĐL, 1957-1973[86]
Niên khóa |
T́nh h́nh cư xá |
|||||
Trương Vĩnh Kư |
Kiêm Ái |
B́nh Minh |
||||
Lưu sinh |
Giám đốc |
Lưu sinh |
Giám Đốc |
Lưu sinh |
Giám Đốc |
|
1957-58 |
75 |
Tr.V.Thiện |
|
|
|
|
1958-59 |
76 |
|
|
|
|
|
1959-60 |
76 |
|
|
|
|
|
1960-61 |
77 |
|
|
|
50 |
CôTrt Điều |
1961-62 |
78 |
N.H. Nhă |
|
|
50 |
|
1962-63 |
102 |
|
15 |
|
50 |
|
1963-64 |
140 |
NgD. Linh |
15 |
|
50 |
|
1964-65 |
150 |
|
20 |
NDLinh |
80 |
Nt NTLan |
1965-66 |
182 |
|
20 |
|
80 |
|
1966-67 |
190 |
|
20 |
|
80 |
|
1967-68 |
198 |
TV Bích |
20 |
|
90 |
Nt Tt Hường |
1968-69 |
205 |
TrVNghiêm |
48 |
B. T.Long |
100 |
|
1969-70 |
185 |
|
48 |
|
120 |
Nt Tt Thương |
1970-71 |
175 |
|
82 |
Nt Tt Yến |
180 |
|
1971-72 |
080 |
ĐN Hưởng |
82 |
|
180 |
|
1972-73 |
080 |
|
82 |
|
180 |
Nt Mt Thêm |
Tổngcộng |
2069 |
6 GĐ |
452 |
3GĐ |
1110 |
5 GĐ |
Chú thích: 1/Từ 1958-1973, VĐHĐL quản nhiệm ba cư xá sinh viên. Tổng cộng có (2069+1110+452)= 3637 lượt nam nữ sinh viên lưu trú, với 14 giám đốc khác nhau. Giám Đốc đầu tiên là chính LM Viện Trưởng Trần Văn Thiện, và ba giám đốc cuối cùng là LM Đặng Ngọc Hưởng, hai nữ tu MTG Thanh Hóa là Trần Thị Yến và Mai Thị Thêm, chưa kể cư xá sinh viên Rạng Đông do các tu sĩ ḍng Đồng Công quản nhiệm. 2/Thời điểm nhiều sinh viên lưu trú nhất có thể là niên khóa 1970-71: (175+82+180)= 437 sinh viên 3/ Đại học xá lâu đời nhất là Trương Vĩnh Kư (1958-59), rồi đến B́nh Minh (1960-61), Kiêm Ái (1962-63) |
Học xá nam sinh viên ban đầu. Đại Học Xá Nam Sinh Viên từ niên học 1957-1958, có ba khu ABC trong khuôn viên của Viện. Thời LM Nguyễn Văn Lập làm Viện Trưởng, khi Trường CTKD bắt đầu hoạt động, những dăy nhà B́nh Minh dùng làm đại học xá cho nam sinh viên. Lúc đó có khoàng 100 nam sinh viên. Vào mùa hè năm 1965, khi cha Ngô Duy Linh c̣n làm giám đốc, một số sinh viên KD1 như Vũ Văn Thượng, Dương Tấn Hải, Tôn Thất Tạo, Hồ Quang Nhựt được phân bổ cư trú ở trên dăy lầu II của khu học xá này.
Đại Học Xá B́nh Minh gồm ba dăy nhà trệt. Không biết tên của mấy dăy nhà này bắt đầu từ đâu và khi nào. Nếu chỉ nghe tên gọi mà chưa đến hay sinh sống tại đó, th́ rất khó hiểu. Nào là dăy lầu một, dăy lầu ba, dăy lầu bốn và dăy lầu năm mà thực sự chỉ có ba dăy nhà trệt. Tiếng “lầu” được thi vị hóa, phải chăng v́ mỗi dăy nhà ở trên cao độ khác nhau, cho cả khu Đại Học xá B́nh Minh lẫn Kiêm Ái?
Chính mùa hè năm đó ở đây có câu truyện ma kinh dị mà Dương Tấn Hải kể lại. Cha Ngô Duy Linh tin rằng có quỷ đến quấy phá, nên sau câu truyện đó đă đích thân lấy nước thánh rẩy khắp các pḥng của sinh viên để trừ quỷ. Thực ra khung cảnh Viện Đại Học Đà Lạt lúc đó c̣n thưa thớt sinh viên, và đại học xá lại ở chỗ tương đối xa vắng, nên những chuyện kinh dị giàu tưởng tượng, như Dương Tấn Hải KD1 ghi lại thường dễ xảy ra. Khi Linh Mục Ngô Duy Linh đi du học tu nghiệp âm nhạc tại Pháp, th́ Sư Huynh Trần Văn Nghiêm làm Giám Đốc Đại Học xá nam sinh viên.
Muốn được nhận vào học xá. Nhu cầu trọ học của sinh viên rất lớn, vi đây là trường đại học ở cao nguyên có khí hậu khá lạnh. Thường lưu trú sinh là những sinh viên năm thứ I có giấy giới thiệu của các ḍng tu hay linh mục ở những cơ sở, xứ đạo tin cậy. Sinh viên phải chấp hành nội quy tối thiểu là giữ trật tự, chăm học, tôn trọng đời sống chung và tạo môi trường thuận lợi cho việc học vấn. Sinh viên học đến năm thứ III thường phải nhường chỗ cho nhưng người mới tới và không thuê được nhà trọ ở bên ngoài Viện.
Cuộc sống sinh viên học xá rất đơn giản: sinh viên muốn dùng nước nóng để tắm hay nấu ḿ gói, thường nhúng giây điện trở vào nước hay dùng bếp dầu hôi. C̣n việc nấu ăn chung đều do các nữ tu Tu Hội Tận Hiến phụ trách ít nhất từ niên khóa 1970-71 hay 1971-1972. Sinh viên thường thấy khó ăn, theo thực đơn được lặp lại nhiều lần gồm những món giản dị, như canh khoai môn nấu với tôm khô có rau th́ là![87]
Khi số sinh viên ngày càng đông, th́ trong khuôn viên của Viện, hai học xá dần dần dành hết cho các nữ sinh viên từ xa đến lưu trú. Đó là Cư xá Kiêm Ái song song với đường Hùng Vương gần ngă tư Phù Đổng Thiên Vương, và B́nh Minh ở sâu trong sườn đồi phía Đông, gần Trung Tâm Nguyên Tử Lực hơn.
C̣n các nam sinh viên được chuyển đến Cư Xá Trương vĩnh Kư ở khu chợ Đà Lạt, trước kia dành cho các nữ sinh viên. Nguyên do chính của việc hoán chuyển nữ sinh viên Trương Vĩnh Kư với nam sinh viên B́nh Minh lại từ câu chuyện “ma”.
Lại chuyện ma tái diễn khá dai dẳng. Hôm đó là một đêm học mùa thi năm 1970, một nhóm “ma” sinh viên hiện h́nh với Trần Thế Hào KD6 làm “ma cà kheo” về hùa với Đồng Lương Nhơn KD7 và một số “ma chơi” khác. Từ cư xá nam sinh viên, “mấy con ma” rủ nhau ẩn núp thấp thoáng trong lùm cây trên lối dốc đồi khuất hẳn giữa hai hàng cây ven đường. Thế rồi, đợi mấy cô sinh viên lên trễ hay đi học khuya từ trên Thư viện trở về Kiêm Ái đang mải nói chuyện, “ma cà kheo” lênh khênh chợt hiện ra … Mấy cô chạy ù té, thất kinh, hét lên “ma, ma, ma…”. Đám sinh viên nữ đang cười nói bị một phen … kinh hoàng… gặp ma…Nữ tu giám đốc Trần Thị Yến phải điên đầu đối phó với lũ “ma cà kheo”.
Một kư túc xá Nam sinh viên Rạng Đông được xây dựng gần bên đường Thông Thiên Học trên khu B của Viện Đại Học Đà Lạt. Cư xá này do chính các tu sĩ Ḍng Đồng Công trông coi xây dựng và quản lư trực tiếp, có lẽ bắt đầu từ thời LM Lê Văn Lư.
Một số sinh viên cư ngụ tại một vài kư túc xá bên ngoài Viện phần nhiều do các ḍng tu thiết lập (Trường Nazarét, Trường Adran, Trường Oiseaux, Ḍng Mến Thánh Giá Thanh Hóa, Tu Hội Tận Hiến, Nhà thuê ở phố gần Viện...)
Sinh viên học xá: chuyện dài bất tận. Sau 1968, SH Théophane vào Đại Học Xá Nam sinh viên với tư cách Phu Tá Giám Đốc cho SH GĐ Trần Văn Nghiêm.
*Công việc của Học Xá thật bề bộn: Thế rồi nào là chăm lo cho sinh viên, giữ ǵn trật tự, chăm sóc sức khỏe, trông nom đôn đốc cho họ đi học đều đặn liên tục, nào là thúc dục họ đóng tiền đầy đủ và đúng thời hạn theo qui định. SH từng nói làm cảnh sát bọn học tṛ con trai không dễ dàng chút nào. SH nói như một chân lư vững chắc muôn đời: “Thằng con trai th́ luôn luôn vẫn là thằng con trai”
Quả nhiên SH phải điên đầu lo cho bọn trẻ, mất ăn mất ngủ. Thường đến 12 giờ đêm, các sinh viên học khuya mới kéo từ Thư viện về pḥng ngủ, đi ngủ và hay đi qua pḥng của ông. Đám sinh viên nghịch ngơm đủ tṛ, muôn h́nh vạn trạng. Có tối vừa đi vừa rao to Phở! Phở!, có tối lại thay mó n “Gà!”, hay có đêm vừa chạy vừa hát to: “Cái nhà là nhà của ta, Frère Kế Frère Nghiêm làm ra…” Có khi cả toán dậm bước theo nhịp quân hành, dù sinh viên nào chả ngán đời lính! Dường như sinh viên diễn đủ tṛ khuây khỏa trước khi yên thân ném xác vào giường đi ngủ. “Nhất quỉ nh́ ma thứ ba sinh viên đại học”, nhất là sinh viên CTKD …
* Hồi đó sinh viên bất b́nh chuyện bắt lính, hay bắt đi tập trong những tháng hè. Gần bữa trưa nọ, một đám sinh viên kéo nhau đến trước ṭa nhà hành chánh của Viện sát cổng vào. Cả đám hè nhau phá cửa văn pḥng bắt lính, lấy hết hồ sơ ra, chất đống trước sân của biệt thự hành chánh. Bọn thanh niên phóng hỏa tất cả những tên tuổi có trong các giấy tờ bắt lính ấy. Tất cả đếu biến thành tro bụi trong chốc lát. Mấy chú lính và sĩ quan phụ trách bắt lính đứng đấy, thản nhiên án binh bất động, trước cửa văn pḥng, chỉ nh́n xem thanh niên tha hồ bạo động. Th́ ra hồ sơ chính thức đă được họ đem đi cất giữ nơi khác an toàn trước rồi!
Cha Viện Trưởng Lê Văn Lư lúc ấy đang bách bộ thong thả ở pḥng riêng của Ngài trên lầu. Ngài nh́n xuống thản nhiên và lặng lẽ theo dơi toàn cảnh hành động của sinh viên dưới sân. Cha Trương, Phó Viện Trưởng th́ nổi cơn tam bành, chạy ra can thiệp, và la rầy đám sinh viên nổi loạn.
C̣n SH Théophane thấy thế liền cưỡi Honda chạy vội ra phố. Lướt nhanh qua chỗ đám thanh niên lộn xộn, SH chỉ nh́n thoáng, không tỏ thái độ, thầm tự nhủ: “Chuyện của tụi nó để chúng lo, ḿnh tội ǵ mà can thiệp, không may chúng đốt cả ḿnh th́ bỏ bố!”.
Đến chiều tối vào nhà cơm, cha Lư góp ư ra chiều suy tư: “Để chúng nó yên, ông Trương ra can thiệp mà làm chi! Dại dột!”. Cha Trương nghe được câu nói đó mà ngán đời!”. Biết đâu. Có thể có những thanh niên bất măn từ phía đối phương được mua chuộc cài lẫn vào đó để gây hỗn loạn lớn trong hàng ngũ sinh viên!?
* Buổi tối về khuya một hôm dưới thời cha Nguyễn Văn Lập làm Viện Trưởng, một đám sinh viên đi chơi ở phố về cư xá trong Viện. Đi qua nhà cha Viện Trưởng. Thấy trong nhà đèn tắt tối thui, chúng bèn hè nhau vào thăm mấy con gà trong chuồng của cha. Một chàng nhanh tay vào bóp mỏ mấy con gà bắt về pḥng làm thịt nấu cháo ăn đêm cho đỡ đói ḷng trước khi đi ngủ.
Hôm sau Cha Viện Trưởng Lập biết chuyện đă nói tỉnh bơ: “Gà ḿnh mua về chưa được ăn, chúng nó đói th́ cho chúng xơi, chúng ăn sau này chúng sẽ nhớ trả.”
* Sinh viên ăn cắp hoa hồng đem biếu người yêu. Đây là chuyện xày ra từ ban đầu trước khi SH Théophane vào VDH, nhưng hầu như đă đi vào kho tàng truyện cổ của những ai từng sống trong Viện Đại Học. Ăn cắp hoa rồi đem hiến cho người t́nh. Theo cảm nghĩ của sư huynh Théophane, anh chàng hay cô nàng sinh viên si t́nh nào đó chỉ có tim mà không có óc. “Le coeur a des raisons que la raison condamne”. Người t́nh mà nhận của gian th́ không phải là ngựi tính đáng yêu. Con trai nào mà nhận của gian là gă si tính hèn mạt hạng bét, đó là hạng mơ trong xă hội! Văn hóa cổ truyền VN vẫn thường coi xă hội có bốn hạng người: thánh nhân, hiền nhân, quân tử, mơ làng. Sinh viên phải bắt đầu là hạng quân tử, biết suy tư và phê phán sáng suốt trong mọi t́nh huống, v́ đấy là điều tối quan trọng trong giáo dục.
* Làm sao mà SH xử sự ổn thỏa được bao nhiêu việc đó? Ông cho biết “Tôi thường lên Năng Tĩnh lần chuỗi và cầu nguyện, để khôn ngoan b́nh tĩnh đối phó với những trường hợp đó.
Đă lo nhiều trách nhiệm cùng một lúc, ông c̣n gặp đủ thứ chuyện với những sinh viên đến tâm sự cùng ông, kể cả t́nh yêu và tội lỗi… Ông t́m được niềm an ủi khích lệ khi thấy sinh viên tin cậy ông. Ông vững ḷng tự tin đế sống ở giữa họ mà không ác cảm, không khinh miệt họ, trái lại yêu thương quư trọng họ như người thân yêu trong gia đ́nh ḿnh vậy. Hai muơi bảy năm dậy học nhiều nơi khác nhau đă giúp SH vượt khó như thế. Làm sao mà biết tha thứ và thông cảm, đó là nhiệm vụ giáo dục, đó chính là sự nghiệp “trồng người”.
*Thời cha Lê Văn Lư làm Viện Trưởng, có đám nữ sinh viên khác ở trong đại học xá làm loạn. Sau cuộc điều tra, Viện phát hiện ra nữ sinh viên đứng đầu là cô Tiên. Lập tức cô được mời lên tham dự Hội Đồng Giáo Sư để nghe những phân tích của mọi người tham dự. Theo ư kiến của Hội Đồng, Cha Viện Trưởng tuyên bố đuổi học, cô Tiên không giái thích, nhưng chắc cô cảm thấy tủi nhục bất măn. Cô nốc luôn mấy viên thuốc tự tử, xú ḅi mép . Có dấu hiệu trụy tim, khó thở. T́nh trạng nguy ngập, v́ cách hành xử nhân ái, Viện phải cấp bách chuyên chở cô vào bênh viện cứu cấp. Hôm sau Cha Viện Trưởng t́m đến sư huynh Théophane cho biết t́nh h́nh.
Sau khi vấn kế kín đáo với cha Viện Trưởng Lê Văn Lư ở Thư Viện, Sư Huynh đến yên ủi cô ở bệnh viện, khuyên cô uống thuốc giải độc và hứa sẽ vẫn cho cô tham dự kỳ thi cuối năm và cô sẽ thi đậu. Vâng lời Sư huynh, cô sinh viên đáng thương đó liền uống xong liều thuốc giải độc. SH tiếp tục vào thăm và khuyên cô hăy yêu đời mà sống, đồng thời trao cho cô một tấm ảnh tượng Đức Mẹ, cùng cầu nguyện cho cô. Một tuần sau, cô Tiên trở lại lớp học, lạc quan yêu đời, và phấn khởi đi vào sinh hoạt b́nh thường[88].
5. Pḥng Y Tế
Được thành lập có thể đồng thời ngay khi Viện Đại Học ra đời. Khởi đầu do BS Hoàng Khiêm thuộc Dân Y Viện (Trung Tâm Y Tế Toàn Khoa Đà Lạt) phụ trách, nhưng hoạt động không liên tục và đều đặn. Từ niên khóa 1972-73, LM Vũ Minh Thái và người viết liên lạc với BS Đinh Văn Chức và y tá Nguyễn Hữu Quảng, phục hồi và tổ chức lại hoạt động y tế trong Viện. Lúc đầu hoạt động lại, Pḥng y tế chỉ giới hạn phục vụ các giáo sư và nhân viên trong viện.
Pḥng y tế khi đó được đặt ở căn đầu tiên dăy nhà Dĩ Lễ là cư xá dành cho các giáo sư và một vài nhân viên, quay ra sân thể thao dưới tầng nền được san bằng vẫn dùng làm sân tennis, bên dưới dốc đồi nh́n sang Nguyên Tử Lực Cuộc ở phía Đông.
Chắc chắn chưa thể tiến hành rộng khắp việc lập phiếu sức khỏe cho sinh viên và yểm trợ họ trong công tác y tế bên ngoài viện, như tài liệu Chỉ Nam Sinh Viên 1973-74 có nói đến. Dự kiến cho tương lai gần là mở rộng cho các đối tượng sinh viên c̣n hạn chế, v́ thiếu nhân sự và phương tiện. Có dự kiến trước mắt là mở rộng hoạt động y tế phục vụ sinh viên trong các hoạt động cấp cứu, sơ cứu
6. Pḥng Ẩm Thực (Nhà Bếp)
Việc ăn uống tại nhà bếp riêng của Linh Mục Viện trưởng vẫn do ông Trần Văn Thơ trực tiếp trông nom, nấu nướng từ lâu dưới thời LM Viện Trưởng Nguyễn Văn Lập. Lúc trước, tất cả các giáo sư thỉnh giảng trong việc đều dùng cơm chung với Linh Mục Viện Trưởng. Về sau v́ số giáo sư lên đông hơn, nên các giáo sư dùng cơm trên pḥng ăn của ṭa nhà Năng Tĩnh. Pḥng Quản Lư của Viện lo chăm sóc trực tiếp khu nhà ăn của các giáo sư. Như vậy Nhà Bếp riêng ở Ṭa Nhà của LM Viện Trướng thực tế phục vụ các linh mục, tu sĩ và khách mời cùng một số giáo sư có hoàn cảnh đặc biệt, như GS Nguyễn Khắc Dương và một thời gian GS Đỗ Hữu Nghiêm và GS Nguyễn Hồng Giáp, thường trú trong khuôn viên đại học.
Chương Chín: Khối Học Thuật
1. Giá Trị Văn Bằng của Viện Đại Học Đà Lạt.
Ngoài uy tín chất lượng của các giáo sư và toàn bộ nhân viên của một Viện Đại Học, giá trị văn bằng của các trường trong Viện Đại Học c̣n tùy thuộc tính cách pháp lư. Các văn bằng ấy cần được các cơ quan nhà nước và các trường đại học quốc nội hay quốc tế khác công nhận
Ngày 28/3/1961, Trường Sư Phạm Ban Triết học tổ chức lớp tốt nghiệp đầu tiên trong Viện. Theo luật pháp quốc gia, nhiều cơ quan tuyển dụng đặt vấn đề giá trị văn bằng do Viện Đại Học Đà Lạt cấp phát. V́ thế, theo yêu cầu của VĐHĐL, Tổng Thống Việt Nam Cộng Ḥa Ngô Đ́nh Diệm đă cho VĐHĐL, do Hội Đại Học Đà Lạt thành lập, được cấp phát văn bằng đại học theo sắc lệnh số 199/GD, kư ngày 28/8/1961[89].
Sắc lệnh đó, tuy do Tổng Thống ban hành, vẫn cần được hợp thức và chi tiết hóa bằng Nghi Định của cơ quan chức năng được phân nhiệm trong chính phủ là Bộ Quốc Gia Giáo Dục. Bộ này đă chính thức xác định cho Viện Đại Học được cấp văn bằng đại học thực thụ theo nghị định số 206/GD/PC/NĐ, được Bộ Trưởng Trần Hữu Thế kư ngày 4/9/1961
Về phía quốc tế, một số cơ sở đại học Mỹ và Pháp cũng có tiếng nói đầu tiên đối với giá trị văn bằng của Viện Đại Học, chẳng hạn:
Trường Đại Học Sorbonne, Paris ở địa chỉ số 12 Place Panthéon, Paris 75005, France đă công nhận các chứng chỉ từ Dự Bị đến Văn Bằng Cử Nhân Văn Chương Pháp.
Trường Đại Học Công Giáo George Mason University (4400 University Drive, Fairfax, VA 22030) bảo trợ không những về tài chánh mà c̣n về học thuật.
Các cơ quan tài trợ cho Viện Đại Học cũng gián tiếp ủng hộ giá trị đào tạo và văn bằng của cơ quan này. Về sau, tùy từng thời điểm phát triển của các trường trong Viện, văn bằng Cử Nhân hay Cao Học đều có văn kiện chính thức công nhận.
Sau cùng lời chúc lành của Vatican cho tập thể Viện Đại Học Đà Lạt nhân kỷ niệm mười năm xây dựng (1959-1969) là một cử chỉ làm tăng uy tín và khích lệ sứ mệnh trồng người của Viện này.
2. Các Ṭa Nhà và Giảng Đường Đại Học
Một đặc điểm rất Á Đông là cách đặt tên Hán Việt từ các cổ thư như Tứ Thư Ngũ Kinh cho các kiến trúc và giảng đường đại học theo truyền thống văn hóa châu lục. Cách đặt tên không khô khan giống như con số giảng đường ở các đại học thường thấy bên phương Tây. Các ṭa nhà hay giảng đường cũng được xây dựng xoáy trôn ốc theo dốc đồi lần lượt từ trên các cao độ khác nhau và được liên kết với nhau bằng những bậc đá lên xuống hay cầu bằng gỗ xinh xinh, những lối đi có trang điểm len lỏi quanh co giữa những khóm hoa ôn đới duyên dáng đủ loại màu sắc như mimosa, hồng, anh đào, thược dược, tầm xuân, huệ trắng, glaïeul… . Các tỏa nhà hay giảng đường ấy lại được đan xen thơ mộng, như ngẫu nhiên bên cạnh, chen giữa hay khuất dưới, đàng sau những lùm cây tươi mát thiên nhiên.
Những nam thanh nữ tú đă Đôn Hóa, Minh Thành, Thụ Nhân trong chốn giảng đường Spellman, giải trí lành mạnh ở Trung Tâm Sinh Viên, miệt mài ở đại học theo guơng Trương Vĩnh Kư, biết sống tiết trực Thượng Hiền, Ḥa Lạc, Năng Tĩnh, Cư Dị, Dị An,Tri Nhất, Kiêm Ái, th́ cuộc đời sẽ trông thấy B́nh Minh và Rạng Đông lâu dài như không bao giờ kết thúc.
Trong thời đại ngày nay giáo hội Công giáo muốn nhập thể vào cộng đồng dân tộc Việt Nam trên nền tảng văn hóa Á Đông. Từ ban đầu, như một truyền thống qua cách đăt tên các tỏa nhà và giảng đường, Viện Đại Học Đà Lạt đă đề cao ư tưởng Tin Mừng bàng bạc trong triết học phương Đông. Nhiều tư tưởng Tin Mừng Công Giáo được diễn dịch trong các sách Kinh Thánh theo cảm quan phương Tây cũng được chứa đựng Kho tàng Tứ Thư Ngũ Kinh phương Đông. V́ thế Cổ Thư phương Đông không thiếu những tư tưởng thâm thúy, làm phương châm cho lư tưởng Thụ Nhân, tuy kho tàng ấy không phải là tất cả chân lư Tin Mừng
Nói cách khác, trong trào lưu hội nhập văn hóa của Giáo Hội Công Giáo ngày nay, có thể nói rằng Tứ Thư Ngũ Kinh cũng là một thứ Kinh Thánh với ư nghĩa nào đó theo khẩu vị truyền thống văn hóa phương Đông. Theo nhăn quan đó, có thể giải thích ư nghĩa của từng Ṭa Nhà hay giảng đường Đại Học chốn Cao Nguyên thơ mộng, khó quên này.
Từ khi hoạt động trong Viện Đại Học Đà Lạt, người viết không mấy chú ư đọc hay nghe ai giải thích chính thức về lư tưởng Thụ Nhân và các ư nghĩa ẩn ngụ trong tên gọi các ṭa nhà và giảng đường thuộc Viện. Nhưng một số thành viên của Thụ Nhân, như cựu sinh viên Tạ Duy Phong KD1, hay Phạm Văn Bân KD7, đă nêu ra cách lư giải một số từ ngữ của gia đ́nh Thụ Nhân. Người viết cho đây là những nỗ lực giải đáp khá lư thú về một số từ ngữ phương châm ấy, mặc dù trong Chỉ Nam Sinh Viên của VĐHĐL có dẫn giải một phần những nét chính yếu[90]. Chính cộng đồng Thụ Nhân dần dần chủ động góp phần làm cho truyền thống trở nên phong phú và bền vững vậy.
Nguồn gốc các tên gọi kia đều hàm chứa ư nghĩa giáo dục thâm thúy. Dưới đây là một số ư nghĩa cơ bản mà người viết t́m kiếm đúc kết được một phần nhờ chính những truy tầm của các “hậu sinh khả úy” trong Viện.
Hai con đường chính là đường Tiền Giang, từ nhà riêng của LM Viện Trưởng ngoằn ngoèo đi qua dăy nhà có nhiều giảng đường và thư viện dẫn lên khu Năng Tĩnh ở đỉnh đồi.
Và đường Hậu Giang cũng từ nhà riêng của LM Viện Trưởng, qua pḥng quản lư, dẫn xuống khu kư túc xá nữ sinh viên ở sườn đồi. Bên hai con dường chính này nhiều khóm hoa anh đào, hoa mimosa hay thông reo đó đây mọc như quyện lấy ven đường như đón bước người lữ khách đa t́nh nhiều mộng mơ..
Thụ Nhân (Giảng Đường) được coi là danh hiệu lư tưởng soi đường cho tôn chỉ Đại Học Đà Lạt. Tư tưởng Thụ Nhân, theo t́m kiếm nhận thức chủ quan của người viết, bắt nguồn từ các nỗ lực sự nghiệp và kế hoạch trồng người ở trong câu nói của cổ thư phương Đông “Kế Hoạch Một Năm, Không Ǵ Bằng Trồng Lúa, Kế Hoạch Mười Năm, Không Ǵ Bằng Trồng Cây, Kế Hoạch Trăm Năm, Không Ǵ Bằng Trồng Người” (Nhất Niên Chi Kế, Mạc Nhi Thụ Cốc, Thập Niên Chi Kế Mạc Nhi Thụ Mộc, Bách Niên Chi Kế Mạc Nhi Thụ Nhân.)[91]
Nhưng người viết đồng ư với tác giả họ Phạm là nguồn gốc ư tưởng Thụ Nhân có thể từ trong sách Quản Tử, rồi v́ tam sao thất bản qua con đường lưu truyền từ đời này đến đời khác. Dù từ ngữ trong câu nói có thể thay đổi, nhưng ư tưởng cơ bản vẫn không thay đổi như câu này:
“Nhất niên chi kế, mạc như thụ cốc; thập niên chi kế, mạc như thụ mộc; chung thân chi kế, mạc như thụ nhân. Nhất thụ nhất hoạch giả, cốc dă; nhất thụ thập hoạch giả, mộc dă; nhất thụ bách hoạch giả, nhân dă.” (Kế một năm, không ǵ bằng trồng lúa; kế mười năm, không ǵ bằng trồng cây; kế trọn đời, không ǵ bằng trồng người. Cái ǵ trồng một cho kết quả một, tức là trồng lúa; cái ǵ trồng một cho kết quả mười, tức là trồng cây; cái ǵ trồng một cho kết quả một trăm, tức là trồng người)[92].
Năng Tĩnh (Nhà nguyện) là con đường trọng đại, để t́m thấy chính ḿnh trong cơi thiêng liêng sau những giờ phút miệt mài học tập mệt mỏi căng thẳng. Tu dưỡng tâm tính bằng tĩnh lặng là cách thức ưa thích của nhà Nho. Chính Thiên Chúa hay bày tỏ ḿnh cho con người trong cơi ḷng tĩnh lặng: "Đại học chi đạo, tại minh minh đức, tại thân dân, tại chỉ ư chí thiện. Trí chỉ, nhiên hậu hữu định. Định, nhiên hậu năng tĩnh. Tĩnh, nhiên hậu năng an. An, nhiên hậu năng lự. Lự, nhiên hậu năng đắc." (Con đường học lớn của người làm sáng thêm cái đức sáng suốt, ở gần dân, trụ hẳn vào nơi chí thiện. Đạt được trí, sau đó mới định được. Có định, sau đó mới có thể tĩnh. Có tĩnh, sau đó mới có thể an. Có an, sau đó mới có thể lo nghĩ. Có lo nghĩ, sau đó mới có thể thành tựu)[93].
Cư Dị (Giảng đường) là tinh hoa trong tư tưởng "Thượng bất oán thiên, hạ bất vưu nhân. Cố quân tử cư dị dĩ sĩ mệnh. Tiểu nhân hành hiểm dĩ kiêu hănh." (Trên không trách trời, dưới không trách người. Do vậy, người quân tử ăn ở dễ dàng, qua đó mà chờ mệnh trời. Kẻ tiểu nhân làm điều nguy hiểm, qua đó mà cầu may)[94].
Dĩ lễ (Cư xá giáo sư): Sống theo lễ giáo. Luận ngữ có câu: “Đạo chi dĩ đức, tề chi dĩ lễ, hữu sĩ thả cách” (Lấy đức dẫn đạo, lấy lễ mà làm cho tề theo, người ta sẽ biết hổ thẹn mà trớ về đường ngay nẻo chính vậy).
Dị An (Giảng đường): dễ ở. Đào Tiềm (Đào Uyên Minh, 372-427) trong “Qui Khứ Lai Từ” có nói về chốn ở ẩn của ḿnh là: “Thảm dung bất nhi Dị an” (Chỗ đó tuy nhỏ hep, nhưng dễ yên hàn hơn)
Dương Thiện (Đại học xá): Biểu lộ cái tốt ra. Sách Trung Dung có ghi lại lời Khổng Tử tán dương vua Thuấn. Ở đó Khổng Tử ca tụng vua Thuấn là biết che dấu cái xấu của người khác mà biểu dương cái tốt đẹp của người khác như sau: “Ẩn ác nhi dương thiện”[95]
Đạt Nhân (Pḥng thí nghiệm): Tới đức Nhân, tức là đi tới nhân cách viên măn.
Đôn Hóa (Văn pḥng). Đôn đốc, phổ cập sinh hoá theo chiếu hướng tốt đẹp. Đạo Trởi Đất là con đường vạn vạt sinh sống hài ḥa mà không hại lẫn nhau. “Tiểu đức xuyên lưu . Đại đức đôn hóa” (Đức nhỏ như sông ng̣i chảy khắp, đức lớn như phổ cập sinh hóa)[96].
Ḥa Lạc (Toà Viện trưởng) lấy ư từ câu: “Huynh đệ kư hấp, Hoà Lạc Thả Thầm” (Anh em xum họp, Ḥa Vui biết mấy)[97]
Hội Hữu (Giảng đường) gợi lên ư tưởng đi t́m một phương cách học tập hữu hiệu nhất. Nếu chọn bạn mà chơi, th́ cũng phải biết chọn bạn mà học. Cách thế học tập có kết quả nhất là hội hữu, một bí quyết thành công của đại học chi đạo: "Tăng Tử viết: Quân tử dĩ văn hội hữu, dĩ hữu phụ nhân." (Tăng Tử nói: người quân tử lấy văn chương mà họp bạn, lấy bạn mà giúp nhau giữ ḷng nhân)[98].
Kiêm Ái (Đại học xá sinh viên): Mặc Tử, triết nhân đời Xuân Thu, chủ trưong kiêm ái, tức là yêu thương mọi người như nhau, không phân biệt kẻ thân người sơ, lâu mau.
Lạc Thiện (Đại học xá): Vui với điều tốt lành.
Minh Thành (Giảng đường, Pḥng Thí Nghiệm) bộc lộ một ư chí chân thành trong sáng. Đạt được một nhân cách minh thành, đấy là mục tiêu của giáo dục vậy: "Tự thành minh, vị chi tính. Tự minh thành, vị chi giáo. Thành tắc minh hĩ. Minh tắc thành hĩ." (V́ có ḷng thành thật mà sáng suốt, đó là do tính. V́ sáng suốt mà có ḷng thành thật, đó là do giáo dục. Vậy nên ai có ḷng thành thật th́ sáng suốt. Ai sáng suốt th́ có ḷng thành thật)[99].
Spellman (Đại giàng đường ): Hồng Y Francis Joseph Spellman, (4/5/1889– 2/12/1967) là vị giám mục thứ chín và Tổng GM thứ sáu của Giáo Phận Công Giáo Nữu Ước[100]. Đối với Việt nam, ngài đến VN lần đầu tiên năm 1955. Đang cử hành Thánh lễ tại Nhà Thờ Đức Mẹ La vang tại Quảng trị, ngài vừa khóc vừa giảng: “Tôi cầu nguyện, tôi tin chắc Đức Mẹ La vang sẽ thắng, và sẽ sớm mang lại Ḥa B́nh cho Giáo Hội Công Giáo Việt Nam” [101]. Hai lần kế tiếp năm 1964 và 1965, nhân dịp Lễ Giáng Sinh hằng năm ngài sang với tư cách Tổng Tuyên Úy đến thăm viếng và úy lạo nhiều đơn vị Quân Đội Hoa Kỳ đồn trú ở Việt Nam. Ngài từ trần ngày 2/12/1967 tại New York trong giáo phận của ngài.
Thượng Chí (Giảng đường): Nêu cao chí hướng sống theo nhân nghĩa. Sách Mạnh Tử kể lại rằng ông Điếm, con vua Tề hỏi: “Kẻ sĩ làm ǵ? Mạnh Tử trả lời: “Thương Chí!” (nâng cao chí hướng lên. Ông đă giải thích “Thượng Chí” như sau: “Chẳng qua là làm điều nhân nghĩa đó thôi. Giết một người vô tội là bất nhân. Chẳng phải của ḿnh mà dành lấy là phi nghĩa. Kẻ sĩ là ở nơi nào? Ở đức nhân. Kẻ sĩ đi đường nào? Ở đức nhân. Noi theo đức nghĩa, sự nghiệp của đại nhân như vậy là đă đầy đủ rồi vậy.
Thượng Hiền (Giàng đường): Quan niệm chính trị của người xưa là biết quí trong người hiền đức.
Tri Nhất biểu lộ cảm nghĩ bể học của thánh hiền th́ vô tận và con người phải toàn tâm toàn ư mới tới gần vị tri thức độc nhất vô cùng phong phú đó: "Hoặc sinh nhi tri chi; hoặc học nhi tri chi; hoặc khốn nhi tri chi. Cập kỳ tri chi nhất dă." (Có người hoặc sinh ra đă biết; hoặc học mới biết; hoặc khốn khó mới biết. Khi đạt th́ cái biết chỉ có một)[102].
3. Cơ Quan Nghiên Cứu Đại Học.
Cơ quan tu thư được thành lập rất muộn màng sau này vào ngày 2/6/1973. Ban Tu Thư chịu trách nhiệm cho ra đời tập san Tri Thức và nội san Thụ Nhân. Tập san Tri Thức vừa là tài liệu nghiên cứu, dịch thuật, trao đổi chuyên môn thuộc các lănh vực khoa học khác nhau của các giáo sư, đồng thời là tài liệu học tập cho sinh viên. LM Mai Văn Hùng OP, Tiến Sĩ Triết học, điều hành báo chí và Tập San Tri Thức từ năm học 1973-1974
Nội san Thụ Nhân cũng được phát hành định kỳ như một thông tin sinh hoạt của Viện. Viện cũng phát hành những Chỉ Nam Sinh Viên hằng năm để giới thiệu cho các khách thăm, để hướng dẫn sinh viên tiếp xúc làm quen với môi trường Viện Đại Học Đà Lạt và chọn lựa các ngành học tập. LM Trần Thiện Cẩm OP, Tiến sĩ Triết học, giám đốc và chủ nhiệm nội san Thụ Nhân (1973-75)
4. Pḥng Ấn Loát (Ấn Quán SIVIDA).
Dường như từ khi thành lập trường CTKD, hoạt động của Pḥng Ấn Loát mới nhộn nhịp, và có Linh Mục Ngô Duy Linh, Phú Tá Viện Trưởng kiêm Giám Đốc Đại Học Xá Nam Sinh Viên, đă góp sức tích cực. Ông Trần Văn Ngọ là một trong những người phụ trách về kỹ thuật (tiếp nhận các giáo tŕnh cần in, in, đóng sách, sửa chữa trục trặc máy móc, giấy mục, …) Về sau, sinh viên nắm giữ việc ấn loát, chủ yếu là các giáo tŕnh của chính sinh viên
Về sau dưới thời Linh Mục Viện Trưởng Lê Văn Lư th́ ấn quán được trao cho Lm Trần Thiện Cẩm, OP, phụ trách. LM Trần Thiện Cẩm đảm nhiệm điều hành toàn thể họat động ấn loát (1974-1975), tổ chức lại bộ phận ấn loát đặt một danh hiệu mới là Ấn Quán Sinh Viên Đại Học Đà Lạt, viết tắt thành SIVIDA. Ấn quán này lo việc ấn hành tài liệu học tập, nghiên cứu, giáo tŕnh của các Giáo sư và các ấn chỉ giấy tờ văn thư báo chí của các bộ phận trong Viện, nhất là các giáo tŕnh của Trường CTKD.
5. Thư Viện Viện Đại Học Đà Lạt
Sư Huynh Théophane Nguyễn Văn Kế[103] làm giám đốc từ khoảng cuối năm 1968, thay thế bà Trần Long xin về Sàig̣n.
Thư viện mang tên Hồng Y Agagianian do chính ngài khánh thành năm 1959, nhân cuộc thăm viếng Việt Nam với tư cách Sứ Thần của Đức Phaolô VI tham dự Đại Hội Thánh Mẫu Toàn Quốc năm 1959. Vào tháng 6/1965, theo yêu cầu của Bà Ánh Nguyệt (Bà Trần Long), một số chuyên gia thư viện học là các ông Pirrel, Zerrold Orne, Trần Ngọc Hải và cô Vơ Thị Hồng đă góp phần tổ chức lại các tài liệu sách báo thư viện theo hệ thống phân loại Dewey.
Các vị sau đây lần lượt nắm giữ nhiệm vụ điều khiển thư viện với tư cách giám đốc: LM De Roeck (1957-1965), Bà Ánh Nguyệt (1965-1968) và Sư Huynh Théophane Nguyễn Văn Kế, Licentia in Religiosis Scientiis, từ 1970 đến 1975
Tính đến năm 1975, nhờ nhiều cơ quan văn hóa yểm trợ, như Trung Tâm Học Liệu Bộ Quốc Gia Giáo Dục, Trung Tâm Văn Hóa Mỹ, Trung Tâm Văn Hóa Pháp, Cơ Quan Văn Hóa Á Châu,… Thư viện tích lũy được khoảng gần 30.000 cuốn sách đủ loại, với 348 thứ tạp chí Anh, Pháp, Mỹ, Hàn, Đức, Nhật, Hoa... Trung b́nh lượng sinh viên đến học tập và tham khảo tài liệu tại thư viện là 326 lượt người/ngày.
Kể từ khi thánh lập, quá tŕnh tích lũy sách của thư viện đă gia tăng theo từng thời điểm. Chắc chắn không thể không xảy ra cảnh mượn sách, rồi sách mất tích luôn. Điều quan trọng chắc chắn là người Việt có yêu sách, nhưng không phải ai ai cũng thích đọc sách, một nếp văn hóa rất đẹp của nhiều người phương Tây. GS Vương Hồng Sển có nói đến thú chơi sách, nhưng ngoài việc bỏ tiền mua, c̣n có màn “chôm” sách, để kinh doanh. Hầu hết những người mê sách lại là những người buôn bán sách cũ, mua đi bán lại với giá cắt cổ, mà không hẳn là những người say mê kiến thức mà sách mang lại. Tri thức mà không được chia sẻ là tri thức chết!
Đối với độc giả sinh viên Đà Lạt, nhiều người nhắm đến mục tiêu thực tế là cần đến thư viện để gạo bài trong mùa thi cử. Đó cũng là một động lực thực tế, nhưng chỉ v́ lư do đó th́ chưa thể nâng cao dân trí một cách cơ bản. Rồi cũng từ những cuộc lui tới thư viện có những t́nh bạn và cả t́nh yêu được nhen nhúm. Và đó cũng chính là một trong những nguyên nhân khiến cho thư viện đông đúc người thăm viếng hơn.
Biểu Đồ 9. Số Lượng Sách ở Từng Thời Điểm, 1958-1972[104]
Thời gian |
I. Số lượng sách |
Chú thích |
1958-64 |
04000 |
Sách ban đầu với tài trợ của Giáo Hội Đức |
1964 |
09365 |
|
1965 |
10325 |
|
1966 |
10.925 |
|
1967 |
13.425 |
|
1971 |
16525 |
|
1972 |
22430 |
|
II. Các loại sách trong thư viện |
||
Tác phẩm tổng quát |
0800 |
|
Vấn đề triết học |
2800 |
|
Tôn giáo |
0740 |
|
Khoa Học Xă Hội |
4000 |
|
Ngôn ngữ |
0450 |
|
Khoa Học thuần túy |
2100 |
Không rơ nghĩa |
Khoa học thực nghiệm |
1000 |
|
Kỹ thuật |
0900 |
|
Văn học |
6400 |
|
Sử Địa |
3240 |
|
III. Nhịp sinh hoạt tại Thư Viện, 1971-72 |
||
Độc giả vào nghiên cứu |
13181 |
|
Sách mượn về nhà |
0382 |
|
Tham khảo tài liệu |
1725 |
|
Lượt người vào thư viện |
326 lượt người /ngày |
|
Thường sinh viên nam nữ chen chúc rủ nhau đến học đêm qui định từ 7-10 giờ tối để bảo vệ sức khỏe .Bối cảnh êm đềm cho sinh viên cũng như mọi người tại Thư viện tao ra một thứ chu kỳ hẹn ḥ, vừa học vừa trao t́nh cảm cho nhau. Sư huynh nhân cơ hội đó cho in nhiều bài viết đối thoại và hướng dẫn sinh viên nam nữ nhận thức được con đường tính yêu họ đang đi[105].
Chắc chắn dù sư huynh Giám Đốc Thư Viện tận tụy hết sức, nhưng việc tổ chức Thư Viện, quan hệ giữa các Thư Viện trong nước và nước ngoài để có trao đổi, cung cấp, và mua bàn các tài liệu nghiên cứu học tập cho giáo sư và sinh viên vẫn chưa được cải tiến nhiều. Việc trang bị các tiện nghi học tập nghiên cứu, như tủ kệ, bàn ghế máy móc in ấn, chiếu phim, chụp ảnh, slide projector, … Đây là một trong muôn vàn thí dụ về sự thiếu thốn của thư viện trong kế hoạch đ̣i hỏi phải cập nhật hóa.
GS Phó Bá Long yêu cầu từng nhóm lập một thư mục tất cả các sách về quản trị học trong Thư Viện của Viện Đại Học Đà Lạt. Nhưng v́ phương tiện giới hạn, danh sách các sách về quản trị chỉ vỏn vẹn hai trang giấy, mà so với thư viện một đại học nước ngoài th́ không biết bao nhiêu là sách vở về “management”![106]
Cải Cách Dở Dang Hay Cách Mạng Không Thành?
1./ Trong khoảng năm 1973-1974, LM. Vũ Minh Thái lănh đạo một ban cải cách gồm các thành viên:
Khoa Học: LM. GS. Nguyễn Văn Đời làm Khoa Trưởng và LM GS. Nguyễn Hữu Toản làm Phó Khoa Trưởng Đại Học Khoa Học;
Sư Phạm: LM. GS. Vũ Minh Thái là Khoa Trưởng và LM. GS. Mai Văn Hùng là Phó Khoa Trưởng;
Văn Khoa: GS. Nguyễn Khắc Dương và GS. Nguyễn Hồng Giáp Q. Khoa Trưởng và Phó Khoa Trưởng.
Những vị này, được LM. Viện Trưởng Lê Văn Lư chấp nhận có yểm trợ của Giám Mục Nguyễn Ngọc Quang, Địa Phận Cần Thơ và Giám Mục Nguyễn Văn Thuận, Địa Phận Nha Trang, thảo luận kế hoạch cải tổ sâu rộng để thay đổi toàn bộ cơ cấu của Viện.
Theo người viết, khó thể có một cuộc cách mạng đúng nghĩa trong một tổ chức giáo dục bậc đại học trong Giáo Hội Công Giáo
Để xúc tiến thực hiện cải tổ này, cuối năm 1973, LM. Vũ Minh Thái đi Hoa Kỳ, Âu Châu, và một số quốc gia Á Châu như Phi Luật Tân, Đài Loan, Nam Hàn trong hơn 6 tháng.
Tại Hoa Kỳ, LM. Vũ Minh Thái đă vận động được hơn 100 giáo phận và các đại học Công giáo, đặc biệt là đại học Công giáo Georgetown ở Hoa Thịnh Đốn và Fordham ở Nữu Ước, nơi LM. Thái từng theo học, xin họ cấp học bổng cho sinh viên và giúp đỡ về tài chánh, xây dựng cải tổ Viện Đại Học Đà Lạt.
Sau khi rời Hoa Kỳ, LM. Thái đă ghé Hán Thành, để gặp hai kiến trúc sư ở đó, yêu cầu họ giúp thực hiện sơ đồ về toàn bộ cơ sở vật chất cũ và mới của Viện. Sơ đồ này sau đó đă được đắp thành mô h́nh và được trưng bày ở tầng trệt, gần cầu thang bên phải của Ṭa Nhà Văn Pḥng Viện Trưởng, cơ sở Đà Lạt.
Như vậy LM Vũ Minh Thái chỉ đi Hoa Kỳ và trên đường về ghé Hán Thành mà không đi tiếp sang Âu Châu.
Tại Âu châu, Đức Tổng Giám Mục Ngô Đ́nh Thục cũng đă vận động được một số các đại học Công giáo hỗ trợ cho chương tŕnh cải tổ việcgiảng dậy và nâng cấp cơ sở vật chất của Viện.
LM Vũ Minh Thái cũng đă nhờ Cơ Quan Viện Trợ Văn Hóa Á Châu (Asia Foundation), nghiên cứu và hoạch định rất chi tiết về chương tŕnh giảng dạy tại các phân khoa và công tŕnh tái xây cất các cơ sở vật chất của Viện.
Theo phán đoán của người viết, Cơ Quan Văn Hóa Á Châu có thể là một cơ quan văn hóa giáo dục nhưng có những hoạt động t́nh báo văn hóa giáo dục, thu thập tài liệu và tin tức về giáo dục cũng như kết nạp những nhân sự t́nh báo, trong các hoạt động yểm trợ tài chính hay nghiên cứu khảo sát văn hóa giáo dục
Toàn bộ chương tŕnh cải cách này dự trù lên đến hơn 6 tỷ bạc tiền Việt Nam thời giá lúc đó.
2./ Theo Phạm Văn Lưu ghi lại, ông được LM. Viện Trưởng Nguyễn Văn Lập cho biết, chương tŕnh này đă được Cơ Quan Văn Hóa Á Châu đề nghị với Viện từ năm 1968.
Trước hết, Cơ Quan này xin phép khảo sát và nghiên cứu về phương cách điều hành cũng như chương tŕnh giảng dạy của Viện. Sau đó họ đề nghị hoạch định chương tŕnh cải cách về phương diện quản trị, điều hợp tổ chức và sau hết là cải tiến chương tŕnh giảng dạy cho sinh viên.
Nhưng những đề nghị này đă không đươc cha Lập chấp nhận.
Chẳng hạn:
-Về tổ chức, mỗi tháng Viện phải trả 3, 5 triệu đồng cho việc mời các giáo sư thỉnh giảng từ Sài G̣n lên Đà Lạt giảng day. Họ đề nghị biếu không cho Viện một chiếc phi cơ Cessna nhỏ, dể chuyên chở giáo sư từ Sài G̣n lên Đà Lạt và ngược lại, với điều kiện cho họ được đặt một ban cố vấn bên cạnh ngài. Cha Lập trả lời:
“Tôi nghĩ khi những vị thượng cấp của tôi đề cử cá nhân tôi vào chức vụ này, các ngài đă tin rằng tôi có đủ kiến thức và năng lực để hoàn thành trách nhiệm đó, mà không cần phải có một ban cố vấn bên cạnh. V́ vậy, tôi rất tiếc phải nói rằng, để khỏi phụ ḷng tin của thượng cấp của tôi, tôi xin được từ chối đề nghị này.”
-Về cương tŕnh ấn hành các bài vở cho sinh viên học tập như SIVIDA lúc đó, Cơ Quan Văn Hóa Á Châu đề nghị trang bị cho Viện một nhà máy in tối tân nhất, mà ngay cả những cơ sở in tối tân nhất mà Sài G̣n bấy giờ cũng chưa có, nhằm giải quyết việc ấn hành sách vở tài liệu học tập cho sinh viên, việc xuất bản các sách giáo khoa và một tạp chí nghiên cứu chính thức của Viện.
Nhưng LM.Viện Trưởng Lập cũng từ chối v́ nhu cầu ấn hành các giảng khóa cho các sinh viên, nhu cầu xuất bản sách, báo không nhiều lắm. Mỗi lần xuất bản, đưa về Sài G̣n, thuê in c̣n rẻ hơn chi phí bảo tŕ nhà máy, trả lương cho nhân viên quản lư và các công nhân kỹ thuật mỗi năm sẽ vượt xa số tiền thuê in.
-Cuối cùng là về chương tŕnh giảng dạy, Cơ Quan Văn Hóa Á Châu đề nghị Viện nên hủy bỏ những chứng chỉ nào có ít hơn 10 sinh viên theo học, để Viện khỏi bị lỗ lă. Khảo sát thực tế các chứng chỉ theo tiêu chuẩn này, LM. thấy rằng các chứng chỉ kia đều là những chứng chỉ Pháp Văn. V́ thế LM. Viện Trưởng cũng từ chối v́ Viện Đại Học là một cơ sở giáo dục và phát triển văn hóa, chứ không phải thuần túy là một cơ sở kinh doanh. Vả lại đây có thể là một hành động cạnh tranh loại trừ ảnh hưởng của Pháp[107].
Có thể vào thời điểm năm 1968, bản phúc tŕnh của Cơ Quan Văn Hóa Á Châu chưa phù hợp với đà phát triển và hoàn cảnh thực tế của Viện và xă Hội Việt Nam. Thực ra, việc chọn cố vấn về các lănh vực kể trên, nhất là cho một công tŕnh lớn, là khôn ngoan, Viện Trưởng chỉ cần tránh việc để cho các cố vấn này lạm dụng quyền quyến định cuối cùng của Viện Trưởng
.
Và năm 1974, bản phúc tŕnh này đă được sửa đổi gần như toàn diện, không những về chương tŕnh giảng huấn mà c̣n cả về phương diện thiết kế, tân trang, và kiến trúc các cơ sở vật chất cũ cũng như mới, cho một cuộc cải cách toàn diện và hết sức qui mô của Viện Đại Học Đà lạt vào hoàn cảnh đă biến đổi nhiều[108]
3./ Dự Án Chương Tŕnh Xây Dựng. Nhân dịp Giám Mục Nguyễn Ngọc Quang, Chưởng Ấn Viện Đại Học Đà Lạt từ Cần Thơ lên Đà Lạt, dự lễ phát bằng cho sinh viên vào ngày 31/12/1974, Ban cải cách do LM. Vũ Minh Thái điều khiển, dưới sự chấp thuận của LM Viện Trưởng đương nhiệm, đă họp riêng với Đức Cha Quang.
LM. Viện Trưởng Lê Văn Lư không hiện diện trong buổi họp này, có lẽ LM. Lê Văn Lư nghĩ ngài có thể chấm dứt nhiệm kỳ vào cuối năm 1975, nên có ư tạo điều kiện cho LM. Vũ Minh Thái hoàn toàn tự do điều động công cuộc cải tổ.
Theo quyết định trong phiên họp, vào khoảng tháng 6/1975, LM. Vũ Minh Thái sẽ hướng dẫn một phái đoàn đi Hoa Kỳ và các quốc gia Âu Châu, để vận động và tiếp nhận những ngân khoản viện trợ mà các cơ quan, các viện đại học và các giáo phận đă hứa hiến tặng trước đây, để bắt đầu các dự án xây cất và cải tổ chương tŕnh giáo dục.
Theo đó, về tổ chức, Viện sẽ không phát triển thêm
số lượng, nhưng cải tiến phẩm chất, sẽ duy tŕ sĩ số tối đa là khoảng 10.000 sinh viên, như mô h́nh tổ chức của đại học Harvard thời đó.
Với hỗ trợ của một số đại học Hoa Kỳ và Âu Châu, Viện sẽ tiếp nhận một số các giáo sư ngoại quốc từ các nơi này đến giảng dạy. Đồng thời Viện sẽ tuyển thêm một số nhân viên giảng huấn và gởi họ đi tu nghiệp tại các đại học đó, để sau này Viện có một ban giảng huấn có đầy đủ khả năng và có uy tín nhằm hoạch định một chương tŕnh giảng day thích nghi với đà tiến của khoa học kỹ thuật hiện đại.
Về cơ sở, Viện sẽ xây lại toàn bộ. Trước hết là xây một thư viện mới, trong đó có thể chứa đến 2000 sinh viên tham khảo cùng một lúc và trên lầu sẽ có một pḥng để sinh viên cao học và tiến sĩ đệ tŕnh các luận án, có một bục cao dành cho ban giáo khảo, bên dưới có chỗ cho 250 sinh viên tham dự các buổi bảo vệ luận án này.
Tất cả đồ án xây dựng đều do kiến trúc sư Ngô Viết Thụ đảm trách. Riêng đồ án thư viện với đầy đủ chi tiết (working plan) này, KTS. Ngô Viết Thụ đă hoàn tất vào tháng tư năm 1975 và chính người viết đă tŕnh ngân phiếu 500 ngàn đồng cho LM. Viện Trưởng kư[109], trước khi Sài G̣n sụp đổ cuối tháng 4/1975, để trả tiền cho văn pḥng kiến trúc sư v́ biết rằng Viện sẽ không bao giờ sử dụng họa đồ ấy nữa.
4./ Một số sáng kiến cải tiến. Dưới thời LM Viện Trưởng Lê Văn Lư, LM. Vũ Minh Thái là người đă góp phần quan trọng, kiện toàn guồng máy điều hành và cơ cấu tổ chức của Viện. Từ năm 1972, LM. Vũ Minh Thái, với sự chấp thuận của LM. Viện Trưởng đă thực hiện được các công tŕnh như sau:
-Hoàn thành qui chê cho các nhân viên Viện.
-Ấn định h́nh thức, điều kiện và thủ tục để các sinh viên nhận lănh văn bằng tốt nghiệp.
-Chuyển đổi chương tŕnh học tập theo từng chứng chỉ của ban cử nhân theo kiểu cũ của Pháp tại Đại Học Văn Khoa và Đại Học Khoa Học, sang hệ thống tín chỉ (credit) được phân chia đồng đều trong chương tŕnh học bốn năm để lấy văn bằng cử nhân theo lối giáo dục mới của Hoa Kỳ.
-Vận động Bộ Quốc Gia Giáo Dục mở thêm Ban Sư Phạm Trung Học Sắc Tộc tại Phân Khoa Sư Phạm dành cho vùng Cao Nguyên Trung Phần.
-Và sau hết là nghiên cứu xúc tiến chương tŕnh cải cách qui mô và toàn diện như trên.
Nhưng dự án cải tổ này đă ngưng lại, khi toàn bộ Hội Đồng Viện di tản về Sài G̣n vào đầu tháng 4/1975. Khi về Sài G̣n, các LM đă yêu cầu các nhân viên giảng huấn đến làm việc tại văn pḥng cao học Chính Trị Kinh Doanh, ở lầu 2 thương xá Tax, và yêu cầu tất cả các sinh viên đến đăng kư tại văn pḥng này.
Thực ra số nhân viên giảng huấn đi làm việc trở lại cũng hạn chế và không đều đặn, v́ c̣n đối phó với nhiều lo âu và khó khăn cá nhân và gia đ́nh ở các địa phương ḿnh cư ngụ
Sau hai tuần đăng kư, tổng số sinh viên ghi tên đă lên tới 1.000 người. Căn cứ trên danh sách này, cha Vũ Minh Thái đă xin Asia Foundation cho được một ngân khoản. Sau đó, cha và văn pḥng sinh viên vụ đă cấp phát cho mỗi sinh viên 10 ngàn đồng để sinh viên tạm giải quyết các khó khăn khi phải di tản về Sài G̣n. [110]
Nhưng theo hiểu biết của người viết , trước mắt vào năm 1974, Hội Đồng Viện Đại Học Đà Lạt đă có phiên họp đi đến một số quyết định quan trọng:
1. Hợp Thức Xây Dựng Phân Khoa Thần Học: Để phát huy tính năng cơ bản là một Viện Đại Học Công giáo toàn quốc, Viện chấp nhận toàn bộ Chương tŕnh và Ban Giảng Huấn của Giáo Hoàng Học Viện Thánh Piô X là hợp thức để có thể đủ tư cách cấp phát văn bằng Cử Nhân Thần Học, theo danh nghĩa của Phân Khoa Thần Học của Viện Đại Học Đà Lạt
Học viện này có tên là Giáo Hoàng Học Viện Thánh Piô X Đà Lạt (Dalat Pius X Pontificale Collegium. Cơ sở này là một tài sản của Giáo Hội Trung Ương tại Vatican, và thực tế được giao cho Ḍng Tên quản trị.
2. Huấn Luyện Nhân Viên Giảng Huấn:
Các phân khoa của Viện xúc tiến dự án cho nhiều nhân viên giảng huấn c̣n trẻ có nhiều triển vọng đi du học đào tạo tại các nước tiền tiến như Pháp, Anh, Đức, Mỹ, … như các sinh viên Lê Văn Khuê, Nguyễn Văn Ḥa (VK) đi Mỹ; Trần Văn Cảnh (SP), Lê Ngọc Minh (KH) đi Pháp, …Dưới thời Linh Mục Viện Trưởng Lê Văn Lư, sinh viên đầu tiên được cho đi du học tại Mỹ là Phạm Văn Hải, chuyên về Ngữ Học. Sau này anh được mời vào giảng dậy tại Trường Đại Học Georgetown ở Thủ Đô Washington, DC. Khi đó tất cả các sinh viên được gửi đi du học ở nước ngoài đều do học bổng của các cơ quan bên ngoài. Thực tế Viện chưa khủ điều kiện để tài trợ toàn bộ học phí, và các phi tổn liên quan như cư trú và sinh hoạt, bảo hiểm y tế, chuyên chở, … cho nhiều sinh viên.
3. Nâng Cao Kỹ Năng Quản Trị Đại Học
Viện Đại Học Đà Lạt cũng gửi đi tu nghiệp một số nhân viên có triển vọng tham gia guồng máy quản trị xây dựng Viện Đại Học sau này. Cụ thể là Viện cử đi hai người: GS Phạm Thiên Hùng, GS Đỗ Hữu Nghiêm, đi tham dự khóa tu nghiệp về Quản Trị Đại Học trong sáu tháng tại Manila (Asian Institute of Management, Học Viện Quản Trị Á Châu), từ ngày 31/5/1974, do tài trợ của cơ quan Asia Foundation.
Về sau, có thêm Bà Ánh Nguyệt được cử đi tham dự. Bà đă được bổ nhiệm một thời gian ngắn làm Giám Đốc Thư Viện trước khi Sư Huynh Théophane Nguyễn Văn Kế thay thế.
Ngoài ra một số chuẩn bị cho các dự án đă được LM Viện Trưởng dự kiến nhưng chưa đem ra bàn bạc rộng răi và quyết định trong Hội Đồng Viện.
4. Hoàn Thiện Từng Bước Cơ Cấu Tổ Chức Và Nhân Sự.
Một số chức vụ cần thiết của Hội cũng như Viện, đảm nhiệm việc quản trị điều hành hành chánh xử lư thường vụ tổng quát và công tác văn pḥng của Viện, cải thiện một số chức vụ nhân viên giảng huấn, tuyên úy, thư viện, soạn thảo các văn kiện xác định rơ trách nhiệm và quyền hạn các chức vụ quản trị khác. Dưới thời LM Simon Nguyễn Văn Lập làm Viện Trưởng, trên Thẻ Sinh Viên của sinh viên Nguyễn Thị Phấn Hoa KD7, Năm Nhập Môn CTKD, c̣n chữ kư của Tổng Thư Kư Trần Quang Diệu kư TL Viện Trưởng ngày 30 tháng 12 năm 1969 tại Đà Lạt[111]. Phải chăng, chức vụ Tổng Thư Kư này của Viện Đại Học Đà Lạt gắn liền với sự chấm dứt nhiệm kỳ của Linh Mục Viện Trưởng Nguyễn Văn Lập? Khi người viết được liên Bộ Giáo Dục và Quốc Pḥng biệt phái đến làm việc tại Viện vào cuối năm 1971, th́ không thấy c̣n chức vụ này[112]
5. Kiến thiết Cư Xá Nhân Viên.
Song song với kế hoạch đó, việc mở rộng cơ sở của Viện Đại Học Đà Lạt tại Khu C đă được tiến hành, sơ khởi dành cho các nhân viên giảng huấn. Đă có gia đ́nh GS Nguyễn Hồng Giáp, và GS Phụ Khảo Nguyễn Thanh Châu t́nh nguyện ra dọn về cư ngụ tại khu này từ 1973. Hiện nay dưới chế độ mới, GS Nguyễn Thanh Châu - Quảng Hoa vẫn được tái tuyển dụng giảng dậy trong Viện Đại Học và đang cư ngụ tại cư xá nhân viên giảng huấn khu C. Được biết GS Nguyễn Thanh Châu là con trai của một liệt sĩ kháng chiến chống Pháp.
6. Dự Án Xây Dựng Phân Khoa Mới
Viện Đại Học quyết định dự án vận động nhân sự và tài chính để thiết lập thêm trường Đại Học Y Khoa. LM Viện Trưởng Lê Văn Lư với GS phụ tá hành chánh tháp tùng, đă có dự tính vào kỳ nghỉ hè năm 1975, sẽ du hành vận động tài chính và nhân sự tại ít nhất ba nơi là Pháp, Đức và Mỹ, cho kế hoạch thiết lập Trường Đại Học Y Khoa Đà Lạt cho vùng Cao Nguyên. Việc chuẩn bị một khu đất nền rộng lớn đă được san bằng sẵn ở một sườn đồi Khu A quay về hướng bắc, gần phía Trung Tâm Nguyên Tử Lực Cuộc Đà Lạt. Yểm trợ cho hoạt động xây dựng này, Viện Đại Học không thể thiếu được sự hợp tác tích cực quí báu của anh em Công Binh Đà Lạt Tuyên Đức do Thiếu Tá Nguyễn Văn Huấn (nay ở San Diego, Calif.) làm Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn công binh đóng tại Tam Bố ở quận Đức Trọng.
7. Mở Rộng Hợp Tác Và Phát Huy Tính Năng Viện Đại Học Cao Nguyên
VĐHĐL cũng xúc tiến xây dựng quan hệ hợp tác với nhiều cơ sở giáo dục nghiên cứu trong cũng như ngoài nước dự án phát huy thế mạnh của một Viện Đại Học vùng Cao nguyên về nhiều phương diện, như ngữ học, dân tộc học, và khảo cổ học, lâm khoáng sản và thủy điện nơi cộng đồng dân tộc ít người ở Cao Nguyên Miền Trung Việt Nam:
- Với Viện Đại Học Honolulu cụ thể qua giáo sư Wilhem Solheim II[113] (khảo cổ Cao Nguyên)
- Với Viện Chuyên Khảo Ngữ Học Mùa Hè[114] của Đại Học North Dakota qua Tiến Sĩ David Thomas, mà LM Lê văn Lư đă có quan hệ từ rất sớm (1957) khi ngài c̣n dậy ở Tiểu chủng viện Piô XII, Ngă Sáu Chợ Lớn. Dự án này thành h́nh, Viện Đại Học Đà Lạt c̣n có thể trở nên một Trung Tâm Nghiên Cứu Đa-Liên Ngành và Học Tập Đặc Trưng về các vấn đề nhân chủng, xă hội và thiên nhiên của cộng đồng các dân tộc ít người ở Cao Nguyên Miền Trung Việt Nam.
Được biết từ cuối niên khóa 1960-61, Ban Điều Hành đầu tiên của Viện Đại Học Đà Lạt đă muốn thi hành dự án lập các Phân Khoa Kỹ Thuật lúc đó chưa có trong các Viện Đại Học Quốc Gia. Viện đă dự tính thiết lập Trường Nhân Viên Ngoại Giao (School for Diplomatic Agents[115]) tại Viện vào năm học 1962-63. Nhưng t́nh h́nh sau đó đă không cho phép.
8. Thành Lập Hội Thân Hữu Thụ Nhân, qui tụ Giáo Sư và Cựu Sinh Viên Viện Đại Học Đà Lạt. Một dự án bắt đầu được xúc tiến thi hành khẩn trương từ niên khóa 1975-76. Nhưng thời cuộc đă xóa hết bàn cờ xă hội của đất nước.
PHẦN III: KHỐI HỌC VỤ: CÁC PHÂN KHOA
Trong Viện Đại Học, các cơ quan, đơn vị giảng huấn như phân khoa, trường và Thư Viện và cơ quan nghiên cứu, pḥng thí nghiệm trong khối học vụ có tầm quan trọng riêng biệt. Lần lượt chúng ta sẽ phân tích quá tŕnh phát triển của từng bộ phận này xuất hiện theo thời gian.
Chương Mười Một: Trường Sư Phạm
1. Ban Điều Hành
Linh Mục Viện Trưởng ở thời gian ban đầu (1958-1965) trực tiếp điều hành tổng quát Trường Sư Phạm với tư cách Khoa Trưởng. Người tham gia công tác điều hành và giáng dậy ban đầu cùng với LM Viện trưởng là Sư Huynh Pierre Trần Văn Nghiêm, B.A. về Văn Chương (1965-1967). Tiếp theo sau đó là Linh Mục Vũ Minh Thái, Ph. D. về giáo dục (1967-1975), với LM Mai Văn Hùng, OP, Tiến Sĩ Triết học, làm Phó Khoa Trưởng.
Trong Ban Điều Hành từ 1972-73 về sau, có hai GS Trần Văn Cảnh, GS Trần Văn Mầu (Phụ Khảo) với ông Nguyễn Hữu Thu làm Thư Kư. Điều đáng chú ư là Trường Sư Phạm xây dựng một Hội Đồng Khoa thường xuyên với Lm Vũ Minh Thái làm CT, GS Nguyễn Đ́nh Hoan, PCT và GS Trần Văn Mầu làm thư kư. Ba Ủy viên là SH Nguyễn Văn Kế, Nguyễn Văn Trí và LM Nguyễn Hữu Trọng. Hầu hết những nhân viên giảng huấn này đều ít nhiều có liên quan đến Ḍng La San, chuyên về giáo dục thanh thiếu niên trong các trường học Công giáo.
2. Sinh hoạt chuẩn bị
Trong thời gian ban đầu, Trường Sư Phạm hướng dẫn tráng niên chưa có cơ hội thi lấy văn bằng Tú Tài nhằm hướng dẫn họ theo một giáo tŕnh kỹ thuật[116]. Nhưng chí có 30 người ghi danh học[117], một sĩ số khiêm tốn, và một phân nửa đă bỏ dở nừa chừng. Do đó từ niên khóa 1958-1959, Viện thu nhận các sinh viên đă tốt nghiệp trung học có văn bằng Tú Tài Toàn Phần, nếu muốn theo học các ngành phân khoa đại học.
SH Théophane cũng có thời gian tham gia giảng dậy lớp Sư Phạm Giáo Lư cho một số nữ tu và giáo dân làm giáo lư viên. SH Gérard là người trực tiếp chịu trách nhiệm tổ chức lớp GLSP này. Đây không phải là một phân khoa của Viện Đại Học nhưng được Viện bảo trợ. Trong số các vị phụ trách giảng dậy cho lớp sư phạm giáo lư đó, có LM Nguyễn Thế Thuấn DCCT, Nguyễn Văn Ḥa, gốc địa phận Hà Nội (sau làm GM Nha Trang). Trong lúc đó, ngoài việc tham gia lớp SPGL đó, SH Théophane c̣n hướng dẫn về tu đức và cầu nguyện cho các nữ tu tại Tu viện Mến Thánh Giá Hà Nội ở khu suối Cam Ly.
Biểu Đồ 10. Số Liệu Về Thành Quả Trường Sư Phạm, 1958-1973[118]
Niên Khóa |
Sinh Viên |
|
Ghi danh |
Tốt nghiệp Cử Nhân |
|
(1) |
(2) |
(3) |
1958-59 |
49 |
00 |
1959-60 |
109 |
00 |
1960-61 |
163 |
44 |
1961-62 |
177 |
53 |
1962-63 |
140 |
58 |
1963-64 |
112 |
58 |
1964-65 |
051 |
51 |
1965-66 |
000 |
00 |
1966-67 |
109 |
00 |
1967-68 |
183 |
00 |
1968-69 |
120 |
00 |
1969-70 |
250 |
24 |
1970-71 |
336 |
15 |
1971-72 |
543 |
18 |
1972-73 |
565 |
41 |
Tổng Cộng |
2805 |
362 |
Chú thích: 1/ Những sinh viên lớp tốt nghiệp đầu tiên chỉ học có ba niên khóa. 2/Từ 1958-1965, Trường Sư Phạm có giảng dậy theo hợp đồng với Bộ giáo dục năm khóa liên tục được 264 giáo sư trung học. Như thế sang niên khóa tiếp (1965-66) đă không có sinh viên nào ghi danh. Do đó bốn năm liền sau khóa đó không có sinh viên nào tốt nghiệp. 3/Bảng thống kê này không tính số sinh viên và môn học niên khóa 1957-58 |
Hoạt Động Đại Học Sư Phạm Chính Thức
Giai đoạn 1958-65
Viện Đại Học Đà Lạt cũng triển khai hoạt động hợp đồng với Bộ quốc gia giáo dục[119] để giảng dậy hai lớp sư phạm Triết học và Pháp Văn theo học trong ba năm. Mỗi lớp trung b́nh có chừng ba mươi sinh viên đều do BGD tuyển dụng. Các sinh viên được BGD cấp học bổng là 1.500 đồng/tháng. Trong suốt 5 khóa học th́ tổng cộng có 264 sinh viên tốt nghiệp trở thành Giáo sư THĐ2C[120], giảng dậy tại các trường công lập trên toàn quốc.
Sư Huynh (SH, Frère) Pierre Trần Văn Nghiêm, người góp phần sáng lập Phân Khoa Sư Phạm và cũng là Giám Đốc Đại Học xá nam sinh viên ngay lúc ban đầu. Sư Huynh Trần Văn Nghiêm sau này (BA về Văn Chương, 65-67) giảng dậy về Tâm Lư Sư Phạm trong khi giữ nhiệm vụ Khoa Trưởng có chú ư đến một tính cách tân kỳ[121] của Trường Sư Phạm Đà Lạt.
Sư Phạm được quan niệm là một thực năng riêng biệt với văn bằng, v́ văn bằng cử nhân sư phạm chỉ được cấp cho những sinh viên nào có ít nhất ba trong bốn chứng chỉ đ̣i hỏi cho văn bằng Cử Nhân Văn Khoa hay Khoa Học. Bốn năm học về tâm lư sư phạm chỉ cấp chứng chỉ sư phạm, chứ không phải văn bằng Cử Nhân. Những sinh viên nào học trọn khóa chuyên môn, th́ chỉ được cấp văn bằng Cử Nhân chuyên môn đó (Văn Khoa hay Khoa Học). Nhưng trọn khóa chuyên môn với chứng chỉ sư phạm th́ được cấp hai văn bằng cử nhân chuyên môn và cử nhân sư phạm. Các Trường Cao Đẳng Quốc Gia ở Huế, Sàig̣n và Cần Thơ chỉ cấp Văn Bằng Cử Nhân Chuyên môn và chứng chỉ Sư Phạm.
Chương tŕnh tâm lư sư phạm được phân bố trong bốn năm sư phạm là: Tâm lư học đại cương, Tâm lư ứng dụng; Tâm lư thiếu nhi và thanh niên; Khoa sư phạm thực nghiệm; Phương pháp trắc nghiệm, Phân tâm học, Nhi bệnh học; Phương pháp hoạt động; Lịch sử giáo dục, Tính t́nh học, Xă hội học thiếu nhi.
Theo sư huynh P. Trần Văn Nghiêm, sau năm 1975, các sinh viên đến Mỹ định cư, có Văn Bằng Cử Nhân Sư Phạm Đà Lạt được chấp nhận có năng lực tương đương với BA hay BS trong hệ thống giáo dục Mỹ, trong khi từ khước tính cách tương đương đó với các chứng chỉ sư phạm của nhà nước VNCH trước kia!
SH Théophane Nguyễn Văn Kế[122] và SH Mai Tâm là hai vị khác trong số các giáo sư tiên khởi của Trường Sư Phạm. SH Théophane cộng tác với Trường Sư Phạm từ năm 1962, phụ trách giảng dậy các bộ môn: Lịch sử Giáo Dục, Tâm Lư Xă Hội bên Trường Sư Phạm, và sau này Nhiệm Vụ Học[123].SH Théophane coi dậy học là một sứ mệnh ông được mời gọi tham gia. Ông rất hăng say v́ sự nghiệp giáo dục, như dọn bài giảng kỹ lưỡng, in giáo tŕnh thành từng tập, mà sinh viên có thể mua dễ dàng ở cơ sở ấn loát của viện. Các sinh viên theo học với SH Théophane không thể không biết đến giáo tŕnh kể trên, nhưng họ ưa chuộng tập “Giáo Dục T́nh Yêu” hơn cả
Niên học 1960-61, lớp Pháp Văn năm thứ ba của Trường Đại Học Sư Phạm có lẽ cả lớp gồm 18 sinh viên, trong đó có 8 nữ, c̣n để lại tấm h́nh chụp chung với giáo sư hướng dẫn lớp là một người Pháp. Lễ tốt nghiệp lớp này được tổ chức ngày 23/3/1961. Bảy sinh viên xuất sắc nhận được phần thưởng đặc biệt của nhà trường. Văn bằng tốt nghiệp được cấp phát ngày 29/3/1961 do Bộ Trưởng Bộ Giáo Dục Trần Hữu Thế kư ngày 29/3/1971, sau khi LM Viện Trưởng Trần Văn Thiện đă kư hôm trước. Năm thứ ba có 24 sinh viên Sư Phạm Ban Triết niên khóa 1960-61 lưu lại một tấm h́nh, trong đó chỉ có hai nữ sinh viên. Những h́nh ảnh này là chứng liệu cho thấy lớp học này đă thực sự diễn ra từ năm 1958 đến 1961.
Các sinh viên sư phạm ở giai đoạn ban đầu này được nhà nước tuyển mộ và khi tốt nghiệp sẽ được nhà nước bổ dụng.
Giai đoạn 1965-1967
Trường Sư Phạm đào tạo Giáo Sư giảng dậy trong các trường tư thục. Chính thời gian này, Bộ GD đă cho phép Trung Tâm Sư Phạm Đà Lạt chính thức trở thành một Trường Đại Học Sư Phạm đúng nghĩa theo Giấy Phép số 7166/GD/PC1, kư ngày 26/9/1967.
Giai đoạn 1967-1975
Trường Sư Phạm do LM Vũ Minh Thái, Ph.D. in Education, Hoa Kỳ, làm khoa trưởng. Trường Sư phạm được thiết lập sớm nhất cùng với Trường Văn Khoa, trong hợp đồng giàng dậy Triết học và Pháp văn với Bộ Giáo Dục.
Trường Sư Phạm có dự án mở rộng chuyên môn sang hai phạm vi giáo dục tổng quát ngành Quản Trị Kinh Doanh và Chánh Trị Xă Hội, đồng thời thiết lập thêm Ban Sư Phạm Âm Nhạc. Từ năm 1967, Trường Đại Học Sư Phạm chính thức được tổ chức theo đúng chức năng qui định về học chế bốn năm cho văn bằng Cử Nhân Sư Phạm. Trường Sư Phạm chuyên giảng dậy về chuyên môn sư phạm nhưng dần dần kết hợp với ba Trường Văn Khoa, Khoa Học và Chánh Trị Kinh Doành về nội dung chuyên ngành giảng dậy.
Thực tế có nhiều ban thuộc các Trường Văn Khoa (Triết, Việt, Sử, Địa, Pháp, Anh) và Khoa Học (Lư, Hóa). Bộ Giáo Dục chấp nhận hợp thức hóa Trường Đại Học Sư Phạm Đà Lạt và cho phép cấp văn bằng Cử Nhân Sư Phạm theo Nghị định số 2675/GD/PCHV/NĐ, kư ngày 24/12/1969. Trường Đại Học Sư Phạm Đà Lạt mở rộng hoạt động mở mang dân trí cho cộng đồng dân tộc ít người, nên BGD cho Phép Trường được mở khóa huấn luyện cấp tốc cho 100 Giáo Sư Trung Học Đệ Nhất Cấp sắc tộc mỗi năm theo nghị định kư ngày 15/11/1972, mang số 2684/VHGDTN/NGV/NĐ. Khóa huấn luyện cho người dân tộc thiếu số được thực hiện từ năm 1973-74 về sau[124].
Chương Mười Hai: Trường Văn Khoa
1. Ban Điều Hành
Phân khoa Văn Khoa, cũng như Sư Phạm, do LM Viện trưởng nắm quyền điều hành tổng quát trong giai đoạn đầu tiên (1958-1965), có Sư Huynh Pierre Trần Văn Nghiêm tham gia điều hành và giảng dậy đầu tiên. Khóa đầu c̣n là hai năm dự bị đại học. Về sau, Linh Mục Lê Văn Lư làm Khoa Trưởng Trường Văn Khoa (1966-70) rồi làm Phó Viện Trưởng.
Ở những năm 1970-1975, khi LM Lê Văn Lư làm Viện Trưởng có đề xuất Linh Mục Lê Tôn Nghiêm, Tiến Sĩ Triết Học, làm Khoa Trưởng, nhưng ngài từ chối. LM Trần Thái Đỉnh, Tiến Sĩ Triết Học ở Institut Catholique de Paris, nhận làm Khoa Trưởng nhưng chỉ trên danh nghĩa (1970-72).
Trong thực tế, về sau GS Nguyễn Khắc Dương, Cử Nhân Văn Chương (Sorbonne), được đề bạt làm Phó Khoa Trưởng, nắm Quyền khoa trưởng (1972-75), và tiếp sau có GS Nguyễn Hồng Giáp, Tiến sĩ Lịch Sử Kinh tế, làm Phó Khoa Trưởng (1973-75).
2. Ban Giảng Huấn
Ban Điều hành nói trên có sự cộng tác trực tiếp của một số GS Phụ Khảo như Nguyễn Thanh Châu, Trịnh Nhất Định, Nguyễn Văn Ḥa, Hoàng Thái Linh, Phạm Duy Lực, Nguyễn Trung Thiếu, Trần Ngọc Cường, Phạm Văn Hải, Lê Văn Khuê. Văn pḥng Trường Văn Khoa có ông Phan Văn Thịnh làm thư kư hành chánh. Hội đồng Khoa của Trường Văn Khoa, gồm những nhân viên giảng huấn chủ chốt:
GS Nguyễn Khắc Dương, Quyền Khoa Trưởng, kiêm Trưởng Ban Triết
GS Nguyễn Hồng Giáp, PKT
GS Vũ Khắc Khoan, Trưởng Ban Việt Văn
LM Nguyễn Ḥa Nhă, TB Sử Địa
GS Lê Văn, TB Anh Văn
LM J.Maïs, TB Pháp Văn
Càng ngày càng cần có thêm nhiều giáo sư thỉnh giảng tử Sàig̣n và nhiều nơi khác đến, như LM Nguyễn Việt Anh, Tiến sĩ Văn Chương Anh Đại Học Thụy Sĩ, LM Hoàng Kim Đạt, Tiến Sĩ Văn Chương, LM Vũ Đ́nh Trác, Bác Sĩ Triết học Đài Loan, Lương Kim Định, Tiến Sĩ Triết Học Paris, các GS Lê Hữu Mục, Vũ Khắc Khoan, Nguyễn Thế Anh, Hoàng Khắc Thành, Phạm Cao Dương học giả Cao Hữu Hoành, Lê Thọ Xuân, Trần Trọng San,…
Theo số lượng, Trường Văn Khoa mời nhiều Giáo Sư thỉnh giảng đông đảo thứ hai (gần 70 giáo sư, không kể nhân viên giảng huấn cơ hữu) sau trường Chánh Trị Kinh Doanh (gần 84 Giáo sư, không kể nhân viên giảng huấn cơ hữu)
3. T́nh h́nh các Ban Chuyên môn
Trường Văn Khoa lần lượt có các Ban Triết Học, Pháp văn (từ 1958-59), Việt Văn (1962-63), Anh Văn (1965-66), Sử Địa (1966-67). Từ niên khóa 1974-75, Ban Sử Địa được tách thành hai ban Sử Học và Địa Lư riêng biệt. Như thế toàn thể các Ban thuộc Trường Văn Khoa nay trở thành sáu ban.
4. Học chế
Trước kia, theo chế độ chứng chỉ, các sinh viên muốn được văn bằng Cử Nhân, phải trúng tuyển năm Dự Bị, đậu thêm Bốn Chứng Chỉ trong bốn năm.
Từ năm 1969-70, nhà trường chuyển sang hệ thống niên chế. Từ đó sinh viên được cấp văn bằng Cao Đẳng Văn Khoa, nếu trúng tuyển Hai năm đầu tiên, và được cấp Văn bằng Cử Nhân, nếu đậu đủ bốn năm học.
Kể từ năm 1972-73, nhà trường lại cải tiến theo “hệ thống tín chỉ”. Từ niên học 1974-75 sinh viên của tất cả các Ban đều theo học cùng một chương tŕnh cho Năm thứ I. Khi đậu xong năm đầu tiên, sinh viên học theo từng tín chỉ. Chỉ cần đủ số tín chỉ chuyên môn theo qui định, sinh viên được cấp văn bằng Cử Nhân Văn khoa
V́ nhu cầu phát triển, theo đề nghị của Viện Đại Học Đà Lạt, Bộ Giáo Dục cho phép Trường Đại Học Văn Khoa thuộc Viện được cấp thêm bằng cao học, theo nghị định số 1144/GD/KHPC/HV/NĐ, kư ngày 8/6/1971. Như thế, từ năm 1971, nhà trường đă cấp một số văn bằng Cao Học và dự trù năm 1975, phát triển lên cấp văn bằng Tiến Sĩ.
5. Phương Pháp Giảng Dậy
Chủ yếu phương pháp cổ truyền được áp dụng là thuyết giảng trong lớp học. Không có một phương pháp nào thống nhất khác được áp dụng. Một vài giáo sư có tiếp cận với phương pháp điển cứu và hội học theo từng nhóm và có nghiên cứu tập thể trên thực địa nhưng c̣n hạn chế.
Nhà Trường cũng xúc tiên việc lập Hội Sử Học nhưng tất cả chỉ ở giai đoạn thành h́nh ban đầu.
Biểu Đồ 11.Số liệu về Thành Quả Trương Văn Khoa, 1959-73[125]
Niên Khóa |
Sinh viên |
|||
Cấp Cử Nhân |
Cấp Cao Học |
|||
Ghi danh |
Tốt nghiệp |
Ghi danh |
Tốt nghiệp |
|
(1) |
(2) |
(3) |
(4) |
(5) |
1959-60 |
41 |
0 |
|
|
1960-61 |
74 |
0 |
|
|
1961-62 |
158 |
3 |
|
|
1962-63 |
247 |
5 |
|
|
1963-64 |
271 |
6 |
|
|
1964-65 |
295 |
16 |
|
|
1965-66 |
405 |
10 |
|
|
1966-67 |
633 |
23 |
|
|
1967-68 |
952 |
36 |
|
|
1968-69 |
1074 |
67 |
1 |
|
1969-70 |
1277 |
57 |
6 |
|
1970-71 |
1091 |
68 |
17 |
|
1971-72 |
1003 |
24 |
04 |
03 |
1972-73 |
1379 |
43 (K.4/6/73) |
10 |
00 |
Tổng Cộng |
8800 |
363 |
38 |
03 |
Chú thích: 1/ Sinh viên Sư Phạm thưởng học song hành với các khoa khác về phần chuyên môn, nhưng niên khóa 1958-59 không có sinh viên văn khoa. Chắc là v́ năm đầu chỉ học phần chuyên biệt Sư Phạm? 2/ Số 8838 sinh viên ghi danh của hai cột (2)và (4) ở dây không khớp với biểu đồ toàn viện (9870). Cộng lại trên máy là 8144. Như vậy cả hai con số trên hai bảng thồng kê đều sai, vi cộng nhầm. Chúng tôi chưa kiểm tra lại các số liệu khác. |
Vấn đề điều hành Trường Văn Khoa
Theo kư ức của GS Nguyễn Khắc Dương, buổi đầu t́nh h́nh Trường Văn Khoa diễn ra như kể trên. Nhưng rồi cả hai vị có những lư do riêng, đều khước từ, v́ thế GS Nguyễn Khắc Dương, đă được đặt làm Trưởng Ban Triết học, nay được chỉ định làm Quyền Khoa Trưởng, dù chỉ có Văn Bằng Cử Nhân[126].
Những ḍng chữ này cho thấy nhận thức của một Giáo Sư Triết Học, Quyền Khoa trưởng của một người có trách nhiệm gây dựng Trường Văn Khoa suốt một quá tŕnh gần 10 năm trời. V́ muốn hoàn toàn trung thực, xin quí vị độc giả trực tiếp nghe tác giả tự sự. Chắc chắn có nhiều nhận định khác nhau về t́nh h́nh nhiều mặt của Trường Văn Khoa VĐHĐL dưới quyền điều hành của GS Quyền Khoa Trưởng Nguyễn Khắc Dương qua đoạn bút kư này:
“Tôi không phải là Linh mục hay tu sĩ ǵ cả, nhưng tôi sống với cộng đoàn giáo ban tại Đại Học cũng gần như một nhà tu: chỉ lo chu toàn bổn phận chức nghiệp dạy học. Tôi ít lưu tâm đến vấn đề chính trị bên ngoài, trao đổi với anh em đồng nghiệp cũng chỉ ở mặt chuyên môn dạy học và văn hoá mà thôi. Những năm đầu, Đại Học Đà lạt cũng gần như chỉ là chỗ tôi dung thân trong cuộc sống tạm gọi là “lạc bước vào Nam” do sự trật đường rầy trên con đường t́m một dạng thức tu tŕ mà phải bị ném ra giữa cuộc đời thế tục, chứ ḷng tôi chẳng hề dính bén về mặt danh lợi và t́nh duyên. Cuộc sống của tôi có chăng như là một kư túc viên cao cấp: chẳng sắm sửa ǵ chẳng có ư định gây dựng ǵ cả. Ai giao việc ǵ th́ làm việc ấy lương bổng đưa bao nhiêu nhận bấy nhiêu, tiêu bấy nhiêu.”[127]
“Vả lại, tôi cũng có một bảo đảm về tương lai, v́ theo chương tŕnh của Ban Quản trị Hội Đại Học Dalat, th́ thế nào khi tuổi già sức yếu tôi cũng có một bảo đảm về tương lai, có chỗ nương thân, đó là chưa nói có cùng lắm th́ gửi thân cho một tu viện, một giáo xứ nào đó cũng là việc dễ.”[128]
“Chúa đưa đẩy ḿnh vào vị trí ấy có phải là Ư Ngài muốn ḿnh làm một việc nào đó chăng? Trưởng Ban Triết Học, Quyền Khoa Trưởng Văn Khoa trong thực chất có khác ǵ khoa trưởng thực thụ, v́ giữ chức vụ ấy 3 năm của một Viện Đại học Công giáo, th́ không lẽ chỉ làm việc cá nhân, tài tử, phóng khoáng quá mức như vậy được! Đành rằng ngoài những lư do chủ quan đă tŕnh bày trên, thái độ hơi tài tử của tôi cũng có hơi phần nào do t́nh trạng khách quan của Viện Đại Học Đà Lạt.”[129]
Vấn đề thi cử. “Do đó thi cử tôi cho là phản triết học, chỉ là chuyện vạn bất đắc dĩ! Các đề thi của tôi thường chỉ để thăm ḍ “chất triết” nơi thí sinh, hơn là kiểu tra vốn liếng tích tũy, nên tôi thường cho điểm khá rộng. Trái lại, vào khẩu vấn, tôi mang tiếng là xoay rất ác! Thực sự là v́ sinh viên đông, trong niên học ít khi có dịp gặp từng người, nhân dịp khẩu vấn, tôi hỏi cho đến khi biết được mức cao nhất của thí sinh, hầu hết cứ câu cuối là kẹt, nên họ tưởng là sẽ rớt, nhưng vẫn có lúc tôi cho đến 15, 16 trên 20. Tôi nhân dịp khẩu vấn để t́m phát hiện tài năng và tiếp tục góp phần bồi dưỡng họ. Càng ngày tôi càng được các vị trong Hội Đồng Quản Lư Viện Đại Học tín nhiệm… Sở dĩ tôi được giao cho giữ các chức vụ (Trưởng Ban Triết Học Và Quyền Khoa Trưởng Khoa Văn) ấy, mặc dù về bằng cấp tôi chỉ có cái Cử Nhân - là v́ một mặt tôi sống gần như các tu sĩ, tiếp cận các linh [trang 151] mục và tu sĩ; một mặt tôi chỉ là giáo dân, dễ tiếp cận với các giáo sư bên ngoài; cũng có phần v́ tôi được cái tính ôn ḥa, vui vẻ dễ tạo được sự hài ḥa giữa đời sống bạn hữu, thầy tṛ, trên dưới; dễ dàng xếp những vụ đối kháng căng thẳng nội bộ. Do đó trong nội bộ Viện Đại Học Đà Lạt, cũng như trong sự tiếp xúc với các tổ chức khác, như các viện Đại Học Huế, Sài G̣n, với các ḍng, các Đại Chủng Viện có gởi tu sĩ và chủng sinh đến học, tôi thường có sự tới lui giao tiếp hài ḥa, đôi lúc đóng vai tṛ trung gian. Tuy học vị của tôi chẳng có là bao, nhưng dần dần có một vị trí nào đó trong giới Đại Học.”
Phương pháp giảng huấn ở Trường Văn Khoa: một thí dụ
Thiết tưởng, do tính chất của môn học, Trường Văn Khoa có tinh thần khá phóng khoáng. Dường như không có bất cứ một sự thảo luận và thống nhất nào về phương pháp tồng quát được áp dụng cho các giáo sư ở Trường Văn Khoa. Hầu như tính thống nhất lớn nhất là mỗi nguời được quyền áp dụng phương pháp giảng dậy nào mà ḿnh thấy là thích hợp. Phương pháp điển cứu, tham quan, hội học nhóm[130], chương tŕnh “bảo huynh”, sinh hoat thực địa , … có thể là những cách thức học kết hợp với hành có thể vận dụng trong chừng mực thích hợp cho một số bộ môn, như Sử Địa, thậm chí sinh ngữ, … trong Trường Văn Khoa.
Một giáo sư chẳng hạn được mời phụ trách về bộ môn lịch sử Việt Nam Cổ Đại, th́ chỉ cần chú tâm soạn bài giảng trong thế kỷ được qui định là từ thế kỷ thứ mấy đến thế kỷ thứ mấy. Không có bắt buộc phải có bất cứ một giáo tŕnh nào, và một điều kiện qui định nào. Về các bộ môn khác, quyền quyết định của từng giáo sư trong mỗi ban và bộ môn là chính yếu. Trường hợp của GS Nguyễn Khắc Dương là một điển h́nh:
“Tôi dạy học tương đối có kết quả, dần dần được các đồng nghiệp chấp nhận như là đủ tŕnh độ, và được mời đi dạy một số giờ tại Đại Học Sài g̣n và Đại Học Huế. Tôi dạy học tương đối có kết quả, tuy là tận tâm, nhưng hơi [trang 150] “tài tử”. Tự xem ḿnh như là một phụ khảo, một trưởng tràng giúp đỡ anh em sinh viên, chứ không tự coi như là một giáo sư, bởi v́ về học vị tôi mới chỉ có bằng Cử Nhân mà thôi. Đó là lư do khiến tôi không có giáo tŕnh hay cho in sách vở báo chí ǵ cả. Bài giảng cho sinh viên, có ai ghi chép lại mà muốn nhân lên phục vụ anh em cùng lớp, tôi chỉ sửa chữa vài chỗ, rồi tùy ư họ làm ǵ th́ làm.
Giữa hàng ngũ sinh viên, tôi như một người anh cả hơn là một vị giáo sư, do đó tương quan rất gần gũi, thân mật rất đậm t́nh người. Sinh viên vào pḥng tôi trọ đêm, hay là ngược lại, tôi ngủ tại pḥng trọ của họ là thường. Ngoài giờ học thày tṛ quây quần quanh quán phở, cà phê cũng là thường, không tổ chức thường xuyên, nhưng tôi cố gắng thực hiện cái cung cách của con người cùng với anh em trẻ đi t́m Chân Lư, như tôi học được nơi các thày ở Sorbonne, chứ giáo tŕnh của tôi th́ cũng xoàng thôi. Tôi có quan niệm rằng: không có ai dạy triết cho ai, không có ai học triết với ai được cả! Chỉ là kẻ trước người sau trên đường đi t́m triết lư cho ḿnh, do ḿnh; gặp nhau th́ giúp đỡ nhau, khuyến khích nhau, nâng đỡ trao đổi kinh nghiệm với nhau mà thôi”.
Nhận thức về trách nhiệm. “Mặc dầu vậy, nay xét kỹ lại, tôi vẫn thấy tôi không thực sự xem đó như là sứ mạng thực sự của ḿnh, tuy vẫn làm việc hết ḿnh, soạn bài kỹ, giảng dậy tận tâm, trên giao cho việc ǵ, ai cần giúp đỡ ǵ, bất cứ mặt nào, từ việc xin hoăn dịch, cho sinh viên mượn tiền ghi danh, cho đến việc tiếp xúc với chính quyền và giáo quyền, tôi đều làm hết sức lực ḿnh để giúp đỡ và phục vụ; nhưng chiều sâu tâm hồn th́ vẫn thấy lạc lơng. Sự tận tâm vẫn có đối với từng việc đưa đến chứ không tự ḿnh vạch ra một ư đồ, một chương tŕnh kế hoạch nào với tư cách như đó là sự nghiệp đời ḿnh hướng về một mục đích rơ rệt. Do đó, tôi không để lại một công tŕnh nào cả!
Chăm chú từng việc một, có thể nói là gặp ǵ làm nấy, làm hết ḿnh, nhưng xong việc là thôi, rồi sang việc khác, như kẻ phục dịch bảo ǵ làm nấy, chứ không có thái độ tự ḿnh làm việc do ḿnh vạch ra theo một dự kiến duy nhất liên tục nào cả. Tận tụy nhưng tài tử, cần mẫn nhưng lung tung lang tang; lại c̣n cái việc hay lê lết vỉa hè, các quán cà phê, gặp ai cũng chuyện tṛ, cũng ăn cũng uống, cũng ngủ nghỉ, cả ở bến xe, nhà bếp, khách sạn! lân la với đủ hạng người, kể cả cao bồi, hành khất và gái giang hồ, bất chấp mọi quy định thói thường của xă hội.”[131]
“Một vài bạn tri kỷ, tuy không hề nghe tôi tâm sự, cũng thấy ở nơi tôi có một cách ǵ u hoài thao thức. Có một cậu sinh viên, sau khi rời Đà Lạt, viết cho lá thư có câu: “Những lúc thầy giảng dạy hay tṛ chuyện th́ vui vẻ, nhưng những lúc thấy thầy lủi thủi đi một ḿnh, em thấy tâm tư thầy mang nặng một nỗi u buồn thầm kín, nhưng h́nh như sâu thẳm lắm, em vừa thương vừa như kính sợ không dám lại quấy rối”. Quả cậu sinh viên ấy có cặp mắt tinh đời.”[132]
Nhận định tổng quát về Trường Văn Khoa
V́ người viết tuy giảng dậy chính yếu trong Ban Sử Học Trường Văn Khoa, nhưng có một thời gian đảm nhiệm giảng dậy bộ môn “Văn Minh Việt Nam” bên Trường Chính Trị Kinh Doanh, nên theo thiển ư, th́ thực tế điều hành và tổ chức của Trường Chính Trị Kinh Doanh có thể đáng là một kiểu mẫu để các khoa khác quan tâm nghiên cứu phát triển và áp dụng thích ứng trong phân khoa của ḿnh hay các tổ chức thuộc viện
Theo phán đoán của người viết, dù giàu cảm tính nhân bản như một nhà tu hành, khi có trách nhiệm điều hành chính thức một phân khoa đại học như thế, nhân bản với mọi thành phần xă hội, một khoa trưởng cần có những đức tính của một nhà lănh đạo. Ngoài uy tín chuyên môn và giao tế hài ḥa, vị đó nên có nhận thức hành chánh tối thiểu, biết hướng dẫn tổ chức hệ thống văn pḥng hành chánh, t́m kiếm, thuyết phục, qui tụ và đào tạo người cộng sự, Vị đó cần sắp đặt một nếp sinh hoạt qui củ, một chương tŕnh học vấn và thi cử cho tất cả giáo sư và sinh viên thuộc các ban ở trong khoa, một cách nghiêm chỉnh. Ư chí muốn làm việc hết ḿnh là một khởi điểm cần thiết, nhưng c̣n cần biết ư chí đó với việc điều hành cụ thể diễn tiến có hiệu quả thế nào làm thay đổi bộ mặt Trường Văn Khoa về các phương diện giảng huấn, hành chánh, thi cử và tuyển chọn sinh viên từng năm.
Đối với nhân viên giảng huấn, th́ Khoa Trưởng nên nghiêm chỉnh yêu cầu mỗi người nên soạn thảo một giáo tŕnh cơ bản định hướng học tập cho sinh viên. Dựa trên giáo tŕnh đó, sinh viên có thể phát huy các sáng kiến, nghiên cứu mở rộng nhận thức bằng cách đọc các tài liệu sách báo chuyên môn, trao đổi khoa học về vấn đề học tập và có thêm tầm nh́n mới. Chính những vị có trách nhiệm điều hành khoa, nếu nhận dậy học, cũng cần biên soạn một giáo tŕnh để làm chỉ nam cơ bản cho học tập của sinh viên.
Một nỗ lực cải tiến. “Dần dần mảng văn hóa tinh thần và Ban Triết Học mỗi ngày mỗi tiến lên và trong quăng năm 1970-71, th́ tương đối có vị trí đúng chức năng của nó. Nhất là có một tu sĩ và linh mục ḍng có học vị cao, chịu chấp nhận lên cư trú thường xuyên, đứng vào bộ khung chính thức của nhà trường (lúc đó các giáo sư chỉ lên dạy với tư cách là thỉnh giảng. Như vậy việc xây dựng những người t́nh nguyện làm việc với tư cách thường trú, cơ hữu của Viện, nhất là đối với trường Văn Khoa là một nhu cầu thiết thực. Trường Văn Khoa chủ yếu là ban triết mới đi tới chỗ t́m vạch ra một hướng hoạt động đặc thù [trang 157] hợp với chức năng của một Viện Đại Học Công giáo, chứ không phải là cái đuôi “dập dèo” cho khoa CTKD, và đón nhận các sinh viên từ nhiều địa phương, hoặc muốn “du học” xa nhà cho thoải mái, hoặc bị kẹt về mặt nào đó (hoăn dịch, lư do khác như chính trị).
Đồng thời, sau khi Đại Học Đà lạt đào tạo một số sinh viên tốt nghiệp Cử Nhân Văn Khoa có tư cách, có khả năng (trong đó một số thuộc Đại Chủng Viện và nhất là Giáo Hoàng Học Viện Thánh Piô X), có ḷng hăng say học hỏi nghiên cứu, dần dần cái ư thức tạo nên một đường hướng tư tưởng nào đó, một đường lối phục vụ văn hóa tinh thần nào đó, đúng với chức năng của một cơ quan văn hóa của Giáo Hội - được đặt ra.
Giáo sư Quyền Khoa Trưởng Trường Văn Khoa, cùng với một số linh mục thường trú tại Viện, hợp tác với một số chủng sinh có tŕnh độ, một số giáo sư, phụ khảo do chính Trường Đại Học Văn Khoa Đà Lạt đào tạo ra, đi đến chỗ phác họa một chương tŕnh làm việc, với sự cộng tác của ban giáo sư Giáo Hoàng Học Viện và Đại Chủng Viện Đà Lạt[133].
Một lần nữa người viết nhận thấy xu hướng tổ chức và ư thức cùng cách làm việc để đào tạo con người đă diễn ra quá chậm, mặc dù nhân số cùng cộng tác với giáo sư không phải là ít.
Chương Mười Ba: Trường Khoa Học
1. Ban Điều Hành
Các vị sau đây đă tham gia điều hành, với tư cách là Khoa Trưởng Trường Khoa học:
Giáo sư Từ Ngọc Tỉnh, Tiến Sĩ Toán học (1959-65),
GS Vũ Xuân Bằng, Tiến sĩ Vật lư Đệ Tam Cấp (1965-68),
LM Hoàng Quốc Trương, Tiến sĩ Sinh Vật Học (1968-72),
Sau cùng, mới nhất là LM Nguyễn Văn Đời, Tiến Sĩ Khoa Học[134], có LM Nguyễn Hữu Toản, M.S. in Math, làm Phó Khoa Trưởng (1972-75)
Sinh hoạt trong trường Khoa Học chỉ diễn ra một cách âm thầm không xúc tiến những sáng tạo phát minh có giá trị hay thực hiện những công tŕnh khởi sắc độc đáo hợp tác với cơ quan hay trường khoa học nào khác, trong hay ngoài nước, cho vùng Cao Nguyên
Trường Khoa Học có một số nhân viên cơ hữu, thường là các giáo sư giảng nghiệm trưởng Nguyễn Bào và Phan Nam, các GS giảng nghiệm viên, như Nguyễn thị Quảng Hoa, Trịnh Thị Toàn Hạnh, Lê Ngọc Minh, Nguyễn Thị Phú, với ông Nguyễn Văn Đẩu làm Thư Kư văn pḥng.
Đặc biệt Ban Điều hành chỉ định hai GS giảng nghiệm trưởng Nguyễn Bào và Phan Nam sắp xếp các chương tŕnh giảng dậy, nghiên cứu những vấn đề học vụ phân khoa, hướng dẫn các thắc mắc về học vu, chọn ban học và những vấn đề cá nhân.
Hội đồng khoa làm việc, ngoài hai vị Linh Mục Chánh, Phó Khoa Trưởng, c̣n có LM Hoàng Quốc Trương, Trưởng Ban Động Vật, GS Chu Phạm Ngọc Sơn, GS Cao Xuân Chuân, TB Vật Lư, GS Lê Công Kiệt, TB Thực Vật, với l giảng nghiệm viên được đề cử và 1 đại diện sinh viên khoa học do Ban Đại Diên đề cử. Thành phần đại diện này dường như hợp t́nh và hợp lư nhất, v́ gồm đủ những bộ phận liên hệ tham gia.
Phần khá đông là các giáo sư được mời từ Sàig̣n lên, như Chu Phạm Ngọc Sơn, Cao Xuân Chuân, Dược sĩ Bùi Thị Tiếng, Ph.D in Chemistry, …Số giáo sư thỉnh giảng từ Sài g̣n lên có tới khoảng 48 người.
2. T́nh H́nh Phát Triển
Trường Khoa học bắt đầu ra đời theo học chế Chứng Chỉ, có 37 sinh viên theo ngành MGP, niên khóa 1959-60. Trường chỉ chuyển sang Hệ thống Tín Chỉ vào năm học 1973-74. Các chỉ dẫn về chế độ tín chỉ theo học tŕnh mới khá rơ ràng và tỉ mỉ, giúp đoc giả sinh viên nắm được những ǵ phải học và những ǵ đă học trong tiến tŕnh tương đương chuyển từ hệ thống cũ sang hệ thống mới. Số sinh viên ghi danh có khoảng 800 người. Họ theo học ở các giảng đường Minh Thành, Tri Nhất và Đạt Nhân. Trường Khoa Học trang bị và quản lư sáu Pḥng Thí nghiệm và một số máy móc về Địa Chất, Động Vật, Thực Vật, Sinh Học, Vật Lư và Hóa Học.
Trường nhằm mục đích đào tạo các Chuyên gia khoa học, làm việc hoặc trong các pḥng thí nghiệm hay giảng dậy khoa học trong các trường Trung Học, và có dự tính tham gia nghiên cứu khoa học thực địa mở rộng trong vùng Cao nguyên, gắn bó nghiên cứu khoa học với môi trường thiên nhiên và xă hội.
Từ khi thành lập cho đến 1975, nhà trường vẫn chỉ duy tŕ cấp Cử Nhân Khoa Học về các ban Vật Lư, Hóa Học và Vạn Vật.
Biểu Đồ 12. Thành Quả Trường Khoa Học, Niên Khóa 1958-73
Cấp Cử Nhân
Niên Khóa |
Sinh viên khoa học |
||
Chứng Chỉ |
Ghi danh |
Tốt nghiệp |
|
(1) |
(2) |
(3) |
(4) |
1959-60 |
1 |
37 |
|
1960-61 |
2 |
79 |
|
1961-62 |
3 |
91 |
|
1962-63 |
4 |
72 |
|
1963-64 |
3 |
61 |
|
1964-65 |
3 |
94 |
|
1965-66 |
4 |
112 |
|
1966-67 |
5 |
149 |
|
1967-68 |
8 |
253 |
|
1968-69 |
10 |
400 |
|
1969-70 |
10 |
434 |
|
1970-71 |
15 |
685 |
20 |
1971-72 |
18 |
751 |
19 |
1972-73 |
19 |
767 |
07 (K.4/6/1973) |
Tổng Cộng |
105 |
3985 |
46 |
Chú thích: Trường Khoa học là trường có sĩ số sinh viên tốt nghiệp thật khiêm tốn, và âm thầm |
Ban Điều Hành
Người có sáng kiến tổ chức qui tụ người sáng lập ra Trường Chánh Trị Kinh Doanh phải kể đầu tiên là LM Viện Trưởng Nguyễn Văn Lập. Nhưng người đóng góp nhiều công sức tiên phong thực hiện dự án xây dựng Trường Chánh Trị Kinh Doanh là GS Trần Long (MA in Ecomomics & Public Finance). Ông là người nắm giữ chức vụ khoa Trưởng đầu tiên từ 1964 đến 1970. Nghị định số 1000/GDTN/PCHV/NĐ ngày 13/5/1969 của Bộ Văn Hóa Giáo Dục và Thanh Niên ấn định việc tổ chức giảng dậy và lề lối thi cử của bậc Cử Nhân Trường CTKD đă hợp thức Lớp Cử Nhân CTKD đầu tiên về sau.
Niên học 1967-68, khi Lớp Cử Nhân KD1 tốt nghiệp sau năm thứ tư, th́ có nhu cầu mở Ban Cao Học Hai Năm nữa. V́ thế GS Nguyễn Cao Hách, Thạc Sĩ Khoa Học Kinh Tế được cử nhiệm làm Khoa Trưởng Ban Cao học CTKD, điều hành cơ sở CTKD ở Sàig̣n từ năm 1969-72. Nghị Định số 2189/GDTN/PC/NĐ kư ngày 27/12/1968, ấn định qui chế Cao Học Hai Năm cho Trường CTKD.
GS Phó Bá Long, (MBA Harvard, 1956) năm 1971 làm Khoa Trưởng kế vị GS Trần Long tạị Đà Lạt, và kiêm Khoa Trưởng Ban Cao Học CTKD tại Sàig̣n sau năm1972.
GS Ngô Đ́nh Long, MS in Electrical Engineering, làm Phó Khoa Trưởng (1964-1973). Khi GS Ngô Đ́nh Long đưởc cử nhiệm Giám Đốc Sinh Viên Vụ, th́ GS Tạ Tất Thắng làm Phó Khoa Trưởng CTKD (1973-1975) thay thế.
Ban Cao Học của Trường Chánh Trị Kinh Doanh tại Sàig̣n.
Khi Khóa 1 của Trường CTKD sắp tốt nghiệp sau năm Sưu Khảo, trường CTKD tiên liệu các bước chuẩn bị thu nạp các sinh viên tốt nghiệp Cử Nhân CTKD và nhiều thành phần tốt nghiệp đại học khác đang hoạt động tại Sàig̣n và vùng chung quanh.
Ngày 11/12/1967 Trường CTKD xúc tiến mở Ban Báo Chí tại ngay trụ sở cơ quan Việt Tấn Xă ở số 118 đường Hồng Thập Tự Sàig̣n. Nhờ thế sinh viên tốt nghiệp khóa 1 CTKD được chuẩn bị để sẵn sàng ghi danh vào Ban Cao Học khi đó ở lầu 2 trường Taberd và lầu 2 toà nhà Thư Quán Xuân Thu trên đường Tự Do Sàig̣n. Lớp Cao Học CTKD được khai giảng ngày 11/1/1969. Đến cuối năm học 1972-73, cơ sở này mới di chuyển sang lầu 2 Thương xá Tax cho đến ngày 30/4/1975
Biểu Đồ 13. Tổ Chức Ban Điều Hành Trường CTKD
Ban Điều Hành |
||||||||
|
|
Khoa Trưởng |
|
|
||||
|
|
Phó Khoa Trưởng |
|
|
||||
|
|
G.S.Phụ Trách |
|
|
||||
Cấp Cử Nhân |
Nhập Môn |
Khái Luận |
Nhiệm Ư |
Sưu Khảo |
||||
CTXH |
QTKD |
CTXH |
QTKD |
CTXH |
QTKD |
CTXH |
QTKD |
|
Cấp Cao Học |
Cao Học 1 |
|
Cao Học 2 |
|
||||
CTXH |
QTKD |
CTXH |
QTKD |
|||||
Chú Thích: Giáo Sư Phụ Trách là những “Giáo Sư Cơ Hữu “ do Trường tuyển dụn, và được đặt dưới sự điều động của Phó Khoa Trưởng, lo điều hành học vụ cho năm liên hệ. |
||||||||
Chuẩn Bị Thành Lập.
Trường Chánh Trị Kinh Doanh, vào giai đoạn cuối cùng 1971-1975, do GS Phó Bá Long, MBA, làm Khoa Trưởng. Trường CTKD là một sáng kiến đặc biệt có dự tính cẩn thận từ lâu cho dù có nhiều thứ khó khăn. LM Viện Trưởng Nguyễn Văn Lập đă thảo luận kế hoạch chặt chẽ và phân công trách nhiệm với nhiều chuyên gia quản trị và kinh doanh du học một phần từ Hoa Kỳ, một phần từ Pháp. Các giáo sư như Trần Long, GS Phó Bá Long[135], và sau này GS Ngô Đ́nh Long đóng một vai tṛ cốt cán trong việc xây dụng củng cố Trường CTKD. GS Lê Hữu Mục trong bài tưởng niệm LM Nguyễn Văn Lập có nói đến sự kiện “tam long tề phi”[136] này, một cách dí dóm nhưng đầy ư nghĩa với tâm t́nh cảm phục…. Trường CTKD bắt đầu nhận sinh viên từ niên khóa 1964-1965. Trường Chánh Trị Kinh Doanh (CTKD) là một phân khoa đại học độc đáo đầu tiên mở ra con đường nghề nghiệp trong lănh vực chánh trị và kinh doanh cho thanh niên nam nữ Việt Nam. Trường CTKD cũng là một định chế giáo dục cao cấp đầu tiên ở Việt Nam áp dụng phương pháp điển cứu và nhóm khảo luận[137]. Thành phần ban đầu xây dựng Trường CTKD
Những cuộc gặp gỡ thảo luận tại Sài g̣n.
Các giáo sư theo thư mời của LM Viện Trưởng Nguyễn Văn Lập đến họp mặt tại căn nhà riêng của GS Bùi Xuân Bào ở chung cư Hồng Thập Tự. Cuộc họp diễn ra trong khoảng vài giờ gồm có các ông Bùi Xuân Bào, đại diện LM Viện Trưởng, và các ông Trần Long, Phó Bá Long, và Vũ Quốc Thúc.
Ông Trần Long có một vai tṛ đặc biệt với LM Nguyễn Văn Lập. Ông đă biết ông Bùi Xuân Bào từ 1950 khi hai ông c̣n là sinh viên tại Paris, và sau đó Ông Bào tốt nghiệp Cử Nhân Văn Chương Đại Học Sorbonne. Ông Trần Long đi du học tại Mỹ, quen biết sinh viên Phó Bá Long trong một cuộc họp mặt hè ba ngày năm 1964 tại Chicago của Hội Sinh Viên Công Giáo Việt Nam tại Bắc Mỹ. Hai sinh viên tiếp tục thay nhau làm Chủ Tịch Hội này[138]. Sau một thời gian, Phó Bá Long[139] về nước và năm 1964 đang làm một trong các Giám Đốc của Hăng Esso Standard Eastern ở Sàig̣n. Như thế phải chăng sinh viên Phó Bá Long đă đỗ xong Cao Học QTKD và trở về nước đi làm th́ không có thời giờ để làm Chủ Tịch Hội Sinh viên Công Giáo năm 1964 kế tiếp sinh viên Trần Long (?)[140]. GS Ngô Đ́nh Long[141] làm Giám Đốc Nguyên tử lực cuộc Đà Lạt được mời cộng tác
Ông Trần Long quen biết ông Vũ Quốc Thúc từ năm 1956, khi ông này làm Thống Đốc Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam. Ở vai tṛ chủ biên Tuần San Times of Vietnam, ông Trần Long đến phỏng vấn ông Vũ Quốc Thúc để viết bài tường tŕnh về Ngân Hàng. Từ đó họ trở nên bạn hữu. Vào năm 1964, th́ Ông Vũ quốc Thúc đảm nhiệm chức vụ Giáo Sư Khoa Trưởng Trường Đại Học Luật Khoa Sàig̣n.
Nội dung cuộc họp thảo luận về điều kiện khả thi của phân khoa Chánh trị, Kinh tế và Kinh doanh cho VĐHĐL ở cách Sàig̣n ba trăm cây số.
Giấy chấp thuận cho mở Trường của Bộ Quốc Gia Giáo dục.
1. Bối cảnh xă hội. T́nh h́nh chính trị không thuận lợi cho việc mở trường, v́ Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm là một tín đồ Công giáo, vừa bị sát hại ngày 2/11/1963 tại Sàig̣n, trong lúc đang có cao trào thống nhất Phật Giáo, mà GS Bùi Tường Huân là một thành viên của phong trào, đang làm Bộ Trưởng Giáo Dục. Tướng Nguyễn Khánh, một thành viên khác của phong trào, vừa lật đổ Tam đầu chế Minh-Kim-Đôn tháng 1/1964, nhưng lập tức chính quyền Nguyễn Khánh gặp phải nhiều áp lực, nhất là sinh viên xuống đường đ̣i hỏi một chính phủ dân sự và quyền tự do đối lập.
Sau một thời gian sôi bỏng có nhiều khác biệt không thể giải quyết ổn thỏa, Phó Thủ Tướng Nguyễn Tôn Hoàn, Phụ Trách B́nh Định, rút khỏi chính phủ Nguyễn Khánh vào tháng 5 năm 1964. Đa số các đảng viên Đại Việt cũng ra khỏi chính quyền theo ông. Lúc đó Ông Trần Long đang là một sĩ quan trừ bị cấp thấp được biệt phái làm việc tại Văn pḥng Phó Thủ Tướng, cũng rút lui. Ông được biệt phái sang Bộ Giáo Dục, rồi được đặc phái tiếp sang Viện Đại Học Công Giáo Đà Lạt với công tác thành lập phân khoa mới. Tướng Nguyễn Khánh bị lật đổ tháng 8 năm 1964 do nhóm chính trị dân sự do BS Phan Quang Đán cầm đầu. Bộ Trưởng Bộ Giáo Dục mới là BS Nguyễn Tiến Hỷ, không thuộc phong trào thống nhất Phật Giáo.
2. Lư do chiến thuật. Những người tham dự cuộc họp đồng ḷng đưa ra một chiến thuật là LM Viện Trưởng cần tŕnh bày việc mở Phân Khoa mới như thế nào để có thể thuyết phục chính quyền của Bộ Giáo Dục coi đó như một giải pháp giảm bớt áp lực gây xáo trộn của sinh viên, nhất là tại Sàig̣n. Như thế, muốn phân tán, lôi kéo sinh viên là giải pháp thành lập một trường mới trên vùng Cao nguyên Lâm Viên. Vùng này cách xa Sài g̣n ba trăm cây số, lại có điều kiện khí hậu tốt cho học vấn và du lịch, có thể khiến sinh viên khỏi tập trung quá đông đảo tại Sàig̣n và nhiều nơi thị tứ khác như ở Huế, Đà Nẵng, Qui Nhơn và Nha Trang. Đây không phải là cách đánh “hổ ly sơn”, mà chiến thuật “thượng sơn lâm”. Cách lập luận ấy đă thực sự chinh phục được Bộ Trưởng Huân.
1. Tên nói lên nhận thức. Theo đề nghị của ông Bùi Xuân Bào, bạn thân của LM Nguyễn Văn Lập, đồng thời là đại diện của LM Viện Trưởng trong phiên họp, LM Nguyễn Văn Lập đề nghị chọn tên Phân Khoa mới này là Phân Khoa Khoa Học Chính Trị và Quản Lư Doanh Nghiệp (Faculty of Political Science and Enterprise Administration). Nhưng Ông Vũ Quốc Thúc có ư kiến đặt tên là Phân Khoa Chính Trị, Kinh Tế và Quản Trị Kinh Doanh (Faculty of Politics, Economics and Business Management). ÔngTrần Long đề xuất là Trường Chính Trị Kinh Doanh (School of Government and Business).
Cách đặt tên trường mới cho thấy ảnh hưởng về quan niệm, tổ chức, kinh nghiệm học vấn và đào tạo của hai xu hướng trong môi trường văn hóa Pháp và Mỹ. Nhưng chính các học giả có xu hướng Pháp là Bào và Thúc cũng đồng ư là nhà trường nên có chút hương vị Mỹ. Điều này cho thấy sau việc lật đổ chế độ cũ, ảnh hưởng chính trị của Hoa Kỳ bắt đầu tác động mạnh mẽ lên xă hội Việt Nam. Xu hướng này cũng lan rộng sang nhiều lănh vực khác nhau, không chỉ là văn hóa giáo dục, …măi về sau.
2. Dự Án học tŕnh. Xác định tên trường xong, Ông Trần Long[142] và Ông Phó Bá Long được phân công soạn thảo học tŕnh cho bốn năm đại học để thảo luận và xác định dự án phân khoa trong hồ sơ xin phép mở trường. Thế là hai người trong nhóm chuẩn bị làm việc tất bật qua kinh nghiệm học tập của bản thân và một số tài liệu tập san của nhiều trường đại học Hoa Kỳ để xây dựng bộ khung học tŕnh với các môn học, nhất là hai năm đầu của Chương Tŕnh Cử Nhân.
Sau một tuần làm việc và thảo luận thêm, với một số thay đổi, dự án thiết lập trường mới được đúc kết hoàn chỉnh hơn và sau đó được tŕnh lên Bộ Trưởng Giáo Dục Huân ở Sàig̣n. Bộ Trưởng chấp thuận cho phép Viện ĐạI Học Đà Lạt được mở thêm phân khoa mớI, nhưng lại đổi tên là Trường Chính Trị Kinh Tế và Quản Lư Xí Nhiệp, (Faculty of Economics and Business Administration), theo nghị định của BGD số 1433/GD/PC/NĐ, kư ngày 13/8/1964.
Dường như cách đặt tên này lại cho thấy rơ xu hướng là Bộ Trưởng Huân e dè ngại ngùng những chữ đụng chạm tới chính trị, một ấn tượng mạnh mẽ do hoàn cảnh thời sự.
Đến thời BS Nguyễn Tiến Hỷ làm Bộ Trường Giáo Dục mấy tháng sau, th́ một sắc lệnh đổi tên Trường Chánh Trị Kinh Tế và Quản Lư Xí Nghiệp thành Trường Chánh Trị Kinh Doanh[143] từ đó. Nghi định được Bộ giáo dục cho cải danh mang số 72/GD/HV/NĐ kư ngày 18/1/1965.
Học tŕnh thực tế
Học tŕnh CTKD gồm bốn năm, mỗi năm có hai học kỳ, 18 tuần lễ/học kỳ, trung b́nh khoảng 15 giờ/tuần, tổng cộng 540 giờ học tại lớp/năm. Ngoài các môn Anh Ngữ Căn Bản, Anh Ngữ Đàm Thoại, và Anh Ngữ Chuyên Khoa do các giảng viên Anh Mỹ đảm trách trực tiếp, tất cả môn học được dạy bằng tiếng Việt. GS Phó Bá Long đă hùng hồn ghi lại :
“Tôi diễn giàng bài đầu tiên về Dẫn Nhập Vào Quản Trị Học trong giảng đường Spellman. Giảng đường tràn ngập những người. Tôi thấy thật phấn khởi trước những khuôn mặt thanh niên nam nữ ham hở học hỏi. Xử dụng các kỹ thuật học được trong nhiều kinh nghiệm giáo dục khác nhau của tôi, tôi đă có cách tiếp cận không theo bài bản giảng dậy cổ truyền cho người Việt Nam. Tôi phân phối các tư liệu giáo tŕnh cho sinh viên để họ đọc trước khi nghe giảng bài lần sau. Tôi chỉ định dự án nghiên cứu và triển khai cho các nhóm nghiên cứu thảo luận ngay trong lớp học. Tôi khuyến khích sinh viên nỗ lực học hỏi trong tinh thần phát triển tri thức mà không nhất thiết chỉ học để có được điểm tốt. Tôi giới thiệu phương pháp phân tích điển cứu. Phương pháp này đ̣i hỏi phải sưu tầm, thảo luận, trao đổi ư kiến và nhất là thái độ ứng xử xă hội. Khi đó phương pháp tiếp cận ấy là hoàn toàn mới mẻ đối với các thanh niên này. Họ thường có thói quen thụ động nghe giảng bài, ghi chú, rồi nhớ kỹ để lo thi cử, mà không trao đổi qua lại với giáo sư và sinh viên. Muốn khuyến khích sinh viên tham gia lớp học hơn nữa, có khi tôi lẻn đến chỗ một vài nữ sinh viên trông c̣n nhút nhát, đặt những câu hỏi trước tôi sẽ hỏi trong lớp sau. Khi có người trong các sinh viên hay bép xép mà không trả lời kịp, tôi có thể chỉ đến một “tay đă mớm trước” đưa ra câu trả lời khiến mọi người ngạc nhiên[144].”
Cuối năm thứ hai (Khái Luận), sinh viên phải chọn một trong năm ban chuyên nghiệp để tiếp tục học trong hai năm sắp tới. Các ban chuyên nghiệp gồm có: Bang Giao Quốc Tế, Báo Chí, Quản Trị Kỹ Nghệ, Quản Trị Kinh Doanh, Ngân Hàng và Tài Chánh. Trước khi chấm dứt năm thứ tư (Sưu Khảo), sinh viên phải nộp một khảo luận cá nhân và một phúc tŕnh tập thể về đề tài ngành chuyên môn đă chọn. VĐHĐL cấp phát Văn Bằng Cử Nhân Chánh Trị Kinh Doanh, tương tự như bằng Bachelor of Arts của đại học Mỹ, cho những sinh viên nào đậu tất cả các kỳ thi cuối năm và hoàn tất các yêu cầu khác.
Khi Giáo Sư Phó Bá Long thay thế Giáo Sư Trần Long trong nhiệm vụ Khoa Trưởng từ 1970 đến 1975, có một số thay đổi về môn học.
Chẳng hạn, các môn học được giảng dạy cho Khóa 7 CTKD gồm có:
Năm I (Nhập Môn): Anh Ngữ Căn Bản I và II (Basic English), Tu Từ và Văn Thể I và II (Vietnamese Composition), Lịch Sử Văn Minh Thế Giới I và II (World Civilization), Chánh Trị học Đại Cương I và II (Basics of Political Science), Kinh Tế học I/1 và I/2 (Economics), Quản Trị học I/1 và I/2 (Management), Toán Kinh Thương I và II (Mathematics of Finance), Xă Hội học (Sociology), Khái Niệm Luật Pháp (Basics of Laws).
Năm II (Khái Luận): Anh Ngữ Căn Bản III và IV (Basic English), Kinh Tế học II/1 và II/2 (Economics), Tiếp Thị II/1 và II/2 (Marketing), Kế Toán II/1 và II/2 (Accounting) Quản Trị học II (Management), Định Chế Tài Chánh I và II (Financial Institutions), Kinh Tế Việt Nam I và II (Economy of Vietnam), Thống Kê học (Statistics), Nhiệm Vụ học (Ethics).
Năm III (Nhiệm Ư): các ban học chung: Anh Ngữ Chuyên Khoa I và II (Specialized English), Kinh Doanh Nông Nghiệp I và II (Agricultural Business), Luật Doanh Thương I và II (Business Law), Kế Toán III/1 và III/2 (Accounting), Tương Quan Kỹ Nghệ (Industrial Relations), Tài Chánh Xí Nghiệp (Corporate Finance), hệ Thống và Thủ Tục trong Xí Nghiệp (Systems and Procedure in Business Firms).
Ban B Tài Chánh - Kế Toán (Major: Finance - Accounting) học riêng: Tiền Tệ Ngân Hàng I và II (Money and Banking), Tư Vấn Thuế Vụ I và II (Tax Problems).
Năm IV (Khảo Luận): Nhiệm Vụ học (Ethics), Nghiên Cứu và Thiết Lập Dự Án Đầu Tư (Study and Design of Investment Plans), Kế Toán Quản Trị I và II (Managerial Accounting), Phương Pháp Định Lượng I và II (Quantitative Methods in Business), Luật Thương Hội (Corporate Law), Thức Tập Quản Trị (Managing Practice), Anh Ngữ Chuyên Khoa I và II (Specialized English)
Ban B Tài Chánh - Kế Toán (Major: Finance - Accounting) học riêng: Quản Trị Tài Chánh (Financial Management), Quản Trị Thương Hội (Management of Business Enterprises), Giám Định Kế Toán I và II (Auditing), Kế Toán Ngân Hàng (Bank Accounting), Bảo Hiểm (Insurance).
Các ban đều phải nộp các khảo luận quy định: Khảo Luận Ngắn (Short Term Report), Khảo Luận Dài (Long Term Report) và Phúc Tŕnh Tập Thể (Group Report).
Sinh viên nào thi không đủ điểm th́ được thi thêm một lần nữa, gọi là thi kỳ 2. Nếu vẫn không đủ điểm th́ hoặc bỏ cuộc, hoặc có thể ghi danh học lại trong niên khóa tiếp theo[145].
Điều đáng chú ư là GS Phó Bá Long chú ư đến nhiều khía cạnh đặc biệt liên quan đến kinh nghiệm quản trị của ông. Ông thấy rất rơ có nhiều thách thức đối với việc thay đổi năo trạng, cách cảm nghĩ nhận thức của nhiều thành phần xă hội về nhiều môn học mới.
Chẳng hạn, với vốn liếng giáo dục mà ông thấy như không chính thống và pha tạp, ông đối diện với nhiều chiến lược giảng dậy thành công và nhiều mô thức kinh doanh trên khắp thế giới, như điển cứu, thảo luận trong lớp, lập nhóm học tập, và thăm viếng xí nghiệp nhà máy. Đấy là phương thức trước đây chưa từng được sinh viên và thành viên trong khoa biết tới. Những giáo tŕnh tiếp thị, kế toàn, và tiếng Anh kinh doanh lần đầu tiên được giảng dậy ở cấp đại học. Giới sinh viên có nỗi hoài nghi có phần kiêu kỳ đến độ cho là ông khó ḷng khắc phục nhưng trở ngại đó.
Có người coi nhiều giáo tŕnh CTKD là không cần thiết cho người chỉ có ư sống nghề nghiệp quản trị ở mức cao, và không cần đến những kiến thức theo khả năng của một nhà doanh thương. Một số người chịu ảnh hưởng giáo dục Pháp c̣n chống đối những giáo tŕnh kế toán, mà họ coi là chỉ phù hợp cho thư kư giữ sổ sách. Giáo Sư Phó Bá Long phải khó khăn mất thời gian giải thích khác biệt giữa kế toán đơn và kế toán quản trị. Các sinh viên này nhiễm sâu óc hợm hĩnh, hầu hết thuộc thành phần giai cấp trên c̣n đi đến khiếu nại về những đ̣i hỏi của nhà trường do Khoa Trưởng chủ trương, v́ cho rằng với văn bằng thừa thăi của CTKD, họ chỉ t́m được những công việc tạm thời. Một số người thậm chí đi xa hơn là đưa khiếu nại chống đối lên đến cha Viện Trưởng Nguyễn Văn Lập. Ngài đă trả lời bằng cách bảo họ cứ nhặt cỏ trên các đường đi lối lại trong viện và ngài trả lương thù lao cho họ theo giờ lao động/ngày.
Cuối cùng không những tư tưởng CTKD được bén rễ sâu trong tâm khảm mỗi người, nó c̣n trở thành nguồn gốc cho niềm hănh diện, khi sinh viên bắt đầu báo cáo quá tŕnh huấn luyện họ bằng công việc thực tiễn như làm hầu bàn, bán hàng trong tiệm và giúp việc nhà[146].
Trong tháng 8 và 9 năm 1964, hệ thống các nhật báo ở Sàig̣n đều cho phổ biến Thông Cáo Tuyển Sinh vào Trường Chánh Trị Kinh Tế và Quản Trị Xí Nghiệp, sau được đổi tên là Trường CTKD (School of Government & Business) từ đầu năm 1965. Sự kiện quảng bá rầm rộ khiến nhiều thanh niên mới sinh viên thích thú và rủ nhau đi ghi danh học. Đây là một trường có nội dung giảng dậy mới mẻ, thực tiễn tại Việt Nam.
1.Sinh viên ghi danh thực thụ. Lúc đầu Trường CTKD dự trù thu nhận 600 sinh viên cho năm đầu tiên, nhưng có tới 1500 đơn xin nhập học. Đến ngày 27 tháng 09 năm 1964, khi khai giảng năm học, có tất cả 1036 sinh viên ghi danh và thực học[147]. Sĩ số này hơn hẳn sĩ số sinh viên thực học của tất cả các phân khoa khác của toàn Viện. Các sinh viên đến từ khắp nước, nhưng phần nhiều từ Sàig̣n, Huế và Cần Thơ, trong khi những nơi này đều đă có trung tâm giáo dục đại học. Con số sinh viên ghi danh cho thấy nhận thức chiến thuật của nhóm giáo sư dự kiến ban đầu là chính xác, tuy hơi được phóng đại!. Trường CTKD đă nắm bắt được, đáp ứng nhu cầu và nguyện vọng thực tiễn của sinh viên. Sĩ số ấy c̣n tiếp tục gia tăng trong các năm sau, góp phần quan trọng cho sinh khí phấn khởi hoạt náo ở môi trường học tập, làm biến đổi bộ mặt và đà phát triển của Viện Đại Học Đà Lạt tiến lên phía trước.
2. Giáo tŕnh học vấn. Để chuẩn bị giáo tŕnh cho sinh viên, chính giáo sư Trần Long thể hiện phong cách khẩn trương dấn thân vào các hoạt động chuẩn bị. Ông cho nhà trường thu gom giáo tŕnh của tất cả các giáo sư, đánh máy trên stencil và trao cho Hợp Tác Xă Ấn Loát Sinh Viên quay ronêô, rồi bán lại cho sinh viên với giá phí tượng trưng. Linh Mục Ngô Duy Linh, Phụ Tá Viện Trưởng kiêm Giám Đốc Đại Học Xá Nam Sinh Viên, cũng đồng thời là một chuyên viên quay rônêô tích cực. Đa số các giáo sư hưởng ứng tích cực soạn thảo giáo tŕnh. Những giáo sư nào không soạn giáo tŕnh, sẽ không được mời dậy tiếp trong niên khóa mới. GS Trần Long có sáng kiến làm cho môn Kế Toán bớt khô khan bằng cách đặt tên súc vật khôi hài cho các công ty, khách hàng, và nhà cung cấp,…
3. Thi cử sát hạch. Đối với bất cứ sinh viên nào, kỳ thi cuối năm là một kết quả quan trọng, phản ảnh chất lượng giáo dục của nhà trường, đồng thời tạo điều kiện cho sinh viên tốt nghiệp đi vào thực tế xă hội một cách tin tưởng và có hiệu lực. Thực tế đó củng cố niềm tin cho mọi thành phần liên hệ, giáo sư, sinh viên, gia đ́nh và xă hội tuyển dụng các sinh viên đó. Cụ thể và cấp bách nhất là nam sinh viên phải đậu để lên lớp, tiếp tục được hoăn dịch v́ lư do học vấn.
Nhưng không v́ thế mà việc thi cử bị coi nhẹ lơ là. Các kỳ thi được tổ chức chu đáo tối đa, vô tư và toàn vẹn để bảo đảm chất lượng đào tạo sinh viên. Một tháng trước khi thi, nhà trường cho thu thập tất cả các đề thi từ các giáo sư và giảng viên. Các đề thi được bảo mật cho đến giờ thi tại pḥng thi ở tất cả các khâu trong quá tŕnh chuẩn bị, in ấn và phân phối. Chính LM Ngô Duy Linh đă góp phần quan trọng trong quá tŕnh này.
Ngoài giảng đường, sinh viên có rất ít cơ hội tiếp xúc với giáo sư. Giáo tŕnh và thư viện là hai phương tiện tốt đẹp c̣n lại để sinh viên thu thập kiến thức cho các môn học khác nhau trong học tŕnh.
3. Một h́nh ảnh thi cử. Gần một ngh́n sinh viên Năm Nhập Môn đă tham dự kỳ thi cuối năm 1964-65. Tất cả chỗ ngồi trong pḥng thi được sắp đặt trước, có đánh số cho mỗi thí sinh. Để tránh t́nh trạng có thể chép bài của nhau, hai sinh viên ngồi cạnh nhau không được làm cùng một đề thi. Toàn bộ nhân sự giảng huấn và hành chánh được điều động làm giám thị. Cách làm việc nghiêm chỉnh đó đă được áp dụng cho suốt quá tŕnh hoạt động của Trường Chính Trị Kinh Doanh và c̣n được cải thiện và rút kinh nghiệm từ các trường khác cho tốt đẹp hơn.
Nhóm Hội Học: mục tiêu
Các sinh viên Sưu Khảo phải dành một phần lớn thời giờ để nghiên cứu tập thể và thuyết tŕnh nhóm, nhắm huấn luyện sinh viên về các khía cạnh sau đây:
* Gây dựng tinh thần và kỹ năng làm việc tập thể, v́ các nhóm viên đều nghiên cứu và tŕnh bày chung một đề tài lựa chọn trước ban giám khảo gồm ba người và toàn lớp.
* Phát huy khả năng lănh đạo và kỷ luật của mỗi người trong nhóm.
* Luyện tập kiến thức và kỹ năng xử dụng ngôn từ, hùng biện thích hợp trước công chúng, cách viết phúc tŕnh, luận văn nghiên cứu.
* Tạo điều kiện cộng tác hỗ tương, giao tế nhân bản giữa các chuyên viên, sinh viên trong các ngành khác nhau như Luật Pháp, Kinh Tế, Tài Chánh, Ngoại Giao, Báo Chí, Công Quyền và Kinh Doanh.
Kỹ thuật tổ chức
Từ đầu năm Nhiệm Ư (III), các sinh viên bắt đầu chọn chuyên ngành Chính Trị hoặc Kinh Doanh. Khi lên năm Sưu Khảo (IV) sinh viên được xếp hạng theo điểm trung b́nh. Năm Sưu khảo đầu tiên có ba mươi sáu nhóm ngành Chính Trị. Theo kế hoạch của GS Trần Long, nhóm đầu tiên gồm 6 sinh viên đứng thứ hạng 1, 37, 73, 109, 145 và 181
Các nhóm ngành Chính Trị lấy tên theo mẫu tự Hi Lap: Alpha, Beta, Gamma, …; các nhóm ngành Kinh Doanh theo mẫu tự Do Thái: Aleph, Beth, Gimel, … Nhiều người bằng ḷng với tên nhóm của ḿnh. Sang nhiệm kỳ Khoa Trưởng Phó Bá Long, các sinh viên được tự do lựa chọn nhóm viên cũng như đặt tên nhóm.
GS Trần Long áp dụng cách điều hành Nhóm có phần chuyên đoán hơn, khi xếp đặt 5,6 sinh viên vào một nhóm, để đạt ngay các mục tiêu hội học, dưới hướng dẫn của chuyên viên KD hay HC làm “giáo sư hướng dẫn”, cùng với Ban Giảng Huấn, thiết lập danh sách đề tài nghiên cứu, và giáo sư hướng dẫn.
Đa số các giáo sư hướng dẫn đều có tiếng tăm, nhưng bận rộn và ở xa tận Sàig̣n. Có thể nhóm được tự do chọn đề tài và giáo sư hướng dẫn, cho những nhóm nào thanh thỏa đủ các điều kiện qui định. Nhờ thế mà đề tài nghiên cứu cũng rất đa dạng, thường tỷ lệ thuận với con số các thân hữu và các nhà bảo trợ; và nhờ đó mà t́nh h́nh của Viện được phát triển thêm, tạo cầu nối giúp các sinh viên dễ dàng t́m việc làm thích hợp ngay. Hai tháng sau cùng là thời gian nhà trường tổ chức thực hiện lịch thuyết tŕnh nhóm.
Tŕnh bày và thẩm định kết quả hội học
Mỗi nhóm phải hoàn thành công tŕnh nghiên cứu, tŕnh bày kết quả cho lớp và thẩm lượng đoàn trong 60 phút, và mỗi nhóm viên không quá 10 phút. Giáo sư hướng dẫn phải thu xếp làm sao có mặt tham dự buổi thuyết tŕnh của nhóm. Ban giảng huấn có thể có mặt cùng với Đoàn Thẩm Lượng gồm 3 người được GS hướng dẫn chủ tọa, chất vấn thuyết tŕnh đoàn trong 3 phút và cho điểm toàn nhóm, rồi từng nhóm viên. Pḥng ốc và máy thu khuyếch âm cho thuyết tŕnh được chuẩn bị một bước trước.
Trong hai tháng đó, có thể các nhóm cùng thuyết tŕnh ở nhiều giảng đường khác nhau. Đồng thời cần chú ư t́m người thay thế những thành viên Doàn Thẩm Lượng nào vắng mặt đột xuất. Xong nhiệm vụ thuyết tŕnh, nhóm phải nộp Luận Văn Tập Thể, giới hạn trong 60 trang đánh máy ḍng đôi. Trong ṿng hai tuần, giáo sư hướng dẫn đọc xong và cho điểm, cho dù thực sự vẫn có người chậm trễ.
Thử theo dơi Nhóm của sinh viên Thái Thị Như Hảo thuyết tŕnh dưới sự hướng dẫn của GS Đinh Xáng:
Suốt hai tuần chuẩn bị về báo biểu, cắt dán. Thứ Hai, ngày 15/4/1974, nhóm thuyết tŕnh đề tài “Vấn Đề Kỹ Nghệ Hóa Miền Trung.” Lần đầu tiên thuyết tŕnh viên đứng trên bục giảng, trước đám đông, Như Hảo cảm thấy rất khớp, nhưng nh́n ánh mắt thầy Đinh Xáng động viên, nét mặt hiền ḥa như bao dung như thầm bảo với cô rằng: “Hăy b́nh tĩnh và tự tin”. Hảo bỗng thấy ḿnh bạo dạn hơn, nói năng lưu loát và trôi chảy hơn. Thế là con đường tốt nghiệp mở ra tương lai cho từng người sau bốn năm đèn sách[148].
Lợi ích của phương pháp hội học:
Hệ thống hội học và kỹ thuật điển cứu (case study) dần dần được nhiều người nhận thức và được nhân rộng hơn. Các khóa tốt nghiệp đều hănh diện lưu lại các Luận Văn đă thực hiện và tŕnh bày tại Thư viện cho các khóa kế tiếp tham khảo. Những độc giả nào muốn tham cứu vấn đề ǵ ḿnh quan tâm đều thấy thật sẵn sàng, dễ dàng và nhanh chóng. Đồng thời tiện nghi đó cũng tạo điều kiện lối cuốn các nhà kinh doanh và viên chức công quyền năng động dấn thân vào cuộc, đào sâu thêm các công việc, khi các sinh viên năng động chăm chỉ kích thích bản thân họ ư thức hơn về trách nhiệm của ḿnh. Mặt khác, Trường CTKD c̣n khai thác được nguồn nhân tài thực tế và chính những con người này đến lượt họ trở thành người hướng dẫn và một thứ khuôn mẫu cho sinh viên tốt nghiệp.
Những người liên hệ đến việc h́nh thành luận văn trở thành một tập thể bạn hữu hay người bảo trợ một cách thân t́nh cảm thông hơn. Tất cả các giáo sư hướng dẫn, nhà doanh nghiệp hàng đầu và viên chức công quyền trực tiếp hay trung gian đều có cơ hội t́m hiểu thuận lợi để tuyển dụng hay giới thiệu sinh viên vào các cơ quan, xí nghiệp ở khắp các địa phương trong nước, góp phần giải quyết những bế tắc lao động có thể gây xáo trộn về mặt xă hội. Dù chế độ VNCH đă sụp đổ nhưng các cựu sinh viên CTKD đă thành nhân, có người trở nên nổi tiếng trên thế giới[149], như Mai Kim Đĩnh, Lê Đ́nh Thông, …
Xây dựng Ban Giảng Huấn.
Tháng Sáu (6), 1964, Ông Trần Long lên Đà Lạt để mở trường CTKD với tư cách là Giám Đốc Học Vụ, theo học tŕnh được Bộ Giáo Dục chấp nhận. Ông để lại gia đ́nh tại Sàig̣n, gồm vợ (bà Danielle Ánh Nguyệt, giáo sư Anh ngữ trường Gia Long) và bốn con. Đấy là con đường ông trở thành vị giáo sư. Ông bắt tay vào việc ngay. GS Trần Long xuất thân là một sinh viên du học tại Hoa Kỳ, tốt nghiệp Cử Nhân Quản Trị Kỹ Nghệ (Bachelor of Science in Industrial Administration, Universitry of Portland), và Cao Học Kinh Tế Tài Chánh (Master of Arts in Economics and Finance, Syracuse University)
Để kịp khai giảng vào tháng chin (9), trong suốt ba tháng, GS Trần Long phải lo t́m kiếm tuyển mộ, xây dựng Ban Giảng Huấn. Ngay tại Đà Lạt, ông kiếm được năm người có văn bằng đại học về Luật Học, Kinh Tế, Toán Học và Kinh Doanh. Trong số đó, có ông Ngô Đ́nh Long. Hầu hết số c̣n lại là các giáo sư thỉnh giảng được mời từ Viện Đại Học, Trường Quốc gia Hành Chánh và Trường Cao Đẳng Thương Mại ở Sàig̣n. Về môn nguyên tắc Kế Toán Nhập Môn ông đành phải chọn một vài giáo sư kế toán tại Sàig̣n. Những giáo sư này đang giảng dậy kế toán theo kiểu Pháp, mà ông lại muốn truyền thụ cho sinh viên phương pháp kế toán theo phương pháp hiện đại kiểu Mỹ. Mấy năm sau đó, chính GS Trần Long kiêm dậy hai môn Nguyên Tắc Kế Toán và Kế Toán Giá Phí dựa trên các sách giáo khoa Hoa Kỳ của các tác giả Finney, Noble, Niswonger và Gohlke.
Về môn Nhiệm Vụ học, GS Trần Long mời một Linh mục ḍng Đa Minh. Tuy Linh mục là một nhà giảng thuyết danh tiếng đang giảng dậy tại phân khoa khác của Viện, nhưng các sinh viên cảm thấy khô khan chán chường. Tuy điều này được phản ảnh lên LM Viện Trưởng, nhưng thực tế hầu hết các sinh viên theo học môn này đều được chấm đậu về môn ấy, v́ các nam sinh viên sợ không đậu sẽ phải ở lại lớp, hay bị quân dịch. Tất cả đều làm chậm đà tiến thân vào xă hội theo những nguyện ước của mỗi người. Việc xây dựng chương tŕnh Trường CTKD này là bằng chứng cho thấy ảnh hưởng của Mỹ về quan niệm, tổ chức và phương pháp giáo dục thực tiễn trong quản trị và kinh doanh đang được giảng dậy ở Việt Nam do chính các chuyên gia du học trong các trường đại học Mỹ.
Ở thời điểm vừa chấm dứt chế độ Ngô Đ́nh Diệm, hoàn cảnh đất nước đi vào một lộ tŕnh mới, mà ảnh hưởng của Hoa Kỳ trở nên mănh liệt hơn một cách rơ rệt. Chính v́ thế đất nước càng cần có nhiều chuyên gia đa năng tháo vát trong các lănh vực kinh tế cũng như chính trị và xă hội. Việc giảng dậy lư thuyết thuần túy được thay thế bằng những phương pháp thực tiễn, như điển cứu, hội học, thực tập qua nghe nh́n để sưu tập các sự kiện, đúc kết thành những phúc tŕnh, khảo luận cá nhân hay tập thể. Người được thụ huấn không chỉ trau giồi kiến thức, mà phát triển nhân cách và trách nhiệm đầy đủ trong các giao tiếp xă hội. Biết chinh phục ḷng tin, qui tụ người khác để cương quyết theo đuổi và thực hiện những mục tiêu cao đẹp là khả năng lănh đạo cần có.
Ngoài học hỏi và đào luyện trực tiếp trong lớp học, nhà trường c̣n có Parallel Course Program để giúp sinh viên bắt kịp những chuyển biến trong lănh vực chuyên môn của thực tế xă hội để ḿnh không đứng ngoài cuộc mà dấn thân vào ḍng chảy của cuộc sống.
Về phương diện này, khi GS Phó Bá Long kế nhiệm GS Trần Long làm khoa trưởng năm 1971, ông coi nhà trường như một [105] di sản trí thức được truyền lại cho ông. Ông thấy có nhiệm vụ phải duy tŕ, xây dựng và phát triển di sản ấy.
Ông đưa ra một sáng kiến mà ông cho là đáng giá nhất, tức là hệ thống “Bảo Huynh” trong học tập. Nôm na đó là anh chị em giúp nhau học hành. Mỗi nhóm mươi người trong lớp nhập môn mới được hai hay ba anh chị từ các khóa tốt nghiệp đàn anh chính thức bảo trợ họ và giúp họ trong việc học vấn. Các lớp đàn anh chị được cho điểm thêm trong tín chỉ về thành tích của họ.
Chương tŕnh này gặt hái được nhiều kết quả rơ rệt. Trước hết các nhóm đàn anh chị buộc phải xem lại các giáo tŕnh nhập môn cũ của họ và nhờ đó kiến thức của họ được củng cố thêm. Thường họ c̣n phải đến hỏi các thầy giáo cũ của họ để t́m giải đáp cho các vấn đề mà họ không nhớ. Thứ hai các hoạt động ngoại khóa này làm nẩy sinh mối quan hệ nhiều mặt giữa các nhóm học tập, giữa lớp đàn anh và lớp đàn em. Hơn nữa, họ không quá cách biệt chênh lệch nhau về tuổi tác. Hiển nhiên có một thứ cạnh tranh học thuật và t́nh cảm sôi động nào đó đối với các đàn anh và những thành viên nữ hấp dẫn hơn trong lớp nhập môn. Đă có nhiều cuộc hứa hôn diễn ra và hai ba năm sau là có nhiều đám cưới khi đến lượt các nữ sinh viên lớp đàn em tốt nghiệp nối tiếp lớp các đàn anh trước đó[150].
Trong những hành động đầu tiên khác của khoa trưởng mới là bỏ ban chính trị và giáo tŕnh về báo chí. Thay vào đó là hai giáo tŕnh song song về tiếp thị và kế toán. Hai môn này được giảng hoàn toàn bằng tiếng Anh cho những sinh viên có khả năng, ngoài các giáo tŕnh được dậy bằng tiếng Việt khác. Theo điều kiện nhà trường yêu cầu thanh thỏa, nhiều sinh viên đă cố gắng để được tiếp nhận vào các lớp này. Trường CTKD cũng lập ra Trường Quản Trị Cơ Sở Xă Hội, hay SSIM. Trường này có số ghi danh cơ bản là các phụ nữ hay cả nam lẫn nữ có niềm thâm tín mạnh mẽ.
Biểu Đồ 13. Số Liệu Thành Quả Của Trường CTKD Niên Khóa 1964-1973[151]
Niên Khóa |
Sinh Viên |
|||
Cấp Cử Nhân |
Cấp Cao Học |
|||
Ghi danh |
Tốt Nghiệp |
Ghi danh |
Tốt Nghiệp |
|
(1) |
(2) |
(3) |
(4) |
(5) |
1964-65 |
700 |
|
|
|
1965-66 |
825 |
|
|
|
1966-67 |
959 |
|
|
|
1967-68 |
1164 |
295 |
|
|
1968-69 |
1036 |
116 |
120 |
|
1969-70 |
1181 |
074 |
205 |
01 |
1970-71 |
1157 |
103 |
222 |
13 |
1971-72 |
1366 |
102 |
228 |
15 |
1972-73 |
1306 |
214 |
402 |
22 |
Tổng Cộng |
9694 |
904 |
1177 |
51 |
Chú thích: 1/Tổng số ghi danh học cho cả hai cấp là (9694+1177) =10871, và số tốt nghiệp của cả hai cấp là (904+51)= 955 2/ Tổng số liệu ở cột (2) [9694] không phù hợp với số liệu của Trường CTKD [13.206] trong bản tổng hợp số liệu toàn viện. Có khác biệt cả số sinh viên ghi danh trong mỗi niên khóa. Không có lư do giải thích về sự khác biệt này. Như vậy có nghĩa ǵ? 3/ Ra đời muộn màng, nhưng Trường CTKD đa sản tăo ra một thành tích quan trọng nhất cho Viện Đại Học Đà Lạt, xét về số lượng cũng như chất lượng, nhưng không phải là không có khuyết điểm cần khắc phục. |
Tổng số sinh viên Khóa 7 CTKD được chính thức cấp phát văn bằng Cử Nhân vào Ngày Ra Trường, 30 tháng 12 năm 1974, cho cả hai Ban Tiếp Thị và Tài Chánh Kế Toán là 182 người[152]. Cả Lớp có 450[153] sinh viên Nhập Môn, hơn một nửa sĩ số đă đứt gánh giữa đường cho đến năm kết thúc (Sưu Khảo)[154].
Khóa 7 CTKD, nhất là các sinh viên đủ điều kiện để tốt nghiệp, có một ư nghĩa đặc biệt, v́ nhiều lư do. Trước hết đây là khóa thi thực sự cuối cùng, sau chương tŕnh học đầy đủ bốn năm của Trường CTKD. Do đó, trong toàn thể 11 khóa của nhà trường suốt 10 năm hoạt động (1964-1974), khóa 7 CTKD đánh một dấu mốc chấm dứt trọn vẹn, có tính quyết định quá tŕnh hiện hữu (1959-1975) của Viện Đại Học Đà Lạt.
Thành phố Đà Lạt bỏ ngỏ trong t́nh trạng vô chính quyền địa phương khá sớm vào đầu năm sau, từ 30/3/1975. Đúng ra, từ ngày 20/3/1975, nhiều người đă di tản khỏi Đà Lạt sau khi có tin tức về trận tấn công qui mô của quân đội CS vào thị xă Ban Mê Thuột ngày 11/3/1975. Như thế các sinh viên CTKD, từ khóa 8 đến khóa 11 ở ngay Đà Lạt, không được thụ huấn đầy đủ theo chương tŕnh bốn năm của Trường CTKD[155].
Các bạn sinh viên CTKD từ khóa 1 đến khóa 7 có cơ may ngàn năm để Thụ Nhân và Thành Nhân, đă hănh diện và làm vẻ vang cho Viện Đại Học Đà Lạt và cho chính ḿnh thật thanh thản và góp phần duy tŕ Truyền Thống Thụ Nhân như ngọn đuốc sáng ngời măi măi, nêu gương cho các thế hệ tương lai trong ḷng xă hội Việt Nam.
Như vậy phải chăng một ḿnh Trường CTKD có thể lập một thống kê một cách tương đối khoa học về thành quả giáo dục cụ thể trong Kỷ Niệm Thập Niên Thành Lập Trường CTKD (1964-1974)? Các Trường khác nếu có thiết lập Thống Kê các số liệu như thế chắc có thể có khó khăn, như Trường Văn Khoa chẳng hạn? Chắc chắn đơn vị nào có tổ chức quản trị tốt và trung thực, th́ sẽ dễ dàng xác lập một thành tích biểu tốt đẹp, dù đó chỉ là những con số. Nhưng đó là những con số sống động, nói lên được điều ǵ, chứ không vô hồn hay có tính cách thiếu trung thực trước mặt những người đọc có tri thức, phán đoán và lương tri vậy.
Nhận định của người có trách điều hành
1. Từ Trường CTKD.Người viết muốn thuật lại trực tiếp lời lẽ của chính những người có trách nhiệm trong cuộc. Chẳng hạn chứng từ của người đảm lănh xây dựng Trường Chánh Trị Kinh Doanh lúc ban đầu:
“Với quyết tâm và thái độ tích cực của Cha Lập và tôi, cùng nhiệt t́nh của Ban Giảng Huấn và Ban Hành Chánh, chúng tôi đă thành công trong việc biến Trường Chánh Trị Kinh Doanh thành một định chế giáo dục sinh động, vào cuối năm thứ hai th́ tiếng lành đă vang khắp nước. Lứa tốt nghiệp đầu tiên gồm gần bốn trăm sinh viên[156] nhận lănh văn bằng Cử Nhân năm 1968 và khởi sự phục vụ đất nước trong nhiều lănh vực. Đa số phục vụ rất tốt”[157].
“Gia đ́nh nào cũng đều bị ảnh hưởng tiêu cực của chiến tranh, cách này hay cách khác. Vấn đề động viên ám ảnh sâu sắc tâm trí các sinh viên Nhập Môn. Để được tiếp tục hoăn dịch nhập ngũ v́ lư do học vấn, nam sinh viên phải thi dậu lên năm khái luận. Chính sách hoăn dịch nhập ngũ này tạo ra gánh nặng lương tâm cho tất cả giáo sư đại học”[158].
…………………………………………………………………………..
“Tôi điều hành trường CTKD với nhiều hạn chế và dưới nhiều áp lực. Tôi không nhớ rơ cho lắm về bốn năm đầu tiên của trường CTKD. Có lẽ 70% sinh viên Nhập Môn lên được Khái Luận, 80% Khái Luận lên Nhiệm Ư và 80% Nhiệm Ư lên Sưu Khảo. Cuối niên khóa 1967-68, th́ gần 400 sinh viên nhận lănh văn bằng Cử Nhân. Năm Nhập Môn có 1036 sinh viên. Tôi thường tự hỏi điều ǵ đă xảy ra cho hơn 600 sinh viên không tốt nghiệp kia?”[159].
2. Từ Trường khác. Dưới cái nh́n của giáo sư hay sinh viên của những phân khoa khác, ư kiến dường như không hoàn toàn nhất trí với người trực tiếp trong cuộc. Như cảm nghĩ của một giáo sư, được đào tạo trong môi trường giáo dục Pháp, phục vụ tại Trường Văn Khoa về Trường CTKD:
“Trong bước khởi đầu và phát triển, buộc ḷng phải có những chủ trương hơi thiên về“thực tế”! Có lẽ đó là lư do khiến cho từ năm 1965 đến quăng năm 1970, trường Chánh Trị Kinh Doanh hơi có phần khuếch trương quá mức so với các khoa khác! Trong giai đoạn ấy, ở xă hội miền Nam nổi lên một phong trào đổ xô về những hoạt động tạm gọi là chính trị (các đảng phái và bè nhóm mọc lên như nấm); rồi chính khách đủ loại, đủ cỡ cũng xuất hiện rầm rộ, danh từ “chính trị” rất ăn khách! Đồng thời với sự xâm nhập của các tổ chức người Mỹ vào miền Nam, một nhu cầu về quản lư, quản trị đă bộc phát: hai tiếng “kinh doanh” cũng chẳng kém phần cao giá! Trường Chánh Trị Kinh doanh phần nào đáp ứng được một số yêu cầu và thị hiếu, cho nên được các bạn trẻ yêu thích, và có lẽ cũng được chính phủ nh́n nhận là đáp ứng cho một điều mà họ cho là cần thiết; họ bớt phần gay gắt và dần dần có phần khuyến khích.
Trong t́nh thế như vậy, Văn Khoa và nhất là Ban Triết Học đôi lúc có cảm tưởng như ḿnh là con ghẻ, lập ra cho lấy có, kẻo mà chỉ lo có Trường Chánh Trị Kinh Doanh!”[160]
Người viết không hoàn toàn chia sẻ những cảm nhận của ư kiến này, dường như mang tính cách trách móc, coi đó là xu thời hơn là khen ngợi, khuyến khích. Có nhiều lư do khiến người viết không nhất trí với cung cách nhận định như thế:
Lư do thứ nhất là người viết quan niệm rằng phát triển vật chất, phát triển kinh tế cũng là một phương diện có ư nghĩa truyền giáo sâu xa không kém các lănh vực văn hóa khác. Không thể đối lập phát triển kinh tế với phát triển văn hóa được, khi hiểu kinh tế là một yếu tố làm thành văn hóa. Tại sao không v́ thế mà thấy sự phát triển Trường Chánh Trị Kinh Doanh trong bối cảnh lịch sử cụ thể của miền Nam lúc đó là một bước đột phá trước nhiều khó khăn bế tắc của Viện? Nếu nhận thức một cách biện chứng nào đó, th́ khía cạnh vật chất có một vai tṛ nhiều khi quyết định, áp đảo và cần thiết cho các khía cạnh văn hóa khác nhau, nhất là khía cạnh tinh thần, trong các yếu tố cấu thành văn hóa.
Lư do thứ hai là “cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống” chính là một phương cách nhập thể đạo vào hoàn cảnh thực tiễn của t́nh thế là một cách thể hiện tinh túy của đạo có hiệu quả và sâu xa nhất. Điều ấy có thể c̣n vượt hẳn thành kiến hay ư nghĩ tuy ngay lành nhung không luôn đúng đắn vẫn coi Chánh trị hay Kinh Doanh là chuyện danh vọng thấp hèn, dung tục, xác thịt, chỉ nhắm đến tiền bạc, lợi nhuận, khi dễ đối lập tinh thần cao đẹp hơn vật chất trong ư tưởng nhị nguyên về hiện hữu của thế giới.
Lư do thứ ba: việc mở trường Kinh Doanh vào thời điểm 1964 là một giải pháp đáp ứng thức thời với cái nh́n có tầm vóc chiến lược ứng phó rất hiệu quả cho thực tại xă hội. Trường CTKD thực sự đă tạo được sự hài ḥa, gây thiện cảm từ nhiều giới trong xă hội, cách riêng các phụ huynh, do những thành tựu mà Trường CTKD đạt được. T́nh trạng đó thậm chí đi tới khích lệ thái độ đồng t́nh của toàn xă hội. Trường CTKD c̣n góp phần giải quyết nhiều khó khăn vật chất cũng như chính trị giúp củng cố và phát triển Viện Đại Học này có lúc lâm vào nguy cơ bế tắc v́ thái độ hiểu lầm và muốn xa lánh cô lập[161]. Tuy nhiên vật chất có nguy hiểm là có thể đưa người ta ra xa các mục tiêu nhân bản chân chính.
3. Mở rộng qui mô. Với đà tiến triển khá nhanh, một cơ sở giáo dục ở trên lầu I Thương xá Tax cũng được dùng làm cơ sở II của Trường Chánh Trị Kinh Doanh cho Ban Cao Học tại Sàig̣n, từ trong niên học l968-69, nhằm thu hút các sinh viên đă tốt nghiệp Cử Nhân cư ngụ hay làm việc trong vùng Sàig̣n muốn có cơ hội nâng cao kiến thức Chánh Trị Kinh Doanh.
V́ ư thức về nhu cầu cấp thiết là giữ chân các sinh viên tốt nghiệp không bị động viên vào ngay trong quân đội, Trường CTKD muốn mở rộng chương tŕnh MBA tốt nghiệp sau hai năm. Chương tŕnh quản trị kinh doanh liên ngành này được mở tại Sàig̣n năm 1972. Đó là giáo tŕnh nghiên cứu mới nhất của nhà trường ngơ hầu có thể tiếp nhận tất cả các kỹ sư, bác sĩ, dược sĩ và nhiều sĩ quan trung cấp.
Ban Cao Học CTKD nhằm phát huy kiến thức chánh trị kinh doanh ở các cấp cao hơn, trong môi trường năng động về kinh doanh tại thủ đô Sàig̣n. Và chính Sàig̣n lại là một một trung tâm đa dạng ở miền Nam, có quan hệ quốc nội và quốc tế rộng lớn. GS Nguyễn Lâu, tốt nghiệp Đại Học Luân Đôn, làm Phó Khoa Trưởng, phụ trách Ban này.
Tưởng cũng nên nói đến một nhận định của GS Phó Bá Long là có nhiều lúc sự mở mang cơ sở và phương tiện học vấn, nhất là ở cấp cao học tại Sàig̣n, vượt quá những yểm trợ tài chánh thích hợp, đúng mức, và kịp thời từ phía Hội Đại Học Đà Lạt khi đó[162].
4. Một nền CTKD nhân bản, dân tộc. Trường Chánh Trị Kinh Doanh theo truyền thống gồm hai bộ phận Quản Trị Kinh Doanh và Chánh Trị Xă Hội. GS Phó Bá Long kế thừa tất cả những di sản tốt đẹp của trường, mà c̣n có sáng kiến đem môn học độc đáo ngơ hầu gây dựng ư thức đạo lư nhân bản và dân tộc trong hoạt động kinh doanh cho các doanh gia Việt Nam tương lai.
Ông đă đề nghị đưa môn Văn minh Việt Nam thêm vào giáo tŕnh kinh doanh, kể từ niên khóa 1973-1974, trong chương tŕnh giảng huấn cho tất cả các sinh viên của hai ngành: Chính Trị Xă Hội và Quản Trị Kinh Doanh. Tất cả các sinh viên của ba năm, trừ năm Sưu Khảo, đều phải theo học môn này, kế từ niên khóa môn này được giảng dậy. Thực sự trong học tŕnh của Trường CTKD, đă có môn Lịch sử Văn Minh Thế Giới. Như thế, môn Văn Minh Việt Nam chỉ là một cách bổ sung, nhấn mạnh đến khía cânh văn minh dân tộc trong nhận thức về hoạt động của các doanh gia Việt Nam tương lai. Vấn đề c̣n lại chỉ là hoàn chỉnh nội dung bộ môn này, soạn thảo giáo tŕnh đồng bộ và được những giáo sư thích đáng giảng dậy một cách sinh động.
Người viết được GS Khoa Trưởng kế tiếp bố trí vào việc t́m kiếm các giáo sư thích hợp cho bộ môn này. Người viết dù rất hạn chế v́ nhiều công việc, nhưng đả đảm nhận như một công tác, một cơ hội, với ư thức vừa đem sở học làm sở dụng để phục vụ học tập, đáp ứng với một thách thức có phần khó khăn. “Cờ đến tay ai, người ấy phất” nhưng nên phất cao đúng điệu như nhận thức tích cực của GS Trần Long, lúc gánh vác nhiệm vụ xây dựng Trường Chánh Trị Kinh Doanh[163].
Đây là một mảng bộ môn bao quát có tính văn hóa nhân bản và dân tộc cần có quá tŕnh xây dựng dần dần. Để tổ chức đề tài chi tiết, bước đầu người viết phụ trách mấy tiết về “Tín Ngưỡng Trong Văn Minh Việt Nam” và nhạc sĩ Hùng Lân Hoàng Văn Hương mấy tiết về “Dân Ca và Dân Nhạc Việt Nam”.
Thực tiễn giảng dậy chứng tỏ bước đầu có kết quả tốt và sẽ được cải thiện hay có thể bị đào thải như bất cứ một bộ môn mới nào, khi không c̣n hiệu năng. Bộ môn này đang được thực hiện và rút kinh nghiệm thực tế để cải tiến, hay xử lư thích đáng, th́ đất nước đă sang trang v́ biến cố 30/4/1975.
Những khó khăn đủ loại xuất hiện.
Nếu chỉ thấy những mặt tích cực mà không thấy những khó khăn khác với những thứ đă nói trên đến với Trường Chánh Trị Kinh Doanh là một phân tích thiếu sót. Về mặt này, người viết thấy GS Phó Bá Long là người đủ can đảm để nói ra gần như huỵch toẹt.
Tiếng Anh Kinh thương, môn chính khóa? Theo nhận định của ông, ban đầu có nhiều chống đối việc đ̣i hỏi tiếng Anh kinh thương là giáo tŕnh cốt lơi. Nhiều năm sau khi ông đă trở thành Khoa Trưởng, nhiều sinh viên thi rớt trong kỳ thi cuối năm đă đứng lên biểu t́nh chống ông, v́ ông chủ trương duy tŕ tiếng Anh kinh thương ở các cấp lớp trong chương tŕnh bốn năm. Trước t́nh h́nh đó, ông định sẵn sàng từ chức, nhưng Linh Mục Viện Trưởng quyết tâm ủng hộ ông. Dù vậy, hai bên đạt tới một giải pháp dung ḥa là cho phép sinh viên lên lớp nhưng không được cấp bằng nếu họ trở lại thi đậu môn tiếng Anh .
Sau này, theo ông nhớ lại, khi nhiều người trong các sinh viên và giáo sư di tản sang Mỹ trong những ngày đầu tiên sau 30/4/1975, họ đều trở thành người tị nạn và xin định cư tại đó, ông nhận được một điện đàm từ anh Ṭng, người từng lănh đạo nhóm sinh viên đ́nh công tại Đà Lạt. Anh này cám ơn ông v́ ông đă tha thiết làm sao buộc được sinh viên phải học thành thạo môn tiếng Anh. Bây giờ chính tiếng Anh trở nên một công cụ vô giá cho anh trong việc xin tái định cư.
Một vấn đề khó khăn khác là các thuật ngữ tương đương trong tiếng Việt và tiếng Mỹ liên quan đến nhiều kiểu mẫu kinh doanh được đưa vào trong giáo tŕnh Kinh doanh. Chẳng hạn trong tiếng Việt hay Pháp không có tiếng tương đương với các thuật ngữ như behavior và lost leader[164].
Giảng Viên CTKD phân tích về Di Chúc HCM? Ở Ban Cao Học, GS Phó Bá Long c̣n tuyển dụng một vài người nước ngoài giảng thuyết cho các sinh viên. Có lúc một giảng viên người Mỹ, một học giả chương tŕnh Fulbright, hỏi GS Khoa Trưởng xem ông ta có thể giảng về Di Chúc HCM được không. Năm đó (1973), HCM ở miền Bắc đă chết từ bốn năm trước và ở miền Nam chính quyền cấm đọc nguyên bản tiếng Việt Di chúc tuyên ngôn của ông.
Tuy nhiên, GS họ Phó đă nói với giảng viên đó là ông có thể giảng theo bản dịch Di Chúc bằng tiếng Anh. Sự việc ấy được phổ biến trên Đài Phát Thanh Hà Nội. Thế là GS được Bộ Trưởng Giáo Dục triệu tập và thông báo cho biết là ông sẽ phải đối chất với cáo giác của Cảnh Sát An Ninh Sàig̣n. Trước mặt viên chức an ninh Sàig̣n, GS Long xác nhận việc cáo giác ông là đúng, nhưng ông lập luận rằng bài diễn giảng phân tích về Di Chúc HCM là do một giảng viên người Mỹ dùng một bản dịch Mỹ từ nguyên bản di chúc của HCM. Thế là cáo giác hành động vi phạm an ninh của ông được cơ quan cảnh sát bỏ qua, nhưng ông bị cảnh cáo là nên cẩn thận trong tương lai.
Theo cảm nhận của GS PBLong, vị trí khoa trưởng của ông ở một trường có nhiều uy tín như Trường CTKD không phải không có nguy hiểm, không chỉ về chính trị, mà cả những quyến rũ tham ô tài chánh và đạo lư. Ông kể lại:
“Một lần tôi về đến nhà, thấy một gói đồ, mở ra th́ thấy đầy tiền giấy. Claire (vợ ông) cho biết là có một người đàn bà vừa ném gói đó phía ngoài, rồi bỏ đi mà không để lại tên hay địa chỉ bà ta. Tôi lập tức lên xe, phóng lẹ ra ngoài đi t́m người khách thăm. Rất may, Claire nhận ra bà ấy ở trạm bưu điện đầu tiên. Lăng lẽ tôi vội đến gần bà ấy, bảo bà lấy lại gói đồ của bà ấy, và nói thêm rằng nếu tôi khám phá ra tên của sinh viên nào nhờ bà đút tiền, th́ dù nam hay nữ người ấy sẽ bị loại ngay. Bà ấy chưa kịp trả lời, th́ Claire và tôi bỏ đi ngay. Chúng tôi không hề nghe tin ǵ về người khách ấy nữa, nhưng nhờ tôi có hành động mau lẹ mà có hiệu quả mong muốn, v́ từ đó chúng tôi thấy không hề có ai quyền rũ chúng tôi bằng những cách cho tiền như thế nữa[165].”
Trường hợp khác liên quan đến một vị chức sắc trong giáo hội Công giáo. Theo lời ông ghi lại, “một lần tôi nhận được một lá thư từ một vị … mà tôi không quen biết. Trong thư đó ngài gửi gắm một sinh viên có thành tích quá nghèo nào đến nỗi bị đánh rớt. Tôi tŕnh lá thư lên cha viện trưởng Lê Văn Lư, người kế thừa cha Lập. Cha Lư xé tan lá thư, và lập tức cho loại ngay sinh viên kia. Chúng tôi không bao giờ nghe tin tức về vị… kia nữa”[166].
Thỉnh thoảng có tham ô tập thể như lần anh thư kư Lê Văn Vang ở văn pḥng Khoa Trưởng báo cáo là anh đă nhận được một lá thư nặc danh trong một kỳ thi cuối năm. Thư đó hứa hẹn cho anh một số tiền lớn, nếu anh lấy ra các giấy tờ khảo thí nào đó với các chữ mật mă trên ḍng cuối của tờ giấy và tuồn đến một số nhân viên giảng huấn đặc biệt để cho điểm.
“Chúng tôi điều tra và phát hiện thấy giảng viên liên quan là các giáo sư phụ giảng theo hợp đồng năm. Chúng tôi báo cáo toàn bộ trường hợp mưu mô này cho Viện Trưởng. Ngài quyết định lặng lẽ cho đánh rớt tất cả những sinh viên có liên quan và hủy bỏ hợp đồng với các giảng viên. Một giảng viên vi phạm đă phản đối việc sa thải này – cho đến khi tôi cho biết [105] kư hiệu mật mă, th́ mật mă đó mới làm giảng viên kia câm lặng ngay”.
Người biên khảo sau khi phân tích và tổng hợp đă nh́n thấy Trường CTKD, dù có những sai sót về số liệu công bố, không chỉ đem lại một thành công về kiến thức và kỹ năng chính trị, kinh tế và quản trị kinh doanh trong lănh vực kinh tế chính trị cho một tập thể sinh viên khá đông đảo, góp phần cải thiện h́nh ảnh thiết thực và độc đáo nhất định về một Viện Đại Học Công Giáo. Trong một giai đoạn nhất định Trường đă góp phần đem lại một giải pháp cho cuộc khủng hoảng cả về tài chánh của VĐHĐL.
Nhà trường c̣n cống hiến một thứ kiểu mẫu cho những h́nh thức tổ chức điều hành, học thuật, thi cử và môi trường làm việc tập thể nhân bản tối ưu cho mọi thành phần trong cuộc, mà cho nền giáo dục trong cả giáo hội và đất nước nói chung trên cái nh́n ở tầm vĩ mô bao quát từ quá khứ, hiện tại đến tương lai. Thực tiễn luôn luôn chứng minh và biện chứng với những cảm tưởng, lư thuyết và lư tưởng. Người lănh đạo, quản trị viên có trách nhiệm không thể bảo thủ, chuyên đoán, mà cần thức thời nắm bắt nhạy bén và uyển chuyển thay đổi cho chính xác hơn măi và có hiệu quả đào tạo trong cuộc sống là thế.
Nói như thế không có nghĩa Trường CTKD là toàn bích, không có khuyết nhược điểm để sửa chữa, v́ sai lầm là thuộc về bản tính của con người. Có thể sai lầm trong trường hợp này, người viết trộm nghĩ, là phô trương, phóng đại về các thành quả Trường đạt được. Sai lầm không quan trọng bằng nhận ra ḿnh sai lầm và sửa sai. Đó là cách nói khác về sự thiếu trung thực của con người, khi phát hiện sự thật không hoàn toàn là thế. Nhận thức đó chỉ giúp con người bay cao hơn, xa hơn và nhanh hơn, và vững vàng hơn trong những bước đường sắp tới vậy.
Chương Mười Lăm: Trường Thần Học
Quá tŕnh phát triển
Phân Khoa Thần học, do Ban Giảng Huấn Giáo Hoàng Học Viện Thánh Piô X phụ trách, sẽ bắt đầu thực sự từ niên khóa 1975-76. Thực thế, theo kư ức của người tham gia điều hành Trường Văn Khoa VĐHĐL, đến năm 1974, khi có sắc chỉ của Ṭa Thánh, sát nhập khoa Thần học của Giáo Hoàng Học viện vào Viện Đại học Đà lạt, th́ những người có trách nhiệm liên hệ bắt đầu thực thi những dự phóng đă nung nấu, ḍ dẫm, thử nghiệm, thảo luận, đúc kết các vấn đề liên quan từ lâu, để thi hành qua thời gian[167].
Vị Khoa Trưởng Khoa Thần Học đầu tiên là LM San Pedro, STD, Tiến Sĩ Thần Học, SJ. Sau khi rời Việt Nam, ngài làm Phó GM giáo phận Houston-Gaveston, TX, trước khi được bổ nhiệm làm GM giáo phận Brownsville, TX.
Biểu 14. Sơ Đồ Cơ Cấu Quản Trị
Giáo Hoàng Học Viện Thánh Piô X Đà Lạt
|
Chưởng Ấn, Bề Trên Tổng Quyền DT |
|
||
|
Phó Chưởng Ấn. Bề Trên Miền DT |
|
||
|
Viện Trưởng, Khoa Trưởng Thần Học |
|
||
|
Phó Viện Trưởng |
|
||
KHỐI QUẢNLƯ |
KHỐI KỶLUẬT |
KHỒI TÂMLINH |
KHỐI HỌCVỤ |
KHỐI THƯVIỆN |
Quản Lư |
Giám Luật |
Linh Hướng |
Học Vụ, Ban Thần Học |
Thư Viện |
Hội Đồng Tư Vấn (Quản Trị, Phân Khoa, Chuyên Biệt) |
||||
Hội Đồng Chủng Sinh |
Từ năm 1957, các Giám Mục trong Hội Đồng Giám Mục Việt Nam muốn xây dựng một hàng giáo sĩ bản quốc có giàu khả năng trí thức và đạo đức đă thỉnh cầu Bộ Truyền giáo thiết lập một Học Viện Giáo Hoàng ở tŕnh độ đại học. Ṭa Thánh chấp nhận và đă trao công việc cho các linh mục tu sĩ Ḍng Tên. Ngày 13/9/1958, một số linh mục Ḍng Tên đă xúc tiến công cuộc thành lập Học viện trên cơ sở tạm thời ở ngon đồi B của Viện Đại Học Đà Lạt, gần trường Trung học Trần Hưng Đạo, trước khi chuyển đến cơ sở chính thức ở địa điểm hiện nay.
Công tŕnh được khởi đầu xây dựng từ năm 1961, và từ niên khóa 1963-64 đă bắt đầu sinh hoạt cho đến năm 1978. Cơ sở được một kiến trúc sư người Việt, Ông Tô Công Văn, mặc dù có người đặt nghi vấn[168] là phải chăng Kiến trúc sư Ngô viết Thụ vẽ kiểu và đôn đốc xây dựng, thực hiện đồ án kiến trúc này, phù hợp với môi trường đào tạo, điều kiện chất lượng và tiện nghi cấp trung ương của Ṭa Thánh tại Việt Nam.
Cơ sở học viện mới có một khuôn viên rộng gần 8 mẫu tây, tọa lạc trên một sườn đồi nên thơ trên đường Phù Đồng Thiên Vương, quay ra đồi cù thơ mộng tiếp nối với Trường Trung Học Bùi Thị Xuân và Viện Đại Học Đà Lạt, được thường xuyên che bóng dưới tán lá xanh mướt của rừng thông.
Ngày 24/4/1964, Đức Ông Francesco de Nittis, thay mặt Khâm Sứ Toà Thánh tại Việt Nam, cùng HĐGMVN, chính thức khánh thành cơ sở mới với các tiện nghi thích hợp cho việc đào tạo các chủng sinh.
Sau mấy năm đào tạo về Triết học, ngày 31/7/1965, chương tŕnh thần học mới bắt đầu tại cở sở mang tên chính thức là Học Viện Giáo Hoàng Thánh Piô X, Đà Lạt. Tiếp theo đó, Ṭa Thánh qua Bộ Truyền giáo, cho phép khoa này liên kết với VĐHĐL.
Biểu 15. Các Viện Trưởng Giáo Hoàng Học Viện
Thứ Tự |
Lm. ViệnTrưởng |
Nhiệm Kỳ |
Chú Thích |
(1) |
(2) |
(3) |
(4) |
1 |
F. Lacretelle |
1957-60 |
Chưa có chức vụ chính thức |
2 |
Franz Burkhadt |
1960-62 |
|
|
Karl Steinmetz |
Vài tháng tạm quyền |
|
3 |
Paul O’ Brien |
1962-65 |
|
4 |
Giuseppe Raviolo |
1965-72 |
|
5 |
J.R. De Diego |
1972-75 |
|
(5) |
|
1957-1975 |
|
Thực tế giáo tŕnh thần học đă bắt đầu có từ niên khóa 1963-64, nhưng xử dụng cho nội bộ của Giáo Hoàng Học Viện Thánh Piô X, như một chủng viện giáo hoàng do các Linh Mục Ḍng Tên quản nhiệm.
Cho đến trước 30/4/1975 Học Viện đă thu nhận 450 sinh viên chủng sinh triết thần học theo những học chế khác nhau. Đă có 245 Chủng Tu Sinh thuộc nhiều giáo phận và ḍng tu địa phương thụ phong linh mục, trong đó một số chủng sinh từ các giáo phận nước ngoài như Lào và Kampuchia. Có tài liệu đưa ra con số 112 chủng sinh giáo phận và 63 tu sinh ḍng được thu phong Linh Mục. Trong khi linh mục F. Gomez đưa ra con số ít nhất l à 350 chủng sinh theo học, trong đó có 178 linh mục v à 10 giám mục (F. Gomex, SJ: Lịch Sử Tóm Tắt Giáo Hoàng Học Viện Thánh Piô X Đà Lạt, www.dunglac.net )
Ban Giảng huấn
Ban giảng huấn, gồm hơn năm mươi giáo sư thuộc khoảng 10 quốc tịch khác nhau. Ngoài những vị giáo sư cơ hữu, cũng có nhiều GS thỉnh giảng đến từ các các cơ sở quốc tế, như Sophia University, ở Tokyo bên Nhật, Institut Catholique từ Paris, Pháp, Fujen Catholic University ở Đài Loan, Gregoriana ở Roma, Ư Đại Lợi.
Hai GS Trung Hoa thuộc Ḍng Tên là Linh Mục Joseph Chen Chung Ling và Matthias Chen Van Dzu khi giảng bài, hay nhắc đến Kiến Trúc Sư Tô Công Văn, có thể đề cao tinh thần dân tộc của người Việt Nam.
Ban Giảng Huấn
Mục đích của việc đào tạo
Qua nhiều phiên thảo luận giữa hai cơ quan, Viện Đại Học và Học Viện Giáo Hoàng Thánh Piô X đă thảo luận về phương thức liên kết và được các chức trách đôi bên phê chuẩn. Thư của Đức Phaolô VI gửi HĐGMVN ngày 15/9/1966, có đoạn viết:
“Cuộc thành lập Khoa Thần Học tại Học Viện Giáo Hoàng Thánh Piô X Đà Lạt trong thời gian sau Công Đồng sẽ khuyến khích tất cả mọi người có thiện chí, dấn thân hoàn thành lời Thánh Phaolô “Hăy thực thi chân lư trong đức ái” (Eph., 4, 5). Khoa Thần Học sẽ là điểm gặp gỡ giữa tinh thần Tin Mừng và di sản triết học và tôn giáo phong phú của dân tộc Việt Nam.”
Học Viện có mục đích đào tạo các linh mục với qui mô sâu sắc hơn về trí thức và tu đức. Các tuyển sinh theo học ở đây là các chủng sinh được chọn từ khắp các giáo phận miền Nam, và một vài chủng sinh từ Kampuchia và Lào.
Với tư cách một phân khoa của VĐHĐL, khi ra trường, sinh viên sẽ được cấp bằng Cử Nhân Thần Học, nếu đạt các chỉ tiêu học vấn và thi cử qui định. Những ai muốn dọn Tiến Sĩ Thần Học th́ mới tiếp tục theo học cao hơn. Chương tŕnh giáo dục theo tiêu chuẩn của một Học Viện Giáo Hoàng, v́ hầu hết nhân viên ban giảng huần là các giáo sư danh tiếng có khả năng chuyên môn cao của nhiều cơ sở đại học quốc tế trong và ngoài Giáo hội.
Chương tŕnh huấn luyện của Giáo Hoàng Học Viện Piô X Đà Lạt
Chương tŕnh dự kiến gồm 8 năm chứ không phải 6 năm, như nhiều chủng viện khác. Chưa kể đi thực tập mục vụ dài hạn, (hay đi giúp xứ), có giáo phận 1 năm, có giáo phận 2 năm chẳng hạn như Long Xuyên. Thời gian đầu được chia ra như sau:
* 1 năm dự bị.
* 3 năm triết học.
* 4 năm thần học.
Thời gian sau được đổi thành:
* 3 năm triết học và có thể là 4 năm.
* 5 năm thần học.
Sở dĩ như vậy, v́ muốn theo đúng qui chế phân khoa thần học của Roma. Đồng thời về triết học, th́ sẽ theo học ở bên Viện Đại Học Đà Lạt. Cụ thể là khoảng 1973-1975 các đại chủng sinh Ban Triết Học đă sang học bên Viện Đại Học. Lúc bấy giờ đă có được sự thỏa thuận giữa Giáo Hoàng Học Viện và Viện Đại Học Đà Lạt. Các đại chủng sinh sẽ học triết học ở Viện Đại Học, c̣n Phân Khoa Thần Học của Giáo Hoàng Học Viện sẽ mở rộng và trở thành một Phân Khoa chính thức của Viện Đại Học.
Công Tác Nghiên Cứu Trong Quá Tŕnh Học Hỏi
Các giáo sư và sinh viên c̣n coi học viện như một phân khoa thần học độc đáo ở Việt Nam. V́ thế học viện nghiên cứu một nền thần học mang sắc thái Việt Nam theo nhận thức hội nhập văn hóa. Dưới hướng dẫn của linh mục Felipe Gomez, SJ, toàn bộ văn kiện của Công Đồng Vatican II đă được dịch thuật sang tiếng Việt và ấn hành thành sách trước 30/4/1975.và có thêm phần chú giải công phu.
Ngoài ra học viện c̣n xuất bản tap chí Tuyển Tập Thần Học gồm những suy nghĩ và nghiên cứu thần học của các giáo sư và sinh viên.
Nhiều tác phẩm của Linh mục Drexel cũng được chuyển dịch sang tiếng Việt.
Cuối cùng là Từ Điển Thần Học của Xavier Dufour đang được phiên dịch th́ t́nh h́nh đất nước thay đổi.
Nhưng sau năm 1975, dưới chế độ mới tác phẩm này đă được ấn hành và người viết đă chứng kiến bộ tự điển này có bày bán ở nhà sách dưới tầng trệt của Ṭa TGM Sàig̣n.
Tất cả những công tŕnh đó đều là những nỗ lực vừa học vừa nghiên cứu, giúp làm sâu rộng kiến thức của chủng sinh. Chính đó là một hành động hội nhập văn hóa xây dựng một nền thần học mang sắc thái Việt Nam.
Vài nét về nội dung đào tạo của GHHV
Giáo tŕnh thần học này chủ yếu là đào tạo các chủng tu sinh. Tuy theo nguyên tắc giáo dân có thể tham gia, nhưng chưa có trong thực tế, v́ việc quan hệ giữa Học Viện Giáo Hoàng Piô X Đà Lạt và Viện Đại Học Đà Lạt có nhiều phức tạp chưa giải quyết xong v́ t́nh h́nh xă hội. Hơn nữa điều kiện để giáo dân tham gia có nhiều yếu tố cần cân nhắc, kể cả chủ quan và khách quan. Thực tế chu kỳ tám năm đào tạo có thể diễn ra như sau.
1. Giáo tŕnh bốn năm triết học. Các chủng sinh phải học sáu bộ môn chính của triết học kinh viện theo truyền thống từ lâu ở các đại chủng viện của Giáo Hội Côn giáo:
Luận Lư Học; Hữu Thể Học; Đạo Đức Học; Tâm Lư Học; Vũ Trụ Học; Thần Học Tự Nhiên. Ngoài ra chủng sinh c̣n phải học một số bộ môn khác về triết sử.
2. Khẩu Vấn De Universa: Cửa ngơ vào thần học
Sau bốn năm triết học, các chủng sinh phải qua một cuộc sát hạch khẩu vấn Về Kiến thức tổng quát, gọi là De Universa. Các chủng sinh phải trải qua một cuộc thi hỏi đáp bằng tiếng La Tinh hay Tiếng Pháp.
a. Ban thẩm vấn có năm giáo sư giám khảo và mỗi giám khảo đặt một câu hỏi. Thí sinh phải trả lời xuất sắc mỗi câu hỏi đó mới đạt tiêu chuẩn, nghĩa là phải được điểm trung b́nh là 6/10 và được ít nhất là ba giám khảo cho điểm 6/10 trở lên. Như thế một thí sinh có hai giám khảo cho điểm 9/10, nhưng có ba vị chỉ cho điểm 5/10, th́ thí sinh vẫn không được chấm đậu, dù [(2x 9) =18; (3x5)=15; (15+18): 5= 6,6] đă được 6,6/10 trên trung b́nh cộng tổng điểm của 5 môn vấn đáp.
b. Một điều kiện nữa là khi đă thi vấn đáp đạt kết quả tốt, th́ các điểm học về mỗi môn của bản thân thí sinh trong bốn năm học triết trước đó, phải được điểm trung b́nh.
Nếu không đủ điều kiện vượt qua cuộc khẩu vấn De Universa, th́ chủng sinh vẫn được theo học bốn năm thần học, nhưng không đủ điều kiện để được cấp văn bằng Cử Nhân Thần Học sau khi tốt nghiệp.
3. Học hỏi bằng thảo luận, đối thoại
Trong khi học thần học, để củng cố đức tin trong việc t́m hiểu các tôn giáo khác bằng phương pháp đối thoại, các chủng sinh cũng được tiếp xúc thẳng với các vị chức sắc tôn giáo khác để thảo luận, đối thoại.
Cụ thể là trong một khóa học bốn năm thần học, Thượng Tọa Phật Giáo Thích Minh Châu của Viện Đại Học Vạn Hạnh được mời lên tŕnh bày một số vấn đề cơ bản nhất của Phật Giáo và tiếp xúc đối thoại với sinh viên, nhưng hôm đó, Thượng Tọa Thích Minh Châu bận Phật sự, nên cử Thượng Tọa Thích Quảng Độ lên Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt thay thế. Hai câu hỏi được đặt ra cho Thương Tọa là:
Thuyết cấm sát sinh của nhà Phật không thể thi hành tuyệt đối được. Người ta không thể không uống nước. Thế mà ngay trong nước lă thường, đă có không biết bao nhiêu vi sinh vật trong nước. Uống vào là sát sinh rồi?
Câu hỏi về thuyết luân hồi: Phật Giáo giải thích thế nào về dân số học. Mỗi năm dân số mới cao hơn, và v́ thế cơi nhân sinh mỗi năm mỗi tăng thêm. Vậy có phải là nhiều thú vật sống lanh hơn và thăng tiến chức năng?
Trong buổi kết thúc khóa đối thoại liên tôn TT/ TQĐ đă phát biểu mấy ư. Trước khi tin rằng đó là phát biểu từ tâm thành của Thượng Tọa Thích Quảng Độ, b́nh thường các độc giả nghĩ rằng những ư tưởng phát biểu dưới đây chỉ mang tính xă giao.
1.“Chưa bao giờ tôi gặp một nhóm sinh viên xuất sắc và lịch lăm như thế trong đời”
2.“Những câu hỏi đặt ra rất tốt cho cuộc đối thoại liên tôn trong tương lai”
3.“Phải rất lâu nữa Phật Giáo mới chuẩn bị được một lớp người tương lai như vậy”
4.“Nếu ở thêm một tuần nữa nghe các chủng sinh đặt thêm câu hỏi, th́ chắc tôi sẽ theo Công giáo luôn”
Các phát biểu trong bối cảnh kết thúc một cuộc đối thoại của một vị Thượng Tọa như Thích Quảng Độ không thể lột tả sự chân thành qua lời phát biểu bên ngoài đúng như tấm ḷng của chính người đối thoại.
Câu 1 là một cách tán tụng thuần túy thông thường đối với rất nhiều đối tác xă giao.
Và câu 2 là một câu bông đùa cho vui hơn là thực chất, nhưng cũng có thể có nhiều hàm ư khác.
Câu 3 dường như nói để có đối thoại, nhưng kết quả của cuộc đối thoại đó hầu như sẽ chẳng giải quyết ǵ cả ngoài một thái độ ḥa hoăn khoan dung, v́ không ai giải thích cặn kẽ được những vấn đề đặt ra cho nièm tin của mỗi tôn giáo, mỗi tín ngưỡng, mỗi con người. V́ thế “đường anh đi anh cứ đi, và đường tôi đi, tôi cứ đi”.
Trong câu 4, chắc chắn về phương diện đào tạo, phải rất lâu nữa Phật Giáo mới chuẩn bị được một lớp người tương lai như trong một chủng viện Công giáo. Nhưng có thể không bao giờ có một lớp người như thế trong Phật giáo, v́ mỗi tôn giáo có những sắc thái môi trường riêng biệt mà tôn giáo khác không có.
Chính người viết cũng có lần được linh mục Dominici (Đỗ Minh Trí) mời thuyết tŕnh cho các sinh viên thần học thuộc Giáo Hoàng Học Viện Piô X đề tài về “Phương pháp truyền giáo hội nhập văn hóa của linh mục Đắc Lộ”. Tài liệu căn bản người viết xử dụng là Luận Án Tiến Sĩ của Linh mục Đỗ Quang Chính SJ viết về Linh mục Đắc Lộ.
Linh mục Dominici là một người tham dự rất đếu đặn chăm chỉ các lớp người giảng dậy về lịch sử và Văn Minh Việt Nam cho các sinh viên của Trường Văn Khoa để học biết thêm về lịch sử và văn minh văn hóa Việt Nam. Linh mục tha thiết với đất nước và dân tộc Việt Nam đến nỗi muốn trở nên Việt Nam với người Việt Nam. Về sau, người viết được biết khi ra nước ngoài, Linh mục Dominici đă từng nhiều năm phục vụ và viết nhiều sách báo và hành động cụ thể bênh vựcngười Việt Nam và ca ngợi văn hóa và tinh thần dũng cảm của ngườiViệt Nam khi làm việc tại các trại tạm cư ở Palawan (Phi Luật Tân), Galang (Nam Dương).
Các chủng sinh cũng được ra ngoài tham gia những cuộc tranh luận, như về vấn đề hạn chế sinh sản ở KS Palace, Đà Lạt, do chính GS Phó Bá Long tổ chức với tài trợ hoàn toàn của Mỹ. Nhiều thuyết tŕnh viên khác như các học giả, các Giám mục, Linh Mục chuyên môn cũng được mời đến trao đổi với chủng sinh. Nhà văn Duyên Anh nói về giáo dục tuổi trẻ, nhà văn Hoàng Xuân Việt nói về thái độ cởi mở biết lắng nghe những người nói khác ư ḿnh.
Có những cuộc thăm viếng đặc biệt đến GHHV của các nhân vật nổi tiếng như Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu (1967), và Bề Trên Cả Arrupe Ḍng Tên đến VN và đến GHHV (1968).
Thực tập mục vụ
Ngoài chương tŕnh học tập chủng sinh cũng được thực tập mục vụ ngoại khóa bằng nhưng cuộc thăm viếng thực địa, thăm bệnh viện, lao xá, hướng dẫn giáo lư ở các trường trung tiểu học, hướng dẫn JUC, Hùng Tâm Dũng Chí, Thiếu Nhi Thánh Thể, giúp các nhóm trẻ em bụi đời cao bồi vùng Đà Lạt. Nhưng biến cố 30/4/1975 đă chặn đứng tất cả mọi dự tính.
PHẦN IV. SINH HOẠT CỦA VIỆN ĐẠI HỌC
Sau khi đă phân tích từng phương diện của mỗi bộ phận trong Viện Đại Học Đà Lạt, một cái nh́n tổng hợp là cần thiết để từ đó mỗi người đọc thấy rơ những mặt tích cực mà tập thể Viện Đại Học đă làm được và khắc phục những mặt tiêu cực sai lệch với những mục tiêu chiến lược đề ra. Người ta thường ưa thích nói đến thành tích mà mau quên những bài học đưa đến tiêu cực. Hy vong khảo luận nhỏ bé này không làm nản ḷng những ai ky vọng vào tương lai đang tới trong việc xây dựng một nền đạo học xứng đáng phù hợp với tầm vóc Việt Nam trong thế kỷ này. Mỗi thế hệ có một vài tṛ của ḿnh để đừng di lụy cho các thế hệ kế tiếp
Chương Mười Sáu: Tổng Kết Số Liệu Toàn Viện (1957-1975)
Số Liệu Thống Kê
Những số liệu tổng kết số sinh viên Tốt Nghiệp thuộc tất cả các Trường (Phân Khoa) thuộc Viện, ở ba cấp Cao Đẳng, Cử Nhân và Cao Học (1958-1973) có thể ước lượng, với các số liệu về nhân sự hành chánh và giảng huấn thuộc NK 1973-74, như sau:
Biểu Đồ 16. Tổng Kê Số Liệu Toàn Viện Đại Học Đà Lạt (1957-1973)
TT |
Trường Đại Học |
Sinh Viên |
Nhân viên phục vu |
||||||
Ghi danh |
Tốt nghiệp |
Giảng huấn |
Hành chánh |
||||||
Cử Nhân |
Cao Học |
Cao Đẳng |
Cử Nhân |
Cao Học |
Cơ hữu |
Thỉnh Giảng |
|||
(1) |
(2) |
(3) |
(4) |
(5) |
(6) |
(7) |
(8) |
(9) |
(10) |
1 |
Sư Phạm |
02805 |
|
|
0362 |
|
05 |
28 |
04 |
2 |
VănKhoa |
08800 |
0363 |
|
0363 |
03 |
08 |
70 |
05 |
3 |
Khoa Học |
03985 |
|
|
0046 |
|
08 |
48 |
09 |
4 |
Chánhtrị Kinhdoanh |
09694 |
0904 |
|
0955 |
51 |
08 |
83 |
16 |
5 |
Thần Học |
450 |
|
|
245 |
|
|
? |
|
6 |
Các Bộ Phận Khác |
|
|
|
|
|
|
|
82 |
|
|
25284 |
01267 |
|
1726 |
58 |
29 |
200 |
116 |
T.C |
|
27301 |
|
2075 |
229 |
116 |
|||
Chú thích: 1/Số liệu Theo Viện Đại Học Đà Lạt: Chỉ Nam Sinh Viên NK 1973-74 đd., t. 9, t. 31(SP), t.49 (VK) t. 74-75 (KH) , t. 103 (CTKD). 2/ Thần học có số liệu chung cha cả triết thần. Con số đưa ra chỉ là số ước lượng theo tài liệu nghiên cứu tổng hợi về sau và được cộng vào tổng số chung của toàn viện 3/ Các cột (3), (6), (7), (8), (9), (10) là những số liệu cho ta thấy được hiệu năng thực sự, ít nhất theo số lượng, của Viện Đại Học Đà Lạt. Chính từ số liệu đó ta có thể đánh giá chất lượng nào đó về kế hoạch đào tạo. |
Số liệu nói trên không biểu thị một thành quả lớn lao về số lượng, như điều quan trọng là số người đó nắm giữ có hiệu quả những địa vị quan trọng trong guồng máy của đất nước về các mặt kinh tế, văn hóa, giáo dục. Tác dụng biến đổi đất nước sẽ lớn lao với những nhà lănh đạo, nhà hoạt động cụ thể đó. Nếu trong thời gian từ 1957-1975, một thời gian xáo trộn trong bối cảnh chung của miền Nam mà Viện Đại Học Đà Lạt đă đứng vững và tiếp tục sứ mệnh Thụ Nhân như thế, th́ vấn đề không phải là nhỏ.
Một tập thể gồm khoảng 116 nhân viên tham gia điều hành và 229 nhân viên giảng huấn. Tập thể ấy phục vụ bằng biết bao công sức và tâm lực, với lương tâm trong sáng cho một cộng đồng sinh viên ước lượng là 27.301 người, và đạt tới kết quả 2.075 Cử Nhân các khoa cùng 58 Cao Học tiến cử cho xă hội. Thành quả ấy không phải là không đáng kể. Tỷ lệ đào tạo đó vào hoảng 6.8% cho ban Cử Nhân và 4.3% cho Ban Cao Học. Và châm ngôn “quí hồ tinh, bất quí hồ đa” đă là tiêu chuẩn hàng đầu của Viện vậy
Tỷ Lệ Kết Quả Đào Tạo Không Đồng Đều ở Các Khoa.
Trong một thời gian nhất định trường Sư Phạm đă đào tạo theo hợp đồng với chính quyền phụ trách về giáo dục. Nên quyết định về các tiêu chuẩn học tập và tốt nghiệp không hoàn toàn do Ban Điều Hành và Giảng Huấn của nhà trường chủ động, tuy tỷ lệ đó chỉ áp dụng cho một thiểu số trường hợp.
Trường Văn Khoa có lẽ có số sinh viên có tổ chức liên hệ và gắn bó kín đáo nhất, do hoàn cành của mỗi sinh viên thường rất khác nhau trong cuộc sống đời thường, và tính chất của môn học và học chế áp dụng cho từng môn học, cũng như phương pháp giảng dậy rất khác nhau tùy theo mỗi giáo sư đứng lớp.
Trường Khoa Học dường như âm thầm nhất với thành quả tốt nghiệp cũng khiêm tốn. Điều đó các nhà điều hành cần cân nhắc các nguyên nhân chi phối. Phải chăng đó là nét đặc thù của bất kỳ trường Khoa Học nào, hay v́ những động lực mà Viện và Khoa chưa nằm được hết. Dù là lănh vực khoa học tự nhiên, th́ các sinh viên theo học nhiều hay ít cũng tùy thuộc qui luật tâm lư: Lợi và Thú. Điều ǵ đă tác động đến lựa chọn của sinh viên?
Trường Chánh Trị Kinh Doanh có một tỷ lệ tốt nghiệp của một khóa (cuối năm thứ IV) là khoảng 30% so với sĩ số ghi danh nhập học qua trắc nghiệm (đầu năm thứ I). Một tỉ lệ rất cao. Mỗi năm có những sinh viên rơi rụng v́ nhiều hoàn cảnh. Mỗi khóa học kéo dài bốn năm tạo ra một lớp sinh viên tương đói có nhiều liên hệ chặt chẽ với nhau hon so với các khoa khác. Và khi dấn thân vào đời cuộc sống học tập hợp tác trước kia đó dễ khiến họ phát huy khả năng tổ chức và đời sống cộng đoàn cũng như tinh thần tương trợ hợp tác trong bất kỳ t́nh huống nào trong đời thường về sau.
Trường Thần Học tuy nói là thuộc vào Viện Đại Học Đà Lạt, nhưng quá tŕnh hội nhập này đă diễn ra rất chậm và phức tạp trong thời gian sau này, v́ nhiều lư do khác nhau. V́ thế các số liệu về thành quả của Trường này phản ảnh tương đối đúng ở các thời điểm chính thức. Vả lại, sinh viên của Trường này hầu hết là các sinh viên tu sĩ đă được tuyển lựa từ các giáo phận hay ḍng tu (linh mục triều hay tu sĩ ḍng).
Những điều chung nhất mà khi tổng kết phần lịch sử Viện Đại Học Đà Lạt mà mỗi người tùy theo cương vị và trách nhiệm của ḿnh có thể cần rút ra cho tổ chức của ḿnh và bản thân ḿnh th́ rất nhiều vấn đề. Người viết chỉ gợi ư ra một số chủ đề rút ra từ thực tế làm việc và quan sát kinh nghiệm một số nhiệm vụ đă đảm trách, mà không khai triển. Mỗi người liên hệ tự t́m ra đáp số cho xă hội và cuộc đời chính ḿnh
Vấn Đề Tâm Linh & Nhân Bản
Quan hệ giữa Giáo dân và Linh mục
Tác phong đạo đức cá nhân của nhân viên trong viện
Tuyên úy sinh viên
Đoàn Sinh Viên Công Giáo
Vấn Đề Nhân Sự
Tổ chức Quản Trị
Hội Đại Học Đà Lạt
Sinh hoạt văn pḥng hành chánh
Những công việc về quản lư
Hợp Tác Giữa Nhân Sự Các Nguồn Đào Tạo
Cư Xá Giáo sư và Nhân Viên
Chương tŕnh đi du học
Vấn Đề Học Vụ
Công tác Sinh Viên Tất Cả V́ Sinh Viên: Tổ Chức Sinh Viên Vụ đa hiệu
Các đại học xá sinh viên
Phương pháp học vụ: giảng dậy, giáo tŕnh, tổ chức hội học
Tổ Chức Thi Cử
Những thành quả giáo dục thực sự tại Viện Đại Học Đà Lạt
Những hậu quả giáo dục tiêu cực từ những người làm việc (hành chánh và giảng huấn) hay thụ huấn ở Viện Đại Học Đà Lạt
Những Dự Phóng Tương Lai
Đầu tư tạo tiện nghi tối đa về mọi phương diện cho công cuộc đào tạo con người
Mở rộng các quan hệ giao lưu với cơ sở giáo dục nghiên cứu, sinh hoạt kinh tế văn hóa chánh trị trong và ngoài nước
Tạo điều kiện tối đa như một chiến lược tiến cử bền vững, lâu dài, quảng đại và nhân ái đối với thế hệ được đào tạo vào xă hội
Phát Huy tính năng một Viện Đại Học Công Giáo thành một Trung Tâm Nghiên Cứu và Phục Vụ Đặc Thù ở Cao Nguyên
Sáng kiến đóng góp của mỗi đơn vị cho địa phương, xă hội, và khoa học
Tầm Nh́n Trên và Sau Đại Học
Phát Huy truyền thống tự trị của nền đại học
Một cộng đồng trí thức có tầm nh́n xa rộng và thức thời
Việc phân tích vào nhiều chi tiết có thể xới lên những vấn đề ngổn ngang như một cựu sinh viên Ban Triết Học của Trường Đại Học Văn Khoa Đà Lạt đă có những cảm nghĩ bộc trực như có ǵ bất ổn trong thâm tâm anh thế nào đó. Tôi không hoàn toàn đồng ư với tác giả về tất cả các suy nghĩ tự phát của anh, nhất là việc nối kết thành tích vói chất lượng. Vả nếu có một số trường hợp như BD, NHG hay KD, hay nhân vật D và V nào đó, th́ c̣n biết bao điều xây dựng tích cực đă, đang và sẽ diễn ra. Người viết lá thư dưới đây đă đề tất cả các tên rơ ràng, nhưng v́ tôn trọng các danh tính riêng tư đó, tôi xin chỉ viết tắt:
“Minh da doc xong lich su dai hoc Da Lat. Anh viet rat hay nhung con mot phan chua khai thac la nhung sinh vien ra truong dong gop gi cho xa hoi hien tai. Vi du BD la can bo tinh bao gioi cua VC (!). Chinh thanh qua se noi len chat luong cong viec. Pham chat dao duc cung la mot tieu chuan. Vi du ong NHG mo cong ty du lich nho tien cua hoc tro cu vo no, bo? tro^ 'n lam anh sinh vien ay dieu dung do khoc do cuoi. Roi thay KD viet gan 40 cuon sach ve van hoa Dong Phuong ma khong viet noi mot cuon sach ve Duc Ki-to, vay ma cung la linh muc. Chua het nhung cuon sach cua ong KD vo hinh trung tiep tay cho chu nghia ba quyen Nho giao cua Trung Quoc.
Do chi la may goi y cho anh, co the minh sai, nhung minh thay tri thuc mien Nam truoc day to lo mo lam sao ay va co ve nguy tin nua. Vi du ong D noi khong lam chinh tri trong dai hoc nhung co mot dieu chac chan ong biet sinh vien nao den o voi ong thuoc lap truong chinh tri nao, va hinh nhu co mot thoi ong lay quan diem cua ong V lam cua minh. Sent: Sunday, May 28, 2006 6:18 PM Subject: lich su DHDL”
Chương Mười Bảy: Những Mẩu Sinh Hoạt Rời Rạc Trong Viện
1.Chuyện chung quanh việc thành lập Trường Chính Trị Kinh Doanh.
Theo kư ức của GS Lê Hữu Mục, giảng dậy môn Việt Văn, th́ ấn tượng đáng ghi nhớ có thể là việc mở Trường Chính Trị Kinh Doanh. Sáng kiến này được LM Viện Trưởng Simon Nguyễn Văn Lập có dự định từ khá sớm, nhưng có rất nhiều ư kiến phản đồi từ nhiều giới, từ trong HĐGMVN đến các giáo sư và cộng đồng Công giáo. Theo một trong nhiều lư do phản đối kịch liệt v́ quan niệm cho rằng, là một cơ sở giáo dục Công giáo, tại sao VĐH ĐL không mở phân khoa thần triết học mà lại mở trường kinh doanh? Làm thế không sợ dư luận kết án là chạy theo tư bản sao? Vả lại thế mạnh của nhiều học giả Công giáo là thuộc lănh vực khoa học xă hội nhân văn.
Nhưng với nhận thức, ư chí cương quyết cùng trợ lực hợp tác của nhiều giáo sư quản trị kinh doanh, cuối cùng Trường Chánh Trị Kinh Doanh thành h́nh và đạt hiệu quả đào tạo cao nhất không những về sĩ số của Viện mà c̣n đóng góp lớn lao cho xă hội những chuyên gia quản trị kinh doanh có tầm vóc xuất sắc nổi tiếng ở trong cũng như ngoài nước[169].
Có người đàm tiếu là lúc đó Viện Đại Học Đà Lạt tưởng chừng ở trong t́nh trạng bế tắc, sau khi chế độ Ngô Đ́nh Diệm bị lật đổ. Đúng là cảnh “dậu đổ b́m leo”, người ta muốn trút cơn giận và muốn đóng cửa và tích thu luôn Viện Đại Học Đà Lạt, chỉ v́ tất cả những cơ sở đó là do chế độ của kẻ đă bị lật đổ dựng nên một cách nào đó. Nhưng Trường CTKD đă củng cố lại uy tín và sức sống của VDHDL!
Người khác lại nói đúng là lúc quyền lực tư bản Mỹ kéo vào Miền Nam Việt Nam theo đồng đô la Mỹ cùng với quân đội Mỹ ồ ập. Nên việc lập ra trường Chánh Trị Kinh Doanh là dọn đường trước cho ảnh hưởng văn hóa, kinh tế tài chánh của Mỹ vào Việt Nam, đúng vào thời điểm 1965! Mấy đầu cầu của Mỹ đă được bố trí từ lâu. Bây giờ là thời của những người ấy. Con đường văn hóa kính tế Mỹ đă lên đường!
3. Tham Gia Triển Lăm 350 Truyền Giáo Tại Việt Nam.
Năm 1972, Viện được mời tham gia cuộc triển lăm cùng với một số đơn vị Công giáo từ nhiều giáo phận và cơ quan khác nhau, nhân kỷ niệm 350 năm Công giáo được truyền đến Việt Nam, tại Trung Tâm Công giáo ở đường Nguyễn Đ́nh Chiểu, Tân định, Sài g̣n.
Nhân dịp này, Pḥng triển lăm trưng bày chủ yếu một sa bàn Viện Đại Học Đà Lạt (với yểm trợ kỹ thuật, mỹ thuật của một số họa viên và chuyên viên kỹ thuật thuộc Trường Chiến Tranh Chánh Trị Đà Lạt), một số sách báo do Viện Đại Học xuất bản, đồng thời biên soạn và phát hành cuốn sách nhỏ, giới thiệu tổng quát về Viện Đại Học Đà Lạt, do ba thành viên phụ trách: GS Đỗ Hữu Nghiêm và Họa sĩ người Hoa Quách Hân Tuyền, cô Nguyễn Thị Thúy, một tín đồ Công giáo, giáo sư Trung Học Đệ I Cấp. Cùng với nhiều giáo phận và ḍng tu khác, Pḥng triển lăm đă lôi kéo nhiều người biết đến một nỗ lực phát triển văn hóa vá giáo dục Công giáo ở VĐHĐL trong quá tŕnh truyền giáo từ 350 năm qua.
Chuyện gây nên một ấn tượng bất ngờ khó phai mờ là trong ba người chụp h́nh chung để kỷ niệm cuộc triển lăm của Viện Đại Học Đà Lạt đó ở Trung Tâm Công Giáo. Người đứng giữa là một thanh nữ Công giáo đă đột nhiên về với Chúa trong một hoàn cảnh bi thương. Cô giáo sư THDIC ấy đang tất bật dậy học ở một trường trung học đệ nhất cấp ở vùng Hóc Môn, góp thêm ít tiền nuôi mẹ góa đă luống tuổi. Cái chết tất tưởi lại xảy ra vào đúng ngày ba mươi Tết năm đó, trùng hợp với cái tang của thân sinh cô giáo duyên dáng tuơi tắn, trẻ trung, đạo hạnh và đầy hy vọng ấy vào đúng 30 Tết năm trước. Bao nhiêu ngẫu nhiên đau ḷng không thể giải thích. Báo hại cho hai người đàn ông đứng chụp h́nh hai bên người con gái. Người mẹ đau khổ nh́n cô con gái tươi tắn nằm chết như đang ngủ, vội khóc lóc nhắc lại chuyện người sống:
“Người ta kiêng không dám chụp h́nh ba người, mà tại em nó chụp h́nh lại có hai anh đứng hai bên nên em đi sớm!”
Rồi người mẹ đau khổ kể lể, nghẹn ngào trong nuớc mắt, có lúc như thất thần:
“Sao con chọn đúng ngày ba mươi Tết chết theo cha con, ối con tôi! Con dậy đi, cười với mẹ đi, Trúc ơi!”
H́nh ảnh ấy lại hiện lên rơ ràng khi những ḍng chữ này đang được viết lên.
4. Chiến Dịch Chỉnh Trang Viện Đại Học Đà Lạt.
Tập Thể Sinh Viên chỉnh trang pḥng ốc và cảnh quan khuôn viên Viện. Pḥng Sinh viên vụ đă tổ chức nhiều buổi xúc đất chỉnh trang mặt tiền của khu đất dẫn lên cổng chính của Viện ở đường Phù Đổng Thiên Vương. Nhiều anh chị em sinh viên hăng hái vui vẻ tham gia vào tạp vụ xây dựng công ích, tinh thần tự nguyện rất cao. Từng toán anh chị em sinh viên chia nhau, đi lại xúc và chuyên chở nhiều mảng đất cỏ đồi, nhờ các xe tải Công Binh, lấy từ phía Suối Vàng về chính trang khu mặt tiền của Viện Đại Học. Trong một sinh hoạt khác, nhiều sinh viên tham gia công tác tổng vệ sinh quét dọn lau chùi pḥng ốc và bồn cầu công cộng trong Viện suốt mấy ngày liền. Bầu không khí vui nhộn như chưa từng thấy, đem lại nhiều kết quả tích cực cho môi sinh chung trong viện.
Tuy việc chỉnh trang vật chất là công việc thường xuyên của Viện, nhưng nỗ lực tạo điều kiện cho sinh viên tham gia vào công việc chung là một trong những phương cách huấn luyện nhân cách, tinh thần tập thể, ư thức về công ích ngay trong môi trường sinh hoạt b́nh thường hằng ngày. Chính môi trường ấy cũng đă tạo thêm tính thương mến đấy phấn chấn giữa những cơi ḷng nam nữ tính nguyện dấn thấn vào cuộc sống vị tha.
5. Huấn Luyện Quân Sự Căng Thẳng.
Xen vào những hoạt động nhộn nhịp mệt nhọc mà vui thỏa trong cuộc sống b́nh thường nhởn nhơ, có những buổi huấn luyện quân sự thật là căng thẳng ở quân trường. Lời từ mấy trang hồi niệm của Vũ Khắc Tâm KD5 phản ảnh một khía cạnh cuộc đời nam sinh viên Đại Học Đà Lạt:
[“Tiến và các bạn phải lên đường thụ huấn khóa Quân Sự Học Đường tại quân trường Lam Sơn gần thành phố Nha Trang, một quân trường nổi tiếng với hai câu thơ bất hủ dán ngay cổng quân trường làm rụng rời đám sinh viên thư sinh: Lam Sơn đi dễ khó về. Khi đi người Việt, trở về người Miên. Tuy nhiên dù ngại ngùng hay không th́ … các bạn cũng phải chấp nhân thêm một cuộc sống mớị. Cuộc sống nhà binh dù thực chất cũng chưa bằng được một nửa của cuộc sống của người quân nhân đích thực.
Mới xa nhà để tập tễnh trong cuộc sống tự do tại Đà Lạt th́ nay lại bị ép vào ṿng kỷ luật làm nhiều sinh viên bất măn nên có khuynh hướng chống đối lại kỷ luật trong quân trường và dó cũng là lư do ngay trong tuần đầu tiên đại đội sinh viên đă được nếm mùi h́nh phạt quân trường. Với tay vác súng vai vác balô chạy mấy ṿng quanh sân gần barrack. … các bạn vừa chạy vừa rủa thầm những thằng bạn phá phách làm cả đám bị vạ lây.
Ngoài những bực ḿnh mau qua th́ cuộc sống quân trường cũng có những nét đặc thù của nó, nhưng rơ ràng là nó làm t́nh bạn được gắn bó thắm thiết hơn là ngoài cuộc sống dân sự qua những chia xẻ miếng ăn thừc uống giữa những bạn sinh viên có điều kiện vật chất khác nhau hay những giúp đỡ thể chất giữa những sinh viên mạnh yếu v..v . Những tâm t́nh vụn vặt được chia xẻ qua những buổi gác đêm gần giao thông hào hay trong các đêm tuần hành thật xa ra băi tập bắn ban đêm .. những t́nh cảm nho nhỏ này đă gắn bó những người sinh viên Đà Lạt lại với nhau nhiều.hơn.
Trong 3 tuần lễ đầu, các sinh viên không được phép xuất trại nên ngày cuối tuần “Tiến” lang thang ra Khu Tiếp Tân xem cảnh thăm viếng các khoá sinh tân binh từ những thân nhân hoặc người yêu của họ Có nếm mùi quân trường th́ ngưởi mới thông cảm cuộc đời người lính trong thời loạn lạc và hiểu được t́nh cảm của họ khi một nhạc sĩ quân nhân nào đó đă gởi gấm tâm sự của ḿnh hay của chung các chàng lính trẻ khi phải xa người yêu lên đường nhập ngũ qua những câu hát thật thấm thía:
"Sao em không đến chiều nay thứ bảy.
Sao em không lại cho áo ai bay.
Sao em không lại
Sao em không lại
Quân trường riêng anh đứng đây đếm từng chiếc lá mưa bay
Sao em không đến
Sao em không đến
Để nắng chiều tắt trên cây soan già
Để bước ḿnh anh bâng khuâng mong chờ
Những chiều mong em đến thăm
V́ anh biết anh c̣n có em"[170]
(Sao Em Không Đến - Anh Bằng ) ]
6. Giao Lưu Sinh Viên Liên Trường. Pḥng sinh viên vụ chuẩn bị cho sinh viên đến sinh hoạt chung về thể thao hay hoạt động giao lưu hội thảo văn hóa nghệ thuật. Những chuyến du ngoạn hè của Đoàn Sinh Viên Công giáo Sàig̣n năm 1962 giao lưu hội thảo với một số giáo sư và sinh viên Đàlạt. Thế hệ sinh viên trẻ hơn trải qua những giây phút thư giăn, quên nỗi nhớ nhà với những buổi lưu diễn âm nhạc của Trịnh Công Sơn-Khánh Ly, cùng với nhiều sinh viên liên viện giao lưu với sinh viên Đà Lạt cuối năm 1971. Người ta thoải mái thưởng thức những bản nhạc du dương của cặp nghệ sĩ Lê Uyên Phương (giảng đường Spellman), hay chương tŕnh nhạc chủ đề ở giảng đường Hội Hữu bên Văn Khoa. Với cố vấn và hướng dẫn của GS Vũ Khắc Khoan, nhóm sinh viên Phạm Thùy Nhân[171] đă xây dựng một ban Kich Nghệ. Buổi Tŕnh Diễn Kịch đầu tiên của Nhóm có lẽ là vở Thành Cát Tư Hăn, do chính GS Vũ Khắc Khoan viết phiên bản kịch nghệ. Mệt nhọc nhưng thú vị biết mấy khi nam nữ sinh viên chen chúc thi nhau đi vào Thư Viện gạo bài ban tối mỗi Mùa Thi. Như một sinh viên nhớ lại:
“Cái tính phá phách nghịch ngợm của các chàng sinh viên sống trong Đại Học Xá đă chẳng chừa một ai kể cả Frère giám đốc Đại Học Xá và các nữ sinh viên bên Đại Học Xá nữ trong Viện nhất là vào mùa thi cuối năm. Thư Viện ban đêm đầy sinh viên nam nữ ngồi học bài học cũng có mà phá cũng có”[172].
Các sinh viên c̣n tham gia không biết bao nhiêu cuộc gặp gỡ họp hành với các Viện Đại Học ở Sàig̣n hay Cần Thơ, như Vạn Hạnh, Minh Đức hay trường đại học công lập Cần thơ năm 1972 đến 74. Có lần người viết đă xuống hội thảo với một đại dức phụ trách về sinh viên vụ của Viện Đại Học Vạn Hạnh. Vị đại đức này hiện phụ trách tạp chí Giác Ngộ của Phật Giáo Thống Nhất do Nhà nuớc quản lư.
7.Trung Tâm Sinh Viên. Năm 1973-1974, Pḥng Sinh Viên Vụ khánh thành ṭa nhà Trung Tâm sinh viên dành cho sinh hoạt sinh viên với tài trợ của tổ chức Asia Foundation. Đây là một nỗ lực ngoạn mục, mở rộng tầm hoạt động văn hóa đa dạng của sinh viên, và cũng là môi trường lôi kéo nhiều ḍng tu và giáo phận khác cử người tham gia vào công cuộc xây dựng Viện Đại Học Đà lạt phục vụ sinh viên về nhiều lănh vực từ vui chơi, giải trí, ẩm thực đến hội họp, học tập, và sinh hoạt văn hóa. Tất cả v́ lư tưởng Thụ Nhân. Mới chào đời mà Trung Tâm Sinh Viên đă đầy ắp những chưong tŕnh sinh hoạt của sinh viên.
Trung Tâm Sinh Viên gợi dậy nới kư ức người viết kỷ niệm đặc biệt nhất là một nữ sinh viên Ban Pháp Văn Trường Văn Khoa trong một giờ thi cuối năm có Linh Mục Jean Mais và người viết là giám thị pḥng thi lớn ở Trung Tâm Sinh Viên. Cô sinh viên đang làm bài bỗng ngă lăn ra khỏi bàn, nhũn người bất tỉnh. Báo hại cha Maïs và người viết phải một phen kinh hoàng vất vả. Chúng tôi phải khiêng cô ấy khá xa ra xe để chở vội đến Pḥng Mạch Bác Sĩ Đinh Văn Chức ngoài phố Chợ. Tôi là người suốt chuyến xe phải ôm đỡ cô ấy, rồi ôm xốc người nữ sinh viên trẻ ấy vào pḥng mạch! Bác sĩ cởi hết áo mở lồng ngược trần vội lấy stethoscope khám tim phổi cho cô, lấy nhịp tim mạch. Xong chúng tôi mới ra về. Th́ ra người nữ sinh viên trẻ ấy tuy dă có chồng con, vẫn miệt mài học thi và gắng sức quá ngay trong đêm, nên bất tỉnh khi phải rán làm bài thi ngay lúc sáng sớm hôm sau. Tôi không biết số phận của cô sinh viên đáng thương ấy sau đó ra sao!
8. Những nhóm nghiên cứu hội học sôi nổi. Trong các lănh vực khác nơi nhiều phân khoa, người viết được biết đến hệ thống hội học ở Trường CTKD, nhưng riêng trong lănh vực lịch sử văn hóa văn minh thuộc Trường Văn Khoa, nhiều đề tài đă hấp dẫn sinh viên một cách kỳ diệu. Nhiều nhóm hội học của sinh viên bộ môn “lịch sử văn minh Việt Nam” và “Sử Địa” đă được thành lập ở năm thứ ba và thứ tư. Đây là những nhóm chỉ được thành lập tự do theo lựa chọn của sinh viên, mà không theo chỉ định của giáo sư. Những người nào không thể gia nhập nhóm được phải làm một bài nghiên cứu cá nhân
Nhóm hội học có hỗn danh là Nhóm Đồng Bóng của ban Văn chọn nghiên cứu đề tài về “Đồng Bóng Tại Đà Lạt[173]” có thể đă làm cho các bạn sinh viên kết tụ tham gia nghiên cứu thực tập đông đảo nhất. Họ t́m đến nhiều điểm đồng bóng trong thị xă và nghiên cứu thực địa theo lối tham dự, một phương pháp thịnh hành của dân tộc học. Điều kỳ thú đối với toàn sinh viên này là họ phát hiện một thưc tế xă hội rất náo nhiệt là nhiều người vẫn say mê đồng bóng trong chính xă hội tiến bộ hiện đại này. Khó lư giải cho những lư do thâm sâu của tín niệm này!
Điều quan trọng của việc h́nh thành các nhóm nghiên cứu, v́ đây là giai đoạn đầu tiên của phương pháp hội học. Theo đó, ngoài nghe giảng thuyết tŕnh bày về giáo tŕnh thông thường, sinh viên có cơ hội học tập, hội thảo chung với nhau một đề tài, rồi đúc kết thành bài viết hoàn chỉnh. Bài viết được tŕnh bày trước một buổi học đặc biệt có mặt đủ các nhóm và giáo sư hướng dẫn.
Sau khi nghe thuyết tŕnh, giáo sư cũng như tất cả các thành viên mỗi nhóm đều có quyền phê b́nh nhận xét và cho điểm đề tài sau khi đă thảo luận phê b́nh công khai. GS hướng dẫn là người tổng kết và đưa ra nhận định cuối cùng và điểm của mỗi nhóm cùng với điểm của giáo sư là tổng điểm trung b́nh của nhóm đề tài.
Phương pháp hội học như thế mang tính cạnh tranh về chất lượng v́ ai trong mỗi nhóm nghiên cứu cũng muốn hành động đứng đắn, v́ mỗi nhóm lần lượt đều được các nhóm khác và giáo sư cùng nhận định, phê b́nh. Đồng thời vai tṛ của người sinh viên trở nên quyết định, chủ động và trưởng thành hơn.
Nhưng điều kiện và môi trường học tập của sinh viên văn khoa có nhiều khó khăn, một phần v́ tính cách điều hành của khoa và một phần v́ nhiều sinh viên theo học khó chấp hành một kỷ luật làm việc đi vào khuôn thước đễ phục vụ chính họ.
9. Hội Sử Học Trường Văn Khoa. Tại trường văn khoa, do sáng kiến của một số giáo sư như GS Nguyễn Hồng Giáp, GS Lê Văn Khuê và nhân viên giảng huấn khác cùng với một vài giáo sư chuyên sử, như Vơ Sĩ Khải, thuộc Trường Vơ Bị, lập ra Hội Sử Học để nghiên cứu các vấn đề sử học chung quanh môi trường văn hóa vùng Cao Nguyên. Đấy quả là một nỗ lực đáng kể của các giáo sư và sinh viên chủ ư đi sâu vào chiều hướng kết hợp nghiên cứu thực tế với giảng dậy, ngay trên địa bàn Cao Nguyên. GS Nguyễn Hồng Giáp là một thanh niên trí thức hăng say mới từ Pháp về, và ông hăm hở muốn làm tất cả mọi chuyện để bốc Viện Đại Học đi lên theo nhịp tiến của thế giới!
Theo anh Lưu, Lúc LM Lập rời Đại Học Đà Lạt để về làm Tổng Đại Diện cho Địa Phận Huế, anh không c̣n liên lạc với ngài, và dĩ nhiên anh cũng không kỳ vọng là ngài c̣n quan tâm về những sinh hoạt của an hem trong Viện nữa. V́ thế, anh hết sức ngỡ ngàng, khi LM Lập hỏi anh về những hoạt động sau này của anh ở Viện Đại Học Đà Lạt.
Vẫn theo anh Lưu, vào giữa năm 1974, khi chuẩn bị cho bộ môn Á Châu Học sẽ thành lập tại Viện Đại Học ĐàLạt, một số người trong Ban Giảng Huấn của Viện thành lập Hội Nghiên Cứu Đông Nam Á trong đó có GS Tiến Sĩ Nguyễn Hồng Giáp làm Chủ Tịch, GS. Lê Văn Khuê làm Phó Chủ Tịch Ngoại Vụ và GS Vơ Sĩ Khải làm Phó Chủ Tịch Nội Vụ và chính anh Phạm Văn Lưu làm Tổng Thư Kư.
Mục đích đầu tiên của Hội là dịch một ít sách về lịch sử, văn minh và văn hóa của các quốc gia Á Châu để chuẩn bị tài liệu tham khảo cho cách sinh viên. Và Hội cũng định xuất bản một tập san định kỳ, nhưng chưa khởi sự được th́ biến cố chính trị và quân sự dồn dập xảy ra bất lợi cho Miền Nam. Mọi người đều hoang mang, nên Hội chưa có những hoạt động nào đáng kể. [174]
1/. Trong thời gian khoảng năm 1968, anh Phạm Văn Lưu là Chủ Tịch của Hội Nghiên Cứu Sử Địa, Viện Đại Học Đà Lạt. Một trong những sinh hoạt thường lệ của Hội là ấn hành bản tin hàng tháng. V́ vấn đề tài chánh rất hạn chế, nên anh thường bảo anh Lâm, Tổng Thư Kư của Hội phải cắt bỏ những bài quá dài hoặc thu ngắn lại cho đúng số trang qui định. Anh Lưu không ngờ anh Lâm đă tiết lộ những khó khăn này trên bản tin, nên sau đó có một số giáo sư đă ủng hộ tài chánh cho Hội.
Nhưng trong thâm tâm, anh Lưu không bao giờ nghĩ rằng LM Lập cũng quan tâm đến điều này. Rồi khoảng tháng 3 năm 1968, khi Nhóm Sử Địa Viện Đại Học Sài G̣n ấn hành quyển Hiện T́nh Kinh Tế Thế Giới nhờ Hội Sử Địa VDHDL phát hành ở Đà Lạt, cũng trong mục tiêu hỗ trợ tài chánh cho Hội. Khi các biển quảng cáo phân phối sách này được dán trong khuôn viên của Viện, LM bảo một người tùy phái cho gọi anh Lưu đến văn pḥng gặp ngài.
Trong cuộc gặp gỡ này, LM nói với anh, ngài biết các hội viên Hội Sử Địa đang cần tiền để thực hiện một số công việc của Hội, nhưng việc bán sách giúp cho các giáo sư của Viện Đại Học Sài G̣n, theo ngài, chắc chắn sẽ không thu được bao nhiêu, lại mất th́ giờ, tốt hơn là các sinh viên của Hội nên chú tâm vào việc nghiên cứu chuyên môn của ḿnh.
LM đề nghị, từ nay, việc ấn phí ấn hành. Viện sẽ tài trợ cho Hội nên Ban điều Hành Hội không c̣n phải lo về tài chánh cho khoản mục này nữa. Ngoài ra, ngài nói với anh rằng, khi ngài đến Mỹ, ngài được mời vào Ṭa Bạch Ốc, ngài được biếu một quyển sách Chỉ Dẫn in thật đẹp và thật đầy đủ, ngươờ ta có thể đi bất cứ chỗ nào ở nước Mỹ, mà không sợ bị lạc.
2/. Rồi ngài đề nghị Hội Sử Địa có thể soạn cho Viện cuốn Địa Phương Chí (Monography) về Đà Lạt, trong đó có phần về Lịch Sử, Địa Lư H́nh Thể, Nhân Văn, Kinh Tế, và phần Chỉ Dẫn Du Lịch thật chi tiết, để biếu cho các vị khách đến Viện. Khi tác phẩm này hoàn thành vào đầu năm 1970, lúc đó LM Lập sắp rời Viện. Ngài cho biết ngài không c̣n nhiều thời giờ để xuất bản và ngài để lại cho vị Viện Trưởng kế nhiệm tùy nghi sử dụng.
Sau này, khi không thấy Viện xuất bản, anh gởi phần Lịch Sử cho Tập San Sử Địa của Trường Đại Học Sư Phạm Sài G̣n đăng tải. Phần Địa Lư H́nh Thể, gồm phần Thổ Nhưỡng và Thảo Mộc sau đó được đăng tải trên Tập San Địa Dư do Nha Địa Dư Quốc Gia Đà Lạt ấn hành. Phần Lịch Sử do anh Lưu phụ trách, Phần Địa Lư H́nh Thể, gồm có Phần Thổ Nhưỡng do anh Nguyễn Thanh Lâm nghiên cứu và tŕnh bày và Phần Thảo Mộc do GS. Thái Công Tụng biên soạn. Nhưng đáng tiếc và không mấy vui là, bài nghiên cứu này xuất hiện trên Tập San Dịa Dư.
3/. Thực sự, tác phẩm Địa Phương Chí Đà Lạt được phân công soạn thảo với thành phần như sau:
1) Phần Lịch Sử: Phạm Văn Lưu
2) Phần Địa Lư H́nh Thể, Thổ Nhưỡng: Nguyễn Thanh Lâm
3) Thảo Mộc: Thái Công Tụng
4) Phần Địa Lư Nhân Văn: Nguyễn Thanh Lâm và Nguyễn Định
5) Phần Chỉ Dẫn Du Lịch: Lưu Thị Lệ Dung và Phạm Văn Lưu
Khi gởi Phần Địa Lư H́nh Thể để đăng trên Tập San Địa Dư, anh Lưu chỉ viết khoảng 5 gịng để giới thiệu bài nghiên cứu này với tư cách là Chủ Tịch Hội Nghiên Cứu Sử Địa Viện Đại Học Đà Lạt và là Trưởng Ban biên soạn tác phẩm này. Sau đó, anh có ghi rơ phần nào là của anh Nguyễn Thanh Lâm và phần nào là của GS. Thái Công Tụng biên soạn.
Nhưng có lẽ v́ sơ sót về kỹ thuật, người phụ trách tập san này, chỉ ghi tên anh Lưu và tên anh Lâm nhưng lại bỏ sót tên GS. Thái Công Tụng. Khi Tập San ấn hành, Kỹ sư Hoàng ngọc Cưỡng, Phó Giám Đốc Nha Địa Dư và là Chủ bút của Tập San có gởi chi anh Lưu một ấn bản. Nhưng anhi chỉ đọc lướt qua, không để ư đến điều này.
Măi hơn 2 năm sau, anh Lưu nghe một số sinh viên trong Ban Sử Địa kể lại với anh, GS. Tụng có phàn nàn về việc sử dụng bài viết của GS. Tụng, nhưng Hội Sử Địa đă không ghi tên của Giáo Sư như là tác giả của bài viết. Anhi cảm thấy rất ân hận về sự việc này và gọi điện thoại ngay cho Kỹ Sư Cưỡng để xin anh đính chính trên báo. Nhưng rất tiếc lúc đó Tập San này đă đ́nh bản, không c̣n cơ hội chính thức và công khai đăng bài đính chính, và cáo lỗi. Nay đă hơn 30 năm rồi, khi viết điều này ra, anh Lưu không c̣n dịp gặp lại GS.Tụng để xin lỗi về chuyện đáng buồn này. Anh ngỏ ư mong rằng nếu giờ này ở một phương trời nào đó, GS. Tụng đọc những going chữ này, xin nhận nơi anh lời tạ lỗi chân thành của bản thân anh về sự việc đáng tiếc ngoài ư muốn đó [175].
10. Những số phận nghiệt ngă bi hùng. Trong các sinh hoạt hội học của Trường CTKD, các nhóm sinh viên tỏ ra rất năng động. Như trong niên học 1967-68, hơn hai trăm sinh viên Sưu Khảo có 36 nhóm hội học.
Nhóm Gamma do sinh viên Dương Thành Sương đứng đầu v́ có điểm trung b́nh xếp hạng cao đứng thứ ba với 5 sinh viên khác ở thứ hạng thấp hơn cách nhau từng 36 người, có phối hợp uyển chuyển nhóm viên nam và nữ cho âm dương giao thoa quân b́nh, tạo thêm sinh khí cho nhóm. Gamma chọn đề tài về ngoại giao dưới sự hướng dẫn của giáo sư Trần Chánh Thành đang dậy môn “Thời Sự”.
GS TCThành khi đó đang là thành viên của Ủy Ban Ngoại Giao Thượng Viện thường ngụ tại Sàig̣n. C̣n Sương lúc nào cũng rất chăm chỉ vùi đầu t́m hiểu trong thư viện về kỹ thuật viết phúc tŕnh để làm cho xong Luận Văn tập thể. Khi Gamma đến lượt thuyết tŕnh, th́ GS Thành làm ngoại trưởng bề bộn công việc. May thay có GS Lâm Lễ Trinh, luật sư, cựu đại sứ, chấp nhận thay thế. Nhưng Luận văn của Gamma vẫn được chuyển cho GS Thành đọc phê, măi sau sáu tuần mới xong thay v́ hai tuần như yêu cầu của nhà trường.
Tốt nghiệp xong, Sương bị động viên vào Trường Sĩ Quan Thủ Đức và một năm sau cậu trở lại trường thăm lại cảnh cũ người xưa, với tâm hồn có vẻ phấn chấn thoải mái v́ có gia đ́nh mới. Theo khóa huấn luyện đặc biệt, Sương trở thành trung úy, và được bổ nhiệm làm huấn luyện viên Trường Chiến Tranh Chính Trị, kế cận Trường CTKD. Anh có dịp gặp lại GS Khoa Trưởng Trần Long và hứa sẽ đem vợ đến tŕnh diện.
Nhưng bất ngờ một đêm tháng 4 năm 1970, trong một cuộc đột nhập của du kích CS vào cư xá Trường CTCT, một viên đạn trúng ngực anh, sát hại người thanh niên sĩ quan đầy chí khí và nhựa sống. Hôm sau, GS Trần Long đến thăm người sinh viên yêu mến năng động thủơ nào, nay chỉ c̣n là cái xác không hồn, lạnh cóng bất động. Sương mới 24 tuổi đời. Tất cả bạn bè nuối tiếc khóc thương anh, như một con chim Thụ nhân đả găy cánh v́ trúng thương, bỏ lại người vợ trẻ mà chưa kịp giới thiệu với thây dậy cũ. Ôi số phận chiến tranh là thế!
C̣n GS Trần chánh Thành, làm Bộ Trưởng Thông Tin, có quan hệ với GS Trần Long, khi ông c̣n quản lư tờ báo Times of Việt Nam. Năm 1958, ở cương vị Giám Đốc Giao Tế của Công ty Standard Vacuum Oil, Ông Trần Long mời Ông Thành đến khánh thành pḥng trưng bày tranh Stanvac. T́nh bằng hữu giữa hai người được nảy nở và củng cố thêm qua các biên cố. Chính t́nh hữu nghị đó khiến ông Thành nhận lời mời của Trường CTKD đảm nhiệm giảng dậy môn chính trị và hướng dẫn Nhóm Gamma.
Tháng 7/1970, khi GS Trần Long làm Tổng Quản Lư Hội Đại Học Đà Lạt ở Sàig̣n, th́ họ chỉ vài lần gặp lại nhau vào đầu năm 1971, khi GS Trần Long dọn sang căn nhà mới bên Cao Ốc Catinat, nơi ông Thành cũng có một căn pḥng studio ở lầu năm.
GS Trần Long c̣n ghi nhận nơi Ông Thành một cử chỉ chi tiết thật tế nhị thân ái: ông Thành cho ông một ổ khóa để đóng chặt cửa ra vào căn nhà ông mới dọn tới. Thể hiện t́nh thân hữu, một đêm năm 1972, Ông Thành tổ chức một bữa ăn tối ở biệt thự tọa lạc trên đường Duy Tân. Trong số các thân hữu đến dự bữa ăn đó, về phía Đại Học Đà Lạt có LM Viện Trưởng Viện Đại Học Lê Văn Lư và GS Trần Long. Nhưng dưới cái nh́n của người viết, dù Tây hay Mỹ, cuộc nói chuyện trong bữa ăn nên rất thoải mái ấm cúng. Nhưng đáng tiếc cuộc hội ngộ trong bữa ăn đó bất ngờ lại đưa tới một cuộc tranh căi to tiếng tay đôi mà GS Trần Long gọi là cuộc “đụng độ” căng thẳng giữa ông, một người được thụ huấn tại Mỹ với học giả ngữ học Linh Mục Lê Văn Lư, một người được đào tạo tại Pháp, c̣ thể là “bề trên” của ông xét theo cách nào đó. Biến cố đó có thể bắt nguồn từ nguyên nhân văn hóa hay tâm lư rất sâu xa nào đó, đến nỗi phải có sự ḥa giải của người chủ mời có sẵn năng khiếu ngoại giao, nhưng dường như miễn cưỡng phải hành động can thiệp kịp thời ngay trong bữa ăn thân hữu!
Hai người bạn gặp nhau lần cuối, trên đường Gia Long ngay trước số nhà 26 đường Gia Long của gia đ́nh Trần Long, vào buổi trưa ngày 29/4/1975. Chỉ trong phút chốc sau đó gia đ́nh GS Trần Long may mắn thoát khỏi Việt Nam, nhờ trực thăng Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ rà xuống sân đậu trên nóc building Catinat bốc vội nhiều người chờ sẵn ra chiến hạm túc trực ngoài khơi Vũng Tàu. Nhưng GS Thành đă lỡ không có mặt, dú có thể có hẹn trước, trong chuyến bay định mệnh hiếm hoi đó.
Sau đó người ta nghe tin ông GS Trần Chánh Thành, Bộ Trưởng, đă dùng thuốc độc tự sát chết tại nhà riêng, thay v́ ngoan ngoăn ra tŕnh diện chính quyền mới. Người này chủ động t́m cái chết khảng khái bi tráng đó lúc mới 58 tuổi, như gắn liền số phận với chàng thanh niên Gamma họ Sương trước đó ở tuổi 24.
Hai người hai ngả - Dương Thành Sương và Trần Chánh Thành - nhưng đều gặp nhau trong trái tim Gamma và ở cái chết định mệnh Omega bi hùng. Ôi thân phận con người nghiệt ngă trong quê hương điêu tàn v́ chiến tranh!
11. Con Đường Đi Đến Một Quyết Định Sinh Tử
1/. Khi nói đến quyết định Đi hay Ở Lại vào những ngày cuối của Sài G̣n vào tháng 4.1975, theo anh Lưu, anh không thể không nhắc đến LS Trần Văn Tuyên, một giáo sư thỉnh giảng của Viện về môn ”Các Vấn Đề Chính Trị” Trong những ngày đó anh nhận được điện thoại của LS Tuyên, báo anh nên thuyết phục các linh mục ở lại. Lúc bấy giờ, anh thiển nghĩ, đây là vấn đề hết sức quan trọng, anh chỉ im lặng nghe LS Tuyên nói, mà không có ư kiến và chẳng bao giờ tŕnh bày ư kiến này cho các linh mục cả.
Theo anh, LS Tuyên năm 1945-1946 đă có kinh nghiệm về việc liên hiệp với chính phủ Hồ Chí Minh và ông bị phản bội. Ông phải bỏ trốn sang Trung Hoa để thoát chết. Tháng 4-1975, ông c̣n nghĩ rằng với những bảo đảm của quốc tế, Miền Nam sẽ có ḥa b́nh và trung lập? LS Tuyên lúc đó là dân biểu của Hạ Nghị Viện, là một trong những người tích cực nhất thuyết phục Tổng thống Trần Văn Hương trao quyền cho Tướng Dương Văn Minh để Miền Nam có ḥa b́nh, để cho mọi người VN có cơ hội xây dựng đất nước?
Nhưng khi Cộng sản vào Sài G̣n, cơ hội để góp phần xây dựng Tổ quốc chỉ dành cho một số người miền Bắc hay miền Nam có lợi cho Cộng Sản, c̣n những chính khách Miền Nam như LS Tuyên phải đi tŕnh diện học tập cải tạo, nói khác đi đó là việc bắt người cầm tù khổ sai, mà không cần xét xử. Điều cay đắng đó đă được LS Tuyên phát biểu trong một buổi thu hoạch trong chương tŕnh học tập như sau:
“Tôi có một tội lớn đối với Tổ quốc, không thể tha thứ đươc, đó là không chống Cộng đến cùng, để đất nước rơi vào tay Cộng sản và dân chúng phải khốn cực và điêu linh như hiện nay.”
LS Tuyên chỉ nói được tới đó. Người cán bộ quản giáo quát to:
“Anh phản động, ngồi xuống”.
Và không cho LS nói thêm câu nào nữa. Một thời gian sau, LS Tuyên bị đưa ra Bắc, bị đứt gân máu nhưng không được đưa đi cấp cứu và đă chết vào ngày 16/10/1976.
2/. Người kế tiếp là GS Vơ Văn Hải. Trước năm 1963, ông là Tổng Thư Kư Văn Pḥng Đặc Biệt của Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm và sau đó ông làm Tổng Giám Đốc Đại Á Ngân Hàng tại Sài G̣n. Trong thời gian này, ông cũng là giáo sư thỉnh giảng của Trường CTKD. Ông đă có kinh nghiệm đi tù với Cộng sản khi theo ông Ngô Đ́nh Diệm từ Sài G̣n ra Huế vào 1945.
Sau đó ông xuất ngoại du học ở Geneva và đỗ cao học chính trị học tại đây. Trở về nước 1954, phục vụ trong chính quyền Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm. Theo kinh nghiệm của anh Lưu khi tiếp xúc với ông Hải, ông không phải là người sâu sắc về chính trị, nhưng ít ra sau nhiều năm làm việc với ông Diệm và ông Nhu, anh nghĩ ông Hải cũng có ít nhiều kinh nghiệm về Cộng sản. V́ thế, vào những ngày cuối tháng 4.1975, khi gặp ông Hải, anh đă hỏi:
“Thầy dự định đi hay ở lại?”
Đại ư GS Hải cho anh biết:
“Với sự sắp xếp của Hoa Kỳ và Pháp, tướng Dương Văn Minh sẽ lân làm Tỏng thống và Việt Nam sẽ trở thành một quốc gia trung lập.”
Anh hỏi tiếp:
“Thầy không nhớ kinh nghiệm liên hiệp với Cộng sản hồi năm 1945 sao?
GS Hải nói: “Vous c̣n trẻ sao cứ muốn nh́n về quá khứ, hăy mạnh dạn nh́n về tương lai, hăy đón chào đất nước Ḥa B́nh Trung Lập và gắng sức kiến tạo lại đất nước sau hơn 30 năm chiến tranh …”
GS Hải c̣n hăng hái và tin tưởng nói với anh nhiều điều khác nữa. Sau khi anh Lưu tỏ ra rất dè dặt về khả năng lănh đạo của tướng Minh, GS Hải bảo anh:
“Minh không có tài, nhưng ông ta chịu nghe ḿnh. V́ thế moi cần ở lại để làm cố vấn cho tướng Minh”.
Anh không rơ sự thật về chuyện này ra sao? Sau 1975,anh Lưu có nhiều dịp gặp GS Hải rất nhiều lần, anh biết ông rất ân hận về quyết định sai lầm của ḿnh, nhưng lúc nào trên gương mặt của ông, cũng tỏ ra b́nh tĩnh và vui tươi. Rồi đến đầu năm 1977, Ông bị công an đến nhà bắt và đem đi học tập và Ông bị chết trong tù, chính quyền không cho gia đ́nh biết chết v́ lá do ǵ. Ông Hải có học tập lớp chính trị cùng tổ với người viết. Nhưng chỉ biết ông bị bắt đi vào trại học tập cải tạo rồi chết, nhưng không ai biết trường hợp chết của ông Hải như thể nào?
12. Những Đêm Ngày Hăi Hùng: Nỗi Niềm Không Của Riêng Ai
Mười lăm [15] năm sống ở Đà lạt, khoảng thời gian từ 1961 đến 1975, sư huynh Théophane là người chứng kiến và trải qua nhiều đêm kinh hoàng. Nhiều lần hỏa châu lóe sáng bầu trời Đalạt về đêm khuya thanh vắng, bên dưới tiếng bom đạn nổ như pháo rang, mùi thuốc súng khét lẹt, đạn nổ tung tóe khắp nơi xung quang. Viện Đại Học nằm gọn giữa hai trường đại học quân sự, Trường Vơ Bị Quốc Gia và Trường Chiến Tranh Chánh Trị.
*Cư ngụ ở nhà số 6 Trần Hưng Đạo với các tu huynh, và ở trường Adran sư huynh đă trài qua đêm kinh hoàng. Đó là ngôi biệt tự Bonheur Vert. Ban đêm du kích lẻn về bắn phá dinh tỉnh trưởng ngay bên cạnh biệt thự Bonheur Vert. Quân lính pḥng thủ từ trên đồi bắn xuống, quân du kích từ thung lũng bắn lên. Tu viện Bonheur Vert ở giữa hai lằn đạn nổ lốp đốp trên mài nhà, trên vách tường ṭa nhà. Những đêm ấy chẳng c̣n gi là Bonheur nữa mà “Malheur sombre comme la guerre et la mort!”
Đất ở ngôi trường Adran là khu rừng thông có tên thơ mộng là Bois d’Amour (Rừng Ái Ân). Hồi chiến tranh cái tên đầy thi vị này đă biến yêu thương thành oán thù và súng đạn đă hoàn toàn khống chế, đến nỗi cọp phải trốn đi nơi khác, không bao giờ dám về lại bắt heo của người làm việc cho Adran. Toàn thể dân cư phải chạy loạn.
*Ở Viện Đại Học một đêm nọ sư huynh đang yên giấc hầu như chỉ có một ḿnh. Lúc đó trong Viện không c̣n ai, cha Lập đă đi khỏi và cha Lư lên làm Viện Trưởng. Đời cha Lập th́ Viện Đại Học an b́nh, chỉ thiếu tiền. Đời cha Lư có loạn và âu sầu, nhưng lại có đầy dư tiền bạc và có nhiều đồ án xây cất pḥng ốc, thêm nhân công, nhưng cũng thêm rắc rối. “Đa sự th́ đa lự!”
Du kích đố từ Đa Thiện xuống, từ núi rừng Lam Viên kéo lên, bao vây Trường CTCT. Trường này ở thung lũng bên dưới Viện Đại Học Thụ Nhân về phía mặt trời lặn với Thụ Nhân. Đâ là Viện trồng người có văn hóa, biết tháo vát làm ăn và chơi giỡn cho vui, chứ không trồng lính đánh giặc hoặc tuyên truyền phe đảng. Du kích không chủ ư đánh Viện Đại Học Thụ Nhân, nhưng “trâu ḅ húc nhau th́ ruồi muỗi chết”. Đêm đó mọi người ngủ yên cả các sinh viên, và giáo sư trên Năng tĩnh
Bất th́nh ĺnh tiếng đại bác “ùng oàng” rầm trời quá nửa đêm về sáng, đạn mưa trên mái nhà, cành cây tàu lá bị cắt đứt, rơi xuống chắn ngang đường. Một kịch bản chiến tranh lặp lại: đạn bay xé trời, tiếng nổ liên miên, tên lửa bắn lên, hỏa châu chiếu sáng khoảng tṛi phía Tây Viện Đại Học. Các nữ sinh viên bên Kiêm Ái cũng như nam sinh viên bên B́nh Minh đều im ĺm hứng đạn sợ hăi, không ai dám chạy ra khỏi pḥng ḿnh.
Các GS trên Năng Tĩnh cũng phập phồng hoảng sợ, v́ gần Trường TCCT và lại trên chỗ đỉnh cao nhất. Sáng ra mới thấy đây đó những vỏ đạn hỏa châu, một pḥng bị trúng đạn, mái nhà bị sụp, chịu nhiều thiệt hại. Chỗ khác an toàn. Thư viện cũng lănh một quả đạn pháo, vài tấm ngói bị nát bấy, nhưng sách không hề hấn ǵ.
* Rồi một sáng tinh sương, SH lên Năng Tĩnh cầu nguyện và dự lễ. Không tiếng chó sủa hay bóng chó chạy. Một yên tĩnh kỳ lạ. Lễ xong, xuống ăn lót dạ, mọi chuyện vẫn yên ổn. Trong bữa ăn, ai đó nói du kích VC vào Viện đêm qua. Mọi người hỏi nhau Thật không? Thật đấy!
SH ṿng quanh thử một lúc lên hướng thư viện. Khi đến một pḥng lớp Văn Khoa, bất ngờ toán du kích sáu người xuất hiện, mặt xanh lè như lá rừng, AK đeo vai. Anh trưởng toán vội cất tiếng:
- “Chào Bác! Có lính Chính Phủ ở trong Viện không?”
- “Không có một lính quốc gia nào ở đây, cảnh sát cũng không. Ch́ có sinh viên và giáo sư mà thôi!”
- “Bác có thể tập họp sinh viên cho chúng tôi nói chuyện được không?”
- “Bữa nay có lớp nhưng bây giờ chưa đến giờ học, nên sinh viên tản mát, chúng tôi không thể kêu họ hội họp được!”
- “Bác có cuốc xẻng ǵ cho chúng tôi mượn vài cái không?”.
- “Để làm ǵ? Tôi là một tu sĩ dậy học, ở đây không có cuốc xẻng?
- “Từ đây qua Giáo Hoàng Học Viện có lối đi dễ dàng, có cảnh sát hay lính gác đường không?”
- “Thường không có lính hay cảnh sát chi cả. Nhưng bữa nay có động th́ có lẽ là có lính canh pḥng ở phố xá”.
Nghe xong, mấy chú du kích lỉnh đi về phía sau Năng tĩnh và đến 10 sáng th́ họ xuống thung lũng, biến đâu mất dạng.
Đến quá trưa sinh viên mới đổ ra. Có người tưởng là du kích lôi bắt SH đi theo. Bên Adran mọi người chưa hết hồi hộp, khi chưa gặp lại được nhau.
* Nhịp độ du kích xâm nhập có chiều hướng gia tăng dồn dập hơn
Một lần ngay giữa ban ngày, đồng bào chung quanh hoảng hốt nhớn nhác rủ nhau chạy loạn, từ các xóm Đa Thiện, dồn về tạm trú trong Viện Đại Học. Rối loạn lan sang cả sinh viên. Mọi người trong Viện hú hốn. SH lấy gạo phát cho họ. Đấy là những biến cố báo trước những ǵ sẽ xảy ra vào tháng 3 và tháng 4 năm 1975.
Chương Mười Tám: Những Ngày Xáo Trộn Từ Tháng 4/1975 Của Viện Đại Học Đà Lạt Tại Sàig̣n
Ban Điều Hành Dă Chiến Sau Ngày Di Tản Về Sài G̣n
1. Khi xảy ra biến cố tháng 3/1975 ở mặt trận Ban Mê Thuột, toàn bộ Hội Đồng Viện di tản về Sài G̣n vào đầu tháng 4/1975. Khi về Sài G̣n, các LM đă yêu cầu các nhân viên giảng huấn đến làm việc tại văn pḥng cao học Chính Trị Kinh Doanh, ở lầu 2 thương xá Tax, và yêu cầu tất cả các sinh viên đến đăng kư tại văn pḥng này. Sau hai tuần đăng kư, tổng số sinh viên ghi tên đă lên tới 1.000 người. Căn cứ trên danh sách này, LM Vũ Minh Thái đă xin Cơ Quan Asia Foundation cho được một ngân khoản. Sau đó, ngài và văn pḥng sinh viên vụ đă cấp phát cho mỗi sinh viên 10 ngàn đồng để sinh viên tạm giải quyết các khó khăn khi phải di tản về Sài G̣n.
Khi bắt đầu làm việc lại tại Sài G̣n, Hội Đồng Viện đă được bố trí tạm thời như sau:
Viện Trưởng: LM GS Lê Văn Lư
Phó Viện Trưởng: LM GS Nguyễn Văn Đời
Tổng Thư Kư: LM Phan Công Chuyển
Chánh Văn Pḥng Viện Trưởng: Ô. Phạm Văn Lưu
Khoa Trưởng Văn Khoa: LM GS Thiện Cẩm
Khoa Trưởng Sư Phạm: LM GS Vũ Minh Thái
Phó Khoa Trưởng Sư Phạm: LM GS Mai Văn Hùng
Khoa Trưởng Khoa Học: LM GS Nguyễn Văn Đời
Phó Khoa Trưởng Khoa Học: LM GS Nguyễn Hữu Toản
Khoa Trưởng CTKD: GS Phó Bá Long
Phó Khoa Trưởng CTKD: GS Tạ Tất Thắng
Tổng Thư Kư Ban Cao Học CTKD: Ô. Đỗ Văn Thành
Sinh Viên Vụ: GS Ngô Đ́nh Long.
2. Ngay sau khi Hội Đồng Viện được sắp đặt lại, các LM, nhất là LM Vũ Minh Thái, đă gấp rút thương lượng để mua lại khách sạn Imperial, trên đường Phạm Ngũ Lăo, Quận I, Sài Gon, tăng cường cho cơ sở của Viện. Khách sạn này gồm 150 pḥng với giá 150 triệu và người chủ khách sạn chỉ cần Viện ứng trước 1/3 số tiền để ông xuất ngoại, phần c̣n lại có thể trả sau ở ngoại quốc.
Các linh mục đă dự định sửa sang cơ sở này thành các giảng đường và văn pḥng các phân khoa để tiếp tục hoạt động. Kế hoạch này được thiết kế và hoạch định một các khẩn cấp, nhằm mục đích giúp sinh viên có thể hoàn tất đúng thời hạn chương tŕnh của niên khóa 1974-1975. Nhưng rồi ngày 30/4, xảy ra quá đột ngột, ngoài dự tính của mọi người. Dự án này cũng đành bỏ dở.
Sở dĩ có việc cơ cấu điều hành của Viện chuyển về Sài G̣n và có những thay đổi khẩn cấp để thích ứng với t́nh thế mới v́ Đà Lạt rơi vào tay CSBV sớm hơn Sài G̣n và cho đến khi ấy vẫn không h́nh dung được cả nước sẽ mất vào tay CS sớm như thế
Chung Quanh Chọn Lựa Di Tản Hay Ở Lại
1. Những ngày cuối tháng 4.1975, vấn đề di tản hay ở là một mối ưu tư hàng đầu cho mọi người dân. Miền Nam nói chung và nhân viên Viện Đại Học Đà Lạt nói riêng đều rối loạn về chuyện trốn lánh một t́nh h́nh nguy cấp. Lúc đó làm Chánh Văn Pḥng Viện Trưởng mỗi buổi chiều, anh Lưu thường điện thoại để nói chuyện với LM Viện Trưởng Lê Văn Lư về những công việc của Viện trong ngày. Lúc đó, ngài thường trú ngụ và làm việc trên lầu 2, cơ sớ trên lầu phía sau Nhà Sách Xuân Thu và Ciné Miné Tự Do trên đường Tự Do, chứ không đến làm việc ở Văn Pḥng Viện ở lầu 2, Thương xá Tax như các Linh mục khác.
Trong thời gian này, theo anh Lưu có hai điều đáng ghi ở đây là, trước đó LM Lư đă liên lạc với Tổng Giám Mục Nguyễn Văn B́nh thảo luận về việc đi hay ở của toàn thể các th ành vi ên trong Hội Đồng Viện và có lẽ Tổng Giám Mục B́nh cũng có liên lạc với Thượng Nghị Sĩ Nguyễn Văn Huyền để tham khảo về t́nh h́nh chính trị, nhằm quyết định nên đi hay ở lại.
2. Do đó một hôm tại văn pḥng ông nhận đưọc điện thoại của Thượng Nghị Sĩ Huyền, muốn nói chuyện với LM Viện Trưởng Lư, nhưng anh nói ngài hiện không có ở văn pḥng và nếu ông không thấy trở ngại, ông có thể nói chuyện với anh và anh sẽ báo lại cho LM Viện Trưởng ngay khi có thể. Ông bảo anh theo yêu cầu của Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn B́nh, Ông báo cho Viện Đại Học biết LM Viện trưởng và Hội Đồng Viện hoàn toàn có toàn quyền và trách nhiệm quyết định đi hay ở. Ông không có ư kiến, nhưng nếu hỏi về đời sống chính trị, ông nghĩ rằng đi hay ở không quan trọng lắm, v́ t́nh thế không đến nỗi bi đát. V́ với bảo đảm quốc tế, Miền Nam Việt Nam sẽ là một quốc gia trung lập ít nhất trong một vài năm, để những người muốn ra đi, có đủ th́ giờ quyết định.
Chiều hôm đó, anh Lưu báo lại với LM Viện Trưởng (anh không nhớ rơ ngày nào). Trong dịp này LM Viện trưởng cũng cho anh biết thêm rằng, đầu tiên Tổng Giám Mục Nguyễn Văn B́nh không đồng ư để Hội Đồng Viện của một Viện Đại Học Công Giáo chính thức di tản. Làm như thế, Giáo hội sau này sẽ không c̣n uy tín và khó làm việc với chính quyền mới, nếu có một sự thay đổi thể chế chính trị tại Miền Nam sau này.
3.Nhưng sau đó, có lẽ theo khuyến cáo của Cơ Quan Viện Trợ Công Giáo Hoa Kỳ, Hội Đồng Viện gồm những người đă học tập và làm việc lâu năm tại các quốc gia tây phương như các linh mục Thái, Đời, Toản và GS. Phó Bá Long đều ở Mỹ nhiều năm. Các linh mục Lư, Hùng, Cẩm, và GS. Giáp cũng nhiều năm sống tại Pháp. Có thể tính mạng của các vị nầy chắc hẳn sẽ bị nguy hiểm. nếu chính quyền Cộng Sản được thiết lập tại Miền Nam.
Từ suy nghĩ và phán đoán đó, Tổng Giám Mục B́nh đă báo cho LM Lư biết các vị trong Hội Đồng Viện có thể Đi Hay Ở Lại tùy theo quyết định lương tâm của mỗi người. Nhưng sau cùng, có thể thấy t́nh h́nh chính trị và quân sự diễn biến quá cấp bách và tệ hại cho Miền Nam, nên Tổng Giám Nguyễn Văn B́nh, với tư cách là Chủ Tịch Hội Đồng Quản Trị Viện Đại Học Đà Lạt, đă đi đến một quyết định mạnh mẽ hơn, khuyến cáo toàn thể Hội Đồng Viện nên di tản, ví Ngài không muốn gánh chịu những trách nhiệm lương tâm về những hiểm nguy có thể xảy đến cho các vị trong Hội Đồng Viện một khi chính quyền Miền Nam sụp đổ.
4.V́ khuyến cáo này của TGM B́nh, LM Viện trưởng Lư đă yêu cầu LM Đời, Phó Viện trưởng triệu tập Hội Đồng Viện họp tại Thư viện của Ban Cao Học CTKD , trên lầu 2, Thương xá Tax. Anh Lưu không hiện diện trong buổi họp mặt đó nhưng sau này LM Đời nói lại với anh là GS. Phó Bá Long đề nghị Hội Đồng Viện nên ở lại để tiếp tục giúp đỡ sinh viên trong thời buổi hỗn loạn, v́ họ đă từ tứ phương chạy về Sài G̣n tá túc.
Do đó Hội Đồng Viện chính thức quyết định ở lại, nhưng mỗi cá nhân có quyền quyết định Đi Hay Ở tùy theo lương tâm và hoàn cảnh của ḿnh. Mặc dù, lúc đó Cơ Quan Viện Trợ Công Giáo Hoa Kỳ sẵn sàng giúp đỡ phương tiện để đưa các linh mục rời khỏi Việt Nam. Không biết kế hoạch này đă được dự trù thực hiện như thế nào, nhưng ít ra các linh mục Lư, Đời và Hùng đă nói với anh như vậy.
5.Sau phiên họp này, LM Đời mời anh vào văn pḥng riêng của ngài. LM Đời buồn rầu nói với anh, với một giọng khá nghiêm trọng mà anh chưa bao giờ thấy, đại ư:
“Bây giờ Hội Đồng Viện quyết định ở lai, v́ t́nh h́nh Việt Nam quá xấu, không thể bỏ rơi sinh viên trong hoàn cảnh khốn khó này… Các cha một thân một ḿnh, nếu có chuyện ǵ xảy ra, cũng không sao cả, con c̣n có gia đ́nh, và đặc biệt là con nhỏ. Biến động chính trị chắc sẽ xảy ra trong những ngày sắp đến, hậu quả không thể nào lường trước được. Con cũng biết rơ, trong văn pḥng Viện, con là người hiểu rơ t́nh h́nh chính trị Việt Nam hơn các cha, lúc này con cũng biết thực sự cha cần đến con. Nhưng không phải v́ thế mà các cha muốn con ở lại để con và gia đ́nh con phải chịu những hiểm nguy về sau. Cha đă tŕnh với cha Viện Trưởng rồi, là để con ra đi, cha sẽ t́m người khác thay thế. Nếu con ngại ra đi trong lúc này mà về sau, nếu t́nh h́nh yên tĩnh trở lại, con sẽ khó làm việc v́ bị sinh viên lên án là đă trốn chạy trong lúc hiểm nguy. V́ thế cha và cha Viện trưởng cũng trù tính rồi, sẽ làm giấy cho con đi tu nghiệp ở ngoại quốc trong ṿng 6 tháng, để sau này hoàn cảnh thay đổi, con có thể trở về mà không ai có thể trách cứ được con.”
Anh Lưu suy nghĩ một lúc và trả lời với LM Đời đại ư như sau:
“Như cha biết đó, các cha ở ngoại quốc quá lâu, không hiểu rơ t́nh h́nh chính trị Việt Nam như con, đặc biệt trong lúc này, t́nh h́nh biến chuyển quá nhanh chóng và đày nguy hiểm. Nay v́ trách nhiệm với sinh viên, các cha chấp nhận ở lại. C̣n con v́ sự tự trọng và trách nhiệm tối thiểu, con cũng không thể trốn chạy được trong khi để thượng cấp, thuộc cấp và sinh viên ở lại gánh chịu hiểm nguy, tai biến của thời cuộc. Cha cho con được quyết định ở lại để chia sẻ trách nhiệm và những khốn khó chắc chắn sẽ xảy ra cho các cha và tập thể sinh viên của Viện.”
Sau đó LM Đời có vẻ suy nghĩ lung lắm, rồi nói với anh:
“Nếu con quyết định như vậy, về phương diện t́nh cảm, cha rất e ngại cho gia đ́nh con. Nhưng trên b́nh diện công việc của Viện cha cảm thấy yên tâm hơn để đối phó với những chuyển biến của t́nh thế trong những ngày tới.”
6.Và chiều hôm ấy, khi anh Lưu gọi điện thoại báo cáo t́nh h́nh của Viện cho LM Viện trưởng như thường lệ, LM Viện trưởng cũng đề nghị những điều mà LM Đời đă nói với anh. Anh cũng lặp lại quyết định mà anh đă tŕnh bày với LM Đời. LM Viện trưởng cảm ơn anh [289] đă chấp nhận ở lại cộng tác với Viện trong những giờ phút hiểm nguy nhất. Rồi LM nói đại ư: “Chính sách của Viện cũng như trong thâm tâm của ngài, linh mục không muốn những người đă hết ḷng làm việc cho Viện phải chịu thiệt tḥi trong những hoàn cảnh khó khăn…”
Nhưng bây giờ anh có thể đă tự nguyện ở lại làm việc, thật sự linh mục VT cảm thấy hài ḷng và an tâm hơn bao giờ hết.
Người viết tự đặt vấn đề về những biến cố, sự kiện anh Lưu thuật lại theo ḥi ức: “Có thật sự mọi người và từng người có trách nhiệm có đủ an tâm và sáng suốt vô vị lợi và có điềuu kiện đầy đủ quyết định chủ động và có hiệu qua theo ư ḿnh trong một hoàn cảnh mà mọi người đều đôn đáo trăm mối tơ ṿ như đại biến toàn quốc vào dịp 30/4/1975 không?” Đấy là chưa nói đến hồi ức đó có thể quên sót lẫn lôn nhân vật và sự kiện và được tŕnh bảy lại một cách chủ quan theo cảm tính và chủ đích riêng?
Cuộc di tản bất đắc dĩ
Mặc dù cảm giác bồi hồi rối bời, GS Phó Bá Long không hiểu t́nh thế xấu thế nào cho đến khi vào cuối Tháng Tư ông đi cùng ông Đa, em ông, ra phi trường Tân Sơn Nhứt để bốc Gerry Chiemlak, một người bạn của em khác của ông là Quan. Quan ở Hoa Kư và đă yêu cầu anh em ông gặp Gerry, một Trung Úy Lục Quân. Khi họ đến nơi, th́ máy bay chưa vào, và v́ họ có nhiều thời giờ, họ quyết định qua đó đến câu lạc bộ quốc pḥng được biết là DAO. Họ bị sốc, ông thấy mấy ngàn người đang ngồi đấy, chờ đợi để được Không Lực di tản. Lúc đó ông nghĩ rằng t́nh thế trầm trọng biết bao.Họ cố nói với dân chúng, nhưng dân chúng không nói với họ bất cứ điều ǵ khác. Có lẽ không có chính sách cho việc di tản.
Bị giao động, chú Đa và ông nói chuyện và quyết định rắng có lẽ họ nên có quyết định ngay bây giờ. Ông thực sự không đưọc chuẩn bị để di tản toàn thế gia đ́nh ông, nhưng, đồng thời, ông biết rằng đấy có thể là vận may độc nhất đế làm điều mà ông gọi là quyết định hai chiều. Nói cách khác, nếu họ bỏ đi bây giờ th́ luôn luôn có may mắn cho ông trở lại. Tuy nhiên, nếu ông không rời bỏ, ông sẽ không bao giờ được phép đi, một khi Việt Nam Cộng Hoà rơi vào tay Cộng Sản. Ông đă học bài học năm 1954, khi anh em họ chạy trốn Miền Bắc Việt Nam và nhiều bà con của ông đă bị sập bẫy, phải ở lại miền Bắc Việt Nam khi đất nước bị chia cắt.
Hóa ra, người em ông tại Mỹ đă biết là t́nh h́nh là tồi tệ đến thế nào và chú đă sai Gerry giúp anh em ông lấy giấy thông hành ra đi của họ. Dầu vậy, cuối cùng, anh ta không quá tốt với họ, v́ anh ta nói anh ta có thể đem con cái họ đi mà không phải chính họ. Điều này là một nhiệm vụ hầu như không thể được, đối với Bà Claire và ông. V́ thế họ cố thu xếp lấy những chuyện riêng của họ. Đó là một nhiệm vụ hầu như không thể được. Trước hết người ta bảo họ phải có giấy thông hành với chiếu khán xuất cảnh từ Bộ Nội Vụ. Tuy nhiên khi ông đến Bộ Nội vụ, th́ họ quá lộn xộn vô tổ chức, đến nỗi họ đă không biết họ đang làm ǵ. Th́ ra t́nh h́nh quá hỗn loạn đến nỗi không ai chịu phiền toái với giấy tờ hết cả. Hề bất cứ ai có thể vào được bên trong sân bay và kiếm được một người bảo trợ, thí có thể rời bỏ đất nước.
Lúc đó, mục tiêu được hoạch định cho mỗi người là Phi Luật Tân. Người ta tưởng là ở lại đó cho đến khi t́nh h́nh ổn định và rồi trở về đất nước họ. Họ không hề có ư tuởng đi Mỹ hay nghĩ rằng t́nh h́nh sẽ không ôn định lâu dài trong nhiều năm. Ông về nhà, tụ tập gia đ́nh ông và họ thu xếp đi vào sân bay Tân Sơn Nhứt, không được phép mang bất kỳ đồ đạc nào trừ một bao đựng trên lưng họ. Cô Trịnh, em dâu cua ông và bạn gia đ́nh họ, ông Phó Thái Gia, đưa mọi người ra phi trường. Ông Gia là cố vấn thành phố và có thể đưa họ vào sân bay với giấy thông hành của ḿnh. Ông PBL thúc cả hai người rời bỏ càng sớm hết sức, và đưa cây súng lục của riêng ông cho ông Phó Thái Gia để bảo vệ cá nhân ông này.
Sân bay hỗn loạn và dường như không có hệ thống tổ chức nào. Ông t́m cách biết rằng họ phải có một người bảo trợ để lên một trong những máy bay. Họ không biết ai có thể bảo trợ họ và khi họ đang đứng bàn căi, một nhân viên quân sự Mỹ da đen đến gần và chào đón chú Đa, em ông. Tên người đàn ông đó là ông Green. Ông này là một bệnh nhân trước kia của em ông, một bác sĩ. Ông ở đó bảo trợ cho gia đ́nh và thân nhân Việt Nam của ông ấy. Ông PBL lấy ngay cơ may và hỏi xem ông này có thể bảo lănh cho ông nữa. Ông này trả lời rằng ông không chắc giấy tờ đó có đính dáng đến cái ǵ, nhưng ông có thể kư giấy tờ của ông PBL, nếu giấy đó có thể giúp được ǵ.
Ông PBL đi để gặp viên lănh sự Mỹ, người đang ngồi ở một chiếc bàn nhận giấy tờ của những người đă có người bảo trợ. Ông lănh sự bảo ông làm một danh sách tên mỗi người trong gia đ́nh ông và tên của người bảo trợ. Ông PBL nhanh chóng thấy một cái máy chữ và đánh lập danh sách tên của ông và gia đ́nh ông với ngày tháng năm sinh, rồi xin ông Green kư vào đó. Ngay khi làm xong, ông theo ông Mỹ đen và bà vợ người Việt đến bàn lănh sự. Ông Green qua thật nhanh với vợ ông, nhưng viên lănh sự không mau chóng chấp nhận ông PBL.
Ông lănh sự bắt đầu hỏi ông PBL, xem ai là người bảo trợ của ông và làm sao ông gặp được ông ấy. Dĩ nhiên ông PBL không biết bất cứ chuyện ǵ về ông Green, ngoài việc ông là người bệnh của ông Đa. Nhưng ông không bảo ông lănh sự về chuyện đó. Như thê ông chỉ hành động một cách vô vọng và chỉ ra người bảo lănh của ông đă đi qua. May mắn cho gia đ́nh ông, có nhiều người đằng sau gia đ́nh ông là những người đang mất kiên nhẫn và xô đẩy gia đ́nh ông đi qua luôn. Viên lănh sự cuối cùng mới kư và đóng dấu các giấy tờ của ông và buộc phải trở lại, xếp hàng chờ đợi sáng hôm sau. Cảm thấy bớt căng thẳng, ông PGL hỏi ông lănh sự có thể đi kế tiếp chỗ nào. Ông lănh sự trả lời: “Đi xuống Hỏa Ngục tiếp.” Ông cám ơn viên lănh sự và tiếp tục đi qua.
Sau đó, không biết phải làm ǵ tiếp theo, gia đ́nh ông và ông chỉ theo đám đông. Ông được vui mừng phấn chấn t́m thấy một lối ra và cùng với gia đ́nh trọn vẹn an toàn với ông. Có quá nhiều giải tỏa khiến ông khó xem xét tất cả mà họ bỏ lại sau. Nó c̣n giống như một cuộc phiêu lưu, đi trong một chuyến đi, hơn là một cuộc trốn thoát. Ông chắc chắn rằng ông sẽ trở lại sớm, một ngày nào đó. Người ta cho mỗi người một con số và cho biết phải báo đường bay khi số được gọi đến. Ông tưởng tượng là cái đó sẽ ít nhất là 10-12 giờ, th́ ai cũng cứ ổn định chờ đợi.]
Khi mọi người đang đợi, họ thấy nhiều người trong đám thân hữu bạn bè của họ. Những người ấy cũng đang chờ để đi. Trong số những thân hữu ấy có nhiều giáo sư từ Viện Đại Học Sàig̣n và các đồng nghiệp cũ của ông trong chính quyền. Ông trông thấy Ông Phó Bộ Trưởng Giáo Dục Bùi Xuân Bào đang t́m một người nào bảo trợ, cho đến khi người Mỹ bảo Giáo sư là họ không được phép để cho bất kỳ viên chức chính phủ nào bỏ đi. Ông rất cám ơn v́ ông không c̣n phải là một viên chức chính quyền. Sau một hồi, ông t́nh nguyện giúp đỡ làm người thông ngôn, nhưng sau đó ông phải cáo lỗi việc ông vừa làm, v́ viên chức sắp đặt chuyến bay cứ giữ việc nhảy con số của ông theo thứ tự để yên ôn ở đó. Họ và ông cũng phải đứng lại, v́ có một nhóm đă được một giáo hội Tin Lành bảo trợ, có những liên hệ quân sự được dành quyền ưu tiên.
Cuộc khởi hành rời khỏi Việt Nam bắt đầu
Cuối cùng, vào khoảng nữa đêm, đó là giờ rời bỏ. Toán của ông chạy đến chỗ đường bay đen tối. Chỗ đó được làm đen, để ngăn ngừa hỏa tiễn khỏi nhắm vào máy bay chuyên chở làm mục tiêu bắn. Những máy bay này không dừng lại lâu đủ để tắt máy; chúng vừa đáp xuống đất, vừa cho người lên, và cất cánh ngay. Khi toán ông chạy ra máy bay của họ, tiếng máy gầm rú làm điếc tai họ. Rồi trọng lực của cái mà họ sắp làm đập vào ông và ông quát to vào các con của ông:
“Quỳ xuống và hôn đất trước khi chúng ta rời bỏ nó, măi măi.”
Một số các con ông nghe thấy và cùng với ông làm cừ chỉ cuối cùng từ biệt tố quốc thân yêu của họ. Từ khóe mắt, ông c̣n thấy cậu bé Phong cào lên một nắm đất để mang theo cậu. Đó là tất cả cái mà họ c̣n thời gian để làm, trước khi họ nhanh chóng bi đẩy lên máy bay. Không có chỗ ngồi, v́ thế họ và nhiều người ngồi bệt xuông sàn máy bay. Máy bay cất cánh hầu như ngay lập tức và ông bị tràn ngập một cảm giác nặng nề là mất mát và đau buồn. Họ từ nay thành những người tị nạn và ai cũng không biết tuơng lai có ǵ dự trữ cho họ.
Cuối cùng, các con ông ngủ li b́, nhưng ông th́ không. Ông ngồi thừ đó, câm lặng, không biết nghĩ ǵ. Cuối cùng điểu xảy đến cho ông là ông cầu nguyện cảm tạ Chúa đă bảo vệ gia đ́nh ông trong lúc bao nhiêu gia đ́nh khác và đất nước thân yêu vẫn bị xâu xé v́ chiến tranh, nghèo khổ.[176]
Chứng Kiến Những Ngày Sài G̣n Hấp Hối Giăy Chết
1.Sáng ngày 1.5.1975, khoảng 10 giờ sáng, anh Lưu đến khách sạn Imperial chỉ c̣n gặp các LM Đời, Toản và Phan Công Chuyển, Tổng Thư Kư của Viện. Trong khoảnh khắc ấy, thật là ngỡ ngàng và hoang mang, anh vội hội ư với các linh mục rất nhanh và tạm quyết định sẽ tham khảo ư kiến của LM Viện trưởng về các công việc trong tương lai
Sau đó Viện quyết định làm việc lại vào ngày thứ hai 5.5.1975. Khi đến văn pḥng, anh Lưu gặp lại mọi người, ai cũng đều hết sức hoang mang và buồn rầu. Bề ngoài, anh gượng cố gằng, tạo cho ḿnh một vẻ mặt thật điềm tĩnh và đầy tự tin, để trấn an mọi người, nhưng trong tâm tâm, anh cũng buồn rầu không kém ǵ ai khác.
Tuy nhiên, thực sự mà nói, anh có thể b́nh tĩnh hơn họ, v́ gần hai tuần trước đó, khi quyết định ở lại, anh đă chuẩn bị tâm lư để chờ đón mọi biến cố có thể xảy ra, mà trong đó, t́nh trạng tệ hại nhất là Sài G̣n sẽ [291] hoàn toàn sụp đổ. Theo anh Lưu, chỉ c̣n một điều khá bất ngờ, là cuộc sụp đổ của chế độ Việt Nam Cộng Ḥa ở miền Nam Việt Nam xảy ra quá mau lẹ, ngoài sự ước tính của mọi người.
2.Giữa không khí ảm đạm đó, khoảng 9 giờ sang, vị khách đầu tiên đến gặp anh ở văn pḥng Viện là ông Phạm Như Hồ, tốt nghiệp Cao Học ở Trường Chính Trị Học tại Paris, lúc đó đang là giảng viên cơ hữu của Đại Học Văn Khoa Sài G̣n, nhưng đồng thời là giảng viên của Viện Đại Học Đà Lạt. Ông trạc tuổi anh Lưu.
Ông báo cho Viện biết giáo sư Trần Chánh Thành, trước đây cũng là giáo sư thỉng giảng của Viện, đă tự vận trong ngày 30/4 vừa qua. LS. Trần Chánh Thành, là một luật gia lăo luyện về chính trị, thầy dậy về các Vấn Đề Chính Trị Hiện Đại tại Ban Chính Trị của Trường CTKD. Trước năm 1954, GS là Ủy Viên Tuyên Vận của Liên Khu Bốn của CS. Sau đó GS bỏ về hợp tác với phe quốc gia và trở thành Bộ Trưởng Thông Tin đầu tiên trong chính quyền ông Diệm.
Sau này thầy trở thành Thượng Nghị Sĩ, rồi Bộ Trưởng Ngoại Giao. Nhưng 1975, cũng như một số chính khách Miền Nam lúc đó, Ông tin rằng với sự bảo đảm của quốc tế, miền Nam sẽ trung lập và mọi người sẽ có cơ hội đóng góp để xây dựng đất nước. Nhưng cuối cùng CS bác bỏ mọi giải pháp trung lập, quyết dung bạo lực để cưỡng chiếm miến Nam. Có lẽ ông cảm thấy những dự kiến của ḿnh đă trở thành ảo tưởng, Ông quyết định quyên sinh tại nhà riêng, trước khi bị CS bắt giam. Lúc đó mọi người trong văn pḥng Viện đều rất bùi ngùi và vô cùng xúc động trước hung tín này.
3. Sau đó Hội Đồng Viện được sắp xếp lại và gồm các thành phàn như sau:
Viện Trưởng: LM Lê Văn Lư
Phó Viện Trưởng: LM. Nguyễn Văn Đời
Chánh văn pḥng Viện Trưởng: Ô. Phạm Văn Lưu
Khoa Trưởng Văn Khoa: LM. Thiện Cẩm
Khoa Trưởng ư Phạm: LM. Mai Văn Hùng
Khoa Trưởng Khoa Học: LM. Nguyễn Văn Đời
Phó Khoa Trưởng Khoa Học: LM. Nguyễn Hữu Toản
Khoa Trưởng CTKD: GS. Nguyễn Lâu
Tổng Thư Kư Ban Cao Học CTKD: Ô. Đỗ Văn Thành
Sinh Viên Vụ: Ô. Mai Kim Đĩnh.
Tiếp Xúc Vói Ủy Ban Quân Quản
1.Công việc đầu tiên của anh Lưu sau khi trở lại làm việc là liên lạc với Ủy Ban Quân Quản Đại Học. Anh đến Văn Pḥng Viện Trưởng Viện Đại Học Sài G̣n, ở số 3 Công Trường Chiến Sĩ, gặp vị Trưởng Ban tiếp quản Viện Đại Học Sài G̣n là Tiến Sĩ Nguyễn Tấn Lập. Ông là người nhỏ con như GS Trần Long, trạc tuổi 55. Và theo như lời ông nói, ông tốt nghiệp Tiến Sĩ Toán Học ở Đại Học Sorbonne , Paris và Ông đă nghe tiếng LM Lư, từ ngày c̣n ở Pháp và ông cũng đă đọc luận văn của LM Lư: Le Parler Vietnamien. Ông ngỏ ư muốn gặp gỡ và nói chuyện với LM Viện Trưởng. Ngày hôm sau, qua sắp đặt của anh Lưu, LM Viện Trưởng gặp ông ở văn pḥng của ông. Tiếp đến Ủy Ban này đă gởi hai nhân viên giảng huấn, một người tên là Phan Văn Dật, và người kia, anh Lưu không c̣n nhớ tên. Họ đến Viện Đại Học Đà Lạt, trên lầu 2, Thương xá Tax, để tŕnh bày về đường lối của chính quyền mới cho các giáo chức của Viện Đại Học Đà Lạt
Điều đặc biệt là họ mặc quần đen và đeo súng lục và nói là đại diện cho Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Ḥa Miền Nam Việt Nam, nhưng rồi cũng theo lời họ nói, họ không phải là những quân nhân mà là giáo chức thực thụ của Đại Học Hà Nội, được gởi vào đây công tác!!!
2. Sau đó, là thủ tục tŕnh diện, tại Viện Văn Hóa Goethe, trực thuộc Ṭa Đại Sứ Tây Đức, tại số 49 đường Hồng Thập Tự. Dĩ nhiên, lúc đó toàn bộ nhân viên ở đây đă di tản về Đức cả rồi. Mỗi giáo chức của Viện phải đến làm thủ tục đăng kư, làm bản tự khai lư lịch và mỗi người lên gặp một cán bộ để họ vừa đọc lư lịch của ḿnh vừa hỏi những điều họ muốn biết thêm về ḿnh, trung b́nh mỗi người phải trả lời phỏng vấn khoảng 30 phút nhưng cũng có thể dài hơn tùy theo lư lịch của từng người.
Trong buổi đăng kư này, tất cả gồm những người có tên trên danh sách vừa kể trên, c̣n có các ông Lê Văn Khuê, Đậu Quang Luận, Đỗ Hữu Nghiêm, bên (Văn Khoa), Ô. Nguyễn Bào, Phan Nam (Khoa Học), Ô. Nguyễn Hữu Thân, (ban Cử Nhân CTKD), Ô. Nguyễn Chính Đoan, Ô. Nguyễn Đ́nh Quế, (Ban Cao Học Chính Trị Kinh Doanh).
Về việc đăng kư này, anh Lưu thấy có một kỷ niệm buồn về trường hợp của Anh Mai Kim Đĩnh. Lúc đó anh là Giám Đốc Sinh Viên Vụ của Viện, thay thế cho GS. Ngô Đ́nh Long đă di tản, đồng thời cũng là Giám Đốc Tuyên Nghiên Huấn Của Tổng Liên Đoàn Lao Công Việt Nam.
Theo qui định lúc đó, những người trong quân đội từ cấp Đại Úy trở lên, những Giám Đốc trong các phủ, bộ của chính phủ và những người lănh đạo trong các đảng phái chính trị phải đi học tập trong ṿng một tháng. Trước khi anh Đĩnh đi học tập theo diện cải tạo của Tổng Liên Đoàn Lao Công Việt Nam, anh có đến văn pḥng Viện từ biệt anh em. Anh Lưu đề nghị anh Đỉnh, để anh làm hồ sơ anh đi học tập chung với giáo chức của Viện tại Sài G̣n và rồi về làm việc với anh em cho vui. Đỉnh cảm ơn đề nghị của anh Lưu và nói để anh ấy đi học tập theo diện nặng nhất, lâu nhất sau đó sẽ thanh thản trở về làm việc với anh em th́ vui hơn.
Anh Lưu thấy rất ái ngại về quyết định của Đỉnh, nhưng anh không dám nói ǵ thêm. Cuối cùng anh đề nghị anh Lưu tim một quán cà phê nào để tán dóc trước khi từ biệt. Nhưng hôm đó anh Lưu có hẹn, không thể đi được. Anh Đỉnh chở anh ra bền xe buưt ở Chợ Cũ Sài G̣n trên chiếc xe đạp Đỉnh mới mua, để anh Lưu về Gia Định.
Từ đó đến nay, anh Lưu chưa gặp lại anh Đỉnh. Mặc dù, anh Lưu biết sau đó, anh Đỉnh không những đi học tập một tháng như chính quyền đă hứa, mà h́nh như anh c̣n phải ở trong trại học tập đến gần 8 năm, một vài người bạn ở chung trại với anh kể lại như vậy. Sau này, anh Lưu nghe anh Đỉnh làm việc tại Trung Tâm Nghiên Cứu ở Tân Gia Ba rồi Luân Đôn, cũng như thỉnh thoảng có nghe giọng nói của anh trả lời phỏng vấn trên các đài phát thanh khác.
Cách Làm Việc Theo Khuôn Sáo Thụ Động
1.Tiếp theo đó, ngày 19.5 là ngày sinh nhật của Hồ Chí Minh, các giáo chức phải đi tham dự buổi họp theo các đại học của ḿnh. V́ Đại Học Đà Lạt là đại học tư thục, nên các nhân viên giảng huấn cùng phải đi tham dự cùng các đại học tư khác như Đại Học Phương Nam, Đại Học Minh Đức, Đại Học Cao Đài, Đại Học Ḥa Hảo… đến một giảng đường của đại học Minh Đức ở cơ sở đường Trần Quốc Toản, để dự lễ tưởng niệm.
Sở dĩ anh Lưu chú ư đến sự việc này, ví có một sự kiện hơi khôi hài! Buổi sang hôm ấy, anh tham dự lễ, một vị giáo chức cán bộ lên đọc diễn văn, khi đến đoạn “chúng ta tiếc thương bác Hồ kính yêu”, ông lấy kính trắng xuống rồi lấy khăn tay lau nước mắt. Đến 7 giờ tối hôm đó, anh xem Đài Truyền H́nh Sài G̣n, chiếu lại quang cảnh buổi tưởng niệm ở Đại Học Sài G̣n dành cho các giáo chức đại học công lập, một giáo chức khác cũng đọc một câu như vậy và cũng lấy kính trắng xuống, lau nước mắt giống hệt như cảnh tượng anh đă chứng kiến buổi sáng tại Đại Học Minh Đức.
Lúc đó, anh hết sức ngỡ ngàng, nhưng sau này anh hiểu đó là phương cách làm việc theo tiêu chuẩn của người Cộng sản!
2. Trong thời gian này, các LM trong Hội Đồng Viện c̣n gặp một khó khăn khác với chính quyền mới là việc đăng kư hộ khẩu. V́ trước đây tờ khai gia đ́nh của các LM đều ở Đà Lạt, nay chạy về Sài G̣n các ngài không có giấy thường trú. Theo nguyên tắc các ngài phải trở về Đà Lạt đăng kư thường trú, rồi sau đó xin di chuyển xuống Sài G̣n, và nếu các quận trong thành phố chấp thuận, các ngài mới vào được hộ khẩu, nếu không phải về sống tại Đà Lạt. Đây là việc vô cùng khó khăn lúc đó, v́ liên quan đến lănh vực an ninh nội chính.
Anh Lưu phải lo công việc này cho các LM. Nhưng rất may, đang cơn bối rối này, anh nhận được điện thoại của một nữ giáo sư thỉnh giảng bên khoa học cho biết nếu Viện Đại Học Đà Lạt có gặp khó khăn ǵ, bà có thể giúp cho, v́ ông Cao Đăng Chiếm, Giám Đốc An Ninh Nội Chính, là chỗ thân t́nh. Sau đó, vấn đề hộ khẩu của các LM được giải quyết mau chóng. Việc cư trú của LM Lập ở B́nh Triệu cũng gặp khó khăn tương tự và nha Lưu cũng t́m cách giải quyết theo đường lối này.
Học Tập Chính Trị
Theo chỉ thị của Ủy Ban Quân Quản các Đại Học tư, giáo chức nào muốn tiếp tục giảng dạy phải tham dự các buối học tập chính trị kéo dài khoảng bốn tháng tại Sài G̣n. Sau đó, nhà nước sẽ quyết định bố trí công tác, sau khi cứu xét lư lịch từng cá nhân. Trên nguyên tắc, họ tuyên bố như vậy, nhưng sau khi học tập xong những khóa chính trị này, không một giáo chức nào của các đại học tư tại Sài G̣n được tiếp tục giảng dạy, v́ một lư do dơn giản, không một đại học tư nào được giấy phép hoạt động lại. Thành phần của Đại Học Đà Lạt đi tham dự học tập chính trị gồm có:
Văn pḥng Viện có các LM Đời, Toản và bản thân anh Lưui. Trường CTKD có ÔÔ. Vũ Thiện Vinh, Vơ Văn Hải, Nguyễn Chính Đoan, Nguyễn Lâu, Nguyễn Hữu Thân, và Lương Hữu Định. Bên Văn Khoa có ÔÔ. Đậu Quang Luận, Lê Văn Khuê, Đỗ Hữu Nghiêm, …có thể kể thêm một vài người nữa.
C̣n LM Thiện Cẩm, Khoa Trưởng Văn Khoa và LM Mai Văn Hùng, Khoa Trưởng Sư Phạm quyết định không xin dạy học nữa, nên không tham dự các khóa học này. C̣n các ô. Nguyễn Bào, Phan Nam bên Khoa Học, Trần Văn Mầu bên Sư Phạm, Nguyễn Thanh Châu bên Văn Khoa đă trở về Đà Lạt.
Đăng Kư Chương Tŕnh Giảng Dạy
Và cũng theo chỉ thị của chính quyền, để có thể mở lại Viện Đại Học Đà Lạt ở Sài G̣n, văn pḥng Viện làm hồ sơ đăng kư. Trong hồ sơ này, có phần quan trọng nhất là đăng kư nội dung các môn học (syllabus). Anh Lưu được các LM Viện Trưởng và các Khoa Trưởng ủy nhiệm đảm lănh công việc đó. Để xúc tiến phần vụ này, anh đă xin LM Viện Trưỏng triệu tập một phiên họp tất cả các giáo sư cơ hữu và thỉnh giảng của Viện đang có mặt ở Sài G̣n đến họp tại thư viện Ban Cao Học CTKD trên lầu 2, Thương xá Tax. Theo anh, những người tham dự gồm các nhân viên giảng huấn cơ hữu của Viện như anh kể trên, ngoài ra c̣n có một số giáo sư thỉnh giảng như các Ô. Phạm Như Hồ, Lê Thành Trị, Nguyễn Hưng, Nguyễn Huy, Bửu Lịch, Vơ Văn Hải, Lương Hữu Định và Vũ Thiện Vinh. Nhưng thực sự, bản thân người viết không được thông báo để tham dự buổi họp này
Dựa trên ư kiến của mọi người, anh Lưu soạn thảo lại nội dung các môn học, trong gần một tháng mới hoàn tất hồ sơ này. Sau khi tŕnh và lấy chữ kư của LM Viện Trưởng Lê Văn Lư, anh gởi hồ sơ này cho Ủy Ban Quân Quản Đại Học Tư, nhưng rồi chẳng bao giờ được hồi âm.
Cuộc Tiếp Xúc Với Văn Pḥng Chủ Tịch Nguyễn Hữu Thọ?
1. Tiếp tục nỗ lực để vận động cho Viện Đại Học Đà Lạt được mở cửa lại, LM Lư đă nhờ Ô. HHBá, Ủy Viên Trung Ương trong Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam, sắp xếp một cuộc gặp mặt với Chủ Tịch Nguyễn Hữu Thọ. Sau đó, LM Viện Trưởng nhận được giấy mời đến Văn Pḥng Chủ Tịch Thọ, có anh Lưu đi theo LM Viện Trưởng trong cuộc họp này. Anh không nhớ ngày, nhưng có lẽ vào cuối tháng 11.1975, v́ phải hủy bỏ sổ tay nhật kư của anh trên đường vượt biển. Buổi họp diễn ra khoảng 8 giờ tối, tại dinh Chủ Tịch Thọ, tức địa điểm cũ của Phủ Phó Tổng Thống Trần Văn Hương, trên đường Thống Nhất.
Đến nơi, chỉ có vị Đại Tá Chánh Văn Pḥng tiếp phái đoàn, chứ không có Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ như đă thông báo trước. LM Viện Trưởng bảo anh tŕnh bày công việc của Viện đă làm, như chấp hành mọi chỉ thị của chính quyền: các giáo chức đă đi học tập chính trị và cũng đă hoàn tất hồ sơ đăng kư, nhưng vẫn chưa được trả lời.
Viện chỉ mong muốn một điều duy nhất được biết sớm chính quyền, có ư định cho phép duy tŕ các đại học tư nữa không? Viện muốn biết sớm, để thông báo cho các nhân viên giảng huấn của Viện t́m ngành nghề khác để kiếm sống, nếu không đi dạy. Các giáo chức đă chờ đợi quá lâu, gia đ́nh của họ đă phải đối phó với nhiều thử thách.
Theo anh Lưu quan sát, viên Đại Tá này ghi rất kỹ lưỡng những điều anh tŕnh bày vào một cuốn sổ tay, và hứa sẽ tŕnh với Chủ Tịch Thọ t́m cách giải quyết thỏa đáng, trong một tương lai thật gần.
2. Nhưng sau cuộc gặp gỡ này, văn pḥng Viện không c̣n nhận được văn thư nào nữa của văn pḥng Chủ Tịch Thọ, cho đến khi văn pḥng này giải tán vào khoảng tháng 6.1976.
Suốt trong thời gian làm Chánh Văn Pḥng cho LM Viện Trưởng, theo cảm nhận của anh, LM Lư không phải là người giao thiệp rộng, không năng động, không cởi mở như LM Lập, nhưng thâm tâm LM Lư cũng có những quyết tâm kiên định là luôn luôn t́m mọi cách để duy tŕ và phát triển Viện theo những chiều hướng tốt đẹp nhất, mà LM có thể làm được. Nhưng rồi thời cuộc đă cuốn trôi tất cả.
Chuyển Hướng Cuộc Sống: Cơ Sở Sản Xuất Thụ Nhân
1. Sau những cố gắng xin mở cửa Viện Đại Học Đà Lạt bất thành, LM Viện Trưởng và các LM khác bảo anh hăy tổ chức, dưới một h́nh thức nào đó, để có thể tạo công ăn việc làm cho các công nhân viên của Viện và giúp ổn định đời sống gia đ́nh họ. V́ nay Viện không thể tiếp tục giảng dạy phục vụ cho giới trẻ nữa, không lẽ Viện đành giải tán để mỗi người đi một nơi, trong khi chính quyền mới chưa chịu đến tiếp quản cơ sở của Viện!
Để thực hiện ư định này của các LM, anh có bàn với các Ô. Lê Văn Khuê (Văn Khoa), và Ô. Nguyễn Chánh Đoan (Cao Học CTKD). Sau đó, anh em đưa ra dự án thành lập Cơ Sở Sản Xuất Thụ Nhân, dưới h́nh thức một công ty nặc danh, gồm nhiều cổ phần và mọi người có thể góp vốn bằng cách đóng góp cổ phấn. Cơ sở này chuyên sản xuất văn pḥng phẩm như phấn viết bảng, compa, bút bi và các loại đồ chơi trẻ em.
Nhóm Chủ TrươngCơ Sở Sản Xuất Thụ Nhân được hưởng ứng nồng nhiệt của mọi người, trước hết là các LM trong Hội Đồng Viện như các Lư, Đời, Hùng, Cẩm và Toản. Nhưng người tích cực nhất vẫn là LM Lập, Cựu Viện Trưởng VĐHĐL, lúc đó đang ở B́nh Triệu. Tiếp đến là các giáo chức trong Viện như các ông Nguyễn Đ́nh Quế, Vơ Văn Hải, Lương Hữu Định, Nguyễn Lâu và vợ của Ông Lê Hữu Hiếu (lúc đó ông c̣n đang đi học tập cải tăo) bên CTKD, ông Đậu Quang Luận bên Văn Khoa.
Một số giáo chức của các đại học khác như Đại Học Tây Ninh và Minh Đức cũng hưởng ứng bằng cách mua cổ phần và đưa thân nhân đến tham gia lao động sản xuất.
Về cơ cấu tổ chức, anh Lưu được bầu làm Tổ Trưởng, Ông Nguyễn Chánh Đoan là Tổ Phó, Ông Lê Văn Khuê là Tổng Thư Kư của Cơ Sở Sản Xuất này. Đến đầu năm 1977, Ông Đoan đi vượt biên, Ông Khuê trở thành Tổ Phó và Ông Lương Hữu Định làm Tổng Thư Kư.
2. Với những kiến thức quản trị chuyên môn đă thủ đắc được từ những sách báo chuyên môn Âu Mỹ, Nhóm Chủ Trương đă tố chức cơ sở này rất thành công, và chính quyền đă tuyên dương đặc biệt Nhóm này và đưa Nhóm làm đại diện cho 50 hợp tác xă lớn sản xuất đồ chơi trẻ em trong TP HCM.
Doanh thu mỗi quí (3 tháng) của Cơ Sở Thụ Nhân lúc đó, là khoảng 1 triệu 200 ngàn đồng tiền mới, tương đương 600 triệu đồng tiền VNCH trước năm 1975. Nhờ thành công của Cơ Sở Thụ Nhân, bản thân anh Lưu, với tư cách Tổ Trưởng, dược Ṭa Đại Sứ Liên Xô tại Hà Nội mời tham dự Hội Chợ Triển Lăm tại Mạc Tư Khoa 1981. Khi tiếp xúc với nhân viên Sứ Quán Liên Xô, anh Lưu đă t́m mọi cách từ chối, v́ cần về Sài G̣n sớm để sửa soạn chương tŕnh vượt biên[177].
Biến cố 30/4/1975 đă xóa tan những mộng mơ, dự án thật cao vời, nhưng khả thi của Viện Đại Học chốn Cao Nguyên trong mát. Nhưng sau những năm tháng chao đảo mất mát, tinh thần Thụ nhân đă dần dần phục sinh, và quy tụ lại, hợp nhất các thành viên Thụ Nhân từ trong nước cho đến hải ngoại. Không biết việc đoàn tụ bày chim Thụ Nhân này bắt đầu từ khi nào với những ai khởi xướng và có thể báo trước một dấu hiệu hồi hương gần kề chăng của bày chim xa xứ, t́m về tổ ấm quê mẹ?
Ở nhiều cương vị xă hội khác nhau, cộng đoàn Thụ Nhân đă góp mặt với nhau, không phải không có những mất mát, những buồn tủi, nhưng chắc chắn không thiếu ánh thiều quang tràn đầy thành quả và hy vọng của vùng trời Thụ Nhân trên mọi nẻo đường đời. Bày chim Thụ Nhân Cao Nguyên vỡ tổ thuở xưa đă cảm nhận được chất fêrômôn Thụ Nhân kỳ diệu để đánh bắt hơi thấy nhau, hấp dẫn nhau, nối ṿng tay lớn sải vắt ngang qua các đại dương từ Việt Nam đến khắp Á châu, Mỹ châu, Ấu châu, Úc châu và có khi cả Phi châu.
1.Hội Thân Hữu Thụ Nhân ở hải ngoại [Hội Ái Hữu Viện Đại Học Đà Lạt, có khi gọi The Dalat University Alumni Association)] có nhiều cơ may để sớm kết thành tổ, nuôi sống tinh thần Thụ Nhân “trồng ngựi”, theo danh ngôn “nhất niên chi kế mạc nhi thụ cốc, thập niên chi kế mạc nhi thụ mộc, bách niên chi kế mạc nhi Thụ Nhân”, “uống nước nhớ nguồn” cho măi đến nay.
a.Hội thiết lập một website mang tên Thụ Nhân để kết nối và thông tin. Hằng năm anh chị em thân hữu đều có những thông tin, và tổ chức sinh hoạt hội họp chung với nhau, như các dịp Tết Nguyên Đán và Mùa Xuân Hè ấm áp và các dịp tổ chức gây quỹ từ thiện. Từ năm 2000, cứ hai năm một lần anh chị em Thụ Nhân lại tổ chức một Đại Hội Thế giới (Đại Hội tháng 7/2000 tại Los Angeles, California, tháng 7/2002 tại San Jose, California, và tháng 11/2004 tại Houston, Texas) qui tụ thân hữu Thụ Nhân từ khắp nơi trên thế giới. Họ đến gặp gỡ nhau vừa để nối kết hội thảo một vấn đề hữu ích nào đó, vừa để vui chơi trao đổi t́nh thân hữu với nhau.
Năm nay (2006), Đại Hội Thụ Nhân sẽ được tổ chức vào đầu tháng 7 tại Vancouver, Canada kết thân với thành phố hàng xóm là Seattle bên bang Washington, USA. Ông bà Trần Long là hai người nhanh chân ghi tên tham gia đầu tiên. Một ban điều hành uyển chuyển cho từng năm gồm nhiều thành viên tích cực năng nổ. Mấy anh chị em trong cựu sinh viên tích cực nhất là chị Lâm Minh Toàn KD10 (Vancouver, anh Phạm Đ́nh Đắc KD5 (tự Dacco). Anh Nguyễn Văn Năm (tự Năm Lửa) cũng là người từng tích cực nối kết các thân hữu Thụ Nhân, dù anh rất bận rộn với nhiệm vụ giảng dậy của anh trong một trường học tại Houston, TX.
b.Mạng điện tử Thụ Nhân Viện Đại Học Đàlạt hải ngoại được tổ chức và hoạt động rất khoa học theo tinh thần quản trị và kỹ thuật mà các cựu sinh viên tương đối c̣n trẻ hấp thụ được, thể hiện rơ kết quả trong thời gian thụ huấn và sau này trên bước đường bôn ba nơi xứ người. Hội Ái Hữu Thụ Nhân theo các số liệu công bố hiện nay gồm 453 thành viên, trong đó có 120 nữ, số c̣n lại là 333 nam. Trong Thụ Nhân Directory, Hội Ái Hữu Thụ Nhân Cựu Sinh Viên Viện Đại Học Đà Lạt hiện qui tụ được 13 giáo sư t́nh nguyện gia nhập Hội là các vị sau đây:
T.T. |
Họ Tên |
Nơi Cư Trú |
Chú Thích |
1 |
Vương Văn Bắc |
Paris, Pháp |
|
2 |
Ngô Tằng Giao |
Washington, Dictrict of Columbia |
|
3 |
Đỗ Ngọc Hiển |
Garden Grove, Calififornia |
|
4 |
Nguyễn Viết Khánh |
San Jose, California |
|
5 |
Lê Xuân Khoa |
Fairfax, Virginia |
|
6 |
Hoàng Cơ Long |
Palo Alto, California |
|
7 |
Ngô Đ́nh Long |
Ceritos, California |
|
8 |
Phó Bá Long |
McLean, Virginia |
|
9 |
Trần Long |
Portland, Oregon |
|
10 |
Trần Quang Quyến |
Falls Church, Virginia |
|
11 |
Nguyễn Văn Sở |
Clovis, California |
|
12 |
Hoàng Ngọc Thành |
San Jose, California |
|
13 |
Nguyễn Duy Tưởng |
San Francisco, California |
|
Hội Ái Hữu Thụ Nhân qui tụ các cựu giáo sư và sinh viên thuộc tất cả bốn phân khoa truyền thống của Viện Đại Học Đà Lạt. Không kể 4 cựu sinh viên Sư Phạm, 14 cựu sinh viên Khoa Học và 27 cựu sinh viên Văn Khoa, số cựu sinh viên c̣n lại thuộc trường Chính Trị Kinh Doanh 453-(4+14+27)=405.
Sinh viên được giới thiệu theo thứ tự mẫu tự quốc ngữ. Người đứng đầu danh sách là Đặng Hữu Ái, sinh viên Chính Trị Kinh Doanh 4 và người cuối cùng trong danh sách là Trần Thanh Yến CTKD 6.
Chắc chắn c̣n rất nhiều thân hữu, cựu giáo sư và sinh viên và viên chức, chưa có cơ hội tiếp xúc ghi tên gia nhập đại gia đ́nh Thụ Nhân Đà Lạt. T́m đến vói gia đ́nh Thụ Nhân chỉ là thể hiện một hành động cao cả là hợp nhất trong t́nh người. Chắc chắn trong tương lai gần Thụ Nhân cần phải t́m đến qui tụ những cựu sinh viên linh mục, mục sư, đại đức, … có thể có mặt trong các phân khoa, nhất lả Trường Văn Khoa và Trường Thần Học, theo một phương thức phù hợp với địa vị của các cựu sinh viên đó. Hợp nhất sẽ làm thành sức mạnh bền bỉ của gia đ́nh Thụ Nhân vậy.
c. Số sinh viên Trường CTKD có ghi tên trong Hội Ái Hữu Thụ Nhân Viện Đại Học Đà Lạt được phân bố theo khóa học và nước cư ngụ hiện nay như sau:
I. PHÂN Bố THEO KHÓA HọC |
|||||||||||
KD1 |
KD2 |
KD3 |
KD4 |
KD5 |
KD6 |
KD7 |
KD8 |
KD9 |
KD10 |
KD11 |
CH |
65 |
13 |
14 |
17 |
78 |
49 |
31 |
36 |
18 |
28 |
10 |
10 |
II.PHÂN Bố THEO NƯớC CƯ NGụ |
|||||||||||
Bỉ |
Canada |
Đan Mạch |
Đức |
Hoa Kỳ |
Ḥa Lan |
Na Uy |
Pháp |
Thái Lan |
Thụy Sĩ |
Úc |
Việt Nam |
01 |
35 |
03 |
02 |
295 |
01 |
02 |
20 |
01 |
01 |
37 |
27 |
III. Chú Thích: 1/. Các thành viên Thụ Nhân KD 5 chiếm đa số, rối lần lượt đến Kinh Doanh1, KD6, KD 8 KD7, KD 10 KD 9, KD4, KD3, KD 11 và Cao Học CTKD. Như vậy không kể Ban Cao Học, Trường CTKD đào tạo được 11 thể hệ sinh viên. Nhưng chỉ các sinh viên từ khóa 1 đến khóa 7 là trải qua đầy đủ bốn năm theo học tŕnh huấn luyện. Từ khóa 8-11, các sinh viên đều học dở dang từ 1 đến hơn ba năm. Tổng số các thành viên ở các khoa không nhất thiết trùng với tổng số 453, v́ có những sinh viên ghi danh học hai hay nhiều trường hơn. 2/. Hầu hết thành viên Thụ Nhân đều cư ngụ tại Hoa Kỳ (295). Số c̣n lại phân bố lần lượt tại các nước: Úc(37), Canada(35), Việt Nam(27), Pháp(20), Đan Mạch, Đức, Na Uy, và Ḥa Lan, Thái Lan, Thụy Sĩ 3/. Các số liệu này không gồm các cựu giáo sư và sinh viên chưa tiếp xúc hay không tự nguyện gia nhập Hội Ái Hữu Viện Đại Học Đà Lạt. Tên tiếng Anh của Hội Ái Hữu là The Dalat University Alumni Association |
d. Chẳng hạn trong năm 2004, vào dịp Đại Hội Thụ Nhân, các cựu sinh viên năng nổ nhất có thể là Trần Văn Lược, Trần Đắc Đạt, Nguyễn Gia Thanh cho lớp KD1, Lê Cảnh Thạnh, Nguyễn Sĩ Đẩu và Trần Trí thuộc KD2-3-4, Đoàn Minh Phước và Phạm Thị Dịu KD5, Bành Trung Tâm KD6, La Ngọc Mai, Đỗ Thị Nhàn, Ngọc Phụng, Nguyễn Thị Hạnh KD7-8, Hoàng Vũ, Nguyễn Quốc Thắng và Phan Trọng Hân KD9-10-11, Đoàn Hữu Đức cho Khối CTXH và Cao Học, Nguyễn Văn Năm cho Văn Khoa và Khoa Hoc, Nguyễn Ngọc Yến cho Sư Phạm.
Người phụ trách tổ chức tổng quát Đại Hội là cựu sinh viên Hoàng Vũ (Chủ Tịch Thụ Nhân Houston, TX) làm thành Ban Chấp Hành năng động nhất của Đại Hội Ái Hữu Thụ Nhân là Ban Chấp Hành Thụ Nhân Nam California, nơi tập trung đông đảo người Việt nhất nước Mỹ, và có thể cả thế giới.
Đại Hội Thụ Nhân 2004 qui tụ số người tham dự lên tới 301 người. Phải nói đây là con số thật lớn lao nhưng người tích cực hưởng ứng hầu hết là cựu sinh viên Trường CTKD.
e. Đại Hội Thụ Nhân Thế Giới năm 2006, chỉ mới ở trong giai đoạn trù bị, đă xuất hiện nhiều khuôn mặt năng động, mới mẻ, tương đối trẻ trung hơn tham gia vào công việc tổ chức:
Anh chị em cựu sinh viên Kinh doanh th́ có: Lâm Kim Thoa, (KD10, Trưởng Ban Tổ Chức); Hồng Văn Bil (KD4 về Ẩm Thực, Picnic, Tài Chánh); Nguyễn Kim Cúc (KD8 về Tài Chánh Sổ Sách); Thái Thị Liên Hoa (KD4 về Tiếp Tân Du Lịch Minter Garden); Đoàn Chính (TnB về Văn Nghệ Thính Pḥng); Trần Mộng Hương (KD5 về điều hợp Canada); Vơ Thị Minh Nhứt (KD4 về du lịchVictoria); Lê Ngọc Hiền (KD11 về Picnic, Tŕnh diễn Thời Trang); Phạm Tiến Hưng (TnB về Thể Thao); Trần Văn Thanh (KD7 về Báo Chí); Trương đ́nh Mẫn (KD10 về du lịch Whistler Mountain)
Đặc biệt Đại Hội TN 2006 có thêm nhiều khuôn mặt của các khoa khác hơn, như Trần Thị Mỹ Hoa (KH70 về Quà Lưu Niệm); Phạm Xuân Thái (KH72 về Văn Nghệ Gala); Trần Thị Nguyệt (VK71 về Picnic).
Hai nhân vật dường như không thể thiếu ở hầu hết các hoạt động Thụ Nhân và thường làm việc với nhau như cặp bài trùng là Nguyễn Hùng Sơn (KD5 (Bắc Cali) về Trang trí Mỹ Thuật); Phạm Đ́nh Đắc (KD5 (Bắc Cali) về điều hợp USA và thế giới).
f. Không chỉ tụ tập nhau để vui chơi t́m lại sưởi ấm và phát triển t́nh thân hữu qua các đại hội, mà một sinh hoạt rất thiết thực là xây dựng Quỹ Học Bổng và Tương Trợ từ năm 1998 để trợ giúp những trường hợp cần thiết hay chi tiêu vào những sinh hoạt chung.
Hội Ái Hữu Thụ Nhân hải ngoại đă giúp học bổng cho con cái TN gặp khó khăn ở VN. Toàn bộ Quỹ Thụ Nhân năm 1998-2000 thu được 18.800 US$, và đă gủi đi tài trợ cho Việt Nam 17.000 US$, như trường hợp của gia đ́nh chị Phan Thị Hồng Diệp ở Việt Nam. Trong lá thư của chị Diệp, vợ anh Vơ Văn Hóa, KD1, một Thụ Nhân đă bất ngờ ra đi hồi tháng 4 năm 1999, có những lới cảm động như sau:
“… Anh cho tôi gởi lời thăm hỏi và chân thành cám ơn đến tất cả thầy cô, anh chị trong gia đ́nh Thụ Nhân. Tôi rất cảm động không biết nói ǵ hơn với học bổng các anh chi gởi cho cháu đă giúp động viên tinh thần cháu rất nhiều. Cháu rất sung sướng và vui mừng lắm. Khi nào cháu vào được đại học có lẽ tôi không dám phiền đến các anh chị nữa. Bây giờ tôi chỉ ước mong cháu học giỏi, thi đỗ thành tài là tôi măn nguyện, chết đi tôi cũng yên tâm…”
Không một bạn nào đă quên anh Trần Văn Tường, một bạn KD1, bị động viên vào Trường sĩ quan trừ bị Thủ Đức. Ra Trường liên tục làm QTV Qui Nhơn. Khi c̣n đi học thường ngụ chung với các bạn Quang Cơ, Nguyễn Thanh Châu VK, Lê Văn Thái KD1, tham gia nhóm TNPSXH. Sau năm 1975, anh phải chạy xe thồ để kiếm sống cực nhọc đến độ bị bệnh phổi, gầy đét, chỉ c̣n da bọc xương, ăn cầm hơi chờ thần chết đến thăm. Khi viết những ḍng chữ này th́ thân phận anh ra sao?
g. Có khi Thụ Nhân có nhiều nghĩa cử từ thiện “một chén khi đói bằng một gói khi no”. Thụ nhân tổ chức bán hàng để gây quỹ cứu lụt v́ băo Katrina khủng khiếp thổi vào thành phố New Orleans ở tiểu bang Louisiana, hay vụ tặng quà cho người thiếu thốn qua một ngôi Chùa tại Việt Nam, hay những cuộc lạc quyên qua những buổi tổ chức tŕnh diễn âm nhạc thính pḥng hay chiếu phim gây quỹ, như phim “Mê Thảo, Một Thời Vang Bóng” có giao lưu với diễn viên Đơn Dương ở San Jose, Cali
2.Nhưng có lẽ bầy chim Thân Hữu Thụ Nhân Quốc Nội bị dập cánh bên quê hương phải lao đao vất vả măi, có thể kể từ năm 2000, mới bắt đầu hội tụ lẻ tẻ đó đây.
Tất Niên Năm Nhâm Ngọ vào 6-8 giờ tối ngày18/1/2003 đầu năm 2003 bước sang Xuân Quí Mùi, một số thân hữu mới có thể tạm thời qui tụ nhau trong nhà hàng Phương Nam ở số 32 đường Huỳnh Tịnh Của Tân Định.
Các thân hữu hiện diện tham dự tối hôm đó gồm 28 người. Có năm GS: Nguyễn Khắc Dương, Nguyễn Hồng Giáp, Trần Thiện Cẩm (LM), Nguyễn Văn Ḥa (LM), Lê Văn Khuê, Đỗ Hữu Nghiêm.
Tất cả số c̣n lại đều là các cựu sinh viên: Vũ Tiến Bộ, Vương Đ́nh Chữ (triết), Phan Long Côn (văn), Bùi Việt Dân (văn), Đinh quang Diêm (văn), Đào Danh Đức (Pháp), Trần Hồng Đương (triết), Trần Thương Khánh (triết), Lương Viết Khiêm (Văn), Nguyễn Duy Lễ (Anh), Nguyễn Tấn Phước (Triết), Nguyễn Thị Quư (Văn), Bùi Kim Sơn (Anh), Dương Anh Sơn (triết), Nguyễn Văn Sơn (triết), Nguyễn Thị Thanh Chi (văn), Nguyễn Sĩ Thái (Anh), Trần Công Thạch (triết), Nguyễn Quang Tuyến (triết), Nguyễn Văn Xô (triết) và Nguyễn Thanh Xuân (Anh).
Nhưng lạ thay không có một bóng thụ nhân Đà lạt của Khoa Học và Chính trị Kinh doanh. Dường như đây là buổi tái ngộ chỉ qui tụ hầu hết những thành viên ngoài CTKD.
Trong buổi hội ngộ Tất Niên năm Nhâm Ngọ ấy, người đáng chú ư nhất có lẽ là anh Trần Bảo Định (Ba Định) là một người khoác áo sinh viên ban triết, nhưng lặng lẽ phụ trách mảng t́nh báo CS vùng Nha Trang Cam Ranh đến cao nguyên Lâm viên-Đà Lạt. Anh từng bị An Ninh ruồng đuổi và nhiều lần vào tá túc yên ổn ở trong chính căn pḥng của GS NKD nhiều ngày. Chính anh là người đă thu xếp chuyến du hành Âu Châu của GS NKD sau 1975.
Ngày 23/12/2005, một số anh chị em Thân hữu Thụ Nhân đă họp mặt tại nhà hàng Bảo Trân, Sàig̣n nhân ngày Truyền Thống Cựu Sinh Viên Viện Đại Học Đà lạt.
THỬ KẾT LUẬN
Nhắc lại những biến cố sự kiện quá khứ để mỗi thành viên thân hữu, nhân viên quản trị và giảng huấn cũng như thụ huấn của Viện Đại Học Đà Lạt thuở nào nâng cao niềm hănh diện v́ trách nhiệm và sinh hoạt vui buồn đă qua của ḿnh đă có thời gian hợp tác và góp phần xây dựng mái nhà văn hóa chung thân yêu và ấm cúng này.
Nét độc đáo của Hội Ái Hữu Thụ Nhân là tính chất “người” bàng bạc trong cách ứng xử. Và khi đều đặn qui tụ lại với nhau mỗi người lại có điều kiện học hỏi để trở nên “người” nhiều hơn nữa trong các cách ứng xử ở từng môi trường ḿnh đang sống. Chính yếu tố kết dính “Thụ Nhân” ấy khiến chúng ta có thể làm được những điều ǵ ích lợi tốt đẹp cho đất nước và con người.
Lư tưởng Thụ Nhân cũng là hồi cố nhân, như mấy vần thơ thắm t́nh quê sau đây của những tâm hồn luôn ngưỡng về cố hương, nơi đó có người xưa yêu dấu, có gia đ́nh, có tổ quốc mến thương.
Đêm Thu nhớ Đà Lạt
Tháng mười thu nhẹ đến bên ta
Buộc áng mây xa chở trăng về
Cam Ly thác gọi đời dâu bể
Ta đă ra đi lỗi câu thề
Gió thu nhập thể hoài thương cảm
Đà Lạt mù sương núi Langbiang
Suối Vàng thả tóc dài Vạn Kiếp
Xuân Hương – Than Thở - bóng chiều loang
Ba cây đồi vắng cảnh rừng hoang
Phố ngả lưng đau giữa điêu tàn
Lối xưa lạc bước vờn sương khói
Thầm gọi tên quen lệ tuôn hàng
Lá vàng rũ cánh chờ tri kỷ
Đào hồng khép nụ đợi tri âm
Lâm Viên gió lặng chiều thăm thẳm
T́nh Xanh* song dậy đắm bạc ḷng
Che kín niềm đau phận lưu vong
Ngơ ngác đời nhau giữa phong trần
Thu ơi! Ta khắc t́nh trên đá
Nhớ măi ngàn thông giữa ngàn thông
*Cao nguyên T́nh Xanh là tên gọi của tiểu bang WA
Hạ-Đỗ Chung-Bích Phương (TNB (WA, 98):
Nhờ th́ vẫn nhớ, nhưng khi thời cơ trở lại với đất nước theo vận mệnh có chiều hướng thuận lợi, hợp ḷng dân và thuận ư trời, các ái hữu Thụ Nhân hay các thế hệ hậu sinh của Thụ Nhân sẽ không quên xây dựng và phát triển ngôi nhà văn hóa Thụ Nhân tinh thần và vật chất thật vinh quang và sáng lạn hơn cả ḷng chúng ta mong ước, v́ tới lượt cờ lại đến tay ta phải phất thật cao!
Người ta có cơ sở để nói đến điều ấy, khi ngày cuối năm, ngày 31/12/2005, hơn bốn trăm sinh viên cũ của Viện Đại Học Đà Lạt đă quần tụ đông đảo ở khuôn viên Viện để chuẩn bị kỷ niệm 50 năm thành lập Viện. Giáo sư Phó Bá Long đă hăng hái hồi hương tham gia ngày Kỷ Niệm đó, với tâm hồn hăng say bốc lửa của tuổi đôi mươi, dám lao ḿnh vào sóng gió, can đảm làm tất cả nhưng ǵ tạo t́nh đoàn kết và cổ vũ t́nh người. GS chú ư đến ṭa nhà ba tầng mới được xây dựng thêm ở phía sau Trung Tâm Sinh Viên. Đặc biệt trong Thư Viện có trưng ảnh một cách cung kính h́nh chân dung của ba vị tu sĩ từng có công lao với Viện Đại Học Đà Lạt ở mỗi giai đoạn khác nhau, trước 30/4/1975. Trong đó có một pḥng vi tính để sinh viên có thể, vừa học tập làm việc trên máy, vừa ngắm bức ảnh của vị Sư Huynh Giám Đốc Thư Viện, nhà giáo Théophane Nguyễn Văn Kế, FSC, đang tươi cười chào đón các thanh nam nữ tú làm độc giả thường xuyên của Thư Viện!
Nhưng có lẽ cho đến nay, không kể ba vị Linh Mục Chưởng Ấn kiêm Viện Trưởng Ngô Đ́nh Thục (1897-1984), Linh mục Viện Trưởng Nguyễn Văn Lập (1911-2001), rồiLinh mục Viện Trưởng Lê Văn Lư (1913-1994), SH Théophane có thể là người lăn lộn và đảm lănh nhiều trách nhiệm nhất và có mặt chứng kiến nhiều nhất bao biến cố trong Viện này, và muốn nhắn nhủ với các thế hệ Thụ Nhân như một di chúc chân thành của người đi trước:
“Tôi mong có ngày một nhóm cựu sinh viên Thụ Nhân về Việt Nam tái tạo Viện Đại Học Thụ Nhân … Muốn làm sống động một Viện Đại Học, phải có một nhà ngân hàng phong phú tiền bạc và một con tim cháy lửa t́nh yêu tuổi trẻ. Quê hương VN cần những Viện Đại Học như thế đó. Một nước giàu mạnh là có cả triệu người thông minh, tháo vát, biết làm ăn, khôn ngoan và đại lượng, mưu ích cho quê hương và đồng bào bây giờ và trong tương lai. Muốn đào tạo con em thành nhân, th́ những kẻ làm chính trị cầm quyền và những kẻ làm nghề nhà giáo phải là người cái đă. Chính con người là kho báu của đất nước đấy. Thụ Nhân “trồng người” là vậy đó. Chớ bao giờ quên câu nói của Thầy Lăo Tử:
“Làm thầy thuốc mà lầm th́ giết một người
Làm địa lư mà lầm th́ giết một nhà
Làm chính trị mà lầm th́ giết muôn thế hệ”.
Làm giáo dục văn hóa là thế đấy, là Thụ Nhân, đem giáo dục con em thành người, tài đức xứng đáng nhiên hậu mới làm được mọi chức năng nghiêm chỉnh trong xă hội, mà đừng tiêu diệt dân tộc và con người bằng bất cứ hành động ngoan cố hay vô thức nào.
PHỤ LỤC I
TRÍCH NGANG VÀI NÉT HỌC TR̀NH ĐẠI HỌC
Giáo Tŕnh Trường Đại Học Sư Phạm
Sư Phạm Bốn Năm:1973-74
Chuyên Môn:
Sinh viên phải theo một số Môn Học tùy theo Ban đă chọn. Các môn đó được chỉ định ở Chương trinh tương ứng của từng năm I – II – III – IV thuộc trường Văn Khoa (Quốc Văn, Triết Học, Sử Địa, Sinh Ngữ), Khoa Học (Lư Hóa, Vạn Vật) hay Chánh Trị Kinh Doanh.
Chuyên Biệt Sư Phạm:
Năm Một (14-16 tín chỉ) |
||
Giảng đường/Môn học |
GĐ/Môn học |
Chú Thích |
GD100: Âm Nhạc Học Đường I |
GD 111: Phương Pháp Truyền Thông Kiến Thức |
|
GD120: Tâm Sinh Lư |
GD130: Giáo Đục Nhập Môn |
|
GD140: Tâm Lư Phát Sinh 1 |
GD150: Tâm Lư Giáo Dục I |
|
GD160: Triết Lư Giáo Dục I |
|
|
Năm HaiL14-18 Tín Chỉ) |
||
GD201: Âm Nhạc Học Đường II |
GD210: Sư Phạm Thực Hành |
|
GD220: Lịch Sử Giáo Dục |
GD221: Lịch Sử Giáo Dục cổ Việt Nam |
|
GD230: Nặng Động Tập Thể I |
GD240: Tâm Lư Phát Sinh II |
|
GD241: Tâm Bệnh Học |
GD250: Tâm Lư Giáo Dục II |
|
GD260 Tâm Lư Trắc Nghiệm & Thẩm Lượng |
|
|
Năm BaL14-16 Tín Chỉ) |
||
GD310: Nguyên Tắc & Tổ Chức Trung Học |
GD311: Giáo Dục & Đối Chiếu |
|
GD320: Phương Pháp Thính Thị Giáo Dục |
GD330: Động Lực Đoàn Thể II |
|
GD340: Tâm Lư Phát Sinh III |
GD341: Tâm Lư Xă Hội Giáo Dục |
|
GD350: Tâm Lư Giáo Dục III |
GD360: Hướng Dẫn Giáo Dục |
|
GD370: Phương Pháp Giảng Dậy (Sáu Ban đă chọn thuộc Văn Khoa hay Khoa Học) |
|
|
Năm Bốn: |
||
GD431: Thống Kê Giáo Dục |
GD450: Quản Trị Học Đường |
|
GD440: Thanh Tra Học Đường |
GD430: Nghiên Cứu Giáo Dục |
|
GD420: Giao Tế Giáo Dục |
GD410: Lành Mạnh Tinh Thần |
|
GD460: Thực Tập |
GD411: Sinh Hoạt Học Đường |
|
GD470: Tiểu Luận |
|
|
A. Chuyên Nghiệp Sư Phạm |
||||
Trung Hoïc: 300 giôø - I/96g, II/144g |
Tieåu Hoïc: 192 giôø – I/96g, II/96g |
|
||
Neàn Taûng Trieát Hoïc Veà Giaùo Duïc |
30g |
Sư Phạm L Thuyết |
52g |
|
Neàn Taûng Taâm Lyù Hoïc Veà Giaùo Duïc |
30g |
Taâm Lyù giaùo Duïc |
36g |
|
Giaùo Duïc Ñoái Chieáu |
20g |
Luaân Lyù Chöùc Nghieäp |
16g |
|
Quaûn Tṛ Hoïc Ñöôøng |
30g |
Sö Phaïm Thöïc Haønh |
54g. |
|
Vai Troø Laơnh Ñaïo Cuûa Hieäu Tröôûng Ngaøy Nay |
20g |
Nhöơng Vaán Ñeà Giaùo Duïc |
18g |
|
Neàn Taûng Xaơ Hoäi Hoïc Veà Giaùo Duïc |
20 |
Giaùo Duïc Coäng Ñoàng |
16g |
|
Taâm Lyù Giaùo Duïc |
30g |
|
|
|
Ño Löôøng & Thaåm Ṇ̃nh Hoïc Vaán |
30g |
|
|
|
Thanh Tra Hoïc Ñöôøng |
30g |
|
|
|
Thöïc Taäp Veà Quaûn Tṛ & Thanh Tra |
60g |
|
|
Giáo Tŕnh Trường Đại Học Văn Khoa
1. Chế Độ Chứng Chỉ, áp dụng tập trung trong 1958–1969, nhưng kéo dài đến 1974-75:
Theo Chế Độ này, điều kiện để được cấp phát văn bằng Cử Nhân Giáo Khoa, ngoài Chứng Chỉ Dự Bị bắt buộc, và tùy theo Nhiệm Ư (Optional) Ban ḿnh đă chọn, Sinh Viên phải trúng tuyển Bốn trong số các Chứng Chỉ sau đây thuộc Các Ban Việt Văn, Triết Học, Anh Văn, Pháp Văn và Sử, Địa. Chế độ Chứng Chỉ sẽ chấm dứt từ năm học 1974-75
B a n |
C h ứ n g C h ỉ |
|||
Việt Van |
Văn Chương Quốc Âm |
Văn Chương Việt Hán |
Văn Phạm & Ngữ Học Việt Nam |
Văn Minh Việt Nam |
Triết Học |
Đạo Đức, Tâm Lư & Xă Hội Học |
Luân Lư & Siêu H́nh học |
Lịch Sử Triết Học Đông Phương |
Lịch Sử Triết học Tây Phương |
Anh Văn |
Anh Văn Thực Hành |
Văn Chương & Văn Minh Mỹ |
Ngữ Học Anh |
|
Pháp Văn |
Văn Chương Pháp |
Văn Phạm & Ngữ Học Pháp |
Văn Minh Pháp |
|
Sử Học |
Sử Việt Nam |
Sử Thế Giới |
|
|
Địa lư |
Địa Lư Đại Cương |
Địa Lư Việt Nam |
Địa Lư Thế Giới |
|
|
2.Chế độ Tín Chỉ (1969–1975):
Theo Chế Độ này, cùng với “Hệ Thống Tín Chỉ”, điều kiện để được cấp phát văn bằng Cử Nhân, sinh viên bó buộc phải trúng tuyển Bốn Năm học tŕnh, thí dụ Văn Bằng Cử Nhân Anh Văn.
Năm Một (Freshman Year) |
|||||
Ngôn Ngữ |
14.30 giờ |
Văn Minh & Văn Chương: |
8 giờ |
Các Môn Bổ Túc: |
4.30giờ |
18TínChỉ |
10TínCh́ |
6TínChỉ |
|||
AN.103: Grammar I |
2.30g |
AC.102: Genres of Prose I (Essay, Short Story) |
1.30g |
PA.102: Quốc Sử |
1.30g |
3 TC |
2 TC |
2 TC |
|||
AN.113: Grammar II |
2.30g |
AC.112: Genres of Prose II (Novel) |
1.30g |
PA.112: Văn Thể Việt Nam |
1.30g |
3 TC |
2 TC |
2 TC |
|||
AN.122: Composition I |
1.30g |
AM.103: History of England |
2.30g |
PV.122: Pháp Văn họặc |
1.30g |
2 TC |
3 TC |
2 TC |
|||
AN.132: Composition II |
1.30g |
AM.113 : History of U.S |
2.30g |
PA.132: Văn Chương Việt Nam |
1.30g |
2 TC |
3 TC |
2 TC |
|||
AN.142: Spoken English I |
1.30g |
|
|
||
2 TC |
|||||
AN.152: Spoken English II |
1.30g |
|
|
||
2 TC |
|||||
AN.162: Reading Comprehension I |
1.30g |
|
|
||
2 TC |
|||||
AN.171: Reading Comprehension II |
1g |
|
|
||
1 TC |
|||||
AN.181: Book Report & Discussion |
1g |
|
|
||
1 TC |
Năm Hai (Sophomore): 730 giờ |
|||||
Ngôn Ngữ |
giờ |
Văn Minh và Văn Chương |
giờ |
Các Môn Phụ |
giờ |
Translation (English-Vietnamese & Vice-versa) |
60 |
English way of life and Customs, Traditions |
60 |
Pháp Văn |
60 |
English Composition |
60 |
American way of life and Customs, Tradition |
60 |
Quốc Sử, hoặc |
60 |
Reading Comprehension |
60 |
English Literary History |
30 |
Việt Văn |
|
Book Report & Discussion. |
60 |
American Literary History |
30 |
|
|
English Phonetics’Sound, Stress & Intonationø |
60 |
Introduction to English Poetry |
30 |
|
|
Phonetic Drills & Conversation (Group of 10-20) |
70 |
Introduction to English Drama |
30 |
|
Năm Ba (Junior) : 660 giờ |
|||||||
Văn Minh |
giờ |
Văn Chương |
giờ |
Ngữ Học |
giờ |
Các Môn Phụ |
giờ |
English Social Institutions: Education, Religion, Social Problems |
60 |
English Romantic Period |
60 |
History of the English Language Historical Evolution |
30 |
Pháp Văn |
60 |
American Social Institutions: Education, Religion, Immigration, Negro Problem |
60ø |
19th Century American Poetry |
30ø |
General Linguistic, Phonology |
120 |
Văn Minh Việt Nam |
60 |
|
19th Century American Fiction |
60 |
Grammatical Transformation |
30 |
|
||
|
|
Public Speaking and Discussion |
90 |
|
Năm Bốn (Senior) : 630 giờ |
|||||||
Văn Minh |
giờ |
Văn Chương |
giờ |
Ngữ Học |
Môn Phụ |
||
English Political Institutions |
60 |
Shakespeare |
60 |
English Linguistics |
90 giờ |
Pháp Văn |
60 giờ |
American Government |
60 |
English novel (17-19 Century) |
60 |
|
|
||
|
20th Century English Novel |
60 |
|
|
|||
|
20th Century American Fiction |
60 |
|
|
|||
|
20th Century Anglo-American Drama |
60 |
|
|
|||
|
Book Report, Discussion |
60 |
|
|
|||
Giáo Tŕnh Trường Đại Học Khoa Học
Chế Độ Chứng Chỉ (1959-1973)
Năm |
Toán Lư Hóa |
Vạn Vật |
I |
Dự Bị MPC hoặc MGP |
Dự Bị SPC |
II |
Cơ Học Thuần Lư |
Động Vật I, Thực Vật I, Sinh Hóa I |
III |
Toán I, Toán II |
Động Vật II, Thực Vật II, Sinh Hóa II |
IV |
Hóa Vô Cơ, Hóa Hữu Cơ, Vật Lư Thể Rắn |
Hóa Chất I, Hóa Chất II, Sinh Lư Động Vật I, Sinh Lư Thực Vật I |
Chế Độ Tín Chỉ (1973-1975)
Năm |
Vật Lư & Hóa Học |
|||
Vật Lư và Hóa Học theo Giáo Tŕnh giống nhau như sau |
37 T/Chæ |
|||
Năm Một |
VL.111: Cơ Lư & Nhiệt |
6 TC |
HH.111/TT: ThựcTập Hóa |
2 TC |
VL.111/TT: Thực Tập Lư |
2 TC |
HH.111: Hóa Đại Cương & Vô Cô |
6 TC |
|
VL.112: Điện & Quang |
6 TC |
HH.112: Hóa Hữu Cơ |
3 TC |
|
TH.112: Vi Phân & Tích Phân |
6 TC |
TH.111: Đại Số & H́nh Học Giải Tích |
6 TC |
|
|
|
|||
Năm Hai |
Vật Lư |
22 T.C |
Hóa Học |
27 T.C |
VL.221 : Cơ Học I |
3 TC |
HH.211 : Hóa Lư Căn Bản I (Nhiệt &Điện Hóa) |
7 TC |
|
VL.222 : Cơ Học II |
3 TC |
HH.221 : Hóa Hữu Cơ Căn Bản I (tiếp theo) |
5 TC |
|
VL.221/TT : Thực Tập Cơ |
1.5TC |
HH.212 : Hó Lư Căn Bản II |
5 TC |
|
VL.231 : Điện Tử Học |
6 TC |
HH.222 :Hóa Hữu Cơ Căn Bản II (phản ứng) |
7 TC |
|
VL.231/TT : Thực Tập Điện |
1.5TC |
HH.211/TT : Thực Tập Hóa Lư |
1.5TC |
|
VL.241 : Kỹ Thuật Điện Toán |
2 TC |
HH.221/TT : Thực Tập Hóa Hữu Cơ |
1.5TC |
|
TH.221 : Toán Thuật I |
5 TC |
|
||
|
||||
Năm Ba |
Vật Lư |
24.5 T.C |
Hóa Học |
25 T.C |
VL.331: Quang Vật Lư |
3 TC |
HH.331: Hóa Vô Cơ Căn Bản I (Khoáng Kim Loại) |
4 TC |
|
VL.331/TT; Thực Tập Quang |
1.5TC |
HH.321: Hóa Hữu Cơ Căn Bản I (chứa hóa học hợp chất di hoàn, hợp chất phosphor) |
7 TC |
|
VL.332: Sóng Điện Từ |
3 TC |
HH.332: Hóa Vô Cơ Căn Bản II (Kim loại thường, kim loại chuyển tiếp) |
4 TC |
|
VL.341: Điện Động Lực Học |
3 TC |
HH.322: Hóa Hữu Cơ Mô Tả II (Hợp chất HC) |
5 TC |
|
VL.351; Toán Vật Lư |
6 T C |
HH.331/TT: Thực Tập Hóa Vô Cơ |
1.5TC |
|
VL.361: Cơ Học Tương Đối |
3 TC |
HH.322/TT: Thực Tập Hóa Hữu Cơ Mô Tả |
1.5TC |
|
TH.331: Toán Thuật |
5 TC |
VL.241: Kỹ Thuật Điện Toán |
2 TC |
|
|
||||
Năm Bốn
|
Vật Lư |
21 T.C |
Hoá Học |
26 T.C |
VL.441 : Điện Từ Học |
4.5 TC |
HH.421 : Hóa Dụng Cụ |
5 TC |
|
VL.451 : Thuyết Mạch Điện |
3 TC |
HH.411 : Hoá Học Nguyên Lượng I |
4 TC |
|
TH.441 Toán Thuật III |
6 TC |
HH.412 : Hóa Học Nguyên Lượng II |
5 TC |
|
VL.441/TT : Thực Tập Điện Từ |
1.5TC |
HH.441 : Phân Giải Hóa Vô Cơ |
1.5TC |
|
VL.461 : Vật Lư Hạch Tâm |
6 TC |
HH.442/TT : Thực Tập Phân Giải Hóa Hữu Cơ |
1.5TC |
|
|
HH.442 : Phân Giải Hóa Hữu Cơ |
4 TC |
||
|
HH.441/TT : Thực Tập Phân Giải Hóa Vô Cơ |
1.5TC |
||
Chú thích: Điểu kiện để được cấp phát văn bằng Cử Nhân Vật Lư hay Hóa Học, sinh viên cần phải học và đâu thêm 6 tín chỉ Sinh Ngữ và một số tín chỉ Nhiệm Ư cho đủ 125 tín chỉ. |
Ban Vạn Vật |
|||
Năm Thứ Nhất (SPCN) |
30.75 TC |
Năm Thứ Hai |
30 TC |
DV.111: Động Vật Học |
4.5TC |
DV.211: Intertebrata (từ Protozoa đến Mollusca) |
6 TC |
TV.121: Thực Vật Học |
4.5TC |
DV.212: Intertebrata (từ Annelida đến Enchinodermata) |
3 TC |
DC.131: Địa Chất Học |
4.5TC |
DV.213: Intertebrata (ngành Arthropoda) |
3 TC |
HH.141: Hóa Học |
3 TC |
TV.223: Hiển Hoa Khỏa Tử & Khuyết Thực Vật |
2 TC |
TV.221: Hiển Hoa Bí Tử |
3 TC |
Sinh Ngữ (Anh hoặc Pháp) |
3 TC |
VL.151: Vật Lư |
3 TC |
TV.261: Sinh Lư Thực Vật |
3 TC |
Sinh Ngữ (Anh hoặc Pháp) |
3 TC |
DV.211-212-213/TT: Thực Tập Động Vật |
4 TC |
DV.111/TT: Thực Tập Động Vật |
2.25TC |
TV.221-223/TT: Thực Tập Thực Vật |
3 TC |
TV.121/TT: Thực Tập Thực Vật |
2.25TC |
|
|
DC.131/TT: Thự Tập Địa Chất |
2.25TC |
|
|
TH.161: Toán |
1.5TC |
|
Năm Thứ Ba |
30.5 TC |
||
DV.311: Vertebrata |
6 TC |
DV.321: Rong Tảo |
3 TC |
TV.323: Đài Tiển |
2 TC |
TV.362: Sinh Lư Thực Vật |
3 TC |
TV.321-322-323/TT: Thực Tập |
2.25TC |
DV.301: Kư Sinh Trùng Học |
3 TC |
TV.322: Khuẩn Học |
3 TC |
DV.311-301/TT: Thực Tập |
2.25TC |
DV.361: Sinh Môi Động Vật |
3 TC |
|
|
TV.381: Sinh Môi Thực Vật |
3 TC |
|
Năm Thứ Bốn |
|||
Cử Nhân Thuần Túy |
30.25 TC |
Cử Nhân Hướng Địa Chất |
33.75 TC |
DC.411 : Cổ Sinh Vật Học |
4.5 TC |
DC.411 : Cổ Sinh Vật Học |
4.5 TC |
DC.412 : Hỏa Nham & Tinh Khoáng Học |
4.5 TC |
DC.412 : Hỏa Nham & Tinh Khoáng Học |
4.5 TC |
ĐC.414 : Địa Sử Học |
4.5 TC |
ĐC.413 : Bản Đồ Học 1 |
3 TC |
ĐV.403 : Di Truyền Học |
3 TC |
ĐC.414 : Địa Sử Học |
4.5 TC |
ĐC.411-412-413/TT : Thực Tập |
3.75TC |
ĐC.422 : Quặng Mỏ & Tầm Khoáng |
4.5 TC |
ĐC.413 : Bản Đồ Học |
3 TC |
ĐC.423 : Địa Thủy Học |
2.25TC |
ĐC.402 : Phôi Sinh Học |
3 TC |
ĐC.424 : Bản Đồ Học II (Địa Chất) |
2.25TC |
ĐV.471 : Sinh Lư Động Vật |
3 TC |
ĐC.411-412-413/TT : Thực Tập |
3.75TC |
ĐV.402-471/TT : Thực Tập |
3 TC |
ĐC.421 : Địa Thế Học |
2.2 TC |
|
ĐC.422-424/TT : Thực Tập |
3 TC |
Giáo Tŕnh Trường Chánh Trị Kinh Doanh
Ngoại trừ môn Anh Văn được coi như Sinh Ngữ bắt buộc, được phân bố vào Giáo Tŕng từng năm của cả hai cấp Cử Nhân và Cao Học. Các môn học cá biệt khác mỗi năm đều có cải tiến hay thay đổi tùy theo diễn biến của t́nh h́nh chính trị, xă hội, kinh tế ở trong nước hay quốc tế.
Do đó giáo tŕnh mỗi năm đều có thay đổi khác nhau để cập nhật hóa với bối cảnh chung. Kể cả môn Nhiệm Ư lúc đầu có năm ban. Sau này chỉ c̣n bốn ban chia đều cho hai ngành Quản Trị Kinh Doanh và Chánh Trị Xă Hội. Dưới đây có thể là giáo tŕnh được cập nhật hóa nhất cho hai ban Cử Nhân và Cao Học, được áp dụng từ niên khóa 1972-73 trở về sau. Giáo tŕnh giảng dậy của Giáo sư cũng được hiểu là học tŕnh được giảng dậy cho sinh viên học tập
I. Cấp Cử Nhân |
|||||
Ngành Quản Trị Kinh Doanh |
|||||
Năm 1 : Nhập Môn 17 Đơn Vị – 510 giờ |
Văn Minh Việt Nam |
2ĐV 60g |
Kinh Tế Học I |
2ĐV 60g |
|
Quản Trị Học I |
2ĐV 60g |
Tiếp Thị I |
2ĐV 60g |
||
Kế Toán I |
2ĐV 60g |
Toán Kinh Thương |
2ĐV 60g |
||
Truyền Thông học |
2ĐV 60g |
Anh Ngữ Căn Bản I |
3ĐV 90g |
||
|
|||||
|
|
|
|
||
Năm 2 : Khái Luận 17 Đơn Vị – 510 giờ |
Phát Triển Kinh Tế Việt Nam |
2ĐV 60g |
Kinh Tế Học II |
2ĐV 60g |
|
Quản Trị Nhân viên |
2ĐV 60g |
Tiếp Thị II |
2ĐV 60g |
||
Kế Toán II |
2ĐV 60g |
Thống Kê Học |
2ĐV 60g |
||
Định Chế Tài Chánh |
2ĐV 60g |
Anh Ngữ Căn Bản II |
3ĐV 90g |
||
Năm 3 : Nhiệm Ư 19 Đơn Vị – 570 giờ |
Những Môn Học Chung: 15 Đơn Vị–450 giờ |
||||
Kinh Doanh Nông nghiệp Việt Nam |
2ĐV 60g |
Hệ Thống & Thủ Tục Trong Xí Nghiệp |
1ĐV 30g |
||
Tài Chánh Xí Nghiệp |
2ĐV 60g |
Tương Quan Kỹ Nghệ |
1ĐV 30g |
||
Luật Doanh Thương |
2ĐV 60g |
Söu Tầm & Phúc Tŕnh (Tiểu Luận) |
1ĐV 30g |
||
|
Thuế Vụ |
1ĐV 30g |
Anh Ngữ Chuyên Khoa III |
3ĐV 90g |
|
|
Kế Toán Kỹ Nghệ |
2ĐV 60g |
|
||
|
Những Môn Học Riêng: 4 Đơn Vị – 120 giờ |
||||
|
Ban A: Kỹ Nghệ Tiếp Thị |
Ban B: Kế Toán Tài Chánh |
|||
|
Chế Tạo Sản Xuất |
2ĐV 60g |
Ngân Hàng & Tiền Tệ |
2ĐV 60g |
|
|
Tiếp Thị III (Buôn Lẻ & Quảng Cáo) |
2ĐV 60g |
Toán Trung Cấp (Thuế Vụ & Thương Hội) |
2ĐV 60g |
|
Năm 4 : Sưu Khảo 21 Đơn Vị – 630 giờ |
Những Môn Học Chung : 11 Đơn Vị – 330 giờ |
||||
Nhiệm Vụ Học |
1ĐV 30g |
Nghiên Cứu & Thiết Lập Dự Án Đầu Tư |
1ĐV 30g |
||
Kế Toán Quản Trị |
2ĐV 60g |
Phương Pháp Định Hướng |
2ĐV 60g |
||
Luật Thương Hội |
1ĐV 30g |
Thực Tập Quản Trị (Bảo Huynh) |
1ĐV 30g |
||
Anh Ngữ Chuyên Khoa IV |
3ĐV 90g |
Luận Văn Dài |
|||
Chú thích: “Bảo Huynh“ là chương tŕnh được áp dụng cho Sinh Viên Nhập Môn và Sưu Khảo. Ở đó, Sinh Viên Sưu Khảo được giao trách nhiệm hướng dẫn Sinh Viên Nhập Môn để giúp họ những kinh nghiệm học tập và sinh hoạt Đại Học. |
|||||
|
Những Môn học riêng: 7 Đơn Vị – 210 giờ |
||||
|
Ban A : Kỹ Nghệ Tiếp Thị: |
Ban B : Kế Toán Tài Chánh |
|||
|
Quản Trị Kỹ Nghị & Sản Xuất Thực Hành |
2ĐV 60g |
Quản Trị Tài Chánh |
2ĐV 60g |
|
|
Quản Trị Xí Nghiệp |
2ĐV 60g |
Giám Định & Kế Toán Tài Chánh |
2ĐV 60g |
|
|
Quản Trị Xí Nghiệp Nhỏ |
1ĐV 30g |
Quản Trị Thương Hội |
1ĐV 30g |
|
|
Mậu Dịch Quốc Tế Tại Việt Nam |
1ĐV 30g |
Kế Toán Ngân Hàng |
1ĐV 30g |
|
|
Phân Phối Vận Tải |
1ĐV 30g |
Bảo Hiểm |
1ĐV 30g |
|
|
Những Môn Học Hội Thảo: 3 Đơn Vị – 90 giờ |
||||
|
Phúc Tŕnh Tập Thể |
2ĐV 60g |
Nghiệp Vụ Chưởng Khế |
10g |
|
|
Nghiệp Vụ Kinh Kỷ |
10g |
Tố Tụng Thuế Vụ |
10g |
|
Ngành Chánh Trị Xă Hội |
||||
Năm Thứ I : Nhập Môn 17 Đơn Vị – 510 giờ |
Văn Minh Việt Nam |
2ĐV 60g |
Chính Trị Học Nhập Môn |
2ĐV 60g |
Học Thuyết Chánh Trị Đông Tây |
1ĐV 30g |
Lịch Sử Thế Giới Đại Cương |
2ĐV 60g |
|
Địa Lư Nhân Văn |
1ĐV 30g |
Xă Hội Học I (Nhập Môn) |
2ĐV 60g |
|
Nhân Chủng Học Nhập Môn |
1ĐV 30g |
Tâm Lư Học Nhập Môn |
1ĐV 30g |
|
|
||||
|
||||
Năm Thứ II : Khái Luận 17 Đơn Vị – 510 giờ |
Kinh Tế Học I |
1ĐV 30g |
Quản Trị Học I |
1ĐV 30g |
Anh Ngữ Căn Bản I |
3ĐV 90g |
Thực Tập |
||
Định Chế Chánh Trị Việt Nam |
|
Tiến Tŕnh Xây Dựng&Phát Triển QG |
2ĐV 60g |
|
Điều Nghiên Chánh Trị Xă Hội |
1ĐV 30g |
Luật Hiến Pháp |
1ĐV 30g |
|
|
Khoa Học Truyền Thông |
2ĐV 60g |
Các Vấn Đề Xă Hội Hiện Đại |
2ĐV 60g |
|
Xă Hội Học Hiện Đại II |
1ĐV 30g |
Tâm Lư Xă Hội Học |
1ĐV 30g |
|
Kinh Tế Học II |
1ĐV 30g |
Phát Triển Kinh Tế Việt Nam |
1ĐV 30g |
|
Quản Trị Nhân Viên |
1ĐV 30g |
Anh Ngữ Căn Bản II |
3ĐV 90g |
|
Thực Tập |
|
||
|
||||
Năm Thứ III : Nhiệm Ư 19 Đơn Vị – 570 giờ |
Những Môn Học Chung: 9 Đơn vị – 270 giờ |
|||
Xă Hội Học Chánh Trị |
1ĐV30g |
Các Lư Thuyết Về Tân Tiến Hóa |
1ĐV30g |
|
Tổng Quan Nhân Sự & Động Lực Tập Thể |
1ĐV30g |
Kinh Tế Việt Nam |
1ĐV30g |
|
Địa Lư Kinh Tế |
2ĐV60g |
Anh Ngữ Chuyên Khoa |
3ĐV90g |
|
Những Môn Học Riêng: 10 Đơn Vị – 300 giờ |
||||
|
Ban A : Chánh Trị |
Ban B : Xă Hội |
||
|
Các Tổ Chức Quốc Tế |
1ĐV 30g |
Xă Hội Học III (Nông Thôn & Thành Thị) |
1ĐV30g |
|
Lịch Sử Thế Giới Hiện Đại |
1ĐV 30g |
Xă Hội Học IV (Cộng Đồng & Tiến Tŕnh Nhóm) |
1ĐV30g |
|
Tuyên Truyền Chánh Trị |
1ĐV 30g |
Xă Hội Học V (Gia Đ́nh) |
1ĐV 30g |
|
Chiến Tranh Cách Mạng |
1ĐV 30g |
An Ninh Xă Hội |
1ĐV 30g |
|
Địa Lư Các Cường Quốc |
2ĐV 60g |
Phương Pháp Dịch Vụ Xă Hội |
2ĐV 60g |
|
Bang giao Kinh Tế Quốc Tế |
2ĐV 60g |
Dịch Vụ Xă Hội Cá Nhân |
1ĐV 30g |
|
Lịch Sử Kinh Tế |
2ĐV 60g |
Dịch Vụ Xă Hội Nhóm |
1ĐV 30g |
|
|
Nghiên Cứu Xă Hội |
1ĐV 30g |
|
|
|
Phát Triển Cộng Đồng |
1ĐV 30g |
|
|
|
|||
Năm 4 : Sưu Khảo 19 Đơn Vị – 570 giờ |
Ban A : Chính Trị |
Ban B : Xă Hội |
||
Lịch Sử Chính Trị VN Cận Đại |
2ĐV 60g |
Phát Triển Xă Hội |
1ĐV 30g |
|
Chính Trị Học Đông Nam Á |
2ĐV 60g |
Phát Triển Cộng Đồng |
1ĐV 30g |
|
Hiến Pháp Đối Chiếu |
2ĐV 60g |
Chính Sách & Kế Toán Xă Hội |
2ĐV 60g |
|
Chính Sách Kinh Tế Đối Chiếu |
2ĐV 60g |
Giáo Dục Tráng Niên & Thực Tập Lănh Đạo |
1ĐV 30g |
|
|
Quốc Tế Công Pháp |
2ĐV 60g |
Hành Chính Xă Hội |
1ĐV 30g |
|
Lịch Sử Bang Giao Quốc Tế |
2ĐV 60g |
Hợp Tác Xă |
1ĐV 30g |
|
Chính Sách Ngoại giao Các Cường Quốc |
2ĐV 60g |
Kế Hoạch Gia Đ́nh |
1ĐV 30g |
|
Truyền Thông Đại Chúng |
1ĐV 30g |
Công Tác Thực Tập |
8ĐV240g |
|
Dư Luận Quần Chúng |
1ĐV 30g |
Anh Ngữ Chuyên Khoa IV |
3ĐV 90g |
|
Kỹ Thuật Truyền Thông |
1ĐV 30g |
|
|
|
Tài Chánh Công |
1ĐV 30g |
|
|
|
Anh Ngữ Chuyên Khoa IV |
3ĐV 90g |
|
|
|
Hội Thảo Chính Trị |
|
|
II. Cấp Cao Học |
||||
A. Ngành Quản Trị Kinh Doanh |
||||
|
Cao Học 1: 19 Đơn Vị–570 giờ |
Cao Học 2: 18 Đơn Vị–540 giờ |
||
|
Động Thái Tổ Chức |
2 ĐV60g |
Chính Sách Kinh Doanh |
2 ĐV 60g |
|
Cơ Hội Đầu Tư I (xi nghiệp) |
2 ĐV60g |
Cơ Hội Đầu Tư II (kỹ Nghệ) |
2 ĐV 60g |
|
Phân Tích Định Lượng |
2 ĐV60g |
Quản Trị Nông Doanh |
2 ĐV 60g |
|
Tổ Chức & Quản Trị Sản Xuất |
2 ĐV60g |
Chiến Lược & Chính Sách Quản Trị |
2 ĐV 60g |
|
Tài Chánh Xí Nghiệp |
2 ĐV60g |
Quản Trị Tài Chánh |
2 ĐV 60g |
|
Tiếp Thị |
2 ĐV60g |
Pháp Chế Kinh Doanh |
1 ĐV 30g |
|
Kế Toán Quản Trị |
2 ĐV60g |
Thuế Vụ |
1 ĐV 30g |
|
Sưu Tầm & Hội Thảo |
2 ĐV60g |
Kế Toán Kỹ Nghệ |
2 ĐV 60g |
|
Anh Ngữ Chuyên Khoa |
3 ĐV90g |
Sưu Tầm & Hội Thảo |
1 ĐV 30g |
|
Phúc Tŕnh Tập Thể \ |
Anh Ngữ Chuyên Khoa |
3ĐV 90g |
|
|
|
Luận Văn Kết Khóa |
||
B. Ngành Chính Trị Xă Hội |
||||
Cao Học 1 |
Những Môn học Chung : 14 Đơn Vị – 420 giờ |
|||
|
Sơ Lược Về Kinh Tế Học |
1ĐV 30g |
Sơ Lược Về Truyền Thông |
1ĐV 30g |
|
Sơ Lược Về Xă Hội Học |
1ĐV 30g |
Sơ Lược Về Thống Kê |
1ĐV 30g |
|
Sơ Lược Về Chính Trị Học |
2ĐV 60g |
Thuyết Tŕnh & Hội Thảo |
2ĐV 60g |
|
Sơ Lược Về Quản Trị Học |
1ĐV 30g |
Anh Văn Chuyên Khoa |
3ĐV 90g |
|
|
Phúc Tŕnh Tập Thể 2ĐV – 60g |
|
|
|
Những môn Nhiệm ư |
|||
|
Ban A : Chính Trị 5 Đơn Vị – 150 giờ |
Ban B : Truyền Thông 5 Đơn Vị – 150 giờ |
||
|
Chính Trị Lư Thuyết |
2ĐV 60g |
Kỹ Thuật Truyền Thông I |
2ĐV 60g |
|
Chính Trị Áp Dụng |
2ĐV 60g |
Báo Chí Thế Giới Hiện Đại |
2ĐV 60g |
|
Môn Phụ (Kinh Tế hoặc Xă Hội Học) |
1ĐV 30g |
Lịch Sử Báo Chí |
1ĐV 30g |
|
||||
Cao Học 2 |
Những Môn Học Chung : 9 Đơn Vị – 270 giờ |
|||
|
Các Vấn Đề Chính Trị Hiện Đại |
2ĐV 60g |
Vấn Đề Phát Triển: Khía Cạnh Xă hội, Chính Trị, Kinh Tế, Quản Trị |
2ĐV 60g |
|
Truyền Thông Trong Xă Hội Ngày Nay |
1ĐV 30g |
Anh Văn Chuyên Khoa |
3ĐV 90g |
|
Chính Sách Thông Tin Báo Chí Ta.i VN 1ĐV 30g |
1ĐV 30g |
|
|
|
Những môn Nhiệm Ư |
|||
|
Ban A : Chính Trị 9 Đơn Vị – 270 giờ |
Ban B : Truyền Thông |
||
|
Chính Trị Áp Dụng (Chế Độ Học) |
2ĐV 60g |
Kỹ Thuật Truyền Thông II |
2ĐV 60g |
|
Môn Phụ (Chính Trị hoặc Kinh Tế) |
1ĐV 30g |
Kỹ Thuật Báo Chí |
2ĐV 60g |
|
Thuyết Tŕnh Hội Thảo |
3ĐV 90g |
Thuyết Tŕnh Hội Thảo |
3ĐV 90g |
|
Luận Văn Kết Khóa |
3ĐV 90g |
Luận Văn Kết Khóa |
3ĐV 90g |
Trường Thần Học
Theo một tài liệu do Tạ Duy Phong xử dụng, th́ Phân Khoa Thần Học được chính thức thành lập năm 1965. Thực tế giáo tŕnh thần học đă bắt đầu có từ niên khóa 1963-64, nhưng xử dụng cho nội bộ của Giáo Hoàng Học Viện Thánh Piô X, như một chủng viện giáo hoàng do các Linh Mục Ḍng Tên quản nhiệm.
Cho đến trước 30/4/1975 Trưởng đă thu nhận hơn ba trăm (300) sinh viên chủng sinh thần học theo những học chế khác nhau. Đă có 246 Chủng Tu Sinh thuộc nhiều giáo phận và ḍng tu địa phương. Có 112 chủng sinh giáo phận và 63 tu sinh ḍng được thu phong Linh Mục. Một số chủng sinh từ các giáo phận nước ngoài như Lào và Kampuchia
Ban Giảng Huấn gồm hơn ba mươi giáo sư thuộc khoảng 10 quốc tịch khác nhau. Giáo tŕnh thần học này nhằm mục đích chính yếu là đào tạo các chủng tu sinh. Tuy theo nguyên tắc giáo dân có thể tham gia, nhưng chưa có trong thực tế, v́ việc quan hệ giữa Học Viện Giáo Hoàng Piô X Đà Lạt và Viện Đại Học Đà Lạt có nhiều phức tạp chưa giải quyết xong v́ t́nh h́nh xă hội. Hơn nữa điều kiện để giáo dân tham gia có nhiều yếu tố cần cân nhắc, kể cả chủ quan và khách quan.
I. Bậc Cao Đẳng: Hai Năm |
||||
Năm Thứ Nhất: 510 giờ |
Những Yếu Tố Siêu H́nh Học |
060g |
Nhân Loại Học |
060g |
Vấn Đề Thượng Đế |
120g |
Hành Vi Nhân Cách |
075g |
|
|
Tư Tưởng Hiện Đại |
090g |
Những Tôn Giáo Việt Nam |
030g |
|
Sinh Ngữ |
075g |
|
|
|
|
|||
Năm Thứ Hai: 510 giờ |
Thần Học Căn Bản |
|||
Nhập Môn |
15g |
Mạc Khải Thần Khởi |
60g |
|
|
Đức Tin |
30g |
Lưu Truyền Mạc Khải |
30g |
|
Giáo Hội |
60g |
|
|
|
Thánh Kinh |
|||
|
Thánh Kinh Nhập Môn |
70g |
Sử Tính Phúc Âm |
20g |
|
Luân Lư |
|||
|
Nền Luân Lư Siêu Nhiên |
45g |
Tội Lỗi-Nhân Đức & Tôn Giáo |
60g |
|
Môn Phụ |
|||
|
Giáo Phụ Học |
30g |
Giá Trị Tôn Giáo của Khổng Giáo |
15g |
|
Sinh Ngữ |
75g |
|
II. Bậc Cử Nhân: Bốn Năm |
||||
Năm Thứ Ba: 480 giờ |
Thần Học Tín Lư |
|||
Mầu Nhiệm Một Thiên Chúa Ba Ngôi |
45g |
Thiên Chúa Tạo Hóa |
30g |
|
|
Nhân Đức Siêu Nhiên 1: Con Người Tội Lỗi |
30g |
N.Đ.S.N 2: Con Người Được Cứu Chuộc |
60g |
|
Các Dấu Chỉ Ân Sủng (Bí Tích Đại Cương) |
30g |
|
|
|
Thánh Kinh |
|||
|
Cựu Ước Nhập Môn Chú Giải 1: Các Sử Kinh |
45g |
Tân Ước N.M.C.G.1: Phúc Âm Nhất Lăm |
60g |
|
Thần Học Luân Lư |
|||
|
Kính Trọng Chân Lư & Sự Sống |
20g |
Công B́nh |
45g |
|
Những Vấn Đề Hôn Phối & Tính Dục |
40g |
|
|
|
Môn Phụ |
|||
|
Lịch Sử Giáo Hội Sơ Khai & Trung Cổ |
45g |
Giáo Luật Tổng Quát |
30g |
|
||||
Năm Thứ Tư: 490 giờ |
Thần Học Tín Lư |
|||
KiTô Học |
50g |
Thánh Mẫu Học |
20g |
|
Các Bí Tích |
115g |
Cánh Chung Học |
25g |
|
|
Thánh Kinh |
|||
|
(Sách Khôn Ngoan & Thánh Kinh Cựu ước Chú Giải III & IV, Tân Ước Chú Giải II & IV) |
45g |
(Thánh Phaolô, Văn Kiện Khác) |
60g |
|
Thần Học Luân Lư |
|||
|
Các Bí Tích |
80g |
Luân Lư Nghề Nghiệp |
20g |
|
Môn Phụ |
|||
|
Lịch Sử Giáo Hội: Từ Trung Cổ đến Hiện Đại |
45g |
Thần Học Phụng Vụ |
30g |
Bậc Cao Học: Sáu Năm |
||||
Năm Thứ Năm: 300 giờ |
Thánh Kinh: Phần Bắt Buộc |
|||
Cựu Ước Chú Giải II: Các Sách Tiên Tri |
30g |
Những Chủ Đề Đặc Biệt Trong Cựu Ước |
30g |
|
Tân Ước Chú Giải III: Thánh Gioan |
30g |
Những Chủ Đề Đặc Biệt Trong Tân Ước |
30g |
|
|
Đại Kết: Nhiệm Ư. Chọn 1 trong 3 Tín Chỉ sau |
|||
|
Lịch Sử Phong Trào Hiệp Nhất |
15g |
Các Vấn Đề Thần Học Chính Yếu |
15g |
|
Những Quan Niệm Khác Nhau Về Giáo Hội |
15g |
|
|
|
Thần Học Mục Vụ: Chọn 4 trong những Tín Chỉ sau |
|||
|
Mục Vụ Tổng Quát |
15g |
Giáo Lư Sư Phạm |
15g |
|
Những Phương Tiện Truyền Thông Xă Hội |
15g |
Vaticano II: Giáo Hội & Các v/đ Giáo Dục |
15g |
|
Vaticano II: Chân Dung Người Linh Mục |
15g |
Giáo Dân Trong Việc Mục Vụ Của Giáo Hội |
15g |
|
Thần Học Về Đời Sống Tu Hành |
15g |
Mục Vụ Về Ơn Thiên Triệu |
15g |
|
Vaticano II: Mục Vụ Truyền Giáo |
15g |
Tâm Lư Trong Việc Linh Hướng |
15g |
|
Các Chủ Đề Thần Học Khác : Nhiệm Ư. Chọn 3 trong những Tín Chỉ sau |
|||
|
GiáoLuật: Các VấnĐề ĐặcBiệt |
30g |
Giáo Sử Việt Nam |
15g |
|
GiáoPhụ Học: ChủĐề DắcBiệt |
30g |
Lịch Sử & Ư Nghĩa của Lễ Misa |
15g |
|
Lịch Sử Các Nghi Thức Bí Tích |
15g |
Vaticano II: Cải Cách Phụng Vụ |
15g |
|
Những Tôn Giáo Ngoài Kitôgiáo : |
|||
|
Thần Học Các Tôn Giáo Ngoài Kitôgiáo |
15g |
Suy Tư Thần Học Về Phật Giáo |
15g |
|
Lăo Giáo Và Kitôgiáo |
15g |
Ấn Độ Giáo (Suy Tư Thần Học) |
15g |
Chú Thích: Ban Cao học gồm Ba Ngành Chuyên Biệt: Thần Học Có Hệ Thống; Thần Học Luân Lư và Mục Vụ; Thần Học Kinh Thánh: Khi chọn Ngành nào th́ Môn Học thuộc Ngành đó là Bắt Buộc, các Ngành khác là Nhiệm Ư. Muốn tốt nghiệp bậc Cao Học (6 năm), sinh viên phải đậu ít nhất 16 Tín Chỉ. Trong đó, 12 Tín Chỉ thuộc Ngành đă ghi tên và 4 Tín Chỉ khác Nhiệm Ư. |
Năm Thứ Sáu: 320 giờ |
A. Ngành Thần Học Có Hệ Thống |
|||
Rửa Tội Trẻ Em: Các v/đ Lịch sử, Mục Vụ |
|
Lịch Tŕnh Cấu Tạo Tín Điều Tam Vị |
|
|
|
Nguyên Tội Trong Truyền Thống Của Giáo Hội |
|
Thần Học Giải Phóng |
|
|
Thần Học & Ngôn Ngữ: Ư Nghĩa Ngôn Ngữ và Tôn Giáo |
|
Thần Học Sự Chết |
|
|
Lịch Sử Cuộc Khủng Hoảng Duy Tân |
|
Vấn Đề Mặc Khải Trong Thời Đại Hôm Nay |
|
|
Thần Học Tin Lành Ở Thế Kỷ XX |
|
Các Thần Học Gia Trong Phái “Thiên Chúa Đă Chết” |
|
|
Thần Học Hy Vọng |
|
Giàm Mục Đoàn; Lịch Sử & Thần Học |
|
|
B. Ngành Thần Học Luân Lư & Mục Vụ |
|||
|
Trách Nhiệm Làm Cha Mẹ |
|
Phá Thai |
|
|
Luân Lư Theo Hoàn Cảnh |
|
Các Mạng Tính Dục |
|
|
Chính Trị & Đời Sống Kitôgiáo |
|
Đời Sống Dân Sự & Luân Lư Kitôgiáo |
|
|
Giáo Hội & Thế Gian |
|
Những “Nhóm Nhỏ” Trong Giáo Hội |
|
|
Mục Vụ Về Tĩnh Tâm |
|
Thần Học Về Đời Sống Thiêng Liêng |
|
|
Biện Biệt Các Tinh Thần |
|
Các Tổ Chức Tông Đồ Trong Giáo Hội |
|
|
C. Ngành Thần Học Kinh Thánh |
|||
|
Các Vấn Đề Chú Giải Biến Cố Phục Sinh |
|
Luật Theo Thánh Phaolô |
|
|
Chủ Đề “Ánh Sáng” Trong Thánh Gioan |
|
Các Dụ Ngôn Về Nước Trời |
|
|
Diễn Văn Về Tin Mừng |
|
Giao Ước Ở Sinai |
|
|
Chá Giải Về Một Thánh Vịnh Đặc Biệt |
|
Sáng Thế Kư 1-3: Chú Giải Về Thần Học |
|
|
Giáo Hội Theo Col – Eph – Phi |
|
Những Vấn Đề và Các “Thư Mục Vụ |
|
|
Thư Thứ Nhất Của Thánh Gioan: Chú Giải & Thần Học |
|
Quang Lâm Theo Thánh Phaolô. |
|
PHỤ LỤC II
PHƯƠNG DANH GIÁO SƯ
Ban Giảng Huấn Viện Đại Học Đà Lạt Niên Khóa 1973-74
Trường Sư Phạm
(CNSV73-74, tt. 14-15)
TT |
Họ Tên |
Văn Bằng |
Môn dậy |
1 |
Ấu Lăng (Bà Ng.Bào) |
Cử nhân Việt văn |
P/pháp dậy Việt văn |
2 |
Nguyễn Bào |
Cử nhân lư hóa |
P/pháp dậy lư hóa |
3 |
Nguyễn Quí Bổng |
Ed.D |
GD nhập môn, Nguyên tắc GD trung học |
4 |
Trần Văn Cảnh |
Cử nhân Sư phạm / CN Triết |
Triết lư GD |
5 |
Trần Như Chương |
MA |
Năng động tập thể |
6 |
Trấn Văn Đại |
Cử nhân CTKD |
P/pháp truyền thông kiến thức |
7 |
Trần Thanh Giản |
MA |
Quản trị học đường |
8 |
Nguyễn Đ́nh Hoan |
Ed.D |
Quản trị học đường |
9 |
Phùng Văn Hưởng |
Cử nhân Vạn vật |
P/pháp dậy vạn vật |
10 |
Nguyễn Văn Kế, Fr |
Lic. In Rel. Scientiis |
Lịch sử giáo dục, Xă hội giáo dục, giao tế xă hội |
11 |
Trần Văn Hải Linh |
Compositor, Con ductor |
Âm nhạc học đường |
12 |
Ngô Tôn Long |
Cử nhân triết |
P.pháp dậy trung học |
13 |
Trần Văn Mầu |
Cử nhân sử địa |
Giáo dục thực hành, Đặc trách thực tập |
14 |
Lê Hữu Mục |
Cử nhân Văn khoa |
Lịch sử giáo dục cổ Việt nam |
15 |
Hà Mai Phương |
Cao học sử học |
P/pháp dậy sử địa |
16 |
Lê Bá Quang |
MS |
Thống kê giáo dục |
17 |
Phan Thị San |
MA |
Thanh tra học đường |
18 |
Mai Văn Tâm, Fr |
Ph.D |
Tâm lư giáo dục |
19 |
Vũ Minh Thái, LM |
Ph.D |
Triết lư giáo dục, Triết lư trắc nghiệm, Nghiên cứu giáo dục |
20 |
Trần Văn Thọ |
MD |
Tâm sinh lư |
21 |
Trần Phương Thu |
MA |
P/pháp dậy sinh ngữ |
22 |
Nguyễn Văn Trí |
MS |
Động lực đoàn thể, Hướng dẫn |
23 |
Lê Ngọc Triêu, LM |
Ph.D |
Giáo dục đối chiếu |
24 |
Nguyễn Hữu Trọng, LM |
Dr in Ecclesiae Historia |
Tâm lư phát sinh |
25 |
Trần Thế Uy |
Ed Comm., Ed Media |
P/pháp thính thị |
26 |
Lê Thanh Việt |
|
Thanh tra học đường |
27 |
Nguyễn Thị Yến |
BS |
Tâm bệnh học |
28 |
Nguyễn Văn Thám |
Tiến sĩ |
Vệ sinh tâm thần, Sinh hoạt học đường |
Trường Văn Khoa
(CNSV 73-74, tt.69-71)
|
Họ Tên |
Văn Bằng |
Môn Dậy |
1 |
Trần Ngọc Anh |
MA |
Anh văn |
2 |
Nguyễn Thế Anh |
Thạc sĩ, Tiến sĩ đệ tam cấp |
Sử học |
3 |
Nguyễn Việt Anh, LM |
Tiến sĩ |
Anh văn |
4 |
Bonal |
Cao học |
Pháp văn |
5 |
Boulanger |
|
Pháp văn |
6 |
Brémaud |
Capes |
Pháp văn |
7 |
Trần Ngọc Cường |
Tốt nghiệp chính trị học |
Sử học |
8 |
Trần Thiện Cẩm, LM |
Tiến sĩ dại học |
Triết học |
9 |
Nguyễn Thanh Châu |
Cử nhân |
Việt văn |
10 |
Choimet |
|
Pháp văn |
11 |
Phạm Văn Diêu |
Học giả |
Việt văn |
12 |
Nguyễn Khắc Dương |
Cử nhân triết học |
Triết học |
13 |
Phạm Cao Dương |
Cao học sử học |
Sử học |
14 |
Hoàng Kim Đạt, LM |
Tiến sĩ |
Anh văn |
15 |
Trần Đăng Đại |
Cao học địa lư |
Địa lư |
16 |
Lương Kim Định, LM |
Cử nhân |
Triết học |
17 |
Trịnh Nhất Định |
Cử nhân |
Triết học |
18 |
Sơn Hồng Đức |
Cao học địa lư |
Địa lư |
19 |
Graber |
Cao học |
Pháp văn |
20 |
Nguyễn Hồng Giáo, LM |
Tiến sĩ |
Triết học |
21 |
Ginhoux |
|
Pháp văn |
22 |
Nguyễn Hồng Giáp |
Cao học kinh tế, Tiến sĩ đệ tam cấp sử học |
Sử học, Kinh tế chính trị |
23 |
Gros |
Cử nhân |
Pháp văn |
24 |
Phạm Văn Hải |
Cao học ngữ học |
Việt văn |
25 |
Nguyễn Văn Ḥa |
Cử nhân |
Anh văn |
26 |
Nguyễn Văn Ḥa, LM |
Tiến sĩ đệ tam cấp |
Triết học |
27 |
Nguyễn Đ́nh Hoan |
Tiến sĩ đệ tam cấp |
Triết học |
28 |
Phạm Như Hồ |
Sciences Po, Cao học tâm lư xă hội |
Tâm xă đạo |
29 |
Thân Thị Hồng |
MA |
Anh văn |
30 |
Cao Hữu Hoành |
Học giả |
Triết đông, Hán văn |
31 |
Mai Văn Hùng, LM |
Tiến sĩ đệ tam cấp |
Triết học |
32 |
Nguyễn Huy |
Cao học địa lư |
Địa lư |
33 |
Nguyễn Hưng, LM |
Tiến sĩ đệ tam cấp |
Việt văn |
34 |
Bùi Thị Hữu |
Cử nhân |
Pháp văn |
35 |
Vủ Khắc Khoan |
Học giả |
Việt văn |
36 |
Lê Văn Khuê |
Cử nhân |
Triết học |
37 |
Lange |
Cử nhân |
Triết học |
38 |
Lê Khắc Lai |
Cử nhân |
Pháp văn |
39 |
Bửu Lịch |
Cao học |
Xă hội học |
40 |
Lâm Thành Liêm |
Tiến sĩ đệ tam cấp |
Địa lư |
41 |
Hoàng Thái Linh |
Cử nhân |
Triết học |
42 |
Đỗ Ngọc Long |
Cao học triết học |
Triết học |
43 |
Ngô Đ́nh Long |
MS |
Anh văn |
44 |
Trần Phúc Long |
MA |
Anh văn |
45 |
Đậu Quang Luận |
Cử nhân |
Pháp văn |
46 |
Phạm Duy Lực |
Cử nhân |
Triết học |
47 |
Lê Văn Lư, LM |
Tiến sĩ guốc gia |
Ngữ học |
48 |
Văn Thị Bạch Mai |
Cao học |
Anh văn |
49 |
Maïs, LM |
Cử nhân |
Anh văn |
50 |
Matter |
|
Pháp văn |
51 |
Lê Hữu Mục |
Cử nhân |
Việt văn |
52 |
Đỗ Hữu Nghiêm |
Cao học sử học |
Sử học |
53 |
Nguyễn Ḥa Nhă, LM |
Cử nhân |
Điạ lư |
54 |
Lê Trung Nhiên |
Tiến sĩ đại học |
Pháp văn |
55 |
Nguyễn Văn Nhơn, LM |
Cử nhân |
Pháp văn |
56 |
Hà Mai Phương |
Cao học sử học |
Sử học |
57 |
Thái Minh Phương |
|
Pháp văn |
58 |
Trần Trọng San |
Cử nhân |
Hán văn |
59 |
Phạm Đ́nh Tiếu |
Cử nhân |
Hán văn |
60 |
Vũ Minh Thái, LM |
Ph.D |
Anh văn |
61 |
Tạ Tất Thắng |
MA |
Anh văn |
62 |
Hoàng Ngọc Thành |
Ph.D |
Sử học |
63 |
Nguyễn Trung Thiếu |
Cử nhân sử học |
Sử học |
64 |
Trần Phương Thu |
MA |
Anh văn |
65 |
Lê Thành Trị |
Tiến sĩ |
Triết học |
66 |
Thái Công Tụng |
Tiến sĩ kỹ sư |
Địa lư |
67 |
Lê Văn |
Tiến sĩ |
Anh văn |
68 |
Nguyễn Hữu Văn |
Học giả |
Triết học |
69 |
Lê Thọ Xuân |
Học giả |
Sử học |
Trường Khoa Học
(CNSV73-74, tt.99-100)
|
Họ Tên |
Văn Bằng |
Môn dậy |
1 |
Nguyễn Bào |
Cử nhân lư hóa |
Hóa học |
2 |
Nguyễn Trọng Ba |
Tiến sĩ đại học |
Toán |
3 |
Vũ Xuân Bằng |
Tiến sĩ đệ tam cấp |
Toán |
4 |
Nguyễn Văn Chỉnh |
Cao học vật lư |
Vật lư |
5 |
Cao Xuân Chuân |
D.Sc |
Vật lư |
6 |
Nguyễn Thanh Điệp |
Cử nhân lư hóa |
Hóa học |
7 |
Phạm Quang Đường |
Kỹ sư địa h́nh |
Bản đồ |
8 |
Nguyễn Văn Đời, LM |
MS, Ph.D |
Động vật |
9 |
Phạm Khắc Hàm |
Tiến sĩ đệ tam cấp |
Vật lư |
10 |
Nguyễn Thương Hành |
MS |
Vật lư |
11 |
Trịnh Thị Toàn Hạnh, Sr |
Cử nhân vạn vật |
Thực vật |
12 |
Nguyễn Phước Ưng Hiến |
MS |
Vật lư |
13 |
Nguyễn Thị Quảng Hoa |
Cử nhân vạn vật |
Động vật |
14 |
Lê Thị Nhứt Hoa |
C/c Cao học hóa học |
Hóa học |
15 |
Nguyễn Văn Hoàng |
Tiến sĩ khoa học |
Hóa học |
16 |
Nguyễn Ngọc Khánh |
Cao học vật lư |
Vật lư |
17 |
Nguyễn Thanh Khuyến |
Tiến sĩ đệ tam cấp |
Hóa học |
18 |
Lê Công Kiệt |
Tiến sĩ đệ tam cấp |
Thực vật |
19 |
Nguyễn Thị Ngọc Lang |
Tiến sĩ đệ tam cấp |
Thực vật |
20 |
Nguyễn Thị Lâu |
D.Sc, Dược sĩ quốc gia |
Thực vật |
21 |
Lê Lẽ |
Chứng chỉ Cao học quốc gia |
Hóa học |
22 |
Trần Ngọc Lợi |
D.Sc |
Động vật |
23 |
Ngô Đ́nh Long |
MS |
Điện tử |
24 |
Lê Ngọc Minh |
Cử nhân toán, C/c Cao học vật lư |
Toán và vật lư |
25 |
Phan Nam |
Cao học địa chất học |
Địa chất |
26 |
Nguyễn Nho Nghị |
MS |
Vật lư |
27 |
Nguyễn Xuân Nguyên |
Tiến sĩ đệ tam cấp |
Hóa học |
28 |
Nguyễn Huy Ngọc |
Tiến sĩ đệ tam cấp |
Hóa học |
29 |
Nguyễn Doăn Phi |
Tiến sĩ đệ tam cấp |
Vật lư |
30 |
Nguyễn Thị Phú, Sr |
Cử Nhân vạn vật |
Động vật |
31 |
Nguyễn Duy Phương |
Cử Nhân lư hóa |
Hóa học |
32 |
Lê Bá Quang |
MS |
Toán |
33 |
Trần Ngọc Sách |
Tiến sĩ đệ tam cấp |
Địa chất |
34 |
Chu Phạm Ngọc Sơn |
Ph.D |
Hóa học |
35 |
Tạ Trần Tấn |
Cử Nhân vạn vật |
Địa chất |
36 |
Nguyễn Hoàng Thịnh |
MS |
Vật lư |
37 |
Lê Khắc Tích |
Tiến sĩ đệ tam cấp |
Hóa học |
38 |
Nguyễn Hữu Tính |
Tiến sĩ đệ tam cấp |
Hóa học |
39 |
Nguyễn Hữu Toản, LM |
MS |
Vật lư |
40 |
Hoàng Thị Phương Trang |
Dược sĩ |
Vạn vật |
41 |
Phan Thành Tri |
Cử nhân lư hóa |
Hóa học |
42 |
Hoàng Quốc Trương, LM |
Ph.D |
Động vật |
43 |
Nguyễn Thanh Tùng |
Tiến sĩ đệ tam cấp |
Thực vật |
44 |
Nguyễn Quang Vinh |
C/c Cao học hóa |
Hóa học |
45 |
Nguyễn Văn Thạch |
Tiến sĩ đệ tam cấp |
Toán |
46 |
Đỗ Quang Thọ |
C/c Cao học hóa |
Hóa học |
47 |
Lê Tuyết Trinh |
Cử nhân hóa học |
Hóa học |
Trường Chinh Trị Kinh Doanh
(CNSV73-74, t.139-143)
|
Họ Tên |
Văn Bằng |
Môn dậy |
1 |
Trần Thị Bái |
Cử nhân CTKD |
Xă hội học |
2 |
Nguyễn Ngọc Bích |
Ph.D Cand. |
P/pháp chánh trị |
3 |
Lê Quế Chi |
Tiến sĩ luật khoa |
Xă hội học chánh trị |
4 |
Đỗ Quang Chính, Lm |
École Pratique des Hautes Études |
Văn minh Việt nam |
5 |
Nguyễn Hoàng Cương |
MA |
Tiếp thị |
6 |
Chu Tam Cường |
MS |
Tiếp thị |
7 |
Phạm Quốc Cường |
BS |
Chế tạo sản xuất |
8 |
Tôn Thát Diên |
MA |
Truyền thông học |
9 |
Vương Ngọc Diệp |
DVT |
Nghiệp vụ ngân hang |
10 |
Vũ Khắc Dụng |
MBA |
Tiếp thị |
11 |
Trần Văn Đại |
Cử nhân CTKD |
Truyền thông học |
12 |
Lương Kim Định |
Cử nhân triết học |
Văn minh Việt nam |
13 |
Lương Hữu Định |
Cao học kinh tế |
Kinh tế học |
14 |
Mai Kim Đĩnh |
Cử nhân CTKD |
Thuế vụ |
15 |
Nguyễn Chính Đoan |
Cao học kinh tế, Cao học hành chánh |
Định chế tài chánh, Tiền tệ ngân hàng |
16 |
Sơn Hồng Đức |
Cao học địa lư |
Địa lư kinh tế |
17 |
Lê Đường |
Cử nhân CTKD |
Quản trị học |
18 |
Nguyễn Hương Giang |
Cử nhân CTKD |
Kế toán |
19 |
Nguyễn Lê Giang |
Đại học luật khoa |
Pháp chế lao động |
20 |
Ngô Tằng Giao |
Cử nhân luật khoa |
Luật kinh doanh |
21 |
Nguyễn Hồng Giáp |
Cao học kinh tế Tiến sĩ đệ tam cấp |
Tư Tưởng chánh trị |
22 |
Nguyễn Cao Hách |
Thạc sĩ kinh tế |
Tái chánh xí nghiệp |
23 |
Nguyễn Minh Hải |
MA |
Kinh doanh nông nghiệp |
24 |
Vơ Văn Hải |
École des Sciences Politiques |
Tư tưởng chánh trị |
25 |
Nguyễn Trọng Hiền |
MA |
Phân tích định lượng |
26 |
Châu Nguyệt Hồng |
BA |
Kế toán |
27 |
Thân Thị Hồng |
MA |
Anh ngữ |
28 |
Phạm Thiên Hùng |
MA, Ph.D Cand. |
Truyền thông học |
29 |
Nguyễn Ngọc Huy |
Tiến sĩ chánh trị |
Học thuyết chánh trị |
30 |
Phan Hương |
MBA |
Quản trị tài chánh |
31 |
Phan Lâm Hương |
MBA |
Truyền thông học |
32 |
Vơ Sĩ Khải |
Cao học sử học |
Lịch sử thế giới |
33 |
Hoàng Ngọc Khiêm |
MA |
Kế toán |
34 |
Nguyễn Đang Khôi |
BA |
Tiếp thị |
35 |
Nghiêm Xuân Khuyến |
MBA |
Chánh sách kinh doanh |
36 |
Đỗ Duy Lâm |
BS |
Tiếp thị |
37 |
Hùng Lân Hoàng Văn Hương |
Cử nhân Pháp văn |
Văn minh Việt nam |
38 |
Nguyễn Thị Hồng Lập |
Cử nhân CTKD |
Kế toán |
39 |
Nguyễn Lâu |
Lincoln’s Inn – Institute of World Affairs (London) |
Quản trị báo chí |
40 |
Bửu Lịch |
Cao học triết học |
Xă hội học |
41 |
Ngô Đ́nh Long |
MS |
Toán kinh thưong |
42 |
Phó Bá Long |
MBA |
Quản tri học |
43 |
Trần Long |
MA |
Mậu dịch quốc tế |
44 |
Thân Văn Luân |
Cao học hành chánh |
Định chế chánh trị |
45 |
Nguyễn Duy Thu Lương |
Kỹ sư |
Quản trị học |
46 |
Đỗ Văn Mai |
MA |
Anh ngữ |
47 |
Bùi Văn Minh |
BS |
Hệ thống và thủ tục trong xí nghiệp |
48 |
Lê Trọng Mưu |
BS |
Tiếp thị |
49 |
Lê Trọng Nghĩa |
Cử nhân luật |
Chánh trị học |
50 |
Đỗ Hữu Nghiêm |
Cao học sử học |
Văn minh Việt nam |
51 |
Định Thị Minh Quang |
Cử nhân CTKD |
Kế toán |
52 |
Nguyễn Đ́nh Quế |
Cao học KTTC |
Sưu tầm và nghiên cứu |
53 |
Nguyễn Thị Quưt |
MA |
Anh ngữ |
54 |
Vơ Văn Quưt |
MA |
Anh ngữ |
55 |
Lâm Văn Sĩ |
Tiến sĩ kinh tế |
Sản xuất thực hành |
56 |
Trần Văn Tài |
Cử nhân CTKD |
Kế toán |
57 |
Búi Thị Như Kha, Sr |
DVT |
Tâm lư xă hội |
58 |
Hoàng Ngọc Thành |
Ph.D |
Lịch sử chánh trị |
59 |
Trần chánh Thành |
Cao học luật khoa |
Tổng khảo chánh trị |
60 |
Tạ Tất Thắng |
MA |
Anh ngữ |
61 |
Tôn Thất Thiện |
Tiến sĩ |
Vấn đề chánh trị |
62 |
Vũ Quốc Thông |
Tiến sĩ công pháp |
Công pháp quốc tế |
63 |
Nguyễn Hữu Thống |
Cử nhân luật |
Định chế tài chánh VN |
64 |
Nguyễn Vă Thời |
Cao học kinh tế |
Kinh tế học |
65 |
Trần Phương Thu |
MA |
Anh ngữ |
66 |
Trường Văn Thuấn |
MA |
Anh ngữ |
67 |
Lư Công Thuận |
MA |
Thống kê học |
68 |
Trương Văn Thuận |
MA |
Anh ngữ |
69 |
Nguyễn Bùi Thức |
MA |
Chánh trị học |
70 |
Phạm Quang Tịnh |
Cử nhân luật khoa |
Luật thương hội |
71 |
Nguyễn Văn Trí |
MS |
Xă hội học |
72 |
Nguyễn Quốc Trị |
Ph.D |
Chiến lược và chánh sách quản trị |
73 |
Huỳnh Văn Ṭng |
Tiến sĩ đệ tam cấp |
Lịch sử báo chí |
74 |
Phạm Việt Tuyền |
Cử nhân |
Báo chí học |
75 |
Lê Thị Tuyết |
Ph.D |
Nghiên cứu Á châu |
76 |
Nguyễn Duy Tưởng |
BS |
Kế toán |
77 |
Trần Cự Uông |
Cao học kinh tế |
Tài chánh xí nghiệp |
78 |
Đỗ Uyên |
MA |
Phân phối vận tải |
79 |
Vơ Quang Vân |
MBA |
Quản trị nông nghiệp |
80 |
Vũ Thiện Vinh |
ENA Paris |
Quản trị thương hội, Thuế vụ |
81 |
Đinh Xáng |
Cử Nhân Luật |
Quản trị sản xuất |
82 |
Nguyễn Đương Xuân |
MA |
Quảng cáo |
83 |
Phạm Văn Xuân |
DVT |
(VAP) |
84 |
Nguyễn Thị Bạch Yến |
MA |
Anh ngữ |
Trường Thần Học
Danh sách các linh mục tu sĩ nhân viên giảng huấn khoa thần học (1958-1975)
TT |
Họ và Tên |
Địa Chỉ Hiện Nay |
Ngày chết |
(1) |
(2) |
(3) |
(4) |
1 |
Joseph Audic |
|
17.06.1990 |
2 |
Luigi Bobbio |
|
01.01.1999 |
3 |
Francisco Bolumburu |
|
02.06.1969 |
4 |
Ernest Bruckner |
|
16.05.1995 |
5 |
Franz Burkhardt |
Catholic Mission, 1-9 Wen Ming Road, Putsu, Chiayi Hsien, Taiwan 613 ROC |
|
6 |
Ramon Cavanna |
|
30.10.1966 |
7 |
Étienne Cesbron-Laveau |
|
18.08.1983 |
8 |
Joseph Ch’en Ch’ung Ling |
|
21.10.1987 |
9 |
Mathias Ch’en Wen Yu |
|
25.12.1987 |
10 |
Roger Champoux |
PO Box 240, UP Post Office 1144 Quezon City, Philippines |
|
11 |
Hervé Coathalem |
|
30.10.1986 |
12 |
Edward Collins |
2 Welfare Road, Wong Chuk Hang, Hong Kong |
|
13 |
Alejandro Cuervo-Arango |
Ruiz Hernandez 1047002 Valladoid, Spain |
|
14 |
José-Ramon De Diego |
|
14.04.2000 |
15 |
Maurice De Lauzon |
|
14.12.1981 |
16 |
Jacques De Leffe |
|
20.05.1990 |
17 |
Pierre Demers |
|
10.02.2002 |
18 |
Paul De Pelsemaeker |
Jagerstraat 13/22040 Antwerpen Belgium |
|
19 |
Paul Deslierres |
Centre Vimont, 3200 Chemin Ste Catherine P.Q. H3T ICI Canada Montréal, Tel: 514-342.1320 |
|
20 |
Gildo Dominici |
|
2003 |
21 |
Anton Drexel |
|
|
22 |
Julian Elizalde |
Via del Semina rio 12000186 Roma, Italy |
|
23 |
Henri Forest |
|
|
24 |
André Gaultier |
|
22.11.1978 |
25 |
André Gélinas |
PO Box 657 Greenhills, 1502 San Juan Phillipines |
|
26 |
Pierre Gervais |
Rue des Atrabates, 881040 Bruxelles Belgium |
|
27 |
Felipe Gomez |
PO BOX 221 UP Post Office 1144 Quezon City Philippines (VN Services EAPI http:// eapi.topcities.com |
|
28 |
Pal Gomori |
|
26.2.1992 |
29 |
Nil Guillemette |
Xavier University Corrales Ave 9000 Cagayan de Oro Philippines |
|
30 |
Jean B Hanrio (Tu huynh) |
|
13.06.1976 |
31 |
Yves Henry |
|
05.11.1963 |
32 |
Arpad Herold (Tu huynh) |
|
19.02.1976 |
33 |
Joseph Krahl |
|
07.05.1999 |
34 |
Roland Lachance |
175, Blvd des Hauteurs Lafontaine, CP 130, Saint Jérome, J7Z 5T8 Canada |
|
35 |
Ferdinand Lacretelle |
|
05.05.1989 |
36 |
André Lamothe |
La Maisob Beelarmin, 25 Rue Jarry Ouest Montréal, H2P 1S6, Canada |
|
37 |
Claude Larre |
|
2001 |
38 |
Louis Leahy |
STF Driyarkara, Kotax Pos 1397 Jakarta 10013 Indonesia |
|
39 |
Marcel Lichtenberger |
|
10.12.1985 |
40 |
Mariano Manso |
40 Alley 1, Lane 2, Ta Pu Road POBOX 130 Changhua Taiwan 500 ROC |
|
41 |
Michel Martin |
|
27.01.1964 |
42 |
Joseph Motte |
|
23.05.1970 |
43 |
Paulo Mụ (Tu huynh) |
Via Statuto 1412100 Cuneo, Italy |
|
44 |
Antonio Navascués |
|
03.10.1979 |
45 |
Peter Nemeshegi |
Faludi Ferenc Hezl 1535 Budapest 114, Pf. 826 Hung gary |
|
46 |
Paul O’Brien |
The Seven Fountains 97 Huey Kaew Road Chiang Mai 50300 Thailand |
|
47 |
Alberto Palacios |
|
23.10.1989 |
48 |
Sesto Quercetti |
|
17.09.1991 |
49 |
Yves Raguin |
|
09.10.1998 |
50 |
Giuseppe Raviolo |
|
27.06.1998 |
51 |
Henri Réal |
|
11.07.1996 |
52 |
Enrique San Pedro |
|
17.07.1994 |
53 |
Cardinal Paul Shan |
125 Sze Wei 3rd Road Kachsiung Taiwan 802, ROC |
|
54 |
Lionel Tremblay |
|
18.01.2000 |
55 |
Fr. Javier Urrutia |
|
|
(55) |
|
|
|
Chú thích: Căn cứ bản liệt kê do Nguyễn Khang thực hiện, th́ có 55 tu sĩ, kể cả 3 tu huynh trợ thế (Hanrio, Muó và Herold). Như vậy có 52 linh mục giáo sư, cơ hữu và thỉnh giảng.( Đỗ Hữu Nghiêm: Một Nghiên Cứu Về Giáo Hoàng Thánh Piô X Đà Lạt. Oakland, 15/9/2007. Đánh máy vi tính, 132 trang, font 16, tt.51-54) |
Phụ Lục III
Danh Sách Một Số Cựu Sinh Viên VĐHĐL Thành Danh
CTKDoanh |
VKhoa |
SPhạm |
KHọc |
Chú Thích |
Nguyễn Tường Cẩn KD1 |
Nguyễn Xuân Hoàng VK 1964-68 |
Quản Mỹ Lan SPVK 1966-70 |
Hà Mai Kim KH1958-59 |
1 |
Nguyễn Đ́nh Cận, KD1 |
Trần Văn Lương VK 1967-71 |
|
Lê Văn Lạc KH 1958-59 |
2 |
Trần Quang Cảnh KD1 |
Nguyễn Văn Năm VK 1967-71 |
|
|
3 |
Trần Văn Chang KD1 |
Nguyễn Vân Đông VK 1970 |
|
|
4 |
Nguyễn Lập Chí KD1 |
Nguyễn Khanh VK 1973-75 |
|
|
5 |
Nguyễn Khánh Chúc KD1 |
|
|
|
6 |
Lưu Văn Dân KD1 |
|
|
|
7 |
Trần Văn Đại KD1 |
|
|
|
8 |
Mai Kim Đĩnh KD1 |
|
|
|
9 |
Nguyễn Thành Đức KD1 |
|
|
|
10 |
Nguyễn Hương Giang KD1 |
|
|
|
11 |
Kha Tư Giáo KD1 |
|
|
|
12 |
Dương Tấn Hải KD1 |
|
|
|
13 |
Trần Văn Lưu KD1 |
|
|
|
14 |
Tạ Duy Phong KD1 |
|
|
|
15 |
Trần Ngọc Phong KD1 |
|
|
|
16 |
Lê Đ́nh Thông KD1 |
|
|
|
17 |
Nguyễn Văn Trọng KD1 |
|
|
|
18 |
Huỳnh Trung Trực KD1 |
|
|
|
19 |
Bùi Thị Trường KD1 |
|
|
|
20 |
Châu Tuấn Xuyên KD1 |
|
|
|
21 |
Đinh Hùng KD2 (3) |
|
|
|
22 |
Hoàng Ngọc Phan KD2 |
|
|
|
23 |
Nhan Ánh Xuân KD2 |
|
|
|
24 |
Nguyễn Văn Thái KD3 (3) |
|
|
|
25 |
Vơ Văn Thương KD 3 |
|
|
|
26 |
Nguyễn Phi Tiến KD3 |
|
|
|
27 |
Nguyễn Đức Nam KD4 (4) |
|
|
|
28 |
Nguyễn Bạch Ngọc KD4 |
|
|
|
29 |
Bùi Thị Anh Thư KD4 |
|
|
|
30 |
Trần Trí KD4 |
|
|
|
31 |
Bùi Mạnh Cường KD5 (5) |
|
|
|
32 |
Phạm Đ́nh Đắc KD5 |
|
|
|
33 |
Trần Thị Mộng Hương KD5 |
|
|
|
34 |
Phạm Mạnh Tiến KD5 |
|
|
|
35 |
Hàng Trọng KD5 |
|
|
|
36 |
Đỗ Thị Vân Hạnh KD6 (4) |
|
|
|
37 |
Lê Thành Kim KD6 |
|
|
|
38 |
Hứa Hữu Phước KD6 |
|
|
|
39 |
Tô Minh Toàn KD6 |
|
|
|
40 |
Phạm Văn Bân KD7 (4) |
|
|
|
41 |
Nguyễn Đức Cường KD7 |
|
|
|
42 |
Vơ Thị Quỳnh Mai KD7 |
|
|
|
43 |
Hoàng Thịnh KD7 |
|
|
|
44 |
Vũ Mạnh Hải KD8 (3) |
|
|
|
45 |
Nguyễn Văn Huy KD8 |
|
|
|
46 |
Nguyễn Đức Trọng KD8 |
|
|
|
47 |
Trương Thị Ngọc Mai KD9 (3) |
|
|
|
48 |
Lương Thiện KD9 |
|
|
|
49 |
Lâm Kim Thoa KD9 |
|
|
|
50 |
Nguyễn Thị Diệu Hương KD 10 (2) |
|
|
|
51 |
Nguyễn Thị Ngọc Tịnh KD10 |
|
|
|
52 |
Phan Trọng Hân KD11 (1) |
|
|
|
53 |
Nguyễn Mạnh Tường CHKD74 (1) |
|
|
|
54 |
(54) |
(05) |
(01) |
(02) |
(62) |
Chú Thích: Theo Nguyễn Đức Trọng, Những Cao Thủ Đại Học Đà Lạt (55KD + 5VK + 1SPVK + 2KH = 63). Ngày Xưa Hội Hữu, Đặc San Âu Châu 2008, tt. 143-155 |
[132] PHỤ LỤC IV:
Các Văn Bản Về Việc Bàn Giao Viện Đại Học Đà Lạt
Theo [Ḥa Giang Đỗ Hữu Nghiêm: Viện Đại Học Đà Lạt Giữa Ḷng Dân Tộc Việt Nam. Anh em Thụ Nhân ở Việt Nam ấn hành, có sửa chữa, 2006, 146t, 15x25cm], tt. 132-136
VĂN BảN BÀN GIAO VIệN ĐạI HọC ĐÀ LạT
VĂN KIệN CHÍNH YếU
Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
Độc Lập - Tự Do - Hạnh Phúc
Biên Bản Bàn Giao Viện Đại Học Dalat
Hôm nay, ngày 04 tháng 04 năm 1977,
Một bên là Đại Diện Chính Quyền Cách Mạng, gồm:
Ông Hồ Phú Diễn, Ủy Viên Thường Trực Ủy Ban Nhân Dân tỉnh Lâm Đồng;
Ông Nguyễn Lam Kiều, đại diện Ban Khoa Giáo Dalat
Một bên là Đại Diện Giáo Hội Công Giáo, gồm:
Giám Mục Nguyễn Sơn Lâm, Giám Mục Giáo Phận Dalạt, Hội viên Hội Đồng Giám Mục Việt Nam
Linh Mục Phan Công Chuyển, nguyên Tổng Thơ kư Viện Đại Học Dalat
Cùng nhau thảo luận các điểm sau đây trong việc chuyển giao Viện Đại Học Dalat cho Chính Quyền Cách Mạng:
Phần I – Các Văn Thư Liên Hệ Được Tham Chiếu (O5)
-Văn thư ngày 18.10.1975 của Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn B́nh, Chủ Tịch Hội Đồng Giám Mục Miền Nam gởi lên Chính Phủ về việc Giáo Hội Công Giáo tạm nhường các cơ sở bất động sản thuộc Viện Đại Học Dalat tại vùng Cao Nguyên cho Chính quyền quản lư;
-Văn thư số 023/VP-76 ngày 18.03.1976 của Đức Tổng Giám Mục Chủ Tịch Hội Đồng Giám Mục ủy quyền cho Giám Mục Giáo Phận Dalat Đức Cha Nguyễn Sơn Lâm v/v trao đổi ư kiến cụ thể với Chính Quyền địa phương để tiến đến việc bàn giao cơ sở Viện Đại Học Dalat;
-Văn Thư số 5/CV ngày 18.03 của Bộ Giáo Dục và Thanh Niên gởi Hội Đồng Giám Mục v/v tiếp thu và quản lư Viện Đại Học Dalat;
-Văn thư số 033/VP-76 ngày 26.03.1976 của Đức Tổng Giám Mục Chủ Tịch Hội Đồng Giám Mục gởi lên nhi vị Chủ Tịch Nhà Nước v/v Thắc mắc trong việc bàn giao Viện Đại Học Dalat;
-Văn thu số 34/VP ngày 02.04.1976 của Phủ Chủ Tịch Cộng Ḥa Miền Nam Việt Nam gởi Hội Đồng Giám Mục Việt Nam về việc giải quyết vấn đề liên quan đến cơ sở Viện Đại Học Dalat , và Báo cáo của Đai Diện Ṭa Tổng Giám Mục ngày 03.01.1976 về những ư kiến trong cuộc họp mặt này giữa các đại diện Phủ Chủ Tịch, đại diện Bộ Giáo Dục và Thanh Niên, đại diện Ṭa Tổng Giám Mục Sàigon.[2/132]
Phần II. Nội Dung Dược Thỏa Thuận Nhất Trí (05m)
MụC A- Để chứng tỏ tinh thần cởi mở và ư chí phục vụ của ḿnh, Giáo Hội Công Giáo tạm nhường cơ sở Viện Đại Học Dalat thuộc vùng Cao Nguyên cho Chính Quyền quản lư nhằm tiếp tục công tác giáo dục theo chủ trương mới của Nhà Nước
MụC B- Sau khi tiếp quản cơ sở này, Chính Quyền có thể hoàn toàn sử dụng theo kế họach phát triển giáo dục của Nhà Nước cho đến khi nào Chính Quyền thấy cần thiết, mà không gặp trở ngại nào về phía Giáo Hội.
MụC C – CƠ Sở NÀY GồM CÁC BấT ĐộNG SảN như sau:
Điều 1.- Bất động sản (07):
1-Khu A: toàn bộ các cơ sở học xá và cư xá;
2-Khu B và C: toàn bộ tại Ngân khố và Ngân Hàng cũ ở Đà Lạt các biệt thự đang làm cư xá giáo chức (khoảng trên 30 biệt thự, hiện có trên 20 biệt thự tại khu C trong t́nh trạng tốt v́ được các giáo chức cơ hữu của viện tu bổ và sử dụng;
3-Trường Sư Phạm Thực Hành trên đổi Mục Đồng, Đa Thiện
4-Đại Học Xá Trương Vĩnh Kư dành cho 80 sinh viên;
5-Đồn Điền Djirato;
6-Đồn Điền Đại Nga;
7-Đại Học Xá Rạng Đông và Trinh Vương trên Đồi Mục Đồng thuộc sở hữu hai Ḍng tu khác nhau, không thuộc Đại Học cũng không thuộc Ṭa Giám Mục. Nhưng nhằm mục đích phục vụ công ích, và theo đề nghị của Chính Quayền, Ṭa Giám Mục hứa sẵn sàng can thiệp với hai ḍng tu liên hệ sau.
Điều 2.- Về các động sản (06): được kiểm kê và đính kèm biên bản này
1-Toàn bộ các trang cụ tại các cơ sở thuộc khu A
2-Toàn bộ các trang cụ tại Trường Sư Phạm Thực Hành
3-Toàn bộ các tranng cu tại Đại Học Xá Trương Vĩnh Kư;
4-Toàn bộ các trang cụ tại Đồn Điền Djiroto
5-Toàn bộ các trang cụ tại Đồn Điền Đại Nga;
6-Về phương tiện di chuyển:
-Xe Ford, dùng để di chuyển giáo sư thỉnh giảng và sinh viên đi thực tập hoặc công tác;
-Xe Peugeot, Viện Trưởng sử dụng trước đây;
-Xe Opel, Tổng Thơ Kư sử dụng trước đây;
-Xe Renault, dùng vận tải;
-Xe Jeep, dùng tại Viện (không c̣n tại Viện).
MụC D-Về SINH VIÊN, Hồ SƠ HọC Vụ, NGÂN QUỹ:
Điều 3.- Về Sinh Viên (01):
1-Vấn đề điều chuyển sinh viên, theo chỉ thị của Bộ Giáo Dục và Thanh Niên trước đây, đă chấm dứt trong thời gian ấn định;
2-Các sinh viên không có nguyện vọng trong thời gian này, đều phải theo qui chế chung khi muốn vào các Đại Học
3-Các sinh viên có nguyện vọng và có đủ tiêu chuẩn, đă được thu nhận vào các Đại Học Nhà Nước, và đă được tiếp tục đào tạo theo đúng qui chế của Bộ Đại Học và Trung Học chuyên nghiệp
Điều 4.- Về Hồ Sơ Học Vụ:
Toàn bộ hồ sơ học vụ các Trường Đại Học thuộc Viện từ niên khóa 1958 đến 1975 sẽ được trao lại cho Chính Quyền, Bộ Đại Học và Trung Học Chuyên Nghiệp hoặc cơ quan được Bộ ủy quyền sẽ chịu trách nhiệm giải quyết mọi liện hệ cho sinh viên [3/134]
Điều 5.-Về Ngân Quỹ
Tổng số Ngân Quỹ của Viện Đại Học Dalat c̣n lại 56.078.743đ00 tiền Sàig̣n cũ, tức là một-trăm-mười-hai-ngàn-một trăm-năm-mươi-bẩy-đồng-bốn-hào-tám-xu (112.157$48) tiền Ngân Hàng Việt Nam.
Số tiền này hiện c̣n sổ kư thác (đứng tên linh mục Viện Trưởng Lê Văn Lư)
Sau khi giúp giải quyết, có đề nghị trước mắt về lương bổng, phụ cấp và trợ cấp cho giáo chức vá công nhân viên theo thỏa thuận dưới đây. Chính quyền sẽ toàn quyền sử dụng phần c̣n lại cho nhu cầu công ích.
MụC E - Về NHữNG Đề NGHị
Điều 6.-Nguyện đường Năng Tĩnh được biến thành một di tích lưu niệm và không ai sử dụng.
Điều 7.-Cơ quan phụ trách Viện Đai Học Dalat sau này sẽ có trách nhiệm bảo tŕ toàn bộ cơ sở vật chất, kể cả Toà Năng Tĩnh.
Điều 8.- Ṭa Giám Mục nhận lại tất cả các di tích tôn giáo tại các cơ sở, cũng như các sách báo thuộc diện tôn giáo tại Thư viện Agagianian. Và các vật dụng thuộc Nguyện Đường Ṭa Năng Tĩnh.
Điều 9.-Về lương bổng, trợ cấp và phụ cấp nghỉ việc cho giáo chức và công nhân viên sẽ được giải quyết như sau (05):
1-Trả một khoản phụ cấp nghỉ việc cho các giáo chức và nhân viên hành chánh chưa được thanh toán trước ngày giải phóng, là hai (2) tháng trọn theo nguyên mức lương của họ;
2-Các giáo chức cơ hữu có công tác một phần, được lănh truy cấp sáu (06) tháng theo mức lương căn bản của họ.
3-Giáo chức và công nhân viên tiếp tục công tác thưiờng xuyên với Viện từ sau ngày giái phóng, được lănh thù lao hằng tháng, theo qui định mới cho bốn (04) cấp sau đây:
Cấp lănh đạo: 80$00 NHVN
Cấp giáo chức: 60$00 nt
Cấp hành chánh: 40$00 nt
Cấp nhân viên: 30$00 nt
Tiền thù lao này rút trong ngân khoản 33.993đ00 NHVN và sẽ chấm dứt khi Viện đă cấp đầy đủ cho giáo chức và nhân viên của Viện.
4-Bảng kết toán được dự trù hoàn tất vào tháng 10/1976 gồm tổng số tiền phải thanh toán là ba-mươi-ba-ngàn-chín-trăm-chín-mươi-ba-đồng-chẵn (33.993đ00) tiền Ngân Hàng Việt Nam;
5-Sau khi thanh toán các khoản tiền bạc c̣n ghi ở điểm 1, 2 và 3 trên đây, Ban Quản Trị cũ cũng như Chính Quyền địa phương không c̣n trách nhiệm đối với giáo chức và công nhân viên cũa của Viện.
Điều 10-Mọi chi phí để bảo quản và sửa chữa cơ sở từ ngày giải phóng về sau, sẽ do Chính Quyền đài tho. [4/135]
Điều 11. Vấn đề giáo chức và công nhân viên (05)
1-Giáo chức và công nhân viên cũ của Viện, nếu có đủ tiêu chuẩn cần thiết, do Chính quyền qui định, sẽ được tuyển dụng theo chính sách;
2-Giáo chức và công nhân viên ở cư xá của Viện, nếu không đủ điều kiện được tiếp tục công tác, Chính Quyền sẽ thông báo trước cho đương sự một thời gian để kịp di chuyển đến nơi khác;
3-Vấn đề vườn đất của Viện hiện do các công nhân viên canh tác, sẽ do Ban Điều Hành mới cùng với Chính Quyền địa phương giải quyết theo chính sách ruộng đât của Nhà Nước.
4-Những vật dụng công nhân viên đă tạm muơn công khai trước đây khi Viện c̣n hoạt động: như giường, tủ, bàn, ghế (theo bản kê khai đính kèm), sẽ được tặng lại làm kỷ niệm, dù họ c̣n tiếp tục công tác hay không;
5-Những vật dụng sinh hoạt của cá nhân c̣n gởi tại Viện, nếu xét có đủ chứng từ hợp lệ hoặc được tập thể xác nhận lại ngay sau khi hoàn tất công việc bàn giao cơ sở cho Chính Quyền địa phương.
Riêng những vật dụng cá nhân, kể cả sách vở của các linh mục, tu sĩ và một số giáo sư thỉnh giảng, th́ Ṭa Giám Mục sẽ chịu trách nhiệm thu nhận và chuyển giao cho đương sự.
Điều 12.- Trước khi bàn giao (02);
1-Ban phụ trách sẽ cử một ban công tác kiêm kêgồm các nhân viên:
ÔÔ. Nguyễn Bào Cô Đinh Thị Liên
Nguyễn Định ÔÔ Lê Văn Tứ
Nguyễn Quốc Tuấn Nguyễn Đăng Xuân
Quách Văn Tuyền Nguyễn Sáng
Bà Nguyễn Thị Quảng Hoa Trầm Anh
Cô Nguyển An Thanh
(Tất cả mười một người)
-Ban Kiểm Kê này có trách nhiệm kiểm kê toàn bộ những tài sản của Viện để bàn giao.
Điều 13.- Ban Phụ Trách mới sau khi nhận bàn giao, có trách nhiệm thâu hồi những tài sản của Viện c̣n tản mát theo số liẹu đă ghi nhận.
Điều 14.- Ban Quản Trị cũ, sau khi đă được giải quyết vấn đề tiền bạc, có trách nhiệm chuyển giao cho Ban Phụ Trách mới phần hồ sơ học vụ của sinh viên cũng như các vật dụng c̣n để lại tại Sàig̣n.
Điều 15.- Ủy Ban Nhân Dân tỉnh Lâm Đồng và Bộ Đại Học và Trung Học Chuyên Nghiệp, với tinh thần thiện ư sẽ cố gắng cấp cho Ban Quản Trị cũ của Viện một ngân khoản là ba-mươi-ba-ngàn-chín-trăm-chín-mươi-ba đồng chẵn (33.993đ00) tiền Ngân Hàng Việt Nam theo bảng chiết tính đă đề nghị và được ghi ở MụC E Điều 9 số 4 của Biên bản này, để thanh toán các khoản chi phí đối với giáo chức và công nhân viên cũ như đă thỏa thuận.
Vấn đề này sẽ được giải quyết trong thời gian một (01) tháng, sau ngày kư kết Biên Bản bàn giao [5/136].
Điều 16.- Ông Nguyễn Lam Kiều được ủy nhiệm của Ủy Ban Nhân Dân Tỉnh và linh mục Phan Công Chuyển, đại diện Ṭa Giám Mục liên hệ với Ủy Ban Nhân Dân Tỉnh Lâm Đồng và Bộ Đại Học và Trung Học Chuyên Nghiệp cho đến khi Điều 15 trên đây hoàn tất.
Điều 17. - Sau khi hoàn tất việc thanh toán những khoản tiền bạc với các nhân viên cũ của Viện theo MụC E Điều 9 số1-2 và 3; một bản Báo Cáo có chữ kư của đôi bên lên hệ đính kém Biên bản này sẽ dứt khoát vấn đề trách nhiệm của Ban Quản Trị cũ cũng như Chính Quyền Cách Mạng đối với họ, như đă ghi ở MụC E Điều 9 số 5 trên đây.
Điều 18.-Biên bản này được làm thành Sáu (06) bản có chữ kư đằy đủ của đôi bên liên hệ. Mỗi bên giữ ba (03) bản.
Biên Bản này gồm hai (02) phần, năm (05) mục, mười-tám điều, và từ trang 01 đến trang 05
Làm tại Đalat, ngày 04 tháng 04 năm 1977
Đại diện Chính Quyền Cách Mang Đại Diện Giáo Hội Công Giáo
1. Ô. Hồ Phú Diễn 1. G/m Nguyễn Sơn Lâm
Ủy Viên Thường Trực Giám Mục Giáo Phận Dalat
Ủy Ban Nhân Dân tỉnh Lâm Đồng
(ấn, kư) (ấn, kư)
2. Ô. Nguyễn Lam Kiều 2. L/m Phan Công Chuyển
Đại Diện Ban Khoa Hiáo Dalat Nguyên Tổng Thư Kư
Viện Đại Học Dalat
(đă kư) (đă kư)
Bản Sao Chính Thức
Dalat, ngày 29 tháng 06 na8m 1977
Đại Điện
Ṭa Giám Mục Ddalat (đóng dấu TGM Dalat, kư tên)
Lm Phan Công Chuyển
Kèm theo biên bản này:
1.Ba bản (03) Phụ lục chi tiết;
2.Hồ sơ kiểm kê tà sản tại Cơ sở chính Dalat gồm 195 trang
có đóng dấu Văn Pḥng Toà Giám Mục Dalat
3.Báo cáo việc hoàn tất Điều 17 của Biên bản này về tiền bạc
ngày 25 tháng 05 năm 1977.
HếT
CÁC VĂN KIệN CÓ LIÊN QUAN
VĂN KIệN 1
Ṭa Giám Mục Dalat Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
9 Nguyễn Thái Học 9 Độc lập – Tự Do – Hạnh Phúc
Dalat – TUYÊN ĐỨC
Đ.t.: 2072
THÔNG BÁO
Cùng Các Giáo Chức Cơ Hữu, Và Nhân Viên Cũ
Thuộc Viện Đại Học Dalat
Ṭa Giám Mục Dalat trân trọng thông báo:
I. Theo thỏa thuận và được sự hỗ trợ của chính quyến, Ban Quản Trị cũ của Giáo hội, trước khi dứt khoát trách nhiệm sẽ thanh toán những khoản tiền bạc về lương bổng, Trợ cấp và Phụ cấp cho các giáo chức cơ hữu và nhân viên cũ của Viện
II. Các đối tương và chi tiết cụ thể như sau:
1. Giáo chức và Nhân viên hành chính có công tác từ sau ngày giải phóng: hưởng thù lao và Phụ cấp: hưởng thù lao và phụ cấp nghỉ việc.
2. Công nhân viên báo vệ cơ sở Dalat, từ sau ngày giải phóng, hướng thù lao (Phụ cấp nghỉ việc đă lănh trước giải phóng):
3. Giáo chức cơ hữu công tác một phần ở Sàig̣n: hưởng trợ cấp và phụ cấp nghỉ việc.
III. Thủ tục nhận lănh
1. Đối tượng; Chính đương sư hoặc người có giáy ủy quyền;
2. Các thức: trước khi nhận tiền, sẽ kư tên vào tờ biên lai và Ba (03) bản Danh sách có tên ḿnh. Ai tới trước, nhận trước.
IV. Thời gian và địa điểm:
1. Thời gian: từ 08 giờ 00 đến 11 giờ 00 ngày thứ sáu, 06 tháng 05 năm 1977.
2. Địa điểm: tại Văn Pḥng Tổng Thư Kư cũ tầng trệt Ṭa Đôn Hóa, Viện Đai Học Dalat.
Đề nghị anh chị em giúp thong báo cho nhau và chấp hành nghiêm túc.
Dalat, ngày 05 tháng 05 năm 1977
Đại Diện Tóa Giám Mục Đàlạt,
Lm. Phan Công Chuyển
(đóng dấu, TGM Dalat, kư tên)
________________________________________________________________________
VĂN KIệN 2
Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
Độc Lập - Tự Do - Hạnh Phúc
Phụ Lục
Về Điều II. Biên Bản Bàn Giao Viện Đại Học Dalat.
- Thi hành Điểu II. Biên Bản Bàn Giao Viện Đại Học Dalat, Ban Quản Trị cũ đ4 di chuyển Phần Hồ Sơ Học Vụ, và một số vật dụng c̣n lại tại Văn Pḥng Liên Lạc Sàig̣n về Dalat và trao cho Ban Phụ Trách mới.
- Hồ Sơ Học Vụ và những vật dụng này gốm có:
I. Phần Hồ Sơ Học Vụ (sẽ được kiểm lại chi tiết với toàn bộ hồ sơ tại Viện):
- của Trường Đại học Văn Khoa (01 thùng có niêm)
- của Trường Đại Học Khoa Học ( 01 thùng có niêm)
- của Trường Đại Học Sư Phạm (01 thùng có niêm)
- của Trường Chánh Tri Kinh Doanh, kể cả của Ban Ca Học tại Sàigon (01 thùng có niêm)
II.Các Vật dụng:
01. Một máy in Offset hiệu Rex Rotary, sử dụng được
02. Một máy in Roneo, sử dụng được
03. Một máy in bàn đạp (bị hư hỏng ) và Năm thùng chữ in
04. Hai máy chữ văn pḥng, sử dụng được.
05. Một máy hàn x́ điện, sử dụng được.
Phần chuyển giao này đă thực hiện ngay khi về tới Dalat ngày 06tháng 06 năm 1977, trước mặt đông đảo cán bộ và công nhân viên tại Viện.
Dalat, ngày 06 tháng 06 năm 1977
Bên nhận, Bên giao
TM Ban Phụ Trách mới Đại Diện Ban Quản Trị mới
(đóng dấu Ban Thanh Niên Thành Đoàn Trường Đại Học Dalat, kư tên) Đ/C Nguyễn Hữu Mỹ (đóng dấu TGM GP Dalat
và kư tên)
Lm. Phan Công Chuyển
Nơi lưu trữ:
Bản Phụ lục này làm thành Tám (08):
-Bên giao (03bản, “đính kèm Hồ Sơ Tài Sản Viện đă được bàn giao”
-Bên nhân (03 bản)
-K/g Ủy Ban Nhân Dân quận III, Thành phố Hồ Chí Minh (02 bản)
“để Báo Cáo về Máy In Offset hiệu Rex Rotary”.
________________________________________________________________________
VĂN KIệN 3
Viện Đại Học Dalat Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
Độc Lập - Tự Do - Hạnh Phúc
Báo Cáo
V/v. Hoàn Tất Việc Thi Hành
Biên Bản Bàn Giao Viện Đại Học Dalat
Đồng kính gửi:
-Ủy Ban Nhân Dân tỉnh Lâm Đồng
-Bộ Đại Học và Trung Học Chuyên Nghiệp
-Uỷ Ban Thường Vụ Hội Đồng Các Giám Học
Thực hiện Điều 15 của Văn Bản Bàn Giao Viện Đại Học Dalat đă được kư kết ngày 04 tháng 04 năm 1977 giũa Giáo Hội và Chính Quyền: Uỷ Ban Nhân Dân Tỉnh Lâm Đồng và Bộ Đại Học và Trung Học Chuyên Nghiệp cấp cho Ban Quản Trị cũ của Giáo Hội một ngân khoản ba mươi Ba Ngàn Chín Trăm Mười Ba Đồng Tiền Ngân Hàng Việt Nam, đă thanh toán chi phí đối với giáo chức và công nhân viên cũ như đă thỏa thuận.
II. Đại Diện Ban Điều Hành cũ, Linh Mục Phan Công Chuyển, đă nhận tại Ngân Hàng Nhà Nước (Chi Nhánh Tỉnh Lâm Đồng):
-Số bạc Mười Bẩy Ngàn Hai Chục Đồng Chẵn (17.020đ00), lần 1, ngày 05 tháng 05 năm 1977;
-Số bạc Mười Sáu Ngàn Chín Trăm Bảy Mươi Ba Đồng Chẵn (16.973đ 00) c̣n lại, lần II, ngày 25.05.1977.
III. Sau khi nhận lănh tiển bạc, Ṭa Giám Mục đă thông báo và lần lượt thanh toán cho các nhân viên liên hệ tại Dalat ngày 06 tháng 05 năm 1977 (xem Thông Báo đính kèm) và Thành phố Hồ Chí Minh từ ngày 02 tháng 06 năm 1977.
Việc thanh toán hoàn toàn chính xác và đầy đủ cho từng đối tượng theo bảng đă được đề nghị) và hiện có chữ kư làm bằng (xin đính kèm 05 bảng thanh toán tiền bạc):
1.-Hầu hết các nhân viên đă đích thân đến nhận lănh và kư tên;
2.-Những trường hợp sau đây đaược ủy quyền lănh và kư tên:
Ô. TRịNH NHấT ĐịNH ủy quyền cho vợ là B. Nguyễn Thị Thái;
O. PHAN NAM ủy quyền cho vợ là B. Huyền Tôn Nữ Yến;
Ô. TRầN VĂN MầU ủy quyền cho vợ là B. Lê thị Lệ Hoa;
Ô. NGUYễN THANH CHÂU ủy quyền cho vợ là B Nguyễn thị Quảng Hoa;
Ô. NGUYễN CHÍNH ĐOAN ủy quyền cho vợ là B. Đỗ Thị Quốc Tuấn;
Ô.NGUYễN VĂN NGậT ủy quyền cho con gái là Nguyễn thị Đặt;
Lm LƯU MINH HOÀNG ủy quyền cho đồng nghiệp là Ô. Phùng Nhân.
3.C̣n lại ba (03) trường hợp chưa được thanh toán, được sự nhất trí, người đại diện về phía chính quyền kư tên trong Biên Bản Bàn Giao, xin gởi nơi Toà Giám Mục để trao cho các đượng sự sau. Đó là :
LM NGUYễN VĂN ĐờI (bảng 1 số 18, bảng 4 số 2)
Ô. NGUYễN THƯƠNG (bảng 2 số 10)
Ô. NGÔ TUYÊN (bảng 5 số 1)
IV.Biên Bản này báo cáo việc hoàn tất công tác thực thi các điều khoản liên hệ về vấn đề tiền bạc giữa bên nhận và bên giao, cũng như giữa Ban Quản Trị cũ của Giáo Hội và các Nhân viên của Viện Đại Học Dalat.
Làm tại Dalat, ngày 19 tháng 8 năm 1977
T.U.Q
Ủy Ban Nhân Dân Tỉnh Lâm Đồng, Đại diện Ṭa Giám Mục Dalat
(kư tên) (đóng dấu TGM Dalat, và kư tên)
ĐC Nguyễn Lam Kiều Lm Phan Công Chuyển
Hoàn tất sao y
Đỗ Hữu Nghiêm
Oakland, CA, ĐHN ghi sao ngày 19/8/2006.VII
Hoàn thành tại Oakland, CALIFORNIA, U.S.A., ngày 25/8/2006.V. ĐHN
Dayton, OH, ngày 3 June 2006.7. ĐHN
Oakland, CA, ngày 22/1/2008.3. ĐHN
Oakalnd, CA, bổ sung ngày 3/2/2008.CN (ngày 27 thánh Chạp năm Đinh Hơi, giáp Tết Mậu Tư 2008, và ngày 7/2/2008 dương lịch)
Phạm Văn Bân K7 CTKD (Santa Ana, California): “Tiếng Ghép Đồng Nghĩa Trong Ngữ Ngôn Việt Nam.” (Kính dâng cha Viện Trưởng Lê Văn Lư). Đặc San Khóa 7 CTKD (12/2005) PDF (8-15) [ĐSKD7, tt. 209-216].
Phạm Văn Bân K7 CTKD (Santa Ana, California): “Vài Nhận Xét Trong Việc Dịch Chữ Hán.” Đặc San K7 CTKD (12/2005) PDF (1-7) [ĐSKD7, tt. 202-208].
Ngô Đ́nh Diệm: Diễn Văn ngày 7/10/1957 đọc trước Quốc Hội Việt Nam Cộng Ḥa. Website Ngo Dinh Diem
Thế Tâm Nguyễn Khắc Dương: Quia Respexit Humilatem Meam. Hồi Kư. Đà Lạt, Một Nhóm cựu sinh viên Đà Lạt ấn hành (lưu hành nội bộ), 248t, 14x25cm, vi tinh font 12. Đặc biệt Chương 16. “Ông Thày Tài Tử”, tt. 149-158
Phạm Đ́nh Đắc (KD5) Thụ Nhân Directory. Danh sách và các số liệu được cập nhật hóa ngày 1/11/2005. Thunhan Directory, Thunhan.net
Hội Ái Hữu Địa Phận Hà Nội Nam California: Kỷ Yếu Mười Lăm Năm Thành Lập (1988-2003). CA, 2003, NV Printing (7775 Wesminster Ave., Westminster, CA 92683. Tel: 714-897-3628), 339t., A4
Hội Đồng Giám Mục Việt Nam: Niên Giám Giáo Hội Công Giáo Việt Nam năm 2005. (Đặc biệt“Chương 44. Giáo Phận Đà Lạt, tt.771-789”). Hà Nội, Nhà Xuất Bản Tôn Giáo, 2005, 965t, 14x26cm.
Trần Văn Lương (VK), Vĩnh Biệt Cha (Kính dâng Anh linh Vị Cha già kính yêu, Đức Ông Simon Nguyễn Văn Lập, Cựu Viện Trưởng Viện Đại Học Đà Lạt), Nam California. Thư Bạn Thunhan.net
Lê Hữu Mục: Cha Nguyễn Văn Lập. Website Liên Lạc Nhân Văn
Đỗ Hữu Nghiêm: Phỏng vấn ông Đinh Văn Bài tại Norfolk, Virginia Beach, ngày 25 tháng 5, 2004 về Cơ quan Viện Trợ Công Giáo Hoa Kỳ tại Sàig̣n và Hội Đại Học Đà Lạt giai đoạn vận động xây dựng tài chính. Vai Tṛ của LS Nguyễn Văn Lộc.
Đỗ Hữu Nghiêm, “Ba Mươi Năm Bang Giao Ṭa Thánh Vatican và Hà Nội”, tt. 407-435 trong Ba Mươi Năm Công Giáo Việt Nam Dưới Chế Độ Cộng Sản 1975-2005. 8.2005, NS Diễn Đàn Giáo Dân + Phong Trào Giáo Dân Việt Nam Hải Ngoại Cơ Sở Đức Quốc, Mỹ và Âu Châu ấn hành, 649t, 16x27cm.
Paulus PP. VI: Lettre du 6 Janvier 1969 au père Nguyen Van Lap, recteur de l’Université Catholique de Dalat. Website Vatican
Hoàng Thịnh dịch, Canada: Hồi Kư của Thày Trần Long. E-zine Thụ Nhân 21 Online
Nguyễn Lư Tưởng: Tưởng Niệm Cha Viện Trưởng Viện Đại Học Đà Lạt. website Liên lạc Nhân Văn.
Phó Bá Long: A personal Letter of 10 May 2006 from McLean, VA to Đỗ Hữu Nghiêm in Dayton, OH, one-side page
Phó Bá Long: On the Long Way Home, Part I: Autobiography. Place unknown, July 2, 2000, 66th Commemorative of the author's father, Phó Bá Thuận, 114 pages, in A2, font 10, a gift of 7 May 2006 to ĐHN. [Phó Bá Thuận, Gia Phả họ Phó. 1998, bổ túc bởi Phó Bá Long; Phó Bá Long: On The Long Way Home. Autobiography]
Hội Thảo Hè 1989 - DALAT: Chính Sách Kinh Doanh Và Các Vấn Đề Hiện Đại Trong Quản Trị Kinh Doanh. Trường Đại Học Đà Lạt và Câu Lạc Bộ Giám Đốc Tp HCM tổ chức. Saigon, 169p., A4, dactylographed, mimeographed, single spaced, small letter size. [Phụ Lục: Danh sách thành phần tham dự (152-169p): tham dự viên (1-454) + giáo sư và nhân viên Trường Dại Học Đà Lạt (455-471)]
Thiện Cẩm, OP: Về Nhà Coming Home. 949 Bermuda Ct., Sunnyvale, CA 94086 DUACT, 22 Feb., 2005, 18p. in A2, font 10.
Tạ Duy Phong: Lịch Sử Thụ Nhân Viện Đại Học Đà Lạt. Houston, TX, 14/4/1994, 21t., A4, font VNI/8
Viện Đại Học Đà Lạt: Chỉ Nam Sinh Viên Niên Khóa 1973-1974. ĐaLạt, Kiểm duyệt số 3171/BTT/PHNT/ ngày 14/9/1972, 174 trang 14x25cm
Dalat University (English Text). Saigon, Printed by Dong Nam A, 1961 (?), 44p. 21x27cm
Frère Pierre Trần Văn Nghiêm: Souvenirs. Sàig̣n, lưu hành nội bộ, in vi tinh, 117t, font 14x25cm. Trích đoạn: pp 54-55, 75, 81-86 (30/5/2006.3)
Website Thụ Nhân - Đà Lạt (Thư Bạn)
Website webmaster@dalatunifoundation.org
Thụ Nhân 21 Online E-zine
Ban Điều Hành Hội Ái Hữu Thụ Nhân Viện Đại Học ĐàLạt Nam California: Đặc San Sư Huynh Théophane Nguyễn Văn Kế (ĐSSHKế). “Frère Kế, Thụ Nhân và một đời hiến dâng cho giáo dục.” San José, California, USA (12/2003), 183 t., pdf., in font 12
Ban Biên Tập Đặc San KD7: Lời nói đầu. ĐSKD7
Ban Biên Tập Đặc San KD7: Tổng Quát về Viện, Trường, Khóa 7 CTKD. ĐSKD7, tt. 9-14
Ban Biên Tập Đặc San KD7: “Cố Linh Mục Viện Trưởng Lê Văn Lư: Sao bảo nó không đến. Đặc San Khóa 7/CTKD (12/2005), tt.14-16
Lê Văn Lư: The Vietnamese Spoken Language (Le Parler Vietnamien, bản dịch tiếng Anh của Nguyễn Đăng Liêm). Sàig̣n, Southeast Asia Regional English Program, SEAREP ấn hành, 1970 [Đặc San Ḍng Việt, Phụ lục: The Vietnamese Spoken Language by Dr. Lê Văn Lư, Second Part: The Functional Morphological Structure. Translated from French by Nguyễn Đăng Liêm]
Nguyễn Đ́nh Ḥa: Lời nói đầu. Đặc San Ḍng Việt, Tuyển Tập Ngôn Ngữ Văn Tự Việt Nam, 9.ix-xi, 1993. ĐSKD7, tt.16-17
Phạm Văn Hải: Thầy Tôi: Linh mục Lê Văn Lư. Đặc San Ḍng Việt, Tuyển Tập Ngôn Ngữ Văn Tự Việt Nam, t. 4-8, 1993. ĐSKD7, tt.18-21
Nguyễn Khắc Hoạch: Hiền nhân nhật viễn. Đặc San Ḍng Việt, Tuyển Tập Ngôn Ngữ Văn Tự Việt Nam, t. 9-11, 1993. ĐSKD7, t.21-22
Nguyễn Phúc: Những kỷ niệm với Cha Phanxicô Xaviê Lê Văn Lư. Puyallup, Seattle, 30/9/2005, ĐSKD7, tt.22-27
Ban Biên Tập ĐSKD7:Giáo Sư Khoa Trưởng Phó Bá Long. ĐSKD7, tt. 28-29.
Ban Biên Tập ĐSKD7: Giáo Sư Phó Khoa Trưởng Ngô Đ́nh Long. ĐSKD7, tt. 30-32
Ban Biên Tập ĐSKD7: Cố Đức Ông Viện Trưởng Nguyễn Văn Lập (6/6/1913-19/12/2001). ĐSKD7, tt.33-36
Ban Biên Tập ĐSKD7: Cố Frère Théophane Nguyễn Văn Kế, FSC, (17/12/1912-2/11/2003). ĐSKD7, tt. 43-49
Phó Bá Long: “My Last Lecture”. Bản dịch tiếng Việt của Đồng Lương Nhơn ĐSKD7, tt. 53-60
Phó Bá Long: “Dialogue with the Old Almar Mater”. Bản dịch tiếng Việt PBL. ĐSKD7, tt. 60-63
Nguyễn Duy Tưởng: “Về Nguồn. Vài Cảm Nghĩ 30 Năm Sau”. ĐSKD7, tt. 63-67
Trần Long: “Phoenix”. Autobiography by September 1997. ĐSKD7, tt. 68-69
Danielle Tran Long: “Encounter of a kind”. Autobiography by September 1998. ĐSKD7, tt.70-72
Thái Vân Hùng: “Những Chặng Đường Gian Nan”. ĐSKD7. tt. 76-80 (Sàig̣n, VNN, 28/6/2005).
Phạm Ngọc Vỵ: “Thời Tuổi Trẻ Không thế nào quên (Tự Sự)”. ĐSKD7, tt. 81-83 (Sàig̣n, VN10/6/2005).
Nguyễn Thị Phấn Hoa: “Hoài Niệm (8/72005)”. ĐSKD7, tt.84-87 (Sàig̣n, VN)
Búi Tùng, KD7: “Tự Giới Thiệu” (sinh 1951, tốt nghiệp KD 7 năm 1974). ĐSKD7, tt. 93-95
Trần Bá Hồng Minh: “Spellman, dấu chân kỷ niệm”. ĐSKD7, tt. 89-92 (Sydney, Australia)
Thái Thị Như Hảo: “Viết Về Thầy Tôi (GS Đinh Xáng)”. ĐSKD7, tt.98-103 (Sàig̣n, VN, Mùa Thu, 2004)
Nguyễn Cửu Thu Trâm: “Thời Kỷ Niệm”. DSKD7, tt. 104-107 (Sàig̣n, 4/2005)
Vơ Quỳnh Mai: “Theo chân Thầy về thăm Trường Mẹ, tháng 3/2005”. ĐSKD7, tt.108-119 (Denmark, 15/8/2005)
Nguyễn Thị Hiệp: “Vài ḍng kư ức vẩn vơ vớ vẩn”. ĐSKD7, tt. 120-122 (Củ Chi, 3/2005)
Nguyễn Hải: “Nh́n lại quăng đời”. ĐSKD7, tt. 123. (Montréal)
Vũ Đức Trung: “Chuyện bây giờ mới kể”. ĐSKD7. tt.124-125 (Đà Lạt, 6/2005)
Nguyễn Thị Xuân Phương: “Hồn Thu Thảo”. ĐSKD7. tt. 126-128 (Sàig̣n, 6/2005)
Nguyễn Thị Kim Loan: “Duyên hay Nợ?”. ĐSKD7, tt.129-131 (Washington, DC, 6/7/2005)
Trịnh Thị Hải: “Nhật Kư”. ĐSKD7, tt. 132-135 (Sweden, July 2005)
Nguyễn Thị Hạnh: “Tạ Tội”, tt.136-138 (Sydney)
Nguyễn Thị Châu: “Nội Trú - Ngoại Trú”. ĐSKD7, tt. 139-140 (Melbourne)
Hoàng Thịnh: “Mộng hải hồ”. ĐSKD7, tt. 141-143 (Vancouver) [Hoàng Hải Hồ
Cần thơ Prison 1981].
Đồng Lương Nhơn: “Những kỷ niệm với K7 Nam Đại Học Xá”. ĐSKD7, tt. 144-146 (San Diego)
Nguyễn thị Xuân: “Hồi Ức”. ĐSKD7, tt. 147-151 (Sàig̣n)
Lê Thị Ngọc Dung: “Nhóm CN4”. ĐSKD7, t.152
Lê Thị Minh: “Khóa 7 và tôi”. ĐSKD7, tt.153-156 (Sàig̣n, 6/2005)
Vơ Văn Sum: “Nàng Thơ Thụ Nhân (Tứ Niên Du Sơn Tầm Thụ Nhân)”. ĐSKD7, tt157-158 (Sàig̣n, 5/2005)
Trương Thị Minh Thanh: “Nhớ Bạn (Thân tặng tất cả các bạn K7/CTKD)”. ĐSKD7, t.159 (Santa Ana)
Ngô Trúc: “Đà Lạt Nỗi Nhớ”. ĐSKD7, tt.160 (Đà Lạt)
Lê Duy Nam: “Censorship Sàig̣n, VN April, 1975”. ĐSKD7, tt. 161-163
Nguyễn Thị Bích Hợp: “Kỷ Niệm của một chuyến đi”. ĐSKD7, tt. 164-166 (Ottawa)
Trần Văn Thanh: “Mùa Hè 2003”. ĐSKD7, tt. 167-168 (Vancouver, 5/2005)
Trương Thị Gấm: “Một Cảm Nghĩ”. ĐSKD7, tt.169-170 (Kentucky)
Lê Thanh Sơn: “Một thời nhớ lại…” ĐSKD7, tt. 171-174 (Florida)
Hồ Thị Kim Túy: “Kỷ Niệm 75A Bùi Thị Xuân”. ĐSKD7, tt. 175 176 (Arizona)
Trần Thị La Giang: “Health Benefits of Ginseng”. ĐSKD7, tt. 177-180 (Atlanta)
Vơ Thành Tín: “Những ngày tháng mộng mơ…”. ĐSKD7, tt. 181-184 (Baton Rouge)
Nguyễn Minh Tín: “Ra Trường”. ĐSKD7, tt. 185-186 (New Orleans)
Thi Thi, Đỗ Nguyễn Yến Nhi (Con Nguyễn Thị Hiệp): “Ba kể chuyện ngày xưa…”. ĐSKD7, tt. 187-188 (Calif)
Nguyễn Đức Cường: “Khoa Châm Cứu”. ĐSKD7, tt. 189-194 (Santa Ana, Đông Y Sĩ)
Lê Duy Nam (con trai Diễn & Yến): “Good Night Bà Nội” (Foutain Valley, Calif., 20/4/2000)
Hương B́nh: “Cây Thánh Giá Trên Tháp Năng Tĩnh”. ĐSKD7, tt. 196-197 (Đà Lạt, 30/4/2005)
Phạm Đăng Khoa (con trai Từ Ngọc Diệp): “Hạnh Ngộ của tôi”. ĐSKD7, tt.198-99 (65/17 Tăng Nhơn Phú, F.LB, Q.9, HCM, 7/2005)
Trương Thiếu Anh (con gái Nguyễn Bá Diệu Hương): “Con chợt mơ ước …”. ĐSKD7, tt.200-201 (Sàig̣n)
Văn Thành Phú: “Chuyến đi băo táp”. ĐSKD7, tt. 218-225 (Washington DC)
Hồ Tá Hiệp: “Viết về Diễn Đàn K7”. ĐSKD7, tt. 226-228 (Kentucky)
Ban Biên Tập: “T́nh bạn và t́nh yêu Khóa 7”. ĐSKD7, tt.229-343 (h́nh ảnh kỷ nệm)
Phi anh (thân phụ Trương Thị Minh Thanh, Calif.): “Khóc Mẹ”. ĐSKD7, t.344
Thái Vân Hùng: “Nguyễn Tấn Hiệp: Các bạn Khóa 7 thân mến”. (tạ thế tại Kiên Giang).ĐSKD7, t.345. Hung Thai thaivanhungk7@yahoo.com)
Nguyễn Thị Bảo Châu (con gái NT Hiệp): “Bài thơ viết cho cha”. ĐSKD7, t. 347 (VN)
Phạm Văn Bân: “Ngô Thị Bạch Yến”. ĐSKD7, t. 348 (tạ thế 11/3/2001, Trảng Bàng, TN)
Nguyễn Minh Tín: “Kỷ niệm với Lê Thanh Phong”. ĐSKD7, tt.349-351 (chết 2003, bệnh Sars)
Nguyễn Thị Nhơn: “Thương tiếc Nguyễn Nghiêm”. ĐSKD7, tt.352-353 (Đà Lạt)
Vơ Quỳnh Mai: “Người bạn hiền lành Nguyễn Nghiêm”. ĐSKD7, tt. 354-355 (Denmark, 12/8/2005)
Website Thụ Nhân - Đà Lạt (Thư Bạn)
Dương Tấn Hải (KD1), Những Con Ma Trên Đà Lạt (Mùa Hè 1965), Marseille, Pháp
Nguyễn Khanh (VK), Ân Sủng Cuối Cùng, Dallas, TX (Thơ, 11/11/2001)
Trần Văn Lương (VK) Cóc Bị Mưa, Nam California (Đầu Mùa Mưa 11/2001)
Trần Văn Lương (VK) Đứt Gánh (Gởi tới Lộc như một lời phân ưu, và tới hương linh Diệu để thay câu đưa tiễn cuối cùng), Nam California, (Thơ, 2/2002)
Tiêu Sa (Nguyễn Khanh), Hăy Đến Bên Nhau ... Dallas, Texas (Thơ, ngày 12/1/2002)
Tác giả nữ ẩn danh (KD8), Trở Về (Thơ)
Vũ Khắc Tâm (KD5), Kỷ Niệm Sinh Viên, Florida
Lương Thiện (KD9), Áo Bà Ba, Bangkok, Thái Lan (Thơ)
Nguyễn Tâm Trực (KD6) Một Lời Chúc Tết (Nhâm Ngọ, 2002-03) Nam California (có nói đến Quỹ Nguyễn Văn Lập)
Nguyễn Hữu Tường (KD8), Dấu Chân Xưa (Thơ nhạc, 29/11/2001)
Hội Ái Hữu Viện Đại Học Đà Lạt, BCH Bắc Cali: Bản Tin Bắc Cali số 2 (tháng 2/2006), Chủ Bút Dacco, KD5: dacco@sbcglobal.net và Son Nguyen SMC, KD5: lt_sonnguyen@yahoo.com tŕnh bày, 12 trang:
Nguyễn Xuân Hoàng SP (Viet Mercury): “Ra Giêng” (tt.4-6)
Vi Khải Đức KD8, Provence, Pháp: “Nồi Thịt Kho” (t.6)
Nguyễn Khắc Ḱnh, KD5, Melbourne, Australia: “Một Thuở … Học Tṛ” (tt.7-11). 31/12/2005
Thụ Nhân 21 Online E-zine
Bùi Anh Thơ K4: Giới thiệu lá thơ Hội Trưởng Thụ Nhân Nam Cali. Cali, 21/9/2000. (Ra mắt Thụ Nhân E-zine số 21 năm 2000).
Bùi Anh Thơ: Góp Quỹ
BĐHQTT/TN: Quỹ Tương Trợ Thụ Nhân
Trần Văn Chang K1: Tường Tŕnh về Quỹ Học Bổng, lập từ 1998.
Lâm Tuyết Nhung K4: Những người muôn năm cũ
Hứa Hữu Phước K6: Chuyện Bên Lề Thụ Nhân 2000. New York tháng 9/2000
Nguyễn Đức Trọng K8: Ngày tháng cũ. Portland, Oregon
Quản Mỹ Lan VK: Bách Niên Chi Kế. (Cô Giáo Trường Làng nghe kể: “… Thiên Niên Chi Kế Mạc Nhi Thụ Động!”)
Nguyễn Đức Quang K1: Sinh viên tốt nghiệp năm sáu bốn. Seattle
Vũ Văn Thượng K3, France: Người lưu vong giống như con điều. (Thu Nhân tổ chức “Mùa Xuân Về với thi ca” tại Paris, ngày 27/5/2000 có cặp nghệ sĩ Nga Mi và Trần Lăng Minh K8 ở Ḥa Lan .BTC có Nguyễn Ngọc Thương, tổng quát, Lưu Văn Dân TB TC, Lê Đ́nh Thông giới thiệu, Vũ Văn Thương in ấn, Lê Thị Hảo lo cư trú, có nhiều thân hữu TN như Vương Văn Bắc, Trần Thanh Hiệp, Trần Văn Ngô, Bạch Yến & Trần Quang Hải, Hoàng Như Sơn. Nguyễn Thị Hồng,… Bữa ăn 3/6/2000 do Lê thị Hăo đăi 40 người tham dự)
VVT, France: Tin đặc biệt Thụ Nhân Paris. (ĐS TN Paris 2001 do Ái Hữu Thu Nhan ở Âu châu ra mắt tháng 5/2001. Đây là Đặc San Thụ Nhân Âu Châu thứ hai)
Dương Tấn Hải K1, France: Linh tinh
Trần Văn Nho K4 & Trần Kim Hồng K6, Norway: Vài cảm tưởng sau chuyến Mỹ du Hè năm 2000. Bergen, Norway, 7/8/20000. (Ngày 23/7/2000, tác giả từ Hawaii đến sân bay Dulles, thăm bạn Huỳnh Trang Tỉnh K4, hiện là mục sư giáo đường St Patrick ở Virginia).
Loan Duyên: Thư Quốc nội của K9, Sàig̣n, (cùng lớp với Bảo Bườn, tốt nghiệp 1975, làm giám đốc một xí nghiệp nông nghiệp ở Cần Thơ,,.. bị tác nghẽn động mạch ch, đi cà nhắc).
Châu Văn Chính K1: Một đời người. (Liên lạc với Tường qua: Nguyễn Đức Quang 11711 SE 166th Pl. Renton , WA . 98058 Phone # 425-227-4822)
Trần Văn Chang K1: Candlestick Chart của người Nhật
Phạm Văn Bân K7: Vát than năng thở than – Vác than nặng, thở than
Website webmaster@dalatunifoundation.org
Jean Marie Roger Kozik (Fraternite Notre Dame, Chicago, Illinois): Apostolic Succession of the Bishops of Fraternite Notre Dame. Bishop Ngo Dinh Thuc.
Griff Ruby: “Chapter 8: The Bishops of Pierre Martin Ngo Dinh Thuc” in Grif Ruby: The Resurrection of The Roman Catholic Church. A guide to the Traditional Roman Catholic Movement. All rights reserved by the Author @ 1998, 1999, 2002, 2004. www.the-pope.com/church08.html
Ban Điều Hành Hội Ái Hữu Thụ Nhân Viện Đại Học ĐàLạt Nam California: Đặc San Sư Huynh Théophane Nguyễn Văn Kế (ĐSSHKế). “Frère Kế, Thụ Nhân và một đời hiến dâng cho giáo dục.” San José, California, USA (12/2003), 183 t., pdf., in font 12
Chủ Biên Phạm Văn Bân Lời Nói Đầu. ĐSSHKế (12/2003), t.2
Théophane Nguyễn Văn Kế: Old Age, San Jose, 17/10/2003, ĐSSHKế (12/2003), t. 98
Tiểu sử Frère Théophane Kế, ĐSSHKế (12/2003), t. 99-101
Biography Summary, ĐSSHKế (12/2003), t. 102-103
Ban Đại Diện Thụ Nhân tại Việt Nam (Phạm Văn Bân tổ hợp): Tiểu Sử Sư Huynh Nguyễn Văn Kế, ĐSSHKế (12/2003), t. 102-103
Bản đồ Tuyên Quang, ĐSSHKế (12/2003), t. 104
Hàn Trọng, ĐSSHKế (12/2003), t. 105
Ngô Đ́nh Long: Bài nói Thánh Lễ Cầu hồn và tưởng niệm Frère Nguyễn Văn Kế, ngày 15/11/2003 tại nhà ḍng St Patrick, ĐSSHKế (12/2003), t. 106
Kenneth Cardwell, FSC: Eulogy for Frère Théophane Kế at St Mary’s College, 16/11/2003, Việt-Anh, (Bài nói tôn vinh Frère Kế tại St Mary’s College do Đồng Lương Nhơn dịch, và Phạm Văn Bân hiệu đính) ĐSSHKế (12/2003), t. 107-111
Tạ Duy Phong phỏng vấn SH T. Kế ngày 10-14/10/1994 tại St Mary’s College California, PO Box 5150, Maraga, CA 94575: Sự Việc Đă Qua, Những ǵ đă qua ĐSSHKế (12/2003), t. 148-155
Nhớ lại cảnh cũ người xưa: Đại Học Đà Lạt, ĐSSHKế (12/2003), t. 156-158
Tâm T́nh Frère Kế: Đắc Nhân Tâm Đó là đặc tính của cha Nguyễn Văn Lập, Viện Trưởng VĐH Đà Lạt, ĐSSHKế (12/2003), t. 159-161
Linh Mục, Mến tặng LM Nguyễn Văn Lập, ĐSSHKế (12/2003), t. 162
Mến tặng Đức Ông Simon Nguyễn Văn Lập, ĐSSHKế (12/2003), t. 162
Một câu chuyện t́nh. (Frère Kế thi hóa câu truyện thời ấu thơ với cha Lê Văn Lư), ĐSSHKế (12/2003), t. 163-165
Johnny Kieu MBA, Theo Ánh Sao Mai, ĐSSHKế (12/2003), t. 170-174
Phạm Văn Bân: Kinh nghiệm nuôi thỏ với Frère Kế, ĐSSHKế (12/2003), t. 179-180 8/2002, Cali
Mục lục, Frère Kế, Thụ Nhân và một đời hiến dâng cho giáo dục ĐSSHKế (12/2003), t. 183
Tài liệu do Tạ Duy Phong kê khai
[The U.S.Library Of Congress: Vi Phim (Microfilms) Công Báo Việt Nam Cộng Ḥa & Quy Pháp Vựng Tập (Phủ Tổng Thống VNCH). Washington, DC, Foreign Law Section, Asian Division (10th First Street, Southeast, Washington DC 20540)
Université De La Sorbonne: Documentation “SODIP“, Service Orientation Documentation Insertion Professionelle, (90 Rue Tolbiac, Paris 75013, France.)
Henry Warner Bowden & Edwins Ganstad: Dictionary of American Religious Biography. Advisory Editor, Greenwood Press Inc, số trang?.
John A. Garraly & Jerome L. Sternstein: Encyclopedia of American Biography.Nơi?, Harper & Row, Publisher, số trang?.
Robert J. Gannon: The Cardinal Spellman Story. NY, 1962, số trang?
Nguyễn Vũ Tuấn Linh: Tài Liệu “30 Năm Thành Lập Hàng Giáo Phẩm Việt Nam”. Nơi ?, 1993, số trang?.
Kỷ Yếu 10 Năm (1958-1968) Viện Đại Học Dalat. Đà Lạt, 196?, số trang?
Ban Tu Thư Viện Đại Học Dalat: Chỉ Nam Sinh Viên. Đà Lạt, 197?, số trang]
[Thụ Nhân Âu Châu, Viện Đại Học Đà Lạt: Ngày Xưa Hội Hữu. Đặc San 2008. Paris, 392 trang, 16x25cm]
Vũ Sinh Hiên, Cao Học Chính Trị, Viện Đại Học Đà Lạt (1972-1974): Câu Chuyện Cuối Đời (tt.14-38). Thụ Nhân Ngày Xưa Hội Hữu. Thụ Nhân Âu Châu, 2008, 392 trang, 15x22cm.
Đỗ Hữu Nghiêm: Vài Hàng Thân Thế Linh mục Lê Văn Lư. Ngày Xưa Hội Hữu, Đặc San Âu Châu 2008, tt.39-58.
Trần Văn Lương: Cái Nốt Ruồi. Ngày Xưa Hội Hữu, Đặc San Âu Châu 2008, tt.61-68
Huy Văn: Một Mùa Trọ Học. Ngày Xưa Hội Hữu, Đặc San Âu Châu 2008, tt.69-80.
Vương Văn Bắc: Một Thời Rất Xưa. Ngày Xưa Hội Hữu, Đặc San Âu Châu 2008, tt. 81- 86.
Nguyễn Anh Điện, K 10: Hoa và Nhạc, Kư Ức Của Mùa Xuân. Ngày Xưa Hội Hữu, Đặc San Âu Châu 2008, tt. 111-117.
Vũ Quốc Thúc: Đôi Gịng Hồi Kư. Ngày Xưa Hội Hữu, Đặc San Âu Châu 2008, tt. 119-126.
Nguyễn Khắc Dương: Ông Thầy Tài Tử. Ngày Xưa Hội Hữu, Đặc San Âu Châu 2008, tt.127-130.
Nguyễn Minh Kính: Nhớ Về Viện Cũ Năm Xưa. Ngày Xưa Hội Hữu, Đặc San Âu Châu 2008, tt.131-133
Thái Nguyên: Sao Vàng Băng Đỏ. Ngày Xưa Hội Hữu, Đặc San Âu Châu 2008, tt. 135-137.
Linh Đắc: Giọt Nắng Cuối Ngày. Ngày Xưa Hội Hữu, Đặc San Âu Châu 2008, tt. 139-142.
Nguyễn Đức Trọng, “Những Cao Thủ Đại Học Đà Lạt” (55KD + 5VK + 1SPVK + 2KH = 63). Ngày Xưa Hội Hữu, Đặc San Âu Châu 2008, tt. 143-155
Mai Thái Lĩnh (Hoàng Thái Linh): Kỷ Niệm Về Viện Đại Học Đà Lạt. Nhóm Đà Lạt. Ngày Xưa Hội Hữu, Đặc San Âu Châu 2008, tt. 157-161.
Lê Bá Dũng: Con Vích. Ngày Xưa Hội Hữu, Đặc San Âu Châu 2008, tt. 191-194.
Ác Thiện: Trong Câu Thơ Cũ. Ngày Xưa Hội Hữu, Đặc San Âu Châu 2008, tt. 195-199.
Phan Văn Song: Bài Học Thày. Ngày Xưa Hội Hữu, Đặc San Âu Châu 2008, tt. 201-206.
Tôn Thất Diên: Cái Duyên Với Đà Lạt. Ngày Xưa Hội Hữu, Đặc San Âu Châu 2008, tt. 207-210.
Lê Đ́nh Thông, Thạch Lai Kim, Quản Mỹ Lan: Pháp Luân. Ngày Xưa Hội Hữu, Đặc San Âu Châu 2008, tt. 211-220.
Thạch Lai Kim, Lê Đ́nh Thông: Hoàng Hạc Lâu. Ngày Xưa Hội Hữu, Đặc San Âu Châu 2008, tt. 221-227.
Phạm Văn Bân: “Từ Thụ Nhân Đến Trị Quốc”. Ngày Xưa Hội Hữu, Đặc San Âu Châu 2008, tt. 271-280.
Phạm Văn Lưu: “Đại Học Đà Lạt Trong Sương Mù Kỷ Niệm” Ngày Xưa Hội Hữu, Đặc San Âu Châu 2008, tt. 281-312.
Tôn Thất Thiện: “Vài Ư Kiến Về Vấn Đề Xây Dựng Đại Học Việt Nam.” Ngày Xưa Hội Hữu, Đặc San Âu Châu 2008, tt. 313-216.
Nhiều Tác Giả: Thụ Nhân Đó Đây. Ngày Xưa Hội Hữu, Đặc San Âu Châu 2008, tt. 353-390.
Một Số Tư Liệu Khác:
Lê Cung: Chính sách của chính quyền Ngô Đ́nh Diệm đối với Phật giáo Miền Nam trên lănh vực kinh tế – xă hội và văn hoá – giáo dục. Phần II: Về văn hóa – giáo dục” (http://www.giaodiem.com/doithoai/lecung_diem-vhgd.htm)
Filipe Gomez: Lịch Sử Tóm Tắt Giáo Hoàng Học Viện Thánh Piô X Đà Lạt. Website www.dunglac.org
Đỗ Tấn Hưng: Những Nẻo Đường Việt Nam Chương 30: Giáo Sư Nguyễn Khắc Dương. Website www.dunglac.org
Phó Bá Long: On The LONG Way Home. Part II. Autobiography. June 10, 2004, copyright by the author, Virginia, United States of America, 122 pages, in 20x22cm
Đỗ Hữu Nghiêm: Một Nghiên Cứu Về Học Viện Giáo Hoàng Thánh Piô X Đà Lạt. Oakland, CA, Tư Liệu Chưa Xuất Bản, Bản Vi Tính, 133 trang, font Unicode 16.
Đỗ Hữu Nghiêm: Linh mục Roger Deslierres: Hồi Ức Một Số Sự Kiện Lịch Sử Chung Quanh Giáo Hoàng Học Viện Thánh Piô X Đà Lạt (1958-1975). Website www.dunglac.org
[Nguyên tác tiếng Pháp: http://www.jesuites.org/repertoire/PaulDeslierres/index11.htm ]
Giáo Hoàng Học Viện Thánh Piô X Đà Lạt, Việt Nam: http://ghhv.quetroi.net/75ghhv.html
Hoà Giang Đỗ Hữu Nghiêm: Về Giáo Hoàng Học Viện Piô X Đà Lạt: Lá thư ĐGH Phaolô VI gửi các Giám mục VN. www.dunglac.org
Người viết: Hoà Giang Đỗ Hữu Nghiêm
Dayton, OH, ngày 2/5/2006.3 -13/5/2006.7–18/5/2006.5-
June 4/2006. Pentecostal Sunday
Final, 10.55PM June 7/2006.4. ĐHN
Oakalnd, CA, bổ sung (các chữ đỏ là những chỗ bổ sung thêm) ngày 3/2/2008.CN (ngày 27 tháng Chạp năm Đinh Hơi, giáp Tết Mậu Tư 2008, đến ngày 1 tháng Giêng Âm lịch Tết Mậu Tư , tức ngày 7/2/2008 Dương lịch)
[1] Không thấy Linh mục Nguyễn Văn Lập nói về chức vụ này. kể cả trong những tâm sự sau c ùng của ngài với Nhóm cựu sinh viên Vũ Sinh Hiên. Cơ cấu ban đầu chắc chưa hoàn chỉnh như sau này, nên chính Viện Trưởng là Chưởng Ấn Viện Đại Học Đà Lạt, Giám Mục Ngô Đ́nh Thục, Niên Trưởng Hội Đồng Giám Mục Việt Nam
[2] GM Ngô Đ́nh Thục, Chưởng Ấn Viện Đại Học Đà Lạt: Huấn dụ nhân lễ tốt nghiệp Khóa I Sinh Viên Phân Khoa Sư Phạm ngày 29/3/1961. Dalat University. Saigon, Printed by Dong Nam A, 1961, 44 pages in 27x32cm. p.2-3
[3] Dalat University, đd., t. 3
[4] Report, by the Chancellor of the Dalat University on the activities of Dalat University, to the Department of National Education (Thư trả lời của Bộ Trưởng Giáo Dục số 2779-GD/CVP ngày 15/7/1961 xác nhận đă nhận được bản tường tŕnh từ GM Chưởng Ấn). Dalat University, đd., 1961, tt.21-34
[5] Thế Tâm Nguyễn Khắc Dương: Quia Respexit Humilatem Meam. Hồi Kư. Đà Lạt, Một Nhóm cựu sinh viên Đà Lạt ấn hành (lưu hành nội bộ), 248t, 14x25cm, vi tinh font 12, tt. 173-174.
(Tác giả sinh 24/9/1925 tại Vinh, nguyên quán Thịnh Xá, Hương Sơn, Hà Tĩnh, học Thiên Hựu, Khải Định Huế (1938-1945). Đậu Tú Tài II năm 1946, dậy học ở Trường Đậu Quang Lĩnh (Nghĩa Yên), rồi Hương Sơn. Gia nhập Công giáo, rửa tội ngày 8/9/1949, tại Nghĩa Yên sau một tuần cấm pḥng trong Tu Viện Phanxicô Vinh. Dự tu Ḍng Phanxicô Vinh, dậy Việt Văn cho chủng sinh lớp 6,7,8 (1949-50). Khấn ḍng 1950. Học thần học tại Viện Triết Thần Phanxicô Nha Trang trăn trở về ơn gọi Cát Minh, nhưng ờ Viét Nam chưa có Cát Minh Nam. Tháng 4/1954, bị động viên theo lệnh động viên của Thủ Tướng Nguyễn Văn Tâm. Sau 6 tháng huấn luyện ở quân trường sĩ quan Thủ Đức, lên quân đoàn II (1954-56).
Được tu viên Phanxicô cho tu học tại Paris (1956-57). Ra khỏi Ḍng Phanxicô, học tại Sorbonne 1957-1960. Tốt nghiệp Cử Nhân Triết Học. Thử tu tại Ḍng Biển Đức ở Pháp, Bỉ, Thụy Sĩ (1961-63). Dậy học ở nhiều trường trung học Công giáo vùng Paris (1963-65). Về Sàig̣n, VN (1965). Lên dậy triết học tại Trường Văn Khoa Viện Đại Học Đà Lạt (1966-1975). Nói về GS NKD, Sư Huynh Théophane có nhận xét: “Thầy NKD cũng là người tôi quen lâu năm trong Viện. Bây giờ tôi vẫn c̣n nhớ con người của nhà giáo Triết lư cùng ḿnh ấy. H́nh như luôn luôn sống trên mây mù th́ phải. Ngày ngày ra đứng trên hè chợ Hoà B́nh trông đợi ai chẳng biết, xin nhớ là ông Dương triết ấy chắng vợ cũng chẳng con cái chi cả. Có cậu sinh viên hụt tiền cơm ra gặp Bố Dương và cùng nhau đi ăn phở cho ấm bụng.” (Tạ Duy Phong phỏng vấn SH Th. Kế ngày 10-14/10/1994 tại St Mary’s College California, PO Box 5150, Moraga, CA 94575: Sự Việc Đă Qua, Những ǵ đă qua. Đặc San Frère Kế, California 12/2003, t.148-155)
Vào trại cải tạo tại Phan Thiết (1975-76). Từ năm l975-l986, ông đổi nơi cư trú trên 10 lần, mà đến nay cũng không nhà, không cửa, không tài sản, không vị trí ǵ, cả trong Giáo hội cũng như trong gia đ́nh và ngoài xă hội (Thế Tâm, Quia… đă dẫn, t.141). Cư trú tại Đà lạt, về Hà Nội, tạm trú tại GX B́nh Triệu Fatima Thủ Đức với LM Nguyễn Văn Lập. Khi LM Nguyễn Văn Lập qua đời, trờ về sống chung với gia đ́nh Nguyễn Khắc Phê ở Huế.)
[6] Thế Tâm Nguyễn Khắc Dương: Sđd, tt.174-175.
[7] Thế Tâm Nguyễn Khắc Dương, Sđd., t.184.
[8] Toàn bộ bản dịch tiếng Anh theo Nguyên Văn trong Dalat University, đd., t.42
[9] Toàn bộ bản dịch tiếng Anh theo Nguyên Văn trong Dalat University, đd., t.43
[10] Chỉ Nam Sinh Viên niên khóa 1973-74, đd, t.8
[11] Dalat University, đd., t. 29-30
[12] Niên Giám Giáo Hội Công Giáo Việt Nam. Hà nội, NXB Tôn giáo, 2005, 965t., 15x21cm. đóng b́a cứng. Theo kư ức của Sư Huynh Théophane Nguyễn Văn Kế th́ VĐHĐL được thành lập từ 1956. Nhớ lại cảnh cũ người xưa: Đại Học Đà Lạt. Đặc San Frère Kế, California 12/2003, t. 156-158 trong Ban Điều Hành Hội Ái Hữu Thụ Nhân Viện Đại Học ĐàLạt Nam California: Đặc San Sư Huynh Théophane Nguyễn Văn Kế (ĐSSHKế). “Frère Kế, Thụ Nhân và một đời hiến dâng cho giáo dục.” Southern California, USA (12/2003), 183 t., pdf., in font 12, t. 156
Theo diễn văn của Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm đọc ngày 7 tháng 10 năm 1957, trước phiên họp Quốc Hội Việt Nam Cộng Ḥa tháng 10 năm 1957, có câu: “Authorization has been granted for the creation of a private University in Dalat. Đă thuận cấp phép thành lập một Viện Đại Học tư tại Đà Lạt”.
Tài liệu thứ hai là bài tóm tắt về tiểu sử của GM Ngô Đ́nh Thục của Jean Marie Roger Kozik, (được GM Ngô Đ́nh Thục truyền chức GM sái phép năm 1978), sáng lập hội Fraternité Notre Dame ở Chicago, Hoa Kỳ ghi rơ: “Mở và chuẩn bị ban đầu cho Viện Đại Học Đà Lạt do Giám Mục Ngô Đ́nh Thục thành lập, 1957; được thăng Tổng Giám Mục đầu tiên của Gp Huế, do Giám Mục Brini xướng lập và được bổ nhiệm làm Khâm Sứ Ṭa Thánh tại Đông Dương năm 1959”. Như vậy năm thành lập VĐHĐL chắc chắn là năm 1957.
Tài liệu của Griff Ruby nói GM Ngô Đ́nh Thục cũng lập VĐHĐL. “Viện này trên thực tế đă được thành lập từ chỗ đổ nát, nhưng khi một trong những anh em của GM NĐT đă lên nắm quyền, th́ ông cho GM Thục được quyền khai thác một khu rừng để thu lợi gây quỹ cần thiết.”
GS Trần Long đă viết căn cứ theo tài liệu của Viện, nhưng không kể rơ văn kiện nào: "Tháng 8, 1957 Hội Đồng Giám Mục Công Giáo Việt Nam thành lập VDHDL tọa lạc ngay trung tâm văn hóa của thành phố du lịch Đà Lạt. Cố Đức Ông Simon Nguyễn Văn Lập, Viện Trưởng VDHDL từ năm 1961 đến 1970, chọn từ ngữ Thụ Nhân làm phương châm cho Viện để thể hiện quan điểm thăng hoa con người qua thành quả giáo dục." [“Tổng quát về Viện, Trường, Khóa 7 CTKD” trong Đặc san Khóa 7/CTKD (12/2005), t.9]
Nhưng ngày 16 tháng 01năm 1969, Đức Phaolô VI có gửi một lá thư chúc mừng cho LM Viện Trưởng Nguyễn Văn Lập và toàn thể Viện Đại Học nhân lễ tổ chức kỷ niệm 10 năm thành lập Viện Đại Học Đà Lạt (1959-1969). Như vậy có thể giải thích là năm 1956 đă có cuộc vận động thành lập VĐHĐL, nhưng năm 1957 mới có giấy phép mở VĐHĐL, thực sự từ năm 1958 đă bắt đầu và năm 1959 hoạt động chính thức. V́ thế LM Viện Trưởng mới làm Kỷ niệm 10 năm (1959-1969) vào năm 1969.
[13] Theo GS Nguyễn Khắc Dương, Viện Đại Học Đà Lạt được thành lập năm 1959 dưới thời Chính Phủ Ngô Đ́nh Diệm, do Giám Mục Phêrô Martinô Ngô Đ́nh Thục sáng lập. Năm 1966, lên VĐHĐL ông vẫn thấy ba năm sau khi chế độ Ngô Đ́nh Diệm bị lật đổ, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam c̣n gặp nhiều khó khăn về Viện này. (Thế Tâm Nguyễn Khắc Dương: Sđd, t.156.)
[14] Dalat University, đd., t. 30
[15] Đỗ Hữu Nghiêm: Phỏng vấn ông Đinh Văn Bài tại Norfolk, Virginia Beach, ngày 25 tháng 5, 2004
[16] Có lẽ thực tế là LM Nguyễn Văn Thạnh, phụ trách trông coi nhiều tài sản thuộc giáo phận Sàig̣n. Phải chăng sở dĩ có điều chưa được rơ rệt trong giai đoạn này, v́ sự phân phối quyển quản nhiệm một số tài sản của giáo hội giữa địa phận Sàig̣n và Viện Đại Học Đà Lạt chưa ổn định xong khi đó? Lời tâm sự về sau của LM Đức Ông Nguyễn Văn Lập xác nhận dư luận này
[17] Nhà nghiên cứu Lê Cung trong bài viết: “Chính sách của chính quyền Ngô Đ́nh Diệm đối với Phật giáo Miền Nam trên lănh vực kinh tế – xă hội và văn hoá – giáo dục. Phần II: Về văn hóa – giáo dục” ( http://www.giaodiem.com/doithoai/lecung_diem-vhgd.htm ) đưa ra một số chứng liệu hành chính pháp lư sau đây cho thấy việc chính phủ Ngô Đ́nh Diệm tài trợ cho Hội Đại Học Đà Lat thời đó đă gây ra những phản ứng nhất định của thành phần Phật Giáo trong nước. Trong tinh thần đối thoại chân thành và tôn trọng sự thật lịch sử chúng tôi nêu ra một số sự kiện có thể có, nếu các tư liệu này hoàn toàn khác quan. Nhưng v́ những sự kiện nêu ra trùng hợp với thời gian bàn đầu của VDHDL, nên có nhiều phần chắc những tư liệu mà tác giả trưng dẫn là có cơ sở.
[18] Công văn số 415-TTP-ĐM/M ngày 4-12-1957 của Đổng lư Văn pḥng Phủ Tổng thống kính gởi ông Bộ trưởng bộ Tài chính. TTLTQG II. Kư hiệi tài liệu SC.03-HS.23993
[19] Công văn số 1392/BKTĐT/KOC ngày 31-7-1958 của Bộ trưởng bộ Kiến thiết đô thị kính gời Tổng thống VNCH. TTLTQG II. Tài liệu số SC.03-HS.23993.
[20] Nghị định số 281-KT/TKĐT ngày 13-8-1958 của Tổng Thống - VNCH cho phép Quốc gia kiến ốc cục ứng trước cho trường Đại học Đà Lạt một khoản tiền 5.000.000.$00 để xây cất Viện đại học này. TTLTQG II. Tài liệu số SC.13-HS.23.773.
[21] Công văn số 33.275B/19.057-TTP/NSNV/CT/3B ngày 12-8-1958 của Tổng Giám đốc ngân sách và Ngoại viện kính gởi ông Tổng Thư kư Phủ Tổng thống. TTLTQG II. Tài liệu số SC.13.HS.23.993.
[22] “South Vietnam: The mandarin of Hue”, copy from Newsweek, May 27, 1963. TTLTQG II. Tài liệu số TM-HS.209, tr.1-3.
Theo luận đoán của người viết, nếu tôn trọng sự thật khách quan, th́ dường như chế độ đương thời có phần lầm lỗi, v́ không tôn trọng các tiêu chuẩn công và tư trong việc tài trợ, nhưng vào thời điểm này, có thể Giáo Hội Phật Giáo chưa qui tụ - chứ không phải là không có - nhân vật lực đủ để có thể được chính quyền đương thời tài trợ cho các cơ sở Phật Giáo theo yêu cầu như tổ chức Công giáo. (?)
[23] Tài liệu Dalat University liệt kê những khoản tiền của Hội Việt Nam Viện Trợ Giáo Dục Cao Đẳng để xây dựng các hạng mục trong Viện Đại Học Đà Lạt từ 1958-1961. Sau giai đoạn này, th́ không thấy nói đến Hội này nữa.
[24] Qui Chế (Statutes) này được làm tại Sàig̣n ngày 20/6/1957, do các Giám Mục kư tên sau đây: Ngô Đ́nh Thục, Lê Hữu Từ, Phạm Ngọc Chi, Phaul Seitz (Kim), Marcel Piquet (Lợi), Nguyễn Văn Hiền, J.B. Urrutia (Thi), Trương Cao Đại và Nguyễn Văn B́nh. Qui chế này đính kèm Nghị Định số 67/BNV/NA/P5 ngày 8/8/1957 có chữ kư Bộ Trưởng Nội Vụ Nguyễn Hữu Châu xác nhận đính kèm cùng ngày, vào sổ pḥng 4 Sàig̣n, quyển 375, tờ 32, số 196, lệ phí 24 VN$. Bản Dịch tiếng Anh theo y Bản Chính ngày 4/7/1961 do Thông dịch viên hữu thệ với chữ kư của Trần Văn Thoan, Sollicitor General cùng ngày tháng năm.
Qui chế HĐHĐL gồm có 5 chương. I. Mục đích (điều 1,2,3) Ch.II Hội Viên (đ. 4,5) Ch.III Hội Đồng Quản Trị (đ. 6, 7,8, 9,10). Ch.IV Đại Hội Đồng (đ. 11,12,13,14, 15, 16. 17). Ch. V Giải tán (đ. 18). Dalat University, đd., tt. 35-41
[25] Dalat University, đd., t. 32
[26] Chỉ Nam Sinh Viên 1973-74 đd., t. 18
[27] Hiện nay hữu dưỡng tại nhà riêng của ngài trên khu nhà đất ở bên trái xa lộ Điện Biên Phủ, nếu đi từ Sài g̣n đi ra ngoại thành ở phía Bắc.
[28] Trần Long: Hồi Kư đă dẫn trên
[29] PVLưu, Sđd. t 283
[30] PVLưu, Sđd. t 302,
[31] Tham khảo Vũ Sinh Hiên, Sđd., Đặc San Ấu châu 2008, đdt., t. 33-34
[32] Dường như với tính cách Phụ Tá Hành Chính cho Viện Trưởng khi trước, và vừa với tính cách người làm việc gần gũi tin cậy của ngài
.
[33] Dalat University, đd., t. 26
[34] Tham khảo Chỉ Nam Sinh Viên 1973-74, đd., t. 16
[35] Tham khảo Vũ Sinh Hiên, sđd, t 23
[36] Nhưng khi người viết đến thăm khu C, th́ nhiều biệt thự và đất đai đă được dân cư từ nhiều nơi đến chiếm ngụ từ khoảng trước năm 1973 về sau.
[37] Nguyễn Thị Xuân Phương: “Hồn Thu Thảo”. ĐSKD7, tt.126-128.
[38] Trịnh Thị Hải: “Nhật Kư”. ĐSKD7, tt.132-135.
[39] Phạm Ngọc Vy: “Thời Tuổi Trẻ Không Thể Nào Quên (Tự Sự)”. ĐSKD7, tt.81-83.
[40] VSHiên, sđd. t. 32:
[41] Cậu Ngô Đ́nh Thục sinh ngày 6/10/1897 tại Phủ Cam, Huế, du học tại Trường Truyền giáo Rôma năm 1921 Ông Ngô Đ́nh Khả có 9 người con: Con cả là Ngô Đ́nh Khôi (1885?-1945). Con thứ hai là Ngô Đ́nh Thục(1897-1984), du học Roma (1919-1927): Tiến sĩ Triết học (1922), thụ phong Linh mục ngày 20/12/1925, Tiến sĩ Thần học (1926), Tiến sĩ Giáo luật (1927). Qua Pháp học Đại Học Công Giáo Paris: Cử nhân Triết học (1929). Con thứ ba là Ngô Đ́nh Diệm, (1901-1963), Tổng Thống VNCH (1957-1963) Con thứ tư là Ngô Đ́nh Nhu (1910- 1963). Con thứ năm là Ngô Đ́nh Cẩn (1912- 1964). Con út là Ngô Đ́nh Luyện (1914-1990) . Ba con gái là Ngô Thị Giáo, chết 1944; Ngô thị Hoàng, thường gọi là bà Cả Lễ, v́ lập gia đ́nh với ông Nguyễn Văn Lễ; Ngô Thị Hiệp, lập gia đ́nh với ông Nguyễn Văn Ấm, thân sinh của HY TGM FX Nguyễn Văn Thuận, làm Bộ Trưởng Bộ Công Lư và Ḥa B́nh tại TT Vatican trước khi tạ thế ngày 16/9/2002, tại Rôma.
Ngài được chọn làm GM hiệu ṭa Sesina, quản trị địa phận Vĩnh Long với tư cách GM Đại diện Tông Ṭa từ 1938 đến 1960, thụ phong ngày 4/5/1938 tại Nhà thờ chính ṭa Huế do Khâm Sứ Ṭa Thánh ở Đông Dương là GM Antonio Drapier, OP. Với tính cách thành viên HĐGMVN, rồi sau đó với tính cách Chưởng Ấn, ngài tích cực chuẩn bị xây dựng Viện Đại Học từ 1956 đến 1959. Nhân dịp Hàng Giáo Phẩm Việt Nam được thành lập chính thức ngày 24/11/1960, ngài được thăng TGM GP Huế được GM Mario Brini Khâm sứ Ṭa Thánh lập. TGM Phêrô được mời tham dự Công Đồng Vatican II năm 1963.
Khi xảy ra chính biến ngày 1-2/11/1963, th́ ngài ở lại ngoại quốc. Sau đó ngài được chỉ định làm Bộ Trưởng Thánh Bộ Giáo Hội Đông Phương, rồi Tổng Giám Mục hiệu ṭa Bulla Regia (1968), Phụ tá Ngai Giáo Hoàng.
Một hành động đáng tiếc là ngài tự ư phong chức sái phép Jean Marie Roger Kozik và Emmanuel Marie Michel Fernandez năm 1978 làm GM, do một Sắc lệnh mà sau này ngài nh́n nhận là giả mạo mang tên một Motu Proprio “Giám Mục Ngô Đ́nh Thục được Đức Piô XI ban cho Quyền hành giáo hoàng như tấn phong giám mục mà không cần thông báo và được chấp thuận trước của Giáo Hoàng đương nhiệm “.
Sau khi thống hối v́ nhiều sai lầm cuối đời như truyền chức giám mục không được phép như thế, ngài về hưu tại Ḍng Đồng Công ngày 28/4/1984. Ngài qua đời trong niềm hiệp thông hoàn toàn với giáo hội Công giáo, ở Nhà Hưu Đồng Công, tại Carthage, MO, ngày 12/12/1984, nhưng Niên Giám CGVN năm 2004 lại ghi ngày RIP của ngài là 13/12/84 (NGCG 2004, t. 276, Thứ tự 3 trong danh sách GM) (Tư liệu Kozik: Bishop Pierre Martin Ngo Dinh Thuc, Website. Xem thêm: Griff Ruby: “Chapter 8: The Bishops of Pierre Martin Ngo Dinh Thuc” in Griff Ruby: The Resurrection of The Roman Catholic Church. A guide to the Traditional Roman Catholic Movement. All rights reserved by the Author @ 1998, 1999, 2002, 2004. www.the-pope.com/church08.html). Bảng thông báo c̣n ghi ở Nhà Hưu Ḍng Ḍng Công ở Carthage, MO ghi ngày RIP là 12/12/84
[42] http://en.wikipedia.org/wiki/Chancellor_(education) cho biết hệ thống Chưởng Ấn trong cac trường đại học, kể cả trong giáo dục Công giáo lẫn ngoài xă hội, rất khác nhau theo danh xưng cũng như chức vu tùy mỗi quốc gia, tùy giai đoạn lịch sử. Chẳng hạn trong Trường Đại Học Công Giáo Mỹ, người cầm đầu là một President (Viện Trưởng) và Tổng Giám Mục Washington làm Chưởng Ấn. Vị Tổng Giám Mục và Chưởng Ấn hiện nay là Hồng Y Theodore McCarrick. Ngài là đại diện cho Trường Đại Học trước Ṭa Thánh.
[43] Người viết đặt vấn đề là khi TGM Ngô Đ́nh Thục đi trước biến cố ngày 1-2/11/1963, th́ phải chăng có thể có một sự sắp đặt trước của một người nào đó của nhóm đảo chánh, gián tiếp hay trực tiếp? Vấn đề đó thực ra rất phức tạp để trả lời.
Những tư liệu vừa giải mật của Bộ Ngoại giao Mỹ, cụ thể là FRUS vol. IV, thuật lại thái độ của Mỹ đối với TGM Thục trong giai đoạn này.
Chẳng hạn,
Phạm Tưởng: Ḍng Họ Ngô Đ́nh: Nhân vật chí (tiếp theo). Nhân vật chống cộng số 4: Ngô Đ́nh Thục (1897-1984) http://nguoidan.com/nd155/nhanva.htm
Hữu Nghi: Phóng sự và Hồ Sơ: Mỹ Diệm và Cuộc đảo chánh Diệm Nhu: TGM Ngô Đ́nh Thục
Điện tín của ṭa đại
sứ tại VN gửi Bộ Ngoại giao:
Sài G̣n, ngày 31-8-1963,
6 giờ tối.
...4- Bà Nhu cần rời khỏi đất nước này. Nên giới hạn chức trách của Nhu trong chương tŕnh ấp chiến lược. Tổng giám mục Thục cần ra khỏi đất nước”.
Qua đề xuất của đại sứ Lodge, đứng đầu danh sách “ưu tiên mời ra khỏi VN” là bà Nhu và tổng giám mục Thục. Hơn nửa ngày sau (tính theo khoảng cách múi giờ), đă có điện trả lời từ Washington cho đại sứ Lodge:
Điện tín của Bộ
Ngoại giao gửi ṭa đại sứ tại VN.
Washington, ngày 31-8-1963, 10 giờ 48 phút tối.
...Đại sứ có
nghĩ rằng việc chúng ta ra sức yêu cầu Vatican gọi tổng giám mục Thục
qua La Mă để tham khảo lâu dài là hữu ích?”...
Câu trả lời khá rơ ràng: không chỉ mời Thục ra khỏi nước, mà là c̣n chỉ định nơi đến cho Thục: La Mă, bằng một lệnh tŕnh diện của Vatican. Tại sao lại phải tống khứ Thục ra khỏi quê hương của ḿnh? Bức điện sau đây sẽ cho thấy rơ lư do:
Điện tín của Bộ
Ngoại giao Mỹ ngày 8-6-1963 gửi ṭa đại sứ Mỹ tại Sài G̣n:
“Đề nghị
xem xét các đề xuất sau:
2- Đích thân đại sứ hoặc khâm sứ Ṭa thánh Vatican tại VN khuyến cáo
Chính phủ VN tránh cử hành lễ tưởng niệm chính thức Giáo hoàng John
XXIII (vừa qua đời hôm 3-6-1963)
3- Cần khuyến cáo Chính phủ VN tạm thời hăy bớt công khai tuyên
truyền cho thuyết nhân vị để tránh việc dân chúng đồng hóa thuyết nhân
vị với Công giáo”...”.
Điện văn trên cho thấy nỗi lo sốt vó của Mỹ trước những hậu quả nơi cuộc chiến tranh chống cộng của Mỹ tại VN. Mỹ sợ rằng Diệm - Nhu sẽ lại phạm thêm sai lầm sau khi đă biến lễ Phật Đản ngày 8-5-1963 trước đó thành một thảm kịch đẫm máu bởi lệnh cấm treo cờ Phật giáo ở nơi công cộng theo ư của Thục, lúc đó là tổng giám mục Huế. Làm sao lại cấm treo cờ Phật giáo trong khi đă từng cho treo cờ Ṭa thánh Vatican ở nhiều nơi công cộng?
[Chủ Nhật, 14/09/2003, 15:57 (GMT+7) Mỹ - Diệm & cuộc đảo chính Diệm Nhu: Tổng giám mục Ngô Đ́nh Thục. Kỳ 5: Về tổng giám mục Ngô Đ́nh Thục]
[44] Theo Đặc San Frère Kế, từ năm 1956, Các GMVN đề xướng thiết lập một Đại Học trên Đà Lạt từ cơ sở huấn luyện các con Tây lai của quân đội Pháp. Cũng từ 1956,”Viện Trưởng đầu tiên là LM Trần Văn Thiện.” Tiếp theo đó là hai năm dự bị vào đại học 1956-1957 (“Nhớ lại cảnh cũ người xưa: Đại Học Đà Lạt”. Đặc San Frère Kế, Southern California 12/2003, t. 156-158, đoạn 3, 7.) Tiếp theo đó là hai năm dự bị vào đại học 1956-1957.
Cậu Giuse Trần Văn Thiện, sinh ngày 13/3/1908, thụ phong Linh mục ngày 21/9/1935 (1957-1961), du học tại Pháp theo học bổng của Ṭa Thánh khoảng 1939, do Đức Ông người Pháp là Chappoulie vận động. Khi về nước khoảng năm 1947, ngài phục vụ địa phận Vĩnh Long, sau được bổ nhiệm làm GM GP Mỹ Tho (1961-1973). GM Trần Văn Thiện là giám mục tiên khởi giáo phận Mỹ Tho vào dịp ngày 27/11/1960 Toà Thánh ban Sắc Chỉ Quod Venerabilis Fratres thiết lập tân giáo phận này. Chưa t́m thấy có tài liệu chính xác nào chỉ định ngài làm Chưởng Ấn Viện Đại Học Đà Lạt. Khi đó giáo phận Mỹ Tho có 39 giáo xứ, với 32 nhà thờ, 54 nhà nguyện, 50.249 giáo dân, 43 linh mục và 28 đại chủng sinh theo học Học Viện Piô X và Đại Chủng Viện Sàig̣n, cùng 77 tiểu chủng sinh ở Cần Thơ và Sàig̣n. Ngoài ra giáo phận c̣n có 153 tu sĩ thuộc các ḍng Sư Huynh La San, MTG Cái Nhum, Saint Paul. GM Trần Văn Thiện đặc biệt chú ư đến việc đào tạo con người qua hoạt động Công giáo Tiến Hành. Chuẩn bị người kế nhiệm ngài truyền chức linh mục Nguyễn Văn Nam làm Giám Mục ngày 10/6/1975. Từ đó GM TVThiện tập chú vào việc dậy giáo lư và giáo dục cộng đoàn dân Chúa Mỹ Tho. Ngài qua đời ngày 24/2/1989.
Chú ư: Có nhiều người lẫn với GM Nguyễn Văn Thiện, sinh ngày 13/3/1906, chịu chức Linh mục ngày 20/2/1922, thụ phong Giám Mục ngày 22/1/1961, về nhiệm chức giáo phận Vĩnh Long. Khi bị bệnh ngài sang Pháp nghỉ hưu từ năm 1968 đến nay. Hiện ngài dang cư ngụ tại Nice (Les Cèdres, 30 rue de Lilas, Nice, France 06100. Tél.: 93.84.18.27. (Như SH Pierre Trần Văn Nghiêm: Souvenirs. Không đề nơi, 1999, lưu hánh nôi bộ, in vi tính, 117p., khổ 14x25cm, t. 54)
[45] VSHiên, sđd, t. 23
[46] Chỉ Nam Sinh Viên 1973-74, đd., t.18
[47] Cậu Nguyễn Văn Lập, sinh ngày 6/6/1911 tại Giáo xứ Vạn Thiện, làng Vạn Kim, Gio Linh Quảng Trị. Tháng 9/1923 cậu gia nhập chủng viện An Ninh (Cửa Tùng), Quảng Trị dưới quyền bảo trợ của LM Simon Hoàng Văn Tâm. Măn Chủng Viện, Thầy Simon Nguyễn Văn Lập thụ phong Linh Mục ngày 18/10/1938 tại Đại Chủng Viện Huế. Được Gp Huế cho di du học ở Pháp từ 1939 đến 47. Tốt nghiệp Cử Nhân Sorbonne, Paris về văn chưng. Từ 1947, lần lượt ngài giữ các chức vu: giáo sư Trường Thiên Hựu, Giám Đốc Giáo Dục GP Huế (1947-1955); Cha xứ họ đạo Phancicô Huế, Đại Diện Viện Trợ Công Giáo Mỹ (CRS). Ngài làm sáng lậm viên và hiệu trưởng Trường Bính Minh Huế (1953-1958). Giám Đốc Công Giáo Tiến Hành Toàn Quốc (1958-61). Viện Trưởng Viện Đại Học Đà Lạt (1961-70). Sáng lập Trường Chánh Trị Kinh Doanh Đà Lạt (1964). Khi có biến cố Mậu Thân (1968), VT đề nghị SVSQ trường Vơ Bị huấn luyện quân sự cho sinh viên Đà Lạt. Năm đó cũng là năm ra trường của Khóa 1/CTKD, ngài cho tổ chức vào năm 1969 rất trọng thể lễ tốt nghiệp đầu tiên của Trường CTKD này, sấp xỉ trùng hợp với kỷ niệm 10 năm thành lập Viện Đại Học Đà Lạt. Ngài bao tất cả chi phí cho anh chị em tốt nghiệp chụp h́nh ở tiệm Hồng Thủy Đà Lạt. Chính Khóa này có nhiều người tham gia sinh hoạt chánh trị. Ngài từ chối đề xuất của Ṭa Thánh làm giám mục kế vị GM Simon Ḥa Nguyễn Văn Hiền Đà Lạt. Kẹt lại tại Sàig̣n sau 30/4/1975. Cha sở GX Fatima B́nh Triệu Thủ Đức (1977-2000). Linh Phụ Tu Hội Bác Ái B́nh Triệu (31/12/1983). Thụ Huấn Linh Đạo Tu Hội tại Chateau Neuf de Galaure Pháp (12/9-16/11-1994). Găp gỡ một số thành viên Thụ Nhân Đại Học Đà Lạt. Phong tước Đức Ông (9/11/1998). Qua đời 19/12/2001 tại B́nh Triệu, thọ 91 tuổi. ĐSKD7, đă dẫn, t. 34-35).
Xin xem Bài viết riêng về tiểu sử của ngài: Đỗ Hữu Nghiêm: “Linh Mục Simon Nguyễn Văn Lập (1911-2001) Viện Trưởng Viện Đại Học Đà Lạt (1961-1970)”. Dayton, OH, 11t., A4, font 12. Bài viết bổ sung ngày 15/1/2008
[48] Tham khảo Dalat University, đd., tt. 16 và 27-28. Ở giai đoạn đầu các số liệu dường như không hoàn toàn chính xác.
[49] Tham khảo Dalat University, đd., t.27
.”[50] VSHiên,sđd, t. 29
[50] Trong một tám h́nh chụp khoảng năm 1961, ở hàng đầu từ trái qua phải có đầy đủ nhiều khuôn mặt quan trọng đạo đời của thời thế: Ô.Ô. Lê Văn Thới (Khoa Trưởng Trường Khoa Học Sàig̣n), Trần Văn Phước (Thị Trưởng Đà Lạt), Trần Hữu Thế (Bộ Trưởng Giáo Dục), TGM Huế Ngô Đ́nh Thục (Chưởng Ấn kiêm Viện Trưởng Đại Học), GM Trần Văn Thiện (Cựu Giám Đốc Kư Túc Xá Sinh Viên), GM Cần Thơ Nguyễn Kim Điền, LM Nguyễn Văn Lập (Viện Trưởng đương nhiệm).
[51] PVLưu, sđd, tr.298
[52] Website Vatican
[53] Đỗ Hữu Nghiêm tạm dịch.
[54] “Nhớ lại cảnh cũ người xưa: Đại Học Đà Lạt”. Đặc San Frère Kế, Southern California 12/2003, t. 156-158, đoạn 5.
[55] Cậu Lê Văn Lư sinh ngày 30/5/1913 tại làng Lệ Thủy, Xă Châu Giang, Giáo Xứ Bút Đông, Duy Tiên, Hà Nam. Tập tu ở xứ đạo Bút Đông (1920). Vào nhà tràng Hoàng Nguyên, Phú Xuyên, Hà Đông, Gp Hà Nội (1928). Du học tại Saunt-Pol-de-Léon, Finistère, Bretagne, Tây Bắc Pháp (1930). Theo học Đại Chủng Viện Xuân Bích ở Issy-les-Moulineaux (1936-1941). Thụ Phong Linh Mục (1941, Notre Dame de Paris). Theo học Université de Paris (Sorbonne), (1941-1948). Cử Nhân Văn Chương và tốt nghiệp Nhật Ngữ (1944, École Nationale des Langues Orientales de Paris). Tốt nghiệp Hoa ngữ củng trường (1946). Tiến Sĩ Văn Chương Sorbonne (1948). Hồi hương Việt Nam (1950). Giáo sư Tiểu Chủng Viện Piô XII Hà Nội, Trường Cao Đẳng Sư Phạm, Hiệu Trưởng Trường Dũng Lạc Hà Nội (1951-54), Tiểu Chủng Viện Piô XII Chợ Lớn (1954-1958). Hội Nghị Khoa Học Thái B́nh Dương tại Bangkok (1957). Chuyển về làm GS TCV Thánh Giuse đường Cường Để, Sàig̣n 1 (1958). GS Trường Văn Khoa Huế, rồi Sàig̣n (1960), Phó Viện Trưởng kiêm Phó Khoa Trưởng Văn Khoa, Viện Đại Học Đà Lạt (1966). Hội Nghị Các Trường Đại Học Công Giáo Đông Nam Á ở Manila (1967). Viện Trưởng Viện Đại Học Đà Lạt (1970-1975). GS Tiểu và Đại Chủng Viện Sàig̣n (1975-80). Xin đi chữa bệnh tại Paris (1980). Hưu tại Nhà hưu Dưỡng Ḍng Đồng Công tại Carthage, MO, Mỹ. Qua đời 3/10/1992 tại Carthage. An tang tại nghĩa trang Springfield, MO. Công tŕnh ngữ học: Le Parler Vietnamien (The Spoken Vietnamese), (Luận Án Tiến Sĩ Văn Chương 1948), và Sơ Thảo Ngữ Pháp Việt Nam (1968, Trung Tâm Học Liệu Việt Nam Cộng Ḥa. (ĐSKD7, đă dẫn, t. 17-18). Xin xem bài viết riêng về tiểu sử của ngài: Đỗ Hữu Nghiêm: “Linh Mục Phanxicô Xaviê Lê Văn Lư (1913-1992) Viện Trưởng Viện Đại Đá Lạt (1970-1975)”. Dayton, OH, 13t., A4, font 12. (có hiệu chính và đăng trong Đạc San Thụ Nhân Âu Châu 2008 dưới nhan dề: Vài Hàng Thân Thế LM Lê Văn Lư, Viện Trưởng Viện Đại Học Đà Lạt (1970-1975), tt.39-58.)
[56] LM Viện trưởng kế vị dường như có hạn chế phần nào trong hoạt động giao tế và ứng xử nhân bản.
[57] Tạ Duy Phong, Lịch Sử Thụ Nhân Viện Đại Học Đà Lạt. 1994, Houston, TX, 21t, A4 font 8, tt.5-6. Người viết nghĩ là Uỷ Ban này có giá trị sắp đặt cương lĩnh và nguyên tắc ứng xử vể học vấn và hạnh kiểm cho các đơn vị của Viện, nhất là các phân khoa. Theo sơ đồ tổ chức của Viện trang 16 của Chỉ Nam Sinh Viên NK 1973-74, không thấy nói đến Hội Đồng Kỷ Luật này
[58] Điều 27, Chương III. Những Quyền Lợi Sinh Viên, ghi rơ: “Sinh viên vi phạm kỷ luật về học vấn và hạnh kiểm sẽ được xét xử trước Hội Đồng Khoa hay Học Viện. Thành phần Hội Đồng Kỷ Luật gồm có Khoa Trưởng hay Giám Đốc Học Viện liên hệ làm Chủ Tịch, hai giáo sư do Hội Đồng Phân Khoa hay Học Viện đề nghị làm hội viên và một đại diện sinh viên tham dự có quyền phát biểu ư kiến nhưng không có quyền quyết định” (Nội Quy Sinh Viên VĐHĐL trong Chỉ Nam Sinh Viên NK 1973-74, đd., t. 172)
[59] From: "Van Luc Nguyen" To: nghiem. Sent: Wednesday, June 07, 2006 5:16 PM
[60] Chỉ Nam Sinh Viên NK 1973-74 đd., t. 9
[61] Phó Bá Long: điện đàm từ Washington DC với người viết ở Dayton, Ohio ngày 10/5/2006.5.
[62] Tham khảo Phó Bá Long: “Chapter X. The University of Dalat and the Exodus” trang 103-111 trong On The LONG Way Home. Part I. Autobiography. Virginia, 2000, published by the author, 114 pages, 20x22cm
[63] Thế Tâm: Sđd., t.163.
[64] Thế Tâm: Sđd., tt.167-168.
[65] Thế Tâm, Sđd., tt.168,169170
[66] Thế Tâm, Sđd., tt.170-171.
[67] Thế Tâm, Sđd., tt.190-191.
[68] Bác Sĩ Nguyễn Khắc Viện, một đảng viên Cộng Sản, người anh ruột của GS Nguyễn Khắc Dương, từng du học ở Paris, và trở về miền Bắc phục vụ.
[69] Thế Tâm, Sđd., t.192.
[70] Khoảng cuối năm 1975, nhờ một người em họ bên vợ thuộc thành phần bộ đội bị đưa vào chiến đấu ở miền Nam (đi B), người viết đi Đà Lạt và vào được trong căn pḥng riêng ở dăy nhà Dĩ Lễ, bên trong phía Đông khuôn viên Viện, nhận một số đồ đạc và sách vở chuyển về Sàig̣n. Hai nhân viên cũ của Viện là Nguyễn Văn Ngật và Nguyễn Văn Khúc là người được “Cách Mạng” chỉ định trông coi Viện. Hai nhân viên cũ ấy lại là người chủ “cách mạng” mới giám sát và cho phép người viết chở vội vàng như có vẻ lén lút một số đồ đạc và sách vở lên hai xe GMC mới tinh mà bộ đội miền Bắc chiếm dụng làm chiến lợi phẩm từ quân đội Sàig̣n trước kia. Người viết nhớ đến lời cha Lê Văn Lư nhắc với người viết từ trước năm 1975. Ngài nghi ngờ trong hàng ngũ nhân viên của Viện có người ngấm ngầm hoạt động cho CS. Ngài đặc biệt lưu ư đến hai nhân viên nói trên, và sự kiện Nguyễn Văn Khúc cầm đầu đám nhân viên yêu cầu Viện phải chia đất đai trồng trọt trong Viện khi trước, với bằng khoán chủ quyền đất sở hữu đầy đủ. Sư Huynh Théophane có nhắc đến sự kiện chia đất này.
[71] Thông tin của Hồ Trí Thức, Cựu sinh viên GHHV/PIOX, ngày 6/6/2006.2
[72] Đây chỉ là công việc tạm thời chưa có bất kỳ danh chính ngôn thuận nào. Nhưng khi được lệnh LM Viện Trưởng kư thay một chứng từ hành chánh liên quan đến các Khoa, người viết đă gặp phản ứng v́ hai chữ TM hay TUN Viện Trưởng. Trước khi thi hành lệnh từ Viện Trưởng, chính người viết có đặt vấn đề về vai tṛ của LM Phó Viện Trưởng, và nên làm cách thế nào khi LM Viện Trưởng văng mặt. Dường như có những dấu hiệu giao dịch không b́nh thường giữa hai vị đương chức vào thời điểm ấy. LM Viện Trưởng nói: “Con cứ việc “kư thay cha” trong lúc cha phải đi vắng mà công việc này không thể đợi cha về!” Phải chăng LM Viện Trưởng đă thấy vấn đề ǵ khi ngại ngùng phải đặt chữ kư của ḿnh trên văn thư ấy trước khi đi Sàig̣n?
Đấy là một khía cạnh tế nhị nhưng phức tạp, một bài học vào đời trong giao tế nhân sự ở môi trường trí thức đại học, mà người viết không thể quên. Phải chăng người viết chỉ là người mới tới, lại tương đối c̣n trẻ, thiếu kinh nghiệm thực tế và tốt nghiệp ở một đại học trong nước, dù đă lăn lộn trong môi trường giáo dục trung học nhiều năm vùng Sàig̣n, Chợ lớn và Gia định? Hơn nữa nhiều vị khoa trưởng lại là các linh mục và giáo sư từng du học ở nước ngoài về. Người trẻ tuổi mới vào đời sẽ nghĩ sao về thái độ ứng xử đó của các vị trí thức khoa bảng đàn anh đi trước trong trường đời, khi chính LM Viện Trưởng nói lại cho người viết được biết ngay sau khi sự việc xảy ra không lâu. Phải chăng không có một thái độ xây dựng nào khác của thế hệ tiền sinh đối với thế hệ hậu sinh? Người viết ghi lại như một chứng từ lịch sử của Viện Đại Học Đà Lạt.
[73] Công việc mà Phụ Tá Hành Chánh đă làm th́ không xác định rơ rệt.
Có khi đóng vai tṛ một bí thư viết một diễn văn với tư cách Viện Trưởng để ngài đọc khi tham dự một hội nghị giáo dục văn hóa, … ở Sàig̣n, như lễ kỷ niệm Nguyễn Trường Tộ năm 1973 ở Sàig̣n. Có khi là một chuyến đi nhận cả mấy trăm triệu ở Pḥng Chuẩn Chi dành cho Viện Đại Học ở Bộ Tài Chánh (khi đó là Bộ Trưởng Nguyễn Văn Điệp) và mang tiền trở về bằng đường bộ trong tinh h́nh có rất nhiều cuộc phục kích bất ngờ vẫn hay diễn ra trên quốc lộ 20, từ Sàig̣n đến Đà Lạt.
Có khi thảo hoạch một dự án theo yêu cầu của LM Viện Trưởng, như đo đạc và thiết kế công việc phát triển Viện Đại Học trên cả ba khu ABC. Để phục vụ cho công tác này người viết đă phối hợp trợ giúp của Đại Tá Tỉnh Trưởng Đà Lạt để xin một chuyến bay trực thăng. Thế là một phi vụ của quân đội Mỹ từ Nha Trang bay lên chỉ để chụp một số không ảnh trên vùng trời Viện Đại Học Đà Lạt, như đă nói. Đồng thời Tiểu Đoàn công binh do Thiếu Tá Nguyễn Văn Huấn chỉ huy ở Tam Bố, quận Đức Trọng, đă sẵn sàng giúp đem xe ủi công binh đến san bằng một số nền đất nhằm chuẩn bị việc xây Trường Đại Học Y Khoa và các kiến trúc khác, và tạo điều kiện chuyên chở sinh viên lấy đất cỏ từ Suối Vàng về chỉnh trang Viện.
Có khi điều khiển xây dựng và thi hành một chương tŕnh triển lăm Viện Đại Học Đà Lạt, như ở Trung Tâm Công Giáo tại Sàig̣n nhân kỷ niệm 350 Công giáo truyền đến Việt Nam. Có khi đại diện cho LM Viện Trưởng dự một hội nghị ở Bộ Giáo Dục về những vấn đề liên quan đến Đại Học, và biết bao việc không tên khác, thầm lặng nhưng có hiệu quả cải tiến môi trường Viện Đại Học….
[74] Hương B́nh: “Cây Thánh Giá Trên Tháp Năng Tĩnh” (Đà Lạt, 30/4/2005). ĐSKD7, tt.196-197.
[75] Nguyễn Thị Xuân: “Hồi Ức” (Sàig̣n). ĐSKD7, tt. 147-151.
[76] Chỉ Nam Sinh Viên NK 1973-74 đdt., t. 150
[77] Theo cảm nhận của người viết khi có kinh nghiệm sống thực tế với cha Lă Thanh Lịch. Đó là một tâm hồn thật đạo đức, nhưng có cung cách giữ đạo và linh hướng tương đối cổ điển, có phần không thích hợp hẳn cho tâm thức của giới trẻ thanh niên sinh viên đại học. Có phần nào chưa có sự dấn thân tự nhiên giữa một tuyên úy với anh chị em sinh viên, mặc dù Cha rất nhiệt t́nh đạo đức.
[78] Đỗ Hữu Nghiêm: “Tập Thể Sinh Viên Công Giáo Việt Nam Cộng và các Linh Mục Ḍng Đa Minh Chi tỉnh ḍng Lyon”. Dayton, OH, ngày 7/11/2005.2- 18/11/2005.6 Bổ sung ngày 27/12/2005 tại VN đến 10/3/2006.6 tại HK, nhân chuyến đi Việt Nam Tết Bính Tuất. Đỗ Hữu Nghiêm. t. 17-19) Website Dũng Lạc www.dunglac.net
[79] Than khảo Chỉ Nam Sinh Viên NK 1975-74 đd., t. 152
[80] PVLưu, sđd, t. 300-301
[81] Cựu sinh viên Phạm Văn Bân có ghi lại mấy trang hồi kư về chuồng thỏ khoảng hai trăm con mà SH Kế nuôi vào năm 1970, để làm món ăn nấu cho các giáo sư thỉnh giảng từ Sàig̣n hay các tỉnh tới. Về sau, rành đường đi nước bước, Phạm Văn Bân rủ rê Hoàng Văn Thắng, một sinh viên cùng pḥng trọ tại kư túc xá B́nh Minh đi “chôm chỉa vài chú thỏ làm thịt “ăn chui”. Nhưng nhưng tay mơ đó không biết nấu món thỏ, đă phải ăn thịt thỏ chán muốn “oẹ” luôn. Mà lại bắt đúng vào chú thỏ được SH Théophane chú ư đặt cho tên riêng trong chuồng thỏ! Đúng là “Nhất quỉ nh́ mà thứ ba học tṛ các Frères! (Phạm Văn Bân: “Kỷ niệm nuôi thỏ với Frère Kế”8/2002, Calif.), Đặc San Frère Kế (sđd., t.179-180)
[82] . PVLưu, sđd., t. 304-305
[83] Vũ Sinh Hiên, Sđd. (Thụ Nhân Âu Châu 2008), t. 29
[84] Tự thuật, Giáo Sư Ngô Đ́nh Long, Đặc San Kỷ Niệm 30 năm, Khóa 1 CTKD, 1999, p. 53; cũng xem “GS Phó Khoa Trưởng Ngô Đ́nh Long”, ĐS K7CTKD, t.30-31.
[85] Người viết chưa có cơ hội làm việc cụ thể với giáo sư Ngô Đ́nh Long về công tác sinh viên vụ, từ khi GS nhận trách nhiệm làm Giám Đốc năm 1973, dù đă từng thực hiện nhiều việc, phụ tá sinh viên vụ với Lm Giám Đốc Vũ Minh Thái và Linh Mục Phó Giám Đốc Sinh Viên Vụ Nguyễn Hữu Toản và các anh Nguyễn Văn Năm, Nguyễn Văn Khiêu. Có thể người viết quá bận rộn với một số hoạt động, phụ tá cho Linh Mục Viện Trưởng, từ 1971 đến 20/3/1975 ở Đà Lạt.
[86] Tổng hợp các số liệu ở Chỉ Nam Sinh Viên NK 1973-74 đd., tt. 160-62
[87] Nguyễn Thị Hạnh: “Tạ Tội”. ĐSKD7, tt.136-138 (Sydney, AU).
[88] Frère Kế: “Nhớ lại cảnh cũ người xưa: Đại Học Đà Lạt”. Đặc San Frère Kế, California 12/2003, t. 156-158 (Đoạn 11, t. 158).
[89] Chỉ Nam Sinh Viên 1973-74, đdt., t. 10
[90] “Ư Nghĩa Tên Gọi Các Ṭa Nhà Trong Viện” trong Viện Đại Học Đà Lạt: Chỉ Nam Sinh Viên Niên Khóa 1973-74. Đà Lạt, 1973, 174t., 14.5x25cm., tt. 12-14.
[Ghi đến đây, người viết muốn mở một dấu ngoặc, thầm cảm phục tác giả cựu sinh viên, họ Tạ KD1, họ Phạm KD7, nhớ đến câu nói chí lư của Giáo Sư Phó Bá Long:
“Đệ Tử Tầm Sư Dị,
Sư Tầm Đệ Tử Nan! [90]”.
Người viết có trao đổi với Giáo sư họ Phó là sinh viên nào đạt đến lư tưởng Thụ Nhân, th́ dù có bước lên đầu Thày mà nh́n cao xa hơn, bằng cấp lớn hơn, th́ vẫn không bao giờ mất ḷng tri ân và kính trọng đối với bậc ân sư trong đời, dù “nhất tự vi sư, bán tự vi sư”, phương chi cả một hay hai niên khóa cuối cùng của nhà trường. Giáo sư có nhắc đến một câu giáo sư phát biểu trước đám đông cựu sinh viên trong ngày hội ở khuôn viên Viện Đại Học Đà Lạt ở Việt Nam ngày 31/12/2005:
“Chắp Tay Con Tạ Ơn Trời,
Cho Con Sứ Mệnh Làm Thầy Nơi Đây”.
Những phát biểu tiếp theo nghẹn ngào hôm ấy trong cổ họng người Thầy tận tụy đă 85 tuổi, xúc động, đang dưỡng thương, v́ vừa té ngă hai giờ đêm hôm trước, khi đi xuống bậc thang cuốn trong sân bay Tân Sơn Nhứt. Lập tức, nỗi ḷng nức nở thầm lặng ấy được ấp ủ sưởi ấm trong ṿng tay thân thương của nhiều môn sinh vội đến d́u Thầy xuống chỗ ngồi bên dưới!
Trong cuộc điện đàm sáng ngày 3/5/2006 với người viết, giáo sư họ Phó c̣n chú ư đến tấm h́nh chân dung trang trọng của ba Vị Tu Sĩ Viện Trưởng đáng kính có công khai sáng, phát triển và xây dựng Viện Đại Học Đà Lạt: Linh Mục Giuse Trần Văn Thiện (1957-1961), Linh Mục Simon Nguyễn Văn Lập (1961-1970), Linh Mục Phanxicô Xaviê Lê Văn Lư (1970-1975)]
[91] Thơ Quản Trọng (Quản Tử)
[92] Quản Tử/http://www.gutenberg.org/etext/7367, dẫn theo Phạm Văn Bân K7 CTKD (Santa Ana, California): “Vài Nhận Xét Trong Việc Dịch Chữ Hán.” Đặc San K7 CTKD (12/2005) PDF (1-7), t.2. ĐSKD7, tt. 202-208
[93] Đại Học.
[94] Trung Dung, chương 14.
[95] Trung Dung VI
[96] Trung Dung
[97] Kinh Thi
[98] Luận Ngữ, Tăng Tử. Thiên Nhan Hồi 12. (Vô danh: “Tổng Quát về Viện, Trường và Khóa 7 CTKD” trong Đặc San Khóa 7 CTKD (12/2005), (9-12), tt. 11-12)
[99] Trung Dung, chương 21.
[100] Ngài sinh tại Whitman, Massachusets William và bà Ellen (nhũ danh Conway) Spellman. Ngài thụ huấn tại Fordham University và tốt nghiệp B.A. năm 1911; tốt nghiệp S.T.D. (Tiến Sĩ Thần Học), tại North American College; tốt nghiệp Học Viện Giáo Hoàng Urbania (Pontifical Urbanian Athenaeum) tại Rôma, và thụ phong linh mục ngày 14/5/1916. Sau khi thụ phong LM, ngài được bổ nhiệm Curate tại Roxbury, Massachusetts, rồi chủ bút báo “The Pilot” của Giáo Phận Boston (1918-22). Ngài làm Phó Chưởng Ấn, Chưởng Ấn Giáo Phận này (1922-25). Tùy viên cho Hồng Y Gaspari, Tổng Trưởng Ngoại Giao của Ṭa Thánh (1925). Thông dịch viên cho Đức Piô XI. Được phong tước Dức Ông (1926), rồi được bổ nhiệm Giám Mục Phụ Tá Giáo Phận Boston, Massachusetts vào tháng 7/1932 và thụ phong ngày 8 tháng 9 dưới hiệu ṭa Sila. Sau khi HY Hayes (1867-1938) từ trần, ngài được bổ nhiệm Tổng Giám Mục Giáo Phận New York ngày 15/4/1939 (1939-1967) và ngày 11/12 được bổ nhiệm Tổng Giám Mục Tuyên Úy Phục Vụ Quân Đội (Archbishop for the Military Services) tức Tổng Tuyên Úy Quân Đội Hoa Kỳ (1940-1967). TGM Spellman được phong Hồng Y Giáo Chủ New York (1945) (với danh hiệu Ss Giovanni e Paolo) ngày 18/2/1946, và phục vụ với danh nghĩa TGM đến khi chết. Ngài đươc an táng tại hầm mộ dước bàn thờ Thánh Đường Chính tỏa Thánh Patrick. Grand Prior of USA of the Sovereign Order of Malta. Grand Prior of America of the Military and Hospitaller Order of St. Lazarus. Ngài đạt danh hiệu TGM New York lâu dài nhất trong hơn 28 năm. [Tham Khảo thêm (http://en.wikipedia.org/wiki/Cardinal_Spellman)]
[101] Tạ Duy Phong: Lịch Sử Thụ Nhân Viện Đại Học Đà Lạt, đd., t. 1 & 3
[102] Trung Dung, chương 20.
[103] Cậu Kế sinh ngày 17/12/1912 tại Phú Lương, Tuyên Quang (?) và được rửa tội ba ngày sau. Như thế phải chăng có sự lầm lẫn Phú Lương ở Thái Nguyên với giáo xứ Phú Lương (Giáo phận Hà Nội, có số giáo dân vào năm 1939 là 816 người, Kỷ Yếu Ái Hữu Hà Nội, sđd., t.198), thuộc xă Định Xá, huyện B́nh Lục, tỉnh Hà Nam. Theo các sự kiện và địa danh được SH ghi và chuyển lại cho nhóm cựu sinh viên VĐHDL công bố trong Đặc San Frère Kế (Calif., 12/2003), th́ có thể có nghi vấn về nhưng ngày thơ ấu của chú Kế. Tài liệu nhắc đến Kẻ Đầm (tức Bích Tŕ năm 1939 có 1689 giáo dân, thuộc xă Thanh Nam, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam, Kỷ Yếu Hà Nội đdt., t. 145) , đến cha Đoán là những chi tiết liên quan đến GP Hà Nội. Hơn nữa, nếu cha Đoán rửa tội cho cậu Kế vào ngày 20/12/1912, tức là ba ngày sau khi sinh, th́ khó có thể hiểu được điều kiện di chuyển ở Việt Nam vào thời điểm đ̣, từ Tuyên Quang đến Hà Nam cho một người mẹ mới sinh con được ba ngày, vỉ khi rửa tội trẻ sơ sinh, có tập quán được khuyến khích là khi sức khỏe không có ǵ bất thường th́ bà mẹ cũng nên tham dự!? Vả lại, trong gia tộc của họ Nguyễn bên vợ người viết, tại Ư Yên, Nam Định, xác nhận là SH. T. Kế có liên hệ gia tộc với họ vợ của người viết. Nhưng không thấy SH, khi c̣n sống, đă cho biết là gia đ́nh SH đá chuyển từ Phú Lương (hay cư trú ở nơi này) về (hay thuộc) miền Phủ Lư (Hà Nam) khi nào và trong hoàn cảnh nào. Như vậy, khó thể hiểu Phú Lương là ở Tuyên Quang!
[104] Tham khảo Chỉ Nam Sinh Viên 1973-74, đd., t. 148
[105] Điều đó tốt, nhưng phải chăng đó là mục đích chính của thư viện? Nếu nhân cơ hội đó giáo dục được tốt cho thanh niên th́ luôn luôn tốt, nhưng cần chú ư đến nhiệm vụ chủ yếu của thư viện!
[106] Trần Bá Hồng Minh: “Spellman, dấu chân kỷ niệm”. ĐSKD7, tt. 88-92.
Trước khi chia tay rời khỏi đất Cao Nguyên Lâm Viên, người viết nhận được một số h́nh ảnh, kỷ vật, trong đó có chiếc office-case Echolac và vài trang kỷ niệm cuộc đời của Sư Huynh. Điều quan trọng nhất là những tâm sự của Sư Huynh đối với người viết về nhiều dư luận và tháí độ của các linh mục giáo sư đồng nghiêp và sinh viên đă có giao tiếp hay tham dự những lớp mà người viết phụ trách ở Trường Văn Khoa, CTKD và hoạt động ở các đơn vị khác trong Viện đối với người viết Trong đó Sư Huynh có lưu ư những khuyết nhược điểm và những ưu điểm của người viết trong môi trường đại học, nhất là những điều cần thận trọng để tránh hiểu lầm và suy b́ ở nơi từng hạng người! Những điều ấy không có liên quan ǵ đến Thư Viện, nhưng về giao tế nhân bản vả tương quan xă hội trong đại gia đ́nh Thụ Nhân th́ có giá trị giáo dục tế nhị và chân thành vô cùng. Người viết chưa kịp nói lời chia ly với Sư Huynh, th́ sư huynh vội về với Chúa đúng một tháng trước khi người viết bước chân lên đất Mỹ (11/2003)! Xin ghi lại chứng từ này như một tri ân sâu thẳm nhất, chân thực nhất, như một chứng liệu lịch sử, để chia sẻ với mọi thành viên Thụ Nhân.
[107] PV Lưu, sđd., t. 284
[108] Tham khảo PVLưu, sđd., t. 282-284)
[109] PVLưu, sđd., tr. 284
[110] PVLưu, sđd., tr. 284
[111] Nguyễn Thị Phấn Hoa: “Hoài Niệm”. ĐSKD7, h́nh chụp Thẻ sinh viên NTPH, t. 84.
[112] Như thế chức vụ Tổng Thư Kư đă có, nhưng bắt đầu và kết thúc năm nào, và v́ những lư do nào, cùng giải pháp được chọn lựa thế nào?
[113] Giáo Sư W. Solheim có gửi cho người viết ít nhất hai là thư thúc dục kế hoạch hợp tác phát quật mấy di chỉ khảo cổ ở Blao, nhưng không thể tiến hành trong thời chiến, dù phía GS W. Solheim sẵn sàng tài trợ về tài chính và kỹ thuật cùng các chuyên gia khảo cổ. Về sau này, sau 30/4/1975, Viện Khảo Cổ Hà Nội và Ban Khảo Cổ thuộc Viện Khoa Học Xă Hội tại Sàig̣n thực hiện nhiều cuộc khai quật khảo cổ ở Cao Nguyên Lâm Đồng
[114] Tức là tổ chức Summer Institute of Linguistics (SIL), University of North Dakota, USA. Tổ chức này thực hiện nhiều cuộc nghiên cứu ngữ học bằng cách gửi nhiều sinh viên Ph.D. đến Cao Nguyên và biên soạn Luận Án Tiến Sĩ Ngữ Học qua các field studies nơi các bộ tộc khác nhau. Khi các nhà khoa học VN miền Bắc vào tiếp quản cơ sở SIL này ở số 279 Đường Nguyễn Minh Chiếu, Phú Nhuận (cũ), th́ máy móc và nhiều tài liệu khoa học bị phá hủy và người viết chứng kiến các sách vỡ ḷng và nghiên cứu ngữ học, dân tộc học (do nhiều nhà truyền giáo dân tộc học Tin Lành ghi chép tại thực địa) khác bị nhiều nhân viên mang về cho con chơi hay cắt nhỏ làm phiếu nháp!
[115] Dalat University, đd., t. 20.
[116] Xem biểu đồ 4, ở trên
[117] Con số này không phù hợp với số liệu của Dalat University, đd., t. 27
[118] Tham khảo Chi Nam Sinh Viên NK 1973-74 đd., t.31
[119] Xem số liệu chi tiết về công tác xây dựng ban đầu của Linh Mục Viện Trưởng Trần Văn Thiện (1957-1961) ở Chương Năm về Quá Tŕnh thành Lập Viện Đại Học Đà Lạt
[120] Trong quá tŕnh viết khảo luận nghiên cứu này, người viết bất ngờ gặp được một cựu sinh viên tốt nghiệp khóa Sư Phạm Triết Đà Lạt năm 1964 (Ông Nguyễn văn Chi, hiện ở tại Montréal Canada, cùng học với ông Nguyễn Văn Lục, GS Triết Học, cũng ở Montréal)
[121] Sư Huynh Pierre Trần Văn Nghiêm, sau này có MA in Education: Souvenirs. Paris (?), 1999, Lưu hành nội bộ, in vi tính, 117 trang, font, tt.54-55. Nhưng lá thư từ các cựu sinh viên trường sư phạm Đà Lạt từ khắp nơi gửi đến Sư Huynh Pierre, như lá thư ngày 25/2/1993, 6/4/1993 từ Phú Nhuận của cựu nữ sinh viên sư phạm Phước (1968-71), thư ngày 22/6/1992 15/12/1993, của Lê Thị Đào từ Nha Trang.
Trong lá thư ngày 15/3/1996, có lẽ từ Canada, cô viết:
“Con sung sướng cho thầy biết là con đi lại con đường nhà trường từ cuối tháng 9 vừa qua. Mỗi tuần con có 36 tiết học: ở bốn lớp hoa vải, ba lớp may vá, hai lớp văn học. Và tuần tới một lớp khác về nghệ thuật kết hoa. thưa Sư huynh, tất cả v́ yêu nghề và học tṛ. Thầy có biết ngoài văn chương học được thời Cử Nhân văn khoa, con đều học hết những thứ khác do chính con không? Và cái tốt nhất chính là con đă đi đến chỗ thành công là giảng dậy mọi chuyện. Một tin mừng chắc sẽ làm Thầy vui: hội đồng thanh tra tỉnh đă chỉ định con gái Thầy hiến những bài học mẫu mực cho tất cả các giáo viên tỉnh! Thầy xem một con mẹ đi bán hàng rong lại hiến những bài mẫu cho các thầy cô giáo. Sư Huynh ơi, thầy hăy hănh diện v́ các học tṛ của thầy. Họ sẽ mang lạt vinh dự cho Thầy! Con cầu nguyện Chúa chúc lành cho Thầy và Thầy ǵn giữ chúng con. Lê Thị Đào.” (Souvenirs, t.86). Vói lời lẽ như thế, sư huynh Pierre thấy ḿnh có thể hát “Nunc dimittis” như tiên tri Simêon để bước vào Cơi Ngh́n Thu ở tuổi 90, khi đă biết Chúa!
[122] Cậu Kế sinh ra ngày 17/12/1912 tại Phú lương, rửa tội ngày 20/12/1912 tại Họ Đạo Phú Lương (Lương tràng), thuộc Xă Định Xá, Huyện B́nh Lục, tỉnh Hà Nam, thuộc Địa Phận Hà Nội, Đồng Bắng Bắc Việt, tuy có tài liệu đồng hóa với Phú Lương ở tỉnh Thái Nguyên, miền Trung Du Đông Bắc Bắc Việt. Nhưng các sự kiện ngay trong tài liệu của SH Théophane không chứng minh điều ấy.
Giai đoạn tu học 1927-1933. Từ 15 tuổi, cậu xin gia nhập ḍng sư huynh La San, trở nên tu huynh ứng sinh Ḍng La San từ ngày 3/8/1927. Chỉ năm năm sau, Thầy được khấn trọn đời ngày 27/7/1937 và trở thành một sư huynh trẻ tuổi của Ḍng La San. Sau đó SH theo học Trường Đại Học Văn Khoa Sàig̣n (1956-58) về văn chương và triết học. Đồng thời SH tranh thủ học thần học ở Đại Chủng Viện Xuân Bích (Saint Sulpice) Thị Nghè, Gia Định
SH được nhà ḍng cho du học (1958-61). Ở Rôma SH thụ huấn tại Trường Laterano (58-61) về thần học, sư phạm giáo lư, tính tỉnh học, linh đạo. Rồi SH theo học tại Trường Angelicum về nghệ thuật làm Master of the Novices (1959). Trong hành tŕnh đến Rôma năm 1958, SH vừa có nhận thức vừa du hành vừa học hỏi qua các trạm dừng chân Singapore, Tích Lan, Colombo, Ấn Độ Dương, Djibouti, Địa Trung Hải, Pháp, Ư. Rồi Anh (1959), Pacific Ocean, Philippin, Guam, USA (1975) Pháp, Bồ, Tây Ban Nha, Monaco, Ư, Đức, Úc, Thụy sĩ, Ḥa Lan, Bỉ và Anh (1985).
SH tham gia giảng dậy và làm việc ở nhiều môi trường khác nhau, như: Trung học Th. Thomas Nam Định (1933-34), Pellerin (34-38), Th. Thomas Trung Linh (38-39), Puginier Hà Nội (1939-41), làm nhạc trưởng, chơi orgue nhà thờ, Taberd Sàig̣n (41-49) dậy Pháp, Ngôn ngữ, Latinh, Hy Lạp, chơi Orgue, Piano, Violin), Adran (49-50) dậy Latinh, violin, piano, Lasan Taberd (50-58).
Viện Đại Học Đà Lạt 62-75: Tập Viện La San Nha Trang (63-67), thông tín viên Giáo Dục (1963-75), dậy thần học, lịch sử giáo dục, nhiệm vụ học (62-75) Giám Đốc Thư Viện VDHDL Phó GĐ Đại Học Xá (1968),
Đến Hoa Kỳ 1975-2003: Dậy ở St Mary’s College of Northern California, curator Thư Viện (75-76), Latinh, Ban Cổ điển (76-99), tiếng Anh, Hy Lạp, Pháp, thông tín viên tập san Liên Lạc ở San Jose (1976-1984). Dịch một số sách thần bí về Anna Catharina (4 cuốn), Maria Valtorta (10 cuốn) sang Tiếng Việt, nghiên cứu học hỏi văn hóa Pháp, Anh, … cho đến lúc từ trần hồi 10.45am ngày 2/11/2003.X tại nhà ḍng Lasalle, San José, California, Hoa Kỳ, thọ 91 tuổi. (Ban Điều Hành Hội Ái Hữu Thụ Nhân Viện Đại Học ĐàLạt Nam California: Đặc San Sư Huynh Théophane Nguyễn Văn Kế. “Frère Kế, Thụ Nhân và một đời hiến dâng cho giáo dục.” Southern California, USA (12/2003), 183 t., pdf., in font 12. Ban Biên Tập Đặc San: Tiểu sử Frère Théophane Kế. Đặc San Frère Kế, Southern California 12/2003, t. 99-101; cũng xem BBT ĐSKD7: “Cố Frère Théophane Nguyễn Văn Kế. ĐSKD7, tt. 43-49)
[123] Chánh Trị Kinh Doanh.
[124] Chỉ Nam Sinh Viên NK 1973-74, đd., tt.29-34
[125] Tham Khảo Chỉ Nam Sinh Viên, 1973-74, đd., tt. 74-75
[126] Thế Tâm: Sđd., t.150.
[127] Thế Tâm, Sđd., t.149.
[128] Thế Tâm, Sđd., t.153.
[129] Thế Tâm, Sđd., t.155. Người viết không h́nh dung được hết t́nh trạng khách quan của Viện Đại Học Đà Lạt theo ư tác giả nói là ǵ? Luộm thuộm, không được tổ chức, không đoàn kết, không có tương lai v́ nhiều khó khăn, … ?
[130] Thực tế, ở nhiệm vụ giảng dậy, người viết đă áp dụng phương pháp hội học, tham quan thực địa có nhiều kết quả tốt cho các lớp lịch sử Việt Nam và thế giới, cùng văn minh Việt Nam
[131] Thế Tâm, Sđd., tt.149, 150, 151.
[132] Thế Tâm, Sđd., t.159.
[133] Thế Tâm, Sđd., tt.157-158.
[134] LM. Nguyễn Văn Đời (1932-2006). Có một điều cho đến nay, ít người biết về những t́nh cảm đầy u uẩn, phức tạp kín đáo của LM. trong tinh thần và cuộc sống cá nhân, v́ ngài không thể nói được tiếng Việt thông thạo và lưu loát. Điều này rất dễ hiểu, khi đọc kỹ tiểu sử của ngài.
Nhưng đối với người viết, đó là một phát hiện đầy ngạc nhiên v́ thường một nhà tu Công Giáo chân chính là sẵn sàng mau mắn hy sinh và nỗ lực học tiếng mẹ đẻ và nếu cần, khiêm tốn t́m người giúp đỡ để chu toàn mọi nhiệm vụ được giao, nhất là giảng dạy Tin Mừng trong nhà thờ.
1. Dù từ lúc mới lên 5 tuổi (năm 1937 ?), cậu Đời rời Việt Nam, sang Cao Miên học tiểu học chương tŕnh Pháp, đến khi đậu xong tiểu học lúc 12 tuổi (1944 ?). Cậu rời xứ Chùa Tháp sang Pháp du học. Đậu Tú Tài vào năm 19 tuổi (1951 ?). Thầy Đời ở lại Pháp thêm vài năm nữa (1953 ?), thụ phong linh mục rồi sang Mỹ du học, cho đến khi đậu Ph. D. Nhưng chi tiết môn học và năm tốt nghiệp chưa rơ (!?). Sau khi tốt nghiệp (năm ?), ngài làm việc ở Mỹ thêm vài năm nữa, đến năm 38 tuổi (1970 ?) mới về lại Việt Nam. LM. Đời làm tuyên úy cho quân đội Mỹ tại Mỹ Tho khoảng hai năm (1972 ?), rồi lên Đà Lạt làm Khoa Trưởng Khoa Học thay thế LM Hoàng Quốc Trương vào năm 1972.
Theo anh Phạm Văn Lưu, có lẽ tiếng Việt là tiếng LM. Đời kém nhất. LM. không cố đọc sách báo Việt ngữ. LM. nói tiếng Việt bằng ngôn ngữ b́nh dân, không phải văn hoa, trau chuốt của lớp người trí thức, hay của giới học giả. Khi phải viết thông báo cho các sinh viên thi cuối năm, LM. thường nhờ anh viết hộ và đọc lại các đề thi cho ngài. LM xem anh như một người rất thân t́nh với ngài. Sau năm 1975, khi gặp những khó khăn với chính quyền mới, tối nào LM. Đời cũng đến nhà riêng của anh trên Thương xá Tax, để tâm sự.
Đây cũng là điều ngạc nhiên khác nữa, khi anh Lưu làm việc ở văn pḥng Viện Trưởng tại Sài G̣n và nhiều năm sống chung với ngài và giúp ngài ở Trường Khoa Học trên Viện Đại Học Đà Lạt mà không cung cấp hay không biết về những năm chính trong cuộc đời của LM Đời (?)
Người viết chỉ nghĩ ngài là một người ít cởi mở và không thích giao tế và truyện tṛ với người khác. đến nỗi nhiều khi người khác có thể nghĩ ngài là người lănh đạm đến vô t́nh khinh miệt kẻ khác.
2. Sau đó, LM. Đời và LM. Toản cũng đăng kư đi học tập chung trong nhóm anh em giảng huấn của Viện Đại Học Đà Lạt trong ṿng 4 tháng, với hy vọng sẽ được đi dạy lại. Nhưng rồi sau đó, các giáo chức Viện Đại Học Đà Lạt ở Sài G̣n, không ai được phép đi dạy lại cả, chỉ có bộ phận ở Đà Lạt là được tiếp tục hành nghề nếu muốn.
Mỗi ngày, LM Đời cùng với anh Lưu, lấy xe buưt, đi từ đường Nguyễn Huệ đến Đại Học Y Khoa trên đường Nguyễn Văn Tráng để học tập với các giáo chức đại học tư khác. Đến năm 1978, Viện Đại Học được bàn giao cho Ủy Ban Nhân Dân Thành Phố Hồ Chí Minh.
3. Như thế năm 1978, LM. Đời về Cần Thơ và t́m cách vượt biên. Nhưng không may cho ngài, chuyến đi bị lộ, công an biên pḥng đuổi theo và bắn vào thuyền vượt biên làm 2 người chết và nhiều người bị thương.
LM Đời bị bắt và khai thành thật, ngài là linh mục và là giáo sư của Viện Đại Học Đà Lạt, nên LM. bị giam rất lâu. Đến giữa năm 1980, LM. vượt trại giam và trốn về Sài G̣n, sau đó di chuyển đến một vùng quê cách Sài G̣n 10 km về phía Nam.
Quá Tŕnh Vươt Biên Gian Lao
1. Một buổi chiều gần cuối năm 1980, khi đi làm về, con gái đầu ḷng của anh Lưu bảo anh biết, có một người mặc đồ nông dân, đội nón lá cũ và rách đến t́m anh, nhưng cháu bảo anh cháu biết chắc là Ông Cố Đời, và ông dặn khoảng 6 giờ sẽ trở lại.
Sau đó, LM. Đời đến gặp anh, hai người gặp nhau vừa vui mừng vừa lo sợ cho an toàn của ngài. Cuộc đời lắm truân chiên đă tôi luyện LM. Đời thành con người dạn dĩ, biến báo và phản ứng nhanhnhẹn hơn. LM quá không được uống bia, không ḱm nén nổi, nhưng ngài sợ anh Lưu không đủ tiền, nên vào nhà hàng quốc doanh nào đó th́ rẻ tiền hơn. Nhưng nhà hàng quốc doanh thời đó có nhiều cán bộ, công nhân viên nhà nước. Hai người rủ nhau đến một nhà hàng khá sang trọng trên đường Hai Bà Trưng ở quận 1, gần nơi anh Lưu cư ngụ, để uống bia với một ít đồ nhậu cho bơ những ngày cực nhọc trong tù.
Ngồi nói chuyện với LM Đời, anh Lưu thầm cảm phục ngài, nhưng người viết cảm thấy một cái ǵ như có lỗi, khi tạo điều kiện cho cuộc sống có vẻ dễ dăi cùa cho một vị linh mục như ngài. Anh Lưu nghĩ suốt đời ngài chỉ được đào tạo để trở thành linh mục, một nhà nghiên cứu, một giáo sư.. Thực ra tác phong của một nhà tu hành chân chính là hướng tầm hồn đến chỗ hy sinh hăm ḿnh nhiều hơn!? Lại một lần nữa người viết ngỡ ngàng khi thấy ư thức ḱm hăm hy sinh trong người của vị linh mục có vẻ biến mất.
2. Cuộc sống có vẻ dễ dăi, khi LM Đời lúc c̣n ở Viện Đại Học Đà Lạt, LM không bao giờ uống nước lạnh hay nước trà, mỗi sáng khi thức dạy ngài quen dùng cà phê, và mùa hè, suốt ngày ngài chỉ uống bia (lade). Mùa đông ngài chỉ uống Johnny Walker. Những ngày trong tù là những ngày đầy thử thách đối với ngài.
Nhưng đó là thứ linh mục nhận thức khá dễ dăi về việc chiều theo sở thích riêng của ḿnh, mà ít sẵn sàng hy sinh. Anh Lưu thấy LM không hề được chuẩn bị để sống lặn lội trong cuộc sống đầy gian khổ và hiểm nguy của chiến tranh loạn lạc. Anh ngạc nhiên v́ giờ này, ngài tỏ ra hét sức xuất sắc (?) để thích nghi (?) với xă hội mới. Nhưng h́nh ảnh đó với người viết đặt ra nhiều vấn nạn về đời sống tu hành chân chính của một linh mục là thế nào, dù ngài đă vượt trại giam an toàn, giờ đây điềm tĩnh ngồi nói chuyện với anh, không sợ sệt, không than van, không trách móc một ai.
3. Trong thời gian này, thường hai tuần một lần, vợ chồng anh Lưu lại đến thăm LM và tiếp tế cho LM một ít trái cây tươi và một chút tiền tiêu vặt. Cho đến thàng 4.1981, hôm đó anh đi làm về trễ, khoảng 9 giờ tối. Con gái lớn củu anh bảo ông nông dân lần trước đến gặp anh, nhưng anh vắng nhà, ông nhắn lại, nếu anh về, phải đến gặp ông trong đêm nay v́ ngày mai ông phải đi xa.
Anh Lưu quyết định mang một ít tiền cho LM làm lộ phí và lấy xe Honda cùng vợ anh đi đến gặp LM. Nhưng khi ra khỏi Sài G̣n, đường vắng quá. Vợ anh sợ rằng nếu giữa đường bi cướp, th́ không những không giúp được LM mà c̣n hại bản thân ḿnh nữa. Vợ anh bàn nên trở về nhà để sáng mai đi thật sớm sẽ chắc ăn hơn…
5 giờ sáng hôm sau, anh và vợ anh lại lấy xe Honda ra đi, nhưng đi nửa đường, mưa lớn quá, trời đất mịt mù không thấy đường. Họ phải t́m chỗ trú mưa và độ nửa giờ sau, mưa nhẹ hạt hơn, họ tiếp tục cuộc hành tŕnh. Nhưng khi đến nơi LM cư ngụ, th́ anh được biết LM đă đi trước đó khoảng 15 phút rồi, để về Cà Mau chuẩn bị vượt biên lần nữa.
Người nhà của LM cho anh biết LM đă chuẩn bị cho anh cùng đi với ngài, nên ngài có ư định chờ anh măi từ tối hôm qua cho đến sáng nay, nhưng không nhận được tin tức của anh. LM đành phải ra đi một ḿnh cùng với người hướng đạo. Anh Lưu tỏ ra rất ân hận về chuyện này, v́ anh biết rằng vượt biên có rất nhiều hiểm nguy chờ đợi và cần phải có tiền để giải quyết. Nhưng anh lại không đến kịp lúc để trợ giúp LM trên bước đường đấy chông gai LM sẽ gặp phải.
4..Sau đó, anh được tin ngài lại bị bắt, nhưng lần này ngài dầy dạn kinh nghiệm hơn lần trước. Khi vào thẩm vấn ngài khai ngài làm thợ hớt tóc ở Sài G̣n, vợ con trốn đi Mỹ từ lâu, nên bây giờ phải t́m cách vượt biên để t́m gặp lại vợ con. Nhờ khai như vậy và người nhà chạy tiền cho công an, nên chỉ bị giam hơn 2 tuần là ngài được thả. Khoảng trung tuần tháng 6 năm 1981, ngài vượt biên thành công đến Mă Lai và đến tháng 12 năm 1981, ngài được chính quyền Úc cho định cư tại Sydney.
Khi LM Đời đi rồi, anh Lưu cũng t́m đường vượt biên. Ngày 24.6. 1981, anh rời Sàig̣n xuống Sóc Trăng và tối hôm sau lên ghe vượt biên. Sau hơn 4 ngày 5 đêm trôi dạt trên biển cả v́ ghe chết máy, cuối cùng các người vượt biển được một tàu Panama vớt đưa vào Nam Dương tạm cư tại trại Galang I. Nhóm người vượt biển được chính quyền Úc nhận cho định cư tại Darwin vào ngày 17/12/1981.
5.Khi vừa đến Úc, t́m đọc báo Việt Ngữ anh thấy có đăng tin linh mục Dominic Nguyễn Văn Đồi, đến định cư tại Sydney cùng ngày với anh. Nhưng anh c̣n băn khoăn không biết có phải LM Đời hay không? Tại sao là Đồi mà không phải la Đời? Anh điện thoại xuống Sydney nhờ một người bà con xác nhận. Nhờ đó anh biết cha Đồi này trước là Khoa Trưởng của Trường Đại Học Khoa Học Đà Lạt. Anh vui mừng khôn cùng, v́ hết sức ngẫu nhiên, hai cha con được đến Úc cùng một ngày, dù là khác tiểu bang.
Sống một thời gian ở Darwin, anh không t́m được việc làm và cũng không có một Viện Đại Học có cấp Cao Học để anh có thể tiếp tục học thêm. Theo đề nghị của vợ anh, gia đ́nh thu xếp về miền Nam nước Úc để có nhiều cơ hội thăng tiến hơn. Và vợ anh sẵn ḷng đi trước về Melbourne, để thu xếp chuyện nhà cửa, nơi ăn chốn ở. Rồi khá nhanh, hai tuần sau, bốn cha con anh đi về nơi định cư mới và bắt đầu cuộc sống mới tại vùng Sunshine tiểu bang Victoria.
Khoảng tháng 9. 1982, gần 10 giờ tối, cả gia đ́nh anh đang ngồi xem truyền h́nh, nghe tiếng có người đập cửa thật lớn và tiếng người la to: Có ông bà chủ ở nhà không? Anh cảm thấy hơi bực ḿnh về cách xử sự này. Nhưng không ngờ khi mở cửa, LM Đời đột ngột xuất hiện trước mặt anh. Hai người gặp nhau mừng mừng tủi tủi. Anh mời LM Đời vào nhà, cha con hàn huyên những chuyện đă qua. Con gái anh vui đùa hồn nhiên với LM: “Giờ ông Cố Đời ngon lành quá, không c̣n làm nông dân nữa.” Rồi tất cả mọi người hiện diện cùng cười thật thoải mái, như quên đi những ngày thật gian truân trong quá khứ.
6. Từ đó, thỉnh thoảng gia đ́nh anh Lưu xuống Sydney, đến ghé lại thăm LM. Ngài thường mời gia đ́nh anh dùng cơm với ngài. Có lẽ ngài đă nhờ các bổn đạo của ngài nấu ăn cho mọi người thật thịnh soạn, nhưng ngài luôn bảo với họ: “Tui bay xuống Sydney ‘tau’ phải đích thân nấu ăn cho tụi bay ăn như vậy được chưa?”
Và mặc dù, sau này các con của anh chi Lưu đă lớn và đi làm có tiền cả, nhưng lần nào ghé thăm ngài, ngài cũng cho mấy cháu một ít tiền, các cháu không muốn nhận, nhưng anh bảo cứ nhận để ngài khỏi buồn ḷng. Đặc biệt có một lần, gia đ́nh anh xuống Sydney, chỉ báo cho ngài vài tiếng đồng hồ, trước khi đến thăm, có ư để cho ngài không đủ thời giờ nhờ người làm thức ăn.
Ngài lấy xe ra chợ mua một ít thịt trừu, thịt gà, và ḅ về làm BBQ (barbecue). Ngài bảo phải biết ăn theo kiểu thiên nhiên của Úc, không ướp, không gia vị ǵ hết, như vậy mới ngon và bổ dưỡng! Mọi người đều cười thoải mái, v́ biết rơ là ngài không biết ướp thịt. Sau đó, mọi người nói chuyện vui vẻ với nhau một lúc, rồi ngài sực nhớ ra, chiều nay có thánh lễ và cha phải giảng.
Ngài nói:
“Tụi bay ngồi chơi, tau soạn bài giảng một lúc, rồi đưa tụi bay đi viếng Sydney.”
Tôi nói đùa:
“Cha để con soạn cho cha.”
Ngài nói:
“Mày soạn bài giảng, bổn đạo mất linh hồn hết!”
Chiều hôm đó, cả gia đ́nh anh đi dự thánh lễ do ngài cử hành, ngài tỏ ra rất lúng túng rơ ràng trong bài giảng. Sau thánh lễ mấy người gặp lại ngài, để từ giă ngài trở lại Melbourne.
Con gái anh lại bảo:
“Chúng con đến phá Ông Cố hôm nay, nên Ông Cố không giảng được.”
Ngài cũng đùa lại:
“Im đi, tau đánh chết cha mày.”
Người viết thấy tâm t́nh sâu đậm ấm cúng giữa cha con. Nhưng theo anh Lưu có lẽ có hai điều làm LM Đời buồn khổ nhất:
7. Thái độ bất thân thiện của Hội Ái Hữu Thụ Nhân Sydney đối với ngài
Hội Thụ Nhân Sydney thẳng thừng không công nhận LM Đời là Giáo Sư Của Viện Đại Học Đà Lạt. Một cựu sinh viên (?) đă nói với anh rằng không biết LM Đời có dạy ở Viện Đại Học Đà Lạt hay không? Và các Ban Chấp Hành không bao giờ mời ngài tham dự các buổi họp mặt sinh hoạt của Hội.
Bản thân anh Lưu không hoàn toàn nắm rơ sự việc. Nhưng nói chung, trước đây có tranh chấp giữa một số linh mục Việt Nam ở Sydney (?). LM Đời luôn đứng về phía Ṭa Tổng Giám Mục Sydney, không chấp nhận quan điểm thành lập Giáo Hội Việt Nam Tự Trị tại Tiểu Bang NSW. Theo người viết hiểu th́ theo giáo luật, tất cả những người tín hữu đến địa phương nào, th́ người đó thuộc vào giáo phận địa phương đó. Nhưng có lẽ đáng tiếc là Hội Ái Hữu Thụ Nhân Sydney không nắm rơ qui định của giáo luật, lại rơi vào cuộc tranh chấp mang nhiều sắc thái chính trị đáng buồn đó, rồi xa lánh LM Đời.
Ngay cả khi ngài đă vĩnh viễn ra đi. Trong khi cácHội Ái Hữu Thụ Nhân trên toàn thế giới đều có lời phân ưu nồng ấm thân t́nh, th́ riêng Hội Ái Hữu Thụ Nhân Sydney vẫn im lặng. Theo anh Lưu, anh không hề có ư chỉ trích hay phiền hà ǵ các anh chị em Thụ Nhân Sydney cả. Đối với bản thân anh, trong thâm tâm, anh muốn luôn luôn dành kính trọng, và thân t́nh đặc biệt đến mỗi thành viên trong gia đ́nh Thụ Nhân Sydney. Tuy nhiên, anh cám cảnh và vô cùng ân hận phải bày tỏ nỗi thất vọng và bất b́nh đối với cách các thân hữu Thụ Nhân hành xử đối với LM Đời, và dường như đă xen lẫn những vấn đề tôn giáo và chính trị vào t́nh cảm của đại gia đ́nh Thụ Nhân.
Người viết phán đoán có lẽ thái độ sống có vẻ yên lặng lạnh lùng của LM Đời, v́ không rành tiếng Việt, đă làm cho ngài chuốc lấy ngộ nhận và ác cảm của cộng đồng dân Chúa và Hội Ái Hữu Thụ Nhân Sydney, có khi cả nhiều LM khác, phương chi các giáo dân. Chính v́ thế gia đ́nh anh Lưu trở thành những người thân hiếm hoi nhưng càng dễ gắn bó của ngài trong đời sống xă hội.
Theo kư ức của anh Lưu, LM Viện Trưởng Nguyễn Văn Lập đă luôn luôn nhắc bảo các sinh viên của Viện nên tránh làm sứt mẻ t́nh yêu thương trong đại gia đ́nh Thụ Nhân. Mặt khác, theo tinh thần văn hóa Việt Nam, “nghĩa tử là nghĩa tận”. Điều ấy buộc những người c̣n sống phải cố gắng hết sức chu toàn bổn phận của ḿnh đối với người chết – nghĩa vụ của các môn sinh đối với thày. Không lẽ anh chị em Thụ Nhân nỡ ḷng nào không đến nghiêng ḿnh trước linh cữu, giă biệt thày cũ của ḿnh và phân ưu cùng thân nhân của thày, như một sự đền bù cho thái độ đồi với ngài lúc sinh thời ở Sydney?
8. Trường hợp LM Nguyễn Văn Đời bị điều tra về những cáo buộc thâm lạm tài chánh và bị yêu cầu từ chức. Khi Giám Mục George Pell từ Melbourne được thuyên chuyển về Sydney, làm Tổng Giám Mục trong Tổng Giáo Phận này. Ngài đă thực hiện những cải tổ sâu rộng, nhưng có thể một số người lợi dụng lúc vị Tân Giám Mục chưa hiểu biết đầy đủ về t́nh h́nh giáo hội địa phương, đă làm đơn tố cáo LM Đời lạm dụng tài chánh trong khi sử dụng công quĩ của cộng đồng Công giáo Việt Nam tại Sydney.
Mặc dù những lời tố cáo này không đưa ra được các bằng chứng cụ thể, LM Đời đă nhanh chóng bị giáo quyền bắt từ chức và lập Ủy Ban Điều Tra. Trong thời gian điều tra, Đức Hồng Y Pell đă điều một linh mục Việt Nam khác, LM Nguyễn Khoa Toàn, từ tiểu bang Queensland về Sydney làm Tuyên Úy Trưởng trong Ban Tuyên Úy Công Giáo tại Sydney. Và sau khi kết thúc công cuộc điều tra, Ủy Ban xác nhận LM Đời hoàn toàn không có ǵ sai trái trong việc chi tiêu ngân sách.
Nhưng bản phúc tŕnh này không được công bố rộng răi trên báo chí hay đài phát thanh, khiến cho dư luận vẫn c̣n hiểu lầm về LM Đời. Ngoài ra, để đền bù những ngộ nhận của giáo quyền đối với ngài, và để thanh minh cho việc làm của ngài, đáng lẽ các cố vấn của Giám Mục George Pell phải nhanh chóng phục chức cho ngài và khẩn khoản thành kính đề nghị phong chức Đức Ông cho ngài. Trong thực tế ngài không được phục chức, nên có thể v́ thế ngài cương quyết từ chối tước vị Đức Ông.
9. Một Cảm Nhận: Xét về phương diện xă hội b́nh thường, quyết định không nhận chức Đức Ông của LM Đời có thể không có ǵ sai lầm, v́ tính khiêm tốn của ngài. Dù có những tai tiếng mà những người chống đối đă rêu rao để bêu xấu LM Đời chưa được giải tỏa và nhiều người vẫn tiếp tục hiểu lầm về ngài, ngài chịu đựng tất cả v́ Chúa.
Nhưng theo anh Lưu, đối với bản thân ngài, ngài là một người hết sức giản dị, không muốn nhận bất cứ một ân huệ nào từ Hồng Y Tồng Giám Mục Pell, người đă đối xử không mấy khôn ngoan tế nhị với ngài trong trường hợp nói trên (?) Thưc sự, biến cố này đă gây một chấn động tinh thần sâu xa nhất nơi ngài dù chấp nhận đi tu là từ bỏ vinh hoa phú quí trần gian dưới bất kỳ lănh vực nào. Ngài dường như tiều tụy, trông già hẳn đi. Sức khỏe của ngài suy sụp trông thấy rơ. Cuối cùng chứng bệnh đau tim của ngài trở nên trầm trọng hơn và đưa ngài sớm qua đời một cách lặng lẽ cô độc..
Đối với anh Lưu, từng sống gần gũi thân mật với ngài, anh hoàn toàn tin tưởng vào tính thánh thiện và trong sạch của ngài, nên trước dư luận không tốt về ngài, anh không bao giờ để ư. Nhưng anh cảm thấy sợ hăi khi gợi lên hay hỏi ngài về những chuyện này, có thể làm ngài buồn khổ, nên trong những dịp gặp gỡ cha, anh không bao giờ đề cập đến.
Có lần ngài hỏi anh, có nghe biết những tiếng đồn về ngài thế nào không? Anh trả lời có và c̣n biết nhiều chuyện khác nữa, nhưng ngài hiểu anh không bao giờ tin những tin đồ nhảm đó. Rồi, ngài chậm răi nói:
“Có lẽ mày là người hiểu tau nhiều nhất”
Ngài ngẫm nghĩ một lúc, thở dài, và ngậm ngùi nói tiếp:
“Trải qua một cuộc bể dâu, những điều trông thấy mà đau đớn ḷng”
Nhưng theo phán đoán của người viết, có lẽ cuộc sống đơn lẻ, âm thầm, ít xă giao, có phần lănh đạm khiến cho nhiều người dể hiểu lầm LM Đời. Thái độ ngộ nhận và bất thân thiện của người khác đă dưa ngài đến chỗ phải từ chức Tổng Tuyên Úy và bi điều tra. Co th3 yếu tố trước là nguyên nhân tạo ra ting trạng sau.
10. Giờ Cuối Cùng: Rồi đến ngày 22/4/2006, lúc đó anh Lưu đang ở Sydney v́ công việc. Sắp tới giờ lên máy bay về lại Melbourne, anh được tin LM Đời bị đột quỵ. Anh định hủy chuyến bay ở lại Sydney tiếp, vào thăm ngài nằm ở bệnh viện. Nhưng khi điện thoại cho bệnh viện, anh biết rằng ngài đang ở pḥng cấp cứu, không thể vào thăm được. Khoảng mười ngày sau, từ Melbourne, anh gọi điện thoại hỏi thăm sức khỏe của ngài. Tiếng nói chứng tỏ ngài mệt nhiều, nhưng vẫn cố gắng thếu thào đùa với anh:
-“Tau vẫn c̣n sống đây, chưa chết đâu, mày đừng có lo”.
Nhưng qua giọng nói của ngài, anh cảm thấy hơi thở của ngài đă quá ngắn ngủi và yếu ớt lắm.
Ngày 18/5/2006, Linh Mục Nguyễn Văn Đời, cựu Khoa Trưởng Khoa Học Viện Đại Học Đà Lạt, vĩnh viễn ra đi. Mặc dù có nhiều nỗ lực từ trước, anh Lưu chỉ biết tin giờ động quan linh cữu của ngài vào 22 giờ đêm, tang lễ ấn định được cử hành vào 10 giờ sáng hôm sau, nên anh vẫn không lấy được vé máy bay để đến đưa tiễn ngài về nơi an nghỉ cuối cùng. Thật vô cùng ân hận đối với anh trước cái tang c̣n nhiều oan khuất chưa được giải tỏa..
Theo cảm nhận của anh Lưu, có một điều an ủi cho LM Đời là tang lễ của ngài được cử hành hết sức trọng thể do chính Hồng Y Phạm Minh Mẫn, Tổng Giám Mục Sài G̣n, từ Việt Nam đến Úc để chủ tế, với sự tham dự đông đủ của Hồng Y Edward Clancy, Giám Mục Julian, địa phận Sydney và hơn 40 linh mục Việt Nam từ khắp các tiểu bang trên đất Úc về đồng tế trong thành lễ an táng.
Nhưng theo cảm nghĩ của người viết, việc người sống làm cho người chết là tốt về mặt tâm linh, nhưng những cách ứng xử thích đáng lúc sinh thời mới có ư nghĩa thiết thực về mặt nhân bản xă hội; v́:
“Khi sống chẳng chịu làm chi
Lúc chết, bận rộn làm ma tế ruồi!”
Giống hệt như giữ ḷng hiếu thảo trường cửu trong văn hóa truyền thống Việt Nam, việc cao quí nhất là cử chỉ thể hiện trong việc săn sóc tận tâm cho cha mẹ lúc già yếu. Mọi sự chi phí cao sang khi cha mẹ đă chết chỉ làm ma tế ruồi, v́ phô trường chữ hiếu vẻ bề ngoài.Chớ chi mỗi người đọc biết chuyện này, hăy thành kính hiệp thông cầu nguyện cho hương hồn một người cha tinh thần đă ra đi trước mỗi người , v́ đối với người Công giáo “chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”. (Tham khảo PVLưu, sđd., t. 307-311).
[135]Ông Phó Bá Long xuất thân từ các trường: Trung học St. Francis Xavier (Thượng Hải, Trung quốc); Trường Bưởi (École de Protectorat), Albert Sarraut và Đại Học Dược Khoa Hà Nội, Việt Nam.
Tháng 7, 1954, ông trúng tuyển chương tŕnh học bổng Fulbright. Ông xin theo học ngành Kinh Doanh tại trường Công Giáo Georgetown ở Washington, D.C. Nhưng trường này không có ngành ông muốn theo học và v́ thế được giới thiệu theo học bậc Cao Học Kinh Doanh hai năm tại Trường đại học Harvard (Harvard Business School, Boston).
Năm 1956, ông về nước làm Quản Trị Ngân Hàng Quốc Gia thời Việt Nam Cộng Ḥa I ở Miền Nam. Ông đă làm Tổng Giám Đốc Nhà Máy Gạch Bắc Kỳ và Công Ty Thủy Tinh, và làm Giám Đốc bản xứ cho hăng dầu Esso tại Sài G̣n. Năm 1970, ông làm Khoa Trưởng Trường Chánh Trị Kinh Doanh, Viện Đại Học Đà Lạt, và thỉnh giảng tại Trường Đại Học Quốc Pḥng Việt Nam Cộng Ḥa cho đến 1975
Sang Hoa Kỳ, Giáo Sư dạy Anh văn tại trường trung học công lập Montgomery Blair, MD, Marketing tại American University, và thỉnh giảng môn Đông Nam Á Học trên du thuyền Đại Học Pittsburg, PA. Ông đă làm Đồng Giám Đốc Trung Tâm Hướng Dẫn định cư tại Viện Ngữ Học Thực Hành và đă cộng tác tại các trại tỵ nạn Pulau Bidong, Palawan, Bataan, Galang, Sikew, Macao, Hong Kong, và Bắc Hải ở Trung quốc.
Ông làm thông dịch viên công chứng của Bộ Ngoại Giao Mỹ, nên đă công tác tại các Hội nghị quốc tế về quân nhân mất tích và định cư tỵ nạn tại Hawaii, Geneva, và Paris.
Từ năm 1983-1989 Giáo Sư làm Giám Đốc Chương Tŕnh Đào Tạo Kinh Doanh cho người Việt Nam, dưới bảo trợ của Georgetown University School for Summer and Continuing Education. Chương tŕnh này được đem vào giảng dạy tại các đại học Việt Nam, Lào và Kampuchea.
Ông Bà sinh được bốn trai, hai gái và đến nay đă có bốn cháu nội ngoại. Hiện nay Ông Bà Phó Bá Long đang nghỉ hưu tại Washington, D.C., Hoa Kỳ.
[136] Theo Hồi Kư của GS Trần Long, ba nhân vật Long này đều đến Hoa Kỳ du học vào đầu thập niên 1950, có hỗn danh thời c̣n làm sinh viên ở Hoa Kỳ là Mập (Phó Bá Long, 1922, Hà Nội, Quản Trị Kinh doanh, University of Havard, vợ Đặng Trung Nghĩa 1960 ở Sàig̣n), Lùn (Trần Long, 1928 Ninh B́nh, kinh tế thương mại, University of Portland, và Syracuse, vợ Ánh Nguyệt 1959 học ở Reed College), và Cao (Ngô Đ́nh Long, 1931, Huế, điện học, University of Wisconsin, vợ Trâm Anh 1954, học ở Mundelein College, Chicago). Cả ba có lúc cùng dậy học ở Trường CTKD Đà Lạt. Cuộc đời tương đối xuông xẻ, thành công và bề thế trong xă hội. (Trần Long, Sđd., t.7/7; “Giáo Sư Khoa Trưởng Trần Long”. Đặc San Khóa 7 CTKD, t. 37-41)
[137] Trần Long; Hồi Kư đă dẫn. Đặc San Khóa 7 CTKD, t. 9, chú 7: “It was also the first institution of higher learning in Vietnam that applied the case study method and group research system”. Thực ra khi người viết c̣n thụ huấn ở Trường Văn Khoa Sài g̣n từ 1961-1968, phương pháp điển cứu và nghiên cứu tập thể đă được áp dụng từ sớm trong môn Xă Hội Học do GS Phạm Thị Tự phụ trách, và trong môn Địa Lư Nhân Văn, do GS Nguyễn B́nh Minh hướng dẫn. Thực sự lúc đó tất cả đă từ hai nữ giáo sư này. Nhưng phương pháp mới mẻ này chưa có ảnh hương rộng lớn.
[138] Trong hồi kư ông Trần Long ghi thời điểm anh làm Chủ tịch Hội Sinh viên Công giáo vào các năm 1962-64, và Phó Bá Long kế tiếp từ 1964 là không chính xác. Đúng là các thời điểm 1952-54, v́ Phó Bá Long đă tốt nghiệp xong Cao Học QTKD Harvard từ 1956 và về làm việc tại Sàig̣n, như GS PBL xác nhận với người viết qua điện đàm, chứ không phải năm 1964 như GS Trần Long ghi.
[139] Tài liệu gia phả của họ Phó có một mức độ khác biệt nà đó đối với con đường đi tới của GS Trần Long: “…GS Trần Long và tôi được biết là cột trụ của SBG, làm việc với nhau và yểm trợ nhau và khuyến khích nhau. Tôi có cái thú là đă giới thiệu ông với vợ ông, Danielle và bà có với ông chín mặt con. Tôi đă làm ông trở nên một thành phần chính sáng lập và quản trị Học Viện Anh Ngữ Lam Sơn. Tôi khuyến khích ông tham gia vào Esso. Ỏ đó ông giữ chức giám đốc giao tế. Rồi khi ông bị động viên vào trong quân đội, tôi giới thiệu ông với cha Lập.” Phó Bá Long: On the Long Way Home, Part I: Autobiography. Place unknown, July 2, 2000, 66th Commemorative of Phó Bá Thuận, the author's father, 114 pages, in A2, font 9, p. 104.
[140] Trần Long: Hồi Kư đă dẫn, t.1/7.
[141] GS Ngô Đ́nh Long theo học Trường Quốc Học Khải Định và đậu Tú Tài II năm 1952. Cũng trong năm này, ông được học bổng của Quốc Trưởng Bảo Đại, du học Kỹ Sư Điện tại trường đại học Wisconsin thuộc Madison, Wisconsin ở Hoa Kỳ. Nơi đây, ông đă liên tục tốt nghiệp các văn bằng: Bachelor of Science, Electrical Engineering (1956), Master of Science, Electrical Engineering năm (1957) đồng thời làm Phụ Tá Giảng Huấn cho nhiều lớp Kỹ Thuật điện học (1957-1959). Năm 1959, đáp ứng lời mời của Nguyên Tử Lực Cuộc Việt Nam, ông hồi hương cộng tác xây dựng Trung Tâm Nguyên Tử Đà Lạt.
Năm 1964, ông được Giáo Sư Trần Long mời cộng tác và giảng dạy môn "Toán Kinh Thương" cho sinh viên Chánh Trị Kinh Doanh từ Khóa 1-8. Ngoài ra ông c̣n có dịp dạy môn Vật Lư Hạch Tâm cho sinh viên Khoa Học và lớp Nghệ Thuật Phiên Dịch Anh-Việt, Việt-Anh cho sinh viên Văn Khoa cũng thuộc Viện Đại Học Đà Lạt. Ông phụ trách liên tục môn Toán Kinh Thương từ Khóa 1 đến Khóa cuối cùng gồm các đề tài chi tiết như: tiền lăi, lăi đơn, lăi kép, các niên khoản, xác suất và ứng dụng trong các ngành bảo hiểm, v.v. Sau này ông Ngô Đ́nh Long c̣n kiêm nhiệm một số công việc khác ở Viện.
[142] Trần Long sinh ngày 8/6/1928 tại Ninh B́nh Phát Diệm, Bắc Việt. Từ 1935-46, thụ huấn với các Sư Huynh và Linh mục trong chủng viện. Sau ba năm diến ra cuộc chiến tranh Việt Pháp, anh được giáo phận Phát Diệm cho đi du học Pháp. Sau đó, ở Pháp được 8 tháng, anh ra đời và sang Mỹ du học. Trong thời gian 1950-54, sinh viên Trần Long theo học chương tŕnh Cử Nhân (B.S.) Quản Trị Công Nghiệp tại University of Portland, Oregon. Tốt nghiệp tháng 9/1954. Năm 1954-56, ông tiếp tục học lên Cao Học (M.A.) Kinh tế và Tài Chánh, University of Syacuse, New York.
Sau khi tốt nghiệp đầu năm 1956, ông về Sàig̣n và ở lại Miền Nam Việt Nam trong 16 năm. Ông điều hành tờ Tuần Báo The Times of Viet Nam (1956). Trong thời gian 1957-61, làm quản đốc Công ty Standard Vacuum Oil, Phân Bộ Việt Nam-Cambốt. Ông gia nhập quân đội VN với tính cách sĩ quan trừ bị Ban Huấn luyện (1961-63), biệt phái làm Khoa Trưởng Trường Chính Trị Kinh Doanh thuộc Viện Đại Học Đà Lạ t (1964-1970), Tống Quản Lư Hội Đại Học Đà Lạt (1970-1975). Di tản ngày 29/4/1975 từ Sàig̣n sang Hoa Kỳ, với vợ và tám con. Ông làm giảng viên Kinh tế tại Đại Học Cộng đồng Portland (1975-76), Kiểm toán viên trưởng tại Far West Federal Savings and Loan Association (1976-93), Viên chức kiểm toán Washington Mutual Savings Bank (1993-96). Hồi hưu ngày 8/6/1996. Hiện cư ngụ tại Portland, Oregon
[143] Trần Long, Hồi kư đă dẫn trên, t.2/7
[144] Phó Bá Long: Autobiography “On The Long Way Home”, sđd., t.92
[145] Ban Biên Tập ĐSKD7: “Tổng quát về Viện, Trường và Khóa 7 CTKD”. ĐSKD7, t.10, trích từ Phiếu Điểm Tổng Quát của K7 CTKD, Ban Quản Trị Tài Chánh Kế Toán. Cũng xem Thái Văn Hùng: “Những chặng đường gian nan”. ĐSKD7, tt. 76-80.
[146] PBL: Autobiography, đd., t.104
[147] Con số này do chính GS Trần Long ghi trong Hồi Kư, đd., t. 3/7 (xem nguyên văn ở dưới) không phù hợp với số liệu trong bảng thống kê của Ch́ Nam Sinh Viên 1973-74 đưa ra là 1964-65: 700 người (?!) [t.103], trong khi ở Bảng Thống Kê tổng hợp toàn viện ở t. 9 lại ghi là 1075. Cùng năm học đó, ba trường Sư Phạm, Văn Khoa và Khoa học theo bảng tổng kê có (51+295+94) = 440 người.
(nguyên văn đoạn hồi kư: “Cuối niên khóa 67-68 gần 400 sinh viên nhận lănh văn bằng Cử Nhân. Năm Nhập Môn có 1036 sinh viên”. Thục ra tống kê chính thức của Trường CTKD theo CNSV 73-74 chỉ là 295 sinh viên tốt nghiệp Cử Nhân Kinh Doanh thuộc năm 1967-68!
[148] Thái Thị Như Hảo: “Viết về Thầy (GS Đinh Xáng)”. ĐSKD7, tt. 98-103.
[149] Trần Long, Hồi Kư đă dẫn trên, t.5-6/7
[150] PBL, Autobiography, đd., t.105
[151] Tham Khảo Chỉ Nam Sinh Viên 1973-74, đd., t.
[152] Dĩ nhiên chưa được ghi trong Chỉ Nam Sinh Viên 1973-74.
[153] V́ có sai số trong ba bản thống kê liên quan đến một đề mục thống kê (các sai số toàn viện với Trường Văn Khoa và Trường Chánh Trị Kinh Doanh) mà tôi phát hiện trong Chỉ Nam Sinh Viên 1973-74, nên các số liệu về số sinh viên Nhập Môn (450) và tốt nghiệp (182) của K7 CTKD chính xác đến mức nào? Thống Kê chính thức trong Chỉ Nam Sinh Viên 1973-74, ghi số sinh viên ghi danh năm Nhâp Môn (tức K7 /CTKD) năm 1970-71 là 1157 sinh viên (!) chứ không phải là 450 như DSK7 ghi (!)
[154] Ban Biên Tập ĐSKD7: “Tổng quát về Viện, Trường và Khóa 7 CTKD”. Đặc San K7/CTKD, t.10.
[155] Người viết được GS Phó Bá Long cho biết LM Viện Trưởng Viện Đại Học Đà Lạt có dự tính tổ chức thi cuối năm 1974-1975 cho toàn thể sinh viên của Viện có mặt ở Sàig̣n, nếu t́nh h́nh đất nước không thay đổi vào 30/4/1975.
[156] Thực sự số liệu này không đúng với Thống Kê chính thức do trường công bố trong CNSV 73-74 (295)
[157] Trần Long: Sđd., t.2/7.
[158] Trần Long, Sđd., t.3/7.
[159] Trần Long: Sđd., t.3/7. Nếu các số liệu GS Trần Long đưa ra theo hồi kư là chính xác, th́ đương nhiên mới có thể phán đoán chính xác về trường CTKD, dù tương đối. Nếu không những lập luận dựa trên các số liệu sai lại đưa người đọc đến nhiều suy nghĩ và phân tích khác về thành quả của nhà trường cũng như khả năng của chính Ban Điều Hành nhà trrường.
[160] Thế Tâm: Sđd., t.156.
[161] “Sau chính biến 1963, Viện Đại Học Đà Lạt bị chính phủ miền Nam cho là gắn liền với chế độ Ngô Đ́nh Diệm, nên có cái nh́n không mấy quân b́nh mà có phần ác cảm. Do đó vào những năm 1963, 64, 65, Viện đă gặp rất nhiều trở ngại. Ví dụ về tài chánh, một số tài sản làm cơ sở tài chánh của Viện bị phong tỏa, thậm chí có lúc vấn đề tịch biên được đặt ra, ban giáo sư bị hạn chế, nơi ăn ở của sinh viên từ các nơi khác đến cũng nan giải. Có lúc LM Viện Trưởng phải chạy đi mượn tiền để thanh toán tiền lương cho giáo sư và nhân viên” (Thế Tâm Nguyễn Khắc Dương: Sđd, t.156.)
[162] Phó Bá Long: Trao đổi qua điện thoại với người viết ngày 1-2/5/2006.2&3.
[163] Trần Long, Hồi Kư, Tài liệu đă dẫn, t.2/7
[164] “Chúng tôi phải chế ra những từ mới như “hành xử” cho behavior có nghĩa đen là thái độ hành động. Đă có nhiều cuộc tranh luận sôi nổi về thuật ngữ marketing cho đến khi chúng tôi t́m đển chữ “tiếp thị”, tức “cung ứng thị trường”. Năm 1968, tôi hội với Oliver Giscard d’Estaing (anh em của Tổng Thống Pháp) người cùng học dưới tôi một hay hai năm ở Harvard. Lúc đó, ông làm nhà sáng lập/giám đốc Institut Européen d’Administration d’Entreprises tức là INSEAD. Tôi hỏi ông đầu tiên là tiếng Pháp ông nói marketing là thế nào?” Ông cười to tiếng và vỗ vào lưng tôi và nói “Bồ ạ, chúng tôi cứ gọi là marketing.” PBL: Autobiography, đd., t.105.
[165] PBL: Autobiography, đd., t. 106. Đó là một cử chỉ ứng xứ thích đáng.
Nhưng tôi tự hỏi là có bao nhiêu trường hợp có thể đă xày ra, tinh vi hay lộ liễu, ở trong Trường ông hay trường khác trong Viện mà ông không ai biết? Dĩ nhiên những chuyện ḿnh không biết th́ ḿnh không chịu trách nhiệm. Thực tế có thể đă có nhiều việc xảy ra làm cho con người áy náy, mà không ai biết ngoài lương tâm những người có liên quan, và Trời?
[166] PBL, Autobiography, đa d., t. 106
[167] Thế Tâm: Sđd.t.157-158. Xin xem thêm tiết
[168] Người viết có tham khảo Tiểu sử của Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ trên website do một con trai ông xây dựng. Trong các công tŕnh đáng kể của ông không có Đồ án kiến trục Giáo Hoàng Học Viện Piô X Đà Lạt trong thời gian này. (SELECTED WORKS : 1955-1958 Planning Project: The Conurbation of Saigon and Cholon; 1961-1966 Presidential Palace (or Independent Palace, now renamed Unification Palace), Saigon; 1961-1963 University of Education, Hue; 1962-1965 Atomic Institute, Dalat; 1962- National University Campus, Thu Duc; 1962 Huong Giang 1 Hotel, Hue; 1962 Central Market of Dalat). Website NGO VIET THU (1926-2000) Architect D.P.L.G, Planner, 1er Grand Prix de Rome, Honorary Fellow of the American Institute of Architects, by Dr. Ngo-Viet Nam-Son at vnsngo@u.washington.edu or NamSonNgoViet@gmail.com . Ngày 13/5/2006.7.
Trao đổi với Tiến Sĩ Ngô Viết Nam Sơn trên email, thi ông trả lời “The author of that project is architect To Cong Van. That's all I know. He would have passed away already.”.
Nhưng v́ tài liệu chính thức của Niên Giám Công Giáo Việt Nam 2004 có nói đến kiến trúc do người Đức, nên có thể có sự công tác với KTS Tô Công Văn đến một mức nào đó đế tránh khó khăn về pháp lư nếu người ngoại quốc đứng tên chính thức. Trong các tu sĩ Ḍng Tên người nước ngoài, th́ có nhiều tu sĩ Ḍng Tên Đức có thể từng là Kiến Trúc Sư (?) và đủ khả năng để thiết kế và thực hiện dự án kiến trúc phúc tạp nhưng rất tiện nghi cho một đại chúng viện!.
[169] Xin xem phần liên hệ Trường CTKD.
[170] Vũ Khắc Tâm (KD5), Kỷ Niệm Sinh Viên, Florida. Website Thu Nhan
[171] Chính anh, một cựu sinh viên Văn Khoa Ban Việt Văn, Viện Đại Học Đà Lạt là người đă viết nhiều phim truyện trong nước sau 30/41975, trong đó có phim truyện cho phim “Mê Thảo Một Thời Vang Bóng”, có Đơn Dương thủ vai chính.
[172] Website Thụ Nhân E-zine.
[173] Người viết không nhớ hết các Nhóm Hội Học được thành lập trong môn học “Văn Minh Việt Nam” và “Lịch sử Trung Đại Việt Nam” “Lịch Sử Trung Đại Thế Giới thời Cải Cách”, niên khóa 1973-74, cho các sinh viên theo học các môn này tại Trường Văn Khoa VĐHĐL. Trong số khoảng ba mươi nhóm, có các nhóm thực hiện một số đề tài như: “Trường Yersin”, “Hát Cḥi B́nh Định”, “Ḷ Gốm Vĩnh Tường Đà Lạt” “Các Ḍng Tu Nữ tại Đà Lạt” (do một sinh viên nữ tu làm trưởng nhóm), “Chúa Linh Sơn” (do một đại đức đứng đầu nhóm), “Nghề Trồng Rau tại Ấp Hà Đông Đà Lạt”, “Đời sống tại Ấp Du Sinh”, “Tư Tưởng Martin Luther và Jean Calvin”, “Đạo Tin Lành nơi người Kơho”, “Đạo Bà Cha tại Finnom, quận Đức Trọng”, “Lịch sử Thị Xă Đà Lạt”, “Đào Duy Từ”, “Thư Mục về Nhà Tây Sơn”, “Những khuôn mặt nước ngoài công tác với Gia Long”.
Nhóm “Tây Sơn” do chính một nữ sinh viên cư ngụ tại Ấp Tây Sơn, Qui Nhơn, Bính Định làm Trưởng Nhóm, cô Nguyễn Thị Huệ. Chị là một người bị mất một tay v́ chiến tranh, nhưng là người rất tích cực tham gia và hướng dẫn các thành viên của Nhóm làm việc tập thể. Người có công nhiều nhất vừa nghiên cứu vừa động viên nhóm này dường như là sinh viên Linh Mục Hoàng Đức Oanh (tốt nghiệp Giáo Hoàng Học Viện Piô X Đà Lạt), làm cha giáo tại Tiểu Chủng Viện Kontum, tá túc tại Đà Lạt, nay là Giám Mục Kontum (từ 28/8/2003 đến nay). Đây cũng là một Nhóm hội học điển h́nh về nghiên cứu tập thể của Trường Văn Khoa, VĐHĐL, trong niên khóa 1973-74
[175] Tham khảo PVLưu, sđd., t. 298-299
[176] Đây là một đoạn trích trong cuốn hồi kư của GS Phó Bá Long: On the Long Way. Autobiography. Part I, Virginia, 2000, 114p., computerized, font 12, “Chapter X. The University of Dalat and the exodus” (1971-1975), pp.103-112)
[177] Tham Khảo PVLưu, sđd., t. 288-297