Thánh Nhạc |
Hiến Chế Về Phụng
Vụ Thánh
Sacrosanctum
Concilium
Bản dịch Việt Ngữ của Giáo Hoàng Học
Viện Piô X
Prepared for Internet by Vietnamese
Missionaries in Asia
Chương VI
Thánh Nhạc
112. Giá trị của
thánh nhạc. Truyền
thống âm nhạc của toàn thể Giáo Hội đã kiến tạo nên một kho tàng
vô giá, vượt hẳn mọi diễn tả nghệ thuật khác, nhất là vì điệu
nhạc thánh đi liền với lời ca, góp phần cần thiết hoặc trọn vẹn
trong phụng vụ trọng thể.
Thực vậy, không những Thánh Kinh
1 mà cả các Giáo Phụ và các Ðức Thánh Cha đã khen ngợi
những bản thánh ca, nhất là các Ðức Thánh Cha trong những thời
đại gần đây, tiên phong là Ðức Piô X, đã làm sáng tỏ rõ ràng hơn
vai trò của Thánh Nhạc trong phụng tự.
Do đó Thánh Nhạc càng liên kết chặt chẽ với
hoạt động phụng vụ bao nhiêu thì càng thánh hơn bấy nhiêu. Thánh
Nhạc vừa phát triển lời cầu nguyện một cách dịu dàng hơn, vừa cổ
võ sự đồng thanh nhất trí, lại vừa làm cho các nghi lễ thêm phần
long trọng. Do đó, Giáo Hội chuẩn nhận và cho dùng vào phụng vụ
tất cả mọi hình thức nghệ thuật đích thực, miễn là có những đặc
tính cần thiết.
Vì thế, trong khi vẫn duy trì những qui
tắc, luật lệ của truyền thống và qui luật trong Giáo Hội, cũng
như nhằm mục đích của Thánh Nhạc là làm vinh danh Chúa và thánh
hóa các giáo hữu, Thánh Công Ðồng đã ấn định những điều sau đây.
113. Thánh nhạc
trong phụng tự. Hoạt
động phụng vụ mang một hình thức cao quí hơn khi các việc phụng
tự được cử hành một cách long trọng, với tiếng hát do các thừa
tác viên có chức thánh chủ sự và giáo dân tích cực tham dự.
Còn về ngôn ngữ được xử dụng, hãy theo qui
tắc khoản 36: về Thánh Lễ, khoản 54; về các Bí Tích, khoản 63;
về Kinh Nhật Tụng, khoản 101.
114. Kho tàng
Thánh Nhạc. Phải hết
sức lo lắng duy trì và cổ võ kho tàng Thánh Nhạc, phải nỗ lực
đào tạo các ca đoàn, nhất là ở các nhà thờ chánh tòa. Về phần
các Giám Mục và mục tử khác có nhiệm vụ coi sóc các linh hồn,
hãy nhiệt tâm lo lắng để trong bất cứ nghi lễ nào có hát, tất cả
cộng đoàn tín hữu đều có thể tham dự một cách linh động vào
những phần dành riêng cho họ, theo qui tắc khoản 28 và 30.
115. Huấn luyện
thánh nhạc. Phải chú
trọng đến việc huấn luyện và thực tập âm nhạc trong các Chủng
Viện, các tập viện cũng như các học viện của các Dòng Tu nam nữ,
và cả trong những học viện và học đường công giáo khác. Vì thế,
để đảm nhiệm công việc đào tạo ấy, cần phải quan tâm đến việc
huấn luyện những giáo sư có nhiệm vụ dạy Thánh Nhạc.
Ngoài ra, nếu tiện, rất nên thành lập những
Viện Cao Ðẳng Thánh Nhạc.
Hơn nữa, các nhạc sĩ, ca sĩ, nhất là các
thiếu nhi, cũng phải được huấn luyện cho có đủ căn bản phụng vụ.
116. Bình ca và
nhạc đa âm. Giáo Hội
nhìn nhận bình ca là lối hát riêng của phụng vụ Roma; vì thế,
trong các hoạt động phụng vụ, bình ca phải chiếm một địa vi
chính yếu giữa những loại ca khác.
Không hẳn là loại trừ các loại Thánh Nhạc
khác, nhất là loại đa âm, trong những khi cử hành các việc phụng
tự, miễn là đáp ứng được tinh thần của hoạt động phụng vụ theo
qui tắc khoản 30.
117. Sách hát
bình ca. Phải hoàn
thành việc ấn loát bản mẫu các sách hát bình ca; ngoài ra, đối
với các sách đã được ấn hành sau cuộc canh tân của Thánh Piô X,
cũng phải có một ấn bản được nghiên cứu cẩn thận hơn.
Cũng nên lo ấn hành một loại sách hát gồm
những âm điệu đơn sơ hơn để dùng trong các nhà thờ nhỏ.
118. Thánh ca
bình dân. Thánh ca
bình dân phải được khéo léo cổ võ để tín hữu có thể ca vang lên
tiếng hát trong những việc đạo đức thánh thiện cũng như trong
chính hoạt động phụng vụ, theo những qui tắc và chỉ thị của chữ
đỏ.
119. Nhạc dân tộc.
Ở một vài miền, nhất là các xứ Truyền Giáo, có những dân tộc sẵn
có một truyền thống âm nhạc riêng; nó đóng một vai trò quan
trọng trong đời sống tôn giáo và xã hội của họ. Tại những nơi
này, phải quí trọng âm nhạc ấy đúng mức, và dành cho nó một địa
vị thích hợp, trong khi đào tạo cho họ có một quan niệm tôn
giáo, cũng như thích ứng năng khiếu của họ vào việc phụng tự,
theo tinh thần khoản 39 và 40.
Do đó, trong khi huấn luyện âm nhạc cho các
vị thừa sai, phải hết sức lo lắng để họ có thể phát triển truyền
thống âm nhạc của các dân tộc này, được chừng nào hay chừng đó,
trong các trường học cũng như trong các hoạt động phụng vụ.
120. Ðại phong
cầm và các nhạc khí khác.
Trong Giáo Hội La tinh, đại phong cầm phải hết sức quí trọng, vì
là một nhạc khí cổ truyền mà âm thanh có thể thêm vẻ huy hoàng
kỳ diệu cho các nghi lễ, lại có hiệu lực nâng cao tâm trí lên
cùng Chúa và những sự trên trời.
Còn các nhạc cụ khác, cũng được phép dùng
vào việc phụng tự tùy theo phán đoán và phê chuẩn của Thẩm Quyền
địa phương theo quy tắc khoản 22-2, 37 và 40, miễn là đã thích
hợp hoặc có thể thích hợp để dùng vào việc thánh, xứng đáng với
vẻ tôn nghiêm của thánh đường, và thực sự giúp cảm hóa các tín
hữu.
121. Sứ mạng các
nhà sáng tác nhạc.
Các nhạc sĩ thấm nhuần tinh thần Kitô giáo hãy ý thức rằng mình
được kêu gọi phải trau dồi Thánh Nhạc và phát triển kho tàng
thánh nhạc đó.
Họ hãy sáng tác những bản có cung điệu
thánh nhạc thực sự, để không những các ca đoàn lớn có thể hát
được mà còn hợp với cả ca đoàn nhỏ, giúp cho toàn thể cộng đoàn
tín hữu cũng có thể tham dự một cách linh động.
Còn lời thánh ca phải thích hợp với giáo
thuyết công giáo và tốt hơn cả là rút ra từ Thánh Kinh và các
nguồn mạch phụng vụ.
Chú Thích:
1
Xem Eph 5,19; Col 3,16. |
VỀ MỤC LỤC |
|
HÀ THÀNH : GIẾT
NGƯỜI CÓ THƯỞNG !
|
Theo thông tấn xã VnExpress ngày
16 tháng 4 năm 2009 cho hay : “Hà Nội sẽ mạnh tay xử lý người
sinh con thứ ba”. Đọc dòng tít ấy tôi cảm thấy lòng mình nó
nhói lên một cái thật đau. Tưởng chừng cái nhói ấy nó sẽ vơi đi
trong giây lát nhưng nó cứ âm ĩ mãi. Thôi thì cứ viết ra vài
dòng suy tư cho nhẹ cõi lòng.
Với tiêu chí ấy, Hà Nội sẽ mạnh
tay với những ai sinh con thứ ba, còn ai “kế hoạch hoá gia đình”
được thì sẽ không bị phạt. Hoá ra là người nào “kế hoạch hoá gia
đình” để không sinh con thứ ba thì bình an vô sự, còn người nào
lỡ để “vỡ kế hoạch hoá gia đình” thì sẽ bị trừng phạt như là
đuổi việc, hạ mức lương, cảnh cáo, cắt các khoản tiền thưởng
…
Chẳng hiểu người ta dựa vào cái
tiêu chuẩn nào, cái tiêu chí nào để người ta hạn chế tỷ lệ sinh
con. Người ta vẫn lu loa rằng vì tỷ lệ dân số tăng cao nên làm
cho đất nước nghèo ???
Học không cao, hiểu không rộng
nhưng bảo rằng dân số tăng làm cho đất nước nghèo không hợp lý.
Vấn đề nghèo không phải vì đông dân nhưng nghèo vì tham nhũng,
nghèo vì tri thức lẫn văn hoá còn quá kém. Vấn đề cần chú tâm
thì người ta lại không chú tâm. Con người vốn dĩ mang trong mình
cái rắc rối để rồi càng làm cho vấn đề thêm rối. Vấn đề cần làm
người ta lại không làm còn vấn đề không cần làm thì người ta lại
cứ làm.
Chuyện cần làm để nâng cao chất
lượng sống cho dân đó là nâng cao dân trí, nâng cao văn hoá,
nâng cao đời sống luân thường đạo lý.
Thử hỏi một đất nước hạn chế sinh
sản nhưng trình độ văn hoá thấp, kiến thức khoa học kém, đời
sống nhân bản dường như không có thì làm sao mà phát triển được.
Mới đây thôi, lễ hội hoa anh đào
được tổ chức ở Hà Thành, chỉ với vài cây hoa anh đào vậy mà phải
mất đến 500 cảnh sát bảo vệ !?!?!? Những người nước ngoài rất
đỗi ngạc nhiên với văn hoá của Việt Nam. Ở những nước khác sẽ
không bao giờ xảy ra chuyện như vậy. Lý do vì sao thì chắc ai ai
cũng hiểu đó là văn hoá của người Việt quá kém !
Văn hoá kém thì còn có cách để bổ
túc văn hoá ở các trung tâm bồi dưỡng giáo dục thường xuyên của
các quận huyện chứ đạo đức kém thì sẽ bổ túc ở đâu đây ? Đạo đức
của con người phải được nung nấu, đào luyện và bồi dưỡng ngay từ
mái ấm gia đình và trường học. Thử hỏi ngày hôm nay đời sống gia
đình của người Việt Nam đang đứng ở đâu ? Chắc là khó trả lời vì
trả lời đúng sự thật thì quá đau lòng, thôi thì trả lời gian dối
cho mát tai vì lẽ báo chí cũng như các cơ quan truyền thông đại
chúng vẫn quen hành xử theo “Hà Nội Mới” và “VTV3”. Mà “Hà Nội
Mới” và “VTV3” làm gì thì chắc khán thính giả quá hiểu.
Với một nền văn hoá kém và đạo đức
có vấn đề thì làm sao mà đất nước có thể thoát nghèo được.
Ông bà ta vẫn thường dạy “nghèo
cho sạch, rách cho thơm”, “giấy rách phải giữ lấy lề” … đã
nghèo, đã đói mà còn không sạch và không thơm nữa nghĩa là làm
sao ? Nghèo, đói đi chăng nữa phải có đạo đức, phải có luân lý
chứ nghèo, đói mà phi đạo đức, phi luân lý thì làm sao mà ngóc
đầu lên nổi.
“Hà Nội sẽ mạnh tay xử lý người
sinh con thứ ba”. Dòng tít này sao mà đau lòng quá ! Một
cách nào đó, dòng tít này báo cho mọi người rằng họ sẽ xử lý
những ai không chịu “kế hoạch hoá gia đình”. “Kế hoạch hoá gia
đình” mà người ta kêu gọi, cổ vũ đó là gì ? Xin thưa đó là giết
người. Chỉ có giết người thì mới không sinh con thứ 3 thôi.
Người ta vẫn dùng những từ hoa mỹ
để lấp liếm những hành động mà ngay như con vật cũng không làm
đó là giết đi đứa con trong bụng mình. “Kế hoạch hoá gia đình”
đó là cụm từ hoa mỹ thay cho từ giết người.
“Uỷ ban bảo vệ bà mẹ và trẻ em” !
Trong cái uỷ ban đó có cái phòng gọi là phòng “hút điều hoà kinh
nguyệt !”. “Hút điều hoà kinh nguyệt” ấy là gì ? Xin thưa đó
hàng tháng người đàn bà có cái chuyện hết sức bình thường của
tạo hoá, tháng nào không có nghĩa là có dấu hiệu một mầm sống
đang tượng hình trong dạ mình. Vào phòng đó để “hút điều hoà
kinh nguyệt” nghĩa là hút đi cái thai, cái mầm sống đang nẩy
sinh trong mình. Tên rất đẹp nhưng thật sự đó là hành vi giết
người.
Như đã nói, vốn học chẳng cao,
hiểu chẳng rộng nhưng được biết là con vật, dù nó không có suy
nghĩ, không có được hiểu biết, không có trí khôn như con người
những nó cũng chẳng nỡ lòng nào để giết đi chính đứa con ruột
của nó.
Đơn giản nhất, hai con vật gần gũi
với con người đó là chó và mèo. Không cần nói nhiều, ai cũng
biết là con mèo, khi nó sinh con, nếu ai biết được con của nó
nằm ở đâu thì bất cứ giá nào nó cũng gắp con nó chuyển đi nơi
khác để bảo vệ con nó. Nó phải chuyển đi vì sợ nguy hiểm đến
tính mạng của con nó. Con chó, không cần nói nhiều, những con
chó cái mới sinh con, đố ai dám đến gần vì lẽ nó rất dữ, nó sợ
người ta đánh cắp con nó nên nó canh chừng con nó một cách hết
sức cẩn thận.
Con chó, con người xem ra nó sống
có tình, có cảm hơn những con người nhẫn tâm “kế hoạch hoá gia
đình”, nhẫn tâm đi nạo phá chính mầm sống mà Đấng Tạo Hoá ban
cho mình.
Ăn ở bất nhân thất đức như thế làm
gì mà phát triển được.
Thử hỏi những người đi phá thai
trong lòng có cảm thấy thanh thản, bình an hay không ? Thử hỏi
những người tiếp tay cho việc nạo phá thai có an tâm khi cộng
tác vào chuyện giết người hay không ? Một con người có lương tâm
thật có thanh thản khi giết người hay không ? Và khi người mà
mình giết lại là chính đứa con yêu trong bụng mình.
Lẽ ra người ta cổ vũ, người ta
nâng cao đời sống tri thức, văn hoá, đạo đức để nâng cao đời
sống cho con người, đàng này người ta cổ vũ và tán thưởng cho
những hành động phá thai, giết người.
Phá thai, giết người là những hành
động làm trong phòng kín, làm trong bóng tối nhưng làm sao có
thể giấu được Ánh Sáng Chân Lý, tiếng nói của Lương Tâm.
Nghĩa trang Anh Hài ở đâu đó khắp
mọi miền đất nước, bức tường Anh Hài đang cao dần bên mảnh đất
Mai Thôn là dấu chứng cho hành động phi nhân bất nghĩa của những
con người vô luân thất đức. Có thể họ thanh thản ngoài bề mặt là
khống chế tình trạng phát triển dân số nhưng thử hỏi trong lòng
những con người giết người cũng như cộng tác vào công việc giết
người có bình an thật sự trong tâm hồn không ?
Một Thủ Đô luôn tự hào với 4000
năm văn hiến lại cổ vũ cho việc giết người sao ?
Văn hiến này là văn hiến gì vậy ?
Tự đáy lòng, tận sâu thẳm lương tâm mỗi người sẽ có câu trả lời
đúng nhất cho chuyện : “Hà Nội sẽ mạnh tay xử lý người sinh
con thứ ba”
Lm. Anmai, C.Ss.R.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
CHÚA CHIÊN NHÂN LÀNH - KINH CẦU CHO CÁC LINH MỤC
|
(CHÚA NHẬT IV MÙA PHỤC SINH, NĂM B)
Trong
Chúa Nhật IV mùa Phục Sinh (năm B), bài Phúc Âm (Gioan 10,
11-18), Bài Đọc I (Cv. 4, 8-12), và Bài Đọc II (1 Gioan 3, 1-2)
đều gợi lên trong tâm trí chúng ta hình ảnh Người Chăn Chiên
Nhân Lành. Bài Phúc Âm và các Bài Đọc trong năm A và C cũng vậy;
vì thế, Chúa Nhật IV mùa Phục Sinh thường được gọi là Chúa Nhật
Chúa Chiên Nhân Lành.
Chúa Giêsu
Kitô chính là CHÚA CHIÊN NHÂN LÀNH. Ngài đã vâng lời Đức Chúa
Cha, và xuống thế làm người, mặc lấy thân phận một người hèn
mọn, sống khiêm nhường trong gia đình nghèo khó Nagiaret. Trong
thời gian ra đi rao giảng, Ngài đã luôn tận tụy rao giảng Phúc
Âm Tình Thương, chấp nhận mọi khó khăn, mệt nhọc, mọi phản ứng
chống đối, và sẵn sàng chấp nhận cả cái chết nhục nhã trên Thánh
Giá để cứu chuộc đoàn chiên: “Ngài đã vâng phục cho đến chết, và
chết trên Thánh Giá…” (Phillip 2, 6-8).
Cuộc đời và
những lời rao giảng của Chúa Giêsu phác họa cho chúng ta hình
ảnh Người Chăn Chiên Nhân lành:
Người Chăn
Chiên Nhân Lành hy sinh tận tụy rao giảng Phúc Âm Tình Thương
của Chúa cho mọi người.
Người Chăn
Chiên Nhân Lành săn sóc đoàn chiên với lòng yêu thương, nhân
hậu; biết lưu ý đến từng con chiên một, tìm hiểu hoàn cảnh và
nhu cầu của mỗi người, lắng nghe tiếng nói của mọi người, và yêu
thương, khiêm tốn phục vụ mọi người trong những hoàn cảnh khác
nhau. Với những con chiên xa lạc, Người Chăn Chiên Nhân Lành hy
sinh đi tìm, và vui mừng khi tìm thấy, không giận dữ, không la
mắng, nhưng âu yếm vác lên vai và mang trở về đoàn.
Người Chăn
Chiên Nhân Lành cũng luôn là ngọn đèn cháy sáng để chiếu soi ánh
sáng chân lý tình thương của Chúa cho mọi người.
Đời sống đạo
đức sâu xa, âm thầm cầu nguyện và lòng nhiệt thành của vị Chủ
Chăn luôn như muối men ướp cho đời sống Dân Chúa được mặn nồng
sốt sáng.
Trong ngày
Chúa Nhật Chúa Chiên Lành, cũng như trong đời sống hằng ngày,
chúng ta hãy cùng nhau dâng nhiều hy sinh, hãm mình để xin Chúa
ban ơn thánh hóa Đức Giáo Hoàng và các vị Chủ Chăn trong toàn
thể Giáo Hội, trong đó có các vị Chủ Chăn tại quê hương Việt
Nam, nhất là các vị đang bị tù đày, các vị đang gặp nhiều khó
khăn thử thách tại những nơi mà Giáo Hội đang bị bách hại dưới
nhiều hình thức khác nhau.
Chúng ta cũng
hãy cầu xin Chúa cho chúng ta luôn hăng hái nhiệt thành cộng tác
với các Chủ Chăn trong công việc chăn dắt đoàn chiên Chúa. Các
bậc làm cha mẹ cũng là ‘các chủ chăn’ của đoàn chiên trong các
gia đình của mình, nên cũng cần cầu nguyện nhiều để xin Chúa
giúp chúng ta biết sống làm gương sáng và dẫn dắt con cháu chúng
ta trung thành giữ vững Đức Tin trong sự hòa hợp yêu thương phục
vụ lẫn nhau.
Hôm nay cũng
là ngày “Cầu Nguyện Cho Ơn Gọi Linh Mục và Tu Sĩ.” Chúng ta cũng
hãy hy sinh, hãm mình, dâng lời cầu nguyện xin Chúa ban cho
giới trẻ, con cháu chúng ta, được Chúa thương gọi và chọn để
dâng hiến cuộc đời làm Linh Mục, Tu Sĩ nam nữ phục vụ trên cánh
đồng truyền giáo bao la và đa dạng trong thế giới ngày nay.
KINH CẦU CHO CÁC LINH MỤC
Lạy Chúa
Giêsu là Mục Tử Nhân Lành, Chúa đã sai Đức Chúa Thánh Thần xuống
trên Hội Thánh Chúa để đưa các tín hữu đến với Đức Chúa Cha qua
công việc mục vụ của các Linh Mục. Tạ ơn Chúa đã ban cho chúng
con Thiên Chức Linh Mục và các tông đồ nhiệt thành. Nhờ sự linh
hướng của Đức Chúa Thánh Thần, xin hãy ban xuống trên các Linh
Mục của Chúa Ơn Khôn Ngoan trong việc lãnh đạo, Ơn Trung Tín
trong việc giảng dạy và Ơn Thánh Thiện trong việc bảo vệ các Mầu
Nhiệm Thánh của Chúa.
Mỗi khi các
ngài cùng với các tín hữu tha thiết kêu lên “Lạy Cha”, nguyện
xin cho các Linh Mục được kết hợp mật thiết với Chúa hơn. Xin
cho các ngài trở nên một với Chúa trong mối tình Con Thảo, và
tận hiến cuộc sống của các ngài cho Chúa là Con Chiên Cứu Độ
trần gian.
Nguyện xin
cho các ngài biêt nâng đỡ nhau trong Thiên Chức Linh Mục và trở
nên những người cha biết thông cảm đối với tất cả mọi người.
Nguyện xin
Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống canh tân đổi mới tâm hồn các Linh
Mục, và ban cho các ngài một Đức Tin thật lớn lao và một niềm
xác tín thật sâu thẳm vào Chúa Giêsu ngự thật nơi Phép Thánh
Thể.
Xin ban cho
các ngài niềm tín thác tuyệt đối như trẻ thơ vào tình yêu Đức
Maria, Mẹ trung tín sắt son. Xin cho các ngài biết yêu mến và
vâng lời Đức Thánh Cha và các Đức Giám Mục.
Lạy Rất Thánh
Đồng Trinh Maria, xin bênh vực các Linh Mục của Mẹ. Lạy Thánh Cả
Giuse, xin phù hộ các Linh Mục. Lạy thánh Gioan Vianney là bổn
mạng các Linh Mục, xin cầu bầu cùng Chúa cho các Linh Mục được
ơn biết kính sợ Chúa. Lạy Thánh Anphongsô, là bổn mạng các Cha
Giải Tội, xin cầu cho các Linh Mục được thêm lửa yêu mến Chúa.
Lạy Tổng lãnh Thiên Thần Micae, xin chở che các Linh Mục và Hội
Thánh Chúa. AMEN.
Lm. Trần Đức Phương |
VỀ MỤC LỤC |
|
ĐỜI SỐNG ĐỘC THÂN TRONG ƠN GỌI TẬN HIẾN (CHỨNG TỪ ƠN GỌI, BÀI
5): |
Paris.
Chủ nhật 19.04.2009,
tại Giáo Xứ Việt Nam, chị Marie Đào Kim Phượng
(1), giáo dân tận hiến « Nữ
Trợ tá tông đổ », nói chuyện với cộng
đoàn về đề tài : « Đời sống độc
thân trong ơn gọi tận hiến
».
Đây
là đề tài học hỏi thứ năm trong chương trình « chứng từ ơn gọi
», được thực hiện vào mỗi chủ nhật thứ hai mỗi tháng, trong «
Năm cầu cho ơn gọi 2009 » tại GXVN Paris. Chứng từ ơn gọi, bài
1, đã được cha Nguyễn Bình chia sẻ vào chủ nhật 14.12.08 về vấn
đề «Làm sao biết Chúa gọi mình» ? Bài 2, đã được cha Phan Tấn
Khánh chia sẻ vào chủ nhật 11.01.2009 về đề tài « Tự do trong
đời sống tận hiến ». Bài 3, đã được chị Maria Vũ Thị Minh chia
sẻ vào chủ nhật 08.02.2009 về đề tài « Đời sống siêu nhiên của
người tận hiến ». Bài 4, đã được thầy Nguyễn Quốc Tuấn, Dòng
Tên, chia sẻ vào chủ nhật 15.0302009 về đề tài : « Vấn đề tiền
bạc trong đời sống tận hiến ».
Mời
bạn đọc trước hết nghe chứng từ ơn gọi của chị Marie Đào Kim
Phương, rồi sau đó tìm hiểu đôi chút về đời sống giáo dân tận
hiến “Nữ Trợ tá tông đồ », đời sống mà chị Phượng đã quyết định
dấn thân một cách dứt khoát 27 năm qua, từ 1982.
1. Đời sống
độc thân trong ơn gọi tận hiến
Sau
Phúc Âm, theo lời mời của Đức Ông Mai Đức Vinh, chị Marie Đào
Kim Phương lên chia sẻ với cộng đoàn về đề tài « Đời sống độc
thân trong ơn gọi tận hiến ».
Chị
Phượng nói : « Kính thưa Đức Ông, quí Cha, quí Thầy, quí ông bà,
quí bác, quí anh chị và quí bạn trẻ,
Vâng lời Đ. Ô. hôm nay
con xin chia sẻ với cộng đoàn vài nét về sự độc thân trong đời
sống tận hiến. Đời sống tận hiến ở đây bao gồm những
người đi tu và
những người giáo dân tận hiến.
Nhưng trước hết, tưởng cũng nên nói vài lời về hai chữ « độc
thân » trong sự đối chiếu với đời sống lứa đôi (hay đời sống
vợ chồng). Người Việt nam mình hay nói nôm na là : con người ta
lớn lên, một là đi tu, hai là lập
gia đình. Nhưng trong cách nói đó đôi khi có cái tiêu
cực như : đi tu vì không lấy được ai, hay không tu được thì kiếm
ai mà lấy. Nói như vậy thì cả hai đàng đều là không có tự do và
không có hứng thú. Trong khi cả hai bậc sống đều là tốt đẹp cả
và đều đáng cho người ta hâm mộ và đeo đuổi.
Thưa quí bác và quí anh chị ở đây, có ai trong chúng chẳng từng
nghe hoặc nói : « cô này đẹp vậy mà đi tu, uổng quá » (làm như
chỉ có những người xấu xí mới nên đi tu), hay bậc cha mẹ là
người công giáo siêng năng đi nhà thờ, thấy một anh chàng thanh
niên đẹp trai, học giỏi, có thể là bác sĩ, kỹ sư mà đi tu thì
thay vì mừng cho Giáo Hội, lại tiếc thầm mình chưa kịp gả con
gái. Hai câu chuyện trên đây không phải là chuyện tiếu lâm để
giải sầu cho quí vị mà để nói lên phần nào
cái nhìn không đúng đắn của
một số người.
Nói
có sách mách có chứng, chúng ta thử lật xem Thánh Kinh nói gì về
đời sống độc thân vì Nước Trời. Ngay những trang đầu Thánh Kinh,
sau khi Thiên Chúa sáng tạo trời đất, chúng ta thấy : « Đức Chúa
là Thiên Chúa phán : « Con người ở một mình thì không tốt,
Ta sẽ làm cho nó một trợ tá tương xứng với nó. Đức Chúa là Thiên
Chúa lấy đất nặn ra mọi dã thú… Con người đặt tên cho mọi súc
vật, mọi chim trời và mọi dã thú, nhưng con người không tìm được
một trợ tá tương xứng. .. Đức Chúa là Thiên Chúa lấy cái xương
sườn đã rút từ con người ra, làm thành một người đàn bà và dẫn
đến với con người. » (ST 2, 18-22). Vài câu sau đó chúng ta lại
đọc thấy : « Thiên Chúa ban phúc lành cho họ, và TC phán với
họ : « Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất,
và thống trị mặt đất ». » (ST 1,28). Rõ ràng con người phải lập
gia đình thì mới sinh sôi nảy nở và làm đầy mặt đất.
Như
vậy, vào thuở ban đầu con người ta có nam, có nữ, có vợ, có
chồng, có con có cái. Thế thì hôm nay tại sao trong Giáo Hội lại
có những người sống độc thân tận hiến ?
Nhân năm nay là Năm Thánh Phaolô, chúng ta hãy thử tham khảo các
thư của ngài xem ý kiến và những lời khuyên dạy của vị thánh
tông đồ này ra sao.
1Co
7 : « 1Bây giờ, tôi đề cập tới những điều anh em đã
viết cho tôi : đàn ông không gần đàn bà là điều tốt. Nhưng để
tránh hiểm họa dâm ô, thì mỗi người hãy có vợ có chồng. 2
Với những người độc thân và quả phụ, tôi nói thế này : họ cứ ở
vậy như tôi thì tốt cho họ. Nếu không tiết dục được, họ cứ kết
hôn, vì thà kết hôn còn hơn bị thiêu đốt… »
25
« Về vấn đề độc thân, tôi không có chỉ thị nào của Chúa, nhưng
tôi chỉ khuyên nhủ anh em với tư cách là người - nhờ Chúa thương
– đáng được anh em tín nhiệm. 26 Vậy tôi nghĩ rằng :
vì những nỗi thống khổ hiện tại, ở vậy là điều tốt. Phải, tôi
nghĩ rằng đối với người ta, như thế là tốt. 27 Bạn đã
kết hôn với người đàn bà ư ? Đừng tìm cách gỡ ra. Bạn chưa kết
hôn với người đàn bà ư ? Đừng lo kiếm vợ. 28 Nhưng
nếu bạn cưới vợ, thì cũng chẳng có tội gì. Và nếu người con gái
lấy chồng, thì cũng chẳng có tội gì…. »
32 « Tôi
muốn anh chị em không phải bận tâm lo lắng điều gì. Đàn ông
không có vợ thì chuyên lo việc Chúa : họ tìm cách làm đẹp lòng
Người. 33 Còn người có vợ thì lo lắng việc đời : họ
tìm cách làm đẹp lòng vợ, 34 thế là họ bị chia đôi.
Cũng vậy, đàn bà không có chồng và người trinh nữ thì chuyên lo
việc Chúa, để thuộc trọn về Người cả hồn lẫn xác. Còn người có
chồng thì lo lắng việc đời : họ tìm cách làm đẹp lòng chồng ».
Nhưng đời sống độc thân ở đời này - ở trần gian này - đối với
con người bằng xương, bằng thịt như chúng ta là một dấu hỏi lớn,
nếu không nói là một ngờ vực, đối với những người đi tu. Làm sao
để sống độc thân ? Nói trắng ra là làm sao để sống một mình
trong sự thiếu vắng « một bóng người » (hay một « bóng hồng ») ?
Trái tim của người muốn sống đời tận hiến cũng tiềm tàng tình
phụ tử hay tình mẫu tử. Làm sao
để khỏa lấp cái trống vắng quá lớn đó ? Khi người ta
ví vợ hay chồng mình là « một nửa của tôi » (ma moitié), vậy thì
người độc thân tận hiến là một sự « bất toàn » hay sao ? Cái giá
phải trả có quá đắt không ?
Đây
có thể là một sự lo lắng của cha mẹ có con muốn đi tu và cũng có
thể là một đắn đo của chính đương sự. Sự đắn đo, suy nghĩ này
rất chính đáng và cần thiết vì con người đó là một con người
bình thường chứ chưa là thiên thần. Người tận hiến không phải là
người không có tình cảm, không có rung cảm, không có trái tim,
không biết yêu thương hay không cần được yêu thương. Và dĩ nhiên
là trong mỗi bậc sống đều có Ơn Chúa, nhưng Ơn Chúa không miễn
cho con nguời sự suy nghĩ, cân nhắc trước khi đi đến quyết định
chọn đời sống « một mình » trong tự do và ý
thức – ý thức từ khước Tình Yêu con người và một mái ấm gia
đình.
Vâng, người quyết định chọn đời sống tận hiến là người chọn
« đời sống một mình » (solo) nhưng chữ « một
mình » này không đồng nghĩa với « cô
đơn trường kỳ ». Cái đời sống không có « bóng hồng »
(hay « hoàng tử của lòng em ») mà tôi vừa nêu trên đây có một « khoảng
trống đợi chờ » nhưng đợi chờ được một Tình Yêu bao
la của Thiên Chúa lấp đầy. Nó là một thửa đất mà Thiên Chúa sẽ
làm nên mầu mỡ, sinh hoa kết trái ra những đứa con tinh thần
thay cho những đứa con xác thịt mà họ không thể có. Đời sống
độc thân trong ơn gọi tận hiến không phải là một gò bó, ràng
buộc, thiếu thốn mà là một khả
năng yêu thương rộng mở, sẵn sàng, để họ không thuộc
về riêng ai nhưng thuộc về tất cả, vì Chúa và với Ơn Chúa.
Không có Ơn Chúa thì việc đó thật là ngoài sức con người.
Trong đức tin Công giáo, chúng ta tin là con người từ Thiên Chúa
mà đến và ơn gọi của con người là trở về với Thiên Chúa. Cuộc
đời của con người ở trần thế chỉ là một cuộc hành hương tiến về
Nước Trời nơi con người sẽ được chia sẻ đời sống viên mãn và
vĩnh cửu là hạnh phúc đời đời với Thiên Chúa. Đó là cùng đích và
hy vọng của nhân loại. Nơi đó không còn là nơi « dựng vợ, gả
chồng » nữa.
Và
đời sống độc thân tận hiến là
một tiên báo, một dấu
chỉ cho cuộc sống đó. Thiên Chúa sẽ là tất cả cho tất
cả. Giáo Hội quả quyết đời sống độc thân tận hiến là một ơn Chúa
ban cho Giáo Hội và cho nhân loại. Người độc thân tận hiến không
những sẽ hoàn toàn thuộc về Chúa ở đời sau mà ngay từ đời này.
Amen.
Đào-Kim-Phượng, AA
Giáo xứ VN Paris, 19-04-2009
2. Giáo dân
tận hiến « Nữ Trợ tá Tông đồ »
Sau
tên mình, chị Đào Kim Phượng thường hay thêm hai chữ AA hoa. Đó
là viết tắt của hai chữ tiếng pháp « Auxiliaire de
l’Apostolat », nghĩa là Nữ Trợ tá Tông đồ, đời sống giáo dân tận
hiến mà chị Phượng đã dứt khoát dấn thân. Nữ Trợ Tá Tông Đồ
không phải là một nữ tu, nhưng là một giáo dân, một giáo dân tận
hiến, tận hiến để giúp việc tông đồ của giám mục địa phận.
Cuối chiến tranh thế giới thứ
nhất, vào năm 1917, Hồng y MERCIER, tổng giám mục giáo phận
Malines-Bruxelles, Bỉ, muốn phát triển công việc tông đồ trong
giáo phận mình, đã kêu gọi những phụ nữ muốn dấn thân đời mình,
tận hiến cho Chúa, hãy tham gia vào công việc tông đồ trong giáo
phận của ngài. Nhiều phụ nữ đã nghe theo lời kêu gọi này. Họ
sống đời tận hiến, chiêm niệm "như một nữ tu dòng kín".
Nhưng hoạt động xã hội tông đồ ngoài đời như một giáo dân, theo
chỉ dẫn của giám mục địa phận mình. Đây là một hình thức ơn gọi
tông đồ mới. Ơn gọi này, ngày nay lan ra khắp nơi. Hơn 350 giám
mục trên khắp thế giới đã mời những nữ giáo dân dấn thân làm Nữ
Trợ Tá Tông Đồ trong các giáo phận của mình. Các nữ trợ tá tông
đồ có mặt trên các giáo phận Pháp, cũng như ở nhiều giáo phận
Việt Nam : Hà Nội, Huế, TP Hồ Chí Minh,…
Theo lời gọi của giám mục, Nữ Trợ Tá Tông Đồ hứa dấn thân :
·
Yêu mến Giáo Hội, đặc
biệt là giáo hội địa phương mình phục vụ
·
Sống đời độc thân, tận
hiến cả đời mình cho Chúa, cả tâm hồn, cả thân xác, cả ý chí, cả
trí tuệ, cả con tim
·
Chấp nhận mọi sứ mệnh
tông đồ mà giám mục trao phó
·
Dâng hiến con người
mình, thời giờ mình, tài sản mình để phục vụ giáo hội
·
Theo học những khóa
trình đào tạo do giám mục đề nghị
·
Lấy sáng kiến và đảm
nhận trách nhiệm trong các công việc : hoặc trong lãnh vực nghề
nghiệp, hoặc trong những lãnh vực khác.
Để
đáp lại lời gọi của giám mục, Nữ Trợ Tá Tông Đồ có ba chặng
đường phải đi qua trong tiến trình dấn thân.
Chặng đào tạo đầu tiên kéo dài khoảng 3 năm, trong đó nữ giáo
dân thấy có ơn gọi tận hiến sẽ được đào tạo về tu đức, về thần
học, về đời sống giáo hội hiện tại, về chuyên nghiệp, công dân,
văn hóa, xã hội,…
Chặng đáp tạm, kéo dài khoảng 6 năm, qua hai giai đoạn. Giai
đoạn tạm 1 năm, lập lại 3 lần (1x3). Rồi giai đoạn tạm 3 năm,
đáp một lần (3x1).
Chặng đáp dứt khoát. Sau khi đã đáp tạm 6 năm, tức sau 9 năm đào
tạo, nếu nữ giáo dân vẫn thấy ơn gọi tận hiến hấp dẫn mình và
muốn theo đuổi và đáp lại lời gọi này đến cùng, thì có thể đáp
dứt khoát (définitif).
Trong những chặng học hỏi dấn thân tận hiến trên và suốt cuộc
đời mình, người Nữ Trợ Tá Tông Đồ sống bằng tình yêu Chúa Cha,
kết hiệp và bén rễ trong Chúa Con Kitô, yêu mến thế giới nhân
trần và suy ngắm về hoạt động của Chúa Thánh Linh trong thế giới
ấy.
Chị
luôn luôn học hiểu để sống cho Thiên Chúa trong Đức Tin. Điều
này có nghĩa là :
·
Nhờ cầu nguyện (một giờ
mỗi ngày), Chị tìm được ý nghĩa và sức mạnh cho hoạt động của
mình
·
Chị gắng sức thường
xuyên tham dự thánh lễ càng nhiều càng tốt
·
Chị năng chịu bí tích
giải tội
·
Để thêm nguồn sức mạnh,
mỗi tháng chị dành một ngày để cầu nguyện thinh lặng, và mỗi năm
làm một cấm phòng.
Chị
mở tâm trí ra tiếp nhận mọi thực tại nhân loại.
Mọi
ơn huệ mà Chúa đã ban cho chị, chị dùng để phục vụ con người và
thế giới.
Đời
sống của chị trong tất cả những khía cạnh của nó sẽ là nơi mà
giám mục gọi chị.
LỜI KẾT
Giáo hội Việt Nam đang hồ hởi chuẩn bị cử hành NĂM THÁNH 2010,
kỷ niệm 50 năm thiết lập Hàng Giáo Phẩm Chính Tòa Việt Nam
(1960-2010). 50 năm đầy hồng ân Chúa, nhưng cũng là 50 năm mà công
việc tông đồ truyền giáo có chiều không tăng mà lại giảm. Phải
chăng đây là dịp để giáo sĩ và giáo dân việt nam nhìn lại để dấn
thân hơn và hữu hiệu hơn trong công việc tông đồ ? Phải chăng
đây là lý do thức đẩy các giám mục lưu tâm nhiều hơn đến việc
truyền giáo ? thúc đẩy các giáo dân dấn thân hơn để trợ giúp các
giám mục trong việc tông đồ ?
Năm
1533, Theo « Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục », vào tháng
3 năm Nguyên Hoà thứ I (1533), một người Âu Châu tên là Inêkhu
lén đến truyền giáo ở làng Ninh Cường, huyện Nam Chân và làng
Trà Lũ, huyện Giao Thuỷ thuộc giáo phận Bùi Chu, tỉnh Nam Định
ngày nay (2). Năm 1533 được các nhà làm sử Giáo Hội Công Giáo
Việt Nam coi là năm đầu tiên Công Giáo đi vào xã hội Việt Nam,
mở đầu cho thời kỳ gọi là BẢO HỘ, 1533-1659. Kết quả, nhờ sự
giảng đạo của các cha Đaminh, Phanxicô và nhất là Dòng Tên, đặc
biệt là cha Đắc Lộ, vào năm 1659, Giáo Hội Việt Nam, chưa có
giám mục, linh mục, tu sĩ, chủng sinh, nhưng có khoảng 100.000
tín hữu, 20.000 trong Nam và 80.000 ngoài Bắc (3) , với
265
nhà thờ (4). Cùng với các thừa sai khác, cha Đắc Lộ đã khai sinh
ra Chữ Quốc Ngữ.
Ngày 09.09.1659 ÐTC Alexandre VII ban sắc lệnh thiết lập 2 giáo
phận truyền giáo đầu tiên tại Việt Nam : ÐC François Pallu được
bổ nhiệm làm Giám Quản Tông Tòa Đàng Ngòai, thêm quyền cai quản
5 tỉnh Vân Nam, Quí Châu, Hồ Nam, Hồ Bắc và Tứ Xuyên của Trung
Quốc và nước Lào ; và ÐC Pierre Lambert de la Motte được bổ
nhiệm làm Giám Quản Tông Tòa Đàng Trong, thêm quyền cai quản các
tỉnh Chiết Giang, Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây và Đảo Hải
Nam của Trung Quốc và gồm luôn cả Chiêm Thành. Từ đây, ngày
09.09.1659 được coi là ngày mở đầu cho thời kỳ thứ hai trong
lịch sử truyền giáo ở Việt Nam : thời kỳ TÔNG TÒA (5). Kết quả
là 300 năm sau, vào năm 1960, Giáo hội Việt Nam có 17 giáo phận,
có 130.000 người tử vì đạo, trong đó 117 vị đã được Ðức Thánh
Cha Gioan Phaolô II Tuyên Phong Hiển Thánh tại Rôma ngày
19/06/1988, có 23 giám mục, 1.914 linh mục, 5.789 tu sĩ, 1.530
đại và tiểu chủng sinh, có 2.096.540 tín hữu, trên tổng số
29.200.000 dân, chiếm tỷ số 7.17% dân số (6). Số giáo hữu
tăng gấp 21 lần. Giáo Hội, dẫu không ngừng bị bách hại bởi chính
quyền, đã tạo ra một nền văn học quốc ngữ mới cho Việt Nam, đã
tham gia tích cực vào việc xây dựng và cải tiến văn hóa, giáo
dục và xã hội cho Việt Nam.
Ngày 24-11-1960, Đức Thánh Cha Gioan XXIII thành lập Hàng Giáo
phẩm Việt Nam; các giáo phận hiệu toà trở thành CHÍNH TÒA với 3
toà Tổng giám mục ở Hà Nội, Huế và Sài Gòn. Thành lập thêm ba
giáo phận Đà Lạt, Mỹ Tho và Long Xuyên trong giáo tỉnh Sài Gòn.
Số các giáo phận tăng lên thành 20 : 10 ở giáo tỉnh Hà Nội, 4 ở
giáo tỉnh Huế và 6 ở giáo tỉnh Sài Gòn. Sau 50 năm Chính Tòa
(1960-2010), « Tính đến 31-12-2007, Giáo hội Công giáo Việt Nam
có 26 giáo phận : 10 ở Giáo tỉnh Hà Nội, 6 ở Giáo tỉnh Huế và 10
ở Giáo Tỉnh TP-HCM, 2 Hồng y, 2 Tổng Giám mục, 38 giám mục,
3.510 linh mục, 14.968 tu sĩ nam nữ, 6.087.659 tín hữu trên tổng
số 85.154.900 người, chiếm 7,15% dân số. Trong gần 50 năm
qua, GHCGVN đã có thêm 6 giáo phận mới, số tín hữu tăng gấp 3,
số linh mục tu sĩ tăng gấp đôi » (7). Nhưng tỷ số sút 0.02%. Đây
là một vấn đề lớn mà Giáo Hội Việt Nam hôm nay phải đặt ra cho
mình. Kết quả truyền giáo chẳng những không tăng, mà còn giảm,
tại sao ?
Paris, ngày 26
tháng 04 năm 2009
Trần Văn Cảnh
|
VỀ MỤC LỤC |
|
NĂM THÁNH 2010
|
Đội ơn Thiên
Chúa muôn đời.
Việt Nam Giáo
Hội được Người xót thương.
Ngót năm thế kỷ
trên đường.
Qua ba giai đoạn
vững vàng thăng hoa.
Tông Tòa, Bảo
Hộ, Chánh Tòa
Ngày nay nhìn
lại để mà kiểm xem.
Yêu thương, phục
vụ anh em
Con chiên, mục
tử – ngoan hiền vui chung???
Tương lai nhắm
tới hiệp thông,
Cộng đồng dân
Chúa sống cùng muôn dân.
Bối cảnh xã hội
chuyển dần,
Văn hóa thiên kỷ
như gần đổi thay.
Năm mươi năm
cuối vừa đây,
Biến thiên lịch
sử với đầy gian nan.
Khó khăn, thử
thách đầy tràn,
Bình an của Chúa
rộng ban thường ngày.
Tuy nhiên, thẩm
định cho hay:
Cũng còn thiếu
sót ngày rầy phải lo.
Mong sao nghĩa
vụ tông đồ
Truyền thông phổ
biến chẳng mờ tình thương.
Phục vụ vời đức
khiêm nhường,
Không vì chức vụ
coi thường tha nhân.
Hiệp thông giữa
mọi thành phần,
Linh mục, tu sĩ,
giáo dân một lòng.
Tham gia lợi ích
cộng đồng,
Tốt đời đẹp đạo,
cầu mong an bình.
Tứ dân thăng
tiến văn minh,
Đạo Người, đạo
Chúa đồng hành tự do.
Cậy trông Thiên
Chúa ban cho…
………………………………………………………………………
(Trích phỏng theo: dự án CĐDCVN cử hành năm
Thánh 2010 của Đức Hồng Y Tồng Giám Mục Phạm Minh Mẫn)
Th.K. Dominic. |
VỀ MỤC LỤC |
|
TÔN GIÁO |
Với người cộng sản “tôn giáo là
thuốc phiện” nên họ bài bác. Nhưng với hầu hết mọi người chúng
ta, tôn giáo phục vụ như một nguồn sinh khí đi tìm sự thiện hảo.
Lý tưởng, giá trị luân lý, và những khát vọng cao quí nhất của
chúng ta bắt nguồn từ tôn giáo và được nuôi dưỡng trong tôn
giáo. Vì thế, tôn giáo rất cần thiết cho đời sống con người.
Nhưng tôn giáo có thể bị lạm dụng.
Phi Hùng 5 tuổi, suốt buổi sáng
xem ra có vẻ không được vui. Không có gì bà mẹ đề nghị làm nó
vừa lòng. Sự chịu đựng của bà mẹ xem chừng đã cạn. Sau cùng, bà
đưa cho nó một tập báo và một cái kéo, và đề nghị nó ngồi trong
phòng cắt những hình ảnh ra. Bà trở lại với công việc của bà.
Sau đó, bà khám phá ra cậu bé đã lôi tất cả các sách trong tầm
tay vói của cậu ra khỏi giá sách và vung vãi chung quanh phòng.
Hôc bàn cũng đều được mở và mọi thứ trong đó được tung toé trên
sàn. Bà mẹ giận dữ, lôi cổ thằng bé, lắc lư, và hét nó: “Cái gì
làm khổ con? Con là một đứa trẻ bướng bỉnh suốt buổi sáng. Bây
giờ con đi tới ngồi trên chiếc ghế trong bếp cho tới giờ cơm
trưa. Nếu cần, mẹ phải cột con vào đó. Con không biết rằng Thiên
Chúa sẽ phạt con nếu con không học trở nên tốt. Ngài không thích
những đứa trẻ xấu.”
Phi Hùng không phải là đứa trẻ
hạnh phúc. Nó giận dữ. Nó tìm kiếm sự báo thù. Bà mẹ càng phạt
nó, nó càng cảm thấy phải phục thù. Nó không muốn trở thành xấu.
Nó muốn nên tốt. Nhưng nó không biết tại sao nó lại làm như thế.
Bất cứ khi nào bố mẹ đe dọa đứa
trẻ “Thiên Chúa sẽ phạt con”, đứa trẻ đang có vấn đề và chúng ta
lại giao vấn đề cho quyền hạn của Đấng trên cao. Đứa trẻ cảm
thấy có cái tự hào rằng không ai có thể làm gì được nó. Vì không
có hình phạt nào từ Thiên Chúa đến ngay lập tức, nên nó sẽ cười
chê một sự đe dọa như thế. Vì thế, thật là vô ích nếu dùng sự đe
dọa như thế như một kỷ thuật cho việc huấn luyện.
Bà mẹ thấy đứa con gái mình nói
dối một cách trơ trẽn, bà mẹ khó chịu bảo: “Thuỳ Vân, con có
biết nói dối là không tốt không? Những người nói dối không ai
thích họ. Linh hồn họ thất đáng thương. Con có nghĩ rằng Chúa và
các thánh không thích những người như vậy không? Chúa muốn chúng
ta phải chân thành và chân thật. Không có chỗ trên nước trời cho
những người nói dối. Nếu con nói dối, con không tốt!”
Thật dễ cho một đứa trẻ nên tốt
đến nỗi nó không thể trở nên xấu được nếu nó không gặp những
chướng ngại trong môi trường nó sống. Chính những chướng ngại
làm nó thất vọng và quay sang quậy phá như một lối thoát để ra
khỏi sự khó khăn của nó. Vì đứa trẻ có mục đích trong cách hành
xử sai lầm, nên việc giáo dục không làm thay đổi cũng không cất
đi những chướng ngại. Nó chỉ càng làm tăng thêm sự chán nản. Khi
chúng ta có một lý tưởng, chúng ta cố gắng để đạt được, nhưng
khi chúng ta chỉ cho đứa trẻ thấy nó còn cách xa lý tưởng, chúng
ta chỉ làm tăng thêm sự thất vọng và làm cho nó khó có thể bắt
đầu được. Cần tránh sự lên án, vì việc giáo dục cần sự khích lệ
và sự cổ võ để giúp đứa trẻ ra khỏi những khó khăn của nó. Đứa
trẻ biết rằng nó phải nên tốt. Vì không biết mục đích của hành
động nên đứa trẻ thất vọng về việc khó đạt được lý tưởng của nó.
Một sự xung khắc xảy ra giữa cái nó biết mình nên làm và cái nó
thấy mình đang làm. Và vì không thể đi cả hai lối một lúc, nó
phải học giả vờ. Nó học ẩn núp đàng sau ý hướng tốt khi mục đích
thật của nó hoàn toàn đối nghịch. Khi sự giáo huấn được dùng để
kích động hành động tốt, chúng ta thấy con trẻ với bộ mặt xấu.
Chúng cố gắng dưới mọi trường hợp để xuất hiện trong ánh sáng
luân lý tốt đẹp nhất. Chúng lo sợ rằng sự bất xứng thật của
chúng sẽ cho thấy bộ mặt của chúng. Chúng càng tốn nhiều năng
lực cho dáng vẻ bên ngoài và cho sự sợ sệt đó, chúng càng ít dồn
năng lực cho sự phát triển và cho sự lớn lên thật sự.
Sự việc bố mẹ khuyến khích đứa trẻ
đi tới tham gia những sinh hoạt nhà thờ vào ngày chủ nhật trong
lúc họ vẫn cứ ở nhà, cho thấy một hình ảnh đặc biệt đối với đứa
trẻ. Dường như có hai tiêu chuẩn luân lý: một cho con trẻ và một
cho người lớn. Trẻ con phải đi tham dự những sinh hoạt nhà thờ
ngày chủ nhật để học trở nên tốt trong khi bố mẹ không còn cần
thiết sự huấn luyện nầy. Nhưng trẻ con thường cảm thấy rằng bố
mẹ cũng làm điều xấu, cũng bất công đối với chúng nó, nhưng tại
sao họ lại có đặc quyền không phải tham dự những sinh hoạt tôn
giáo như chúng nó. Cảm giác của chúng về sự bình quyền bị xúc
phạm. Điều đó thêm vào cảm giác bị đàn áp bỡi người lớn. Điều đó
cũng làm cho việc tham dự những sinh hoạt tôn giáo thành một bổn
phận không thể chấp nhận được và làm thất bại mục đích của sự
huấn luyện tôn giáo. Vì thế, bố mẹ cần phải làm gương, phải đi
tiên phong trong vấn đề tôn giáo.
Nếu đứa trẻ lớn đủ để có quan niệm
về cuộc sống đời sau và những đe dọa về hình phạt hỏa ngục được
dùng, nó có thể phát triển sự sợ hãi về sự chết, về tương lai,
về cái vô hình. Sự sợ như thế có thể ám ảnh cuộc đời nó, không
cho nó sự tự do để lớn và sức mạnh để gánh lấy trách nhiệm. Nó
phải đối diện với một ông ngáo ộp, một ông kẹ, người luôn theo
dõi những hành vi của nó để sẵn sàng ban tặng cho nó những hình
phạt nếu nó có những hành vi bất xứng. Vì thế, nó có thể phát
triển một sự hận thù đối với ông thần nào đó chỉ muốn dòm ngó để
lên án nó. Và vì cảm giác như thế không thể diễn tả được, đứa
trẻ càng làm cho bộ diện bên ngoài thêm sai lầm. Sự xung đột
giữa ý hướng thật và sự giả vờ chỉ đưa tới tình trạng càng không
thể thích nghi hoặc tình trạng bị bệnh tâm thần.
Vì thế, chúng ta cần phải cắt
nghĩa kinh thánh hay trình bày giáo lý cho con trẻ một cách
thích hợp. Sự giải thích phải phù hợp với tuổi tác, kiến thức,
văn hóa, và hợp với văn minh thời đại để giúp con trẻ thu thập
vốn liếng cần thiết cho đời sống tâm linh mà không làm khủng
hoảng chúng trong vấn đề tâm lý. Sự giáo huấn của tôn giáo có
thể được dùng để giúp cho con trẻ biết khám phá ra rằng một số
loại hành động chắc chắn nào đó đã được tìm thấy là sai trái vì
chúng đã làm hư hại sự liên hệ tốt đẹp và hạnh phúc giữa con
người. Bố mẹ và con cái có thể thảo luận về những câu chuyện và
dò xem những khả năng giải quyết những xung khắc để sự thân
tình và sự hài hòa có thể được phục hồi. Tất cả chúng ta đều
gặp khó khăn. Trẻ con cần biết rằng chúng ta đang cùng chung
chuyến tàu, và chúng ta cũng phải tìm lối để phục hồi sự hài hòa
là cái tuyệt đẹp của cuộc sống mà chúng ta cần phải bảo tồn nếu
chúng ta muốn cuộc đời chúng ta có ý nghĩa và nên thi vị.
Lm. Lê Văn Quảng,
tiến sĩ Tâm lý |
VỀ MỤC LỤC |
|
MỤC TỬ CÂM
LẶNG LÀ MỤC TỬ KHÔNG NHÂN LÀNH |
Con viết bài này
với lòng kính phục và yêu mến Đức Tổng Giám Mục
Giuse Ngô Quang
Kiệt, người đã củng cố lòng tin yêu
cho nhiều thành phần Dân Chúa,
nhất là giới trí thức.
Có một giai
thoại tôi không nhớ mình đọc ở đâu, rằng nhiều thế kỷ trước,
trong lúc Giáo Hội đang gặp nhiều khủng hoảng và thử thách, các
vị Hồng Y trong Hội Đồng Cơ Mật của Toà Thánh đang bối rối chọn
người kế vị ngai toà Phêrô, thì một vị hồng y dõng dạc lên
tiếng: “Nếu các ngài chọn vị giáo hoàng thánh thiện thì chọn vị
này, nếu chọn vị khôn ngoan thì chọn vị này, còn nếu thấy giai
đoạn này cần vị giáo hoàng can đảm, thì xin hãy chọn… tôi!”. Kết
quả là ngài được bầu làm Giáo Hoàng và ngài đã đưa Giáo Hội vượt
qua mọi thử thách để bước vào thời kỳ bình an. Chuyện này tôi
chưa có cơ hội tìm tài liệu kiểm chứng, nhưng nó chứa đựng một
sự thật không ai có thể chối cãi: Giáo Hội cần những vị chủ chăn
can đảm và biết quên mình.
Đọc lại Kinh
Thánh và nhất là Tin Mừng, chúng ta bắt gặp hình ảnh những người
mục tử nhân hậu, yêu thương đoàn chiên, hết lòng vì đoàn chiên
và hy sinh mạng sống vì đoàn chiên của mình. Đức Giêsu là người
Mục Tử cao cả nhất, đã sống trọn vẹn cho lý tưởng ấy.
Thế nhưng, có
một điểm cực kỳ quan trọng mà chúng ta ít chú ý: Để là người mục
tử nhân lành, trước hết phải là người mục tử can đảm. Điều này
thật dễ hiểu. Nếu người mục tử nhân hậu yêu thương mà lại nhút
nhát sợ hãi trước uy lực thì làm sao bảo vệ được đàn chiên khi
sói rừng xông đến? Xin hãy nhớ can đảm hay dũng cảm là một trong
các nhân đức cần thiết cho đời sống người Kytô hữu. Nhưng thế
nào là người mục tử can đảm? Thưa đó là người biết lên tiếng khi
cần thiết để bảo vệ đàn chiên, bảo vệ Công lý và Hoà bình; đó là
người không sợ nguy khó, không sợ mất quyền lực; và đó còn là
người dám nói “Có” khi đa số nói “Không” và ngược lại, miễn là
điều mình nói là đẹp lòng Thiên Chúa. Sách Khôn Ngoan diễn tả sự
khôn ngoan là làm đúng Thánh Ý Thiên Chúa, vậy người mục tử khôn
ngoan phải là người mục tử can đảm.
Trong Cựu
Ước, Thiên Chúa đã dùng miệng ngôn sứ Isaia để quở trách những
mục tử không dám lên tiếng bênh vực cho công lý, cho hoà bình và
cho đàn chiên: “Quân canh của chúng: Một lũ đui mù, chúng hết
thảy đều vô tri vô giác. Hết thẩy, đàn chó câm, không biết sủa,
chúng mê sảng, nằm im thin thít, chỉ thích ngủ lười. Lũ chó háu
ăn, không hề biết chán, chúng là mục tử mà chẳng biết để ý: Hết
thảy chúng ngả theo đường của chúng, mỗi người với lợi riêng tư
nơi xó của mình: “Lại đây, qua sẽ kiếm rượu, rượu nồng, ta uống
tha hồ, Hôm nay sao, mai rồi cũng thế. Còn bộn, còn quá nhiều!”
Người công chính thiệt mạng, mà không kẻ nào bận tâm. Những
người nhân nghĩa bị diệt mà không ai màng để ý. Ác đức hoành
hành, người lành bị diệt, Nhưng họ sẽ được vào trong an bình.
Họ sẽ thảnh thơi an nghỉ, Những ai dõi theo đường ngay nẻo
chính” (Isaia 56, 10; 57, 1-2). Chỉ cần đọc đoạn này thôi,
chúng ta thấy rõ ràng khi mục tử câm lặng thì đàn chiên thiệt
mạng, bị tiêu diệt còn người gian ác thì cứ nhởn nhơ và tiếp tục
vờn bắt đàn chiên nhỏ bé.
Trong Tin
Mừng, Đức Giêsu, vị Mục tử nhân lành nhấn mạnh: “Tôi chính là
Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho
đoàn chiên. Người làm thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên
không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy.
Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn, (13) vì anh ta là kẻ
làm thuê, và không thiết gì đến chiên. Tôi chính là Mục Tử nhân
lành. Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi, như
Chúa Cha biết tôi, và tôi biết Chúa Cha, và tôi hy sinh mạng
sống mình cho đoàn chiên”. (Ga 10,11-18). Chúa Giêsu bảo
rằng người Mục Tử nhân lành dám hy sinh để bảo vệ chiên mình.
Suy ngắm và
cảm nghiệm Lời Chúa sâu xa, Đức Thánh Cha Benedicto XVI của
chúng ta là mục tử nhân lành thực sự. Khi còn là Hồng Y, ngài đã
lên tiếng vể những mục tử vì sợ hãi mà câm lặng: "Lời Chúa
trong Kinh Thánh và những lời của các giáo phụ như vang lên
trong đầu tôi: Kết án nặng nề những mục tử nào làm chó câm để
tránh bị phiền toái và vì thế để cho nọc độc lan tràn. Im lặng
không phải là bổn phận hàng đầu của người công dân và riêng tôi,
tôi kinh sợ cảnh một giám mục chỉ biết an phận, chỉ lo làm sao
để tránh phiền phức và lấp liếm xung đột". (trích Muối Cho
Đời trang 85). Chính ngài làm chứng cho Lời Chúa và sống điều
ngài nói khi ngài luôn lên tiếng để bênh vực sự sống, bênh vực
sự thật và sẵn sàng chấp nhận bị oán ghét và chỉ trích bởi những
kẻ luôn muốn huỷ diệt mầm sống.
Giáo Hội Việt
nam với truyền thống anh dũng của hàng trăm ngàn tiền nhân tử
đạo, can đảm làm chứng cho Tin Mừng, chắc chắn cũng có vô số
những chủ chăn nhân hậu và can đảm. Đức Tổng Giám Mục Giuse là
một trong những chủ chăn mà sự can trường và lòng nhân hậu đã
đánh động rất nhiều tâm hồn Kytô hữu. Khi một số người Công
giáo, nhất là giới trí thức, đang chán nản trước một vài chủ
chăn câm lặng, thì Thiên Chúa gửi Đức Tổng Giuse Hà nội, Đức Cha
Tôma Vĩnh Long, Đức Cha Micae Kontum v.v… và các Cha Dòng Chúa
Cứu Thế, và nhiều linh mục can đảm khác. Chính các ngài đã làm
bừng lên ngọn lửa mà Đức Giêsu đã ném vào thế gian và mong cho
bùng cháy lên, ngọn lửa mà Chúa Thánh Linh đã dùng để ngự xuống
ngày lễ Ngũ Tuần. Trong khi đó, cũng thấy rải rác đó đây vài chủ
chăn nhát đảm, nghe đến Công Lý, Sự Thật là chết khiếp kêu lên:
“Ôi làm vậy để làm gì?”!!!
Có một điều
khác biệt lạ lùng giữa xưa và nay là thời các ngôn sứ, thời Chúa
Giêsu không có các chủ chăn quốc doanh. Các chủ chăn thời ấy có
nhu nhược, hèn nhát thì cũng chỉ “lo kiếm rượu rồi tha hồ uống”
như Isaia diễn tả, chứ không thấy kiểu chủ chăn hèn hạ chửi mắng
đàn chiên, đánh đạp, ăn thịt chiên, thậm chí còn đuổi chiên đi
để tiếp đón người có uy quyền. Bây giờ có những chủ chăn hung
hăng trước đàn chiên, nhưng lại nhu nhược trước bất công và bạo
lực. Tôi đã thấy có những chủ chăn hời hợt nói cười tâng bốc các
thế lực nhưng lại sẵn sàng đuổi chiên Chúa đi, họ sẵn sàng nghe
và làm theo lời người chống đối Thiên Chúa nhưng lại quay lưng
trước các vấn nạn của dân Thiên Chúa. Có những chủ chăn mà
“người có quyền” bảo nói cái gì, đọc cái gì trong Thánh Lễ thì
cũng nói, cũng đọc cho cộng đoàn nghe hết, không nghĩ điều ấy
làm xúc phạm đến dân Chúa, nhưng khi giáo dân góp ý thì hét lên:
“Có giỏi thì lên đó mà giảng”!
Lạy Chúa
Giêsu Phục Sinh, chúng con sắp mừng lễ Chúa là Mục Tử nhân lành,
xin Chúa biến đổi lòng các mục tử mà Chúa đã chọn, để khi các
ngài loan báo Tin Mừng thì các ngài cũng can đảm bảo vệ đoàn
chiên Chúa và dám lên tiếng vì Công Lý và Sự Thật.
Gioan Lê Quang Vinh
|
VỀ MỤC LỤC |
|
TÔN GIÁO LÀ TẤM
LÒNG NHÂN ÁI VỊ THA . |
Tôi sinh
trưởng trong một gia đình nông dân bên bờ đê sông Hồng thuộc
miền đồng bằng Bắc Việt, trong tỉnh Nam Định. Dòng họ nội ngọai
nhà tôi đều đã nhiều đời theo đạo công giáo. Mà ông nội tôi lại
là một ông thầy đồ dậy chữ nho, nên trong gia đình chúng tôi vẫn
còn giữ được cái truyền thống “gia phong gia đạo” do ông bà để
lại. Cha tôi là con trưởng, mà mẹ tôi cũng là trưởng nữ của ông
bà ngọai, cho nên hai ông bà đều chú tâm đến công việc của cả
dòng họ, chứ không phải chỉ chăm lo riêng cho gia đình riêng của
mình.
Vì ông nội
tôi mất khi tôi mới được 5-6 tuổi, nên tôi chẳng hề được học một
câu chữ nho nào của cụ. Tuy vậy, tôi vẫn thấy trong gia đình
chúng tôi, thì ai nấy vẫn thường được cha mẹ rèn cặp chỉ bảo
theo đường lối lễ giáo đã ăn rễ sâu trong nhiều thế hệ các gia
đình ở miền thôn quê từ thuở xa xưa. Tôi vẫn còn nhớ lời cha mẹ
hay nhắc nhủ lũ anh chị em chúng tôi đại khái như : “Giấy rách
giữ lề”, “ Trai thì trung hiếu làm đầu, Gái thì tiết hạnh làm
câu sửa mình”, “Đói cho sạch, rách cho thơm”,” Thà chịu nghèo
chứ không chịu hèn “, “ Thương người như thể thương thân” v.v…
Nói chung thì cuộc sống tại miền quê hồi trước năm 1945 thường
là êm đềm, lương hảo, bà con thân tộc cũng như người cùng trong
lối xóm luôn đày tình nghĩa tương thân tương trợ, cưu mang giúp
đỡ lẫn nhau. Làng tôi hồi đó có chừng 100 gia đình theo đạo công
giáo cũng như theo đạo Phật, nên có cả nhà thờ, có cả chùa. Đặc
biệt lại còn có cả một ngôi đình làng nữa.
Mẹ tôi chẳng
biết đọc, chẳng biết viết chữ quốc ngữ. Nhưng bà lại có trí nhớ
rất tốt, bà thuộc làu kinh sách và nhất là ca dao tục ngữ. Bà
thường dậy các con theo lối “truyền khẩu” như trong lối giáo dục
ngàn xưa của cha ông chúng ta. Nhưng quan trọng nhất là cả hai
bố mẹ chúng tôi đã để lại tấm gương trong sáng của sự lương
thiện và tấm lòng nhân ái đối với bà con thân tộc, cũng như với
mọi người trong xóm làng. Thật đúng như lời nhắc nhủ “ Dĩ thân
nhi giáo”, tức là đem cái nhân cách, cái gương sống động của
chính bản thân mình ra mà truyền lại cho con cháu, hơn là chỉ
dùng lời nói suông. Cụ thể như là cứ vào dịp Mùa Chay trước Lễ
Phục sinh, thì mẹ tôi năm nào cũng tổ chức kêu gọi bà con nghèo
túng trong làng tới để nhận lãnh mỗi gia đình một vài ký gạo, vì
vào lúc đó thì phần đông đã cạn hết thực phẩm. Mẹ tôi dặn là :
Các con phải tần tiện, nhịn ăn nhịn tiêu để còn dành dụm chia
sớt cho bà con đang túng thiếu; có như vậy thì mới đúng là
“nhường cơm sẻ áo” giúp bà con gần gũi với mình.
Nhà tôi có
cái rủi, mà sau này lại thành cái may. Đó là trường hợp xảy đến
cho bà chị cả chúng tôi; chị bị tật nguyền thành người câm điếc
ngay sau một cơn sốt nặng hồi mới lên ba tuổi. Khỏi phải nói là
cha mẹ tôi rất buồn phiền vì cái tai nạn đối với người con gái
đầu lòng như vậy. Nhưng may mà chị tôi lại được nhận vào trại
người câm điếc tại thị xã Thái bình do mấy nữ tu thuộc nhà dòng
Saint Vincent de Paul đảm trách. Và chính tôi vào lúc 9-10 tuổi,
thì cũng được gửi vào sinh sống tại cơ sở này mà hồi đó có tên
là “Asile Saint Joseph”; tôi ở chung trong khu nam giới với mấy
anh câm điếc.. Tại cơ sở này, ngòai ngưới câm điếc nam nữ ra,
lại có cả các con lai mà người cha là lính trong quân đội Pháp,
kể cả người gốc Phi châu da đen, và mẹ là người Việt nữa. Phần
đông các anh chị này là bị cha mẹ bỏ mặc cho mấy ma soeur chăm
sóc, chứ ít khi có ai trong gia đình đến thăm viếng hay tiếp tế
cho. Thành ra ngay từ hồi còn nhỏ tuổi, tôi đã đích thân được
chứng kiến sự chăm sóc của các nữ tu này đối với những con người
tật nguyền hay mồ côi bị gia đình ruồng bỏ như thế. Đây rõ rệt
là sự biểu lộ của tình nhân ái, lòng xót thương đối với đồng
lọai theo đúng như giáo huấn của giáo hội công giáo là : “ Mến
Chúa thì phải Yêu Người”.
Rồi khi đến
tuổi trưởng thành, thì tôi đã dấn thân vào các lọai công tác xã
hội, cụ thể như cùng với nhiều bạn hữu khác tham gia vào công
cuộc cải thiện nếp sống của tầng lớp người kém may mắn tại khu
vực các quận 6,7,8 ngọai ô thành phố Saigon từ năm 1965, lúc tôi
bắt đầu vào cái tuổi “tam thập nhi lập” trở đi. Trong mấy năm
làm việc tại chương trình phát triển ở địa phương này, tôi được
dịp cộng tác với các vị giới chức, tu sĩ và tín đồ bên Phật
giáo, Công giáo cũng như Tin lành. Tất cả đều hết lòng ra tay
giúp đỡ những nạn nhân chiến cuộc, đặc biệt là những gia đình bị
mất nhà cửa trong vụ tấn công hồi Tết Mậu thân 1968. Điển hình
như Thầy Thích Tắc Thành tại chùa Đông Phước, phường Bình Đông
quận 7, Linh mục Nguyễn Huy Chương tại nhà thờ Rạch Cát quận 7,
Linh mục Hòang Quỳnh tại nhà thờ Bình An quận 8, Sư Bà Thích Như
Thanh chùa Huê Lâm quận 6, Thầy Thích Tâm Quang ở Phú Lâm, Soeur
Nicole trường Nữ Vương Hòa Bình quận 3 v.v… Các tu sĩ này đặc
biệt chăm lo việc mở phòng khám bệnh, phát thuốc, mở các lớp
học, lớp dậy nghề cho các học viên nam, nữ tại địa phương; đồng
thời cũng giúp vận động bà con tham gia công việc chỉnh trang
tái thiết tại các xóm hẻm như đặt đường cống thóat nước, xây cất
cầu bắc qua các kinh rạch, và nhất là xây dựng lại nhà cửa bị
phá hủy tại 20 khu tái thiết trong cả 3 quận ven biên này vốn
bị tàn phá nặng nề, vì là cửa ngõ cho sự xâm nhập của quân đội
cộng sản vào thành phố qua ngả Long An, Rạch Kiến, Cần Giuộc…
Về phía cơ
quan từ thiện xã hội ngọai quốc mà hay yểm trợ cho công tác phát
triển và xây dựng nói trên, thì phải kể đến cơ quan CARE, tổ
chức Xã Hội Tin Lành Việt Nam (VNCS Vietnam Christian Service),
tổ chức Xã Hội Tin Lành Á châu (ACS Asian Christian Service), cơ
quan Cứu Trợ Công giáo Mỹ ( CRS Catholic Relief Service), Tổ
chức Quaker Mỹ và Anh, Adenauer Foundation của Đức v.v… Như vậy
là phần lớn các cơ quan từ thiện nhân đạo này cũng đều xuất phát
từ các tổ chức tôn giáo. Vì chương trình phát triển chúng tôi là
một tổ chức tự nguyện của giới thanh niên, sinh viên Việt nam,
hòan tòan độc lập chứ không lệ thuộc vào chính quyền hay một tổ
chức chính trị hay tôn giáo nào, nên anh chị em chúng tôi cứ
thỏai mái tiếp xúc và hợp tác với bất kỳ cơ quan, tổ chức đòan
thể hiệp hội nào, dù là bản xứ hay ngọai quốc, kể cả cơ quan
viện trợ cùa chánh phủ Mỹ USAID.
Xuyên qua các
họat động nhiều năm tại Saigon như vậy, mà tôi được Hội Đồng Tôn
Giáo Thế Giới (WCC World Council of Churches) tại Geneva chú ý
đến và mời tham gia cộng tác với họ vào các năm 1972-74 trong
chức vụ Giám đốc Văn phòng Nghiên cứu và Liên lạc tại Saigon (
Saigon Research & Liaison Office). Trong cương vị này, tôi có
điều kiện thấu hiểu cặn kẽ hơn về sự dấn thân nhập cuộc của tôn
giáo trong các sinh họat đa dạng và phức tạp của xã hội hiện đại
trong bối cảnh của cuộc chiến trạnh lạnh giữa hai khối cộng sản
và tư bản. Tôi sẽ có dịp viết chi tiết hơn về cái kinh nghiệm
này vào một dịp khác. Riêng trong bài này, tôi muốn trình bày về
khía cạnh nhân ái vị tha của các tôn giáo mà tôi có dịp tham gia
cộng tác với các tu sĩ cũng như tín đồ, trong suốt trên 40 năm
họat động xã hội sôi nổi, miệt mài của tôi ở Việt nam giữa thời
chiến tranh tàn khốc, cũng như tại nước Mỹ thanh bình mà tôi đã
đến định cư từ trên 10 năm nay.
Xin ghi lại
một số kỷ niệm vui buồn với anh chị em học viên Trường Thanh
Niên Phụng Sự Xã Hội tại Khu Chùa Lá, Phú Thọ Hòa Gia Định. Đây
là cơ sở đào tạo cán sự xã hội của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam
Thống Nhất. Học viên là các tu sĩ và Phật tử, cả nam lẫn nữ. Vào
giữa năm 1967, tôi có dẫn một vị giáo sư người Hoa từ Hongkong
qua thăm cơ sở này, thì gặp đúng lúc trường đang ủ rũ đau buồn
vì cái tang tóc xảy ra mấy bữa trước do kẻ lạ mặt thảy lựu đạn
vào phòng học của các học viên vào ban đêm, khiến cho một cô
giáo và một học viên bị sát hại và nhiều người khác bị thương.
Thầy Thích Thanh Văn, Giám Đốc của trường với gịong trầm buồn
nói với chúng tôi là mọi người tại đây đang quá xúc động trước
tai nạn thảm khốc này, nhưng vẫn quyết tâm theo đuổi việc học
tập để sau này có thể phục vụ xã hội tốt đẹp hơn. Và sau này,
tôi đã có dịp hợp tác với các học viên này tại nhiều nơi, đặc
biệt là ở vùng Quảng Trị, Gia Định, Biên Hòa, Bà Rịa, Long Khánh
trong nhiều năm cho đến 1975 khi trường bị giải thể. Ngay giữa
thời chiến tranh mà vẫn có những người trẻ tuổi hăng say với
công tác xã hội,tận tâm tận lực chăm sóc cho các nạn nhân chiến
cuộc, ngay tại các vùng mất an ninh. Và họ đã bị nhiều lần bị
sát hại, mà chỉ sau năm 1975, thì người ta mới có thể biết rõ kẻ
chủ mưu là ai.
Ngòai bên
Công giáo và Phật giáo ra, tôi cũng còn có nhiều cơ hôi gặp gỡ
và sát cánh với các giới chức và tín đồ thuộc các tôn giáo khác
như Tin Lành, Cao Đài, Phật Giáo Hòa Hảo. Nói chung, thì tôn
giáo nào cũng tham gia cụ thể vào các họat động nhân đạo từ
thiện ngay từ cấp hạ tầng cơ sở tại miền quê hẻo lánh, cũng như
tại các xóm hẻm lầy lội nơi các thành phố. Cụ thể như tại miệt
Long Xuyên nơi thánh địa của Phật Giáo Hòa Hảo, vào cuối năm
1966, tôi có dịp tới tham gia với anh em sinh viên trong việc
giúp làm nhà cho các gia đình nạn nhân vụ lũ lụt tại Cù lao Ông
Chưởng, thì chúng tôi được sự hỗ trợ rất nhiệt tình của các giới
chức và tín đồ tại đây. Nhờ vậy mà công tác cứu trợ được hòan
thành tốt đẹp.Rồi khi ở trong tù tại Hàm Tân vào năm 1994-95,
tôi cũng gặp một số tù nhân chính trị là tín đồ Hòa Hảo như các
Anh Võ Thành Sắc, Nguyễn Văn Sâm, ai nấy đều tỏ ra là người có
nhân cách đàng hòang, chững chạc. Về phía bên Cao Đài cũng vậy,
tôi cũng gặp nhiều chức sắc và tín đồ rất ngoan đạo và hăng say
với chuyện xã hội từ thiện, mà điển hình như Ông Muời Thơ ở
phường Hưng Phú, quận 8, Cô Sáu (là em của nhà bác học Nguyễn
Ngọc Bích) tại Thánh Thất Cao Đài đường Hậu Giang, quận 6
Saigon. Cả hai vị này đều rất tích cực trong việc đời cũng như
việc đạo tại địa phương. Và tại nhà tù Hàm Tân, thì tôi cũng rất
gần gũi với các Anh Phan Văn Phần gốc ở Long Hoa, Tây Ninh,
Nguyễn Văn Bá từ Sadec, tất cả đều là tín đồ Cao Đài thuần
thành, mà là tù nhân chính trị lâu năm. Anh em tù nhân chính trị
chúng tôi ở Hàm Tân hồi đó thì rất gắn bó, tương thân tương trợ
với nhau. Thật là một kỷ niệm sâu đậm ngay trong thời gian còn ở
trong nhà tù cộng sản ở Việt nam. Trước 1975, tôi cũng có dịp đế
thăm Viện Đại Học Cao Đài ở Tây Ninh và cũng đang tìm cách giới
thiệu móc nối Đại học này với một vài Đại học ngọai quốc. Nhưng
tiếc thay, việc chưa kịp làm, thì đã đến 1975 đưa đến việc cơ sở
này bị giải thể, cũng như bao nhiêu cơ sở giáo dục của các tôn
giáo khác nữa.
Theo truyền
thống văn hóa đạo đức Á đông của cha ông ta, thì người quân tử
phải có đày đủ ba tính cách, đó là Nhân, Trí và Dũng. Tức là
phải có lòng Nhân ái, biết yêu mến quý trọng đối với mọi người
trong nhân quần xã hội. Rồi phải có sự trau dồi trí tuệ, học hỏi
cho nắm vững được cái vốn liếng hiểu biết khoa học kỹ thuật, hầu
có thể theo kịp được với sự tiến bộ của thời đại. Và hơn nữa,
lại phải có sự dũng cảm, nhẫn nại bền chí để tranh đấu cho công
lý và lẽ phải, để còn bênh vực cho những người bị kẻ có quyền
thế chèn ép hiếp đáp. Mà qua các sự việc cụ thể đã trình bày ở
trên, thì ta thấy rõ ràng là : Tôn giáo đã và còn tiếp tục thể
hiện được tinh thần nhân ái, bao dung đối với con người trong xã
hội hiện đại. Và tôn giáo cũng luôn nhẫn nại bền chí trong công
cuộc phục vụ nhân sinh : đó là tính cách dũng cảm, sự đảm lược
của người quân tử vậy. Còn về phần trí tuệ, thì như ta có thể
thấy được ngay bên Âu Mỹ này, hiện có biết bao nhiêu cơ sở đại
hoc và viện nghiên cứu, các bệnh viện mà đều xuất phát từ các tổ
chức tôn giáo.
Nói vắn tắt
lại, thì trong một thể chế dân chủ đa nguyên như ở tại các quốc
gia Âu Mỹ hiện nay, thì các tổ chức tôn giáo được tự do sinh
họat và phát triển trong khuôn khổ của lãnh vực Xã hội Dân sự.
Và do đó mà có thể đóng góp lớn lao cho sự an vui, hạnh phúc của
con người trong xã hội. Điển hình như tại nước Mỹ hiện nay, thì
các tôn giáo đã chiếm đến 60% trong số cả triệu các tổ chức phi
chánh phủ (non-governmental organizations), cũng như trong số
trên 3 triệu các nhóm nhỏ (small groups). Và họ hoạt động rất
hiệu quả trong các chương trình xã hội được gọi là “Faith-based
Social Action”. Hơn thế nữa, tôn giáo lại còn kết hợp với giới
hàn lâm đại học trong các việc đào tạo huấn luyện và nghiên cứu
ở mức độ chuyên môn cao, được coi như sự “Hợp tác giữa Tôn giáo
và Đại học” (Cooperation between Churches and Academy). Một bên
có Tâm hồn, có Lòng Nhân Ái, có sự Bền chí Hy sinh. Còn một bên
có sự thông tuệ, sự tìm kiếm miệt mài, sâu sắc về các ngành khoa
học kỹ thuật. Mà hai bên kết hợp chân thành và bền chặt với
nhau, thì chắc chắn là sẽ thành công vững bền trong sứ mệnh phục
vụ nhân quần xã hội ngày nay vậy. Bởi lẽ sự kết hợp đó sẽ thực
hiện được cả 3 vế của cái phương trình : “ Think globally +
Act locally + Love totally” ( Suy nghĩ tòan cục + Họat động cụ
thể trong tầm tay + Yêu thương trọn vẹn).
Sự kết hợp
nhuần nhuyễn như vậy mà có cơ được thực hiện tại quê hương đất
nước chúng ta, thì chắc chắn sẽ là niềm hy vọng tươi sáng chứa
chan cho dân tộc Việt nam trong một tương lai sắp đến vậy./
California,
Tháng Tư 2009
Luật sư Đoàn Thanh Liêm |
VỀ MỤC LỤC |
THÁNH PHAO LÔ GIẢNG DẠY VỀ “TÍNH DỤC” VÀ “HÔN NHÂN” VÀ PHONG
TRÀO CHỐNG “PHÁ THAI” TẠI HOA KỲ
|
NĂM
THÁNH PHAO LÔ TÔNG ĐỒ 2008-2009
Ngay sau khi
tuyên thệ nhậm chức Tổng Thống thứ 44 tại Hoa Kỳ, T.T Barach
Obama, một cách “âm thầm”, đã bãi bỏ sắc lệnh của các vị
tiền nhiệm như R.Reagan và G.Bush cấm dùng tiền thuế của nhân
dân Hoa kỳ viện trợ cho ngọai quốc vào việc phá thai. Và ngày
3/ 09/ 2009, ký sắc lệnh cho thi hành việc “nghiên cứu tế
bào gốc” (embryonic stem cell research), tức là tiêu hủy các
bào thai để lấy tế bào gốc, dùng vào việc thí nghiệm. Các sắc
lệnh này đã bị T.T G.Bush cấm thi hành, cấm lấy tiền trợ cấp của
Quĩ Liên Bang.
Tại Thủ đô
Hoa Thịnh Đốn, sau ngày Lễ Tuyên Thệ nhậm chức Tân Tổng Thống,
đã diễn ra một cuộc Tuần hành vĩ đại trước Quốc hội và tòa
Bạch ốc, để biểu dương lực lượng và ý chí chống lại các kế
họach hay đạo luật “cho
phép phá thai”.
Đối với
Hội Thánh Công Giáo ROMA,
Tòa Thánh Vatican tỏ ý e ngại về lập trường ủng hộ phá thai của
tân chính phủ Hoa Kỳ, nhưng trong Thư Chúc Mừng Tân Tổng Thống
, ĐGH Biển Đức XVI đã kỳ vọng về chính sách mới của Hoa Kỳ đối
với những vấn đề quốc tế như: hòa bình tại Trung Đông, hòa giải
với khối Ả Rập, tìm căn nguyên gây nên “Khủng Bố”, và giảm
thiểu sự cách biệt giữa các Nước Giầu và các Nước Nghèo, v.v.
Trong bài
tiểu luận này, trước hết,Đọan (
I)
xin nhắc lại một số biến cố thời sự, cũng như một số tài liệu
quan trọng của Tòa Thánh, của HĐGM. Hoa Kỳ, phản đối lập trường
cho phép tự do phá thai, gọi là”(FOCA: Freedom Of Choice
Act”)
Trong
Đọan (II),
cần tìm hiểu Giáo Thuyết của THÁNH PHAOLÔ TÔNG ĐỒ,
đã giảng dạy về bản năng” Tính Dục của Con Người”(Human
Sexuality), và Giáo thuyết này đã làm nền tảng cho nền Luân
Lý của Hôn Nhân, Gia đình và đời sống Thánh hiến trong bậc Tu
trì, Độc thân. Những Giáo Huấn này sẽ soi sáng cho nhân lọai
biết ý định, kế họach của Đấng Tạo Hóa, khi dựng nên con Người,
và phú thác cho Con Người bản năng Truyền Sinh, để
Nhân Lọai được phát triển, tồn tại và lan tràn khắp mặt đất
I./ TÌM HIỂU LÂP TRƯỜNG TỰ DO PHÁ
THAI:” FOCA” là gì?
Trong bối
cảnh chính trị, kinh tế, xã hội của chính quyền mới tại Hoa Kỳ ,
đầy sóng gió, thay đổi, xáo trộn trong thị trường tài chánh,
thất nghiệp, ngân quĩ thiếu hụt, lưu truyền nợ cho đời con đời
cháu(generational theft)...Thêm vào những lo âu về tài chánh,
người dân Hoa kỳ còn phải chứng kiến và đối phó với những giải
pháp quân sự của chính quyền mới đối với chiến tranh Trung đông,
Irak, Iran, Bắc hàn. Đặc biệt HĐGM Hoa Kỳ rất ưu tư về lập
trường mới đi ngược lại những thành quả đã đạt được trong nhiều
năn qua, về Phong Trào “BẢO VỆ Sự SỐNG”(Pro-Life)
của Giáo Hội., chẳng hạn, gần đây , ngày 03/02/09, T.T.Obama đã
chỉ định Bà Thống Đốc Tiểu Bang Kansas, Kathleen Sebelius,(
đã bị cấm không được Rước Lễ, vì công khai ủng hộ lập trường”Pro
Choice”, từc là tự do Phá thai), bà này được mời làm Bộ
Trưởng Bộ HHS(Health, Human Services), tức sẽ giúp chính phủ mới
cải tổ về Y tế. Ngòai ra, Phó T.T Joe Biden, và Phát Ngôn viên
Quốc Hội Hoa Kỳ(Speaker of the House), Bà Nancy Pelosi, cũng là
những nhân vật”Pro Choice”. T.T Obama sẽ sửa lại luật, bắt các y
sĩ, y tá phải phá thai theo lời yêu cầu, nếu từ chối, sẽ vào tù,
mặc dầu việc phá thai trái với Tín Ngưỡng và Lương Tâm, không
cho phép làm .
Vì tính chất
nghiêm trọng của vấn đề”Bảo Vệ Sư Sống” của con
người, vì lập trường cương quyết của HĐGM Hoa kỳ đã lên tiếng
cảnh giàc chính quyền mới về lập trường”Pro Choice”, nên cần
tìm hiểu: “FOCA “là gì? Những ác quả nó sẽ gây ra cho xã hội,
gia đình, cá nhân như thế nào, trong tình trạng suy thóai kinh
tế hiện nay.
Trước hết,
các thống kê cho biết: từ khi đạo luật cho phép phá thai ban
hành cách đây 36 năm(1973), đã có 48 triệu thai nhi bị giết từ
trong “trứng nước”. Nhờ những cuộc vận động
quần chúng đối với các cấp Chính quyền cấp Tiểu Bang và Liên
Bang, nhờ những lời kêu gọi thiết tha của Hàng Giám Mục, như
GM Charles Chaput, Denver:
“ Hỡi các
bậc phụ huynh đã giết các thai nhi, quí vị sẽ phải giải thích
thế nào cho các nạn nhân, khi gặp họ trong kiếp sống mai hậu?
Ngày nay, con
số phá thai, ngày càng giảm sút nhiều. Chẳng hạn, một số
luật hạn chế phá thai được ban hành như: phải báo cáo cho các vị
phụ huynh biết; nếu dưới 18 tuổi, cần phải được giải thích về
những ác quả của việc phá thai. Ngòai ra, dùng kĩ thuật “siêu
thanh”(ultrasound technology), giúp các bà mẹ đang mang thai
nhìn thấy hình ảnh con mình sống động mà trạnh lòng trắc ẩn, xót
thương. Hơn nữa, mọi người đều ghê sợ, khi chứng kiến những cảnh
phá thai từng phần, chặt thai nhi ra từng phần, vào thời kì sau
cùng(late-term abortions, and partial birth control), rồi
hút các mảnh bào thai ra.
“FOCA”
là gì?
1./
FOCA
là viết tắt của câu:” Freedom Of
Choice Act”, tức “Luật cho Tự Do Chọn Phá Thai”.
Dự Luật này, năm 1989 đã được Sen. Alan Cranston(D-CA) và
Rep.Dan Edwards(D-CA) khởi xướng. Dự luật nhằm mục đích củng cố
Luật cho Phá thai Roe v..Wade. Nhưng vào thời điểm đó, không
được ủng hộ, và có thể bị “phủ quyết(Veto). Nhưng ngày nay với
chính quyền mới, T.T Obama đã hứa, nếu thắng cử, sẽ ký Dự Luật
đó, và với một Quốc hội gồm đa số Nghị viên khuynh tả, nên dân
chúng rất e ngại, Dự luật này có thể sẽ được chấp thuận để thi
hành.
Nếu Dự Luật
này được thi hành, thì sẽ đem đến những ác quả tệ hại như: bãi
bỏ các biện pháp giúp ngăn ngừa hay giảm thiểu các vụ phá thai,
đã đề cập ở trên. Các biện pháp ngăn ngừa phá thai sau đây, sẽ
bị bãi bỏ:
-50 tiểu bang
không buộc phải tường trình bá cáo về những vụ phá thai; 44 tiểu
bang không cần hỏi ý kiến phụ huynh, khi con em muốn phá thai;
40 tiểu bang không còn hạn chế luật cấm phá thai vào “giai đọan
chót”; 46 tiểu bang bãi bỏ luật bảo vệ Lương Tâm của những cá
nhân cung cấp dịch vụ y tế, sức khỏe; 27 tiểu bang bải bỏ luật
bảo vệ Lương tâm của các Đòan thể, Hiệp hội chống phá thai; 38
tiểu bang bải bỏ luật cấm phá thai từng phần(partial-birth
abortions); 33 tiểu bang bãi bỏ luật buộc phải tham khảo ý kiến
trước khi phá thai; 16 tiểu bang bải bỏ luật dùng siêu
âm(ultrasound), trước khi phá thai. Nói tóm lại, nếu dự luật
FOCA được thi hành, thì chính quyền liên bang sẽ dùng quyền bãi
bỏ tất cả các luật dự trù để giảm thiểu các vụ phá thai tại tiểu
bang. Chẳng những trong nước Mỹ, chính phủ còn dùng tiền thuế
của dân để tài trợ chính sách phá thai của ngọai quốc, như hiện
nay tại Trung Cộng. Thật sự, FOCA còn tệ hại hơn cả Luật cho phá
thai Roe(coi:www.usccb.org/prolifefFOCAanalysis.pdf.) Chẳng hạn
như:
-FOCA sẽ vô
hiệu hóa Luật bảo vệ người nữ tại những y viện phá thai thiếu an
tòan, và giúp họ hiểu biết về những hậu quả của việc phá thai.
-FOCA sẽ đòi
hỏi những người dân đóng thuế, phải trả tiền phí tổn về phá thai
-FOCA buộc
các tiểu bang phải cho phép “phá thai từng phần”, “phá thai thời
kì gần sinh”
-FOCA buộc
các tiểu bang cho phép những người không phài “y
sĩ”(non-physician) được làm việc phá thai
-FOCA sẽ bãi
bỏ luật bảo vệ quyền của Lương Tâm phản kháng việc phá thai
-FOCA không
chấp nhận phụ huynh được can dự vào quyết định của người con gái
vị thành niên.
2./
Đối với các Tín Hữu là Công dân Hoa kỳ, trong
tình thế suy thóai về kinh tế, nạn thất nghiệp lan tràn, gây xáo
trộn cho nền an ninh quốc gia, HĐGM Hoa Kỳ, trong nhiều Giáo
Phận, như Giám Mục James V.Johnston, Giáo Phận
Springfield-Cape Girardeau, đã kêu gọi các giáo dân, học hỏi
về lập trường của các ứng cử viên vào Quốc Hội, đối với các vấn
đề liên quan đến SỰ SỐNG của con Người. ĐHY TGM Chicago, Chủ
Tịch HĐGM Hoa Kỳ tuyên bố:
“Trực tiếp
và hữu ý phá hủy sự sống con người vô tội, từ khi thụ thai
đến cái chết tự nhiên, là một sai trái..cần phải luôn luôn
chống lại”
-Ngày
Feb, 6, 2009(Zenit.org), ĐHY.Justin Rigali, Chủ tịch Ủy ban các
họat động Bảo vệ Sự Sống của HĐGM Hoa kỳ đã viết:
”Các nhà
lập pháp không đồng ý về tình trạng pháp lý của việc phá thai,
nói rằng: người dân Hoa Kỳ sẽ không bị chính phủ ép buộc giúp đỡ
hay tham dự vào việc phá thai trái nghịch với ý muốn của
họ....Trong một xã hội thường có vẻ bị chia rẽ giữa các giá trị
của việc”cho phép lựa chọn” (ProChoice)và “phò đời sống” (Pro
Life), người ta dễ thỏa thuận rằng: chúng ta phải tôn trọng
Lương Tâm của các phụ nữ có thai và Lương Tâm của các giới chức
y tế muốn lưa chọn SỰ SỐNG”
Vì tính chất
nghiêm trọng của vấn đề “BẢO VỆ SỰ SỐNG của Con Người,”
ước mong các Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam, nay đã trở
thành những Công dân Hoa Kỳ, nhiệt liệt hưởng ứng lời kêu gọi
của HĐGM Hoa Kỳ , để học tập, và tham gia vào
Phong Trào Bảo Vệ Sự Sống (Pro-Life Movement)của Hội
Thánh
Sau đây, để
giúp chúng ta hiểu rõ hơn Giáo Huấn của Hội Thánh, đặc
biệt trong Năm Thánh Phao Lô Tông Đồ, chúng ta sẽ học
hỏi Giáo Thuyết của Thánh Nhân đối với Luật Luân Lý của Gia
Đình Công Giáo, trong đó, Ngài đã diễn giảng về ý nghĩa của”Tính
Dục Nhân Lọai”(Human Sexuality), trong đời sống Độc
thân, Tận Hiến, Hôn Nhân, đời sống Vợ- Chồng, tội lọan
luân,(inceste) “đồng tính”(homosexuality)
II- GIÁO THUYẾT của THÁNH PHAOLÔ
về “ TÍNH DỤC NHÂN LỌAI”
-Dưới đây,
không thể trình bày đầy đủ Giáo Thuyết của Thánh Phao Lô Tông Đồ
đã dùng những Lá Thư Mục Vụ, để giảng dạy các Giáo
đòan thời Hội Thánh Sơ Khai, về Nhiệm tích Hôn Nhân, về Luân Lý
Gia đình, như vẫn thường được nghe diễn giảng trong các Thánh Lễ
Hôn Phối. (coi:1 Cor:7) Thánh Nhân trình bày về luật:
“Nhất Phu, nhất Phụ”(Rom 7:2 ; tội ngọai tình, luật tái
giá: (coi: Rom 7:3; 1 Cor 7:10-11; 1Cor 7:39)
Ngòai ra,
Thánh Nhân không bàn đến những tội ác chống lại “Văn Hóa Sự
Sống”, như phá thai, thuốc ngừa thai,”nghiên cứu tế bào
gốc”..chỉ mới xuất hiện vào thời đại của “Văn Hóa Sự Chết”.
Tuy nhiên, học hỏi quan niệm của Thánh Nhân về nguồn gốc của “
Tính Dục Nhân Lọai”, về ý nghĩa thánh thiêng của Hôn Nhân,
của việc Sinh sản con cháu.. cũng giúp ta nhận định một cách
chính xác , thích hợp với Giáo Huấn của Hội Thánh Công Giáo,
chống lại những tội ác lạm dụng, hay làm sai lạc mục đích của
“tính dục”, do Thiên Chúa đã an bài xếp đặt.
1-THÁNH
PHAO LÔ THEO” LUÂN LÝ TỰ NHIÊN”DO ĐẤNG TẠO HÓA LẬP RA.
Về
Nguồn gốc của “Tính Dục Nhân Lọai”,
Thánh Nhân cũng diễn giảng như Chúa Cứu Thế, nghĩa là căn cứ vào
Sách Kinh Thánh, khi Thiên Chúa dựng nên Người Nam, Người Nữ (
Ông Adong, Bà Evà), và cho kết hợp với nhau nên”Nhất Phu
Nhất Phụ”; do đó, cấm ly dị, phải trung thành với nhau
đến trọn đời. “Vì điều gì Thiên Chúa đã liên kết, lòai người
không được phân li”(Coi:Matt 5:31-32; Mark 10:11-12;
Luke16:18).
Cần
nhấn mạnh mấy điều quan trọng:
1/ Theo Giáo thuyết của Chúa Cứu Thế, và Thánh Phao Lô Tông Đồ
diễn giảng, về Hôn Nhân, cấm Li Dị, có điểm khác biệt với Đạo Do
Thái, vì theo Luật MaiSen, người ta được phép Li Dị; 2/ Nhưng
Thánh Phao lô cho phép “Li Thân”(separation). Luật Li thân này
không thấy trong Luật MaiSen, nhưng có trong Luật Roma; 3/ Ngòai
ra, Hội Thánh Công Giáo, ngày nay vẫn còn thi hành Luật trừ, gọi
là”Đặc Ân của Thánh Phao Lô”( the Pauline privilege). Đây
là Luật Thánh Nhân cho phép, như một “nố trừ”( exception): (Coi:
1Cor 7:12-16) và Giáo Luật( can:1141-1147) . Thực
ra, đối với Hội Thánh, không phải là cho phép “Li Dị”, nhưng là
tuyên bố cuộc Hôn Nhân “không thành(invalid), vô hiệu”(
nullity), trong trường hợp, hai người không-Công Giáo lấy
nhau, sau đó, một trong hai người trở lại Công Giáo, chịu Phép
Rửa tội, mà người kia không theo Đạo, không bằng lòng, gây bất
bình trong gia đình, bỏ ra đi, và còn chống lại Đạo.
(Chú ý:
nếu muốn hiểu biết rộng hơn về”Đặc Ân Thánh Phao Lô”, cần theo
các buổi học về Giáo Lý của Hội Thánh),
-Thánh Phao
Lô Tông Đồ coi việc “giao hợp trong đời sống Vợ-Chồng” là
điều Thiện Hảo. Nhưng việc “giao hợp” giữa vợ chồng, không
được dùng như “khí giới” chống lại nhau, khi có sự bất hòa. Việc
kiêng cữ đôi lúc cũng xứng hợp vì lí do để cầu nguyện, hay đôi
bên cùng đồng thuận( Coi:1Cor 7:5-6)
2-Qua
những lời Giáo Huấn của Thánh PhaoLô, đã trình bày những nét cốt
yếu như trên, trong bối cảnh Văn Hóa Á Đông và đặc biệt
trong Văn Hóa Việt Nam, ta thử đối chiếu xem có những
điểm tương đồng hay khác biệt nào. Nhờ sự đối chiếu và so sánh,
ta sẽ nhận thấy giá trị đạo đức luân lí cổ truyền Việt Nam,
trong quan niệm về Hôn Nhân, Tính Dục, Li dị, đổng tính, trinh
khiết, chung thủy giữa Vợ-Chồng, sinh đẻ con cháu....có nhiều
điểm rất gần với những lời Giáng dạy của Thánh Nhân, vì cùng
theo Luật Tự Nhiên(Natural Laws), nghĩa là Luật do Tạo
Hóa đã khắc ghi trong tâm khảm của con người, bất cứ ở đâu,
trong mọi thời đại.
- Văn Hóa
Việt Nam có câu: “có ÂM-DƯƠNG, có VỢ-CHỒNG”, nghĩa
là trong trời đất này , nguyên lý ÂM và DƯƠNG vận hành
một cách Hòa Hợp, Quân Bình, do Đấng Hóa Công tạo dựng và an bài
xếp đặt: những cặp Song –Đối, đắp đổi lẫn nhau, hòa hợp
với nhau để sinh sôi nẩy nỡ như: ngày-đêm, nóng –lạnh, sáng
–tối, con đực-con cái, nhị đực-nhị cái..và gồm cả Nhân Lọai, tuy
là”Linh ư vạn vật” vì có “Hồn Thiêng bất tử”, Trí Khôn,
Tình cảm, nhưng không thóat khỏi Luật “Âm –Dương=
Vợ-Chồng”. Nhân Lọai, cũng như lòai cầm thú, thảo mộc..
đều sinh sản ra từ “hạt trứng”, do tác động hỗn
hợp của Âm-Dương, mà thành con gà hay con Người..
Do đó, mới có
những câu ca dao rất ý nghĩa, chống lại ý tưởng sai lầm, coi
thai nhi do máu huyết của bố mẹ tác thành như: “cục thịt”dư
thừa, vô hồn, muốn cắt xén, vứt bỏ, tùy ý. Đó là tội sát nhân,
như những câu tục ngữ minh chứng:
“Giết
Người từ trong
“trứng nước”
-“Trứng
rồng lại nở ra rồng
Hạt
thông lại nở cây thông rườm rà”
Có cha
mẹ mới có
ta,
Làm nên là
bởi mẹ cha vun trồng”
3-Triết
lý về”TỰ NHIÊN, THIÊN NHIÊN”, như “Luật Tự Nhiên”(Natural
Law), Trang tử đã có một định nghĩa thật sâu sắc:
”Trời ở
bên trong, người ở bên ngòai(..) Bò ngựa bốn chân, đó là Trời,
khớp đầu ngựa, xỏ mũi bò, đó là người”( Thiên tại nội,
nhân tại ngọai.(..)Ngưu mã tứ túc, thị vi Thiên; lạc mã thủ,
xuyên ngưu tị, thị vi nhân) (coi:Nam Hoa Kinh, Trang Tử, Bản
dịch, Thu giang Nguyễn Duy Cần, trang 69).
-Con
Người sinh ra đời: có Nam có Nữ như đã do Ông Trời tiền
định, vì không ai được hỏi ý kiến trước khi ra đời; (“ái nam ái
nữ” là hiện tượng dị thường). Tuy cùng là giống Người bằng nhau,
nhưng Nam-Nữ, về thân thể, và tài năng khác biệt, để bổ túc cho
nhau, thành con Người tòan vẹn. Riêng về khía cạnh “Tính
Dục”, “sinh sản”, Nam , Nữ đều có những bộ phận sinh lý khác
nhau, với một cách xếp đặt rất tài tình của Tạo Hóa, nhằm mục
đích để truyền sinh. Đó là Luật Tự Nhiên. Con
người thực hiện việc “giao hợp nam-nữ”(sexual
intercourse), nhưng làm sai lạc ý nghĩa và mục đích tự nhiên của
hành vi này như: ngừa thai, phá thai. “Giao hợp
nam-nữ”, theo tự nhiên, mục đích chính là để “truyền
sinh”, luật chung cho Nhân Lọai và lòai cầm thú, như đòi
hỏi của bản năng; việc “giao hợp” để biểu lộ của tình yêu chỉ là
thứ yếu. Nhiều khi “giao hợp” nhưng không do tình yêu, mà chỉ vì
muốn được thỏa mãn của tính dục bạo động, như cưỡng hiếp, rồi
giết luôn nạn nhân, không một chút thương hại. Vả lại, tình yêu
tinh tuyền vô vị lợi của cha mẹ đối với con cái, hay tình bằng
hữu giữa bạn bè Nam –Nữ, nhưng không vương vấn một chút gì là
“tính dục”. Ngày xưa, theo tục lệ cổ truyền, việc hôn nhân do
cha mẹ xếp đặt như câu nói”cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”,
“môn đăng hộ đối”..Tuy không còn thích hợp với tuổi trẻ
bây giờ, vì Hôn Nhân có vẻ nặng về “lý trí” hơn “tình cảm”,
lúc vợ -chồng mới lấy nhau. Nhưng sau một thời gian, nếu
Vợ-Chồng biết tôn trọng quyền lợi của nhau,”phu-phụ như tân”(
vợ chồng coi nhau như khách quí) cùng làm tròn bổn phận phu-
phụ, chăm sóc con cái,..do đó,”NGHĨA VỢ-CHỒNG”,
càng thêm thắm thiết, cam kết:“ăn đời ở kiếp với nhau”,
đến “bách niên giai lão”, “đầu bạc răng long”
Vì tôn trọng
Luật Tự Nhiên của Tạo Hóa, nên trong xã hội cổ truyền(khác với
thời nay), tại Việt Nam, rất hiếm những vụ Lị dị, phá thai, ngừa
thai..,
Trong Văn Hóa
và xã hội cổ truyền, dân chúng dùng những danh từ, hay hình ảnh
liên quan đến phái tính, một cách “tự nhiên”, theo công dụng,
mục đích của nó; do đó, không có gi “khiêu dâm, khêu gợi”
như câu ca dao:
“Đàn ông ,
không râu, bất nghì,
Đàn bà
không vú, lấy gì nuôi con.
Văn Hóa Việt
Nam, cũng chế nhạo, những:”hành vi bất thường”, trái tự
nhiên của “đồng tính luyến ái”như:
“Đàn
ông nằm với đàn ông,
Như gốc, như gác, như
chông, như chà.
Đàn ông nằm với
đàn bà,
Như lụa, như lĩnh,
như hoa trên cành”.
Ngược
hẳn lại những xã hội vô thần, vô luân, vật chất, ngày nay, những
hình ảnh khiêu dâm của những tạp chí”Playboy”, những con búpbê
“Barbie”, những phòng sửa “ngực”.. khai thác những cơ quan tính
dục của phụ nữ, một cách “giả tạo”(artificial), mục đích, chỉ để
mà chơi, và kiếm tiền.
2-THÁNH
PHAO LÔ TÔNG ĐỒ, và vấn đề “Đổng Tính” (Homosexuality)
Trước hết,
cần nhận định: vấn đề “đông tính luyến ái” cũng như”mãi dâm”là
những tội phạm đã xuất hiện từ lâu đời, trong Cựu Ước:( coi:
Luật Levi:18:22; 20:13). Trong Phúc Âm không đọc thấy Chúa Cứu
Thế nói đến”đồng tính luyến ái”, nhưng chắn hẳn, Chúa và Thánh
Phao Lô cũng chấp nhận Luật LÊVI.
Sau đây, xin
diễn giải một vài đặc điểm trong Giáo Thuyết của Thánh Phao Lô,
khi Ngài khuyên bảo các Giáo Đòan cần tuân giữ các Luật Luân Lý
trong đời sống Hôn Nhân, Gia đình, Trinh Khiết. Vấn đề”đồng
tính” thời Thánh Nhân không sôi động như ngày nay, đặc biệt
tại Hoa Kỳ, Tiểu Bang California đã bỏ phiếu, “Dự Án 8”, chống”Hôn
Nhân Đồng tính”...
-Thánh Nhân
viết về “đồng tính” trong ba Thư sau đây: 1Cor
6:9; 1 Timothy 1:10; và Rom 1:26-27. Thánh Nhân nêu lên 5 tội
ác như:
”Anh chị
em không biết rằng những kẻ bất chính sẽ không được vào Nước
Thiên Chúa sao? Anh chị em đừng lừa dối mình. kẻ dâm ô, kẻ thờ
tà thần, kẻ ngọai tình, đàn ông làm điếm(male
prostitutes(malakoi), phạm tội “sodomites(dân thành Sodoma,
arsenokoitai), trộm cướp, tham lam, say sưa, chửi thề, hà hiếp,
đều không được vào Nước Thiên Chúa(1Cor 6:9-11)
(Chú
thích: danh từ Hilạp”malakoi” nghĩa đen là”yểu điệu”,
chỉ vế “phái yếu”.Do đó, các nhà chuyên môn mới dịch là”male
prostitute”; danh từ”arsenokoitai, Sách Kinh Thánh, bản
dịch của”New Revised Standard Version”, là “sodomites, tội phạm
của dân thành Sodom và Gomorrah(coi Gen.19).Theo các học giả,
thì từ này là danh từ kép:”người-nằm cùng giường(men-bedders);
do đó có thể hiểu là “làm tình để làm tiền”, kể cả giới mày
râu(male prostitution)
-Đọan Thư sau
đây(Rom 1:26-27) Thánh Nhân nói rõ về hành vi tội lỗi của
cả đàn ông và đàn bà “Đồng tính “(male homosexual
relations and female homosexual relations(lesbianism).:
“ Vì thế
Thiên Chúa đã để mặc họ chìm đắm trong tội lỗi xấu xa:Đàn bà
không theo tự nhiên mà sinh con, một ăn ở ngang trái -tự
nhiên(unnatural)
“ Đàn ông
cũng vậy, thay vì ăn ở phải phép với đàn bà, thì lại mê đắm tà
dâm với nhau, đến nỗi phải chịu lấy ngay nơi mình những ác quả
của sự lầm lạc ấy.
- Vào thời
giảng Phúc Âm cho dân ngọai, Thánh PhaoLô coi hành vi”đồng tính”
là tội thờ”ngẫu tượng”(idolatry). Họ thờ thân xác,
và những đòi hỏi của thân xác, mà không tôn thờ Thiên Chúa, là
Đấng Tạo Hóa. (Coi: Rom 1:24-25):
“Bởi vậy,
Thiên Chúa để mặc họ mê theo dục vọng và dâm ô đến nỗi họ làm
cho chính thân xác họ ra hèn hạ trụy lạc. Họ đã chê chối Chân lý
của Thiên Chúa để nhận lấy sự giả dối họ đã thờ phượng, làm tôi
lòai thụ sinh hơn là tôn thờ phụng sự Đấng Tạo Hóa, đáng chúc
tụng muôn đời.”
-Thánh
Nhân không chấp nhận “hành vi đồng tính”(homosexual
activity). Thánh Nhân cũng theo lâp trường luân lý của Đạo Do
Thái để bác bỏ “hành vi đồng tính” . Ngày nay, các nhà
tâm lý, giáo dục phân biệt: -“ hành vi đồng tính”(homosexual
activity) và “chiều hướng tính dục”(sexual orientation).
Vấn đề này còn đang tranh luận, có nhiều quan điểm thay đổi
luôn. Ai cũng đồng ý kết án “hành vi đồng tính “là tội
ác. Nhưng đối với một số người chỉ có”chiều hướng tính dục”
nghĩa là nghiêng về người đồng phái tính, thì phải đối xử
thế nào? Tại Hoa Kỳ, nhóm người “GAY”, đã gây được thế lực chính
trị khá mạnh.. Nhiều câu hỏi nên lên, chưa được giải đáp dứt
khóat, như: “chiều hướng đồng tính” là do ý chí của
người ta muốn tập luyện như thế, hay là do tính tình(behavior)
tự nhiên hướng chiều về người đồng phái tính? Có thể giáo hóa ,
biến cải người có“chiều hướng tính dục” được không?
(Chú
thích:Trong một số Chủng viện tại Hoa Kỳ, đã nhận
những sinh viên có “chiều hướng tính dục”, để được giáo hóa
trong một thời gian; nếu nhận thấy những người này có bằng chứng
cam kết, quyết tâm sống đời độc thân trong bậc tu trì, thì có
thể lãnh chức Linh Mục. Nhưng sau một thời gian thí nghiệm, đặc
biệt sau cuộc khủng hỏang”lạm dụng Tính dục giới trẻ” ,mà đa số
nạn nhân là “con trai”, nên ngày nay, Tòa Thánh đã ra lệnh cấm
không được nhận các chủng sinh có “chiều hướng đồng tính” vào
Chủng Viện).
-Về phương
diện chăm sóc mục vụ, vào thời Thánh Phao Lô Tông
Đồ cũng như ngày nay, chúng ta luôn kết án “hành vi đồng
tính”, nhưng cũng cần đối xử một cách cảm thông, bác
ái, tha thứ, xứng hợp với Nhân Phẩm của một con Người.
Vì Thiên Chúa muốn cứu chuộc mọi Người(Rom 11:32)
- TẠM KẾT LUẬN: ĐỜI SỐNG THÁNH
HIẾN (Consacreted Life)
Nguyên do
chính đã gây nên cuộc khủng hỏang trầm trọng, về “ƠN THIÊN
TRIỆU” trong “Đời Sống Thánh Hiến, Tận Hiến”, Nam hay Nữ, là vì
người tu sĩ thiếu trưởng thành, trong việc nhận định một cách
xác tín, về mục đích và ý nghĩa của” Tính Dục Nhân Lọai”,
tức là việc Truyền sinh. Từ “trưởng thành”(maturity),
không có nghĩa là chính tu sĩ cần được “thí nghiệm”trước, nhưng
là được học hỏi về ý nghĩa thánh thiêng của Hôn Nhân, hiểu biết
mục đích của việc Tạo Hóa đã tạo dựng Nam-Nữ để Truyền sinh.
Nhất là phải triệt để tôn trọng Luật Tự Nhiên mà Chúa
đã an bài, đối với việc “giao hợp tính dục” giữa Nam-Nữ, tôn
trọng những bậc đã kết hôn thành Vợ-Chồng, và trẻ em thuộc quyền
của phụ huynh. Cần hiểu biết những đòi hỏi , nghĩa vụ và quyền
lợi của những người sống trong bậc Vợ-Chồng, và TỰ DO,
quảng đại, hy sinh chấp thuận cuộc đời Tận Hiến cho Chúa và tha
nhân, mới hy vọng có thể chống lại những cám dỗ lăng
lòan của Tính Dục.
- ĐGH
BIỂN ĐỨC XVI(Zenit.org ngày Feb.4/2009), đã nêu gương
Thánh Phao Lô Tông Đồ làm Mẫu Mực về Đời SỐNG THÁNH HIẾN(
Consecrated Life):Ngài nêu ra ba Nhân Đức:
Thanh Bần,
Trinh Khiết, và Vâng Phục.
Về Đức
Thanh Bần,
Thánh Nhân coi đó là bảo đảm để việc Loan Truyền Tin Mừng một
cách hòan tòan “vô vị lợi”, và đồng thời cũng biểu lộ
tình liên đới với những Anh Chị Em nghèo khó.
- Về
Đức Khiết Tịnh:
Thánh Nhân đã dâng hiến tòan thân, trái tim cho Chúa để Phục Vụ
một cách Tự Do lớn lao hơn, tận tụy hơn cho các Anh Chị Em..
-Về Đức
Vâng Phục,:
Việc vâng phục Thánh Ý Chúa, và tinh thần trách nhiệm hằng ngày,
và việc chăm lo cho các Giáo Đòan, đã làm Thánh Nhân, ngày càng
hao mòn kiệt sức, để nên của Lễ Hy Sinh cho Chúa.
Cuối cùng
ĐGH kết luận:
Thánh Phaolô Tông Đồ đã kết hiệp mật thiết với Chúa Cứu thế, nên
chúng ta nhận thấy Ngài đã liên kết ba Nhân Đức của đời
Sống Tu Đức với Họat Động Truyền Giáo. Hai khía cạnh này
luôn hỗ tương liên đới với nhau.
L.M. Cao Phương Kỷ |
VỀ MỤC LỤC |
|
CÁNH ÉN TRỞ VỀ
|
Ngày 19 tháng Ba vừa
qua, đàn chim én cả ngàn con đã từ một thành phố xa xôi ở Á Căn
Đình bên Âu châu bay về tới San Juan Capistrano, một xứ đạo
truyền giáo miền biển vùng Nam Califomia. Đây là một cuộc hẹn hò
không biết đã từ bao giờ. Cứ vào khoảng thời gian đó mỗi năm,từ
nơi xa xôi, chim én lại bay về. Và cũng vào thời gian đó, người
ta ngóng đợi sự xuất hiện của cánh én trên bầu trời trong xanh.
Một ông cụ, năm nay đã hơn chín mươi tuổi, đứng sẵn ở trên tháp
chuông nhà thờ. Vừa khi nhìn thấy cánh én đầu tiên, liền đánh
chuông báo hiệu, và những cuộc vui chào mừng chim én, cũng là
chào mừng mùa Xuân trở về, bắt đầu. Ông cụ làm công việc ấy liên
tục từ sáu mươi năm nay. Cũng từ bao nhiêu năm nay, én và người
bao giờ cũng giữ lời ước hẹn.
Khi nghe tin bầy én
trở về , trái tim tôi xôn xao một niềm vui Tôi nghĩ tới những
cánh én đem mùa Xuân trở lại cho vũ trụ và loài người. Khi trên
trời xuất hiện những cánh én, người ta biết mùa Xuân trở về. Từ
đó, chim én đã là một biểu tượng của mùa Xuân. Đang khi đất trời
ảm đạm và lạnh giá trong khí hậu mùa Đông, cỏ cây như ngủ quên
trong giấc miên trường và những loài chim loài thú ở trong tổ
trong hang co ro tránh rét, thì những cánh én trở về, cùng với
nắng vàng ấm áp và một vùng trời mênh mang xanh ngát mắt với
những cụm mây trắng nõn. Đất trời như bừng tỉnh, cây cối đâm
chồi nảy lộc, muôn ngàn loài hoa tỏa hương khoe sắc. Các loài
chim theo sau cánh én bay rợp khắp cả bầu trời, và từng đàn bướm
lượn bay trên cỏ hoa đồng nội.
Đất trời có mùa Xuân
thì lòng người cũng có mùa Xuân. Đất trời thay đổi theo từng mùa
thì lòng người cũng thay đổi tâm trạng buồn vui tùy theo hoàn
cảnh. Lòng người, có khi tưng bừng như nắng vàng mùa Hạ , thì
cũng có lúc buồn mơ màng như gió nhẹ mùa Thu; có khi xôn xao rạo
rực như một mùa Xuân chín, thì cũng có lúc buồn thảm lạnh lùng
như buổi chiều Đông.
Những buổi chiều
Đông của cuộc đời là những khi người ta gặp cảnh không may,
những nỗi buồn và niềm đau liên tiếp kéo đến. Những buổi chiều
Đông ấy là những khi người ta gặp toàn những thất bại trong đời,
bị bỏ rơi, bị hiểu lầm, cô độc. Những buổi chiều mùa Đông ấy là
những khi người ta cảm thấy mình tàn tạ, bất lực, dư thừa. Những
buổi chiều Đông ấy là khi người ta không biết yêu thương hay
không được yêu thương. Khi ấy người ta vùi mình trong hang sâu
của chính mình, giống như chú gấu trốn lạnh; người ta giống như
những cành khô xám xịt không còn sinh lực và sự tươi tắn thuở
nào; người ta buồn rầu như một vườn không có hoa và chim bướm.
Những buổi chiều mùa Đông buồn bã của cuộc đời sẽ kéo dài mãi,
cho đến ngày nào đó, một cánh én bay vào, biến đổi mùa Đông
thành mùa Xuân. Cánh én ấy có thể là một người thân, một người
bạn, hay chỉ là một người mới quen biết, đôi khi lại là một
người chưa quen biết.
Chúng ta đều có khả
năng là một cánh én, chở mùa Xuân đến cuộc đời người khác, nếu
chúng ta muốn và nếu chúng ta biết yêu. Với một chút tế nhị, một
chút lư u tâm, một nụ cười, một thái độ cảm thông và biết lắng
nghe, một câu ủi an, một lời khích lệ, một cử chỉ ân cần...
Chúng ta sẽ là cánh én đem lại mùa Xuân, sẽ lôi một chú gấu la
khỏi hang, sẽ làm cho một cành cây khô trổ nụ sẽ biến một khu
vườn hoang phế nở đầy hoa và dập dìu chim bướm. Và cuộc đời của
người mà ta đang lưu ý tới đó sẽ có mùa Xuân.
Người ta bảo
''Một con én không làm nên cả một mùa
Xuân
''. Câu nói ấy muốn
nói lên giá trị của việc làm tập thể, nhưng không vì thế mà phủ
nhận giá trị của một cánh én, nhất là trong lãnh vực tình người.
Tôi vẫn tự nhủ như thế và vì vậy, vẫn cố gắng bằng thiện chí nhỏ
nhoi của mình để làm một cánh én, đem chút không khí mùa Xuân
đến những ai quen biết.
Tuy nhiên, sự thật
là chim én không bay một mình. Chim én bay thành bầy. Trong cuộc
sống, nếu người ta cũng biết bay thành bầy như chim én, thế giới
sẽ đẹp hơn nhiều và cuộc đời mỗi người cũng sẽ hạnh phúc hơn
lên. Chung quanh tôi có biết bao người thiện chí, bao tấm lòng
tốt đẹp, bao trái tim tươi thắm, quảng đại và dám chấp nhận hi
sinh. Nhưng có lẽ chúng ta không biết cách liên kết lại với
nhau, như chim én bay thành bầy, nên hạnh phúc ta tạo được cho
người khác chỉ là hạnh phúc nhỏ nhoi. Bài học của loài chim én
giúp tôi biết đóng góp thiện chí và khả năng cớ giới hạn của
mình vào công việc chung. Khi nào mọi người cùng biết liên kết
với nhau để theo đuổi những mục tiêu tốt đẹp, toàn thể thế giới
này sẽ là một mùa Xuân vĩnh cửu, đó là tên gọi khác của Thiên
Đàng.
Tôi ngồi viết bài
này trong một căn phòng cửa đóng kín, nhưng trong đầu tôi dập
dìu muôn ngàn cánh én trên bầu trời mênh mông. Chẳng nhớ rằng
đường bay từ Á Căn Đình đến miền Tây Hoa Kì dài bao nhiêu, tôi
chỉ biết rằng đường bay xa lắm. Bầy én ngàn con đã bay đến nơi,
về đến chốn. Cuộc viễn hành này chỉ trọn vẹn khi bầy én vừa có
tinh thần tập thể vừa có tinh thần kỉ luật. Đây cũng là điều mà
những loài én, loài kiến, loài ong nhắc nhở cho loài người. Tụ
họp lại với nhau, ngồi được với nhau, cùng khởi hành với nhau là
đã có tinh thần tập thể. Nhưng trong khi tụ họp, ngồi lại, và
nhất là trên đường đi chung đó, nếu người ta không biết nghe
nhau, không có tinh thần kỉ luật thì rồi cuối cùng sự tụ họp sẽ
thành tan rã, và người ta chia tay, mỗi người một hướng đi. Đó
là sự kết thúc... nhẹ nhàng nhất. Nhiều khi người ta không lặng
lẽ chia tay như vậy, nhưng sẽ ra đi với hận thù để rồi tìm cách
ngăn cản nhau, làm hại nhau. Những cánh én kết thành đàn, bay
theo cùng một hướng, nương vào nhau, dắt dìu nhau về đến đích
điểm, chẳng phải là hình ảnh thật đẹp và bài học thật hữu ích
cho chúng ta sao?
Và bầy én bay về San
Juan Capistrano khiến tôi nghĩ đến những cuộc hẹn hò, những lời
thề ước của người ta trong cuộc đời. Hình ảnh ông già hơn chín
mươi tuổi đứng trên tháp chuông nhà thờ chờ bầy én, theo tôi là
một hình ảnh thật đẹp. Đợi chờ, vì trong thinh lặng, ông và bầy
chim đã có một lời ước hẹn: gặp lại nhau vào buổi đầu Xuân.
Người đợi kiên trì chờ đợi; và bầy én thì vượt qua không biết
bao nhiêu dặm trời, bay ngang qua không biết bao nhiêu biển
khơi, sông ngòi, nang cây, đồi núi, ruộng đồng, thành phố. . .
để tìm về điểm hẹn. Niềm vui nhìn thấy cánh én đầu tiên có lẽ
làm rung động đến tận đáy trái tim ông già tiên chín mươi tuổi
ấy. Và tôi chắc chắn rằng bầy chim cũng rất đỗi hân hoan khi
nghe tiếng chuông nhà thờ gióng giả vang lên, Một lời hẹn hò đẹp
đẽ và một cuộc gặp gở tuyệt vời.
Có lẽ tôi không đủ
chất nghệ sĩ, không đủ tính lãng mạn nên không thích kiểu hẹn '
'Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé: '' Tôi nghĩ đến
trong thực tế, đã có rất nhiều trái tim tan nát vì những lời ước
hẹn như thế: Và chúng ta, những con người, đã không giữ lời ước
hẹn, không phải chỉ cho một cuộc gặp mặt, một buổi chuyện trò,
một chuyến đi chơi…,mà còn cho những sự việc quan trọng hơn, lớn
lao hơn. Người ta đã cho nhau những lời thề vàng đá, đã long
trọng thề hứa trọn đời trọn kiếp bên nhau. Trong cuộc sống
chung, người ta đã hứa với bạn đời, với con cái hết điều này tới
điều khác... Nhưng rồi rất nhiều khi người ta đã không giữ những
lời thề hứa đó ở nhiều lãnh vực khác cũng thế, người ta hứa hẹn
sẽ làm điều này điều nọ, sẽ thực hiện những công trình lớn nhỏ,
sẽ hoàn tất những công tác, những chương trình…Nhưng người ta đã
không làm như lời đã hứa. Những lời hứa trong cuộc sống cá nhân,
cũng như những lời hứa không được giữ trọn trong đời sống xã hội
đều làm cho biết bao nhiêu người thất vọng, bao cuộc đời tan
nát, bao trái tim héo mòn. Kiểm điểm lại, tôi cũng đã phạm lỗi
lầm đó nhiều lần trong đời sống. Có lẽ mỗi chúng ta đều nên cất
giữ trong trái tim mình một cánh én vượt ngàn khơi bay về thánh
đường San Juan Capistrano. .
Cuộc gặp gở giữa én
và người mà điểm hẹn là tháp giáo đường khiến tôi càng thêm suy
nghĩ. Nếu trong lời ước hẹn, nếu trong những tình cảm người ta
trao gửi cho nhau có bóng dáng Thiên Chúa, lời ước hẹn và tình
cảm ấy sẽ được thánh hiến, và người ta sẽ thực hiện trọn vẹn.
Tìm đến với nhau - trong Chúa - là xây dựng một mối liên hệ lâu
dài, vững bền và thánh thiện. Ngay cả những khi người ta lạc
nhau trong cuộc đời, theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, người ta
nên tìm đến nhau trong thánh đường, nơi có Chúa hiện diện, người
ta sẽ thấy được nhau. Mẹ Maria, thánh Giuse cũng đã lạc mất Chúa
Giê su trong dịp đại lễ ở Giêrusalem.. Đức Mẹ và thánh Giuse đã
tìm Chúa Giê su ở khắp nơi, nhưng cuối cùng đã gặp Chúa trong
đền thờ. Gia đình tôi cũng nhiều khi đi lạc nhau, đó là lúc tôi
và người bạn đời thiếu sự cảm thông, mỗi người nhìn về một
hướng. Đó là khi tư tưởng của tôi và của các con xung khắc,
không ăn khớp với nhau. Kinh nghiệm dạy cho chúng tôi thấy,
những lúc đó chúng tôi chỉ tìm gặp lại được nhau khi cùng tìm về
với Chúa trong lời cầu nguyện chung.
Và giữa Chúa và tôi
cũng có một lời hò hẹn. Ngài đặt trong tôi một trái tim trinh
nguyên rồi đưa tôi vào đời và hò hẹn cùng tôi một lần gặp lại.
Tôi như đứa bé tung tăng trên đường thiên lí, vui chân đi khắp
nơi ngắm nhìn cảnh lạ đường xa. Đã nhiều khi tôi sà vào những
cuộc vui chơi của đám đông, cũng có khi tôi lỡ bước lăn tòm
xuống hố, Nhiều khi tôi bước đi một mình trong cơ độc, cũng có
khi tôi nhịp nhàng cất bước với bao bạn đồng hành. Trái tim
trinh nguyên ngày nào Chúa trao tặng tôi đã nhiều khi nở hoa
tươi thắm, cũng cũng có lúc buồn thảm ê chề , đã nhiều khi âm
thầm nhỏ máu. Chúa vẫn chờ đợi tôi một chuyến trở về . Thật ra
Ngài không ngồi một chỗ để chờ đợi tôi . Ngài đã đồng hành với
tôi nhưng tôi không biết đến. Ngài đã ở trong những người bên
cạnh tôi; nhưng tôi không nhận ra sự hiện diện của Ngài. Qua
những con người, những sự kiện xảy ra trong cuộc sống, Ngài nhẹ
nhàng nhắc nhở tôi cuộc tái ngộ trùng phùng.
Trong những lúc tĩnh
lặng tâm hồn như hôm nay, tôi nghĩđến lời hẹn hò gặp lại ấy. Và
tôi xin Chúa cho tôi khi trở về , trái tim dù đã qua bao nhiêu.
lần nở hoa hay nhỏ máu, vẫn còn giữ được sự trinh nguyên như
thuở cất bước vào đời. Trong tôi, có tiếng cánh chàm én vút bay,
vượt ngàn trùng về tới đỉnh tháp chuông giáo đường San Juan
Capistrano.
Nhà Văn Quyên Di |
VỀ MỤC LỤC |
|
Đời sống cầu
nguyện và đời sống nội tâm
|
NGƯỜI NỮ TU SỐNG TU ĐỨC TOÀN DIỆN
tác giả: Lm. Micae-Phaolô Trần Minh Huy pss
LỚP THẦN HỌC LIÊN
TU SĨ - TÒA GIÁM MỤC BÙI CHU (2008 - 2009)
Chương IV : Đời
sống cầu nguyện và đời sống nội tâm
“Hãy luyện tập sống đạo đức, vì luyện tập
thân thể thì lợi ích chẳng là bao, còn lòng đạo đức thì lợi ích
mọi bề, bởi Chúa hứa ban sự sống hiện tại cũng như tương lai cho
người có lòng đạo đức”
(1 Tim 4:7-8)
Suy nghĩ:
GIỜ THỨ 25
Một ngày kia,
trong sự buồn sầu các Thiên Thần thưa với Thiên Chúa: Nhân loại
ngày nay hầu như đã quên hẳn sự cầu nguyện.
Cố vấn của
Thiên Quốc liền hỏi các Thiên Thần nguyên do tại sao. Các Thiên
Thần lần lượt trình bày: Nhân loại biết họ thiếu sót trong vấn
đề cầu nguyện và cũng thường hối tiếc về điều đó. Nhưng họ than
là không có thời gian để cầu nguyện.
Nghe vậy, cả
triều thần Thiên Quốc lấy làm sửng sốt vì một ngày dài 24 tiếng
đồng hồ mà vẫn còn thiếu. Họ đề nghị: Để ngăn chặn sự xuống dốc
này của nhân loại, chúng ta hãy suy nghĩ và tìm một giải pháp
thích hợp. Thế là cả Thiên Quốc hăng say đưa ra các biện pháp
làm sao giúp nhân loại tránh được đời sống qúa tiện nghi, chạy
theo vật chất, hay trừng phạt thật nặng nề như lũ lụt, v.v...
Nhưng có một
Thiên Thần lên tiếng: Xin Thiên Chúa cho ngày dài thêm ra một
tiếng đồng hồ nữa, xem họ còn than trách không có giờ cho sự cầu
nguyện không? Đề nghị này cả Thiên Quốc thấy hay, và Thiên Chúa
đã cho ngày dài hơn một tiếng. Giờ thứ 25 này được gọi là "giờ
của Chúa".
Nhưng trái
với sự chờ đợi, vì vẫn không có nhiều lời cầu nguyện hơn. Các
Thiên sứ lại được phái xuống trần gian để thăm dò tin tức. Sau
thời gian rảo bước khắp nơi, các Thiên Thần trở về Thiên Quốc để
báo cáo về tình hình hiện nay của nhân loại. Một vị kể lại: Các
nhà kinh doanh than vì thay đổi giờ nên cả tổ chức phải đổi lại,
gây ra tốn kém và cần giờ để ổn định lại. Còn các công đoàn tỏ
ra hài lòng vì họ đã đòi hỏi từ lâu điều thêm giờ này. Và giờ
thêm này phải dành cho công nhân nghỉ ngơi. Các chính trị gia và
các nhà trí thức bàn luận rất sôi nổi và kết luận: Không có ai
có quyền bắt buộc người công dân phải làm gì với một giờ nào đó.
Một số người còn đi xa hơn là khi "ở trên" làm ra giờ 25 đã
không hỏi ý kiến "ở dưới", vì vậy không chấp nhận được. Và cứ
như thế, hầu như ai cũng có một lý do để giải thích vì sao không
thể dùng một giờ có thêm để cầu nguyện.
Sau cùng có
một Thiên Thần kể về một số người. Đó là những người đón nhận
thời giờ được có thêm để tham dự thánh lễ, để phục vụ cho tha
nhân và cầu nguyện. Họ cảm thấy dễ dàng hơn vì có thêm
giờ. Nhưng các Thiên Sứ rất ngạc nhiên vì khám phá ra
rằng: những người này cũng là những người khi một ngày còn 24
tiếng, họ vẫn có đủ thì giờ để cầu nguyện.
Vì vậy trên
Thiên Quốc nhận ra là thời gian không mang lại thêm người cầu
nguyện. Sự cầu nguyện là tình yêu. Lý do con người không cầu
nguyện không phải vì không có thời gian, nhưng là sự liên quan
giữa con người với Thiên Chúa bị lãng quên. Nếu có tình yêu thì
dù không có giờ người ta cũng tìm ra giờ cho người mình thương
mến.
Và các Thiên
Thần xin Thiên Chúa cho ngày trở lại bình thường. Một năm với
365 ngày và mỗi ngày có 24 giờ. Mỗi người chúng ta bắt đầu làm
tính cộng trừ nhân chia, xem mỗi ngày chúng ta dành thời gian
cho đời sống cầu nguyện được bao nhiêu. Qua đó chúng ta biết
được sự liên hệ giữa ta với Thiên Chúa như thế nào.
Lạy Chúa,
Bước ra
đường con gặp không biết bao nhiêu người. Họ về, họ đến, họ đi,
họ chạy. Xe hai bánh chạy. Xe bốn bánh chạy. Xe cam-nhông chạy.
Cả thành phố chạy. Các con đường chạy. Cả thành phố chạy. Tất cả
mọi người chạy. Họ chạy để khỏi mất thì giờ. Họ chạy theo thời
gian, Ðể lấy lại thời giờ đã mất, Ðể lời nhiều thì giờ hơn. Hết
mọi người đều bảo là không có thì giờ.
Nhưng lạy Chúa, con có thời giờ.
Con có thì giờ
riêng của con. Tất cả thời giờ mà Chúa đã ban cho con, Những năm
tháng của đời sống con; Những ngày của năm tháng con, Những giờ
của ngày sống con, Tất cả đều thuộc về con. Con có phận sự phải
dùng nó cho đầy đủ trong bình tĩnh và yên lặng. Dùng nó cho cho
trọn vẹn, cho tới phút cuối cùng. Ðể dâng lên cho Chúa hầu Chúa
làm lợi cho kẻ khác. Chiều nay, lạy Chúa, con không xin Chúa ban
cho con thêm thời giờ để làm sự này hay sự khác.Con chỉ xin Chúa
cho con được ơn này là ơn biết dùng nên thời giờ Chúa ban cho
con, để tận tình làm những việc mà Chúa muốn con làm. Amen.
Michel Quoist, Prières
A. NHẬP ĐỀ TỔNG QUÁT
I. Nhu CẦu CẦu NguyỆn
Chính Chúa Giêsu đã sống đời cầu nguyện kết
hiệp liên lĩ với Chúa Cha. Ngài cầu nguyện một mình nơi thanh
vắng, giữa đám đông, sáng sớm tinh sương hay lúc chiều xuống đêm
về, có khi suốt cả đêm... Và chính Ngài đã dạy cho môn đệ cầu
nguyện, đặc biệt Kinh Lạy Cha.
Cầu nguyện nuôi dưỡng và phát triển đời
sống thiêng liêng, nghĩa là sống tiếp thông với Chúa, không
ngừng đổi mới nội tâm, khởi đầu và khởi đầu lại mãi cho mọi cuộc
canh tân trong Hội Thánh.
Nhưng “chúng ta không biết cầu nguyện
thế nào cho phải. Chính Thánh Thần cầu thay nguyện cho chúng ta
bằng những tiếng than khôn tả” “Thiên Chúa thấu suốt tâm can… và
Thánh Thần cầu thay nguyện giúp cho dân thánh theo đúng ý Thiên
Chúa” (Rm 8, 26-27)
Tại sao phải cầu nguyện?
Vì cầu nguyện là hơi thở của linh hồn. Có
bao giờ chị em thử nín thở lâu lâu một chút không? Điều xảy ra
cho cơ thể cũng sẽ xảy ra cho đời sống thiêng liêng của chị em
khi chị em ngưng cầu nguyện.
Hãy tưởng tượng một tình bạn không chia sẻ
hiệp thông và không dành thời giờ cho nhau thì tình bạn đó có
tồn tại được không? Cũng thế, cầu nguyện là dành thời giờ cho
Chúa, nói với Chúa và lắng nghe Chúa nói với mình.
Vậy, xin chị em hãy để có những khoảnh khắc
cho nhau trong cuộc sống cộng đoàn, nhờ tác động của ơn Chúa:
chỉ bảo huynh đệ, xin lỗi, tha lỗi, quyết tâm chung cho một mối
quan hệ tốt đẹp hơn…
II. VẤn đỀ lo ra, chia trí
Làm sao chúng ta để Chúa đổ đầy cuộc sống
chúng ta niềm vui, ánh sáng, sức mạnh, và mọi thành quả, nếu
chúng ta không dành thời giờ với Ngài, tìm biết Ngài, đi vào
tương quan năng động và riêng tư với Ngài bằng cầu nguyện?
Nhưng vấn đề đặt ra là con người chúng ta
hay bị chia lòng chia trí trong khi cầu nguyện. Tại sao? Va làm
thế nào để thắng vượt?
Chúng ta chia trí, vì sự yếu đuối của con
người: “Miếng ngon nhớ lâu, lời đau nhớ hoài.” Ma quỉ ghen tương
phá hoại và ngăn trở không cho ta kết hiệp mật thiết với Chúa,
vì chúng biết rằng một khi chúng ta kết hiệp mật thiết với Chúa
thì chúng chẳng làm gì chúng ta được.
Chúng ta đã chiến đấu nhiều để gạt các chia
trí đó đi, nhưng không thành công. Vậy xin đề nghị đổi chiến
thuật: dùng phương pháp “Gậy ông đập lưng ông” mà đối đầu giải
quyết: Bạn hãy lấy ngay điều làm bạn chia trí mà trình bày với
Chúa, cầu nguyện với Chúa, cho bạn và cho người hay việc bạn
đang chia trí. Kết hợp với lời khuyên của thánh Phêrô: “Trong
khi cầu nguyện, anh chị em hãy trao trút nỗi lòngcủa anh chị em
cho Chúa, vì Ngài hằng thương yêu chăm sóc anh chị em” (x. 1 Pet
5,7)
Chúa Giêsu cũng đã khuyến cáo: “Hãy tỉnh
thức và cầu nguyện để khỏi sa chước cám dỗ, vì tinh thần hăng
hái nhưng xác thịt lại yếu đuối” (Mk 14,38).
Sự yếu đuối vốn là cái chung của thân phận
con người, như thánh Phaolô thú nhận: “Có ai trong anh chị em
yếu đuối mà tôi không cảm thấy yếu đuối, có ai trong anh chị em
sa ngã mà tôi không cảm thấy như thiêu như đốt” (2 Cr 11,29), và
Ngài thúc giục “Hãy cầu nguyện không ngừng” (1 Thes 5,17).
Thánh
Têrêsa Avila nói rõ: “Người bỏ cầu nguyện không cần ma quỉ đẩy
xuống hỏa ngục, mà chính người ấy sẽ tự đưa mình đến đó.”
Quả thế, hầu hết các linh mục, tu sĩ rời
bỏ đời tu là vì đã sao nhãng hay bỏ bê không cầu nguyện nữa. Vì
thế, ta phải thiết lập một kỷ luật cầu nguyện cho mình và nắm
giữ kỷ luật ấy trong suốt cuộc đời thánh hiến của mình.
III. Nuôi DưỠng ĐỜi SỐng CẦu NguyỆn
Việc cầu nguyện phải được thực hiện tương
tác với sứ vụ và đời sống dâng hiến, phù hợp với những con
người, nơi chốn, thời gian và thực hành khác nhau.
Đời sống và sứ vụ tông đồ của tu sĩ được
nuôi dưỡng và phong phú nhờ việc học hỏi thường xuyên: không chỉ
lo cập nhật các giáo huấn của Giáo Hội, các trào lưu triết học,
thần học, các khoa học xã hội và nhân văn, nhưng phải biết cầu
nguyện và chiêm ngắm ở trong và qua các học hỏi này nữa.
Đức Gioan
Phaolô II nhắc nhở phải lấy Chúa Giêsu làm trung tâm đời sống và
luôn kết hợp mật thiết với Chúa bằng cầu nguyện, suy niệm cá
nhân hàng ngày, cũng như sốt sắng cử hành Phụng vụ các Giờ Kinh
và Thánh Thể: “Nếu các con đầy Chúa, các con sẽ là những tông đồ
đích thực của công cuộc truyền giáo mới, vì không ai có thể cho
cái mà họ không có trong tâm hồn” ( John
Paull II, “Jesus Must Always Be the Center of Your Life”
Vatican, May 2, 2004)
Chính nơi Nhà Tạm mà ta phục hồi và nạp
thêm năng lượng cho đời sống thiêng liêng và sứ vụ tông đồ. Quả
thế, Chúa Giêsu mời gọi: “Hỡi những ai vất vả và gánh nặng, hãy
đến với Ta, Ta sẽ nâng đỡ và bổ sức cho, và tâm hồn các ngươi sẽ
gặp được bình an” (Mt.11,28).
Ai trong chúng ta đã không có hơn một lần
trải nghiệm những gánh nặng mục vụ và những trăn trở cá nhân?
Thánh Phêrô khuyên: “Trong khi cầu nguyện, anh chị em hãy trao
trút nỗi lòng anh chị em cho Chúa, vì Ngài hằng thương yêu chăm
sóc đến anh chị em”(1 Pr 5,7)
Thánh Gioan Maria Vianey, cha sở họ Ars,
nhờ chầu MTC mà phục hưng được giáo xứ, lôi kéo không biết bao
nhiêu linh hồn hoán cải trở về với Chúa và Giáo Hội.
Hiện nay trên thế giới có phong trào thức
tỉnh và canh tân giáo xứ bằng việc chầu Thánh Thể liên lĩ. Chớ
gì những thành phần già cả, bệnh tật ở trong cộng đoàn sẽ thay
phiên nhau chầu Thánh Thể liên tục. Và chúng ta dù phải đi hoạt
động rất nhiều, chớ gì đừng bao giờ quên con đường dẫn tới Nhà
Tạm, nơi Chúa Giêsu đang chờ ta.
B. CÁC CÁCH CẦU NGUYỆN
1. Cầu Nguyện
Bằng Lời
Cầu nguyện bằng lời cốt yếu đọc lớn tiếng,
chung hay riêng, những kinh đã soạn sẵn, và hội nhập tư tưởng,
ước muốn của người đọc với ý nghĩa của các lời kinh ấy (Miệng
đọc tâm suy).
2. Cầu Nguyện Bằng Trí
Cầu nguyện bằng trí là suy nghĩ cá nhân dựa
trên một bản văn Thánh Kinh hay một bản văn tu đức, cùng những
lời của chính đương sự nói chuyện lòng với lòng cùng Chúa. Cách
cầu nguyện này quen gọi là nguyện gẫm.
3. Cầu Nguyện Chiêm Niệm
Cầu nguyện chiêm niệm đưa linh hồn đến liên
hệ trực tiếp hơn với Chúa, thường không cần đến lời nói và tư
tưởng, chủ yếu ở trước sự hiện diện của Chúa, yêu mến Ngài và
nhận biết mình được Chúa yêu mến.
4. Cầu Nguyện Độc Hữu và Cầu Nguyện Liên Lĩ
Cần phân biệt cầu nguyện độc hữu (dành
riêng cho việc cầu nguyện và chỉ việc cầu nguyện mà thôi) và cầu
nguyện liên lĩ (vừa làm việc vừa cầu nguyện, hay cầu nguyện
trong khi làm việc (câu chuyện HAI MÁI CHÈO)
Một cụ già chia sẻ với một cậu bé về đời
sống cầu nguyện liên lĩ. Cậu bé cho rằng không thể vừa làm việc
vừa cầu nguyện. Cụ già mời cậu lên chiếc thuyền nan với hai mái
chèo có ghi chữ CẦU NGUYỆN ở cái này và LÀM VIỆC ở cái kia.
Cụ chỉ chèo với mái chèo “Làm Việc.” Con
thuyền nan chòng chành và quay vòng. Cậu bé kêu chóng mặt… Cụ
lại đổi tay chỉ chèo với mái chèo “Cầu nguyện”, con thuyền nan
lại cứ chòng chành và quay vòng làm cậu bé kêu rất chóng mặt. Cụ
già liền với tay nắm lấy cả hai mái chèo “Cầu Nguyện” và “Làm
Việc” rồi hai tay cùng chèo. Thuyền nan nhẹ nhàng lướt tới. Bấy
giờ cậu bé mới ngộ ra.
Cầu nguyện liên lĩ đưa dẫn cuộc sống nhân
bản và thiêng liêng của chúng ta như thế đó: “Việc tay chúng con
làm, xin Ngài củng cố, xin củng cố việc tay chúng con làm” (Tv
89: 17)
Thánh Vinhsơn đệ Phaolô đã chỉ dạy cụ thể:
"Phải qúy việc phục vụ người nghèo hơn hết và phải thực hiện
ngay không được trì hoãn.“Nếu trong giờ kinh nguyện mà phải mang
thuốc hay sự giúp đỡ nào đến cho một người nghèo khổ, thì hãy
yên tâm đi đến với họ, dâng việc phải làm đó cho Chúa như đang
nguyện kinh vậy. Đừng bối rối tâm hồn, đừng xao xuyến lương tâm
vì đã phục vụ người nghèo mà bỏ buổi kinh nguyện, vì không phải
là bỏ Chúa khi vì Ngài mà phải đi xa Ngài, nghiã là phải bỏ công
việc ca tụng Thiên Chúa để thực hiện một việc ngang hàng như
vậy. Chính vì thế, khi anh em bỏ kinh nguyện để giúp đỡ một
người nghèo nào, anh em hãy nhớ đó là việc phục vụ Thiên Chúa"
(Trích bút ký, thư 2546).
Chúa Giêsu là mẫu gương tuyệt hảo của cầu
nguyện độc hữu và cầu nguyện liên lĩ. Ngài cầu nguyện với Chúa
Cha, lúc ở nơi hoang vắng hay khi ở giữa đám đông dân chúng, lúc
ban ngày hay suốt đêm khuya, sáng sớm tinh sương hay muộn màng
lúc đêm về, lúc vui mừng vì phép lạ phát huy hiệu quả hay khi
đau khổ nơi vườn Giêtsêmani, hoặc bị bỏ rơi trên thập giá trong
giờ tử nạn.
Ai trong chúng ta cũng đã trải nghiệm đời
sống cầu nguyện cá nhân, cộng đồng và phụng vụ trong niềm vui
sốt sắng cũng như trong khô khan nguội lạnh, nên cần thanh luyện
và sửa chữa cách cầu nguyện của mình.
Như vậy lời cầu nguyện của người nữ tu hoạt
động mang cả hai chiều kích hoạt động và chiêm niệm, nên phải
bảo đảm hài hòa:
-
giữa hai chiều kích cầu nguyện độc hữu và cầu nguyện liên lĩ.
- dù là cộng đồng hay cá
nhân, lời cầu nguyện đó phải mang chiều kích chuyển cầu phổ quát
cho mọi người, cho Giáo Hội, cho thế giới, và cho toàn thể tạo
thành.
-
lời cầu nguyện đó phải bao gồm thờ phượng, ca ngợi, tuân phục,
cảm tạ, đền tạ, chứ không phải chỉ xin ơn.
-
Và tạ ơn cũng không chỉ dừng lại ở những ơn đã được, mà còn
những ơn không được hoặc chưa được, vì lòng yêu thương khôn
ngoan của Chúa luôn chọn lựa những gì tốt đẹp và hữu ích nhất
cho sự sống hạnh phúc đời đời mà ban cho con cái.
C. CÁC ĐẶC
TÍNH CỦA LỜI cẦu nguyỆn
Lời cầu nguyện
có mục đích tối hậu là ca tụng Chúa, đón nhận ơn Chúa, đào sâu
mối hiệp thông cá nhân với Chúa và củng cố Giáo Hội.
Thời gian dành cho việc cầu nguyện đánh
thức trong tâm hồn chúng ta thái độ tôn thờ, chiêm ngưỡng, tạ
ơn, xin ơn, thống hối trở về và đền tạ.
1.
Lời Cầu Nguyện Tín Hữu
Lời cầu nguyện giúp khám phá và gặp gỡ
Thiên Chúa. Đó là một dấn thân cá nhân của con người đáp trả lời
mời gọi của Thiên Chúa trong mỗi phút giây, nhờ Chúa Thánh Thần
trợ giúp (x. Rm 8,26). Nó được đồng hóa với lời cầu nguyện của
Đức Kitô, Đấng mang lấy ước nguyện của cả loài người và dâng lên
Chúa Cha.
Mỗi người được mời gọi ca ngợi Thiên Chúa
nơi các thánh, chiêm ngắm mầu nhiệm thánh ý Chúa, giữ vững niềm
tin… Biết rằng mọi người trên thế gian đều phải gánh chịu cùng
một nỗi thống khổ đang cầu xin ơn cứu độ, xác tín rằng Thiên
Chúa muốn mọi người được rỗi; hiến dâng chính mình và tất cả
nhân loại, và cùng với mọi loài thụ tạo, tôn thờ Đấng Tạo Hóa.
Sau Chúa Kitô, Mẹ Maria là mẫu gương về đời
sống cầu nguyện của mọi tín hữu. Mẹ đã ca ngợi những kỳ công của
Chúa, đón nhận mầu nhiệm cứu độ và giữ vững đức tin sống động,
cả dưới chân Thập Giá. Mẹ hằng cầu bầu cho các tín hữu và trở
thành gương mẫu đặc biệt cho chúng ta trong đời sống cầu nguyện
và đem Chúa Giêsu trao ban cho người khác.
2. Lời Cầu Nguyện Tông Đồ
Người môn đệ Đức Kitô nhận ra và làm chứng
rằng Nước Trời là một quà tặng của Thiên Chúa, phải được khẩn
khoản nài xin bằng lời cầu nguyện.
Chính Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ của Ngài
phải cầu nguyện cho Nước Thiên Chúa ngự đến (x. Mt 6, 9-10). Và
nhờ hoạt động, người môn đệ loan báo Tin Mừng và khai mạc Nước
Thiên Chúa.
Mục đích của việc tông đồ là làm cho người
khác nhận biết và yêu mến Thiên Chúa, Đấng không ngừng qui tụ
mọi người từ khắp muôn phương.
Lời cầu nguyện tông đồ xác tín và bảo đảm
rằng Nước Thiên Chúa đến không tùy thuộc hành động của con
người, nhưng lệ thuộc vào hành động của Thiên Chúa.
Khi những người sống đời thánh hiến xác tín
hơn rằng mình phải trở thành dụng cụ mềm mại trong tay Thiên
Chúa cho hoạt động tông đồ, thì họ sẽ xác tín hơn về nhu cầu cầu
nguyện, và sẽ giao phó chính mình cho hoạt động của Chúa Thánh
Thần.
3. Lời Cầu Nguyện Mục Vụ
Lời cầu nguyện mục vụ là một trong những
bổn phận của người sống đời thánh hiến đối với đoàn dân mà mình
phục vụ.
Hoa trái của công tác mục vụ là do Chúa
Thánh Thần, ta phải để Chúa Thánh Thần hướng dẫn thì các hoạt
động của ta sẽ là của Ngài.
Trách nhiệm mục vụ xuất hiện rõ nét nơi
việc tham dự Bí tích Thánh Thể và cử hành Phụng Vụ các Giờ Kinh
cách ý thức, tích cực và sống động.
Lời cầu nguyện mục vụ nhắm đến toàn thể
nhân loại mà Chúa Kitô đã hiến mình chịu chết, chứ không chỉ
giới hạn vào cộng đoàn đã được tập họp.
D. CẦu
nguyỆn thẾ nào?
Chúng ta học cầu nguyện bằng việc cầu
nguyện.
Yếu tố quan trọng nhất trong đời sống cầu
nguyện là quyết định biến lời cầu nguyện thành một phần của đời
sống toàn diện của chúng ta.
Nếu Chúa có ý nghĩa cho tôi, tôi sẽ dành
thời giờ để cầu nguyện. Còn nếu Chúa không có ý nghĩa gì cho tôi
cả thì tôi chẳng để mất thời giờ làm chi.
Việc cầu nguyện
(trò chuyện với Chúa) phải theo chúng ta suốt ngày, hay nói cách
khác là chúng ta phải cầu nguyện liên lĩ. Chúng ta sẽ mời Chúa
trở nên một phần của tất cả niềm vui nỗi buồn, những chiến đấu
và bận tâm, những kế hoạch và quyết định của chúng ta. Ngài là
người cha đầy yêu thương ao ước đi vào cuộc sống của các con cái
mình.
Chúng ta cần điều chỉnh mỗi ngày với Ngài,
nhờ đó các hoạt động của chúng ta không đuổi Ngài ra ngoài, trái
lại chúng ta nhận ra hoạt động của Ngài trong cuộc sống hằng
ngày của chúng ta, và chúng ta không bao giờ ngăn cản ân huệ mà
Chúa muốn ban cho kẻ khác qua chúng ta.
Để duy trì một đời sống cầu nguyện và một
mối liên hệ lành mạnh với Chúa, kinh nghiệm thúc đẩy những cam
kết:
-
Khởi đầu ngày
sống với việc dâng ngày và đọc Kinh Truyền Tin.
-
Kinh
Nhật Tụng
-
Dành
10-15 phút nguyện gẫm mỗi ngày
-
Dâng
Thánh Lễ và rước lễ
-
Lần
hạt Mân Côi
-
Xưng
tội đều đặn
-
Cầu
nguyện trước và sau ăn cơm
-
Viếng
Mình Thánh Chúa
-
Kết
thúc ngày sống với một thoáng suy nghĩ xem ngày sống đã qua đi
thế nào.
E. LỜi cẦu
nguyỆn biẾn đỔi chúng ta.
Nếu chúng ta cầu nguyện cách thích hợp, lời
cầu nguyện sẽ biến đổi chúng ta: sau khi cầu nguyện, chúng ta sẽ
trở nên khác hơn trước khi cầu nguyện.
Chỉ cần xem phản ứng của chúng
ta đối với người khác thì sẽ nhận ra được hậu quả biến đổi đó.
Quả thế, người tin Chúa và cầu nguyện sẽ cư xử một cách khác với
người không tin Chúa và không cầu nguyện.
Lời cầu nguyện làm
cho chúng ta trở nên khác:
-
nó khiến chúng ta có
thể làm những việc mà người không cầu nguyện không thể làm;
-
nó làm cho chúng ta có
những chọn lựa mà người không cầu nguyện không thể chọn lựa hoặc
chọn lựa sai;
-
nó làm cho chúng ta có
thể tha thứ và yêu thương người khác dễ dàng hơn.
Lời cầu nguyện là nơi chúng ta xin Chúa đi
vào cuộc đời chúng ta để Ngài có thể làm cho chúng ta thay đổi:
Điểm chính yếu của cầu nguyện là để thay đổi, chứ không phải để
vẫn như cũ.
Khi chúng ta xin Chúa tha thứ thì điều đó
có nghĩa là chúng ta có thể thay đổi: chúng ta có cái gì đó và
có lẽ chúng ta đã có thể làm một cách khác. Như vậy lời cầu
nguyện đưa chúng ta về với cái đó để giúp chúng ta thay đổi.
Trong Kinh Nguyện Thánh Thể II, chúng ta
thưa “Cảm tạ Chúa đã cho chúng con được xứng đáng đứng trước tôn
nhan Chúa và phụng sự Chúa.” Chúa đã cho chúng ta phần của Ngài,
chúng ta phải sống cho tương xứng.
Tất cả mục đích của cầu nguyện là giúp
chúng ta thay đổi: thay đổi từ một con người chỉ biết mình thành
một con người biết nghĩ đến người khác. Lời cầu nguyện thay đổi
chúng ta từ từ từng chút một.
F. PHƯƠNG THẾ ĐÀO TẠO SỐNG CẦU NGUYỆN
1. Trách Nhiệm
Trách nhiệm đầu tiên là phải quan tâm đến
sự tham dự của cả cộng đoàn và của từng người: Ý thức, sống động
và tích cực (x. Hiến chế về Phụng vụ)
Không
có đối nghịch giữa cầu nguyện cá nhân và cầu nguyện cộng đồng:
cầu nguyện cộng đồng không chỉ đơn giản là tổng số những lời cầu
nguyện cá nhân, mà phải là sự hiệp nhất của các con tim đang cầu
nguyện (x. Cv 2, 46), vì cầu nguyện cá nhân vốn là sự kéo dài
của kinh nguyện phụng vụ và đều hướng tới kinh nguyện phụng vụ.
Và lời cầu nguyện cộng đồng nâng đỡ lời cầu
nguyện cá nhân: sự khích lệ nhận được từ lời cầu nguyện cộng
đồng sẽ giúp mỗi người vượt qua những thử thách và những khó
khăn mà mỗi người không thể tránh khỏi trong cuộc sống.
2. Thời Khắc
Phải ý thức sâu xa rằng đời sống thiêng
liêng không thể chỉ đơn giản giản lược vào những thời khắc đặc
biệt dành cho việc đọc kinh cầu nguyện, nhưng thời giờ cầu
nguyện phải mở rộng ra trong toàn bộ cuộc sống.
Nên nhớ rõ rằng giờ cầu nguyện độc hữu là
chỉ dành cho việc cầu nguyện mà thôi, không làm chi khác; còn
cầu nguyện liên lĩ là cầu nguyện trong khi làm bất cứ việc gì.
Và Cầu nguyện góp phần thống nhất đời sống
ơn gọi, dù đôi khi cuộc sống ơn gọi đó gặp phải những khó khăn
và thử thách.
3.
Nơi
Chốn
Linh hướng là chỗ tin tưởng và tự do để nói
về đời sống cầu nguyện, về phẩm chất kitô giáo và Giáo Hội của
lời cầu nguyện đó, kiểm chứng tính kiên trì cam kết cầu nguyện,
đặc biệt việc nguyện gẫm (tư tưởng chỉ huy hành động).
Linh hướng là nơi huấn luyện cầu nguyện:
Chị em bày tỏ những khó khăn, tiến bộ hay thụt lùi, chiến đấu và
niềm vui khi cầu nguyện.
Cuộc sống nhóm cũng là nơi để trao đổi và
chia sẻ hữu ích về đời sống cầu nguyện.
Người bị chán nản tìm ra hay tìm lại được
con đường cầu nguyện, đọc ra ý nghĩa thiêng liêng của các biến
cố trong cuộc sống.
Được kích hoạt bởi đức ái cộng đoàn, mọi tu
sĩ được mời gọi giúp đỡ lẫn nhau để đón nhận từ Chúa Cứu Thế sự
phong phú nhiệm mầu của cuộc sống cầu nguyện và nội tâm.
G. CÁC HÌNH THỨC CẦU NGUYỆN
I. LIÊN QUAN ĐẾN LỜI CHÚA
1. lỜi chúa
“Sách Thánh có thể dạy anh nên người
khôn ngoan để được ơn cứu độ, nhờ lòng tin vào Đức Ki-tô Giê-su.
Tất cả những gì viết trong Sách Thánh đều do Thiên Chúa linh
hứng, và có ích cho việc giảng dạy, biện bác, sửa dạy, giáo dục
để trở nên công chính. Nhờ vậy, người của Thiên Chúa nên thập
toàn và được trang bị đầy đủ để làm mọi việc lành” (2 Tm 3,
15-17)
Thánh Gioan đã nói: Ai giữ Lời Chúa thì
sống trong Chúa và tình yêu của Chúa được trọn hảo nơi người ấy
(x 1Ga 2,5-6); và người ấy sẽ an toàn đi trên chính lộ đến cùng
Chúa Cha (x. Ga 14,6).
Lương thực đầu tiên nuôi dưỡng đời sống
thiêng liêng là Lời Chúa (x. Mt 4,4). Lời Chúa ban sự sống đời
đời (x. Ga 6, 68); đổi mới cái nhìn của chúng ta về mọi sự.
Lời Chúa soi sáng trí khôn, mời gọi tới đức
tin, mở lớn niềm hy vọng, thức tỉnh và đổi mới tình yêu. “Lời
Thiên Chúa là lời sống động, hữu hiệu và sắc bén hơn cả gươm hai
lưỡi: xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh, cốt với tuỷ; lời đó
phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người” (Dt.4, 12)
Suy niệm, sống và rao truyền Lời Chúa là
bổn phận và sứ vụ của mọi tín hữu (x. 1 Cr 9, 16). Chính Lời
Chúa làm cho đời sống và sứ vụ tu sĩ được triển nở và sinh hoa
kết trái dồi dào trong chương trình cứu độ của thánh ý Chúa (x.
Is 55,10-11)
Lời Chúa khám phá ra điều bí ẩn trong linh
hồn, chất vấn, sửa chữa, hoán cải, đổi mới và thánh hoá con
người, với “một tâm hồn mới và một tinh thần mới” (x. Ezk
18,31), bằng cách làm cho đời sống và hành động của con người
được thấm nhuần những giá trị Phúc Âm.
Ai nói rằng mình ở lại trong Người, thì
phải đi trên con đường Đức Giêsu đã đi (1 Ga 2,6). Không có loài
thọ tạo nào mà không hiện rõ trước Lời Chúa, nhưng tất cả đều
trần trụi và phơi bày trước mặt Đấng có quyền đòi chúng ta trả
lẽ (Dt. 4, 13)
2. LECTIO DIVINA
Khoa chú giải Thánh Kinh và Lectio Divina
là hai bước biệt lập:
-
Chú
giải Thánh Kinh giúp làm sao để thực sự đọc một bản văn với sự
chú ý và khách quan (nhằm hiểu biết chính xác)
-
Lectio Divina gợi lên lòng khao khát đọc toàn bộ Kinh Thánh để
khám phá và sống mỗi ngày một hơn sự phong phú bất tận của Lời
Chúa (nhằm biến đổi đời sống)
Lectio Divina là việc đọc đều đặn và cầu
nguyện Thánh Kinh. Việc đọc và suy gẫm Lời Chúa hàng ngày hay
hàng tuần đem lại nguồn lương thực nuôi dưỡng đời sống
thiêng.
Đặt cuộc sống mình dưới sức mạnh của Lời
Chúa là bộc lộ thái độ của người môn đệ lắng nghe, của người tôi
tớ vâng lời, của Người Con đến để thi hành thánh ý của Cha.
3. PhỤng VỤ Các GiỜ Kinh
Phụng Vụ Các Giờ Kinh là lời cầu nguyện của
Hội Thánh. Nhịp điệu và cấu trúc của nó không ngừng hướng con
tim và ý tưởng chúng ta về Chúa, Đấng là nguồn mọi thiện hảo.
Chúng ta không chỉ coi Phụng vụ các Giờ
Kinh như là một bổn phận bó buộc quan trọng, mà còn là một niềm
vui và vinh dự tiếp chuyện với Chúa, thay cho cả Giáo Hội và thế
giới.
Ngày nay chúng ta được mời gọi cử hành
PVCGK cách cộng đồng cùng với các thành phần khác của Dân Chúa.
Hãy liệu làm sao cho mọi người được tham gia cách ý thức, tích
cực và sống động, nội tâm hóa, chứ không máy móc hời hợt.
Bỏ cầu nguyện là đánh mất mối dây liên lạc
thân tình với Chúa Kitô. Mối dây liên lạc nhân quả giữa cầu
nguyện và nhân đức, hay giữa sự khô khan của tâm hồn, thói xấu
và những tương quan cá nhân sai lạc.
Và sớm hay muộn, thì sự đánh mất tình thân
thiết với Chúa cũng dẫn đến thảm họa: sụp đổ căn tính tông đồ và
rời bỏ đời tu.
4. NGUYỆN GẪM
Nguyện gẫm cá nhân hằng ngày là một thực
hành cổ điển để được lớn lên trong đời sống thiêng liêng: chiêm
ngắm Chúa để rồi sống như Ngài, suy nghĩ với đầu óc của Chúa,
nhìn với con mắt Chúa, yêu với trái tim Chúa, hành động bằng sức
Chúa.
Trong nhiều phương pháp nguyện gẫm của
nhiều trường phái linh đạo khác nhau, ta có thể đi sâu vào một
phương pháp thích hợp và khám phá ra cách thức riêng của mình để
nguyện gẫm cho có hiệu quả.
Phương pháp Xuân Bích đơn giản trong ba
thì:
·
Đặt
Chúa Giêsu trước mắt
·
đặt
Chúa Giêsu trong tim
·
và
đặt Chúa Giêsu trên bàn tay.
Hình thức cầu nguyện bằng trí khôn này là
một cuộc tìm kiếm đầy đủ và sâu xa sự hiện diện và hoạt động của
Thiên Chúa, như được mạc khải nơi các bản văn ta đọc.
Ta đem hết trí tưởng tượng, tình cảm, trí
khôn và ý muốn để chiêm ngắm những lời nói và việc làm của Chúa
Giêsu trong Tin Mừng.
Những khám phá như thế dẫn tới những biến
đổi trong thái độ nội tâm và các động lực, ảnh hưởng đến cách
ứng xử và làm phong phú mối tương quan của ta với Chúa (x. Lc
24,32).
Nhờ vào bầu khí lắng nghe, trao đổi và
khích lệ của các buổi gặp linh hướng, ta có thể chia sẻ và đánh
giá những niềm vui và những khó khăn gặp phải, nhịp độ và những
khám phá đã thực hiện.
Nguyện gẫm phải là thời gian và nơi chốn
không gì có thể thay thế. Nó là một niềm vui và một trắc nghiệm
lòng trung thành với Chúa, trong sự hiện diện đầy yêu thương của
Ngài.
Sự khô khan không thể tránh khỏi và sa mạc
là những cuộc tập luyện tốt để khỏi dính bén các ảo tưởng cho
rằng mình trực tiếp nắm bắt được Chúa.
Tuy nhiên, để giờ nguyện gẫm được tập trung
sinh hoa kết quả thiêng liêng, chúng ta có thể kết hợp nhiều
hoạt động: chiêm ngắm, đọc một đoạn Phúc Âm, ghi chép…
Sau cùng, nguyện gẫm là nơi tiếp nhận và
tái khám phá Thiên Chúa, Đấng không ngừng tự hiến mình cho những
ai hằng tìm kiếm Ngài. Nhờ việc nguyện gẫm hằng ngày, ta hiệp
thông với Chúa và kín múc được nghị lực phục vụ tha nhân.
5. SÁCH THIÊNG LIÊNG
Cùng với Lectio Divina, phải kể đến thực
hành đọc đều đặn sách thiêng liêng của các Giáo phụ, cũng như
của các tác giả tu đức, để có thể làm quen trong đức tin sứ điệp
Tin Mừng được các chứng nhân sống động phiên dịch và chuyển tải.
Sách thiêng liêng được coi là suối nguồn
rất giá trị giúp ta lớn lên trong tương quan với Thiên Chúa. Nó
là một con đường đức tin được chia sẻ trong kinh nghiệm của
người khác.
Điều quan trọng là sống làm sao. Tốt hơn là
đọc ít đoạn rồi dừng lại để suy gẫm, thay vì đọc nhiều trang mà
không để cho những điều đã đọc giúp mình tương quan thân mật với
Chúa.
Các sách thiêng liêng cổ thời hay hiện đại
đều có thể giúp ta lớn lên trong đời sống thiêng liêng mỗi ngày.
Điều quan trọng không phải là đọc một bản văn, nhưng là tìm ra
từ bản văn ấy cái giúp phát triển các mối tương quan của con
người với Thiên Chúa, với chính mình, với tha nhân và với thiên
nhiên.
Một ngày không đọc sách như chưa rửa mặt.
Sau khi đọc xong một cuốn sách, người đọc sẽ trở nên khác trước,
hoặc tốt hơn hoặc xấu hơn một chút.
II. BIỂU TƯỢNG & NGHI THỨC
1. Bí Tích Thánh THỂ
Thánh Thể là nguồn suối và chóp đỉnh của
đời sống Giáo Hội, và cũng là trung tâm đời sống thánh hiến của
chúng ta. Nhờ Thánh Lễ, ta tham dự vào lời cầu nguyện hiến tế
của Chúa Kitô.
Thánh Lễ không chỉ là một lời đáp trả cá
nhân đối với tình yêu của Chúa Cha, nhưng là đại dương vô tận
của những lời cầu khẩn, ca khen và dâng hiến của Chúa Kitô.
“Thánh Thể nối kết trời với đất, ôm lấy và thấm nhuần tất cả tạo
thành.”
Chúa Kitô được tôn thờ dù dưới dấu chỉ
khiêm tốn của miếng bánh vẫn là Đấng đã tự hiến chính mình vĩnh
cửu cho Chúa Cha và đã trở nên lương thực ban sức mạnh cho tín
hữu (x. Câu chuyện về Vua Tự Đức thời bắt đạo)
Dâng lễ sẽ được trọn vẹn với hiệp lễ (x.
Câu chuyện một gia đình đi du lịch sợ không dám ăn đồ ăn thịnh
soạn người ta dọn ra, chỉ ăn lương thực thanh đạm mang theo và
ngồi nhìn thèm tiệc người ta ăn, sau mới biết các bữa ăn đó đều
đã được tính trong vé du lịch,tiếc thì đã muộn!
Có nhiều hình thức khác nhau của việc tôn
thờ này: Thánh Lễ, “viếng Mình Thánh Chúa” ngắn ngủi, “thờ
phượng” thường xuyên, “đêm thờ phượng”, “Giờ Thánh”, “chầu Thánh
Thể liên tục”…
Việc tôn thờ Thánh Thể thường xuyên giúp
canh tân và xây dựng các cộng đoàn Giáo Hội trên khắp thế giới.
Việc tôn thờ này mang lại nhiều nghị lực và hăng say cho các nhà
truyền giáo, vì Thánh Thể là dấu chỉ thường xuyên của tình yêu
Thiên Chúa.
2. Bí Tích Sám HỐi
Việc cử hành Bí Tích Hối Sám luôn là một cử
hành phụng vụ, ngay cả với hình thức riêng tư của nó. Thực hành
bí tích sám hối là một yếu tố trong đời sống cầu nguyện của cả
hai người, người xưng thú lẫn người nghe xưng thú.
Linh mục là thừa tác viên thường xuyên.
Ngài không chỉ đều đặn thực hành bí tích này, mà còn cố gắng
hiểu biết tốt hơn và cử hành nghiêm túc, vì bí tích này cũng là
“một tập luyện tuyệt vời về nhân đức, đền tội…, là trường tu
đức không thể thay thế, là một sự trợ giúp thực sự trên con
đường đổi mới và thánh hóa.
Bí tích Hòa giải là một quà tặng, một khí
cụ quan trọng:
-
cho
sự tái định hướng, thánh hoá và tăng trưởng thiêng liêng,
-
đặc
biệt nếu việc xưng tội không chỉ được coi là một nghi thức,
-
mà
đúng hơn là một cơ hội không chỉ để xưng tội, mà còn để trao đổi
với một cha giải tội và linh hướng có kinh nghiệm, nhờ đó đạt
tới một kinh nghiệm chữa lành và vui sống.
Việc linh hướng đều đặn là một bảo đảm khác
cho việc tái định hướng, tăng trưởng và phát triển đời sống
thiêng liêng trưởng thành của tu sĩ. Nếu không có vị linh hướng
đúng nghĩa, thì có thể làm việc đó với cha giải tội.
Ngoài cha giải tội thường xuyên, Dòng cũng
nên liệu cho có cha giải tội ngoại thường, hoặc cho phép chị em
đi gặp một cha giải tội thích hợp riêng, vì vấn đề lương tâm.
Thường chỉ xưng tội thôi không đủ, hối nhân
cũng cần được trao đổi giải quyết và như thế thấy được các gốc
rễ sâu xa hơn của lỗi phạm, cùng mở ra các viễn ảnh tương lai.
Lối xưng tội chia sẻ và đối thoại như thế
cũng mang lại một sự cởi mở lớn hơn trên cả chiều kích nhân bản
và thiêng liêng. Chính vị linh mục cũng được khích lệ rất nhiều
trong một kinh nghiệm như thế, nhờ đó ngài có khả năng giúp đỡ
những người khác trong cùng một đường lối hoặc tương tự.
Bí tích hòa giải là một trong những quà
tặng đặc biệt của linh mục cho kẻ khác trong thừa tác vụ bí tích
của ngài, nhưng đồng thời nó cũng là khí cụ cho linh mục tăng
trưởng trong đời sống thiêng liêng và bác ái mục tử.
GIÁ TRỊ CỦA VIỆC XƯNG TỘI CÁ NHÂN
Cuộc đối thoại giữa hối nhân và cha giải
tội làm cho việc cử hành bí tích đáp ứng sít sao hơn với từng
tình huống cụ thể của hối nhân, với các lý do khác nhau sau đây
của hối nhân:
-
Nhu
cầu hòa giải cá nhân và tái nhập vào tình bằng hữu với Chúa nhờ
nhận lại được những ơn đã mất do tội;
-
Nhu
cầu tìm kiếm sự tiến bộ thiêng liêng: “Ta biết các việc ngươi
làm, nỗi vất vả và lòng kiên nhẫn của ngươi… vì danh Ta. Nhưng
Ta trách ngươi điều này: ngươi đã để mất tình yêu thuở ban đầu.
Vậy hãy nhớ lại xem ngươi đã từ đâu rơi xuống, hãy hối cải và
làm những việc ngươi đã làm thuở ban đầu. Bằng không, Ta đến với
ngươi, và Ta sẽ đem cây đèn của ngươi ra khỏi chỗ của nó, nếu
ngươi không hối cải.” (Kh 2,2-5)
-
Đôi
khi cần một sự biện phân thích đáng hơn về ơn gọi.
-
Trong
nhiều trường hợp, không những cần mà còn khao khát thoát khỏi
tình trạng hờ hững thiêng liêng và khủng hoảng đời tu, hầu có
một lối giải quyết, một lối đi mới trong chính hoàn cảnh cụ thể
đang phải sống.
Nhờ những đặc tính cá nhân đó, hình thức cử
hành này liên kết với việc linh hướng.
Trong cuộc đối thoại này phải tránh đề cập
trực tiếp đến đệ tam nhân. Phải rất cẩn thận và tế nhị trong các
câu hỏi để làm sáng tỏ hầu có biện pháp và lời khuyên thích ứng,
giúp hối nhân thay đổi lật sang một trang mới của cuộc đời.
Nhớ giúp linh mục tránh ba tội kèm theo vạ
tiền kết dành riêng cho ĐGH: Lỗi ấn tòa giải tội, khuyến dâm
trong tòa và giải tội cho đồng phạm.
Tương quan linh hướng là một tương quan
khép kín tay ba (Chúa Thánh Thần, người thụ hướng và vị linh
hướng): Điều mà vị linh hướng khám phá về người thụ hướng ở toà
trong sẽ không được tiết lộ ra ở toà ngoài. Dữ kiện này có cùng
một qui chế như ấn toà giải tội. Điều này không chỉ để bảo vệ
người thụ hướng, mà còn cống hiến cho họ sự tín nhiệm và tin
tưởng rằng điều gì họ đã bộc lộ ở tòa trong vẫn được giữ bí mật.
Chính niềm tín nhiệm và bảo đảm này mang lại sự chữa lành tận
gốc các căn bệnh.
3. Sùng Kính MẸ Maria
Mỗi người đều tự phát có lòng sùng kính sâu
xa Đức Maria với con tim chân thành. Lòng tôn sùng đích thực
được đặc trưng qua thái độ sống đơn sơ và khiêm tốn theo gương
của Mẹ, phát sinh từ việc chiêm ngắm mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập
Thể.
Mẹ ơi, Mẹ đã nêu gương,
Cho con theo Chúa đau thương chớ rời !
Mẹ hướng dẫn chúng ta tới Chúa Giêsu, Đấng
đưa chúng ta đến với Chúa Cha. Mẹ chỉ cho chúng ta con đường
hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa, bởi vì Mẹ là người phụ nữ
được Thiên Chúa tuyển chọn để thực hiện chương trình cứu độ của
Ngài với tư cách là người đồng tham dự vào những biến cố tột
đỉnh của lịch sử cứu độ.
Mẹ được kêu cầu là Mẹ của Hội Thánh và Mẹ
của mỗi người, vì khi trên thập giá, vào lúc tột đỉnh của sứ
mạng cứu độ nhân loại, Chúa Giêsu đã trao phó Mẹ mình cho Gioan
và ký thác Gioan cho Mẹ (Ga 19, 26-27): Chúng ta cũng hãy đón
nhận Mẹ Maria vào trong nhà nội tâm và đời sống thánh hiến của
chúng ta.
Được sự che chở và hướng dẫn từ mẫu của Mẹ
nâng đỡ và tăng sức mạnh, chúng ta có thể nhìn thấy mọi mối
tương quan và các giai đoạn đời sống và sứ vụ tu sĩ của mình,
bằng đôi mắt mới, bằng trái tim và trí não mới, và luôn bước đi
trên con đường thánh thiện cần thiết.
Là tu sĩ, chúng ta cần tăng cường lòng sùng
kính Đức Mẹ. Sự hiện diện từ mẫu của Mẹ luôn là sự nâng đỡ cho
chúng ta. Mẹ đã luôn theo sát Chúa Giêsu Con Mẹ, và bây giờ Mẹ
vẫn tiếp tục đồng hành cùng chúng ta.
Hãy luôn nuôi dưỡng lòng sùng kính con thảo
đối với Mẹ. Mẹ luôn đồng hành với chúng ta và liên lĩ che chở
chúng ta. Chúng ta hãy vào trường Maria để học biết yêu thương
và bước theo Đức Kitô trên hết mọi sự.
Trong trường của Mẹ Maria, chúng ta học để
đặt Chúa Kitô vào chỗ nhất trong cuộc đời chúng ta, và học để
hướng tư tưởng cùng hành động của chúng ta theo Ngài: “Người bảo
gì thì hãy làm theo.”
Đúng vậy, nơi trường của Mẹ, chúng ta học
biết thinh lặng, biết lắng nghe và phục vụ, đó là những điểm mấu
chốt của đời sống người môn đệ. Mẹ Maria sẽ giúp chúng ta tiến
sâu vào mối tương quan nhân vị và đích thực hơn với Chúa Giêsu,
để chúng ta yêu mến Ngài và làm cho Ngài được yêu mến. Qua việc
chiêm ngắm và lắng nghe Mẹ Maria, chúng ta sẽ hiểu hơn sức mạnh
nâng đỡ và biến đổi của ơn thánh Chúa.
Liên quan đến đời sống độc thân thanh khiết
đang “bị thế giới của thời đại chúng ta nghi ngờ giá trị và cho
là không thể giữ được”, Đức Phaolô VI cậy dựa vào lòng sùng kính
nồng nhiệt và tỏa sáng đối với Mẹ Maria (Paul VI, Sacerdotalis
Caelibatus, no. 1).
Vâng, chọn lựa độc thân thánh hiến của
chúng ta cần được đặt nơi trái tim Mẹ Maria. Chúng ta hãy chạy
đến cùng Mẹ, khi gặp khó khăn trên con đường đã chọn. Là trinh
nữ và là mẹ, Mẹ Maria hiểu rất rõ trái tim chúng ta cần gì, và
Mẹ biết làm thế nào để giữ cho chúng ta được trung thành với lời
cam kết của mình.
Chúng ta sẽ tìm được ẩn náu an toàn nơi
người Mẹ trên trời của chúng ta. Mẹ sẽ giúp chúng ta thăng hoa
trái tim và con mắt, để nhìn thấy Chúa ở trong và qua những
người anh chị em quanh chúng ta. Chúng ta kêu xin Mẹ bảo vệ và
biến đổi chúng ta và những ai thân thiết với chúng ta. Chúng ta
sẽ không bao giờ thiếu sự chở che, nâng đỡ của Mẹ. Nhờ lời
chuyển cầu của Mẹ, Chúa Thánh Thần sẽ gìn giữ sự độc thân trong
trắng của chúng ta như Ngài đã làm cho Mẹ và Thánh Giuse.
Vì thế, hãy hướng con mắt và trái tim, với
niềm tín thác được đổi mới và lòng cậy trông con thảo, về Mẹ rất
yêu dấu của Chúa Giêsu và Mẹ của Hội Thánh, và hãy kêu xin sự
cầu bầu vạn năng và hiền mẫu của Mẹ cho mọi người sống đời thánh
hiến.
Có một việc thật đơn giản nhưng rất quan
trọng của lòng sùng kính Mẹ Maria là lần chuỗi Mân côi, một bản
Phúc Âm tóm tắt (x. Paul VI, Marialis Cultus: The Angelus and
the Rosarry). Cầu nguyện chuỗi Mân Côi là tham dự vào đời sống
và sứ vụ của Chúa Cứu Thế và Mẹ Người, Đấng đã trở nên mẹ của
mỗi người.
Mẹ dẫn dắt mọi người đến với Chúa Giêsu và
Chúa Giêsu sẽ đưa họ tới Chúa Cha. Đây hẳn là hành trình đức tin
chắc chắn theo gương Đức Trinh Nữ Maria.
Hãy khuyến khích nhau giữ thói quen lần
chuỗi, một mình khi đi đường tới trường học, ra đồng ruộng, tới
chợ búa… (như pho tượng “Bà mẹ Bùi Chu” trong Vườn Tòa Giám Mục
diễn tả), hoặc lần chuỗi chung với người khác, vì chuỗi mân côi
sẽ đốt nóng và làm mạnh thêm mối giây ràng buộc giữa các con cái
Chúa. Lời cầu nguyện này sẽ giúp chúng ta được mạnh mẽ hơn trong
đức tin, bền vững hơn trong đức ái, được niềm vui và kiên trì
trong niềm hy vọng.
Theo
gương mẫu và kinh nghiệm của Đức Gioan Phaolô II, chúng ta nên
tận hiến cho Mẹ với lòng tin tưởng yêu mến, tìm trú ẩn nơi sự
che chở của Mẹ, biết rằng trong lúc khó khăn chúng ta cũng không
cô đơn, vì Mẹ sẽ nâng đỡ ủi an bằng sự dịu dàng từ mẫu của Mẹ.
Ngài chia sẻ: “Suốt cuộc đời tôi, “Totus Tuus - Tất cả bản thân
con là của Mẹ,” tôi đã cảm nghiệm rõ sự hiện diện đầy yêu thương
của Mẹ. Mẹ Maria đồng hành với tôi mọi ngày để giúp tôi chu toàn
sứ vụ là người kế vị Thánh Phêrô” ( John
Paul II, “Behold, Your Mother: Message for 18th World Youth Day”
- Vatican City, March 19,2003).
Tôi đã mất mẹ sớm nên cũng cảm nhận và kinh
nghiệm được sự an ủi, che chở và đồng hành đầy yêu thương của Mẹ
Lavang cho đời linh mục của mình:
Mạ mất nay được Mẹ thay,
chuỗi đời côi cút bớt cay bớt buồn,
nhất là đêm lạnh mưa tuôn,
mưa tuôn ngoài phố mưa buồn trong tim.
“Dù con lớn bao nhiêu tuổi, con vẫn là con
của mẹ; dù con có đi tói cùng trời cuối đất thì lòng mẹ vẫn hằng
theo con.”
Mẹ ơi, con Mẹ ngồi đây
Nỗi niềm tâm sự tỏ bày thân thưa
Mẹ hiền đã thấu cho chưa
Thử thách cay đắng liệu vừa sức con.
Hỏi rằng sao trả quá đắt?
Đồi cao thánh giá ai dắt ai dìu?
Dẫu rằng phải trả quá đắt,
đồi cao thánh giá Mẹ dắt Mẹ dìu.
H. CÁCH CẦU NGUYỆN Á CHÂU VÀ VIỆT
NAM
1. Thực tế không mong đợi
Trong cầu nguyện cộng đồng hay cá nhân, thể
xác có thể trở nên căng thẳng, sự chú tâm bị phân tán và dao
động, dù đã dùng Kinh Thánh, các bài hát, đọc kinh, lần chuỗi để
cầu nguyện và suy gẫm.
Lắm khi tương quan được tốt với Chúa, nhưng
lắm khi cũng bị chia trí, đôi khi rất căng thẳng và mệt mỏi, và
thường làm theo thói quen. Khi cầu nguyện cá nhân, đặc biệt lúc
cầu nguyện thinh lặng và suy gẫm trong tâm trí, nhiều sự chia
trí chiếm lấy đầu óc và cản trở cầu nguyện. Nhiều lúc kết thúc
giờ cầu nguyện với khô khan trống rỗng, tinh thần đi đâu đâu…
Để giải quyết vấn đề, người ta vận dụng
toàn bộ tinh thần, thân xác để cầu nguyện, quen gọi là “lời cầu
nguyện thân xác” (prayer body).
2.
Cầu nguyện theo
phong thái Á Châu
Cách thức tu sĩ Phật giáo tọa tĩnh tòa sen
tụng niệm có thể giúp chúng ta tái khám phá các hình thức chiêm
niệm của cầu nguyện trong truyền thống kitô giáo và hội nhập
chúng, bằng cách hướng chúng ta chú ý hơn nữa tới tư thế thân
xác khi chúng ta cầu nguyện, hầu khám phá sự hiện diện của Thiên
Chúa hằng sống.
Các thực hành Zen hay Yoga có thể được dùng
để giúp ta làm quen ý thức sự hiện diện của Chúa, cảm nhận chính
mình như một toàn thể tinh-thần-thân-xác trong tương quan với
Chúa. Dần dần ta sẽ đắc thủ được thói quen sống sự hiện diện của
Chúa, nghĩa là thường xuyên hướng chú ý của mình về sự hiện diện
đầy yêu thương và sống động của Chúa ở trong và quanh mình.
Thời gian thinh lặng của những ngày tĩnh
tâm hay cấm phòng cống hiến những cơ hội thuận lợi để phát triển
ý thức sự hiện diện này của Chúa ở một mức độ sâu hơn.
Khởi đầu, ta bỏ ra 15 hoặc 20 phút, hay lâu
hơn nếu muốn, để tạo một tư thế thư giản bằng cách kiểm soát hơi
thở (hít vào và thở ra thật sâu); đồng thời tẩy bỏ khỏi đầu óc
bất cứ bận rộn hay suy nghĩ nào, và để chìm sâu trong sự hiện
diện của Chúa ở trong và ở quanh ta.
Tiếp đến, ta đi vào một cuộc đàm thoại đơn
sơ, sâu lắng với Chúa đang hiện diện, về bất cứ cái gì đang chất
chứa trong tâm hồn ta lúc đó. Có lẽ ta chẳng có gì để nói, mà
chỉ thích ngồi lắng nghe Chúa. Giây phút thinh lặng này thật
bình an và thoải mái.
Nếu cứ tập luyện mỗi ngày, ta sẽ khám phá
được rằng dần dần ta trở nên càng ngày càng chú tâm vào Chúa
hơn, và rằng ta đang lớn lên trong hiểu biết, nhẫn nại và yêu
thương đối với những người chung quanh.
Tập thư giản bằng cách hít dưỡng khí vào
thật sâu qua mũi cho căng đầy bụng, rồi chuyển qua huyệt đan
điền, đẩy ra toàn thân tới tận chân tơ kẻ tóc / đường gân thớ
thịt. Xong lại rút thán khí về qua huyệt đan điền để đẩy ra
ngoài qua miệng. Trong khi đó để tâm trí kiểm soát đường đi của
hơi thở. Còn ý nghĩ thì nghĩ rằng Chúa Thánh Thần đi vào để
thánh hóa và rút bỏ những xấu xa quỉ quái khỏi lòng trí và thân
xác ta.
Khi hít vào, ta cũng có thể nghĩ là mình
đón nhận tất cả những gì là tích cực; còn thở ra là loại bỏ tất
cả những gì là tiêu cực, từ bất cứ đâu mà
đến.
Với cách này, ta tập giữ tâm hồn ở trạng
thái thanh thản, như kinh Yataka dạy ‘Con hãy giữ tâm như đất:
trên đất, người ta đổ ra dầu ngọt dầu chua, dầu cay dầu đắng,
dầu sạch dầu dơ, đất vẫn một mực thản nhiên, đất không giận, đất
không thương’
Nhiều người cũng vận dụng lối này để tự
chữa bệnh bằng ý thức tính chất bồi bổ của dưỡng khí và quyền
năng thần linh của Thần Khí: hít vào chuyển quyền lực thần linh
cùng dưỡng khí tới chỗ đau của cơ thể để chữa lành, thở ra xin
quyền lực thần linh lấy cái đau của cơ thể vất ra khỏi thân xác
cùng với thán khí. Dĩ nhiên phải có sự đồng bộ của hít thở và ý
thức, với niềm tin tưởng không nghi ngờ.
3. Ích Lợi của cách cầu nguyện Á Châu
Các tôn giáo Á Châu giới thiệu nhiều cách
thức đưa dẫn và thúc đẩy trọn vẹn con người vào cầu nguyện: thể
xác, trí khôn, con tim, trí nhớ, trí tưởng tượng, hơi thở, tư
thế thân xác và ngay cả môi trường bên ngoài đều được sử dụng
cho việc cầu nguyện, và người ta gọi đó là “cầu nguyện thân
xác”
Phương pháp này nâng cao phẩm chất của cầu
nguyện, cũng như phẩm chất của người cầu nguyện. Việc thực tập
lắng nghe này làm ta dễ dàng đi vào tiếp xúc và hiệp thông với
Chúa. Sự ý thức thụ động này giúp ta mở rộng lòng và “phó mặc”
cho ơn Chúa hoạt động.
Thái độ đón nhận thụ động này mang lại sự
thinh lặng nội tâm cần thiết cho việc cầu nguyện, nhờ đó ta được
Lời Chúa Kitô và ơn Chúa Thánh Thần đánh động và biến đổi.
Thực hành thư giãn tạo nên bình an nội tâm
và sự hài hòa làm cho tiến trình cầu nguyện được dễ dàng, trong
khi thực hành tập trung cao độ lại rất hữu ích cho đời sống cầu
nguyện. Nhịp thở có thể giúp gia tăng sự chú ý, tập trung và ý
thức, là những cái làm cho tiến trình cầu nguyện của con người
được dễ dàng.
4. Cầu Nguyện Tập Trung
Các bậc thầy Zen hay Yoga có thể cầu nguyện
(suy niệm và chiêm niệm) liên tục nhiều giờ. Họ cầu nguyện bằng
tâm trí, hay chính xác hơn là bằng cách tập trung tư tưởng. Đây
là một hình thức cầu nguyện rất đơn giản, thường không dùng lời
nói (cầu nguyện bằng lời).
Để đi vào cầu nguyện tập trung, ta phải để
mình hoàn toàn lệ thuộc vào Chúa và để cho tình yêu của Chúa
Thánh Thần chi phối. Hãy lặn xuống trong sâu thẳm cõi lòng, nơi
đó Thiên Chúa đang thực hiện những điều kỳ diệu; và hãy mở lòng
cho Chúa Thánh Thần đang cư ngụ trong ta.
Phương pháp của cầu nguyện tập trung là:
•
Ngồi
yên lặng, tư thế thoải mái và thư giãn;
•
Nghỉ
ngơi trong lòng khao khát Chúa;
•
Hướng
vào trung tâm bản ngã của mình;
•
Trong
yên lặng, ý thức sự hiện diện của Chúa và bình an hấp thụ tình
yêu của Ngài.
Ngày nay, nhiều người công giáo học theo
phương pháp cầu nguyện này. Nếu kiên trì tập luyện thì ngày qua
ngày, cầu nguyện tập trung sẽ giúp ta đi vào hiệp thông với Chúa
ở mức độ sâu thẳm nhất. Ta sẽ cảm thấy bình an hơn và càng ao
ước mối tương quan yêu thương này với Chúa. Ta sẽ được thúc đẩy
tìm kiếm sự kết hiệp chiêm niệm sâu xa hơn nữa, mà bất cứ người
sống đời dâng hiến nào cũng đều được mời gọi.
Nếu nguyện gẫm được mô tả như lời cầu
nguyện của tâm trí tìm biến đổi con tim, thì chiêm niệm là lời
cầu nguyện của con tim sẽ biến đổi tâm trí.
Cầu nguyện tập trung có thể giúp những
người tìm kiếm Chúa kinh nghiệm được lợi ích tuyệt vời này. Thay
vì dùng nhiều lời, ta có thể bắt đầu cầu nguyện tập trung bằng
cách chọn một lời thôi: một lời thánh thiêng mang một ý nghĩa
đặc biệt, có thể là một danh hiệu của Chúa, hay một lời rút ra
từ Thánh Kinh.
Sau khi đã ổn định được tư thế thoải mái và
thư giãn để cầu nguyện, hãy để nhịp thở nhẹ nhàng và đều đặn,
hãy nhắm mắt lại và nói lên trong thinh lặng lời thánh thiêng
đó, chú tâm vào sự hiện diện của Chúa và biểu lộ lòng ưng thuận
của mình cho hoạt động của Ngài nơi bản thân mình.
Khi những tư tưởng hay cảm nhận, những hình
ảnh và kỷ niệm nổi lên làm chia trí, hãy nhẹ nhàng quay trở lại
với lời thánh thiêng đó và để nó chiếm lĩnh hiện trường của ý
thức. Không cần phải làm gì nhiều hơn thế. Không có gì đặc biệt
để phấn đấu hay bất cứ kết quả rõ ràng nào để đạt cho được.
Khi thời giờ cầu nguyện đã hết, từ sâu thẳm
cuộc đối thoại thinh lặng với Chúa, hãy từ từ trở về cùng thế
giới bên ngoài và những hoạt động thường nhật của mình.
5. Vượt Qua Những Khó Khăn và Kiên Trì
Trong Đời Sống Cầu Nguyện
Ta phải nhớ những thực tế này: Ta có thể
gặp nhiều khó khăn trong suốt hành trình cầu nguyện. Cầu nguyện
không chỉ gồm toàn những kinh nghiệm vui mừng và thích thú. Khô
khan và tăm tối cũng là một phần thiết yếu trong quá trình
trưởng thành và biến đổi.
Tự biết mình không phải luôn luôn là một
kinh nghiệm vui thích, nhưng thông thường là một quá trình đau
đớn của sự chấp nhận chính mình để được chữa lành. Ta phải học
sống khiêm nhường, siêu thoát, từ bỏ và quên mình để chiến đấu
chống lại tính kiêu căng tự mãn với tất cả những sức kháng cự
tiềm ẩn của nó. Chỉ với lòng khiêm tốn và sự cởi mở với ơn Chúa,
ta mới có thể đương đầu trong cuộc chiến đấu này.
Cách cầu nguyện Á Châu này thúc đẩy trọn
vẹn con người vào trong mối tương quan với Chúa và làm biến đổi
con người cách lớn lao trong mọi chiều kích (thể lý, tâm lý và
thiêng liêng): Siêu nhiên không phá hủy tự nhiên, nhưng thăng
tiến tự nhiên.
Vậy, một khi áp dụng cách thực hành lắng
nghe, thư giản và tập trung, ta càng trở nên ý thức hơn mình là
ai và phải làm gì, không chỉ trong lời cầu nguyện mà còn trong
đời sống hằng ngày của mình nữa.
IX.
THINH LẶNG VÀ ĐỜI SỐNG CẦU NGUYỆN
a. Thinh lặng cần thiết cho cầu nguyện
Sự thinh lặng không thể bị chia tách bên
ngoài và bên trong được. Thinh lặng bên ngoài vừa là một tiến
trình đào tạo trưởng thành nhân bản, vừa là phương tiện bảo đảm
sự yên tĩnh của tâm hồn, để hồi tâm và sống thân mật với Thiên
Chúa, trong đời sống thiêng liêng.
Thinh lặng nội tâm là sự bình an của linh
hồn sống trong sự hiện diện của Chúa, nhờ nỗ lực kiểm soát các
đam mê, kiềm chế những tưởng tượng viển vông, lo âu, kích động
thái quá hay những suy sụp chán nản.
Thinh lặng nội tâm là thái độ sâu xa của
linh hồn tìm kiếm mọi sự từ Thiên Chúa và hoàn toàn qui hướng về
Ngài. Thinh lặng nội tâm và thinh lặng bên ngoài cần đến nhau và
nuôi dưỡng nhau. Vì thế, luật sống phải coi thinh lặng bên ngoài
như là hỗ trợ ưu tiên, vì ở đâu thinh lặng bên ngoài không hiện
hữu thì thinh lặng nội tâm cũng vắng mặt.
Thinh lặng là bầu khí thiêng liêng và sống
còn để cảm nhận sự hiện diện của Thiên Chúa. Nhờ thinh lặng, con
người biết chỗ của mình trước mặt Chúa, đồng thời tỏ lộ lòng
khiêm tốn và khả năng lắng nghe khi Chúa nói.
Nhờ thinh lặng của thân xác, trí óc và con
tim, ta mới có thể đạt tới sự hiệp nhất và hiệp thông với Chúa:
“Hãy lặng thinh và hãy biết rằng Ta là Thiên Chúa” (Tv
46, 10).
Thinh lặng này không phải là một không gian
trống rỗng, bởi vì Thiên Chúa luôn có đó để lấp đầy. Nhiệm vụ
quan trọng nhất là phải ý thức rằng ta luôn ở trong sự hiện diện
của Chúa và không thể tách khỏi Ngài. [Hữu duyên thiên lý năng
tương ngộ, vô duyên đối diện bất tương phùng]
Thinh lặng là một trong những thách đố lớn:
Người này tìm kiếm thinh lặng, kẻ khác lại làm mọi cách để tránh
nó: “Cần hai năm để học nói, nhưng cần cả đời để học thinh
lặng.” Nhưng thinh lặng hỗ trợ lời nói, chuẩn bị cho lời nói và
làm cho lời nói nên phong phú. Ngôi Lời, chìm sâu trong mầu
nhiệm lặng thinh của Thiên Chúa để bộc lộ và thông truyền Thiên
Chúa cho con người: HÀI ĐỒNG LÀ LỜI MÀ THẲM LẶNG.
Thinh lặng, nội tâm lẫn bên ngoài, là bầu
khí đúng đắn của việc giáo dục toàn diện: nơi đào tạo “phải là
nơi của thinh lặng, là nhà cầu nguyện, nơi đó Chúa tiếp tục qui
tụ các môn đệ riêng ra, để họ sống cái kinh nghiệm mạnh mẽ của
sự gặp gỡ và chiêm niệm.”
b. Thinh Lặng trong Phụng Vụ
Thinh lặng luôn là một phần của việc thờ
phượng. Phụng vụ cung cấp nhiều cơ hội để thinh lặng: Ngưng nghỉ
một khoảng thời gian thích hợp sau mỗi bài đọc; nghỉ chốc lát để
suy niệm sau bài giảng, hay sau lời kêu mời “chúng ta dâng lời
cầu nguyện.” Sau hiệp lễ, nên dành một thời gian thinh lặng để
kết hiệp với Chúa Giêsu đang ngự trong lòng..
Phụng vụ các Giờ Kinh cũng cho ta nhiều dịp
để thinh lặng: Sau vinh tụng ca và trước điệp ca của thánh vịnh
kế tiếp, một chút ngưng nghỉ để cộng đoàn suy niệm về thánh vị
đó; sau bài đọc Lời Chúa và trước xướng đáp, một lúc thinh lặng
hợp lý để suy niệm.
Nhờ ý thức sự hiện diện bí ẩn của Thiên
Chúa, chúng ta chậm rải đi vào thinh lặng sâu lắng. Cầu nguyện
trở thành sự kết hợp những lúc thinh lặng và lời nói trong một
thái độ chiêm niệm, và đời sống thiêng liêng được triển nở với
Chúa Kitô trong Thiên Chúa.
c. Thinh Lặng Trong Nhà
Mọi người đều phải cẩn trọng để khỏi làm
xáo trộn sự thinh lặng của người khác. Radio, máy nghe băng,
Tivi, âm lượng trao đổi… phải được kiềm chế và điều chỉnh để bảo
vệ bầu khí chiêm niệm, vốn phù hợp cho đời sống cầu nguyện và
học tập. Không đòi phải thinh lặng tuyệt đối, nhưng cuộc trao
đổi phải được giữ ở mức tối thiểu.
d. Thinh Lặng Cấm Phòng hay Tĩnh Tâm
Các cuộc tĩnh tâm bồi dưỡng thiêng liêng
là:
-
những cơ hội
khả dĩ để trải nghiệm sự thinh lặng,
-
tìm lại nguồn
năng lượng cho đời sống cầu nguyện và đức tin,
-
cũng còn là dịp
để lấy lại sức lực cho thể xác, trí khôn và linh hồn.
Người tĩnh tâm được khuyến khích loại bỏ
những mối bận tâm làm mất sự thinh lặng bề ngoài như báo chí,
truyền thanh, truyền hình…
Càng đi vào thinh lặng và thăng tiến đời
sống chiêm niệm, chúng ta càng có thể lắng nghe tiếng Chúa với
những thanh âm đặc biệt và mới lạ. Merton nói rằng mức độ truyền
thông cao nhất là hiệp thông, nghĩa là trở nên một với Chúa.
Thái độ chiêm niệm này là thích hợp, phải
được trải dài trong suốt cuộc sống và sứ vụ của người sống đời
thánh hiến: “Thinh lặng là quê hương của người hùng” (đại tướng
Foch).
e. Thinh Lặng và Tiếng Chúa
Cho dù cá nhân con người vẫn mở ra trước
siêu việt, trước tuyệt đối, thì việc lắng nghe tiếng Chúa và
hiểu rõ giá trị của thinh lặng trong sâu thẳm lòng người, nơi họ
hiện diện một mình với Thiên Chúa (Gaudium et Spes 16), cũng là
việc rất khó trong xã hội hiện đại.
Sự thinh lặng cho phép chúng ta nhận ra sự
hiện diện của Thiên Chúa và để cho sự hiện diện này chiếm đoạt.
Ta phải tạo được một cảm thức về thinh lặng nội tâm thực sự để
có thể lắng nghe và hiểu sâu xa Lời Chúa, và kiên nhẫn tìm Chúa
Kitô qua chính kinh nghiệm lắng nghe tiếng Chúa trong cầu nguyện
của mình. Kinh nghiệm này giúp ta trở thành thầy dạy cầu nguyện
cho người khác.
Thinh lặng nội tâm tìm được nơi Chúa Kitô
suối nguồn và mục đích, là phó thác cho Chúa Cha và tùy thuộc
vào Ngài, là sự thân mật nội tâm và đối thoại thực sự với Chúa.
Thinh lặng bên trong và thinh lặng bên
ngoài ảnh hưởng lẫn nhau và nuôi dưỡng nhau. Nơi nào thinh lặng
bên ngoài không hiện hữu thì thinh lặng nội tâm cũng vắng bóng.
Luật Sống tu trì phải thu xếp ưu tiên cho việc này.
X. SỨC MẠNH CỦA LỜI CẦU NGUYỆN
a. Qua Chúa Giêsu
Lời cầu nguyện hoạt động thế nào và làm sao
sử dụng nó? Chúa luôn có mặt và lời cầu nguyện thay đổi mọi sự
!
Hãy học cho biết lời cầu nguyện hoạt động
thế nào. Lời cầu nguyện phát ra một sức mạnh vô giới hạn để giúp
ích cho bạn và tha nhân.
Hãy thay đổi chính bạn, rồi thế giới chung
quanh bạn sẽ thay đổi. Một ít nguyên tắc sau đây giúp bạn có một
đời sống cầu nguyện hữu hiệu.
Hãy hòa mạng và kết nối
Lời cầu nguyện với Chúa không phải là một
nghi thức, nhưng là một hiệp thông sống động đầy yêu thương như
giữa những người bạn tốt nhất. Nhưng phải buồn mà nói rằng nhiều
người nghĩ họ không thể nói chuyện với Chúa như thế.
Một số người nghĩ rằng họ không đạo đức đủ,
không ngay chính đủ, hay không siêu nhiên đủ. Số khác nghĩ Chúa
quá lớn lao, quá cao xa ở trên họ. Một số nghĩ Chúa quá bận rộn
không có thời giờ quan tâm đến họ và những vấn đề của họ, mà họ
nghĩ là hết sức nhỏ mọn đối với Chúa. Một số khác nghĩ họ bất
xứng, không tốt lành đủ để đến với Chúa. Số khác cảm thấy họ có
tội hay xấu hổ về những việc họ đã làm. Một số khác ngay cả sợ
Chúa nữa.
Giá mà họ hiểu được rằng cách Chúa nhìn
khác biệt cách suy nghĩ của họ biết bao! Chúa muốn có một liên
hệ cá nhân với mỗi một người trong chúng ta, và Ngài muốn đó là
mối liên hệ sâu xa nhất, ý nghĩa nhất, viên mãn nhất và đáng
thưởng nhất, và là phần tự nhiên nhất của đời sống chúng ta.
Điều đó không có nghĩa là Chúa muốn lấy đi
những mối liên hệ và các hoạt động khác mà chúng ta ưa thích và
cho là quan trọng. Ngược lại, Chúa muốn Ngài là một phần của tất
cả những thứ ấy của chúng ta. Chúa muốn làm cho cuộc sống mỗi
ngày của chúng ta được dễ dàng hơn, những điều chúng ta trải
nghiệm có ý nghĩa lớn lao hơn, và Ngài muốn cùng với chúng ta
thưởng thức chúng.
Tắt một lời, Ngài muốn làm cho cuộc đời
chúng ta trở nên tốt đẹp hơn. Ngài muốn thêm một chiều kích mới
diệu kỳ vào tất cả những gì chúng ta làm, đó là sự hiện diện đầy
yêu thương của Ngài.
Chúng ta làm sao để thiết lập được một mối
liên hệ như thế, nhất là khi cảm thấy mình quá bé nhỏ, thiếu đạo
đức và bất xứng? Chúng ta làm thế nào thực hiện được cuộc kết
nối đó?
- Đơn giản thôi: Qua
Chúa Giêsu !
Không ai trong chúng ta có thể thực sự nắm
bắt được Thiên Chúa là Cha chúng ta cao cả và kỳ diệu thế nào,
bởi vì Ngài và Thần Khí của Ngài lớn hơn toàn thể vũ trụ. Ngài
hành động vượt quá trí hiểu chúng ta là Ngài đã gửi đến cho
chúng ta
-
Một Người có
thể chỉ cho chúng ta thấy tình yêu của Ngài,
-
Một Người mà
chúng ta có thể kinh nghiệm được,
-
Một Người có
thể mang Thiên Chúa xuống tầm hiểu biết nhân loại giới hạn của
chúng ta.
Vậy là Ngài đã gửi Chúa Giêsu đến với chúng
ta
b. Cầu nguyện là hiệp thông
Như bất cứ tình bạn sâu xa và bền vững nào,
liên hệ của bạn với Chúa Giêsu sẽ được mạnh mẽ nhờ mối hiệp
thông thành thật và cởi mở thường xuyên.
Lời cầu nguyện thực sự là tất cả những cái
đó: hiệp thông tâm hồn (con tim với con tim) với Chúa Giêsu. Bạn
có thể cầu nguyện ở bất cứ đâu, vào bất cứ lúc nào. Bạn không
phải ngồi hay đứng. Bạn không phải ở trong nhà thờ, một cơ sở
tôn giáo, hay bất cứ một nơi đặc biệt nào cả.
Cầu nguyện là kết nối tim bạn với tim Chúa,
chẳng quan tâm đến những gì chung quanh bạn. Chúa Giêsu hoàn
toàn phó mình cho bạn, và Ngài luôn lấy làm hạnh phúc cho bạn
mượn một lỗ tai và một cánh tay sẵn sàng trợ giúp. Ngài quan tâm
đến bạn và tất cả những gì bạn phải trải qua. Ngài hạnh phúc để
nghe và trả lời các yêu cầu của bạn.
Nhưng cầu nguyện còn hơn thế nữa: Chúa
Giêsu cũng muốn hiệp thông với bạn, nói chuyện với bạn. Ngài
muốn cho bạn những lời nói riêng tư của tình yêu và khích lệ, và
Ngài muốn giúp bạn giải quyết các vấn đề của bạn. Ngài có mọi
câu trả lời, nhưng Ngài làm sao cho bạn các câu trả lời đó được,
nếu bạn không lắng nghe?
Bạn cần học nhận ra tiếng nói của Ngài, khi
Ngài nói với tâm trí bạn và đặt tư tưởng của Ngài trong trí khôn
bạn.
c. Lời cầu nguyện làm ích cho bạn
Dành thời gian với Chúa sẽ có vô số lợi
ích, bạn không thể nào đếm nổi:
-
Ngài có thể
giúp bạn giải quyết mọi vấn đề của bạn,
-
trả lời mọi vấn
nạn của bạn,
-
chữa lành mọi
nỗi đau lòng của bạn,
-
an ủi bạn khi
bạn buồn phiền,
-
ban
cho bạn niềm vui,
-
mang
bạn lại gần Thiên đàng hơn…
Danh sách các lợi ích sẽ vô tận.
Lời cầu nguyện thay đổi mọi sự. Nó là một
phương tiện để Chúa ban cho con cái Ngài những gì họ cần hay
muốn, miễn là những cái đó tốt cho họ và cho kẻ khác: “Bất cứ
cái gì con cầu xin, hãy tin rằng con sẽ nhận được” (Mt 21:22).
Bạn sẽ tìm được nghỉ ngơi và đổi mới, khi
tinh thần bạn bị suy sụp và trí của bạn bị xao xuyến: “Hãy
đến với Ta, hỡi tất cả những ai vất vả và gánh nặng, Ta sẽ cho
nghỉ ngơi... Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta
hiền lành và khiêm nhượng thật trong lòng, và các ngươi sẽ tìm
được nghỉ ngơi cho tâm hồn, vì ách của Ta êm ái và gánh của Ta
nhẹ nhàng” (Mt 11,28-30).
Chúa Giêsu sẽ dẫn dắt bạn qua những rối rắm
của cuộc đời. Ngài sẽ giúp bạn biết phải làm gì khi bạn phải đối
diện với những vấn đề và những quyết định cam go. Ngài đã hứa sẽ
chỉ dẫn cho bạn, củng cố tư tưởng của bạn, và hướng dẫn những
bước đường của bạn: “Hãy nhận biết Chúa trong mọi đường đi
nước bước, Ngài sẽ hướng dẫn mọi đường nẻo con đi” (Cn 3:6).
“Khi con lưỡng lự không biết quẹo phải
hay trái, tai con sẽ được nghe một tiếng nói từ phía sau: Đây là
đường, cứ đi theo đó!” (Is 30:21).
d. Lời cầu nguyện sinh ích cho kẻ khác
Lời cầu nguyện của bạn không thể chỉ thay
đổi mọi việc cho bạn mà thôi đâu, chúng cũng thăng tiến cách
đáng kể cuộc đời của người khác nữa.
“Thang máy = Vòng tay Giêsu”
Người ta nói rằng cầu nguyện cho người khác
không phải là cái nhỏ nhất bạn có thể làm cho họ, nhưng là cái
lớn nhất. Lời cầu nguyện của bạn đánh động lòng Chúa khiến Ngài
hành động thay cho họ.
Nhờ lời cầu nguyện của bạn, người khác có
thể nhận được hầu hết những lợi ích như bạn đã nhận được khi bạn
cầu nguyện cho chính bạn, bao gồm ơn an ủi, sự che chở, ơn giải
thoát khỏi lo âu và sợ hải, ơn chữa lành, sự trợ giúp vật chất,
và nhiều nữa…
Tất cả chúng ta phải biết rằng những phúc
lành của chúng ta không phải là kết quả của chỉ lời cầu nguyện
của chúng ta mà thôi đâu, nhưng là do người khác đã cầu nguyện
cho chúng ta. Nhiều người vẫn xin bạn cầu nguyện cho họ; và lắm
khi bạn có hứa. Vậy bạn đã thực sự cầu nguyện cho họ đến không?
“Phêrô, kìa Ma quỉ đã xin được sàng các con như người ta sàng
gạo. Nhưng Thầy đã cầu nguyện cho con để con khỏi mất lòng tin.
Phần con, một khi đã trở lại, hãy làm cho anh em của con nên
vững mạnh” (Lk 22, 31-32)
Quả thế, khi Chúa Giêsu chết trên thập giá,
Ngài đã nghĩ đến bạn! Hãy làm cho người khác điều bạn ao ước
người khác làm cho chính bạn:
Đấu nào con đong cho người,
Cũng bằng đấu ấy Chúa Trời cho con.
e. Suy tư vầ cầu nguyện
Lời cầu nguyện
mở ra một đường dẫn từ sự trống rỗng của chúng ta đến sự tràn
đầy của Chúa. Nó là đường kết nối giữa các nhu cầu nhân loại và
suối nguồn thần linh.
Bạn phải học
thiết lập mối liên hệ cá nhân với quyền năng của Chúa, và để
Ngài làm cái công việc mang đến cho bạn niềm vui, sức khỏe và
hạnh phúc.
Không một người
nào, dù nam hay nữ, đã chu toàn được nhiều như thế so với một
chút thời giờ bỏ ra khi cầu nguyện. Lời cầu nguyện làm chuyển
động con tim và cánh tay của Chúa. Ngài vui thích khi sử dụng
chúng ta, khi giới hạn sự oai nghiêm và sức mạnh toàn năng của
Ngài trong đôi tay của những con người mỏng dòn, dù là nam hay
là nữ.
Vậy bạn hãy cầu
nguyện đi! Nếu bạn có thói quen cầu nguyện riêng tư, thì cũng
chẳng khó khăn gì cho bạn khi cầu nguyện công cộng đâu. Giá trị
lời cầu nguyện của bạn không căn cứ ở lượng, nhưng ở phẩm! “Nếu
các con ở lại trong Thầy và lời Thầy ở lại trong các con, thì
các con muốn gì cứ xin, các con sẽ được ban cho như ý” (Ga
15, 7).
Bạn có thể kinh nghiệm được quyền năng phép
lạ đó vẫn làm việc trong cuộc đời bạn, chẳng hạn Chúa cho bạn
lời giải đáp cho các vấn đề của bạn, can đảm và sức mạnh để trực
diện với nghịch cảnh, bình an tâm hồn, ơn chữa lành, tha thứ,
tình yêu thương, khích lệ, động viên… Hãy chia sẻ những điều này
cho kẻ khác với! Xin Chúa chúc lành cho bạn !
XI. ĐỂ
THÀNH NGƯỜI ĐÀO TẠO VÀ HƯỚNG DẪN KẺ KHÁC CẦU NGUYỆN
1.
Học Chủ Sự Cầu Nguyện
Chúng ta chỉ có thể huấn luyện người khác
trong trường cầu nguyện của Chúa Giêsu, nếu chúng ta để mình
tiếp tục được huấn luyện và tự đào luyện chính mình bằng sự cần
mẫn thực hành đời sống cầu nguyện cá nhân, cũng như tích cực
tham gia vào các hoạt động chủ sự cầu nguyện.
Mỗi người hãy luân phiên với các nhà đào
tạo trong việc hướng dẫn các giờ kinh trong cộng đoàn. Những cơ
hội này cung cấp cho chúng ta kinh nghiệm hướng dẫn cầu nguyện
cho giáo dân khi ra xứ.
Một trong những vai trò của việc cử hành là
giúp cộng đoàn cầu nguyện, bằng cách làm cho cộng đoàn có thể đi
vào trong chính mầu nhiệm đang cử hành. Sự hiện diện, những lời
suy niệm và phẩm chất các lời hướng dẫn của chúng ta phải mang
tính thúc giục quyết tâm.
Tuy nhiên, đôi khi chúng ta có cảm giác
mình không thể cầu nguyện sốt sắng được, vì thường bị chi phối
bởi tiến trình cử hành, bởi những chi tiết của việc tổ chức và
bởi những phản ứng của cộng đoàn.
Vì thế, chúng ta cần phải chuẩn bị cho lời
kinh phụng vụ, về phương diện kỹ thuật cũng như phương diện
thiêng liêng, để chúng ta sống những gì chúng ta nói và hướng
dẫn.
Nếu có chuẩn bị thực sự, chúng ta sẽ cảm
thấy tự do hơn để cầu nguyện và qui tụ lời cầu nguyện của cộng
đoàn lên Chúa. Trong thời gian đào tạo ở Dòng, việc huấn luyện
phụng vụ phải cung ứng cho ứng sinh một sự chuẩn bị tốt cho việc
cử hành, không chỉ về mặt kỹ thuật, mà nhất là về mặt thiêng
liêng. Phải quan tâm đến cơ hội lên tiếng trong cử hành phụng vụ
(chẳng hạn vào lúc bắt đầu Thánh Lễ). Việc đó khiến chúng ta cố
gắng giúp cộng đoàn đi vào cầu nguyện.
2.
Học Hướng Dẫn Thiêng Liêng
Chúng ta phải chuẩn bị chính mình để có thể
hướng dẫn cộng đoàn Dân Chúa trong đời sống thiêng liêng, đặc
biệt trong việc linh hướng. Trong lãnh vực này, ta phải điều
chỉnh lại quan niệm cho rằng chỉ linh mục mới làm linh hướng, vì
ngày nay việc linh hướng và xưng tội có thể tách biệt nhau; đồng
thời có nhiều nam nữ tu sĩ có khả năng làm linh hướng. Tuy
nhiên, những ai muốn và được Bề Trên cắt cử làm linh hướng phải
được Chúa Thánh Thần kêu gọi và phải được đào tạo kỹ lưỡng.
KẾT LUẬN
Chúng ta phải luôn ý thức về căn tính của
mình trong mọi chiều kích nhân bản, thiêng liêng, giới tính và
tâm lý của một đời sống quân bình và trưởng thành, để luôn trung
thành với lời cam kết và sứ vụ của mình, đặc biệt là trong đời
sống cầu nguyện: chúng ta cầu nguyện thế nào thì chúng ta sống
thế ấy, và chúng ta sống thế nào thì chúng ta cầu nguyện như
vậy.
Chúng ta có thể cảm thấy được an ủi và hay
phải chán nản trong cầu nguyện. Vì thế, chúng ta phải ý thức
rằng chúng ta cầu nguyện không phải để thoả mãn những gì chúng
ta sẽ nhận được, nhưng để tìm gặp Chúa, mà Chúa thì đôi khi được
thấy trong sự trần trụi và không ích kỷ.
Không ai biết được lúc nào Chúa đến. Thái
độ chờ đợi trong cầu nguyện phải là thái độ ý thức và tỉnh táo.
Vì thế, Tân Ước đã nhiều lần nhắc nhở chúng ta phải kiên trì
trong cầu nguyện. Chúng ta phải trung thành với thời gian mà
chính chúng ta đã ấn định cho việc cầu nguyện: luôn trung thành
với lời cầu nguyện hằng ngày và kiên trì trong suốt thời gian
cầu nguyện. Điều này dẫn đến một lời cầu nguyện sâu xa.
Chúng ta cũng phải kiên trì tìm gặp gỡ với
Chúa ở bất cứ nơi nào và vào bất cứ lúc nào. Chúa Giêsu đã hứa ở
lại với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Ngài hiểu rõ chúng
ta, luôn sẵn sàng giúp đỡ và trấn an chúng ta trong những lúc
khó khăn và hoang mang: Hãy yên lòng, Thầy đây, đừng sợ! |
VỀ MỤC LỤC |
|
THỊT ÐỎ, THỊT TRẮNG
|
“Ăn nhiều thịt đó có thể giảm tuổi
thọ”
Đó là kết quả
nghiên cứu do Viện Ung Thư Hoa Kỳ thực hiện và được phổ biến
trên Archives of Internal Medicine ngày 24 tháng 3 năm 2009.
Người hướng
dẫn nghiên cứu, bác sĩ Rashmi Sinha cho biết tiêu thụ 4 oz
(113g) thịt đỏ mỗi ngày (tương đường với một hamburger nhỏ) sẽ
tăng nguy cơ tử vong tới 30 lần trong vòng 10 năm sắp tới vì
bệnh tim hoặc ung thư. Thịt xúc xích, bacon hoặc thịt chế biến
khác cũng gây hậu quả tương tự.
Nghiên cứu
cũng cho hay, ăn thịt gà vịt, cá, gà tây cũng giảm nguy cơ tử
vong một chút.
Các nghiên
cứu trước đây đã tìm thấy một sự liên hệ giữa tiêu thụ nhiều
thịt đỏ với tăng rủi ro bệnh tim và ung thư, đặc biệt ung thư
ruột già. Nhưng theo các quan sát viên, việc làm của Viện Ung
Thư Hoa Kỳ rộng rãi hơn và là nghiên cứu đầu tiên về rủi ro của
thịt đỏ với tử vong.
Tin tức này
đã được y giới cũng như truyền thông rộng rãi gửi tới quần chúng
và trở nên đề tài mà giới tiêu thụ thắc mắc, nhắc nhở. Vì đối
với thường dân, thịt nào chả là thịt. Họ vẫn thường được nhắc
nhở rằng, thịt là chất dinh dưỡng quan trọng cho cơ thể, mỗi
người phải tiêu thụ hàng ngày để sinh tồn.
Vậy thì thịt
đỏ và thịt trắng khác nhau như thế nào?
Xin cùng tìm
hiểu.
Trong phạm vi
dinh dưỡng, Thịt là chất đạm do động vật có vú, gia súc, chim
muông cầm thú trên rừng, ngoài ruộng cũng như sinh vật dưới nước
cung cấp. Đây là phần mềm nằm giữa da và xương và cũng là thành
phần cấu tạo các bộ phận của cơ thể.
Gia súc là
những động vật có sừng, móng chân chẻ như bò, cừu dê, heo.
Cấu trúc
Thịt được tạo
thành bởi vô số những sợi tế bào nhỏ chứa dung dịch protein,
nitrogen, muối, carbohydrat, diêu tố, sinh tố, khoáng chất và
chất mầu. Chung quanh sợi thịt là một dung dịch chất lỏng có
cùng các thành phần vừa kể.
Tất cả được
bao bọc bởi những màng đạm chất gọi là mô liên kết. Mô liên kết
càng ít thì chất béo càng nhiều và thịt sẽ mềm hơn.
Thịt có
khoảng 75% nước, 25% đạm và 5% còn lại là chất béo, carbohydrat
và khoáng chất.
Tỷ lệ nước
thay đổi tùy theo loại thịt, vị trí thịt trên con vật, tùy theo
mùa trong năm cũng như thời tiết của vũ trụ vào lúc con vật bị
giết mổ.
Cấu trúc của
thớ thịt ảnh hưởng tới phẩm chất thịt. Cấu trúc này tùy thuộc
vào sự vận động, dinh dưỡng và tuổi của con vật.
Chúng ta
thường khoái ăn món “thịt gà đi bộ”, cho là thịt chắc hơn là
thịt công nghiệp, nuôi chung trong phòng hẹp, không nhúc nhích
được. Theo một số tác giả, vận động nhiều làm cho thịt kém mềm.
Tuy nhiên có nghiên cứu lại nói vận động làm cơ bắp phì đại.
giảm mô liên kết, nhờ đó thịt mềm.
Thường
thường, động vật về già hơi có nhiều mô liên kết hơn khi còn ít
tuổi đời, do đó thịt thường dai.
Vận động
nhiều, tuổi cao thì thịt cứng và dai. Thịt thăn-lưng- sườn mềm
hơn thịt ở vai, bụng.
Ngay sau khi
con vật được hy sinh, thịt trở nên cứng; nhưng để vài ngày nó
lại mềm dẻo (pliant) trở lại.
Thịt bò có
mầu đỏ, bê mầu hồng nhạt, lợn hồng xám, cừu non có mầu đỏ thẫm.
Mầu của thịt là do chất myoglobin tạo thành.
Mỡ trong các
loại thịt cũng khác nhau: mỡ heo thì mềm, mầu hồng nhạt; mỡ cừu
cứng; mỡ bê có rất ít chất béo còn mỡ bò thì cứng, mầu trắng
hoặc trắng ngà.
Thịt bò có
nhiều chất đạm hơn thịt lợn nhưng thịt lợn lại nhiều chất béo
hơn.
Khách mua
thịt thường để ý coi thịt có ngon, tươi, mềm và có dễ dàng cho
việc nấu nướng.
Cách làm mềm thịt
Có nhiều cách
để làm cho thịt mềm:
- Sau khi mổ,
thịt được giữ trong phòng lạnh với nhiệt độ từ 3º đến 4ºC, với
độ ẩm khoảng 80 % để thịt khỏi khô. Giữ như vậy thì một số diêu
tố và vi sinh vật sẽ tác dụng vào thịt và thịt sẽ giữ được trạng
thái ban đầu.
- Làm mềm
bằng cách cho điện chay qua khiến thịt giãn mềm. Lý do là thịt
có một trương lực co giãn. Khi luồng điện chạy qua thì thớ thịt
sẽ liên hồi co giãn, tới khi mềm thì hết co.
- Cán và đập
vào thịt có thể tăng độ mềm tới 50%. Xay hoặc cắt từng khúc nhỏ
cũng làm thịt mềm.
- Một số diếu
tố thực vật như chất papain của đu đủ, ficin của trái sung,
bromelin của trái dứa ...cũng làm thịt mềm khi nấu.
Nấu thịt
Phẩm chất của
thịt tùy theo thịt cắt ở phần nào của con vật. Thịt thăn, thịt
lườn mềm ngon hơn.
Tuy nhiên, dù
sử dụng phần thịt nào mà với tay đầu bếp hiểu biết, kinh nghiệm,
họ có nhiều cách để làm món thịt hấp dẫn và ngon hơn .
Nguyên tắc
đầu tiên cần nhớ là không nên nấu thịt ở nhiệt độ quá cao, trong
thời gian quá lâu, thịt sẽ teo và dai vì sẽ bị mất nước thịt và
mỡ.
Nấu từ từ ở
nhiệt độ vừa phải, khoảng 150ºC, thịt sẽ mềm và mọng nước ngọt.
Dưới tác dụng của hơi nóng, các thớ thịt dính với nhau, mỡ lỏng
ra và thịt đổi mầu từ đỏ sang hồng rồi nâu hay xám.
Sau đây là
mấy cách nấu thịt.
a-- Nấu với
chất lỏng như om (braise) trong nồi đậy kín, nấu cách thủy hoặc
luộc.
Luộc thì cho
nhiều nước còn om thì nước vừa phải, ngập mặt thịt là đủ. Nước
ngọt của thịt sẽ hòa tan trong nước sáo, nước dùng.
Nấu cách
thủy là làm chín thịt bằng hơi nước sôi, chất ngọt của thịt được
giữ nguyên. Thịt có thể được ướp gia vị, mắm muối tùy theo ý
thích trước khi nấu.
b- Đút lò,
nướng trên vỉ hoặc trong chảo không cho thêm nước hoặc mỡ.
c- Thịt làm
cháy sém mặt ngoài rồi mới nấu có nhiều vị ngọt hơn là không
cháy sém vì chất ngọt được giữ nguyên trong thịt.
Cắt thái thịt
Cắt thịt đã
nấu cũng là cả một nghệ thuật: phải có dao thật sắc, cắt ngang
thớ thịt chứ không cắt dọc theo thớ, cắt thành từng miếng gọn
gàng bằng nhau.
Giá trị dinh dưỡng
Có người
thích ăn thịt bò, người thích thị heo, thịt gà. Thịt càng khó
kiếm thì càng quý như thịt thú vật trên rừng, nhưng chỉ là để
thay đổi khẩu vị chứ không có giá trị dinh dưỡng hơn như nhiều
người tin tưởng.
Thịt là nguồn
chất đạm quan trọng và nhiều khoáng phosphor, đồng, sắt và kẽm.
Gan có nhiều chất sắt, nhất là gan lợn. Gan cũng có một số sinh
tố A.
Các loại sinh
tố nhóm B như thiamin, riboflavin, niacin hòa tan trong nước, do
đó khi nấu thịt với nước thì sinh tố tan vào nước dùng còn khi
nướng thì các sinh tố vương vãi đi mất.
Rủi ro của thịt
Có một số ý
kiến cho là ăn nhiều thịt làm tăng nguy cơ bệnh động mạch tim,
cao huyết áp, ung thư ruột già.
Vấn đề bệnh
động mạch tim là vì nhiều người sợ thịt có nhiều mở bão hòa. Cho
nên nếu giới hạn chất béo, chất cholesterol từ động vật, dùng
nhiều hơn chất béo thực vật bất bão hòa trong khẩu phần ăn hàng
ngày sẽ tránh được nguy cơ này.
Cao huyết áp
thực ra không phải do thịt mà có thể là ở loại thịt muối có
nhiều muối natri.
Vấn đề ung
thư ruột già thì chưa có bằng chứng rõ rệt nào về sự liên hệ
nhân quả này.
Cần lưu ý là
trong thịt gia súc đôi khi có nhiều hóa chất như kháng sinh,
hormon tăng trọng. Các hóa chất này được dùng để làm gia súc mau
lớn và ngừa bệnh tật. Cơ quan chính quyền thường không cho phép
trang trại nuôi súc vật bằng hóa chất vài tuần trước khi giết
thịt.
Các cơ quan y
tế ngày càng quan tâm hơn đến việc kiểm soát phẩm chất thịt trên
thị trường. Nhiều nơi đã quy định việc đóng dấu kiểm tra lên
thịt để người dùng có thể an tâm về mức độ an toàn.
Tuy nhiên, để
tránh mọi bất trắc có thể do thịt gây ra, thì ta cứ khôn ngoan
như cổ nhân: tiêu thụ thịt vừa phải, ăn nhiều thực phẩm khác
nhau. Vì cuộc sống của con người lâu hay mau, khỏe mạnh hay yếu
đuối tùy thuộc phần lớn vào cách ăn uống của họ.
Vài ưu tư về thịt động vật
Thịt chế biến
Trên thị
trường có bán nhiều loại acid amin pha lẫn với sinh tố, khoáng
chất dưới hình thức viên, bột hoặc dung dịch lỏng. Đa số được
chế biến từ chất đạm động vật hoặc thực vật.
Cách đây
nhiều năm, Cơ Quan Thực Phẩm và Dược Phẩm Hoa Kỳ đã ra lệnh cấm
một loại acid amin biến chế bán trên thị trường vì có gần hai
mươi người thiệt mạng sau khi dùng.
Những acid
amin chế biến này thường được quảng cáo là làm bắp thịt nở
nang, có nhiều năng lượng rất tốt cho người vận động nhiều và
cho ai muốn giảm cân. Nhưng theo các nhà dinh dưỡng, chúng
không có giá trị đúng như quảng cáo mà còn có thể gây nhiều nguy
hiểm như sáo trộn trong việc hấp thụ chất đạm thiên nhiên, làm
tăng bài tiết calci đưa tới loãng xương và tiêu chẩy.
Nhưng “thịt
thay thế” làm từ đạm thực vật thì được coi như tốt vì ít gây rủi
ro cho tim và mạch máu. “Thịt” này có hương vị tương tự thịt
động vật, lại dễ tiêu, nhiều sinh tố, khoáng chất. Đa số các
“giả thịt” được làm từ đậu nành vì đậu này có nhiều chất dinh
dưỡng hơn các thực vật khác.
Thịt đỏ, thịt trắng
Thịt đỏ, thịt
trắng là nói tới mầu của các sợi thịt trong thịt gia súc trước
khi nấu nướng..
Màu của thịt
có thể là đỏ, trắng hoặc mảu trung dung tùy theo tỷ lệ của sợi
thịt đỏ.
Màu đỏ là do
một số chất màu như là huyết tố cơ (myoglobin) và huyết cầu tố
(hemoglobin) trong sợi thịt mà thành.
Thịt đỏ có
40% sợi mầu đỏ trong khi đó thịt trắng chỉ có 30%.
Nồng độ chất
màu thay đổi tùy theo loại động vật, thực phẩm, vai trò cấu tạo
của cơ bắp, sự vận động của con vật cũng như phái tính và tuổi
tác của chúng.
Ngoài ra cũng
có một vài chất mầu khác trong thịt mà chất thấy rõ hơn cả là
mầu vàng có trong các mô mỡ.
Theo Bộ Canh
Nông Hoa Kỳ, các súc vật nuôi trong trang trại như bò, cừu, dê,
heo có nhiều myoglobin hơn gà vịt, cá cho nên được xếp vào nhóm
thịt đỏ.
Tỷ lệ
myoglobin trong thịt bò non là 0,4-1%, bò già 1.5- 2%; heo và
thịt bê 0,1-0,3%; gà đùi 0,18-0,20%; thịt gà “trắng” white meat
chỉ có 0,05%.
Từ trước,
thịt heo thuộc nhóm thịt đỏ vì nhiều myoglobin hơn gà vịt, cá.
Vào thập niên 1980, dân chúng ý thức được sự nguy hại của thịt
đỏ, cho nên các chủ trại nuôi heo làm một cuộc “khuyến thị”
quảng cáo thịt heo như một thứ thịt đỏ khác không nguy hại. Và
họ đã thành công với thương vụ gia tăng.
Coi vậy thì
gọi là thịt đỏ vì có chất mầu đỏ hemoglobin và myoglobin mà
thành phần cấu tạo gồm có chất đạm và sắt. Vai trỏ chính của
chúng chỉ là chuyên chở oxygen.
Vấn đề cần
lưu ý là thịt đỏ thường có nhiều chất béo bão hòa hơn là các
loại thịt khác. Mà chất béo, nếu tiêu thụ quá nhiều sẽ gây ra
một số bệnh cho cơ thể, như bệnh tim mạch, mập phì, tai biến
não…Do đó, y giới vẫn luôn luôn nhắc nhở là nên ăn thịt nạc, ít
mỡ.
Tháng 2 năm
2006, nghiên cứu tại Đại học Harvard, Hoa Kỳ, ở phụ nữ cho hay,
ăn nhiều red meat tăng rủi ro ung thư nhũ hoa.
Giáo sư Sheila Bingham, viện dinh dưỡng
Cambridge, Anh quốc cho hay là đã từ lâu, mọi người đã ý thức
được là ăn nhiều thịt đỏ và thịt chế biến là nguy cơ ung thư
ruột già.
Mới đây, các nghiên cứu gia tại Đức lại nêu
ra một tin vui khác là, không ăn hoặc bớt ăn thịt đỏ có thể kéo
dài tuổi thọ.
Về lý do gây hại của thịt đỏ, các nhà
nghiên cứu đưa ra ba giải thích tạm thời:
- Khi nấu nướng, đặc biệt khi nướng, một số
hóa chất gây ung thư có thể được tạo ra và gây bệnh.
- Một chất có tự nhiên trong thịt có thể có
tác dụng tương tự như hormon nữ, và đưa tới ung thư vú.
- Các hormon
mà trang chủ nuôi súc vật có thể là rủi ro gây ung thư vú.
Kết
luận
Nhận xét về
thịt đỏ, bác sĩ Barry Popkin, Đại học North Carolina, nhấn mạnh
là ăn một ít thịt đỏ có nhiều ích lợi cho sức khỏe. Nhưng ông ta
nói thêm: “Điều quan trọng là nên giảm tiêu thụ tổng số lượng
thịt, nhất là thịt chế biến, thịt bảo quản với nhiều muối và
giảm số lượng chất béo bão hòa trong thịt”.Và “Nếu muốn trường
thọ trong khỏe mạnh, nên bớt ăn thịt đỏ”.
Còn chuyên
gia dinh dưỡng Mark Wahlqvist, Đại học Monash bên Úc châu tuyên
bố ăn một chút thịt đỏ khoảng 30g/ngày cung cấp cho cơ thể một
số chất dinh dưỡng quan trọng, đặc biệt là khi thịt này lại có
ít mỡ béo”.
Thực ra, vẫn
còn nhiều điều cần tìm hiểu, tranh luận vể thịt và thịt đỏ thịt
trắng nhưng ý kiến chung của các nhà dinh dưỡng thì khôn ngoan
hơn cả là nên áp dụng một chế độ dinh dưỡng với nhiều thực phẩm
khác nhau, số lượng cân bằng và ăn vừa đủ cho nhu cầu cơ thể.
Như trong tài
liệu Hướng Dẫn của Hội Dinh Dưỡng Hoa Kỳ.
Bác sĩ Nguyễn
Ý-Đức
Texas-Hoa Kỳ. |
VỀ MỤC LỤC |
MẶT NẠ
Chuyện phiếm của Gã Siêu |
Cách đây mấy năm, cứ mỗi khi
hè về, các đài truyền hình tại Việt Nam đều thi nhau trình
chiếu bộ phim “Tây Du Ký” để phục vụ quí vị con nít.
Chính vì thế, sáng hôm nay,
khi gã chuẩn bị đi chợ, thì đứa cháu con ông bác đến bên và năn
nỉ ỉ ôi :
- Chú nhớ mua cho cháu chiếc
mặt nạ Tôn Ngộ Không nhé.
Chẳng là thấy bọn nhóc hàng
xóm, đứa nào cũng trang bị cho mình một chiếc mặt nạ. Đứa thì
đeo mặt nạ Đường Tăng. Đứa thì đeo mặt nạ Trư Bát Giới. Vì thế,
đứa cháu gã nhất định đòi cho bằng được chiếc mặt nạ Tôn Ngộ
Không.
Ghé vô tiệm bán đồ chơi con
nít, gã nhìn thấy đủ thứ mặt nạ, làm bằng giấy cũng như làm bằng
nhựa, từ “Người nhện” cho đến con sư tử. Từ cô gái mắt to cho
đến thằng quỉ dữ. Thôi thì hầm bà lằng…
Cầm chiếc mặt nạ Tôn Ngộ
Không, mang về cho đứa cháu mà bỗng dưng gã cảm thấy buồn rười
rượi, bởi vì gã nghiệm rằng trong cuộc sống hiện nay có quá
nhiều người đeo mặt nạ để đến với nhau.
Thế nhưng, trước hết mặt nạ
là gì ?
Mặt nạ là một thứ mặt giả,
được làm bằng những chất liệu khác nhau, như “các tông”, nhựa
dẻo, kim loại…Tùy theo công dụng của nó, mà chúng ta có được
những thứ mặt nạ khác nhau.
Trong quân đội, những người
lính được trang bị chiếc mặt nạ chống hơi độc, khi tấn công vào
những cao ốc hay những đường hầm bị coi là nguy hiểm.
Tại thẩm mỹ viện, các bà các
cô đến để chăm sóc sắc đẹp, cũng thường được các chuyên viên đắp
cho một chiếc mặt nạ bằng kem, bằng bột, bằng dưa leo, bằng cà
chua, bằng lòng trắng trứng gà…để tẩy và dưỡng da mặt.
Tại bệnh viện, người ta cũng
thường chụp vào mặt bệnh nhân một chiếc mặt nạ, để gây mê, hay
để giúp cho bệnh nhân được thở dưỡng khí.
Trong lãnh vực thể thao,
những người thợ lặn được trang bị chiếc mặt nạ để có thể thở
dưới nước. Hay những vận động viên đấu kiếm cũng được trang bị
chiếc mặt nạ bằng sắt để phòng chống những tai nạn có thể xảy
ra.
Tuy nhiên, người ta thường
hay dùng mặt nạ để che dấu bộ mặt thật của mình trong những lễ
hội.
Theo phong tục phương Tây,
mặt nạ thường được sử dụng trong hai lễ hội chính yếu sau đây :
Lễ hội thứ nhất là lễ hội giả
trang, hay “Carnaval”, được tổ chức vào ngày thứ ba trước thứ
tư lễ tro. Người Pháp gọi ngày thứ ba này là “thứ ba béo” (mardi
gras). Trong ngày thứ ba béo, người ta mặc sức ăn uống, nhảy
nhót, đeo mặt nạ và cải trang thành con người hay con vật mà
mình muốn diễn tả.
Lễ hội này chấm dứt vào lúc
12 giờ đêm, để rồi ngày thứ tư lễ tro, người ta sẽ ăn chay kiêng
thịt, xức tro trên đầu, như dấu chỉ của cõi lòng sám hối ăn năn
và chính thức bước vào…mùa chay. Phải chăng đây là một sự bù lỗ
cho những hy sinh hãm mình người ta thực hiện trong suốt bốn
mươi ngày đêm trong mùa chay ?
Lễ hội thứ hai là lễ hội
“Halloween”, được tổ chức vào tối ngày 31 tháng 10. Đây là một
lễ hội dành riêng cho quí vị con nít. Buổi tối hôm ấy, bọn nhóc
được hóa trang và mang mặt nạ quỉ dữ, đi tới từng nhà và người
trong nhà thường phải cho bọn nhóc ấy bánh kẹo.
Từ những sự việc kể trên, hai
chữ “mặt nạ” được mang thêm một nghĩa bóng, đó là sự giả hình và
gian dối. Chẳng hạn như khi chúng ta nói :
- Hãy lột mặt nạ những kẻ hắc
ám.
Nếu hiểu đeo mặt nạ là sống
bằng sự giả hình và gian dối, thì có lẽ con số những kẻ đeo mặt
nạ hơi bị nhiều trong xã hội rồi đấy.
Sách Cổ Học Tinh Hoa kể lại
“Lời nói của người bán cam” như sau :
Ở Hàng Châu có người bán các
thứ quả, khéo để dành cam, lâu ngày mà không ủng, vỏ vẫn đỏ
hồng, trông đẹp như vàng, như ngọc, đem ra chợ bán giá đắt, mà
người ta lại tranh nhau mua. Ta cũng mua một quả. Đem về bóc ra,
hơi xông lên mũi, múi xác như bông nát. Ta liền đem ra chợ hỏi
người bán cam :
- Anh bán cam cho người ta để
làm của cúng lễ, đãi khách khứa hay là chỉ làm cho choáng bề
ngoài để đánh lừa người ta ? Tệ thật ! Anh giả dối lắm !
Người bán cam cười và nói :
- Tôi làm nghề này đã lâu năm
để kiếm tiền nuôi thân. Tôi bán, người ta mua, chẳng ai nói gì,
chỉ có ông kêu ca ! Thiên hạ giả dối nhiều chẳng phải gì một
mình tôi ? Ông thật không chịu nghĩ đến nơi…Này thử xem, người
đeo hổ phù, ngồi da hổ, hùng dũng trông ra dáng quan võ lắm, kỳ
thực không biết có giỏi được như Tôn Tẫn, Ngô Khởi không ? Người
đội mũ cao, đóng đai dài, đường hoàng trông ra dáng quan văn
lắm, kỳ thực không biết có giỏi được như Y Doãn, Cao Dao không ?
Giặc nổi lên không biết dẹp, dân khổ không biết cứu, quan lại
tham nhũng không biết trừng trị, pháp độ hỏng nát không biết sửa
đổi, ngồi không ăn lương, chẳng biết xấu hổ. Thế mà lúc ngồi
công đường, đi xe ngựa, uống rượu ngon, ăn cao lương, oai vệ,
hách dịch vô cùng ! Đó bề ngoài chẳng như vàng như ngọc, mà bề
trong chẳng như bông nát là gì ? Ông không chịu xét những hạng
người ấy, mà đi xét quả cam của tôi.
Ta nghe nói, nín lặng, không
trả lời được ra làm sao. Ta nghĩ người ấy nói có giọng khôi hài.
Dễ chừng người ấy ghét kẻ gian tà, giận phường thế tục, mới thác
ra truyện bán cam để dạy người đời chăng ?
Vì vậy, bàn dân thiên hạ mới
có câu thơ :
- Trông em, anh tưởng sao
mai,
Biết rằng trong có như
ngoài hay không ?
- Nhác trông cứ tượng tô
vàng,
Nhìn ra mới biết chẫu chàng
ngày mưa.
Báo chí tại Việt Nam trong
những ngày gần đây đã phanh phui biết bao nhiêu quan chức đã
dùng bằng giả để leo lên ghế nọ ghế kia.
Vào chợ mua sắm, chúng ta gặp
phải biết bao nhiêu loại hàng giả. Nếu không tinh ý thì khó mà
phân biệt được. Thậm chí người ta đã tổ chức cả một hội chợ tại
Hà Nội đề trình bày những mẫu mã hàng thiệc và hàng giả.
Bác nông dân mua chai thuốc
diệt cỏ, mang về xịt trên ruộng đồng. Xịt xong cỏ không chết mà
còn liên tục phát triển, thành thử bị thất thu. Thì ra đó chỉ là
thuốc dổm.
Có anh bạn quí từ xa ghé
thăm, bèn vội chạy ra tiệm mua một chai rượu tây XO hẳn hoi để
đãi khách. Thế nhưng, thoạt khi mở nắp, mùi cồn nồng nặc xông
lên mũi. Hóa ra đó là hàng nhái. Đổ đi thì tiếc, mà uống vào thì
nhức đầu.
Tuy nhiên, điều bi đát hơn cả
đó là người ta đến với nhau bằng những chiếc mặt nạ, người ta cư
xử với nhau bằng sự giả dối, người ta luôn “đóng kịch” với nhau
ở mọi nơi và trong mọi lúc.
Sự gian dối và lường gạt
dường như đã trở thành một nguyên tắc chỉ đạo, giúp chúng ta gặt
hái những thành công trên đường đời.
Trước hết là trong lãnh vực
thương mại : muốn mau kiếm lời, thì phải gian dối bằng mọi cách.
Nào là cân thiếu và thước hụt. Nào là hàng giả và hàng nhái. Nào
là nói thách và nói dối. Có nói thành không và không nói thành
có. Buôn bán mà cứ thật thà như đếm, thì thà rằng dẹp tiệm đi
còn hơn.
Chính vì vậy, người xưa đã
bảo :
- Thật thà như thể lái trâu,
Yêu nhau cũng thể nàng dâu
mẹ chồng.
Tiếp đến là trong lãnh vực
quân sự : muốn mau chiến thắng thì làm sao phải lừa được kẻ
địch. Gã nhớ không rõ lắm, hình như trong “Tam Quốc Diễn Nghĩa”
có kể lại một sự việc như sau :
Tào Tháo dẫn một đội quân
hùng tấn công Gia Cát Lượng. Thấy lực lượng của mình vừa ít lại
vừa yếu, Khổng Minh bèn dùng kế nghi binh. Ông buộc cành cây vào
đuôi ngựa, rồi đánh cho ngựa phi nước đại, làm cho cát bụi tung
bay mịt mù. Địch quân thấy vậy hoảng sợ chạy trốn và Khồng Minh
đã chiến thắng một cách dễ dàng.
Trước ngày 30 tháng 4 năm
1975 cũng thế. Việt Cộng tuy ít, nhưng dùng chiến thuật du kích,
bất ngờ tấn công chỗ này chỗ khác. Rồi gây hoảng sợ bằng cách
tung tin đồn thất thiệt, đã chiếm được tỉnh nọ tỉnh kia. Tạo
hoang mang bằng cách bắn đọp đọp chỗ này vài tiếng, chỗ kia vài
tiếng, ngụy trang máy cày thành chiến xa, lái đi ầm ầm trong
đêm, làm cho tâm lý quân đội và người miền Nam bị chao đảo và
hốt hoảng. Chính vì sự chao đảo và hốt hoảng này đã dẫn tới tình
trạng co rúm và thua chạy, dù chẳng bị tấn công.
Trong lãnh vực chính trị cũng
thế : Để chạy đua vào những chức vụ quan trọng như tổng thống,
dân biểu, nghị sĩ…các ứng cử viên đã tự đánh bóng mình bằng
những hình ảnh đẹp đẽ và những lời tuyên bố đao to búa lớn thật
nảy lửa. Nhưng sau khi đã an tọa trên chiếc ghế của mình, thì
mọi sự vẫn…vẫn như cũ.
Dám ăn dám nói là chuyện
đương nhiên, còn có dám làm hay không, thì việc này còn
phải…”ngâm kíu” và xét lại.
Người ta thường bảo :
- Nghề luật sư là nghề thường
xuyên phải giả dối, thường xuyên phải đóng kịch.
Chính một luật sư bên Âu châu
đã phát biểu :
- Nghề diễn viên rất cần cho
nghề luật sư. Khi ra tòa, nếu mô tả được đúng tình cảm định
khoác cho mình, thì rất có ảnh hưởng đến người nghe, là bồi thẩm
đoàn và ba tòa quan lớn : không giận mà làm như giận, không
thương mà làm như thương, như vậy bảo đảm “chăm phần chăm” là sẽ
thành công.
Cũng vị luật sư này đã kết
luận một cách chua chát :
- Đã là người thì ai mà lại
chẳng đóng kịch. Cha mẹ đóng kịch trang nghiêm với con cái mà
trong thâm tâm chưa chắc đã là trang nghiêm. Càng điêu luyện thì
càng dễ thành công.
Thực vậy, kinh nghiệm đời
thường nhiều khi cho thấy : muốn thành công, thì đừng bao giờ
nói ra ngoài miệng những gì mình suy nghĩ trong lòng. Dù trong
lòng có ghét cay ghét đắng, thì ngoài miệng vẫn ngọt như mía
lùi, vẫn bùi như lạc rang.
Kinh nghiệm này cũng đã được
tục ngữ ca dao Việt Nam diễn tả :
- Khẩu phật tâm xà.
- Miệng Ngài mô, bụng bồ dao
găm.
- Ngoài thì thơn thớt nói
cười,
Mà trong nham hiểm giết
người không gươm.
Sách Cổ Học Tinh Hoa kể lại
mẩu chuyện mang tựa đề là “Ác ngầm” như sau :
Vua Ngụy đem một người con
gái đẹp dâng vua Kinh. Vua Kinh rất lấy làm thích thú và đem
lòng yêu thương người con gái ấy.
Phu nhân là Trịnh Tu biết
thế, chính mình cũng tỏ ra yêu mến người con gái ấy, có khi lại
còn tỏ ra yêu mến hơn cả nhà vua nữa. Người con gái ấy muốn ăn
mặc, chơi bời gì, phu nhân cũng đều sắm sửa cho đủ cả.
Vua khen :
- Phu nhân biết ta yêu mến
tân nhân, nên cũng đem lòng yêu mến tân nhân của ta, thật có
khác nào như người con có hiếu thờ cha mẹ, người bầy tôi trung
thờ vua vậy.
Phu nhân đã chắc bụng vua
không ngờ mình là người ghen, nhân dịp mới bảo tân nhân rằng :
- Vua yêu mến nhà ngươi lắm,
nhưng ghét cái mũi nhà ngươi. Giá từ nay, hễ ngươi trông thấy
vua, ngươi cứ che lấy cái mũi đi, thì sẽ được vua yêu mến mãi
đấy.
Tân nhân nghe theo lời ấy, từ
đó mỗi khi trông thấy vua, là che ngay cái mũi lại.
Vua thấy thế, bảo với phu
nhân rằng :
- Tân nhân trông thấy ta mà
cứ che mũi là ý làm sao ?
Phu nhân thưa :
- Tôi không được rõ.
Đợi vua cưỡng hỏi nữa, phu
nhân mới thưa rằng :
- Tôi nghe đâu tân nhân có
nói hơi vua khí nặng, rất lấy làm khó chịu.
Vua phát giận bảo :
- À nếu thế thì xẻo cái mũi
nó đi.
Vua nói đoạn, thì một viên
hầu cận cầm dao ra xẻo ngay cái mũi của tân nhân. Sở dĩ như vậy
là vì phu nhân đã dặn một viên quan hầu đứng chực sẵn ở đấy
trước, rằng : Hễ nghe vua phán gì, thì phải làm ngay lập tức.
Trong Phúc âm, Chúa Giêsu đã
dùng rất nhiều hình ảnh cụ thể để diễn tả về hạng người giả
hình, đeo mặt nạ đạo đức. Nào là họ kinh kệ dài dòng nhưng lại
nuốt trửng gia tài của các bà góa. Nào là họ nói mà không làm,
và nếu có làm thì cũng tìm cách kiếm chác cho mình một chút hào
quang để nghênh ngang với đời. Nào là họ chịu khó tắm rửa cơ thể
và lau chùi những đồ dùng, nhưng tâm hồn lại chất đầy tội ác.
Nào là họ giống như mồ mả, bên ngoài thì đẹp đẽ, nhưng bên trong
chỉ toàn dòi bọ và xú khí…Và Ngài đã kết luận :
- Hãy nghe những lời họ nói,
nhưng đừng làm theo những việc họ đã làm.
Gã xin đưa ra một vài trường
hợp người ta cư xử với nhau theo sự giả dối.
Trước hết trong phạm vi gia
đình, vợ chồng thường đeo mặt nạ đối với nhau : Có những anh
chồng luôn tỏ yêu thương và chu toàn những bổn phận đối với vợ
con, nhưng đồng thời vẫn cứ lăng nhăng lít nhít, hở một tí là
đèo bòng bồ nhí. Chắc hẳn khi trở về gia đình, những anh chồng
này phải đeo cái mặt nạ đạo mạo, mực thước. Nhưng khi đến với bồ
nhí lại đeo cái mặt nạ hào hoa phong nhã.
Tiếp đến trong phạm vi nhà
trường, thày cô thường đeo mặt nạ đối với học trò của mình.
Người Việt Nam chúng ta vốn có truyền thống “tôn sư trọng đạo”,
quí mến những bậc thầy :
- Muốn sang thì bắc cầu kiều,
Muốn con hay chữ phải yêu
lấy thầy.
Sở dĩ như vậy là do ảnh hưởng
của Nho giáo. Thực vậy, đối với Nho giáo thì trên cõi đời này có
ba hạng người chúng ta phải tỏ lòng trọng kính, đó là quân sư
phụ, có nghĩa là vua thầy và cha. Ông thầy là biểu tượng của sự
hiểu biết đã đành, mà còn là biểu tượng của tác phong đạo đức,
xứng đáng được gọi là bậc mô phạm, làm khuôn mẫu cho bàn dân
thiên hạ noi theo.
Thế nhưng, trong mấy ngày qua
báo chí tại Việt Nam đã phanh phui chuyện một ông thầy hiếp dâm
học trò của mình là một nữ sinh lớp 12 tại Cần Thơ. Thậm chí một
ông thầy khác ở Kiên Giang còn có hành vi đồi bại đối với sáu
bảy em tiểu học của mình.
Những ông thầy này, khi đứng
trên bục gỗ để giảng dạy, hẳn cũng bệ vệ, oai phong lắm lắm,
nhưng hành động của họ đã làm cho chiếc mặt nạ đạo đức ấy bị rơi
rụng, để rồi họ hiện nguyên hình là những…con quỉ râu xanh!
Để kết luận, gã xin kể lại vở
kịch “Hầu Tước” của Albert Thompson. Vở kịch ấy có nội dung như
thế này :
Sau khi Đức Quốc Xã bị sụp đổ
và Thế giới đại chiến lần thứ hai kết thúc, quân đội Đồng Minh
đi lục soát trong các trai tập trung để tìm kiếm những nạn nhân
khốn khổ và bất hạnh bị nhốt trong đó. Và họ đã gặp được một quả
phụ còn sống sót.
Chồng bà là một người Do Thái
đã trở lại Công Giáo và đã bị thủ tiêu. Bà biết được rằng lúc
phải ra đứng trước những họng súng thù địch, ông vẫn không ngừng
cầu nguyện :
- Lạy Chúa, xin tha thứ cho
họ.
Thế nhưng, người con trai của
bà không thể nào chịu đựng nổi cảnh thương tâm này. Óan giận nổi
lên bừng bừng, anh ta đã nhào tới, cướp lấy một khẩu súng và
điên cuồng nhả đạn vào đám mật vụ, làm cho một người trong bọn
bị thương nặng.
Tên mật vụ này, khi hấp hối
trong bệnh viện, đã cho mời bà quả phụ đến để xin tha thứ, và
rồi sau đó cả hai cùng đọc một kinh “Lạy Cha”, như dấu chỉ của
sự hòa giải.
Vở bi kịch này đã thành công
và gặt hái nhiều kết quả tốt đẹp mỗi khi trình diễn và đã để lại
một ấn tượng sâu đậm trong lòng khán giả.
Tuy nhiên, có một lần trình
diễn, khi tới chỗ tên mật vụ và người góa phụ cùng đọc kinh “Lạy
Cha”, thì diễn viên đóng vai tên mật vụ đang hấp hối bỗng dừng
lại, nhất định không chịu đọc câu :
- Như chúng con cũng tha kẻ
có nợ chúng con.
Anh ta đứng phắt dậy, xua tay
và nói lớn :
- Tất cả đều đóng kịch, đóng
kịch hết.
Mỗi ngày, vợ chồng, cha mẹ và
con cái đều đọc kinh “Lạy Cha”, thế mà gia đình vẫn cứ lục đục
và bất hòa, cơm chẳng lành và canh chẳng ngọt, thiếu điều muốn
thượng cẳng chân hạ cẳng tay với nhau và cho chén dĩa bay ra
ngoài sân. Phải chăng chúng ta cũng đang đóng kịch và đeo mặt
nạ với nhau ?
Mỗi ngày có hàng triệu người
đọc kinh “Lạy Cha” thế mà nhân loại vẫn sôi sục vì khủng bố, vì
chiến tranh. Phải chăng người ta cũng đang đóng kịch và đeo mặt
nạ với nhau ?
Hãy chấm
dứt những thái độ đóng kịch và hãy vứt bỏ những chiếc mặt nạ giả
nhân giả nghĩa, để đến với nhau bằng tất cả tấm lòng chân thành
của mình.
Gã Siêu
gasieu@gmail.com |
VỀ MỤC LỤC |
|
- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến,
bài vở..., xin gởi về địa chỉ
giaosivietnam@gmail.com
- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục
vụ của Giáo sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các
Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn
gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực
Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh
vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức
Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và
Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quy vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại
www.conggiaovietnam.net
Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị
Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã
sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác
nhau.
TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca
Phạm Quốc Sử
USA
|
|
*************
|
|