Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam

 

 

 

ĐỰƠC CHỌN GIỮA LOÀI NGƯỜI
VÀ CHO LOÀI NGƯỜI  (x. Dt, 5.1)

 

GIÁO SĨ:

Xuất phát từ giáo dân, hiện diện vì giáo dân và cậy dựa vào giáo dân

 

ĐỂ CÙNG LÀM VINH DANH THIÊN CHÚA

 

www.conggiaovietnam.net                          giaosivietnam@gmail.com

Đặc San Điện Tử    Giáo Sĩ Việt Nam    Số 92, Chúa Nhật 03.05.2009


MỤC LỤC 

Thánh Nhạc                                                                                                             Vatican 2

HÀ THÀNH : GIẾT NGƯỜI CÓ THƯỞNG !                                                Lm. Anmai, C.Ss.R.

CHÚA CHIÊN NHÂN LÀNH - KINH CẦU CHO CÁC LINH MỤC             Lm. Trần Đức Phương

ĐỜI SỐNG ĐỘC THÂN TRONG ƠN GỌI TẬN HIẾN (CHỨNG TỪ ƠN GỌI, BÀI 5)               Gs. Trần Văn Cảnh

NĂM THÁNH 2010                                                                                           Th.K. Dominic.

TÔN GIÁO                                                                                                 Lm. Lê Văn Quảng

MỤC TỬ CÂM LẶNG LÀ MỤC TỬ KHÔNG NHÂN LÀNH                         Gioan Lê Quang Vinh

TÔN GIÁO LÀ TẤM LÒNG NHÂN ÁI VỊ THA .                               Luật sư Đoàn Thanh Liêm

THÁNH PHAO LÔ GIẢNG DẠY VỀ “TÍNH DỤC” VÀ “HÔN NHÂN” VÀ PHONG TRÀO CHỐNG “PHÁ THAI” TẠI HOA KỲ                                                                       Lm. Cao Phương Kỷ

CÁNH ÉN TRỞ VỀ                                                                                      Nhà Văn Quyên Di

Đời sống cầu nguyện và đời sống nội tâm                  Lm. Micae-Phaolô Trần Minh Huy pss 

THỊT ÐỎ, THỊT TRẮNG                                                                          Bác sĩ Nguyễn Ý-Đức

MẶT NẠ                                                                                        Chuyện phiếm của Gã Siêu


Thánh Nhạc

Hiến Chế Về Phụng Vụ Thánh

Sacrosanctum Concilium

 

Bản dịch Việt Ngữ của Giáo Hoàng Học Viện Piô X

Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia

 

Chương VI

Thánh Nhạc

 

112. Giá trị của thánh nhạc. Truyền thống âm nhạc của toàn thể Giáo Hội đã kiến tạo nên một kho tàng vô giá, vượt hẳn mọi diễn tả nghệ thuật khác, nhất là vì điệu nhạc thánh đi liền với lời ca, góp phần cần thiết hoặc trọn vẹn trong phụng vụ trọng thể.

Thực vậy, không những Thánh Kinh 1 mà cả các Giáo Phụ và các Ðức Thánh Cha đã khen ngợi những bản thánh ca, nhất là các Ðức Thánh Cha trong những thời đại gần đây, tiên phong là Ðức Piô X, đã làm sáng tỏ rõ ràng hơn vai trò của Thánh Nhạc trong phụng tự.

Do đó Thánh Nhạc càng liên kết chặt chẽ với hoạt động phụng vụ bao nhiêu thì càng thánh hơn bấy nhiêu. Thánh Nhạc vừa phát triển lời cầu nguyện một cách dịu dàng hơn, vừa cổ võ sự đồng thanh nhất trí, lại vừa làm cho các nghi lễ thêm phần long trọng. Do đó, Giáo Hội chuẩn nhận và cho dùng vào phụng vụ tất cả mọi hình thức nghệ thuật đích thực, miễn là có những đặc tính cần thiết.

Vì thế, trong khi vẫn duy trì những qui tắc, luật lệ của truyền thống và qui luật trong Giáo Hội, cũng như nhằm mục đích của Thánh Nhạc là làm vinh danh Chúa và thánh hóa các giáo hữu, Thánh Công Ðồng đã ấn định những điều sau đây.

113. Thánh nhạc trong phụng tự. Hoạt động phụng vụ mang một hình thức cao quí hơn khi các việc phụng tự được cử hành một cách long trọng, với tiếng hát do các thừa tác viên có chức thánh chủ sự và giáo dân tích cực tham dự.

Còn về ngôn ngữ được xử dụng, hãy theo qui tắc khoản 36: về Thánh Lễ, khoản 54; về các Bí Tích, khoản 63; về Kinh Nhật Tụng, khoản 101.

114. Kho tàng Thánh Nhạc. Phải hết sức lo lắng duy trì và cổ võ kho tàng Thánh Nhạc, phải nỗ lực đào tạo các ca đoàn, nhất là ở các nhà thờ chánh tòa. Về phần các Giám Mục và mục tử khác có nhiệm vụ coi sóc các linh hồn, hãy nhiệt tâm lo lắng để trong bất cứ nghi lễ nào có hát, tất cả cộng đoàn tín hữu đều có thể tham dự một cách linh động vào những phần dành riêng cho họ, theo qui tắc khoản 28 và 30.

115. Huấn luyện thánh nhạc. Phải chú trọng đến việc huấn luyện và thực tập âm nhạc trong các Chủng Viện, các tập viện cũng như các học viện của các Dòng Tu nam nữ, và cả trong những học viện và học đường công giáo khác. Vì thế, để đảm nhiệm công việc đào tạo ấy, cần phải quan tâm đến việc huấn luyện những giáo sư có nhiệm vụ dạy Thánh Nhạc.

Ngoài ra, nếu tiện, rất nên thành lập những Viện Cao Ðẳng Thánh Nhạc.

Hơn nữa, các nhạc sĩ, ca sĩ, nhất là các thiếu nhi, cũng phải được huấn luyện cho có đủ căn bản phụng vụ.

116. Bình ca và nhạc đa âm. Giáo Hội nhìn nhận bình ca là lối hát riêng của phụng vụ Roma; vì thế, trong các hoạt động phụng vụ, bình ca phải chiếm một địa vi chính yếu giữa những loại ca khác.

Không hẳn là loại trừ các loại Thánh Nhạc khác, nhất là loại đa âm, trong những khi cử hành các việc phụng tự, miễn là đáp ứng được tinh thần của hoạt động phụng vụ theo qui tắc khoản 30.

117. Sách hát bình ca. Phải hoàn thành việc ấn loát bản mẫu các sách hát bình ca; ngoài ra, đối với các sách đã được ấn hành sau cuộc canh tân của Thánh Piô X, cũng phải có một ấn bản được nghiên cứu cẩn thận hơn.

Cũng nên lo ấn hành một loại sách hát gồm những âm điệu đơn sơ hơn để dùng trong các nhà thờ nhỏ.

118. Thánh ca bình dân. Thánh ca bình dân phải được khéo léo cổ võ để tín hữu có thể ca vang lên tiếng hát trong những việc đạo đức thánh thiện cũng như trong chính hoạt động phụng vụ, theo những qui tắc và chỉ thị của chữ đỏ.

119. Nhạc dân tộc. Ở một vài miền, nhất là các xứ Truyền Giáo, có những dân tộc sẵn có một truyền thống âm nhạc riêng; nó đóng một vai trò quan trọng trong đời sống tôn giáo và xã hội của họ. Tại những nơi này, phải quí trọng âm nhạc ấy đúng mức, và dành cho nó một địa vị thích hợp, trong khi đào tạo cho họ có một quan niệm tôn giáo, cũng như thích ứng năng khiếu của họ vào việc phụng tự, theo tinh thần khoản 39 và 40.

Do đó, trong khi huấn luyện âm nhạc cho các vị thừa sai, phải hết sức lo lắng để họ có thể phát triển truyền thống âm nhạc của các dân tộc này, được chừng nào hay chừng đó, trong các trường học cũng như trong các hoạt động phụng vụ.

120. Ðại phong cầm và các nhạc khí khác. Trong Giáo Hội La tinh, đại phong cầm phải hết sức quí trọng, vì là một nhạc khí cổ truyền mà âm thanh có thể thêm vẻ huy hoàng kỳ diệu cho các nghi lễ, lại có hiệu lực nâng cao tâm trí lên cùng Chúa và những sự trên trời.

Còn các nhạc cụ khác, cũng được phép dùng vào việc phụng tự tùy theo phán đoán và phê chuẩn của Thẩm Quyền địa phương theo quy tắc khoản 22-2, 37 và 40, miễn là đã thích hợp hoặc có thể thích hợp để dùng vào việc thánh, xứng đáng với vẻ tôn nghiêm của thánh đường, và thực sự giúp cảm hóa các tín hữu.

121. Sứ mạng các nhà sáng tác nhạc. Các nhạc sĩ thấm nhuần tinh thần Kitô giáo hãy ý thức rằng mình được kêu gọi phải trau dồi Thánh Nhạc và phát triển kho tàng thánh nhạc đó.

Họ hãy sáng tác những bản có cung điệu thánh nhạc thực sự, để không những các ca đoàn lớn có thể hát được mà còn hợp với cả ca đoàn nhỏ, giúp cho toàn thể cộng đoàn tín hữu cũng có thể tham dự một cách linh động.

Còn lời thánh ca phải thích hợp với giáo thuyết công giáo và tốt hơn cả là rút ra từ Thánh Kinh và các nguồn mạch phụng vụ.

 


Chú Thích:

1 Xem Eph 5,19; Col 3,16.

VỀ MỤC LỤC
HÀ THÀNH : GIẾT NGƯỜI CÓ THƯỞNG !

 

Theo thông tấn xã VnExpress ngày 16 tháng 4 năm 2009 cho hay : “Hà Nội sẽ mạnh tay xử lý người sinh con thứ ba”. Đọc dòng tít ấy tôi cảm thấy lòng mình nó nhói lên một cái thật đau. Tưởng chừng cái nhói ấy nó sẽ vơi đi trong giây lát nhưng nó cứ âm ĩ mãi. Thôi thì cứ viết ra vài dòng suy tư cho nhẹ cõi lòng.

Với tiêu chí ấy, Hà Nội sẽ mạnh tay với những ai sinh con thứ ba, còn ai “kế hoạch hoá gia đình” được thì sẽ không bị phạt. Hoá ra là người nào “kế hoạch hoá gia đình” để không sinh con thứ ba thì bình an vô sự, còn người nào lỡ để “vỡ kế hoạch hoá gia đình” thì sẽ bị trừng phạt như là đuổi việc, hạ mức lương, cảnh cáo, cắt các khoản tiền thưởng …    

Chẳng hiểu người ta dựa vào cái tiêu chuẩn nào, cái tiêu chí nào để người ta hạn chế tỷ lệ sinh con. Người ta vẫn lu loa rằng vì tỷ lệ dân số tăng cao nên làm cho đất nước nghèo ???

Học không cao, hiểu không rộng nhưng bảo rằng dân số tăng làm cho đất nước nghèo không hợp lý. Vấn đề nghèo không phải vì đông dân nhưng nghèo vì tham nhũng, nghèo vì tri thức lẫn văn hoá còn quá kém. Vấn đề cần chú tâm thì người ta lại không chú tâm. Con người vốn dĩ mang trong mình cái rắc rối để rồi càng làm cho vấn đề thêm rối. Vấn đề cần làm người ta lại không làm còn vấn đề không cần làm thì người ta lại cứ làm.

Chuyện cần làm để nâng cao chất lượng sống cho dân đó là nâng cao dân trí, nâng cao văn hoá, nâng cao đời sống luân thường đạo lý.

Thử hỏi một đất nước hạn chế sinh sản nhưng trình độ văn hoá thấp, kiến thức khoa học kém, đời sống nhân bản dường như không có thì làm sao mà phát triển được.

Mới đây thôi, lễ hội hoa anh đào được tổ chức ở Hà Thành, chỉ với vài cây hoa anh đào vậy mà phải mất đến 500 cảnh sát bảo vệ !?!?!? Những người nước ngoài rất đỗi ngạc nhiên với văn hoá của Việt Nam. Ở những nước khác sẽ không bao giờ xảy ra chuyện như vậy. Lý do vì sao thì chắc ai ai cũng hiểu đó là văn hoá của người Việt quá kém !

Văn hoá kém thì còn có cách để bổ túc văn hoá ở các trung tâm bồi dưỡng giáo dục thường xuyên của các quận huyện chứ đạo đức kém thì sẽ bổ túc ở đâu đây ? Đạo đức của con người phải được nung nấu, đào luyện và bồi dưỡng ngay từ mái ấm gia đình và trường học. Thử hỏi ngày hôm nay đời sống gia đình của người Việt Nam đang đứng ở đâu ? Chắc là khó trả lời vì trả lời đúng sự thật thì quá đau lòng, thôi thì trả lời gian dối cho mát tai vì lẽ báo chí cũng như các cơ quan truyền thông đại chúng vẫn quen hành xử theo “Hà Nội Mới” và “VTV3”. Mà “Hà Nội Mới” và “VTV3” làm gì thì chắc khán thính giả quá hiểu.

Với một nền văn hoá kém và đạo đức có vấn đề thì làm sao mà đất nước có thể thoát nghèo được.

Ông bà ta vẫn thường dạy “nghèo cho sạch, rách cho thơm”, “giấy rách phải giữ lấy lề” …  đã nghèo, đã đói mà còn không sạch và không thơm nữa nghĩa là làm sao ? Nghèo, đói đi chăng nữa phải có đạo đức, phải có luân lý chứ nghèo, đói mà phi đạo đức, phi luân lý thì làm sao mà ngóc đầu lên nổi.

Hà Nội sẽ mạnh tay xử lý người sinh con thứ ba”. Dòng tít này sao mà đau lòng quá ! Một cách nào đó, dòng tít này báo cho mọi người rằng họ sẽ xử lý những ai không chịu “kế hoạch hoá gia đình”. “Kế hoạch hoá gia đình” mà người ta kêu gọi, cổ vũ đó là gì ? Xin thưa đó là giết người. Chỉ có giết người thì mới không sinh con thứ 3 thôi.

Người ta vẫn dùng những từ hoa mỹ để lấp liếm những hành động mà ngay như con vật cũng không làm đó là giết đi đứa con trong bụng mình. “Kế hoạch hoá gia đình” đó là cụm từ hoa mỹ thay cho từ giết người.

“Uỷ ban bảo vệ bà mẹ và trẻ em” ! Trong cái uỷ ban đó có cái phòng gọi là phòng “hút điều hoà kinh nguyệt !”. “Hút điều hoà kinh nguyệt” ấy là gì ? Xin thưa đó hàng tháng người đàn bà có cái chuyện hết sức bình thường của tạo hoá, tháng nào không có nghĩa là có dấu hiệu một mầm sống đang tượng hình trong dạ mình. Vào phòng đó để “hút điều hoà kinh nguyệt” nghĩa là hút đi cái thai, cái mầm sống đang nẩy sinh trong mình. Tên rất đẹp nhưng thật sự đó là hành vi giết người.

Như đã nói, vốn học chẳng cao, hiểu chẳng rộng nhưng được biết là con vật, dù nó không có suy nghĩ, không có được hiểu biết, không có trí khôn như con người những nó cũng chẳng nỡ lòng nào để giết đi chính đứa con ruột của nó.

Đơn giản nhất, hai con vật gần gũi với con người đó là chó và mèo. Không cần nói nhiều, ai cũng biết là con mèo, khi nó sinh con, nếu ai biết được con của nó nằm ở đâu thì bất cứ giá nào nó cũng gắp con nó chuyển đi nơi khác để bảo vệ con nó. Nó phải chuyển đi vì sợ nguy hiểm đến tính mạng của con nó. Con chó, không cần nói nhiều, những con chó cái mới sinh con, đố ai dám đến gần vì lẽ nó rất dữ, nó sợ người ta đánh cắp con nó nên nó canh chừng con nó một cách hết sức cẩn thận.

Con chó, con người xem ra nó sống có tình, có cảm hơn những con người nhẫn tâm “kế hoạch hoá gia đình”, nhẫn tâm đi nạo phá chính mầm sống mà Đấng Tạo Hoá ban cho mình.

Ăn ở bất nhân thất đức như thế làm gì mà phát triển được.

Thử hỏi những người đi phá thai trong lòng có cảm thấy thanh thản, bình an hay không ? Thử hỏi những người tiếp tay cho việc nạo phá thai có an tâm khi cộng tác vào chuyện giết người hay không ? Một con người có lương tâm thật có thanh thản khi giết người hay không ? Và khi người mà mình giết lại là chính đứa con yêu trong bụng mình.

Lẽ ra người ta cổ vũ, người ta nâng cao đời sống tri thức, văn hoá, đạo đức để nâng cao đời sống cho con người, đàng này người ta cổ vũ và tán thưởng cho những hành động phá thai, giết người.

Phá thai, giết người là những hành động làm trong phòng kín, làm trong bóng tối nhưng làm sao có thể giấu được Ánh Sáng Chân Lý, tiếng nói của Lương Tâm.

Nghĩa trang Anh Hài ở đâu đó khắp mọi miền đất nước, bức tường Anh Hài đang cao dần bên mảnh đất Mai Thôn là dấu chứng cho hành động phi nhân bất nghĩa của những con người vô luân thất đức. Có thể họ thanh thản ngoài bề mặt là khống chế tình trạng phát triển dân số nhưng thử hỏi trong lòng những con người giết người cũng như cộng tác vào công việc giết người có bình an thật sự trong tâm hồn không ?

Một Thủ Đô luôn tự hào với 4000 năm văn hiến lại cổ vũ cho việc giết người sao ?

Văn hiến này là văn hiến gì vậy ? Tự đáy lòng, tận sâu thẳm lương tâm mỗi người sẽ có câu trả lời đúng nhất cho chuyện : “Hà Nội sẽ mạnh tay xử lý người sinh con thứ ba”   

Lm. Anmai, C.Ss.R.

VỀ MỤC LỤC

CHÚA CHIÊN NHÂN LÀNH - KINH CẦU CHO CÁC LINH MỤC

(CHÚA NHẬT IV MÙA PHỤC SINH, NĂM B)   

Trong Chúa Nhật IV mùa Phục Sinh (năm B), bài Phúc Âm (Gioan 10, 11-18), Bài Đọc I (Cv. 4, 8-12), và Bài Đọc II (1 Gioan 3, 1-2) đều gợi lên trong tâm trí chúng ta hình ảnh Người Chăn Chiên Nhân Lành. Bài Phúc Âm và các Bài Đọc trong năm A và C cũng vậy; vì thế, Chúa Nhật IV mùa Phục Sinh thường được gọi là Chúa Nhật Chúa Chiên Nhân Lành.   

Chúa Giêsu Kitô chính là CHÚA CHIÊN NHÂN LÀNH. Ngài đã vâng lời Đức Chúa Cha, và xuống thế làm người, mặc lấy thân phận một người hèn mọn, sống khiêm nhường trong gia đình nghèo khó Nagiaret. Trong thời gian ra đi rao giảng, Ngài đã luôn tận tụy rao giảng Phúc Âm Tình Thương, chấp nhận mọi khó khăn, mệt nhọc, mọi phản ứng chống đối, và sẵn sàng chấp nhận cả cái chết nhục nhã trên Thánh Giá để cứu chuộc đoàn chiên: “Ngài đã vâng phục cho đến chết, và chết trên Thánh Giá…” (Phillip 2, 6-8).   

Cuộc đời và những lời rao giảng của Chúa Giêsu phác họa cho chúng ta hình ảnh Người Chăn Chiên Nhân lành:   

Người Chăn Chiên Nhân Lành hy sinh tận tụy rao giảng Phúc Âm Tình Thương của Chúa cho mọi người.   

Người Chăn Chiên Nhân Lành săn sóc đoàn chiên với lòng yêu thương, nhân hậu; biết lưu ý đến từng con chiên một, tìm hiểu hoàn cảnh và nhu cầu của mỗi người, lắng nghe tiếng nói của mọi người, và yêu thương, khiêm tốn phục vụ mọi người trong những hoàn cảnh khác nhau. Với những con chiên xa lạc, Người Chăn Chiên Nhân Lành hy sinh đi tìm, và vui mừng khi tìm thấy, không giận dữ, không la mắng, nhưng âu yếm vác lên vai và mang trở về đoàn.   

Người Chăn Chiên Nhân Lành cũng luôn là ngọn đèn cháy sáng để chiếu soi ánh sáng chân lý tình thương của Chúa cho mọi người.   

Đời sống đạo đức sâu xa, âm thầm cầu nguyện và lòng nhiệt thành của vị Chủ Chăn luôn như muối men ướp cho đời sống Dân Chúa được mặn nồng sốt sáng.      

Trong ngày Chúa Nhật Chúa Chiên Lành, cũng như trong đời sống hằng ngày, chúng ta hãy cùng nhau dâng nhiều hy sinh, hãm mình để xin Chúa ban ơn thánh hóa Đức Giáo Hoàng và các vị Chủ Chăn trong toàn thể Giáo Hội, trong đó có các vị Chủ Chăn tại quê hương Việt Nam, nhất là các vị đang bị tù đày, các vị đang gặp nhiều khó khăn thử thách tại những nơi mà Giáo Hội đang bị bách hại  dưới nhiều hình thức khác nhau.   

Chúng ta cũng hãy cầu xin Chúa cho chúng ta luôn hăng hái nhiệt thành cộng tác với các Chủ Chăn trong công việc chăn dắt đoàn chiên Chúa. Các bậc làm cha mẹ cũng là ‘các chủ chăn’ của đoàn chiên trong các gia đình của mình, nên cũng cần cầu nguyện nhiều để xin Chúa giúp chúng ta biết sống làm gương sáng và dẫn dắt con cháu chúng ta trung thành giữ vững Đức Tin trong sự hòa hợp yêu thương phục vụ lẫn nhau.   

Hôm nay cũng là ngày “Cầu Nguyện Cho Ơn Gọi Linh Mục và Tu Sĩ.” Chúng ta cũng hãy hy sinh, hãm mình, dâng lời cầu nguyện  xin Chúa ban cho giới trẻ, con cháu chúng ta, được Chúa thương gọi và chọn để dâng hiến cuộc đời làm Linh Mục, Tu Sĩ nam nữ  phục vụ trên cánh đồng truyền giáo bao la và đa dạng trong thế giới  ngày nay.  

KINH CẦU CHO CÁC LINH MỤC  

Lạy Chúa Giêsu là Mục Tử Nhân Lành, Chúa đã sai Đức Chúa Thánh Thần xuống trên Hội Thánh Chúa để đưa các tín hữu đến với Đức Chúa Cha qua công việc mục vụ của các Linh Mục. Tạ ơn Chúa đã ban cho chúng con Thiên Chức Linh Mục và các tông đồ nhiệt thành. Nhờ sự linh hướng của Đức Chúa Thánh Thần, xin hãy ban xuống trên các Linh Mục của Chúa Ơn Khôn Ngoan trong việc lãnh đạo, Ơn Trung Tín trong việc giảng dạy và Ơn Thánh Thiện trong việc bảo vệ các Mầu Nhiệm Thánh của Chúa.   

Mỗi khi các ngài cùng với các tín hữu tha thiết kêu lên “Lạy Cha”, nguyện xin cho các Linh Mục được kết hợp mật thiết với Chúa hơn. Xin cho các ngài trở nên một với Chúa trong mối tình Con Thảo, và tận hiến cuộc sống của các ngài cho Chúa là Con Chiên Cứu Độ trần gian.  

Nguyện xin cho các ngài biêt nâng đỡ nhau trong Thiên Chức Linh Mục và trở nên những người cha biết thông cảm đối với tất cả mọi người.   

Nguyện xin Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống canh tân đổi mới tâm hồn các Linh Mục, và ban cho các ngài một Đức Tin thật lớn lao và một niềm xác tín thật sâu thẳm vào Chúa Giêsu ngự thật nơi Phép Thánh Thể.    

Xin ban cho các ngài niềm tín thác tuyệt đối như trẻ thơ vào tình yêu Đức Maria, Mẹ trung tín sắt son. Xin cho các ngài biết yêu mến và vâng lời  Đức Thánh Cha và các Đức Giám Mục.  

Lạy Rất Thánh Đồng Trinh Maria, xin bênh vực các Linh Mục của Mẹ. Lạy Thánh Cả Giuse, xin phù hộ các Linh Mục. Lạy thánh Gioan Vianney là bổn mạng  các Linh Mục, xin cầu bầu cùng Chúa cho các Linh Mục được ơn biết kính sợ Chúa. Lạy  Thánh Anphongsô, là bổn mạng  các Cha Giải Tội, xin cầu cho các Linh Mục được thêm lửa yêu mến Chúa. Lạy Tổng lãnh Thiên Thần Micae, xin chở che các Linh Mục và Hội Thánh Chúa.   AMEN. 

Lm. Trần Đức Phương

VỀ MỤC LỤC
ĐỜI SỐNG ĐỘC THÂN TRONG ƠN GỌI TẬN HIẾN (CHỨNG TỪ ƠN GỌI, BÀI 5):
 

Paris. Chủ nhật 19.04.2009, tại Giáo Xứ Việt Nam, chị Marie Đào Kim Phượng (1), giáo dân tận hiến « Nữ Trợ tá tông đổ », nói chuyện với cộng đoàn về đề tài : « Đời sống độc thân trong ơn gọi tận hiến ».

Đây là đề tài học hỏi thứ năm trong chương trình « chứng từ ơn gọi », được thực hiện vào mỗi chủ nhật thứ hai mỗi tháng, trong « Năm cầu cho ơn gọi 2009 » tại GXVN Paris. Chứng từ ơn gọi, bài 1, đã được cha Nguyễn Bình chia sẻ vào chủ nhật 14.12.08 về vấn đề «Làm sao biết Chúa gọi mình» ? Bài 2, đã được cha Phan Tấn Khánh chia sẻ vào chủ nhật 11.01.2009 về đề tài « Tự do trong đời sống tận hiến ». Bài 3, đã được chị Maria Vũ Thị Minh chia sẻ vào chủ nhật 08.02.2009 về đề tài « Đời sống siêu nhiên của người tận hiến ». Bài 4, đã được thầy Nguyễn Quốc Tuấn, Dòng Tên, chia sẻ vào chủ nhật 15.0302009 về đề tài : « Vấn đề tiền bạc trong đời sống tận hiến ».

Mời bạn đọc trước hết nghe chứng từ ơn gọi của chị Marie Đào Kim Phương, rồi sau đó tìm hiểu đôi chút về đời sống giáo dân tận hiến “Nữ Trợ tá tông đồ », đời sống mà chị Phượng đã quyết định dấn thân một cách dứt khoát 27 năm qua, từ 1982. 

1. Đời sống độc thân trong ơn gọi tận hiến

Sau Phúc Âm, theo lời mời của Đức Ông Mai Đức Vinh, chị Marie Đào Kim Phương lên chia sẻ với cộng đoàn về đề tài « Đời sống độc thân trong ơn gọi tận hiến ».

Chị Phượng nói : « Kính thưa Đức Ông, quí Cha, quí Thầy, quí ông bà, quí bác, quí anh chị và quí bạn trẻ,

Vâng lời Đ. Ô. hôm nay con xin chia sẻ với cộng đoàn vài nét về sự độc thân trong đời sống tận hiến. Đời sống tận hiến ở đây bao gồm những người đi tu và những người giáo dân tận hiến.

Nhưng trước hết, tưởng cũng nên nói vài lời về hai chữ « độc thân » trong sự đối chiếu với đời sống lứa đôi (hay đời sống vợ chồng). Người Việt nam mình hay nói nôm na là : con người ta lớn lên, một là đi tu, hai là lập gia đình. Nhưng trong cách nói đó đôi khi có cái tiêu cực như : đi tu vì không lấy được ai, hay không tu được thì kiếm ai mà lấy. Nói như vậy thì cả hai đàng đều là không có tự do và không có hứng thú. Trong khi cả hai bậc sống đều là tốt đẹp cả và đều đáng cho người ta hâm mộ và đeo đuổi.

Thưa quí bác và quí anh chị ở đây, có ai trong chúng chẳng từng nghe hoặc nói : « cô này đẹp vậy mà đi tu, uổng quá » (làm như chỉ có những người xấu xí mới nên đi tu), hay bậc cha mẹ là người công giáo siêng năng đi nhà thờ, thấy một anh chàng thanh niên đẹp trai, học giỏi, có thể là bác sĩ, kỹ sư mà đi tu thì thay vì mừng cho Giáo Hội, lại tiếc thầm mình chưa kịp gả con gái. Hai câu chuyện trên đây không phải là chuyện tiếu lâm để giải sầu cho quí vị mà để nói lên phần nào cái nhìn không đúng đắn của một số người. 

Nói có sách mách có chứng, chúng ta thử lật xem Thánh Kinh nói gì về đời sống độc thân vì Nước Trời. Ngay những trang đầu Thánh Kinh, sau khi Thiên Chúa sáng tạo trời đất, chúng ta thấy : « Đức Chúa là Thiên Chúa phán : « Con người ở một mình thì không tốt, Ta sẽ làm cho nó một trợ tá tương xứng với nó. Đức Chúa là Thiên Chúa lấy đất nặn ra mọi dã thú… Con người đặt tên cho mọi súc vật, mọi chim trời và mọi dã thú, nhưng con người không tìm được một trợ tá tương xứng. .. Đức Chúa là Thiên Chúa lấy cái xương sườn đã rút từ con người ra, làm thành một người đàn bà và dẫn đến với con người. » (ST 2, 18-22). Vài câu sau đó chúng ta lại đọc thấy : « Thiên Chúa ban phúc lành cho họ, và TC phán với họ : « Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất, và thống trị mặt đất ». » (ST 1,28). Rõ ràng con người phải lập gia đình thì mới sinh sôi nảy nở và làm đầy mặt đất.

Như vậy, vào thuở ban đầu con người ta có nam, có nữ, có vợ, có chồng, có con có cái. Thế thì hôm nay tại sao trong Giáo Hội lại có những người sống độc thân tận hiến ?

Nhân năm nay là Năm Thánh Phaolô, chúng ta hãy thử tham khảo các thư của ngài xem ý kiến và những lời khuyên dạy của vị thánh tông đồ này ra sao.

1Co 7 :  « 1Bây giờ, tôi đề cập tới những điều anh em đã viết cho tôi : đàn ông không gần đàn bà là điều tốt. Nhưng để tránh hiểm họa dâm ô, thì mỗi người hãy có vợ có chồng. 2 Với những người độc thân và quả phụ, tôi nói thế này : họ cứ ở vậy như tôi thì tốt cho họ. Nếu không tiết dục được, họ cứ kết hôn, vì thà kết hôn còn hơn bị thiêu đốt… »

25 « Về vấn đề độc thân, tôi không có chỉ thị nào của Chúa, nhưng tôi chỉ khuyên nhủ anh em với tư cách là người - nhờ Chúa thương – đáng được anh em tín nhiệm. 26 Vậy tôi nghĩ rằng : vì những nỗi thống khổ hiện tại, ở vậy là điều tốt. Phải, tôi nghĩ rằng đối với người ta, như thế là tốt. 27 Bạn đã kết hôn với người đàn bà ư ? Đừng tìm cách gỡ ra. Bạn chưa kết hôn với người đàn bà ư ? Đừng lo kiếm vợ. 28 Nhưng nếu bạn cưới vợ, thì cũng chẳng có tội gì. Và nếu người con gái lấy chồng, thì cũng chẳng có tội gì…. »

32 « Tôi muốn anh chị em không phải bận tâm lo lắng điều gì. Đàn ông không có vợ thì chuyên lo việc Chúa : họ tìm cách làm đẹp lòng Người. 33 Còn người có vợ thì lo lắng việc đời : họ tìm cách làm đẹp lòng vợ, 34 thế là họ bị chia đôi. Cũng vậy, đàn bà không có chồng và người trinh nữ thì chuyên lo việc Chúa, để thuộc trọn về Người cả hồn lẫn xác. Còn người có chồng thì lo lắng việc đời : họ tìm cách làm đẹp lòng chồng ».

Nhưng đời sống độc thân ở đời này - ở trần gian này - đối với con người bằng xương, bằng thịt như chúng ta là một dấu hỏi lớn, nếu không nói là một ngờ vực, đối với những người đi tu. Làm sao để sống độc thân ? Nói trắng ra là làm sao để sống một mình trong sự thiếu vắng « một bóng người » (hay một « bóng hồng ») ? Trái tim của người muốn sống đời tận hiến cũng tiềm tàng tình phụ tử hay tình mẫu tử. Làm sao để khỏa lấp cái trống vắng quá lớn đó ? Khi người ta ví vợ hay chồng mình là « một nửa của tôi » (ma moitié), vậy thì người độc thân tận hiến là một sự « bất toàn » hay sao ? Cái giá phải trả có quá đắt không ?

Đây có thể là một sự lo lắng của cha mẹ có con muốn đi tu và cũng có thể là một đắn đo của chính đương sự. Sự đắn đo, suy nghĩ này rất chính đáng và cần thiết vì con người đó là một con người bình thường chứ chưa là thiên thần. Người tận hiến không phải là người không có tình cảm, không có rung cảm, không có trái tim, không biết yêu thương hay không cần được yêu thương. Và dĩ nhiên là trong mỗi bậc sống đều có Ơn Chúa, nhưng Ơn Chúa không miễn cho con nguời sự suy nghĩ, cân nhắc trước khi đi đến quyết định chọn đời sống « một mình » trong tự doý thức – ý thức từ khước Tình Yêu con người và một mái ấm gia đình.

Vâng, người quyết định chọn đời sống tận hiến là người chọn « đời sống một mình » (solo) nhưng chữ « một mình » này không đồng nghĩa với « cô đơn trường kỳ ». Cái đời sống không có « bóng hồng » (hay « hoàng tử của lòng em ») mà tôi vừa nêu trên đây có một « khoảng trống đợi chờ » nhưng đợi chờ được một Tình Yêu bao la của Thiên Chúa lấp đầy. Nó là một thửa đất mà Thiên Chúa sẽ làm nên mầu mỡ, sinh hoa kết trái ra những đứa con tinh thần thay cho những đứa con xác thịt mà họ không thể có.  Đời sống độc thân trong ơn gọi tận hiến không phải là một gò bó, ràng buộc, thiếu thốn mà là một khả năng yêu thương rộng mở, sẵn sàng, để họ không thuộc về riêng ai nhưng thuộc về tất cả, vì Chúa và với Ơn Chúa. Không có Ơn Chúa thì việc đó thật là ngoài sức con người.

Trong đức tin Công giáo, chúng ta tin là con người từ Thiên Chúa mà đến và ơn gọi của con người là trở về với Thiên Chúa. Cuộc đời của con người ở trần thế chỉ là một cuộc hành hương tiến về Nước Trời nơi con người sẽ được chia sẻ đời sống viên mãn và vĩnh cửu là hạnh phúc đời đời với Thiên Chúa. Đó là cùng đích và hy vọng của nhân loại. Nơi đó không còn là nơi « dựng vợ, gả chồng » nữa.

Và đời sống độc thân tận hiến là một tiên báo, một dấu chỉ cho cuộc sống đó. Thiên Chúa sẽ là tất cả cho tất cả. Giáo Hội quả quyết đời sống độc thân tận hiến là một ơn Chúa ban cho Giáo Hội và cho nhân loại. Người độc thân tận hiến không những sẽ hoàn toàn thuộc về Chúa ở đời sau mà ngay từ đời này. Amen.

Đào-Kim-Phượng, AA

Giáo xứ VN Paris, 19-04-2009

 

2. Giáo dân tận hiến « Nữ Trợ tá Tông đồ »

Sau tên mình, chị Đào Kim Phượng thường hay thêm hai chữ AA hoa. Đó là viết tắt của hai chữ tiếng pháp « Auxiliaire de l’Apostolat », nghĩa là Nữ Trợ tá Tông đồ, đời sống giáo dân tận hiến mà chị Phượng đã dứt khoát dấn thân. Nữ Trợ Tá Tông Đồ không phải là một nữ tu, nhưng là một giáo dân, một giáo dân tận hiến, tận hiến để giúp việc tông đồ của giám mục địa phận.

Cuối chiến tranh thế giới thứ nhất, vào năm 1917, Hồng y MERCIER, tổng giám mục giáo phận Malines-Bruxelles, Bỉ, muốn phát triển công việc tông đồ trong giáo phận mình, đã kêu gọi những phụ nữ muốn dấn thân đời mình, tận hiến cho Chúa, hãy tham gia vào công việc tông đồ trong giáo phận của ngài. Nhiều phụ nữ đã nghe theo lời kêu gọi này. Họ sống đời tận hiến, chiêm niệm "như một nữ tu dòng kín". Nhưng hoạt động xã hội tông đồ ngoài đời như một giáo dân, theo chỉ dẫn của giám mục địa phận mình. Đây là một hình thức ơn gọi tông đồ mới. Ơn gọi này, ngày nay lan ra khắp nơi. Hơn 350 giám mục trên khắp thế giới đã mời những nữ giáo dân dấn thân làm Nữ Trợ Tá Tông Đồ trong các giáo phận của mình. Các nữ trợ tá tông đồ có mặt trên các giáo phận Pháp, cũng như ở nhiều giáo phận Việt Nam : Hà Nội, Huế, TP Hồ Chí Minh,…

Theo lời gọi của giám mục, Nữ Trợ Tá Tông Đồ hứa dấn thân :

·        Yêu mến Giáo Hội, đặc biệt là giáo hội địa phương mình phục vụ

·        Sống đời độc thân, tận hiến cả đời mình cho Chúa, cả tâm hồn, cả thân xác, cả ý chí, cả trí tuệ, cả con tim

·        Chấp nhận mọi sứ mệnh tông đồ mà giám mục trao phó

·        Dâng hiến con người mình, thời giờ mình, tài sản mình để phục vụ giáo hội

·        Theo học những khóa trình đào tạo do giám mục đề nghị

·        Lấy sáng kiến và đảm nhận trách nhiệm trong các công việc : hoặc trong lãnh vực nghề nghiệp, hoặc trong những lãnh vực khác. 

Để đáp lại lời gọi của giám mục, Nữ Trợ Tá Tông Đồ có ba chặng đường phải đi qua trong tiến trình dấn thân.

Chặng đào tạo đầu tiên kéo dài khoảng 3 năm, trong đó nữ giáo dân thấy có ơn gọi tận hiến sẽ được đào tạo về tu đức, về thần học, về đời sống giáo hội hiện tại, về chuyên nghiệp, công dân, văn hóa, xã hội,…

Chặng đáp tạm, kéo dài khoảng 6 năm, qua hai giai đoạn. Giai đoạn tạm 1 năm, lập lại 3 lần (1x3). Rồi giai đoạn tạm 3 năm, đáp một lần (3x1).

Chặng đáp dứt khoát. Sau khi đã đáp tạm 6 năm, tức sau 9 năm đào tạo, nếu nữ giáo dân vẫn thấy ơn gọi tận hiến hấp dẫn mình và muốn theo đuổi và đáp lại lời gọi này đến cùng, thì có thể đáp dứt khoát (définitif).

Trong những chặng học hỏi dấn thân tận hiến trên và suốt cuộc đời mình, người Nữ Trợ Tá Tông Đồ sống bằng tình yêu Chúa Cha, kết hiệp và bén rễ trong Chúa Con Kitô, yêu mến thế giới nhân trần và suy ngắm về hoạt động của Chúa Thánh Linh trong thế giới ấy.

Chị luôn luôn học hiểu để sống cho Thiên Chúa trong Đức Tin. Điều này có nghĩa là :

·        Nhờ cầu nguyện (một giờ mỗi ngày), Chị tìm được ý nghĩa và sức mạnh cho hoạt động của mình

·        Chị gắng sức thường xuyên tham dự thánh lễ càng nhiều càng tốt

·        Chị năng chịu bí tích giải tội

·        Để thêm nguồn sức mạnh, mỗi tháng chị dành một ngày để cầu nguyện thinh lặng, và mỗi năm làm một cấm phòng.

Chị mở tâm trí ra tiếp nhận mọi thực tại nhân loại.

Mọi ơn huệ mà Chúa đã ban cho chị, chị dùng để phục vụ con người và thế giới.

Đời sống của chị trong tất cả những khía cạnh của nó sẽ là nơi mà giám mục gọi chị.

 

LỜI KẾT 

Giáo hội Việt Nam đang hồ hởi chuẩn bị cử hành NĂM THÁNH 2010, kỷ niệm 50 năm thiết lập Hàng Giáo Phẩm Chính Tòa Việt Nam (1960-2010). 50 năm đầy hồng ân Chúa, nhưng cũng là 50 năm mà công việc tông đồ truyền giáo có chiều không tăng mà lại giảm. Phải chăng đây là dịp để giáo sĩ và giáo dân việt nam nhìn lại để dấn thân hơn và hữu hiệu hơn trong công việc tông đồ ? Phải chăng đây là lý do thức đẩy các giám mục lưu tâm nhiều hơn đến việc truyền giáo ? thúc đẩy các giáo dân dấn thân hơn để trợ giúp các giám mục trong việc tông đồ ?

Năm 1533, Theo « Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục », vào tháng 3 năm Nguyên Hoà thứ I (1533), một người Âu Châu tên là Inêkhu lén đến truyền giáo ở làng Ninh Cường, huyện Nam Chân và làng Trà Lũ, huyện Giao Thuỷ thuộc giáo phận Bùi Chu, tỉnh Nam Định ngày nay (2). Năm 1533 được các nhà làm sử Giáo Hội Công Giáo Việt Nam coi là năm đầu tiên Công Giáo đi vào xã hội Việt Nam, mở đầu cho thời kỳ gọi là BẢO HỘ, 1533-1659. Kết quả, nhờ sự giảng đạo của các cha Đaminh, Phanxicô và nhất là Dòng Tên, đặc biệt là cha Đắc Lộ, vào năm 1659, Giáo Hội Việt Nam, chưa có giám mục, linh mục, tu sĩ, chủng sinh, nhưng có khoảng 100.000  tín hữu, 20.000 trong Nam và 80.000 ngoài Bắc  (3) , với 265 nhà thờ (4). Cùng với các thừa sai khác, cha Đắc Lộ đã khai sinh ra Chữ Quốc Ngữ.

Ngày 09.09.1659 ÐTC Alexandre VII ban sắc lệnh thiết lập 2 giáo phận truyền giáo đầu tiên tại Việt Nam : ÐC François Pallu được bổ nhiệm làm Giám Quản Tông Tòa Đàng Ngòai, thêm quyền cai quản  5 tỉnh Vân Nam, Quí Châu, Hồ Nam, Hồ Bắc và Tứ Xuyên của Trung Quốc và nước Lào ; và ÐC Pierre Lambert de la Motte được bổ nhiệm làm Giám Quản Tông Tòa Đàng Trong, thêm quyền cai quản các tỉnh Chiết Giang, Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây và Đảo Hải Nam của Trung Quốc và gồm luôn cả Chiêm Thành. Từ đây, ngày 09.09.1659 được coi là ngày mở đầu cho thời kỳ thứ hai trong lịch sử truyền giáo ở Việt Nam : thời kỳ TÔNG TÒA (5). Kết quả là 300 năm sau, vào năm 1960, Giáo hội Việt Nam có 17 giáo phận, có 130.000 người tử vì đạo, trong đó 117 vị đã được Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II Tuyên Phong Hiển Thánh tại Rôma ngày 19/06/1988, có 23 giám mục, 1.914 linh mục, 5.789 tu sĩ, 1.530 đại và tiểu chủng sinh, có 2.096.540 tín hữu, trên tổng số 29.200.000 dân, chiếm tỷ số 7.17% dân số (6). Số giáo hữu tăng gấp 21 lần. Giáo Hội, dẫu không ngừng bị bách hại bởi chính quyền, đã tạo ra một nền văn học quốc ngữ mới cho Việt Nam, đã tham gia tích cực vào việc xây dựng và cải tiến văn hóa, giáo dục và xã hội cho Việt Nam.

Ngày 24-11-1960, Đức Thánh Cha Gioan XXIII thành lập Hàng Giáo phẩm Việt Nam; các giáo phận hiệu toà trở thành CHÍNH TÒA với 3 toà Tổng giám mục ở Hà Nội, Huế và Sài Gòn. Thành lập thêm ba giáo phận Đà Lạt, Mỹ Tho và Long Xuyên trong giáo tỉnh Sài Gòn. Số các giáo phận tăng lên thành 20 : 10 ở giáo tỉnh Hà Nội, 4 ở giáo tỉnh Huế và 6 ở giáo tỉnh Sài Gòn. Sau 50 năm Chính Tòa (1960-2010), « Tính đến 31-12-2007, Giáo hội Công giáo Việt Nam có 26 giáo phận : 10 ở Giáo tỉnh Hà Nội, 6 ở Giáo tỉnh Huế và 10 ở Giáo Tỉnh TP-HCM, 2 Hồng y, 2 Tổng Giám mục, 38 giám mục, 3.510 linh mục, 14.968 tu sĩ nam nữ, 6.087.659 tín hữu trên tổng số 85.154.900 người, chiếm 7,15% dân số. Trong gần 50 năm qua, GHCGVN đã có thêm 6 giáo phận mới, số tín hữu tăng gấp 3, số linh mục tu sĩ tăng gấp đôi » (7). Nhưng tỷ số sút 0.02%. Đây là một vấn đề lớn mà Giáo Hội Việt Nam hôm nay phải đặt ra cho mình. Kết quả truyền giáo chẳng những không tăng, mà còn giảm, tại sao ? 

Paris, ngày 26 tháng 04 năm 2009

Trần Văn Cảnh  

Chú thích 

(1). Chị Marie Đào Kim Phượng là thứ hai trong một gia đình tin lành, có 7 chị em. Từ tấm bé, được đào tạo trong tinh thần tông đồ, chị đã muốn hiến đời mình làm thừa sai. Sang Pháp từ 1975, gia đình chị cư ngụ gần Toulouse. Sau tú tài, chị học chuyên về vi tính. Tốt nghiệp năm 1981, chị làm việc ở Lộ Đức. Ở đây, chị được dịp tham dự Đại Hội Thánh Thể Quốc Tế năm 1981, được quen biết các chị Nữ Trợ Tá Tông Đồ và được dịp gặp một linh mục, trao đổi và học đạo với ngài. Chị đã trở lại đạo công giáo và lãnh bí tích thêm sức năm 1982. Đầu niên học 1982, quyết định dấn thân gia nhập cộng đoàn các Nữ Trợ tá Tông Đồ, chị lên Paris và bắt đầu giai đoạn đầu tiên trong cộng đoàn này, giai đoạn đào tạo 3 năm. Tính đến nay, 2009, chị đã là Nữ Trợ Tá Tông Đồ được 27 năm. 

Sống ở Paris, chị tham gia vào nhiều sinh hoạt của Giáo Xứ Việt Nam. Không kể những sinh hoạt cơ bản trong các đoàn, ban, nhóm công giáo tiến hành, chị Đào Kim Phương đặc biệt tận tâm trong việc giáo dục thanh thiếu niên và dậy giáo lý cho họ cũng như đã đảm trách lớp đào tạo giáo lý viên tại GXVNP (2006-2008).

Chị cũng rất hăng hái tham dự Hội Đồng Mục Vụ của Giáo Xứ, trong nhiều chức vụ khác nhau :

·         Phó thủ quĩ 1987-1990,

·         Phó chủ tịch, đặc trách văn hóa và tuổi trẻ 1990-1994,

·         Tổng thơ ký 1994-1997

·         Phó Chủ Tịch 2001-2003, 2008-  

(2). Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, q. XXXIII, tập II, tr.301, Viện Sử học, NXB Giáo dục 1998

(3) HĐGMVN, Giáo hội Công giáo Việt Nam, Niên giám 2004, tr. 189

(4) Đỗ Quang Chính, Lịch sử chữ quốc ngữ, Sài Gòn : Đường mới, 1972, tr. 129

(5) Trần Văn Cảnh,

 http://www.conggiaovietnam.net/index.php?m=module2&v=detailarticle&id=13&ia=641

(6) HĐGMVN, sđd, tr. 199

(7) Lm Nguyễn Ngọc Sơn  http://www.vietcatholic.org/News/Clients/ReadArticle.aspx?ID=65180

VỀ MỤC LỤC

NĂM THÁNH 2010

 

Đội  ơn Thiên Chúa muôn đời.

Việt Nam Giáo Hội được Người xót thương.

Ngót năm thế kỷ trên đường.

Qua ba giai đoạn vững vàng  thăng hoa.

Tông Tòa, Bảo Hộ, Chánh Tòa

Ngày nay nhìn lại để mà kiểm xem.

Yêu thương, phục vụ anh em

Con chiên, mục tử – ngoan hiền vui chung???

Tương lai nhắm tới hiệp thông,

Cộng đồng dân Chúa sống cùng muôn dân.

Bối cảnh xã hội chuyển dần,

Văn hóa thiên kỷ như gần đổi thay.

Năm mươi năm cuối vừa đây,

Biến thiên lịch sử với đầy gian nan.

Khó khăn, thử thách đầy tràn,

Bình an của Chúa rộng ban thường ngày.

Tuy nhiên, thẩm định cho hay:

Cũng còn thiếu sót ngày rầy phải lo.

Mong sao nghĩa vụ tông đồ

Truyền thông phổ biến chẳng mờ tình thương.

Phục vụ vời đức khiêm nhường,

Không vì chức vụ coi thường tha nhân.

Hiệp thông giữa mọi thành phần,

Linh mục, tu sĩ, giáo dân một lòng.

Tham gia lợi ích cộng đồng,

Tốt đời đẹp đạo, cầu mong an bình.

Tứ dân thăng tiến văn minh,

Đạo Người, đạo Chúa đồng hành tự do.

Cậy trông Thiên Chúa ban cho…

………………………………………………………………………

(Trích phỏng theo: dự án CĐDCVN cử hành năm Thánh 2010 của Đức Hồng Y Tồng Giám Mục Phạm Minh Mẫn)

Th.K. Dominic.

VỀ MỤC LỤC
TÔN GIÁO

 

Với người cộng sản “tôn giáo là thuốc phiện” nên họ bài bác. Nhưng với hầu hết mọi người chúng ta, tôn giáo phục vụ như một nguồn sinh khí đi tìm sự thiện hảo. Lý tưởng, giá trị luân lý, và những khát vọng cao quí nhất của chúng ta bắt nguồn từ tôn giáo và được nuôi dưỡng trong tôn giáo. Vì thế, tôn giáo rất cần thiết cho đời sống con người. Nhưng tôn giáo có thể bị lạm dụng. 

Phi Hùng 5 tuổi, suốt buổi sáng xem ra có vẻ không được vui. Không có gì bà mẹ đề nghị làm nó vừa lòng. Sự chịu đựng của bà mẹ xem chừng đã cạn. Sau cùng, bà đưa cho nó một tập báo và một cái kéo, và đề nghị nó ngồi trong phòng cắt những hình ảnh ra. Bà trở lại với công việc của bà. Sau đó, bà khám phá ra cậu bé đã lôi tất cả các sách trong tầm tay vói của cậu ra khỏi giá sách và vung vãi chung quanh phòng. Hôc bàn cũng đều được mở và mọi thứ trong đó được tung toé trên sàn. Bà mẹ giận dữ, lôi cổ thằng bé, lắc lư, và hét nó: “Cái gì làm khổ con? Con là một đứa trẻ bướng bỉnh suốt buổi sáng. Bây giờ con đi tới ngồi trên chiếc ghế trong bếp cho tới giờ cơm trưa. Nếu cần, mẹ phải cột con vào đó. Con không biết rằng Thiên Chúa sẽ phạt con nếu con không học trở nên tốt. Ngài không thích những đứa trẻ xấu.” 

Phi Hùng không phải là đứa trẻ hạnh phúc. Nó giận dữ. Nó tìm kiếm sự báo thù. Bà mẹ càng phạt nó, nó càng cảm thấy phải phục thù. Nó không muốn trở thành xấu. Nó muốn nên tốt. Nhưng nó không biết tại sao nó lại làm như thế. 

Bất cứ khi nào bố mẹ đe dọa đứa trẻ “Thiên Chúa sẽ phạt con”, đứa trẻ đang có vấn đề và chúng ta lại giao vấn đề cho quyền hạn của Đấng trên cao. Đứa trẻ cảm thấy có cái tự hào rằng không ai có thể làm gì được nó. Vì không có hình phạt nào từ Thiên Chúa đến ngay lập tức, nên nó sẽ cười chê một sự đe dọa như thế. Vì thế, thật là vô ích nếu dùng sự đe dọa như thế như một kỷ thuật cho việc huấn luyện. 

Bà mẹ thấy đứa con gái mình nói dối một cách trơ trẽn, bà mẹ khó chịu bảo: “Thuỳ Vân, con có biết nói dối là không tốt không? Những người nói dối không ai thích họ. Linh hồn họ thất đáng thương. Con có nghĩ rằng Chúa và các thánh không thích những người như vậy không? Chúa muốn chúng ta phải chân thành và chân thật. Không có chỗ trên nước trời cho những người nói dối. Nếu con nói dối, con không tốt!” 

Thật dễ cho một đứa trẻ nên tốt đến nỗi nó không thể trở nên xấu được nếu nó không gặp những chướng ngại trong môi trường nó sống. Chính những chướng ngại làm nó thất vọng và quay sang quậy phá như một lối thoát để ra khỏi sự khó khăn của nó. Vì đứa trẻ có mục đích trong cách hành xử sai lầm, nên việc giáo dục không làm thay đổi cũng không cất đi những chướng ngại. Nó chỉ càng làm tăng thêm sự chán nản. Khi chúng ta có một lý tưởng, chúng ta cố gắng để đạt được, nhưng khi chúng ta chỉ cho đứa trẻ thấy nó còn cách xa lý tưởng, chúng ta chỉ làm tăng thêm sự thất vọng và làm cho nó khó có thể bắt đầu được. Cần tránh sự lên án, vì việc giáo dục cần sự khích lệ và sự cổ võ để giúp đứa trẻ ra khỏi những khó khăn của nó. Đứa trẻ biết rằng nó phải nên tốt. Vì không biết mục đích của hành động nên đứa trẻ thất vọng về việc khó đạt được lý tưởng của nó. Một sự xung khắc xảy ra giữa cái nó biết mình nên làm và cái nó thấy mình đang làm. Và vì không thể đi cả hai lối một lúc, nó phải học giả vờ. Nó học ẩn núp đàng sau ý hướng tốt khi mục đích thật của nó hoàn toàn đối nghịch. Khi sự giáo huấn được dùng để kích động hành động tốt, chúng ta thấy con trẻ với bộ mặt xấu. Chúng cố gắng dưới mọi trường hợp để xuất hiện trong ánh sáng luân lý tốt đẹp nhất. Chúng lo sợ rằng sự bất xứng thật của chúng sẽ cho thấy bộ mặt của chúng. Chúng càng tốn nhiều năng lực cho dáng vẻ bên ngoài và cho sự sợ sệt đó, chúng càng ít dồn năng lực cho sự phát triển và cho sự lớn lên thật sự. 

Sự việc bố mẹ khuyến khích đứa trẻ đi tới tham gia những sinh hoạt nhà thờ vào ngày chủ nhật trong lúc họ vẫn cứ ở nhà, cho thấy một hình ảnh đặc biệt đối với đứa trẻ. Dường như có hai tiêu chuẩn luân lý: một cho con trẻ và một cho người lớn. Trẻ con phải đi tham dự những sinh hoạt nhà thờ ngày chủ nhật để học trở nên tốt trong khi bố mẹ không còn cần thiết sự huấn luyện nầy. Nhưng trẻ con thường cảm thấy rằng bố mẹ cũng làm điều xấu, cũng bất công đối với chúng nó, nhưng tại sao họ lại có đặc quyền không phải tham dự những sinh hoạt tôn giáo như chúng nó. Cảm giác của chúng về sự bình quyền bị xúc phạm. Điều đó thêm vào cảm giác bị đàn áp bỡi người lớn. Điều đó cũng làm cho việc tham dự những sinh hoạt tôn giáo thành một bổn phận không thể chấp nhận được và làm thất bại mục đích của sự huấn luyện tôn giáo. Vì thế, bố mẹ cần phải làm gương, phải đi tiên phong trong vấn đề tôn giáo. 

Nếu đứa trẻ lớn đủ để có quan niệm về cuộc sống đời sau và những đe dọa về hình phạt hỏa ngục được dùng, nó có thể phát triển sự sợ hãi về sự chết, về tương lai, về cái vô hình. Sự sợ như thế có thể ám ảnh cuộc đời nó, không cho nó sự tự do để lớn và sức mạnh để gánh lấy trách nhiệm. Nó phải đối diện với một ông ngáo ộp, một ông kẹ, người luôn theo dõi những hành vi của nó để sẵn sàng ban tặng cho nó những hình phạt nếu nó có những hành vi bất xứng. Vì thế, nó có thể phát triển một sự hận thù đối với ông thần nào đó chỉ muốn dòm ngó để lên án nó. Và vì cảm giác như thế không thể diễn tả được, đứa trẻ càng làm cho bộ diện bên ngoài thêm sai lầm. Sự xung đột giữa ý hướng thật và sự giả vờ chỉ đưa tới tình trạng càng không thể thích nghi hoặc tình trạng bị bệnh tâm thần.  

Vì thế, chúng ta cần phải cắt nghĩa kinh thánh hay trình bày giáo lý cho con trẻ một cách thích hợp. Sự giải thích phải phù hợp với tuổi tác, kiến thức, văn hóa, và hợp với văn minh thời đại để giúp con trẻ thu thập vốn liếng cần thiết cho đời sống tâm linh mà không làm khủng hoảng chúng trong vấn đề tâm lý. Sự giáo huấn của tôn giáo có thể được dùng để giúp cho con trẻ biết khám phá ra rằng một số loại hành động chắc chắn nào đó đã được tìm thấy là sai trái vì chúng đã làm hư hại sự liên hệ tốt đẹp và hạnh phúc giữa con người. Bố mẹ và con cái có thể thảo luận về những câu chuyện và dò xem những khả năng giải quyết những xung khắc để sự thân tình  và sự hài hòa có thể được phục hồi. Tất cả chúng ta đều gặp khó khăn. Trẻ con cần biết rằng chúng ta đang cùng chung chuyến tàu, và chúng ta cũng phải tìm lối để phục hồi sự hài hòa là cái tuyệt đẹp của cuộc sống mà chúng ta cần phải bảo tồn nếu chúng ta muốn cuộc đời chúng ta có ý nghĩa và nên thi vị. 

Lm. Lê Văn Quảng, tiến sĩ Tâm lý

VỀ MỤC LỤC
MỤC TỬ CÂM LẶNG LÀ MỤC TỬ KHÔNG NHÂN LÀNH
 

Con viết bài này với lòng kính phục và yêu mến Đức Tổng Giám Mục

Giuse Ngô Quang Kiệt, người đã củng cố lòng tin yêu

 cho nhiều thành phần Dân Chúa, nhất là giới trí thức.   

Có một giai thoại tôi không nhớ mình đọc ở đâu, rằng nhiều thế kỷ trước, trong lúc Giáo Hội đang gặp nhiều khủng hoảng và thử thách, các vị Hồng Y trong Hội Đồng Cơ Mật của Toà Thánh đang bối rối chọn người kế vị ngai toà Phêrô, thì một vị hồng y dõng dạc lên tiếng: “Nếu các ngài chọn vị giáo hoàng thánh thiện thì chọn vị này, nếu chọn vị khôn ngoan thì chọn vị này, còn nếu thấy giai đoạn này cần vị giáo hoàng can đảm, thì xin hãy chọn… tôi!”. Kết quả là ngài được bầu làm Giáo Hoàng và ngài đã đưa Giáo Hội vượt qua mọi thử thách để bước vào thời kỳ bình an. Chuyện này tôi chưa có cơ hội tìm tài liệu kiểm chứng, nhưng nó chứa đựng một sự thật không ai có thể chối cãi: Giáo Hội cần những vị chủ chăn can đảm và biết quên mình.

Đọc lại Kinh Thánh và nhất là Tin Mừng, chúng ta bắt gặp hình ảnh những người mục tử nhân hậu, yêu thương đoàn chiên, hết lòng vì đoàn chiên và hy sinh mạng sống vì đoàn chiên của mình. Đức Giêsu là người Mục Tử cao cả nhất, đã sống trọn vẹn cho lý tưởng ấy.

Thế nhưng, có một điểm cực kỳ quan trọng mà chúng ta ít chú ý: Để là người mục tử nhân lành, trước hết phải là người mục tử can đảm. Điều này thật dễ hiểu. Nếu người mục tử nhân hậu yêu thương mà lại nhút nhát sợ hãi trước uy lực thì làm sao bảo vệ được đàn chiên khi sói rừng xông đến? Xin hãy nhớ can đảm hay dũng cảm là một trong các nhân đức cần thiết cho đời sống người Kytô hữu. Nhưng thế nào là người mục tử can đảm? Thưa đó là người biết lên tiếng khi cần thiết để bảo vệ đàn chiên, bảo vệ Công lý và Hoà bình; đó là người không sợ nguy khó, không sợ mất quyền lực; và đó còn là người dám nói “Có” khi đa số nói “Không” và ngược lại, miễn là điều mình nói là đẹp lòng Thiên Chúa. Sách Khôn Ngoan diễn tả sự khôn ngoan là làm đúng Thánh Ý Thiên Chúa, vậy người mục tử khôn ngoan phải là người mục tử can đảm.

Trong Cựu Ước, Thiên Chúa đã dùng miệng ngôn sứ Isaia để quở trách những mục tử không dám lên tiếng bênh vực cho công lý, cho hoà bình và cho đàn chiên: “Quân canh của chúng: Một lũ đui mù, chúng hết thảy đều vô tri vô giác. Hết thẩy, đàn chó câm, không biết sủa, chúng mê sảng, nằm im thin thít, chỉ thích ngủ lười. Lũ chó háu ăn, không hề biết chán, chúng là mục tử mà chẳng biết để ý: Hết thảy chúng ngả theo đường của chúng, mỗi người với lợi riêng tư nơi xó của mình:  “Lại đây, qua sẽ kiếm rượu, rượu nồng, ta uống tha hồ, Hôm nay sao, mai rồi cũng thế. Còn bộn, còn quá nhiều!”  Người công chính thiệt mạng, mà không kẻ nào bận tâm. Những người nhân nghĩa bị diệt mà không ai màng để ý. Ác đức hoành hành, người lành bị diệt, Nhưng họ sẽ được vào trong an bình.  Họ sẽ thảnh thơi an nghỉ, Những ai dõi theo đường ngay nẻo chính” (Isaia 56, 10; 57, 1-2). Chỉ cần đọc đoạn này thôi, chúng ta thấy rõ ràng khi mục tử câm lặng thì đàn chiên thiệt mạng, bị tiêu diệt còn người gian ác thì cứ nhởn nhơ và tiếp tục vờn bắt đàn chiên nhỏ bé.

Trong Tin Mừng, Đức Giêsu, vị Mục tử nhân lành nhấn mạnh: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên. Người làm thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn, (13) vì anh ta là kẻ làm thuê, và không thiết gì đến chiên. Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi, như Chúa Cha biết tôi, và tôi biết Chúa Cha, và tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên”. (Ga 10,11-18). Chúa Giêsu bảo rằng người Mục Tử nhân lành dám hy sinh để bảo vệ chiên mình.

Suy ngắm và cảm nghiệm Lời Chúa sâu xa, Đức Thánh Cha Benedicto XVI của chúng ta là mục tử nhân lành thực sự. Khi còn là Hồng Y, ngài đã lên tiếng vể những mục tử vì sợ hãi mà câm lặng: "Lời Chúa trong Kinh Thánh và những lời của các giáo phụ như vang lên trong đầu tôi: Kết án nặng nề những mục tử nào làm chó câm để tránh bị phiền toái và vì thế để cho nọc độc lan tràn. Im lặng không phải là bổn phận hàng đầu của người công dân và riêng tôi, tôi kinh sợ cảnh một giám mục chỉ biết an phận, chỉ lo làm sao để tránh phiền phức và lấp liếm xung đột". (trích Muối Cho Đời trang 85). Chính ngài làm chứng cho Lời Chúa và sống điều ngài nói khi ngài luôn lên tiếng để bênh vực sự sống, bênh vực sự thật và sẵn sàng chấp nhận bị oán ghét và chỉ trích bởi những kẻ luôn muốn huỷ diệt mầm sống.

Giáo Hội Việt nam với truyền thống anh dũng của hàng trăm ngàn tiền nhân tử đạo, can đảm làm chứng cho Tin Mừng, chắc chắn cũng có vô số những chủ chăn nhân hậu và can đảm. Đức Tổng Giám Mục Giuse là một trong những chủ chăn mà sự can trường và lòng nhân hậu đã đánh động rất nhiều tâm hồn Kytô hữu. Khi một số người Công giáo, nhất là giới trí thức, đang chán nản trước một vài chủ chăn câm lặng, thì Thiên Chúa gửi Đức Tổng Giuse Hà nội, Đức Cha Tôma Vĩnh Long, Đức Cha Micae Kontum v.v… và các Cha Dòng Chúa Cứu Thế, và nhiều linh mục can đảm khác. Chính các ngài đã làm bừng lên ngọn lửa mà Đức Giêsu đã ném vào thế gian và mong cho bùng cháy lên, ngọn lửa mà Chúa Thánh Linh đã dùng để ngự xuống ngày lễ Ngũ Tuần. Trong khi đó, cũng thấy rải rác đó đây vài chủ chăn nhát đảm, nghe đến Công Lý, Sự Thật là chết khiếp kêu lên: “Ôi làm vậy để làm gì?”!!!

Có một điều khác biệt lạ lùng giữa xưa và nay là thời các ngôn sứ, thời Chúa Giêsu không có các chủ chăn quốc doanh. Các chủ chăn thời ấy có nhu nhược, hèn nhát thì cũng chỉ “lo kiếm rượu rồi tha hồ uống” như Isaia diễn tả, chứ không thấy kiểu chủ chăn hèn hạ chửi mắng đàn chiên, đánh đạp, ăn thịt chiên, thậm chí còn đuổi chiên đi để tiếp đón người có uy quyền. Bây giờ có những chủ chăn hung hăng trước đàn chiên, nhưng lại nhu nhược trước bất công và bạo lực. Tôi đã thấy có những chủ chăn hời hợt nói cười tâng bốc các thế lực nhưng lại sẵn sàng đuổi chiên Chúa đi, họ sẵn sàng nghe và làm theo lời người chống đối Thiên Chúa nhưng lại quay lưng trước các vấn nạn của dân Thiên Chúa. Có những chủ chăn mà “người có quyền” bảo nói cái gì, đọc cái gì trong Thánh Lễ thì cũng nói, cũng đọc cho cộng đoàn nghe hết, không nghĩ điều ấy làm xúc phạm đến dân Chúa, nhưng khi giáo dân góp ý thì hét lên: “Có giỏi thì lên đó mà giảng”!

Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, chúng con sắp mừng lễ Chúa là Mục Tử nhân lành, xin Chúa biến đổi lòng các mục tử mà Chúa đã chọn, để khi các ngài loan báo Tin Mừng thì các ngài cũng can đảm bảo vệ đoàn chiên Chúa và dám lên tiếng vì Công Lý và Sự Thật. 

Gioan Lê Quang Vinh

VỀ MỤC LỤC

TÔN GIÁO LÀ TẤM LÒNG NHÂN ÁI VỊ THA .

  

Tôi sinh trưởng trong một gia đình nông dân bên bờ đê sông Hồng thuộc miền đồng bằng Bắc Việt, trong tỉnh Nam Định. Dòng họ nội ngọai nhà tôi đều đã nhiều đời theo đạo công giáo. Mà ông nội tôi lại là một ông thầy đồ dậy chữ nho, nên trong gia đình chúng tôi vẫn còn giữ được cái truyền thống “gia phong gia đạo” do ông bà để lại. Cha tôi là con trưởng, mà mẹ tôi cũng là trưởng nữ của ông bà ngọai, cho nên hai ông bà đều chú tâm đến công việc của cả dòng họ, chứ không phải chỉ chăm lo riêng cho gia đình riêng của mình.

Vì ông nội tôi mất khi tôi mới được 5-6 tuổi, nên tôi chẳng hề được học một câu chữ nho nào của cụ. Tuy vậy, tôi vẫn thấy trong gia đình chúng tôi, thì ai nấy vẫn thường được cha mẹ rèn cặp chỉ bảo theo đường lối lễ giáo đã ăn rễ sâu trong nhiều thế hệ các gia đình ở miền thôn quê từ thuở xa xưa. Tôi vẫn còn nhớ lời cha mẹ hay nhắc nhủ lũ anh chị em chúng tôi đại khái như : “Giấy rách giữ lề”, “ Trai thì trung hiếu làm đầu, Gái thì tiết hạnh làm câu sửa mình”, “Đói cho sạch, rách cho thơm”,” Thà chịu nghèo chứ không chịu hèn “, “ Thương người như thể thương thân” v.v… Nói chung thì cuộc sống tại miền quê hồi trước năm 1945 thường là êm đềm, lương hảo, bà con thân tộc cũng như người cùng trong lối xóm luôn đày tình nghĩa tương thân tương trợ, cưu mang giúp đỡ lẫn nhau. Làng tôi hồi đó có chừng 100 gia đình theo đạo công giáo cũng như theo đạo Phật, nên có cả nhà thờ, có cả chùa. Đặc biệt lại còn có cả một ngôi đình làng nữa. 

Mẹ tôi chẳng biết đọc, chẳng biết viết chữ quốc ngữ. Nhưng bà lại có trí nhớ rất tốt, bà thuộc làu kinh sách và nhất là ca dao tục ngữ. Bà thường dậy các con theo lối “truyền khẩu” như trong lối giáo dục ngàn xưa của cha ông chúng ta. Nhưng quan trọng nhất là cả hai bố mẹ chúng tôi đã để lại tấm gương trong sáng của sự lương thiện và tấm lòng nhân ái đối với bà con thân tộc, cũng như với mọi người trong xóm làng. Thật đúng như lời nhắc nhủ “ Dĩ thân nhi giáo”, tức là đem cái nhân cách, cái gương sống động của chính bản thân mình ra mà truyền lại cho con cháu, hơn là chỉ dùng lời nói suông. Cụ thể như là cứ vào dịp Mùa Chay trước Lễ Phục sinh, thì mẹ tôi năm nào cũng tổ chức kêu gọi bà con nghèo túng trong làng tới để nhận lãnh mỗi gia đình một vài ký gạo, vì vào lúc đó thì phần đông đã cạn hết thực phẩm. Mẹ tôi dặn là : Các con phải tần tiện, nhịn ăn nhịn tiêu để còn dành dụm chia sớt cho bà con đang túng thiếu; có như vậy thì mới đúng là “nhường cơm sẻ áo” giúp bà con gần gũi với mình.

Nhà tôi có cái rủi, mà sau này lại thành cái may. Đó là trường hợp xảy đến cho bà chị cả chúng tôi; chị bị tật nguyền thành người câm điếc ngay sau một cơn sốt nặng hồi mới lên ba tuổi. Khỏi phải nói là cha mẹ tôi rất buồn phiền vì cái tai nạn đối với người con gái đầu lòng như vậy. Nhưng may mà chị tôi lại được nhận vào trại người câm điếc tại thị xã Thái bình do mấy nữ tu thuộc nhà dòng Saint Vincent de Paul đảm trách. Và chính tôi vào lúc 9-10 tuổi, thì cũng được gửi vào sinh sống tại cơ sở này mà hồi đó có tên là “Asile Saint Joseph”; tôi ở chung trong khu nam giới với mấy anh câm điếc.. Tại cơ sở này, ngòai ngưới câm điếc nam nữ ra, lại có cả các con lai mà người cha là lính trong quân đội Pháp, kể cả người gốc Phi châu da đen, và mẹ là người Việt nữa. Phần đông các anh chị này là bị cha mẹ bỏ mặc cho mấy ma soeur chăm sóc, chứ ít khi có ai trong gia đình đến thăm viếng hay tiếp tế cho. Thành ra ngay từ hồi còn nhỏ tuổi, tôi đã đích thân được chứng kiến sự chăm sóc của các nữ tu này đối với những con người tật nguyền hay mồ côi bị gia đình ruồng bỏ như thế. Đây rõ rệt là sự biểu lộ của tình nhân ái, lòng xót thương đối với đồng lọai theo đúng như giáo huấn của giáo hội công giáo là : “ Mến Chúa thì phải Yêu Người”.  

Rồi khi đến tuổi trưởng thành, thì tôi đã dấn thân vào các lọai công tác xã hội, cụ thể như  cùng với nhiều bạn hữu khác tham gia vào công cuộc cải thiện nếp sống của tầng lớp người kém may mắn tại khu vực các quận 6,7,8 ngọai ô thành phố Saigon từ năm 1965, lúc tôi bắt đầu vào cái tuổi “tam thập nhi lập” trở đi. Trong mấy năm làm việc tại chương trình phát triển ở địa phương này, tôi được dịp cộng tác với các vị giới chức, tu sĩ và tín đồ bên Phật giáo, Công giáo cũng như Tin lành. Tất cả đều hết lòng ra tay giúp đỡ những nạn nhân chiến cuộc, đặc biệt là những gia đình bị mất nhà cửa  trong vụ tấn công hồi Tết Mậu thân 1968. Điển hình như Thầy Thích Tắc Thành tại chùa Đông Phước, phường Bình Đông quận 7, Linh mục Nguyễn Huy Chương tại nhà thờ Rạch Cát quận 7, Linh mục Hòang Quỳnh tại nhà thờ Bình An quận 8, Sư Bà Thích Như Thanh chùa Huê Lâm quận 6, Thầy Thích Tâm Quang ở Phú Lâm, Soeur Nicole trường Nữ Vương Hòa Bình quận 3 v.v… Các tu sĩ này đặc biệt chăm lo việc mở phòng khám bệnh, phát thuốc, mở các lớp học, lớp dậy nghề cho các học viên nam, nữ tại địa phương; đồng thời cũng giúp vận động bà con tham gia công việc chỉnh trang tái thiết tại các xóm hẻm như đặt đường cống thóat nước, xây cất cầu bắc qua các kinh rạch, và nhất là xây dựng lại nhà cửa bị phá hủy tại 20 khu tái thiết trong cả 3 quận ven biên này  vốn bị tàn phá nặng nề, vì là cửa ngõ cho sự xâm nhập của quân đội cộng sản vào thành phố qua ngả Long An, Rạch Kiến, Cần Giuộc…

Về phía cơ quan từ thiện xã hội ngọai quốc mà hay yểm trợ cho công tác phát triển và xây dựng nói trên, thì phải kể đến cơ quan CARE, tổ chức Xã Hội Tin Lành Việt Nam (VNCS Vietnam Christian Service), tổ chức Xã Hội Tin Lành Á châu (ACS Asian Christian Service), cơ quan Cứu Trợ Công giáo Mỹ ( CRS Catholic Relief Service), Tổ chức Quaker Mỹ và Anh, Adenauer Foundation của Đức v.v… Như vậy là phần lớn các cơ quan từ thiện nhân đạo này cũng đều xuất phát từ các tổ chức tôn giáo. Vì chương trình phát triển chúng tôi là một tổ chức tự nguyện của giới thanh niên, sinh viên Việt nam, hòan tòan độc lập chứ không lệ thuộc vào chính quyền hay một tổ chức chính trị hay tôn giáo nào, nên anh chị em chúng tôi cứ thỏai mái tiếp xúc và hợp tác với bất kỳ cơ quan, tổ chức đòan thể hiệp hội nào, dù là bản xứ hay ngọai quốc, kể cả cơ quan viện trợ cùa chánh phủ Mỹ USAID.

Xuyên qua các họat động nhiều năm tại Saigon như vậy, mà tôi được Hội Đồng Tôn Giáo Thế Giới (WCC World Council of Churches) tại Geneva chú ý đến và mời tham gia cộng tác với họ vào các năm 1972-74  trong chức vụ Giám đốc Văn phòng Nghiên cứu và Liên lạc tại Saigon ( Saigon Research & Liaison Office). Trong cương vị này, tôi có điều kiện thấu hiểu cặn kẽ hơn về sự dấn thân nhập cuộc của tôn giáo trong các sinh họat đa dạng và phức tạp của xã hội hiện đại trong bối cảnh của cuộc chiến trạnh lạnh giữa hai khối cộng sản và tư bản. Tôi sẽ có dịp viết chi tiết hơn về cái kinh nghiệm này vào một dịp khác. Riêng trong bài này, tôi muốn trình bày về khía cạnh nhân ái vị tha của các tôn giáo mà tôi có dịp tham gia cộng tác với các tu sĩ cũng như tín đồ, trong suốt trên 40 năm họat động xã hội sôi nổi, miệt mài của tôi ở Việt nam giữa thời chiến tranh tàn khốc, cũng như tại nước Mỹ thanh bình mà tôi đã đến định cư từ trên 10 năm nay.

Xin ghi lại một số kỷ niệm vui buồn với anh chị em học viên Trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội tại Khu Chùa Lá, Phú Thọ Hòa Gia Định. Đây là cơ sở đào tạo cán sự xã hội của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. Học viên là các tu sĩ và Phật tử, cả nam lẫn nữ. Vào giữa năm 1967, tôi có dẫn một vị giáo sư người Hoa từ Hongkong qua thăm cơ sở này, thì gặp đúng lúc trường đang ủ rũ đau buồn vì cái tang tóc xảy ra mấy bữa trước do kẻ lạ mặt thảy lựu đạn vào phòng học của các học viên vào ban đêm, khiến cho một cô giáo và một học viên bị sát hại và nhiều người khác bị thương. Thầy Thích Thanh Văn, Giám Đốc của trường với gịong trầm buồn nói với chúng tôi là mọi người tại đây đang quá xúc động trước tai nạn thảm khốc này, nhưng vẫn quyết tâm theo đuổi việc học tập để sau này có thể phục vụ xã hội tốt đẹp hơn. Và sau này, tôi đã có dịp hợp tác với các học viên này tại nhiều nơi, đặc biệt là ở vùng Quảng Trị, Gia Định, Biên Hòa, Bà Rịa, Long Khánh trong nhiều năm cho đến 1975 khi trường bị giải thể. Ngay giữa thời chiến tranh mà vẫn có những người trẻ tuổi hăng say với công tác xã hội,tận tâm tận lực chăm sóc cho các nạn nhân chiến cuộc, ngay tại các vùng mất an ninh. Và họ đã bị nhiều lần bị sát hại, mà chỉ sau năm 1975, thì người ta mới có thể biết rõ kẻ chủ mưu là ai.

Ngòai bên Công giáo và Phật giáo ra, tôi cũng còn có nhiều cơ hôi gặp gỡ và sát cánh với các giới chức và tín đồ thuộc các tôn giáo khác như Tin Lành, Cao Đài, Phật Giáo Hòa Hảo. Nói chung, thì tôn giáo nào cũng tham gia cụ thể vào các họat động nhân đạo từ thiện ngay từ cấp hạ tầng cơ sở tại miền quê hẻo lánh, cũng như tại các xóm hẻm lầy lội nơi các thành phố. Cụ thể như tại miệt Long Xuyên nơi thánh địa của Phật Giáo Hòa Hảo, vào cuối năm 1966, tôi có dịp tới tham gia với anh em sinh viên trong việc giúp làm nhà cho các gia đình nạn nhân vụ lũ lụt tại Cù lao Ông Chưởng, thì chúng tôi được sự hỗ trợ rất nhiệt tình của các giới chức và tín đồ tại đây. Nhờ vậy mà công tác cứu trợ được hòan thành tốt đẹp.Rồi khi ở trong tù tại Hàm Tân vào năm 1994-95, tôi cũng gặp một số tù nhân chính trị là tín đồ Hòa Hảo như các Anh Võ Thành Sắc, Nguyễn Văn Sâm, ai nấy đều tỏ ra là người có nhân cách đàng hòang, chững chạc. Về phía bên Cao Đài cũng vậy, tôi cũng gặp nhiều chức sắc và tín đồ rất ngoan đạo và hăng say với chuyện xã hội từ thiện, mà điển hình như Ông Muời Thơ ở phường Hưng Phú, quận 8, Cô Sáu (là em của nhà bác học Nguyễn Ngọc Bích) tại Thánh Thất Cao Đài đường Hậu Giang, quận 6 Saigon. Cả hai vị này đều rất tích cực trong việc đời cũng như việc đạo tại địa phương. Và tại nhà tù Hàm Tân, thì tôi cũng rất gần gũi với các Anh Phan Văn Phần gốc ở Long Hoa, Tây Ninh, Nguyễn Văn Bá từ Sadec, tất cả đều là tín đồ Cao Đài thuần thành, mà là tù nhân chính trị lâu năm. Anh em tù nhân chính trị chúng tôi ở Hàm Tân hồi đó thì rất gắn bó, tương thân tương trợ với nhau. Thật là một kỷ niệm sâu đậm ngay trong thời gian còn ở trong nhà tù cộng sản ở Việt nam. Trước 1975, tôi cũng có dịp đế thăm Viện Đại Học Cao Đài ở Tây Ninh và cũng đang tìm cách giới thiệu móc nối Đại học này với một vài Đại học ngọai quốc. Nhưng tiếc thay, việc chưa kịp làm, thì đã đến 1975 đưa đến việc cơ sở này bị giải thể, cũng như bao nhiêu cơ sở giáo dục của các tôn giáo khác nữa.

Theo truyền thống văn hóa đạo đức Á đông của cha ông ta, thì người quân tử phải có đày đủ ba tính cách, đó là Nhân, Trí và Dũng. Tức là phải có lòng Nhân ái, biết yêu mến quý trọng đối với mọi người trong nhân quần xã hội. Rồi phải có sự trau dồi trí tuệ, học hỏi cho nắm vững được cái vốn liếng hiểu biết khoa học kỹ thuật, hầu có thể theo kịp được với sự tiến bộ của thời đại. Và hơn nữa, lại phải có sự dũng cảm, nhẫn nại bền chí để tranh đấu cho công lý và lẽ phải, để còn bênh vực cho những người bị kẻ có quyền thế chèn ép hiếp đáp. Mà qua các sự việc cụ thể đã trình bày ở trên, thì ta thấy rõ ràng là : Tôn giáo đã và còn tiếp tục thể hiện được tinh thần nhân ái, bao dung đối với con người trong xã hội hiện đại. Và tôn giáo cũng luôn nhẫn nại bền chí trong công cuộc phục vụ nhân sinh : đó là tính cách dũng cảm, sự đảm lược của người quân tử vậy. Còn về phần trí tuệ, thì như ta có thể thấy được ngay bên Âu Mỹ này, hiện có biết bao nhiêu cơ sở đại hoc và viện nghiên cứu, các bệnh viện mà đều xuất phát từ các tổ chức tôn giáo.

Nói vắn tắt lại, thì trong một thể chế dân chủ đa nguyên như ở tại các quốc gia Âu Mỹ hiện nay, thì các tổ chức tôn giáo được tự do sinh họat và phát triển trong khuôn khổ của lãnh vực Xã hội Dân sự. Và do đó mà có thể đóng góp lớn lao cho sự an vui, hạnh phúc của con người trong xã hội. Điển hình như tại nước Mỹ hiện nay, thì các tôn giáo đã chiếm đến 60% trong số cả triệu các tổ chức phi chánh phủ (non-governmental organizations), cũng như trong số trên 3 triệu các nhóm nhỏ (small groups). Và họ hoạt động rất hiệu quả trong các chương trình xã hội được gọi là “Faith-based Social Action”. Hơn thế nữa, tôn giáo lại còn kết hợp với giới hàn lâm đại học trong các việc đào tạo huấn luyện và nghiên cứu ở mức độ chuyên môn cao, được coi như sự “Hợp tác giữa Tôn giáo và Đại học” (Cooperation between Churches and Academy). Một bên có Tâm hồn, có Lòng Nhân Ái, có sự Bền chí Hy sinh. Còn một bên có sự thông tuệ, sự tìm kiếm miệt mài, sâu sắc về các ngành khoa học kỹ thuật. Mà hai bên kết hợp chân thành và bền chặt với nhau, thì chắc chắn là sẽ thành công vững bền trong sứ mệnh phục vụ nhân quần xã hội ngày nay vậy. Bởi lẽ sự kết hợp đó sẽ thực hiện được cả 3 vế của cái phương trình :   “ Think globally + Act locally + Love totally” ( Suy nghĩ tòan cục + Họat động cụ thể trong tầm tay + Yêu thương trọn vẹn).

Sự kết hợp nhuần nhuyễn như vậy mà có cơ được thực hiện tại quê hương đất nước chúng ta, thì chắc chắn sẽ là niềm hy vọng tươi sáng chứa chan cho dân tộc Việt nam trong một tương lai sắp đến vậy./ 

California, Tháng Tư 2009

Luật sư Đoàn Thanh Liêm

VỀ MỤC LỤC
THÁNH PHAO LÔ GIẢNG DẠY VỀ “TÍNH DỤC” VÀ “HÔN NHÂN” VÀ PHONG TRÀO CHỐNG “PHÁ THAI” TẠI HOA KỲ

NĂM THÁNH PHAO LÔ TÔNG ĐỒ 2008-2009 

Ngay sau khi tuyên thệ nhậm chức Tổng Thống thứ 44 tại Hoa Kỳ, T.T Barach Obama,  một cách “âm thầm”, đã bãi bỏ sắc lệnh của các vị tiền nhiệm như R.Reagan và G.Bush cấm dùng tiền thuế của nhân dân Hoa kỳ viện trợ cho ngọai quốc vào việc phá thai. Và ngày 3/ 09/ 2009, ký sắc lệnh cho thi hành việc “nghiên cứu tế bào gốc” (embryonic stem cell research), tức là tiêu hủy các bào thai để lấy tế bào gốc, dùng vào việc thí nghiệm. Các sắc lệnh này đã bị T.T G.Bush cấm thi hành, cấm lấy tiền trợ cấp của Quĩ Liên Bang.

Tại Thủ đô Hoa Thịnh Đốn, sau ngày Lễ Tuyên Thệ nhậm chức Tân Tổng Thống, đã diễn ra một cuộc Tuần hành vĩ đại trước Quốc hội và tòa Bạch ốc, để biểu dương lực lượng và ý chí chống lại các kế họach hay đạo luật “cho phép phá  thai”. 

Đối với Hội Thánh Công Giáo ROMA, Tòa Thánh Vatican tỏ ý e ngại về lập trường ủng hộ phá thai của tân chính phủ Hoa Kỳ,  nhưng trong Thư Chúc Mừng Tân Tổng Thống , ĐGH Biển Đức XVI đã kỳ vọng về chính sách mới của Hoa Kỳ đối với những vấn đề quốc tế như: hòa bình tại Trung Đông, hòa giải với khối Ả Rập, tìm căn nguyên gây nên  “Khủng Bố”, và giảm thiểu sự cách biệt giữa các Nước Giầu và các Nước Nghèo, v.v.  

Trong bài tiểu luận này, trước hết,Đọan ( I) xin nhắc lại một số biến cố thời sự, cũng như một số tài liệu quan trọng của Tòa Thánh, của HĐGM. Hoa Kỳ, phản đối lập trường cho phép tự do phá thai,  gọi là”(FOCA: Freedom Of  Choice Act”) 

Trong Đọan (II), cần tìm hiểu Giáo Thuyết của THÁNH PHAOLÔ TÔNG ĐỒ, đã giảng dạy về bản năng” Tính Dục của Con Người”(Human Sexuality), và Giáo thuyết này đã làm nền tảng cho nền Luân Lý của Hôn Nhân, Gia đình và đời sống Thánh hiến trong bậc Tu trì, Độc thân. Những Giáo Huấn này sẽ soi sáng cho nhân lọai biết ý định, kế họach của Đấng Tạo Hóa, khi dựng nên con Người, và phú thác cho Con Người bản năng Truyền Sinh, để Nhân Lọai được phát triển, tồn tại và lan tràn khắp mặt đất 

I./ TÌM HIỂU LÂP TRƯỜNG TỰ DO PHÁ THAI:” FOCA” là gì? 

Trong bối cảnh chính trị, kinh tế, xã hội của chính quyền mới tại Hoa Kỳ , đầy sóng gió, thay đổi, xáo trộn trong thị trường tài chánh, thất nghiệp, ngân quĩ thiếu hụt, lưu truyền  nợ cho đời con đời cháu(generational theft)...Thêm vào những lo âu về tài chánh, người dân Hoa kỳ còn phải chứng kiến và đối phó với những giải pháp quân sự của chính quyền mới đối với chiến tranh Trung đông, Irak, Iran, Bắc hàn. Đặc biệt HĐGM Hoa Kỳ  rất ưu tư về lập trường mới đi ngược lại những thành quả đã đạt được trong nhiều năn qua, về Phong Trào “BẢO VỆ Sự SỐNG”(Pro-Life) của Giáo Hội., chẳng hạn, gần đây , ngày 03/02/09, T.T.Obama đã chỉ định Bà Thống Đốc Tiểu Bang Kansas, Kathleen Sebelius,( đã bị cấm không được Rước Lễ, vì công khai ủng hộ lập trường”Pro Choice”, từc là tự do Phá thai), bà này được mời làm Bộ Trưởng Bộ HHS(Health, Human Services), tức sẽ giúp chính phủ mới cải tổ về Y tế. Ngòai ra, Phó T.T Joe Biden, và Phát Ngôn viên Quốc Hội Hoa Kỳ(Speaker of the House), Bà Nancy Pelosi, cũng là những nhân vật”Pro Choice”. T.T Obama sẽ sửa lại luật, bắt các y sĩ, y tá phải phá thai theo lời yêu cầu, nếu từ chối, sẽ vào tù, mặc dầu việc phá thai trái với Tín Ngưỡng và Lương Tâm,  không cho phép làm .

Vì tính chất nghiêm trọng của vấn đề”Bảo Vệ Sư Sống” của con người, vì lập trường cương quyết của HĐGM Hoa kỳ đã lên tiếng cảnh giàc chính quyền mới về lập trường”Pro Choice”, nên  cần tìm hiểu: “FOCA “là gì? Những ác quả nó sẽ gây ra cho xã hội, gia đình, cá nhân như thế nào, trong tình trạng suy thóai kinh tế hiện nay. 

Trước hết, các thống kê cho biết: từ khi đạo luật cho phép phá thai ban hành cách đây 36 năm(1973), đã có 48 triệu thai nhi bị giết từ trong trứng nước”. Nhờ những cuộc vận động quần chúng đối với các cấp Chính quyền cấp Tiểu Bang và Liên Bang, nhờ những lời kêu gọi thiết tha của Hàng Giám Mục, như GM Charles Chaput, Denver: 

“ Hỡi các bậc phụ huynh đã giết các thai nhi, quí vị sẽ phải giải thích thế nào cho các nạn nhân, khi gặp họ trong kiếp sống mai hậu? 

Ngày nay,  con số phá thai, ngày càng giảm sút nhiều. Chẳng hạn, một số luật hạn chế phá thai được ban hành như: phải báo cáo cho các vị phụ huynh biết; nếu dưới 18 tuổi, cần phải được giải thích về những ác quả của việc phá thai. Ngòai ra, dùng kĩ thuật “siêu thanh”(ultrasound technology), giúp các bà mẹ đang mang thai nhìn thấy hình ảnh con mình sống động mà trạnh lòng trắc ẩn, xót thương. Hơn nữa, mọi người đều ghê sợ, khi chứng kiến những cảnh phá thai từng phần, chặt thai nhi ra từng phần, vào thời kì sau cùng(late-term abortions, and partial birth control), rồi hút các mảnh bào thai ra. 

 “FOCA” là gì? 

1./ FOCA là viết tắt của câu:” Freedom Of Choice Act”, tức “Luật cho Tự Do Chọn Phá Thai”.  Dự Luật này, năm 1989 đã được Sen. Alan Cranston(D-CA) và Rep.Dan Edwards(D-CA) khởi xướng. Dự luật nhằm mục đích củng cố Luật cho Phá thai Roe v..Wade. Nhưng vào thời điểm đó, không được ủng hộ, và có thể bị “phủ quyết(Veto). Nhưng ngày nay với chính quyền mới, T.T Obama đã hứa, nếu thắng cử, sẽ ký Dự Luật đó, và với một Quốc hội gồm đa số Nghị viên khuynh tả, nên dân chúng rất e ngại, Dự luật này có thể sẽ được chấp thuận để thi hành.  

Nếu Dự Luật này được thi hành, thì  sẽ đem đến những ác quả tệ hại  như: bãi bỏ các biện pháp giúp ngăn ngừa hay giảm thiểu các vụ phá thai, đã đề cập ở trên. Các biện pháp ngăn ngừa phá thai sau đây, sẽ bị bãi bỏ: 

-50 tiểu bang không buộc phải tường trình bá cáo về những vụ phá thai; 44 tiểu bang không cần hỏi ý kiến phụ huynh, khi con em muốn phá thai; 40 tiểu bang không còn hạn chế luật cấm phá thai vào “giai đọan chót”; 46 tiểu bang bãi bỏ luật bảo vệ Lương Tâm của những cá nhân cung cấp dịch vụ y tế, sức khỏe; 27 tiểu bang bải bỏ luật bảo vệ Lương tâm của các Đòan thể, Hiệp hội chống phá thai; 38 tiểu bang bải bỏ luật cấm phá thai từng phần(partial-birth abortions); 33 tiểu bang bãi bỏ luật buộc phải tham khảo ý kiến trước khi phá thai; 16 tiểu bang bải bỏ luật dùng siêu âm(ultrasound), trước khi phá thai. Nói tóm lại, nếu dự luật FOCA được thi hành, thì chính quyền liên bang sẽ dùng quyền bãi bỏ tất cả các luật dự trù để giảm thiểu các vụ phá thai tại tiểu bang. Chẳng những trong nước Mỹ, chính phủ còn dùng tiền thuế của dân để tài trợ chính sách phá thai của ngọai quốc, như hiện nay tại Trung Cộng. Thật sự, FOCA còn tệ hại hơn cả Luật cho phá thai Roe(coi:www.usccb.org/prolifefFOCAanalysis.pdf.) Chẳng hạn như: 

-FOCA sẽ vô hiệu hóa Luật bảo vệ người nữ tại những y viện phá thai thiếu an tòan, và giúp họ hiểu biết về những hậu quả của việc phá thai.

-FOCA sẽ đòi hỏi những người dân đóng thuế, phải trả tiền phí tổn về phá thai

-FOCA buộc các tiểu bang phải cho phép “phá thai từng phần”, “phá thai thời kì gần sinh”

-FOCA buộc các tiểu bang cho phép những người không phài “y sĩ”(non-physician) được làm việc phá thai

-FOCA sẽ bãi bỏ luật bảo vệ quyền của Lương Tâm phản kháng việc phá thai

-FOCA không chấp nhận phụ huynh được can dự vào quyết định của người con gái vị thành niên. 

2./ Đối với các  Tín Hữu là Công dân Hoa kỳ, trong tình thế suy thóai về kinh tế, nạn thất nghiệp lan tràn, gây xáo trộn cho nền an ninh quốc gia, HĐGM Hoa Kỳ, trong nhiều Giáo Phận, như Giám Mục James V.Johnston,  Giáo Phận Springfield-Cape Girardeau, đã kêu gọi các giáo dân, học hỏi về lập trường của các ứng cử viên vào Quốc Hội, đối với các vấn đề liên quan đến SỰ SỐNG của con Người. ĐHY TGM Chicago, Chủ Tịch HĐGM Hoa Kỳ tuyên bố: 

“Trực tiếp và hữu ý phá hủy sự sống con người vô tội, từ khi thụ thai đến cái chết tự nhiên, là một sai trái..cần phải luôn luôn chống lại” 

-Ngày Feb, 6, 2009(Zenit.org), ĐHY.Justin Rigali, Chủ tịch Ủy ban các họat động Bảo vệ Sự Sống của HĐGM Hoa kỳ đã viết:

”Các nhà lập pháp không đồng ý về tình trạng pháp lý của việc phá thai, nói rằng: người dân Hoa Kỳ sẽ không bị chính phủ ép buộc giúp đỡ hay tham dự vào việc phá thai trái nghịch với ý muốn của họ....Trong một xã hội thường có vẻ bị chia rẽ giữa các giá trị của việc”cho phép lựa chọn” (ProChoice)và “phò đời sống” (Pro Life), người ta dễ thỏa thuận rằng: chúng ta phải tôn trọng Lương Tâm của các phụ nữ có thai và Lương Tâm của các giới chức y tế muốn lưa chọn SỰ SỐNG”  

Vì tính chất nghiêm trọng của vấn đề “BẢO VỆ SỰ SỐNG của Con Người,” ước mong các Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam, nay đã trở thành những Công dân Hoa Kỳ, nhiệt liệt hưởng ứng lời kêu gọi của HĐGM Hoa Kỳ , để học tập, và tham gia vào Phong Trào Bảo Vệ Sự Sống (Pro-Life Movement)của  Hội Thánh 

Sau đây, để giúp chúng ta hiểu rõ hơn Giáo Huấn của Hội Thánh, đặc biệt trong Năm Thánh Phao Lô Tông Đồ, chúng ta sẽ học hỏi  Giáo Thuyết của Thánh Nhân đối với Luật Luân Lý của Gia Đình Công Giáo, trong đó, Ngài đã diễn giảng về ý nghĩa của”Tính Dục Nhân Lọai”(Human Sexuality), trong đời sống Độc thân, Tận Hiến, Hôn Nhân, đời sống Vợ- Chồng, tội lọan luân,(inceste)  “đồng tính”(homosexuality) 

II- GIÁO THUYẾT của THÁNH PHAOLÔ về “ TÍNH DỤC NHÂN LỌAI” 

-Dưới đây, không thể trình bày đầy đủ Giáo Thuyết của Thánh Phao Lô Tông Đồ đã dùng những Lá Thư Mục Vụ, để giảng dạy các Giáo đòan thời Hội Thánh Sơ Khai, về Nhiệm tích Hôn Nhân, về Luân Lý Gia đình, như vẫn thường được nghe diễn giảng trong các Thánh Lễ Hôn Phối. (coi:1 Cor:7) Thánh Nhân trình bày về luật: “Nhất Phu, nhất Phụ”(Rom 7:2 ; tội ngọai tình, luật tái giá: (coi: Rom 7:3; 1 Cor 7:10-11; 1Cor 7:39)

Ngòai ra, Thánh Nhân không bàn đến những  tội ác chống lại “Văn Hóa Sự Sống”, như phá thai, thuốc ngừa thai,”nghiên cứu tế bào gốc”..chỉ mới xuất hiện vào thời đại của “Văn Hóa Sự Chết”. Tuy nhiên, học hỏi quan niệm của Thánh Nhân về nguồn gốc của “ Tính Dục Nhân Lọai”, về ý nghĩa thánh thiêng của Hôn Nhân, của việc Sinh sản con cháu.. cũng giúp ta nhận định một cách chính xác , thích hợp với Giáo Huấn của Hội Thánh Công Giáo, chống lại những tội ác lạm dụng, hay làm sai lạc mục đích của “tính dục”, do Thiên Chúa đã an bài xếp đặt. 

1-THÁNH PHAO LÔ THEO” LUÂN LÝ TỰ NHIÊN”DO ĐẤNG TẠO HÓA LẬP RA.

Về Nguồn gốc của “Tính Dục Nhân Lọai”, Thánh Nhân cũng diễn giảng như Chúa Cứu Thế, nghĩa là căn cứ vào Sách Kinh Thánh, khi Thiên Chúa dựng nên Người Nam, Người Nữ ( Ông Adong, Bà Evà), và cho kết hợp với nhau nên”Nhất Phu Nhất Phụ”; do đó, cấm ly dị, phải trung thành với nhau đến trọn đời. “Vì điều gì Thiên Chúa đã liên kết, lòai người không được phân li”(Coi:Matt 5:31-32; Mark 10:11-12; Luke16:18). 

Cần nhấn mạnh mấy điều  quan trọng: 1/ Theo Giáo thuyết của Chúa Cứu Thế, và Thánh Phao Lô Tông Đồ diễn giảng, về Hôn Nhân, cấm Li Dị, có điểm khác biệt với Đạo Do Thái, vì theo Luật MaiSen, người ta được phép Li Dị; 2/ Nhưng Thánh Phao lô cho phép “Li Thân”(separation). Luật Li thân này không thấy trong Luật MaiSen, nhưng có trong Luật Roma; 3/ Ngòai ra, Hội Thánh Công Giáo, ngày nay vẫn còn thi hành Luật trừ, gọi là”Đặc Ân của Thánh Phao Lô”( the Pauline privilege). Đây là Luật Thánh Nhân cho phép, như một “nố trừ”( exception): (Coi: 1Cor 7:12-16) và Giáo Luật( can:1141-1147) . Thực ra, đối với Hội Thánh, không phải là cho phép “Li Dị”, nhưng là tuyên bố cuộc Hôn Nhân “không thành(invalid), vô hiệu”( nullity), trong trường hợp, hai người không-Công Giáo lấy nhau, sau đó, một trong hai người trở lại Công Giáo, chịu Phép Rửa tội, mà người kia không theo Đạo, không bằng lòng, gây bất bình trong gia đình, bỏ ra đi, và còn  chống lại Đạo.

(Chú ý: nếu muốn hiểu biết rộng hơn về”Đặc Ân Thánh Phao Lô”, cần theo các buổi học về Giáo Lý của Hội Thánh), 

-Thánh Phao Lô Tông Đồ coi việc “giao hợp trong đời sống Vợ-Chồng” là điều Thiện Hảo. Nhưng việc “giao hợp” giữa vợ chồng, không được dùng như “khí giới” chống lại nhau, khi có sự bất hòa. Việc kiêng cữ đôi lúc cũng xứng hợp vì lí do để cầu nguyện, hay đôi bên cùng đồng thuận( Coi:1Cor 7:5-6)  

2-Qua những lời Giáo Huấn của Thánh PhaoLô, đã trình bày những nét cốt yếu như trên, trong bối cảnh Văn Hóa Á Đông và đặc biệt trong Văn Hóa Việt Nam, ta thử đối chiếu xem có những điểm tương đồng hay khác biệt nào. Nhờ sự  đối chiếu và so sánh, ta sẽ nhận thấy giá trị đạo đức  luân lí cổ truyền Việt Nam, trong quan niệm về Hôn Nhân, Tính Dục, Li dị, đổng tính, trinh khiết, chung thủy giữa Vợ-Chồng, sinh đẻ con cháu....có nhiều điểm rất gần với những lời Giáng dạy của Thánh Nhân, vì cùng theo Luật Tự Nhiên(Natural Laws), nghĩa là Luật do Tạo Hóa đã khắc ghi trong tâm khảm của con người, bất cứ ở đâu, trong mọi thời đại. 

- Văn Hóa Việt Nam có câu: “có ÂM-DƯƠNG, có VỢ-CHỒNG”, nghĩa là trong trời đất này , nguyên lý ÂM và DƯƠNG vận hành một cách Hòa Hợp, Quân Bình, do Đấng Hóa Công tạo dựng và an bài xếp đặt: những cặp Song –Đối, đắp đổi lẫn nhau, hòa hợp với nhau để sinh sôi nẩy nỡ như: ngày-đêm, nóng –lạnh, sáng –tối, con đực-con cái, nhị đực-nhị cái..và gồm cả Nhân Lọai, tuy là”Linh ư vạn vật” vì có “Hồn Thiêng bất tử”, Trí Khôn, Tình cảm, nhưng không thóat khỏi Luật “Âm –Dương= Vợ-Chồng”. Nhân Lọai, cũng như lòai cầm thú, thảo mộc.. đều sinh sản ra từ “hạt trứng”, do tác động hỗn hợp của Âm-Dương, mà thành con gà hay con Người..

Do đó, mới có những câu ca dao rất ý nghĩa, chống lại ý tưởng sai lầm, coi thai nhi do máu huyết của bố mẹ tác thành như: “cục thịt”dư thừa, vô hồn, muốn cắt xén, vứt bỏ, tùy ý. Đó là tội sát nhân, như những câu tục ngữ minh chứng:  

“Giết Người từ trong “trứng nước” 

-“Trứng rồng lại nở ra rồng

Hạt thông lại nở cây thông rườm rà”

cha mẹ mới có ta,

Làm nên là bởi mẹ cha vun trồng” 

3-Triết lý về”TỰ NHIÊN, THIÊN NHIÊN”, như “Luật Tự Nhiên”(Natural Law), Trang tử đã có một định nghĩa thật sâu sắc: 

Trời ở bên trong, người ở bên ngòai(..) Bò ngựa bốn chân, đó là Trời, khớp đầu ngựa, xỏ mũi bò, đó là người”( Thiên tại nội, nhân tại ngọai.(..)Ngưu mã tứ túc, thị vi Thiên; lạc mã thủ, xuyên ngưu tị, thị vi nhân) (coi:Nam Hoa Kinh, Trang Tử, Bản dịch, Thu giang Nguyễn Duy Cần, trang 69).  

-Con Người sinh ra đời: có Nam có Nữ như đã do Ông Trời tiền định, vì không ai được hỏi ý kiến trước khi ra đời; (“ái nam ái nữ” là hiện tượng dị thường). Tuy cùng là giống Người bằng nhau, nhưng Nam-Nữ, về thân thể, và tài năng khác biệt, để bổ túc cho nhau, thành con Người tòan vẹn. Riêng về khía cạnh “Tính Dục”, “sinh sản”, Nam , Nữ đều có những bộ phận sinh lý khác nhau, với một cách xếp đặt rất tài tình của Tạo Hóa, nhằm mục đích để truyền sinh. Đó là Luật Tự Nhiên. Con người thực hiện việc “giao hợp nam-nữ”(sexual intercourse), nhưng làm sai lạc ý nghĩa và mục đích tự nhiên của hành vi này như: ngừa thai, phá thai. “Giao hợp nam-nữ”, theo tự nhiên, mục đích chính là để “truyền sinh”, luật chung cho Nhân Lọai và lòai cầm thú, như đòi hỏi của bản năng; việc “giao hợp” để biểu lộ của tình yêu chỉ là thứ yếu. Nhiều khi “giao hợp” nhưng không do tình yêu, mà chỉ vì muốn được thỏa mãn của tính dục bạo động, như cưỡng hiếp, rồi giết luôn nạn nhân, không một chút thương hại. Vả lại, tình yêu tinh tuyền vô vị lợi của cha mẹ đối với con cái, hay tình bằng hữu giữa bạn bè Nam –Nữ, nhưng không vương vấn một chút gì là “tính dục”. Ngày xưa, theo tục lệ cổ truyền, việc hôn nhân  do cha mẹ xếp đặt như câu nói”cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”,  “môn đăng hộ đối”..Tuy không còn thích hợp với tuổi trẻ bây giờ, vì Hôn Nhân có vẻ nặng về “lý trí” hơn “tình cảm”, lúc vợ -chồng mới lấy nhau. Nhưng sau một thời gian, nếu Vợ-Chồng biết tôn trọng quyền lợi của nhau,”phu-phụ như tân”( vợ chồng coi nhau như  khách quí) cùng làm tròn bổn phận phu- phụ, chăm sóc con cái,..do đó,”NGHĨA VỢ-CHỒNG”, càng thêm thắm thiết, cam kết:“ăn đời ở kiếp với nhau”,  đến “bách niên giai lão”, “đầu bạc răng long”   

Vì tôn trọng Luật Tự Nhiên của Tạo Hóa, nên trong xã hội cổ truyền(khác với thời nay), tại Việt Nam, rất hiếm những vụ Lị dị, phá thai, ngừa thai..,

Trong Văn Hóa và xã hội cổ truyền, dân chúng dùng những danh từ, hay hình ảnh liên quan đến phái tính, một cách “tự nhiên”, theo công dụng, mục đích của nó; do đó, không có gi “khiêu dâm, khêu gợi” như câu ca dao:                         

“Đàn ông , không râu, bất nghì,

Đàn bà không vú, lấy gì nuôi con. 

Văn Hóa Việt Nam, cũng chế nhạo, những:”hành vi bất thường”, trái tự nhiên của “đồng tính luyến ái”như: 

                                             “Đàn ông nằm với đàn ông,

                                           Như gốc, như gác, như chông, như chà.

                                                Đàn ông nằm với đàn bà,

                                           Như lụa, như lĩnh, như hoa trên cành”. 

Ngược hẳn lại những xã hội vô thần, vô luân, vật chất, ngày nay, những hình ảnh khiêu dâm của những tạp chí”Playboy”, những con búpbê “Barbie”, những phòng sửa “ngực”..  khai thác những cơ quan tính dục của phụ nữ, một cách “giả tạo”(artificial), mục đích, chỉ để mà chơi, và kiếm tiền. 

2-THÁNH PHAO LÔ TÔNG ĐỒ, và vấn đề “Đổng Tính” (Homosexuality) 

Trước hết, cần nhận định: vấn đề “đông tính luyến ái” cũng như”mãi dâm”là những tội phạm đã xuất hiện từ lâu đời, trong Cựu Ước:( coi: Luật Levi:18:22; 20:13). Trong Phúc Âm không đọc thấy Chúa Cứu Thế nói đến”đồng tính luyến ái”, nhưng chắn hẳn, Chúa và Thánh Phao Lô cũng chấp nhận Luật LÊVI.

Sau đây, xin diễn giải một vài đặc điểm trong Giáo Thuyết của Thánh Phao Lô, khi Ngài  khuyên bảo các Giáo Đòan cần tuân giữ các Luật Luân Lý trong đời sống Hôn Nhân, Gia đình, Trinh Khiết. Vấn đề”đồng tính” thời Thánh Nhân không sôi động như ngày nay, đặc biệt tại Hoa Kỳ, Tiểu Bang California đã bỏ phiếu, “Dự Án 8”, chống”Hôn Nhân Đồng tính”...

-Thánh Nhân viết về “đồng tính” trong ba Thư sau đây: 1Cor 6:9; 1 Timothy 1:10;  và Rom 1:26-27. Thánh Nhân nêu lên 5 tội ác như: 

”Anh chị em không biết rằng những kẻ bất chính sẽ không được vào Nước Thiên Chúa sao? Anh chị em đừng lừa dối mình. kẻ dâm ô, kẻ thờ tà thần, kẻ ngọai tình, đàn ông làm điếm(male prostitutes(malakoi), phạm tội “sodomites(dân thành Sodoma, arsenokoitai), trộm cướp, tham lam, say sưa, chửi thề, hà hiếp, đều không được vào Nước Thiên Chúa(1Cor 6:9-11)

(Chú thích: danh từ Hilạp”malakoi” nghĩa đen là”yểu điệu”, chỉ vế “phái yếu”.Do đó, các nhà chuyên môn mới dịch là”male prostitute”; danh từ”arsenokoitai, Sách Kinh Thánh, bản dịch của”New Revised Standard Version”, là “sodomites, tội phạm của dân thành Sodom và Gomorrah(coi Gen.19).Theo các học giả, thì từ này là danh từ kép:”người-nằm cùng giường(men-bedders); do đó có thể hiểu là “làm tình để làm tiền”, kể cả giới mày râu(male prostitution) 

-Đọan Thư sau đây(Rom 1:26-27) Thánh Nhân nói rõ về hành vi tội lỗi của cả đàn ông và đàn bà “Đồng tính “(male homosexual relations and female homosexual relations(lesbianism).: 

“ Vì thế Thiên Chúa đã để mặc họ chìm đắm trong tội lỗi xấu xa:Đàn bà không theo tự nhiên mà sinh con, một ăn ở ngang trái -tự nhiên(unnatural)

“ Đàn ông cũng vậy, thay vì ăn ở phải phép với đàn bà, thì lại mê đắm tà dâm với nhau, đến nỗi phải chịu lấy ngay nơi mình những ác quả của sự lầm lạc ấy.  

- Vào thời giảng Phúc Âm cho dân ngọai, Thánh PhaoLô coi hành vi”đồng tính” là tội thờ”ngẫu tượng”(idolatry). Họ thờ thân xác, và những đòi hỏi của thân xác, mà không tôn thờ Thiên Chúa, là Đấng Tạo Hóa. (Coi: Rom 1:24-25): 

“Bởi vậy, Thiên Chúa để mặc họ mê theo dục vọng và dâm ô đến nỗi họ làm cho chính thân xác họ ra hèn hạ trụy lạc. Họ đã chê chối Chân lý của Thiên Chúa để nhận lấy sự giả dối họ đã thờ phượng, làm tôi lòai thụ sinh hơn là tôn thờ phụng sự Đấng Tạo Hóa, đáng chúc tụng muôn đời.” 

-Thánh Nhân không chấp nhận “hành vi đồng tính”(homosexual activity). Thánh Nhân cũng theo lâp trường luân lý của Đạo Do Thái để bác bỏ “hành vi đồng tính” . Ngày nay, các nhà tâm lý, giáo dục phân biệt: -“ hành vi đồng tính”(homosexual activity) và “chiều hướng  tính dục”(sexual orientation). Vấn đề này còn đang tranh luận, có nhiều quan điểm thay đổi luôn. Ai cũng đồng ý kết án “hành vi đồng tính “là tội ác. Nhưng đối với một số người chỉ có”chiều hướng tính dục” nghĩa là nghiêng về người đồng phái tính, thì phải đối xử thế nào? Tại Hoa Kỳ, nhóm người “GAY”, đã gây được thế lực chính trị khá mạnh.. Nhiều câu hỏi nên lên, chưa được giải đáp dứt khóat, như: “chiều hướng đồng tính”  là do ý chí của người ta muốn tập luyện như thế, hay là do tính tình(behavior) tự nhiên  hướng chiều về người đồng phái tính? Có thể giáo hóa , biến cải người có“chiều hướng tính dục” được không? 

(Chú thích:Trong một số Chủng viện tại Hoa Kỳ, đã nhận những sinh viên có “chiều hướng tính dục”, để được giáo hóa trong một thời gian; nếu nhận thấy những người này có bằng chứng cam kết, quyết tâm sống đời độc thân trong bậc tu trì, thì có thể lãnh chức Linh Mục. Nhưng sau một thời gian thí nghiệm, đặc biệt sau cuộc khủng hỏang”lạm dụng Tính dục giới trẻ” ,mà đa số nạn nhân là “con trai”, nên ngày nay, Tòa Thánh đã ra lệnh cấm không được nhận các chủng sinh có “chiều hướng đồng tính” vào Chủng Viện)

-Về phương diện chăm sóc mục vụ, vào thời Thánh Phao Lô Tông Đồ cũng như ngày nay, chúng ta luôn kết án “hành vi đồng tính”, nhưng  cũng cần đối xử một cách cảm thông, bác ái, tha thứ, xứng hợp  với Nhân Phẩm của một con Người. Vì Thiên Chúa muốn cứu chuộc mọi Người(Rom 11:32) 

- TẠM KẾT LUẬN: ĐỜI SỐNG THÁNH HIẾN (Consacreted Life) 

Nguyên do chính đã gây nên cuộc khủng hỏang trầm trọng, về “ƠN THIÊN TRIỆU” trong “Đời Sống Thánh Hiến, Tận Hiến”, Nam hay Nữ,  là vì người tu sĩ thiếu trưởng thành, trong việc nhận định một cách xác tín, về mục đích và ý nghĩa của” Tính Dục Nhân Lọai”, tức là việc Truyền sinh. Từ “trưởng thành”(maturity), không có nghĩa là chính tu sĩ cần được “thí nghiệm”trước, nhưng là được học hỏi về ý nghĩa thánh thiêng của Hôn Nhân, hiểu biết mục đích của việc Tạo Hóa đã tạo dựng Nam-Nữ để Truyền sinh. Nhất là phải triệt để tôn trọng Luật Tự Nhiên mà Chúa đã an bài, đối với việc “giao hợp tính dục” giữa Nam-Nữ, tôn trọng những bậc đã kết hôn thành Vợ-Chồng, và trẻ em thuộc quyền của phụ huynh. Cần hiểu biết những đòi hỏi , nghĩa vụ và quyền lợi của những người sống trong bậc Vợ-Chồng, và TỰ DO, quảng đại, hy sinh chấp thuận cuộc đời Tận Hiến cho Chúa và tha nhân, mới hy vọng có thể chống lại những cám dỗ lăng lòan của Tính Dục.

- ĐGH BIỂN ĐỨC XVI(Zenit.org ngày Feb.4/2009), đã nêu gương  Thánh Phao Lô Tông Đồ làm Mẫu Mực về Đời SỐNG THÁNH HIẾN( Consecrated Life):Ngài nêu ra ba Nhân Đức: Thanh Bần, Trinh Khiết, và Vâng Phục.

Về Đức Thanh Bần, Thánh Nhân coi đó là bảo đảm để việc Loan Truyền Tin Mừng một cách hòan tòan “vô vị lợi”, và đồng thời cũng biểu lộ tình liên đới với những Anh Chị Em nghèo khó.

- Về Đức Khiết Tịnh: Thánh Nhân đã dâng hiến tòan thân, trái tim cho Chúa để Phục Vụ một cách Tự Do lớn lao hơn, tận tụy hơn cho các Anh Chị Em..

-Về Đức Vâng Phục,: Việc vâng phục Thánh Ý Chúa, và tinh thần trách nhiệm hằng ngày, và việc chăm lo cho các Giáo Đòan, đã làm Thánh Nhân, ngày càng hao mòn kiệt sức, để nên của Lễ Hy Sinh cho Chúa.

Cuối cùng ĐGH kết luận: Thánh Phaolô Tông Đồ đã kết hiệp mật thiết với Chúa Cứu thế, nên chúng ta nhận thấy Ngài đã liên kết ba Nhân Đức của đời Sống Tu Đức với Họat Động Truyền Giáo. Hai khía cạnh này luôn hỗ tương liên đới với nhau.

L.M. Cao Phương Kỷ

VỀ MỤC LỤC
CÁNH ÉN TRỞ VỀ

 

Ngày 19 tháng Ba vừa qua, đàn chim én cả ngàn con đã từ một thành phố xa xôi ở Á Căn Đình bên Âu châu bay về tới San Juan Capistrano, một xứ đạo truyền giáo miền biển vùng Nam Califomia. Đây là một cuộc hẹn hò không biết đã từ bao giờ. Cứ vào khoảng thời gian đó mỗi năm,từ nơi xa xôi, chim én lại bay về. Và cũng vào thời gian đó, người ta ngóng đợi sự xuất hiện của cánh én trên bầu trời trong xanh. Một ông cụ, năm nay đã hơn chín mươi tuổi, đứng sẵn ở trên tháp chuông nhà thờ. Vừa khi nhìn thấy cánh én đầu tiên, liền đánh chuông báo hiệu, và những cuộc vui chào mừng chim én, cũng là chào mừng mùa Xuân trở về, bắt đầu. Ông cụ làm công việc ấy liên tục từ sáu mươi năm nay. Cũng từ bao nhiêu năm nay, én và người bao giờ cũng giữ lời ước hẹn.

Khi nghe tin bầy én trở về , trái tim tôi xôn xao một niềm vui Tôi nghĩ tới những cánh én đem mùa Xuân trở lại cho vũ trụ và loài người. Khi trên trời xuất hiện những cánh én, người ta biết mùa Xuân trở về. Từ đó, chim én đã là một biểu tượng của mùa Xuân. Đang khi đất trời ảm đạm và lạnh giá trong khí hậu mùa Đông, cỏ cây như ngủ quên trong giấc miên trường và những loài chim loài thú ở trong tổ trong hang co ro tránh rét, thì những cánh én trở về, cùng với nắng vàng ấm áp và một vùng trời mênh mang xanh ngát mắt với những cụm mây trắng nõn. Đất trời như bừng tỉnh, cây cối đâm chồi nảy lộc, muôn ngàn loài hoa tỏa hương khoe sắc. Các loài chim theo sau cánh én bay rợp khắp cả bầu trời, và từng đàn bướm lượn bay trên cỏ hoa đồng nội.

Đất trời có mùa Xuân thì lòng người cũng có mùa Xuân. Đất trời thay đổi theo từng mùa thì lòng người cũng thay đổi tâm trạng buồn vui tùy theo hoàn cảnh. Lòng người, có khi tưng bừng như nắng vàng mùa Hạ , thì cũng có lúc buồn mơ màng như gió nhẹ mùa Thu; có khi xôn xao rạo rực như một mùa Xuân chín, thì cũng có lúc buồn thảm lạnh lùng như buổi chiều Đông.

Những buổi chiều Đông của cuộc đời là những khi người ta gặp cảnh không may, những nỗi buồn và niềm đau liên tiếp kéo đến. Những buổi chiều Đông ấy là những khi người ta gặp toàn những thất bại trong đời, bị bỏ rơi, bị hiểu lầm, cô độc. Những buổi chiều mùa Đông ấy là những khi người ta cảm thấy mình tàn tạ, bất lực, dư thừa. Những buổi chiều Đông ấy là khi người ta không biết yêu thương hay không được yêu thương. Khi ấy người ta vùi mình trong hang sâu của chính mình, giống như chú gấu trốn lạnh; người ta giống như những cành khô xám xịt không còn sinh lực và sự tươi tắn thuở nào; người ta buồn rầu như một vườn không có hoa và chim bướm. Những buổi chiều mùa Đông buồn bã của cuộc đời sẽ kéo dài mãi, cho đến ngày nào đó, một cánh én bay vào, biến đổi mùa Đông thành mùa Xuân. Cánh én ấy có thể là một người thân, một người bạn, hay chỉ là một người mới quen biết, đôi khi lại là một người chưa quen biết.

Chúng ta đều có khả năng là một cánh én, chở mùa Xuân đến cuộc đời người khác, nếu chúng ta muốn và nếu chúng ta biết yêu. Với một chút tế nhị, một chút lư u tâm, một nụ cười, một thái độ cảm thông và biết lắng nghe, một câu ủi an, một lời khích lệ, một cử chỉ ân cần... Chúng ta sẽ là cánh én đem lại mùa Xuân, sẽ lôi một chú gấu la khỏi hang, sẽ làm cho một cành cây khô trổ nụ sẽ biến một khu vườn hoang phế nở đầy hoa và dập dìu chim bướm. Và cuộc đời của người mà ta đang lưu ý tới đó sẽ có mùa Xuân.

Người ta bảo ''Một con én không làm nên cả một mùa Xuân ''. Câu nói ấy muốn nói lên giá trị của việc làm tập thể, nhưng không vì thế mà phủ nhận giá trị của một cánh én, nhất là trong lãnh vực tình người. Tôi vẫn tự nhủ như thế và vì vậy, vẫn cố gắng bằng thiện chí nhỏ nhoi của mình để làm một cánh én, đem chút không khí mùa Xuân đến những ai quen biết.

Tuy nhiên, sự thật là chim én không bay một mình. Chim én bay thành bầy. Trong cuộc sống, nếu người ta cũng biết bay thành bầy như chim én, thế giới sẽ đẹp hơn nhiều và cuộc đời mỗi người cũng sẽ hạnh phúc hơn lên. Chung quanh tôi có biết bao người thiện chí, bao tấm lòng tốt đẹp, bao trái tim tươi thắm, quảng đại và dám chấp nhận hi sinh. Nhưng có lẽ chúng ta không biết cách liên kết lại với nhau, như chim én bay thành bầy, nên hạnh phúc ta tạo được cho người khác chỉ là hạnh phúc nhỏ nhoi. Bài học của loài chim én giúp tôi biết đóng góp thiện chí và khả năng cớ giới hạn của mình vào công việc chung. Khi nào mọi người cùng biết liên kết với nhau để theo đuổi những mục tiêu tốt đẹp, toàn thể thế giới này sẽ là một mùa Xuân vĩnh cửu, đó là tên gọi khác của Thiên Đàng.

Tôi ngồi viết bài này trong một căn phòng cửa đóng kín, nhưng trong đầu tôi dập dìu muôn ngàn cánh én trên bầu trời mênh mông. Chẳng nhớ rằng đường bay từ Á Căn Đình đến miền Tây Hoa Kì dài bao nhiêu, tôi chỉ biết rằng đường bay xa lắm. Bầy én ngàn con đã bay đến nơi, về đến chốn. Cuộc viễn hành này chỉ trọn vẹn khi bầy én vừa có tinh thần tập thể vừa có tinh thần kỉ luật. Đây cũng là điều mà những loài én, loài kiến, loài ong nhắc nhở cho loài người. Tụ họp lại với nhau, ngồi được với nhau, cùng khởi hành với nhau là đã có tinh thần tập thể. Nhưng trong khi tụ họp, ngồi lại, và nhất là trên đường đi chung đó, nếu người ta không biết nghe nhau, không có tinh thần kỉ luật thì rồi cuối cùng sự tụ họp sẽ thành tan rã, và người ta chia tay, mỗi người một hướng đi. Đó là sự kết thúc... nhẹ nhàng nhất. Nhiều khi người ta không lặng lẽ chia tay như vậy, nhưng sẽ ra đi với hận thù để rồi tìm cách ngăn cản nhau, làm hại nhau. Những cánh én kết thành đàn, bay theo cùng một hướng, nương vào nhau, dắt dìu nhau về đến đích điểm, chẳng phải là hình ảnh thật đẹp và bài học thật hữu ích cho chúng ta sao?

Và bầy én bay về San Juan Capistrano khiến tôi nghĩ đến những cuộc hẹn hò, những lời thề ước của người ta trong cuộc đời. Hình ảnh ông già hơn chín mươi tuổi đứng trên tháp chuông nhà thờ chờ bầy én, theo tôi là một hình ảnh thật đẹp. Đợi chờ, vì trong thinh lặng, ông và bầy chim đã có một lời ước hẹn: gặp lại nhau vào buổi đầu Xuân. Người đợi kiên trì chờ đợi; và bầy én thì vượt qua không biết bao nhiêu dặm trời, bay ngang qua không biết bao nhiêu biển khơi, sông ngòi, nang cây, đồi núi, ruộng đồng, thành phố. . . để tìm về điểm hẹn. Niềm vui nhìn thấy cánh én đầu tiên có lẽ làm rung động đến tận đáy trái tim ông già tiên chín mươi tuổi ấy. Và tôi chắc chắn rằng bầy chim cũng rất đỗi hân hoan khi nghe tiếng chuông nhà thờ gióng giả vang lên, Một lời hẹn hò đẹp đẽ và một cuộc gặp gở tuyệt vời.

Có lẽ tôi không đủ chất nghệ sĩ, không đủ tính lãng mạn nên không thích kiểu hẹn ' 'Em cứ hẹn nhưng em đừng đến  nhé: '' Tôi nghĩ đến trong thực tế, đã có rất nhiều trái tim tan nát vì những lời ước hẹn như thế: Và chúng ta, những con người, đã không giữ lời ước hẹn, không phải chỉ cho một cuộc gặp mặt, một buổi chuyện trò, một chuyến đi chơi…,mà còn cho những sự việc quan trọng hơn, lớn lao hơn. Người ta đã cho nhau những lời thề vàng đá, đã long trọng thề hứa trọn đời trọn kiếp bên nhau. Trong cuộc sống chung, người ta đã hứa với bạn đời, với con cái hết điều này tới điều khác... Nhưng rồi rất nhiều khi người ta đã không giữ những lời thề hứa đó ở nhiều lãnh vực khác cũng thế, người ta hứa hẹn sẽ làm điều này điều nọ, sẽ thực hiện những công trình lớn nhỏ, sẽ hoàn tất những công tác, những chương trình…Nhưng người ta đã không làm như lời đã hứa. Những lời hứa trong cuộc sống cá nhân, cũng như những lời hứa không được giữ trọn trong đời sống xã hội đều làm cho biết bao nhiêu người thất vọng, bao cuộc đời tan nát, bao trái tim héo mòn. Kiểm điểm lại, tôi cũng đã phạm lỗi lầm đó nhiều lần trong đời sống. Có lẽ mỗi chúng ta đều nên cất giữ trong trái tim mình một cánh én vượt ngàn khơi bay về thánh đường San Juan Capistrano. .

Cuộc gặp gở giữa én và người mà điểm hẹn là tháp giáo đường khiến tôi càng thêm suy nghĩ. Nếu trong lời ước hẹn, nếu trong những tình cảm người ta trao gửi cho nhau có bóng dáng Thiên Chúa, lời ước hẹn và tình cảm ấy sẽ được thánh hiến, và người ta sẽ thực hiện trọn vẹn. Tìm đến với nhau - trong Chúa - là xây dựng một mối liên hệ lâu dài, vững bền và thánh thiện. Ngay cả những khi người ta lạc nhau trong cuộc đời, theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, người ta nên tìm đến nhau trong thánh đường, nơi có Chúa hiện diện, người ta sẽ thấy được nhau. Mẹ Maria, thánh Giuse cũng đã lạc mất Chúa Giê su trong dịp đại lễ ở Giêrusalem.. Đức Mẹ và thánh Giuse đã tìm Chúa Giê su ở khắp nơi, nhưng cuối cùng đã gặp Chúa trong đền thờ. Gia đình tôi cũng nhiều khi đi lạc nhau, đó là lúc tôi và người bạn đời thiếu sự cảm thông, mỗi người nhìn về một hướng. Đó là khi tư tưởng của tôi và của các con xung khắc, không ăn khớp với nhau. Kinh nghiệm dạy cho chúng tôi thấy, những lúc đó chúng tôi chỉ tìm gặp lại được nhau khi cùng tìm về với Chúa trong lời cầu nguyện chung.

Và giữa Chúa và tôi cũng có một lời hò hẹn. Ngài đặt trong tôi một trái tim trinh nguyên rồi đưa tôi vào đời và hò hẹn cùng tôi một lần gặp lại. Tôi như đứa bé tung tăng trên đường thiên lí, vui chân đi khắp nơi ngắm nhìn cảnh lạ đường xa. Đã nhiều khi tôi sà vào những cuộc vui chơi của đám đông, cũng có khi tôi lỡ bước lăn tòm xuống hố, Nhiều khi tôi bước đi một mình trong cơ độc, cũng có khi tôi nhịp nhàng cất bước với bao bạn đồng hành. Trái tim trinh nguyên ngày nào Chúa trao tặng tôi đã nhiều khi nở hoa tươi thắm, cũng cũng có lúc buồn thảm ê chề , đã nhiều khi âm thầm nhỏ máu. Chúa vẫn chờ đợi tôi một chuyến trở về . Thật ra Ngài không ngồi một chỗ để chờ đợi tôi . Ngài đã đồng hành với tôi nhưng tôi không biết đến. Ngài đã ở trong những người bên cạnh tôi; nhưng tôi không nhận ra sự hiện diện của Ngài. Qua những con người, những sự kiện xảy ra trong cuộc sống, Ngài nhẹ nhàng nhắc nhở tôi cuộc tái ngộ trùng phùng.

Trong những lúc tĩnh lặng tâm hồn như hôm nay, tôi nghĩđến lời hẹn hò gặp lại ấy. Và tôi xin Chúa cho tôi khi trở về , trái tim dù đã qua bao nhiêu. lần nở hoa hay nhỏ máu, vẫn còn giữ được sự trinh nguyên như thuở cất bước vào đời. Trong tôi, có tiếng cánh chàm én vút bay, vượt ngàn trùng về tới đỉnh tháp chuông giáo đường San Juan Capistrano.

Nhà Văn Quyên Di

VỀ MỤC LỤC
Đời sống cầu nguyện và đời sống nội tâm

 

NGƯỜI NỮ TU SỐNG TU ĐỨC TOÀN DIỆN  

tác giả: Lm. Micae-Phaolô Trần Minh Huy pss 

LỚP THẦN HỌC LIÊN TU SĨ - TÒA GIÁM MỤC BÙI CHU  (2008 - 2009)

Chương IV : Đời sống cầu nguyện và đời sống nội tâm

“Hãy luyện tập sống đạo đức, vì luyện tập thân thể thì lợi ích chẳng là bao, còn lòng đạo đức thì lợi ích mọi bề, bởi Chúa hứa ban sự sống hiện tại cũng như tương lai cho người có lòng đạo đức” (1 Tim 4:7-8) 

Suy nghĩ: GIỜ THỨ 25 

Một ngày kia, trong sự buồn sầu các Thiên Thần thưa với Thiên Chúa: Nhân loại ngày nay hầu như đã quên hẳn sự cầu nguyện.

Cố vấn của Thiên Quốc liền hỏi các Thiên Thần nguyên do tại sao. Các Thiên Thần lần lượt trình bày: Nhân loại biết họ thiếu sót trong vấn đề cầu nguyện và cũng thường hối tiếc về điều đó. Nhưng họ than là không có thời gian để cầu nguyện.

Nghe vậy, cả triều thần Thiên Quốc lấy làm sửng sốt vì một ngày dài 24 tiếng đồng hồ mà vẫn còn thiếu. Họ đề nghị: Để ngăn chặn sự xuống dốc này của nhân loại, chúng ta hãy suy nghĩ và tìm một giải pháp thích hợp. Thế là cả Thiên Quốc hăng say đưa ra các biện pháp làm sao giúp nhân loại tránh được đời sống qúa tiện nghi, chạy theo vật chất, hay trừng phạt thật nặng nề như lũ lụt, v.v... 

Nhưng có một Thiên Thần lên tiếng: Xin Thiên Chúa cho ngày dài thêm ra một tiếng đồng hồ nữa, xem họ còn than trách không có giờ cho sự cầu nguyện không? Đề nghị này cả Thiên Quốc thấy hay, và Thiên Chúa đã cho ngày dài hơn một tiếng. Giờ thứ 25 này được gọi là "giờ của Chúa".

Nhưng trái với sự chờ đợi, vì vẫn không có nhiều lời cầu nguyện hơn. Các Thiên sứ lại được phái xuống trần gian để thăm dò tin tức. Sau thời gian rảo bước khắp nơi, các Thiên Thần trở về Thiên Quốc để báo cáo về tình hình hiện nay của nhân loại. Một vị kể lại: Các nhà kinh doanh than vì thay đổi giờ nên cả tổ chức phải đổi lại, gây ra tốn kém và cần giờ để ổn định lại. Còn các công đoàn tỏ ra hài lòng vì họ đã đòi hỏi từ lâu điều thêm giờ này. Và giờ thêm này phải dành cho công nhân nghỉ ngơi. Các chính trị gia và các nhà trí thức bàn luận rất sôi nổi và kết luận: Không có ai có quyền bắt buộc người công dân phải làm gì với một giờ nào đó. Một số người còn đi xa hơn là khi "ở trên" làm ra giờ 25 đã không hỏi ý kiến "ở dưới", vì vậy không chấp nhận được. Và cứ như thế, hầu như ai cũng có một lý do để giải thích vì sao không thể dùng một giờ có thêm để cầu nguyện. 

Sau cùng có một Thiên Thần kể về một số người. Đó là những người đón nhận thời giờ được có thêm để tham dự thánh lễ, để phục vụ cho tha nhân và cầu nguyện. Họ cảm thấy dễ dàng hơn vì có thêm giờ. Nhưng các Thiên Sứ rất ngạc nhiên vì khám phá ra rằng: những người này cũng là những người khi một ngày còn 24 tiếng, họ vẫn có đủ thì giờ để cầu nguyện.

Vì vậy trên Thiên Quốc nhận ra là thời gian không mang lại thêm người cầu nguyện. Sự cầu nguyện là tình yêu. Lý do con người không cầu nguyện không phải vì không có thời gian, nhưng là sự liên quan giữa con người với Thiên Chúa bị lãng quên. Nếu có tình yêu thì dù không có giờ người ta cũng tìm ra giờ cho người mình thương mến.

Và các Thiên Thần xin Thiên Chúa cho ngày trở lại bình thường. Một năm với 365 ngày và mỗi ngày có 24 giờ. Mỗi người chúng ta bắt đầu làm tính cộng trừ nhân chia, xem mỗi ngày chúng ta dành thời gian cho đời sống cầu nguyện được bao nhiêu. Qua đó chúng ta biết được sự liên hệ giữa ta với Thiên Chúa như thế nào.

Lạy Chúa,

Bước ra đường con gặp không biết bao nhiêu người. Họ về, họ đến, họ đi, họ chạy. Xe hai bánh chạy. Xe bốn bánh chạy. Xe cam-nhông chạy. Cả thành phố chạy. Các con đường chạy. Cả thành phố chạy. Tất cả mọi người chạy. Họ chạy để khỏi mất thì giờ. Họ chạy theo thời gian, Ðể lấy lại thời giờ đã mất, Ðể lời nhiều thì giờ hơn. Hết mọi người đều bảo là không có thì giờ.

Nhưng lạy Chúa, con có thời giờ. Con có thì giờ riêng của con. Tất cả thời giờ mà Chúa đã ban cho con, Những năm tháng của đời sống con; Những ngày của năm tháng con, Những giờ của ngày sống con, Tất cả đều thuộc về con. Con có phận sự phải dùng nó cho đầy đủ trong bình tĩnh và yên lặng. Dùng nó cho cho trọn vẹn, cho tới phút cuối cùng. Ðể dâng lên cho Chúa hầu Chúa làm lợi cho kẻ khác. Chiều nay, lạy Chúa, con không xin Chúa ban cho con thêm thời giờ để làm sự này hay sự khác.Con chỉ xin Chúa cho con được ơn này là ơn biết dùng nên thời giờ Chúa ban cho con, để tận tình làm những việc mà Chúa muốn con làm. Amen.

Michel Quoist, Prières  

A. NHẬP ĐỀ TỔNG QUÁT  

I. Nhu CẦu CẦu NguyỆn 

Chính Chúa Giêsu đã sống đời cầu nguyện kết hiệp liên lĩ với Chúa Cha. Ngài cầu nguyện một mình nơi thanh vắng, giữa đám đông, sáng sớm tinh sương hay lúc chiều xuống đêm về, có khi suốt cả đêm... Và chính Ngài đã dạy cho môn đệ cầu nguyện, đặc biệt Kinh Lạy Cha. 

Cầu nguyện nuôi dưỡng và phát triển đời sống thiêng liêng, nghĩa là sống tiếp thông với Chúa, không ngừng đổi mới nội tâm, khởi đầu và khởi đầu lại mãi cho mọi cuộc canh tân trong Hội Thánh. 

Nhưng “chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải. Chính Thánh Thần cầu thay nguyện cho chúng ta bằng những tiếng than khôn tả” “Thiên Chúa thấu suốt tâm can… và Thánh Thần cầu thay nguyện giúp cho dân thánh theo đúng ý Thiên Chúa” (Rm 8, 26-27)  

Tại sao phải cầu nguyện?

Vì cầu nguyện là hơi thở của linh hồn. Có bao giờ chị em thử nín thở lâu lâu một chút không? Điều xảy ra cho cơ thể cũng sẽ xảy ra cho đời sống thiêng liêng của chị em khi chị em ngưng cầu nguyện.  

Hãy tưởng tượng một tình bạn không chia sẻ hiệp thông và không dành thời giờ cho nhau thì tình bạn đó có tồn tại được không? Cũng thế, cầu nguyện là dành thời giờ cho Chúa, nói với Chúa và lắng nghe Chúa nói với mình. 

Vậy, xin chị em hãy để có những khoảnh khắc cho nhau trong cuộc sống cộng đoàn, nhờ tác động của ơn Chúa: chỉ bảo huynh đệ, xin lỗi, tha lỗi, quyết tâm chung cho một mối quan hệ tốt đẹp hơn… 

II. VẤn đỀ lo ra, chia trí 

Làm sao chúng ta để Chúa đổ đầy cuộc sống chúng ta niềm vui, ánh sáng, sức mạnh, và mọi thành quả, nếu chúng ta không dành thời giờ với Ngài, tìm biết Ngài, đi vào tương quan năng động và riêng tư với Ngài bằng cầu nguyện?  

Nhưng vấn đề đặt ra là con người chúng ta hay bị chia lòng chia trí trong khi cầu nguyện. Tại sao? Va làm thế nào để thắng vượt? 

Chúng ta chia trí, vì sự yếu đuối của con người: “Miếng ngon nhớ lâu, lời đau nhớ hoài.” Ma quỉ ghen tương phá hoại và ngăn trở không cho ta kết hiệp mật thiết với Chúa, vì chúng biết rằng một khi chúng ta kết hiệp mật thiết với Chúa thì chúng chẳng làm gì chúng ta được.

Chúng ta đã chiến đấu nhiều để gạt các chia trí đó đi, nhưng không thành công. Vậy xin đề nghị đổi chiến thuật: dùng phương pháp “Gậy ông đập lưng ông” mà đối đầu giải quyết: Bạn hãy lấy ngay điều làm bạn chia trí mà trình bày với Chúa, cầu nguyện với Chúa, cho bạn và cho người hay việc bạn đang chia trí. Kết hợp với lời khuyên của thánh Phêrô: “Trong khi cầu nguyện, anh chị em hãy trao trút nỗi lòngcủa anh chị em cho Chúa, vì Ngài hằng thương yêu chăm sóc anh chị em” (x. 1 Pet 5,7) 

Chúa Giêsu cũng đã khuyến cáo: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện để khỏi sa chước cám dỗ, vì tinh thần hăng hái nhưng xác thịt lại yếu đuối” (Mk 14,38).  

Sự yếu đuối vốn là cái chung của thân phận con người, như thánh Phaolô thú nhận: “Có ai trong anh chị em yếu đuối mà tôi không cảm thấy yếu đuối, có ai trong anh chị em sa ngã mà tôi không cảm thấy như thiêu như đốt” (2 Cr 11,29), và Ngài thúc giục “Hãy cầu nguyện không ngừng” (1 Thes 5,17).

 Thánh Têrêsa Avila nói rõ: “Người bỏ cầu nguyện không cần ma quỉ đẩy xuống hỏa ngục, mà chính người ấy sẽ tự đưa mình đến đó.”  

Quả thế, hầu hết các linh mục, tu sĩ  rời bỏ đời tu là vì đã sao nhãng hay bỏ bê không cầu nguyện nữa. Vì thế, ta phải thiết lập một kỷ luật cầu nguyện cho mình và nắm giữ kỷ luật ấy trong suốt cuộc đời thánh hiến của mình.  

III. Nuôi DưỠng ĐỜi SỐng CẦu NguyỆn 

Việc cầu nguyện phải được thực hiện tương tác với sứ vụ và đời sống dâng hiến, phù hợp với những con người, nơi chốn, thời gian và thực hành khác nhau. 

Đời sống và sứ vụ tông đồ của tu sĩ được nuôi dưỡng và phong phú nhờ việc học hỏi thường xuyên: không chỉ lo cập nhật các giáo huấn của Giáo Hội, các trào lưu triết học, thần học, các khoa học xã hội và nhân văn, nhưng phải biết cầu nguyện và chiêm ngắm ở trong và qua các học hỏi này nữa. 

Đức Gioan Phaolô II nhắc nhở phải lấy Chúa Giêsu làm trung tâm đời sống và luôn kết hợp mật thiết với Chúa bằng cầu nguyện, suy niệm cá nhân hàng ngày, cũng như sốt sắng cử hành Phụng vụ các Giờ Kinh và Thánh Thể: “Nếu các con đầy Chúa, các con sẽ là những tông đồ đích thực của công cuộc truyền giáo mới, vì không ai có thể cho cái mà họ không có trong tâm hồn” (John Paull II, “Jesus Must Always Be the Center of Your Life” Vatican, May 2, 2004)   

Chính nơi Nhà Tạm mà ta phục hồi và nạp thêm năng lượng cho đời sống thiêng liêng và sứ vụ tông đồ. Quả thế, Chúa Giêsu mời gọi: “Hỡi những ai vất vả và gánh nặng, hãy đến với Ta, Ta sẽ nâng đỡ và bổ sức cho, và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an” (Mt.11,28).    

Ai trong chúng ta đã không có hơn một lần trải nghiệm những gánh nặng mục vụ và những trăn trở cá nhân? Thánh Phêrô khuyên: “Trong khi cầu nguyện, anh chị em hãy trao trút nỗi lòng anh chị em cho Chúa, vì Ngài hằng thương yêu chăm sóc đến anh chị em”(1 Pr 5,7) 

Thánh Gioan Maria Vianey, cha sở họ Ars, nhờ chầu MTC mà phục hưng được giáo xứ, lôi kéo không biết bao nhiêu linh hồn hoán cải trở về với Chúa và Giáo Hội.  

Hiện nay trên thế giới có phong trào thức tỉnh và canh tân giáo xứ bằng việc chầu Thánh Thể liên lĩ. Chớ gì những thành phần già cả, bệnh tật ở trong cộng đoàn sẽ thay phiên nhau chầu Thánh Thể liên tục. Và chúng ta dù phải đi hoạt động rất nhiều, chớ gì đừng bao giờ quên con đường dẫn tới Nhà Tạm, nơi Chúa Giêsu đang chờ ta.

B. CÁC CÁCH CẦU NGUYỆN 

1. Cầu Nguyện Bằng Li

Cầu nguyện bằng lời cốt yếu đọc lớn tiếng, chung hay riêng, những kinh đã soạn sẵn, và hội nhập tư tưởng, ước muốn của người đọc với ý nghĩa của các lời kinh ấy (Miệng đọc tâm suy).  

2. Cầu Nguyện Bằng Trí

Cầu nguyện bằng trí là suy nghĩ cá nhân dựa trên một bản văn Thánh Kinh hay một bản văn tu đức, cùng những lời của chính đương sự nói chuyện lòng với lòng cùng Chúa. Cách cầu nguyện này quen gọi là nguyện gẫm.  

3. Cầu Nguyện Chiêm Niệm

Cầu nguyện chiêm niệm đưa linh hồn đến liên hệ trực tiếp hơn với Chúa, thường không cần đến lời nói và tư tưởng, chủ yếu ở trước sự hiện diện của Chúa, yêu mến Ngài và nhận biết mình được Chúa yêu mến. 

4. Cầu Nguyện Độc Hữu và Cầu Nguyện Liên Lĩ

Cần phân biệt cầu nguyện độc hữu (dành riêng cho việc cầu nguyện và chỉ việc cầu nguyện mà thôi) và cầu nguyện liên lĩ (vừa làm việc vừa cầu nguyện, hay cầu nguyện trong khi làm việc (câu chuyện HAI MÁI CHÈO)  

Một cụ già chia sẻ với một cậu bé về đời sống cầu nguyện liên lĩ. Cậu bé cho rằng không thể vừa làm việc vừa cầu nguyện. Cụ già mời cậu lên chiếc thuyền nan với hai mái chèo có ghi chữ CẦU NGUYỆN ở cái này và LÀM VIỆC ở cái kia.

Cụ chỉ chèo với mái chèo “Làm Việc.” Con thuyền nan chòng chành và quay vòng. Cậu bé kêu chóng mặt… Cụ lại đổi tay chỉ chèo với mái chèo “Cầu nguyện”, con thuyền nan lại cứ chòng chành và quay vòng làm cậu bé kêu rất chóng mặt. Cụ già liền với tay nắm lấy cả hai mái chèo “Cầu Nguyện” và “Làm Việc” rồi hai tay cùng chèo. Thuyền nan nhẹ nhàng lướt tới. Bấy giờ cậu bé mới ngộ ra. 

Cầu nguyện liên lĩ đưa dẫn cuộc sống nhân bản và thiêng liêng của chúng ta như thế đó: “Việc tay chúng con làm, xin Ngài củng cố, xin củng cố việc tay chúng con làm” (Tv 89: 17) 

Thánh Vinhsơn đệ Phaolô đã chỉ dạy cụ thể: "Phải qúy việc phục vụ người nghèo hơn hết và phải thực hiện ngay không được trì hoãn.“Nếu trong giờ kinh nguyện mà phải mang thuốc hay sự giúp đỡ nào đến cho một người nghèo khổ, thì hãy yên tâm đi đến với họ, dâng việc phải làm đó cho Chúa như đang nguyện kinh vậy. Đừng bối rối tâm hồn, đừng xao xuyến lương tâm vì đã phục vụ người nghèo mà bỏ buổi kinh nguyện, vì không phải là bỏ Chúa khi vì Ngài mà phải đi xa Ngài, nghiã là phải bỏ công việc ca tụng Thiên Chúa để thực hiện một việc ngang hàng như vậy. Chính vì thế, khi anh em bỏ kinh nguyện để giúp đỡ một người nghèo nào, anh em hãy nhớ đó là việc phục vụ Thiên Chúa" (Trích bút ký, thư 2546). 

Chúa Giêsu là mẫu gương tuyệt hảo của cầu nguyện độc hữu và cầu nguyện liên lĩ. Ngài cầu nguyện với Chúa Cha, lúc ở nơi hoang vắng hay khi ở giữa đám đông dân chúng, lúc ban ngày hay suốt đêm khuya, sáng sớm tinh sương hay muộn màng lúc đêm về, lúc vui mừng vì phép lạ phát huy hiệu quả hay khi đau khổ nơi vườn Giêtsêmani, hoặc bị bỏ rơi trên thập giá trong giờ tử nạn.  

Ai trong chúng ta cũng đã trải nghiệm đời sống cầu nguyện cá nhân, cộng đồng và phụng vụ trong niềm vui sốt sắng cũng như trong khô khan nguội lạnh, nên cần thanh luyện và sửa chữa cách cầu nguyện của mình. 

Như vậy lời cầu nguyện của người nữ tu hoạt động mang cả hai chiều kích hoạt động và chiêm niệm, nên phải bảo đảm hài hòa:

-          giữa hai chiều kích cầu nguyện độc hữu và cầu nguyện liên lĩ.

-          dù là cộng đồng hay cá nhân, lời cầu nguyện đó phải mang chiều kích chuyển cầu phổ quát cho mọi người, cho Giáo Hội, cho thế giới, và cho toàn thể tạo thành.

-          lời cầu nguyện đó phải bao gồm thờ phượng, ca ngợi, tuân phục, cảm tạ, đền tạ, chứ không phải chỉ xin ơn.   

-          Và tạ ơn cũng không chỉ dừng lại ở những ơn đã được, mà còn những ơn không được hoặc chưa được, vì lòng yêu thương khôn ngoan của Chúa luôn chọn lựa những gì tốt đẹp và hữu ích nhất cho sự sống hạnh phúc đời đời mà ban cho con cái.

C. CÁC ĐẶC TÍNH CỦA LỜI cẦu nguyỆn 

Lời cầu nguyện có mục đích tối hậu là ca tụng Chúa, đón nhận ơn Chúa, đào sâu mối hiệp thông cá nhân với Chúa và củng cố Giáo Hội.  

Thời gian dành cho việc cầu nguyện đánh thức trong tâm hồn chúng ta thái độ tôn thờ, chiêm ngưỡng, tạ ơn, xin ơn, thống hối trở về và đền tạ.

1. Lời Cầu Nguyện Tín Hữu

Lời cầu nguyện giúp khám phá và gặp gỡ Thiên Chúa. Đó là một dấn thân cá nhân của con người đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa trong mỗi phút giây, nhờ Chúa Thánh Thần trợ giúp (x. Rm 8,26). Nó được đồng hóa với lời cầu nguyện của Đức Kitô, Đấng mang lấy ước nguyện của cả loài người và dâng lên Chúa Cha.  

Mỗi người được mời gọi ca ngợi Thiên Chúa nơi các thánh, chiêm ngắm mầu nhiệm thánh ý Chúa, giữ vững niềm tin… Biết rằng mọi người trên thế gian đều phải gánh chịu cùng một nỗi thống khổ đang cầu xin ơn cứu độ, xác tín rằng Thiên Chúa muốn mọi người được rỗi; hiến dâng chính mình và tất cả nhân loại, và cùng với mọi loài thụ tạo, tôn thờ Đấng Tạo Hóa.  

Sau Chúa Kitô, Mẹ Maria là mẫu gương về đời sống cầu nguyện của mọi tín hữu. Mẹ đã ca ngợi những kỳ công của Chúa, đón nhận mầu nhiệm cứu độ và giữ vững đức tin sống động, cả dưới chân Thập Giá. Mẹ hằng cầu bầu cho các tín hữu và trở thành gương mẫu đặc biệt cho chúng ta trong đời sống cầu nguyện và đem Chúa Giêsu trao ban cho người khác.  

2. Lời Cầu Nguyện Tông Đồ 

Người môn đệ Đức Kitô nhận ra và làm chứng rằng Nước Trời là một quà tặng của Thiên Chúa, phải được khẩn khoản nài xin bằng lời cầu nguyện. 

Chính Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ của Ngài phải cầu nguyện cho Nước Thiên Chúa ngự đến (x. Mt 6, 9-10). Và nhờ hoạt động, người môn đệ loan báo Tin Mừng và khai mạc Nước Thiên Chúa.  

Mục đích của việc tông đồ là làm cho người khác nhận biết và yêu mến Thiên Chúa, Đấng không ngừng qui tụ mọi người từ khắp muôn phương.  

Lời cầu nguyện tông đồ xác tín và bảo đảm rằng Nước Thiên Chúa đến không tùy thuộc hành động của con người, nhưng lệ thuộc vào hành động của Thiên Chúa.  

Khi những người sống đời thánh hiến xác tín hơn rằng mình phải trở thành dụng cụ mềm mại trong tay Thiên Chúa cho hoạt động tông đồ, thì họ sẽ xác tín hơn về nhu cầu cầu nguyện, và sẽ giao phó chính mình cho hoạt động của Chúa Thánh Thần.   

3. Lời Cầu Nguyện Mục Vụ

Lời cầu nguyện mục vụ là một trong những bổn phận của người sống đời thánh hiến đối với đoàn dân mà mình phục vụ.       

Hoa trái của công tác mục vụ là do Chúa Thánh Thần, ta phải để Chúa Thánh Thần hướng dẫn thì các hoạt động của ta sẽ là của Ngài.  

Trách nhiệm mục vụ xuất hiện rõ nét nơi việc tham dự  Bí tích Thánh Thể và cử hành Phụng Vụ các Giờ Kinh cách ý thức, tích cực và sống động.  

Lời cầu nguyện mục vụ nhắm đến toàn thể nhân loại mà Chúa Kitô đã hiến mình chịu chết, chứ không chỉ giới hạn vào cộng đoàn đã được tập họp.  

D. CẦu nguyỆn thẾ nào?  

Chúng ta học cầu nguyện bằng việc cầu nguyện.

Yếu tố quan trọng nhất trong đời sống cầu nguyện là quyết định biến lời cầu nguyện thành một phần của đời sống toàn diện của chúng ta.  

Nếu Chúa có ý nghĩa cho tôi, tôi sẽ dành thời giờ để cầu nguyện. Còn nếu Chúa không có ý nghĩa gì cho tôi cả thì tôi chẳng để mất thời giờ làm chi. 

Việc cầu nguyện (trò chuyện với Chúa) phải theo chúng ta suốt ngày, hay nói cách khác là chúng ta phải cầu nguyện liên lĩ. Chúng ta sẽ mời Chúa trở nên một phần của tất cả niềm vui nỗi buồn, những chiến đấu và bận tâm, những kế hoạch và quyết định của chúng ta. Ngài là người cha đầy yêu thương ao ước đi vào cuộc sống của các con cái mình.  

Chúng ta cần điều chỉnh mỗi ngày với Ngài, nhờ đó các hoạt động của chúng ta không đuổi Ngài ra ngoài, trái lại chúng ta nhận ra hoạt động của Ngài trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta, và chúng ta không bao giờ ngăn cản ân huệ mà Chúa muốn ban cho kẻ khác qua chúng ta.  

Để duy trì một đời sống cầu nguyện và một mối liên hệ lành mạnh với Chúa, kinh nghiệm thúc đẩy những cam kết:

-          Khởi đầu ngày sống với việc dâng ngày và đọc Kinh Truyền Tin.

-          Kinh Nhật Tụng

-          Dành 10-15 phút nguyện gẫm mỗi ngày

-          Dâng Thánh Lễ và rước lễ

-          Lần hạt Mân Côi

-          Xưng tội đều đặn

-          Cầu nguyện trước và sau ăn cơm

-          Viếng Mình Thánh Chúa

-          Kết thúc ngày sống với một thoáng suy nghĩ xem ngày sống đã qua đi thế nào.

E. LỜi cẦu nguyỆn biẾn đỔi chúng ta.           

Nếu chúng ta cầu nguyện cách thích hợp, lời cầu nguyện sẽ biến đổi chúng ta: sau khi cầu nguyện, chúng ta sẽ trở nên khác hơn trước khi cầu nguyện.  

Chỉ cần xem phản ứng của chúng ta đối với người khác thì sẽ nhận ra được hậu quả biến đổi đó. Quả thế, người tin Chúa và cầu nguyện sẽ cư xử một cách khác với người không tin Chúa và không cầu nguyện. 

            Lời cầu nguyện làm cho chúng ta trở nên khác:

-          nó khiến chúng ta có thể làm những việc mà người không cầu nguyện không thể làm;

-          nó làm cho chúng ta có những chọn lựa mà người không cầu nguyện không thể chọn lựa hoặc chọn lựa sai;

-          nó làm cho chúng ta có thể tha thứ và yêu thương người khác dễ dàng hơn.

Lời cầu nguyện là nơi chúng ta xin Chúa đi vào cuộc đời chúng ta để Ngài có thể làm cho chúng ta thay đổi: Điểm chính yếu của cầu nguyện là để thay đổi, chứ không phải để vẫn như cũ.  

Khi chúng ta xin Chúa tha thứ thì điều đó có nghĩa là chúng ta có thể thay đổi: chúng ta có cái gì đó và có lẽ chúng ta đã có thể làm một cách khác. Như vậy lời cầu nguyện đưa chúng ta về với cái đó để giúp chúng ta thay đổi.  

Trong Kinh Nguyện Thánh Thể II, chúng ta thưa “Cảm tạ Chúa đã cho chúng con được xứng đáng đứng trước tôn nhan Chúa và phụng sự Chúa.” Chúa đã cho chúng ta phần của Ngài, chúng ta phải sống cho tương xứng.  

Tất cả mục đích của cầu nguyện là giúp chúng ta thay đổi: thay đổi từ một con người chỉ biết mình thành một con người biết nghĩ đến người khác. Lời cầu nguyện thay đổi chúng ta từ từ từng chút một.

F. PHƯƠNG THẾ ĐÀO TẠO SỐNG CẦU NGUYỆN 

1. Trách Nhiệm

Trách nhiệm đầu tiên là phải quan tâm đến sự tham dự của cả cộng đoàn và của từng người: Ý thức, sống động và tích cực  (x. Hiến chế về Phụng vụ)  

Không có đối nghịch giữa cầu nguyện cá nhân và cầu nguyện cộng đồng: cầu nguyện cộng đồng không chỉ đơn giản là tổng số những lời cầu nguyện cá nhân, mà phải là sự hiệp nhất của các con tim đang cầu nguyện (x. Cv 2, 46), vì cầu nguyện cá nhân vốn là sự kéo dài của kinh nguyện phụng vụ và đều hướng tới kinh nguyện phụng vụ.  

Và lời cầu nguyện cộng đồng nâng đỡ lời cầu nguyện cá nhân: sự khích lệ nhận được từ lời cầu nguyện cộng đồng sẽ giúp mỗi người vượt qua những thử thách và những khó khăn mà mỗi người không thể tránh khỏi trong cuộc sống. 

2. Thời Khắc

Phải ý thức sâu xa rằng đời sống thiêng liêng không thể chỉ đơn giản giản lược vào những thời khắc đặc biệt dành cho việc đọc kinh cầu nguyện, nhưng thời giờ cầu nguyện phải mở rộng ra trong toàn bộ cuộc sống.  

Nên nhớ rõ rằng giờ cầu nguyện độc hữu là chỉ dành cho việc cầu nguyện mà thôi, không làm chi khác; còn cầu nguyện liên lĩ là cầu nguyện trong khi làm bất cứ việc gì. 

Và Cầu nguyện góp phần thống nhất đời sống ơn gọi, dù đôi khi cuộc sống ơn gọi đó gặp phải những khó khăn và thử thách.

3. Nơi Chốn

Linh hướng là chỗ tin tưởng và tự do để nói về đời sống cầu nguyện, về phẩm chất kitô giáo và Giáo Hội của lời cầu nguyện đó, kiểm chứng tính kiên trì cam kết cầu nguyện, đặc biệt việc nguyện gẫm (tư tưởng chỉ huy hành động).  

Linh hướng là nơi huấn luyện cầu nguyện: Chị em bày tỏ những khó khăn, tiến bộ hay thụt lùi, chiến đấu và niềm vui khi cầu nguyện.  

Cuộc sống nhóm cũng là nơi để trao đổi và chia sẻ hữu ích về đời sống cầu nguyện.       

Người bị chán nản tìm ra hay tìm lại được con đường cầu nguyện, đọc ra ý nghĩa thiêng liêng của các biến cố trong cuộc sống.   

Được kích hoạt bởi đức ái cộng đoàn, mọi tu sĩ được mời gọi giúp đỡ lẫn nhau để đón nhận từ Chúa Cứu Thế sự phong phú nhiệm mầu của cuộc sống cầu nguyện và nội tâm.

G. CÁC HÌNH THỨC CẦU NGUYỆN

I. LIÊN QUAN ĐẾN LỜI CHÚA

1. lỜi chúa

Sách Thánh có thể dạy anh nên người khôn ngoan để được ơn cứu độ, nhờ lòng tin vào Đức Ki-tô Giê-su. Tất cả những gì viết trong Sách Thánh đều do Thiên Chúa linh hứng, và có ích cho việc giảng dạy, biện bác, sửa dạy, giáo dục để trở nên công chính. Nhờ vậy, người của Thiên Chúa nên thập toàn và được trang bị đầy đủ để làm mọi việc lành” (2 Tm 3, 15-17)

Thánh Gioan đã nói: Ai giữ Lời Chúa thì sống trong Chúa và tình yêu của Chúa được trọn hảo nơi người ấy (x 1Ga 2,5-6); và người ấy sẽ an toàn đi trên chính lộ đến cùng Chúa Cha (x. Ga 14,6).  

Lương thực đầu tiên nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng là Lời Chúa (x. Mt 4,4). Lời Chúa ban sự sống đời đời (x. Ga 6, 68); đổi mới cái nhìn của chúng ta về mọi sự.            

Lời Chúa soi sáng trí khôn, mời gọi tới đức tin, mở lớn niềm hy vọng, thức tỉnh và đổi mới tình yêu. “Lời Thiên Chúa là lời sống động, hữu hiệu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi: xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh, cốt với tuỷ; lời đó phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người” (Dt.4, 12)  

Suy niệm, sống và rao truyền Lời Chúa là bổn phận và sứ vụ của mọi tín hữu  (x. 1 Cr 9, 16). Chính Lời Chúa làm cho đời sống và sứ vụ tu sĩ được triển nở và sinh hoa kết trái dồi dào trong chương trình cứu độ của thánh ý Chúa (x. Is 55,10-11) 

Lời Chúa khám phá ra điều bí ẩn trong linh hồn, chất vấn, sửa chữa, hoán cải, đổi mới và thánh hoá con người, với “một tâm hồn mới và một tinh thần mới” (x. Ezk 18,31), bằng cách làm cho đời sống và hành động của con người được thấm nhuần những giá trị Phúc Âm.  

Ai nói rằng mình ở lại trong Người, thì phải đi trên con đường Đức Giêsu đã đi (1 Ga 2,6). Không có loài thọ tạo nào mà không hiện rõ trước Lời Chúa, nhưng tất cả đều trần trụi và phơi bày trước mặt Đấng có quyền đòi chúng ta trả lẽ (Dt. 4, 13)  

2. LECTIO DIVINA 

Khoa chú giải Thánh Kinh và Lectio Divina là hai bước biệt lập:

-          Chú giải Thánh Kinh giúp làm sao để thực sự đọc một bản văn với sự chú ý và khách quan (nhằm hiểu biết chính xác)

-          Lectio Divina gợi lên lòng khao khát đọc toàn bộ Kinh Thánh để khám phá và sống mỗi ngày một hơn sự phong phú bất tận của Lời Chúa (nhằm biến đổi đời sống) 

Lectio Divina là việc đọc đều đặn và cầu nguyện Thánh Kinh. Việc đọc và suy gẫm Lời Chúa hàng ngày hay hàng tuần đem lại nguồn lương thực nuôi dưỡng đời sống thiêng.   

Đặt cuộc sống mình dưới sức mạnh của Lời Chúa là bộc lộ thái độ của người môn đệ lắng nghe, của người tôi tớ vâng lời, của Người Con đến để thi hành thánh ý của Cha.   

3. PhỤng VỤ Các GiỜ Kinh  

Phụng Vụ Các Giờ Kinh là lời cầu nguyện của Hội Thánh. Nhịp điệu và cấu trúc của nó không ngừng hướng con tim và ý tưởng chúng ta về Chúa, Đấng là nguồn mọi thiện hảo.   

Chúng ta không chỉ coi Phụng vụ các Giờ Kinh như là một bổn phận bó buộc quan trọng, mà còn là một niềm vui và vinh dự tiếp chuyện với Chúa, thay cho cả Giáo Hội và thế giới. 

Ngày nay chúng ta được mời gọi cử hành PVCGK cách cộng đồng cùng với các thành phần khác của Dân Chúa. Hãy liệu làm sao cho mọi người được tham gia cách ý thức, tích cực và sống động, nội tâm hóa, chứ không máy móc hời hợt.  

Bỏ cầu nguyện là đánh mất mối dây liên lạc thân tình với Chúa Kitô. Mối dây liên lạc nhân quả giữa cầu nguyện và nhân đức, hay giữa sự khô khan của tâm hồn, thói xấu và những tương quan cá nhân sai lạc.   

Và sớm hay muộn, thì sự đánh mất tình thân thiết với Chúa cũng dẫn đến thảm họa: sụp đổ căn tính tông đồ và rời bỏ đời tu.   

4. NGUYỆN GẪM     

Nguyện gẫm cá nhân hằng ngày là một thực hành cổ điển để được lớn lên trong đời sống thiêng liêng: chiêm ngắm Chúa để rồi sống như Ngài, suy nghĩ với đầu óc của Chúa, nhìn với con mắt Chúa, yêu với trái tim Chúa, hành động bằng sức Chúa. 

Trong nhiều phương pháp nguyện gẫm của nhiều trường phái linh đạo khác nhau, ta có thể đi sâu vào một phương pháp thích hợp và khám phá ra cách thức riêng của mình để nguyện gẫm cho có hiệu quả. 

Phương pháp Xuân Bích đơn giản trong ba thì:

·         Đặt Chúa Giêsu trước mắt

·         đặt Chúa Giêsu trong tim

·         và đặt Chúa Giêsu trên bàn tay. 

Hình thức cầu nguyện bằng trí khôn này là một cuộc tìm kiếm đầy đủ và sâu xa sự hiện diện và hoạt động của Thiên Chúa, như được mạc khải nơi các bản văn ta đọc.   

Ta đem hết trí tưởng tượng, tình cảm, trí khôn và ý muốn để chiêm ngắm những lời nói và việc làm của Chúa Giêsu trong Tin Mừng.

Những khám phá như thế dẫn tới những biến đổi trong thái độ nội tâm và các động lực, ảnh hưởng đến cách ứng xử và làm phong phú mối tương quan của ta với Chúa (x. Lc 24,32). 

Nhờ vào bầu khí lắng nghe, trao đổi và khích lệ của các buổi gặp linh hướng, ta có thể chia sẻ và đánh giá những niềm vui và những khó khăn gặp phải, nhịp độ và những khám phá đã thực hiện. 

Nguyện gẫm phải là thời gian và nơi chốn không gì có thể thay thế. Nó là một niềm vui và một trắc nghiệm lòng trung thành với Chúa, trong sự hiện diện đầy yêu thương của Ngài.  

Sự khô khan không thể tránh khỏi và sa mạc là những cuộc tập luyện tốt để khỏi dính bén các ảo tưởng cho rằng mình trực tiếp nắm bắt được Chúa.   

Tuy nhiên, để giờ nguyện gẫm được tập trung sinh hoa kết quả thiêng liêng, chúng ta có thể kết hợp nhiều hoạt động: chiêm ngắm, đọc một đoạn Phúc Âm, ghi chép…  

Sau cùng, nguyện gẫm là nơi tiếp nhận và tái khám phá Thiên Chúa, Đấng không ngừng tự hiến mình cho những ai hằng tìm kiếm Ngài. Nhờ việc nguyện gẫm hằng ngày, ta hiệp thông với Chúa và kín múc được nghị lực phục vụ tha nhân.  

5. SÁCH THIÊNG LIÊNG              

Cùng với Lectio Divina, phải kể đến thực hành đọc đều đặn sách thiêng liêng của các Giáo phụ, cũng như của các tác giả tu đức, để có thể làm quen trong đức tin sứ điệp Tin Mừng được các chứng nhân sống động phiên dịch và chuyển tải.  

Sách thiêng liêng được coi là suối nguồn rất giá trị giúp ta lớn lên trong tương quan với Thiên Chúa. Nó là một con đường đức tin được chia sẻ trong kinh nghiệm của người khác.  

Điều quan trọng là sống làm sao. Tốt hơn là đọc ít đoạn rồi dừng lại để suy gẫm, thay vì đọc nhiều trang mà không để cho những điều đã đọc giúp mình tương quan thân mật với Chúa.  

Các sách thiêng liêng cổ thời hay hiện đại đều có thể giúp ta lớn lên trong đời sống thiêng liêng mỗi ngày. Điều quan trọng không phải là đọc một bản văn, nhưng là tìm ra từ bản văn ấy cái giúp phát triển các mối tương quan của con người với Thiên Chúa, với chính mình, với tha nhân và với thiên nhiên.   

Một ngày không đọc sách như chưa rửa mặt. Sau khi đọc xong một cuốn sách, người đọc sẽ trở nên khác trước, hoặc tốt hơn hoặc xấu hơn một chút.

II. BIỂU TƯỢNG & NGHI THỨC 

1. Bí Tích Thánh THỂ 

Thánh Thể là nguồn suối và chóp đỉnh của đời sống Giáo Hội, và cũng là trung tâm đời sống thánh hiến của chúng ta. Nhờ Thánh Lễ, ta tham dự vào lời cầu nguyện hiến tế của Chúa Kitô.  

Thánh Lễ không chỉ là một lời đáp trả cá nhân đối với tình yêu của Chúa Cha, nhưng là đại dương vô tận của những lời cầu khẩn, ca khen và dâng hiến của Chúa Kitô. “Thánh Thể nối kết trời với đất, ôm lấy và thấm nhuần tất cả tạo thành.” 

Chúa Kitô được tôn thờ dù dưới dấu chỉ khiêm tốn của miếng bánh vẫn là Đấng đã tự hiến chính mình vĩnh cửu cho Chúa Cha và đã trở nên lương thực ban sức mạnh cho tín hữu (x. Câu chuyện về Vua Tự Đức thời bắt đạo)  

Dâng lễ sẽ được trọn vẹn với hiệp lễ (x. Câu chuyện một gia đình đi du lịch sợ không dám ăn đồ ăn thịnh soạn người ta dọn ra, chỉ ăn lương thực thanh đạm mang theo và ngồi nhìn thèm tiệc người ta ăn, sau mới biết các bữa ăn đó đều đã được tính trong vé du lịch,tiếc thì đã muộn! 

Có nhiều hình thức khác nhau của việc tôn thờ này: Thánh Lễ, “viếng Mình Thánh Chúa” ngắn ngủi,  “thờ phượng” thường xuyên, “đêm thờ phượng”, “Giờ Thánh”, “chầu Thánh Thể liên tục”… 

Việc tôn thờ Thánh Thể thường xuyên giúp canh tân và xây dựng các cộng đoàn Giáo Hội trên khắp thế giới. Việc tôn thờ này mang lại nhiều nghị lực và hăng say cho các nhà truyền giáo, vì Thánh Thể là dấu chỉ thường xuyên của tình yêu Thiên Chúa.  

2. Bí Tích Sám HỐi 

Việc cử hành Bí Tích Hối Sám luôn là một cử hành phụng vụ, ngay cả với hình thức riêng tư của nó. Thực hành bí tích sám hối là một yếu tố trong đời sống cầu nguyện của cả hai người, người xưng thú lẫn người nghe xưng thú.  

Linh mục là thừa tác viên thường xuyên. Ngài không chỉ đều đặn thực hành bí tích này, mà còn cố gắng hiểu biết tốt hơn và cử hành nghiêm túc, vì bí tích này cũng là “một tập luyện tuyệt vời về nhân đức, đền tội…,  là trường tu đức không thể thay thế, là một sự trợ giúp thực sự trên con đường đổi mới và thánh hóa.   

Bí tích Hòa giải là một quà tặng, một khí cụ quan trọng:

-          cho sự tái định hướng, thánh hoá và tăng trưởng thiêng liêng,

-          đặc biệt nếu việc xưng tội không chỉ được coi là một nghi thức,

-          mà đúng hơn là một cơ hội không chỉ để xưng tội, mà còn để trao đổi với một cha giải tội và linh hướng có kinh nghiệm, nhờ đó đạt tới một kinh nghiệm chữa lành và vui sống.  

Việc linh hướng đều đặn là một bảo đảm khác cho việc tái định hướng, tăng trưởng và phát triển đời sống thiêng liêng trưởng thành của tu sĩ. Nếu không có vị linh hướng đúng nghĩa, thì có thể làm việc đó với cha giải tội.  

Ngoài cha giải tội thường xuyên, Dòng cũng nên liệu cho có cha giải tội ngoại thường, hoặc cho phép chị em đi gặp một cha giải tội thích hợp riêng, vì vấn đề lương tâm.  

Thường chỉ xưng tội thôi không đủ, hối nhân cũng cần được trao đổi giải quyết và như thế thấy được các gốc rễ sâu xa hơn của lỗi phạm, cùng mở ra các viễn ảnh tương lai.  

Lối xưng tội chia sẻ và đối thoại như thế cũng mang lại một sự cởi mở lớn hơn trên cả chiều kích nhân bản và thiêng liêng. Chính vị linh mục cũng được khích lệ rất nhiều trong một kinh nghiệm như thế, nhờ đó ngài có khả năng giúp đỡ những người khác trong cùng một đường lối hoặc tương tự.  

Bí tích hòa giải là một trong những quà tặng đặc biệt của linh mục cho kẻ khác trong thừa tác vụ bí tích của ngài, nhưng đồng thời nó cũng là khí cụ cho linh mục tăng trưởng trong đời sống thiêng liêng và bác ái mục tử. 

GIÁ TRỊ CỦA VIỆC XƯNG TỘI CÁ NHÂN 

Cuộc đối thoại giữa hối nhân và cha giải tội làm cho việc cử hành bí tích đáp ứng sít sao hơn với từng tình huống cụ thể của hối nhân, với các lý do khác nhau sau đây của hối nhân:   

-          Nhu cầu hòa giải cá nhân và tái nhập vào tình bằng hữu với Chúa nhờ nhận lại được những ơn đã mất do tội;

-          Nhu cầu tìm kiếm sự tiến bộ thiêng liêng: “Ta biết các việc ngươi làm, nỗi vất vả và lòng kiên nhẫn của ngươi… vì danh Ta. Nhưng Ta trách ngươi điều này: ngươi đã để mất tình yêu thuở ban đầu. Vậy hãy nhớ lại xem ngươi đã từ đâu rơi xuống, hãy hối cải và làm những việc ngươi đã làm thuở ban đầu. Bằng không, Ta đến với ngươi, và Ta sẽ đem cây đèn của ngươi ra khỏi chỗ của nó, nếu ngươi không hối cải.” (Kh 2,2-5)

-          Đôi khi cần một sự biện phân thích đáng hơn về ơn gọi.

-          Trong nhiều trường hợp, không những cần mà còn khao khát thoát khỏi tình trạng hờ hững thiêng liêng và khủng hoảng đời tu, hầu có một lối giải quyết, một lối đi mới trong chính hoàn cảnh cụ thể đang phải sống. 

Nhờ những đặc tính cá nhân đó, hình thức cử hành này liên kết với việc linh hướng.  

Trong cuộc đối thoại này phải tránh đề cập trực tiếp đến đệ tam nhân. Phải rất cẩn thận và tế nhị trong các câu hỏi để làm sáng tỏ hầu có biện pháp và lời khuyên thích ứng, giúp hối nhân thay đổi lật sang một trang mới của cuộc đời.  

Nhớ giúp linh mục tránh ba tội kèm theo vạ tiền kết dành riêng cho ĐGH: Lỗi ấn tòa giải tội, khuyến dâm trong tòa và giải tội cho đồng phạm.  

Tương quan linh hướng là một tương quan khép kín tay ba (Chúa Thánh Thần, người thụ hướng và vị linh hướng): Điều mà vị linh hướng khám phá về người thụ hướng ở toà trong sẽ không được tiết lộ ra ở toà ngoài. Dữ kiện này có cùng một qui chế như ấn toà giải tội. Điều này không chỉ để bảo vệ người thụ hướng, mà còn cống hiến cho họ sự tín nhiệm và tin tưởng rằng điều gì họ đã bộc lộ ở tòa trong vẫn được giữ bí mật. Chính niềm tín nhiệm và bảo đảm này mang lại sự chữa lành tận gốc các căn bệnh.  

3. Sùng Kính MẸ Maria

Mỗi người đều tự phát có lòng sùng kính sâu xa Đức Maria với con tim chân thành. Lòng tôn sùng đích thực được đặc trưng qua thái độ sống đơn sơ và khiêm tốn theo gương của Mẹ, phát sinh từ việc chiêm ngắm mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể. 

Mẹ ơi, Mẹ đã nêu gương,            

Cho con theo Chúa đau thương chớ rời ! 

Mẹ hướng dẫn chúng ta tới Chúa Giêsu, Đấng đưa chúng ta đến với Chúa Cha. Mẹ chỉ cho chúng ta con đường hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa, bởi vì Mẹ là người phụ nữ được Thiên Chúa tuyển chọn để thực hiện chương trình cứu độ của Ngài với tư cách là người đồng tham dự vào những biến cố tột đỉnh của lịch sử cứu độ.  

Mẹ được kêu cầu là Mẹ của Hội Thánh và Mẹ của mỗi người, vì khi trên thập giá, vào lúc tột đỉnh của sứ mạng cứu độ nhân loại, Chúa Giêsu đã trao phó Mẹ mình cho Gioan và ký thác Gioan cho Mẹ (Ga 19, 26-27): Chúng ta cũng hãy đón nhận Mẹ Maria vào trong nhà nội tâm và đời sống thánh hiến của chúng ta. 

Được sự che chở và hướng dẫn từ mẫu của Mẹ nâng đỡ và tăng sức mạnh, chúng ta có thể nhìn thấy mọi mối tương quan và các giai đoạn đời sống và sứ vụ tu sĩ của mình, bằng đôi mắt mới, bằng trái tim và trí não mới, và luôn bước đi trên con đường thánh thiện cần thiết. 

Là tu sĩ, chúng ta cần tăng cường lòng sùng kính Đức Mẹ. Sự hiện diện từ mẫu của Mẹ luôn là sự nâng đỡ cho chúng ta. Mẹ đã luôn theo sát Chúa Giêsu Con Mẹ, và bây giờ Mẹ vẫn tiếp tục đồng hành cùng chúng ta.  

Hãy luôn nuôi dưỡng lòng sùng kính con thảo đối với Mẹ. Mẹ luôn đồng hành với chúng ta và liên lĩ che chở chúng ta. Chúng ta hãy vào trường  Maria để học biết yêu thương và bước theo Đức Kitô trên hết mọi sự.  

Trong trường của Mẹ Maria, chúng ta học để đặt Chúa Kitô vào chỗ nhất trong cuộc đời chúng ta, và học để hướng tư tưởng cùng hành động của chúng ta theo Ngài: “Người bảo gì thì hãy làm theo.” 

Đúng vậy, nơi trường của Mẹ, chúng ta học biết thinh lặng, biết lắng nghe và phục vụ, đó là những điểm mấu chốt của đời sống người môn đệ. Mẹ Maria sẽ giúp chúng ta tiến sâu vào mối tương quan nhân vị và đích thực hơn với Chúa Giêsu, để chúng ta yêu mến Ngài và làm cho Ngài được yêu mến. Qua việc chiêm ngắm và lắng nghe Mẹ Maria, chúng ta sẽ hiểu hơn sức mạnh nâng đỡ và biến đổi của ơn thánh Chúa. 

Liên quan đến đời sống độc thân thanh khiết đang “bị thế giới của thời đại chúng ta nghi ngờ giá trị và cho là không thể giữ được”, Đức Phaolô VI cậy dựa vào lòng sùng kính nồng nhiệt và tỏa sáng đối với Mẹ Maria (Paul VI, Sacerdotalis Caelibatus, no. 1).

Vâng, chọn lựa độc thân thánh hiến của chúng ta cần được đặt nơi trái tim Mẹ Maria. Chúng ta hãy chạy đến cùng Mẹ, khi gặp khó khăn trên con đường đã chọn. Là trinh nữ và là mẹ, Mẹ Maria hiểu rất rõ trái tim chúng ta cần gì, và Mẹ biết làm thế nào để giữ cho chúng ta được trung thành với lời cam kết của mình. 

Chúng ta sẽ tìm được ẩn náu an toàn nơi người Mẹ trên trời của chúng ta. Mẹ sẽ giúp chúng ta thăng hoa trái tim và con mắt, để nhìn thấy Chúa ở trong và qua những người anh chị em quanh chúng ta. Chúng ta kêu xin Mẹ bảo vệ và biến đổi chúng ta và những ai thân thiết với chúng ta. Chúng ta sẽ không bao giờ thiếu sự chở che, nâng đỡ của Mẹ. Nhờ lời chuyển cầu của Mẹ, Chúa Thánh Thần sẽ gìn giữ sự độc thân trong trắng của chúng ta như Ngài đã làm cho Mẹ và Thánh Giuse.   

Vì thế, hãy hướng con mắt và trái tim, với niềm tín thác được đổi mới và lòng cậy trông con thảo, về Mẹ rất yêu dấu của Chúa Giêsu và Mẹ của Hội Thánh, và hãy kêu xin sự cầu bầu vạn năng và hiền mẫu của Mẹ cho mọi người sống đời thánh hiến. 

Có một việc thật đơn giản nhưng rất quan trọng của lòng sùng kính Mẹ Maria là lần chuỗi Mân côi, một bản Phúc Âm tóm tắt (x. Paul VI, Marialis Cultus: The Angelus and the Rosarry). Cầu nguyện chuỗi Mân Côi là tham dự vào đời sống và sứ vụ của Chúa Cứu Thế và Mẹ Người, Đấng đã trở nên mẹ của mỗi người.  

Mẹ dẫn dắt mọi người đến với Chúa Giêsu và Chúa Giêsu sẽ đưa họ tới Chúa Cha. Đây hẳn là hành trình đức tin chắc chắn theo gương Đức Trinh Nữ Maria. 

Hãy khuyến khích nhau giữ thói quen lần chuỗi, một mình khi đi đường tới trường học, ra đồng ruộng, tới chợ búa… (như pho tượng “Bà mẹ Bùi Chu” trong Vườn Tòa Giám Mục diễn tả), hoặc lần chuỗi chung với người khác, vì chuỗi mân côi sẽ đốt nóng và làm mạnh thêm mối giây ràng buộc giữa các con cái Chúa. Lời cầu nguyện này sẽ giúp chúng ta được mạnh mẽ hơn trong đức tin, bền vững hơn trong đức ái, được niềm vui và kiên trì trong niềm hy vọng.  

Theo gương mẫu và kinh nghiệm của Đức Gioan Phaolô II, chúng ta nên tận hiến cho Mẹ với lòng tin tưởng yêu mến, tìm trú ẩn nơi sự che chở của Mẹ, biết rằng trong lúc khó khăn chúng ta cũng không cô đơn, vì Mẹ sẽ nâng đỡ ủi an bằng sự dịu dàng từ mẫu của Mẹ. Ngài chia sẻ: “Suốt cuộc đời tôi, “Totus Tuus - Tất cả bản thân con là của Mẹ,” tôi đã cảm nghiệm rõ sự hiện diện đầy yêu thương của Mẹ. Mẹ Maria đồng hành với tôi mọi ngày để giúp tôi chu toàn sứ vụ là người kế vị Thánh Phêrô” (John Paul II, “Behold, Your Mother: Message for 18th World Youth Day” - Vatican City, March 19,2003).

Tôi đã mất mẹ sớm nên cũng cảm nhận và kinh nghiệm được sự an ủi, che chở và đồng hành đầy yêu thương của Mẹ Lavang cho đời linh mục của mình:

Mạ mất nay được Mẹ thay,

chuỗi đời côi cút bớt cay bớt buồn,

nhất là đêm lạnh mưa tuôn,

mưa tuôn ngoài phố mưa buồn trong tim.  

“Dù con lớn bao nhiêu tuổi, con vẫn là con của mẹ; dù con có đi tói cùng trời cuối đất thì lòng mẹ vẫn hằng theo con.”

Mẹ ơi, con Mẹ ngồi đây

Nỗi niềm tâm sự tỏ bày thân thưa

Mẹ hiền đã thấu cho chưa

Thử thách cay đắng liệu vừa sức con.

 

Hỏi rằng sao trả quá đắt?

Đồi cao thánh giá ai dắt ai dìu?

Dẫu rằng phải trả quá đắt,

đồi cao thánh giá Mẹ dắt Mẹ dìu.

 

H. CÁCH CẦU NGUYỆN Á CHÂU VÀ VIỆT NAM               

1. Thực tế không mong đợi

Trong cầu nguyện cộng đồng hay cá nhân, thể xác có thể trở nên căng thẳng, sự chú tâm bị phân tán và dao động, dù đã dùng Kinh Thánh, các bài hát, đọc kinh, lần chuỗi để cầu nguyện và suy gẫm. 

Lắm khi tương quan được tốt với Chúa, nhưng lắm khi cũng bị chia trí, đôi khi rất căng thẳng và mệt mỏi, và thường làm theo thói quen. Khi cầu nguyện cá nhân, đặc biệt lúc cầu nguyện thinh lặng và suy gẫm trong tâm trí, nhiều sự chia trí chiếm lấy đầu óc và cản trở cầu nguyện. Nhiều lúc kết thúc giờ cầu nguyện với khô khan trống rỗng, tinh thần đi đâu đâu…  

Để giải quyết vấn đề, người ta vận dụng toàn bộ tinh thần, thân xác để cầu nguyện, quen gọi là “lời cầu nguyện thân xác” (prayer body).

2. Cầu nguyện theo phong thái Á Châu  

Cách thức tu sĩ Phật giáo tọa tĩnh tòa sen tụng niệm có thể giúp chúng ta tái khám phá các hình thức chiêm niệm của cầu nguyện trong truyền thống kitô giáo và hội nhập chúng, bằng cách hướng chúng ta chú ý hơn nữa tới tư thế thân xác khi chúng ta cầu nguyện, hầu khám phá sự hiện diện của Thiên Chúa hằng sống.  

Các thực hành Zen hay Yoga có thể được dùng để giúp ta làm quen ý thức sự hiện diện của Chúa, cảm nhận chính mình như một toàn thể tinh-thần-thân-xác trong tương quan với Chúa. Dần dần ta sẽ đắc thủ được thói quen sống sự hiện diện của Chúa, nghĩa là thường xuyên hướng chú ý của mình về sự hiện diện đầy yêu thương và sống động của Chúa ở trong và quanh mình. 

Thời gian thinh lặng của những ngày tĩnh tâm hay cấm phòng cống hiến những cơ hội thuận lợi để phát triển ý thức sự hiện diện này của Chúa ở một mức độ sâu hơn.   

Khởi đầu, ta bỏ ra 15 hoặc 20 phút, hay lâu hơn nếu muốn, để tạo một tư thế thư giản bằng cách kiểm soát hơi thở (hít vào và thở ra thật sâu); đồng thời tẩy bỏ khỏi đầu óc bất cứ bận rộn hay suy nghĩ nào, và để chìm sâu trong sự hiện diện của Chúa ở trong và ở quanh ta.   

Tiếp đến, ta đi vào một cuộc đàm thoại đơn sơ, sâu lắng với Chúa đang hiện diện, về bất cứ cái gì đang chất chứa trong tâm hồn ta lúc đó. Có lẽ ta chẳng có gì để nói, mà chỉ thích ngồi lắng nghe Chúa. Giây phút thinh lặng này thật bình an và thoải mái.  

Nếu cứ tập luyện mỗi ngày, ta sẽ khám phá được rằng  dần dần ta trở nên càng ngày càng chú tâm vào Chúa hơn, và rằng ta đang lớn lên trong hiểu biết, nhẫn nại và yêu thương đối với những người chung quanh.   

Tập thư giản bằng cách hít dưỡng khí vào thật sâu qua mũi cho căng đầy bụng, rồi chuyển qua huyệt đan điền, đẩy ra toàn thân tới tận chân tơ kẻ tóc / đường gân thớ thịt. Xong lại rút thán khí về qua huyệt đan điền để đẩy ra ngoài qua miệng. Trong khi đó để tâm trí kiểm soát đường đi của hơi thở. Còn ý nghĩ thì nghĩ rằng Chúa Thánh Thần đi vào để thánh hóa và rút bỏ những xấu xa quỉ quái khỏi lòng trí và thân xác ta.   

Khi hít vào, ta cũng có thể nghĩ là mình đón nhận tất cả những gì là tích cực; còn thở ra là loại bỏ tất cả những gì là tiêu cực, từ bất cứ đâu mà đến.                                   

Với cách này, ta tập giữ tâm hồn ở trạng thái thanh thản, như kinh Yataka dạy ‘Con hãy giữ tâm như đất: trên đất, người ta đổ ra dầu ngọt dầu chua, dầu cay dầu đắng, dầu sạch dầu dơ, đất vẫn một mực thản nhiên, đất không giận, đất không thương’   

Nhiều người cũng vận dụng lối này để tự chữa bệnh bằng ý thức tính chất bồi bổ của dưỡng khí và quyền năng thần linh của Thần Khí: hít vào chuyển quyền lực thần linh cùng dưỡng khí tới chỗ đau của cơ thể để chữa lành, thở ra xin quyền lực thần linh lấy cái đau của cơ thể vất ra khỏi thân xác cùng với thán khí. Dĩ nhiên phải có sự đồng bộ của hít thở và ý thức, với niềm tin tưởng không nghi ngờ. 

3. Ích Lợi của cách cầu nguyện Á Châu

Các tôn giáo Á Châu giới thiệu nhiều cách thức đưa dẫn và thúc đẩy trọn vẹn con người vào cầu nguyện: thể xác, trí khôn, con tim, trí nhớ, trí tưởng tượng, hơi thở, tư thế thân xác và ngay cả môi trường bên ngoài đều được sử dụng cho việc cầu nguyện, và người ta gọi đó là “cầu nguyện thân xác”   

Phương pháp này nâng cao phẩm chất của cầu nguyện, cũng như phẩm chất của người cầu nguyện. Việc thực tập lắng nghe này làm ta dễ dàng đi vào tiếp xúc và hiệp thông với Chúa. Sự ý thức thụ động này giúp ta mở rộng lòng và “phó mặc” cho ơn Chúa hoạt động.   

Thái độ đón nhận thụ động này mang lại sự thinh lặng nội tâm cần thiết cho việc cầu nguyện, nhờ đó ta được Lời Chúa Kitô và ơn Chúa Thánh Thần đánh động và biến đổi.  

Thực hành thư giãn tạo nên bình an nội tâm và sự hài hòa làm cho tiến trình cầu nguyện được dễ dàng, trong khi thực hành tập trung cao độ lại rất hữu ích cho đời sống cầu nguyện. Nhịp thở có thể giúp gia tăng sự chú ý, tập trung và ý thức, là những cái làm cho tiến trình cầu nguyện của con người được dễ dàng.  

4. Cầu Nguyện Tập Trung   

Các bậc thầy Zen hay Yoga có thể cầu nguyện (suy niệm và chiêm niệm) liên tục nhiều giờ. Họ cầu nguyện bằng tâm trí, hay chính xác hơn là bằng cách tập trung tư tưởng. Đây là một hình thức cầu nguyện rất đơn giản, thường không dùng lời nói (cầu nguyện bằng lời). 

Để đi vào cầu nguyện tập trung, ta phải để mình hoàn toàn lệ thuộc vào Chúa và để cho tình yêu của Chúa Thánh Thần chi phối. Hãy lặn xuống trong sâu thẳm cõi lòng, nơi đó Thiên Chúa đang thực hiện những điều kỳ diệu; và hãy mở lòng cho Chúa Thánh Thần đang cư ngụ trong ta.  

Phương pháp của cầu nguyện tập trung là: 

    Ngồi yên lặng, tư thế thoải mái và thư giãn;

    Nghỉ ngơi trong lòng khao khát Chúa;

    Hướng vào trung tâm bản ngã của mình;

    Trong yên lặng, ý thức sự hiện diện của Chúa và bình an hấp thụ tình yêu của Ngài.  

Ngày nay, nhiều người công giáo học theo phương pháp cầu nguyện này. Nếu kiên trì tập luyện thì ngày qua ngày, cầu nguyện tập trung sẽ giúp ta đi vào hiệp thông với Chúa ở mức độ sâu thẳm nhất. Ta sẽ cảm thấy bình an hơn và càng ao ước mối tương quan yêu thương này với Chúa. Ta sẽ được thúc đẩy tìm kiếm sự kết hiệp chiêm niệm sâu xa hơn nữa, mà bất cứ người sống đời dâng hiến nào cũng đều được mời gọi.   

Nếu nguyện gẫm được mô tả như lời cầu nguyện của tâm trí tìm biến đổi con tim, thì chiêm niệm là lời cầu nguyện của con tim sẽ biến đổi tâm trí. 

Cầu nguyện tập trung có thể giúp những người tìm kiếm Chúa kinh nghiệm được lợi ích tuyệt vời này. Thay vì dùng nhiều lời, ta có thể bắt đầu cầu nguyện tập trung bằng cách chọn một lời thôi: một lời thánh thiêng mang một ý nghĩa đặc biệt, có thể là một danh hiệu của Chúa, hay một lời rút ra từ Thánh Kinh.   

Sau khi đã ổn định được tư thế thoải mái và thư giãn để cầu nguyện, hãy để nhịp thở nhẹ nhàng và đều đặn, hãy nhắm mắt lại và nói lên trong thinh lặng lời thánh thiêng đó, chú tâm vào sự hiện diện của Chúa và biểu lộ lòng ưng thuận của mình cho hoạt động của Ngài nơi bản thân mình.   

Khi những tư tưởng hay cảm nhận, những hình ảnh và kỷ niệm nổi lên làm chia trí, hãy nhẹ nhàng quay trở lại với lời thánh thiêng đó và để nó chiếm lĩnh hiện trường của ý thức. Không cần phải làm gì nhiều hơn thế. Không có gì đặc biệt để phấn đấu hay bất cứ kết quả rõ ràng nào để đạt cho được.  

Khi thời giờ cầu nguyện đã hết, từ sâu thẳm cuộc đối thoại thinh lặng với Chúa, hãy từ từ trở về cùng thế giới bên ngoài và những hoạt động thường nhật của mình. 

5. Vượt Qua Những Khó Khăn và Kiên Trì Trong Đời Sống Cầu Nguyện  

Ta phải nhớ những thực tế này: Ta có thể gặp nhiều khó khăn trong suốt hành trình cầu nguyện. Cầu nguyện không chỉ gồm toàn những kinh nghiệm vui mừng và thích thú. Khô khan và tăm tối cũng là một phần thiết yếu trong quá trình trưởng thành và biến đổi. 

Tự biết mình không phải luôn luôn là một kinh nghiệm vui thích, nhưng thông thường là một quá trình đau đớn của sự chấp nhận chính mình để được chữa lành. Ta phải học sống khiêm nhường, siêu thoát, từ bỏ và quên mình để chiến đấu chống lại tính kiêu căng tự mãn với tất cả những sức kháng cự tiềm ẩn của nó. Chỉ với lòng khiêm tốn và sự cởi mở với ơn Chúa, ta mới có thể đương đầu trong cuộc chiến đấu này.   

Cách cầu nguyện Á Châu này thúc đẩy trọn vẹn con người vào trong mối tương quan với Chúa và làm biến đổi con người cách lớn lao trong mọi chiều kích (thể lý, tâm lý và thiêng liêng): Siêu nhiên không phá hủy tự nhiên, nhưng thăng tiến tự nhiên.   

Vậy, một khi áp dụng cách thực hành lắng nghe, thư giản và tập trung, ta càng trở nên ý thức hơn mình là ai và phải làm gì, không chỉ trong lời cầu nguyện mà còn trong đời sống hằng ngày của mình nữa. 

 IX. THINH LẶNG VÀ ĐỜI SỐNG CẦU NGUYỆN

a. Thinh lặng cần thiết cho cầu nguyện 

Sự thinh lặng không thể bị chia tách bên ngoài và bên trong được. Thinh lặng bên ngoài vừa là một tiến trình đào tạo trưởng thành nhân bản, vừa là phương tiện bảo đảm sự yên tĩnh của tâm hồn, để hồi tâm và sống thân mật với Thiên Chúa, trong đời sống thiêng liêng.  

Thinh lặng nội tâm là sự bình an của linh hồn sống trong sự hiện diện của Chúa, nhờ nỗ lực kiểm soát các đam mê, kiềm chế những tưởng tượng viển vông, lo âu, kích động thái quá hay những suy sụp chán nản.

Thinh lặng nội tâm là thái độ sâu xa của linh hồn tìm kiếm mọi sự từ Thiên Chúa và hoàn toàn qui hướng về Ngài. Thinh lặng nội tâm và thinh lặng bên ngoài cần đến nhau và nuôi dưỡng nhau. Vì thế, luật sống phải coi thinh lặng bên ngoài như là hỗ trợ ưu tiên, vì ở đâu thinh lặng bên ngoài không hiện hữu thì thinh lặng nội tâm cũng vắng mặt. 

Thinh lặng là bầu khí thiêng liêng và sống còn để cảm nhận sự hiện diện của Thiên Chúa. Nhờ thinh lặng, con người biết chỗ của mình trước mặt Chúa, đồng thời tỏ lộ lòng khiêm tốn và khả năng lắng nghe khi Chúa nói.

Nhờ thinh lặng của thân xác, trí óc và con tim, ta mới có thể đạt tới sự hiệp nhất và hiệp thông với Chúa: “Hãy lặng thinh và hãy biết rằng Ta là Thiên Chúa” (Tv 46, 10).  

Thinh lặng này không phải là một không gian trống rỗng, bởi vì Thiên Chúa luôn có đó để lấp đầy. Nhiệm vụ quan trọng nhất là phải ý thức rằng ta luôn ở trong sự hiện diện của Chúa và không thể tách khỏi Ngài. [Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ, vô duyên đối diện bất tương phùng] 

Thinh lặng là một trong những thách đố lớn: Người này tìm kiếm thinh lặng, kẻ khác lại làm mọi cách để tránh nó: “Cần hai năm để học nói, nhưng cần cả đời để học thinh lặng.”  Nhưng thinh lặng hỗ trợ lời nói, chuẩn bị cho lời nói và làm cho lời nói nên phong phú. Ngôi Lời, chìm sâu trong mầu nhiệm lặng thinh của Thiên Chúa để bộc lộ và thông truyền Thiên Chúa cho con người: HÀI ĐỒNG LÀ LỜI MÀ THẲM LẶNG. 

Thinh lặng, nội tâm lẫn bên ngoài, là bầu khí đúng đắn của việc giáo dục toàn diện: nơi đào tạo “phải là nơi của thinh lặng, là nhà cầu nguyện, nơi đó Chúa tiếp tục qui tụ các môn đệ riêng ra, để họ sống cái kinh nghiệm mạnh mẽ của sự gặp gỡ và chiêm niệm.”  

b. Thinh Lặng trong Phụng Vụ            

Thinh lặng luôn là một phần của việc thờ phượng. Phụng vụ cung cấp nhiều cơ hội để thinh lặng: Ngưng nghỉ một khoảng thời gian thích hợp sau mỗi bài đọc; nghỉ chốc lát để suy niệm sau bài giảng, hay sau lời kêu mời “chúng ta dâng lời cầu nguyện.” Sau hiệp lễ, nên dành một thời gian thinh lặng để kết hiệp với Chúa Giêsu đang ngự trong lòng.. 

Phụng vụ các Giờ Kinh cũng cho ta nhiều dịp để thinh lặng: Sau vinh tụng ca và trước điệp ca của thánh vịnh kế tiếp, một chút ngưng nghỉ để cộng đoàn suy niệm về thánh vị đó; sau bài đọc Lời Chúa và trước xướng đáp, một lúc thinh lặng hợp lý để suy niệm.  

Nhờ ý thức sự hiện diện bí ẩn của Thiên Chúa, chúng ta chậm rải đi vào thinh lặng sâu lắng. Cầu nguyện trở thành sự kết hợp những lúc thinh lặng và lời nói trong một thái độ chiêm niệm, và đời sống thiêng liêng được triển nở với Chúa Kitô trong Thiên Chúa.

c. Thinh Lặng Trong Nhà            

Mọi người đều phải cẩn trọng để khỏi làm xáo trộn sự thinh lặng của người khác. Radio, máy nghe băng, Tivi, âm lượng trao đổi… phải được kiềm chế và điều chỉnh để bảo vệ bầu khí chiêm niệm, vốn phù hợp cho đời sống cầu nguyện và học tập. Không đòi phải thinh lặng tuyệt đối, nhưng cuộc trao đổi phải được giữ ở mức tối thiểu.  

d. Thinh Lặng Cấm Phòng hay Tĩnh Tâm  

Các cuộc tĩnh tâm bồi dưỡng thiêng liêng là:

-          những cơ hội khả dĩ để trải nghiệm sự thinh lặng,

-          tìm lại nguồn năng lượng cho đời sống cầu nguyện và đức tin,

-          cũng còn là dịp để lấy lại sức lực cho thể xác, trí khôn và linh hồn.  

Người tĩnh tâm được khuyến khích loại bỏ những mối bận tâm làm mất sự thinh lặng bề ngoài như báo chí, truyền thanh, truyền hình…

Càng đi vào thinh lặng và thăng tiến đời sống chiêm niệm, chúng ta càng có thể lắng nghe tiếng Chúa với những thanh âm đặc biệt và mới lạ. Merton nói rằng mức độ truyền thông cao nhất là hiệp thông, nghĩa là trở nên một với Chúa. 

Thái độ chiêm niệm này là thích hợp, phải được trải dài trong suốt cuộc sống và sứ vụ của người sống đời thánh hiến: “Thinh lặng là quê hương của người hùng” (đại tướng Foch).  

e. Thinh Lặng và Tiếng Chúa

Cho dù cá nhân con người vẫn mở ra trước siêu việt, trước tuyệt đối, thì việc lắng nghe tiếng Chúa và hiểu rõ giá trị của thinh lặng trong sâu thẳm lòng người, nơi họ hiện diện một mình với Thiên Chúa (Gaudium et Spes 16), cũng là việc rất khó trong xã hội hiện đại.

Sự thinh lặng cho phép chúng ta nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa và để cho sự hiện diện này chiếm đoạt. Ta phải tạo được một cảm thức về thinh lặng nội tâm thực sự để có thể lắng nghe và hiểu sâu xa Lời Chúa, và kiên nhẫn tìm Chúa Kitô qua chính kinh nghiệm lắng nghe tiếng Chúa trong cầu nguyện của mình. Kinh nghiệm này giúp ta trở thành  thầy dạy cầu nguyện cho người khác.   

Thinh lặng nội tâm tìm được nơi Chúa Kitô suối nguồn và mục đích, là phó thác cho Chúa Cha và tùy thuộc vào Ngài, là sự thân mật nội tâm và đối thoại thực sự với Chúa. 

Thinh lặng bên trong và thinh lặng bên ngoài ảnh hưởng lẫn nhau và nuôi dưỡng nhau. Nơi nào thinh lặng bên ngoài không hiện hữu thì thinh lặng nội tâm cũng vắng bóng. Luật Sống tu trì phải thu xếp ưu tiên cho việc này.

X. SỨC MẠNH CỦA LỜI CẦU NGUYỆN

a. Qua Chúa Giêsu  

Lời cầu nguyện hoạt động thế nào và làm sao sử dụng nó? Chúa luôn có mặt  và lời cầu nguyện thay đổi mọi sự !  

Hãy học cho biết lời cầu nguyện hoạt động thế nào. Lời cầu nguyện phát ra một sức mạnh vô giới hạn để giúp ích cho bạn và tha nhân.

Hãy thay đổi chính bạn, rồi thế giới chung quanh bạn sẽ thay đổi. Một ít nguyên tắc sau đây giúp bạn có một đời sống cầu nguyện hữu hiệu.

Hãy hòa mạng và kết nối 

Lời cầu nguyện với Chúa không phải là một nghi thức, nhưng là một hiệp thông sống động đầy yêu thương như giữa những người bạn tốt nhất. Nhưng phải buồn mà nói rằng nhiều người nghĩ họ không thể nói chuyện với Chúa như thế.  

Một số người nghĩ rằng họ không đạo đức đủ, không ngay chính đủ, hay không siêu nhiên đủ. Số khác nghĩ Chúa quá lớn lao, quá cao xa ở trên họ. Một số nghĩ Chúa quá bận rộn không có thời giờ quan tâm đến họ và những vấn đề của họ, mà họ nghĩ là hết sức nhỏ mọn đối với Chúa. Một số khác nghĩ họ bất xứng, không tốt lành đủ để đến với Chúa. Số khác cảm thấy họ có tội hay xấu hổ về những việc họ đã làm. Một số khác ngay cả sợ Chúa nữa.   

Giá mà họ hiểu được rằng cách Chúa nhìn khác biệt cách suy nghĩ của họ biết bao! Chúa muốn có một liên hệ cá nhân với mỗi một người trong chúng ta, và Ngài muốn đó là mối liên hệ sâu xa nhất, ý nghĩa nhất, viên mãn nhất và đáng thưởng nhất, và là phần tự nhiên nhất của đời sống chúng ta.

Điều đó không có nghĩa là Chúa muốn lấy đi những mối liên hệ và các hoạt động khác mà chúng ta ưa thích và cho là quan trọng. Ngược lại, Chúa muốn Ngài là một phần của tất cả những thứ ấy của chúng ta. Chúa muốn làm cho cuộc sống mỗi ngày của chúng ta được dễ dàng hơn, những điều chúng ta trải nghiệm có ý nghĩa lớn lao hơn, và Ngài muốn cùng với chúng ta thưởng thức chúng.  

Tắt một lời, Ngài muốn làm cho cuộc đời chúng ta trở nên tốt đẹp hơn. Ngài muốn thêm một chiều kích mới diệu kỳ vào tất cả những gì chúng ta làm, đó là sự hiện diện đầy yêu thương của Ngài.  

Chúng ta làm sao để thiết lập được một mối liên hệ như thế, nhất là khi cảm thấy mình quá bé nhỏ, thiếu đạo đức và bất xứng? Chúng ta làm thế nào thực hiện được cuộc kết nối đó?
- Đơn giản thôi: Qua Chúa Giêsu !

Không ai trong chúng ta có thể thực sự nắm bắt được Thiên Chúa là Cha chúng ta cao cả và kỳ diệu thế nào, bởi vì Ngài và Thần Khí của Ngài lớn hơn toàn thể vũ trụ. Ngài hành động vượt quá trí hiểu chúng ta là Ngài đã gửi đến cho chúng ta

-          Một Người có thể chỉ cho chúng ta thấy tình yêu của Ngài, 

-          Một Người mà chúng ta có thể kinh nghiệm được,

-          Một Người có thể mang Thiên Chúa xuống tầm hiểu biết nhân loại giới hạn của chúng ta.                               

Vậy là Ngài đã gửi Chúa Giêsu đến với chúng ta 

b. Cầu nguyện là hiệp thông  

Như bất cứ tình bạn sâu xa và bền vững nào, liên hệ của bạn với Chúa Giêsu sẽ được mạnh mẽ nhờ mối hiệp thông thành thật và cởi mở thường xuyên. 

Lời cầu nguyện thực sự là tất cả những cái đó: hiệp thông tâm hồn (con tim với con tim) với Chúa Giêsu. Bạn có thể cầu nguyện ở bất cứ đâu, vào bất cứ lúc nào. Bạn không phải ngồi hay đứng. Bạn không phải ở trong nhà thờ, một cơ sở tôn giáo, hay bất cứ một nơi đặc biệt nào cả.   

Cầu nguyện là kết nối tim bạn với tim Chúa, chẳng quan tâm đến những gì chung quanh bạn. Chúa Giêsu hoàn toàn phó mình cho bạn, và Ngài luôn lấy làm hạnh phúc cho bạn mượn một lỗ tai và một cánh tay sẵn sàng trợ giúp. Ngài quan tâm đến bạn và tất cả những gì bạn phải trải qua. Ngài hạnh phúc để nghe và trả lời các yêu cầu của bạn.  

Nhưng cầu nguyện còn hơn thế nữa: Chúa Giêsu cũng muốn hiệp thông với bạn, nói chuyện với bạn. Ngài muốn cho bạn những lời nói riêng tư của tình yêu và khích lệ, và Ngài muốn giúp bạn giải quyết các vấn đề của bạn. Ngài có mọi câu trả lời, nhưng Ngài làm sao cho bạn các câu trả lời đó được, nếu bạn không lắng nghe?  

Bạn cần học nhận ra tiếng nói của Ngài, khi Ngài nói với tâm trí bạn và đặt tư tưởng của Ngài trong trí khôn bạn.  

c. Lời cầu nguyện làm ích cho bạn  

Dành thời gian với Chúa sẽ có vô số lợi ích, bạn không thể nào đếm nổi: 

-          Ngài có thể giúp bạn giải quyết mọi vấn đề của bạn,

-          trả lời mọi vấn nạn của bạn,

-          chữa lành mọi nỗi đau lòng của bạn,

-          an ủi bạn khi bạn buồn phiền,

-          ban cho bạn niềm vui,

-          mang bạn lại gần Thiên đàng hơn…

Danh sách các lợi ích sẽ vô tận.

Lời cầu nguyện thay đổi mọi sự. Nó là một phương tiện để Chúa ban cho con cái Ngài những gì họ cần hay muốn, miễn là những cái đó tốt cho họ và cho kẻ khác: “Bất cứ cái gì con cầu xin, hãy tin rằng con sẽ nhận được” (Mt 21:22). 

Bạn sẽ tìm được nghỉ ngơi và đổi mới, khi tinh thần bạn bị suy sụp và trí của bạn bị xao xuyến: “Hãy đến với Ta, hỡi tất cả những ai vất vả và gánh nặng, Ta sẽ cho nghỉ ngơi... Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhượng thật trong lòng, và các ngươi sẽ tìm được nghỉ ngơi cho tâm hồn, vì ách của Ta êm ái và gánh của Ta nhẹ nhàng” (Mt 11,28-30).

Chúa Giêsu sẽ dẫn dắt bạn qua những rối rắm của cuộc đời. Ngài sẽ giúp bạn biết phải làm gì khi bạn phải đối diện với những vấn đề và những quyết định cam go. Ngài đã hứa sẽ chỉ dẫn cho bạn, củng cố tư tưởng của bạn, và hướng dẫn những bước đường của bạn: “Hãy nhận biết Chúa trong mọi đường đi nước bước, Ngài sẽ hướng dẫn mọi đường nẻo con đi” (Cn 3:6).  

Khi con lưỡng lự không biết quẹo phải hay trái, tai con sẽ được nghe một tiếng nói từ phía sau: Đây là đường, cứ đi theo đó!” (Is 30:21). 

d. Lời cầu nguyện sinh ích cho kẻ khác    

Lời cầu nguyện của bạn không thể chỉ thay đổi mọi việc cho bạn mà thôi đâu, chúng cũng thăng tiến cách đáng kể cuộc đời của người khác nữa. 

“Thang máy = Vòng tay Giêsu” 

Người ta nói rằng cầu nguyện cho người khác không phải là cái nhỏ nhất bạn có thể làm cho họ, nhưng là cái lớn nhất. Lời cầu nguyện của bạn đánh động lòng Chúa khiến Ngài hành động thay cho họ.  

Nhờ lời cầu nguyện của bạn, người khác có thể nhận được hầu hết những lợi ích như bạn đã nhận được khi bạn cầu nguyện cho chính bạn, bao gồm ơn an ủi, sự che chở, ơn giải thoát khỏi lo âu và sợ hải, ơn chữa lành, sự trợ giúp vật chất, và nhiều nữa…  

Tất cả chúng ta phải biết rằng những phúc lành của chúng ta không phải là kết quả của chỉ lời cầu nguyện của chúng ta mà thôi đâu, nhưng là do người khác đã cầu nguyện cho chúng ta. Nhiều người vẫn xin bạn cầu nguyện cho họ; và lắm khi bạn có hứa. Vậy bạn đã thực sự cầu nguyện cho họ đến không? “Phêrô, kìa Ma quỉ đã xin được sàng các con như người ta sàng gạo. Nhưng Thầy đã cầu nguyện cho con để con khỏi mất lòng tin. Phần con, một khi đã trở lại, hãy làm cho anh em của con nên vững mạnh” (Lk 22, 31-32) 

Quả thế, khi Chúa Giêsu chết trên thập giá, Ngài đã nghĩ đến bạn! Hãy làm cho người khác điều bạn ao ước người khác làm cho chính bạn:

Đấu nào con đong cho người,

Cũng bằng đấu ấy Chúa Trời cho con.

e. Suy tư vầ cầu nguyện 

Lời cầu nguyện mở ra một đường dẫn từ sự trống rỗng của chúng ta đến sự tràn đầy của Chúa. Nó là đường kết nối giữa các nhu cầu nhân loại và suối nguồn thần linh. 

Bạn phải học thiết lập mối liên hệ cá nhân với quyền năng của Chúa, và để Ngài làm cái công việc mang đến cho bạn niềm vui, sức khỏe và hạnh phúc.    

Không một người nào, dù nam hay nữ, đã chu toàn được nhiều như thế so với một chút thời giờ bỏ ra khi cầu nguyện. Lời cầu nguyện làm chuyển động con tim và cánh tay của Chúa. Ngài vui thích khi sử dụng chúng ta, khi giới hạn sự oai nghiêm và sức mạnh toàn năng của Ngài trong đôi tay của những con người mỏng dòn, dù là nam hay là nữ.   

Vậy bạn hãy cầu nguyện đi! Nếu bạn có thói quen cầu nguyện riêng tư, thì cũng chẳng khó khăn gì cho bạn khi cầu nguyện công cộng đâu. Giá trị lời cầu nguyện của bạn không căn cứ ở lượng, nhưng ở phẩm! “Nếu các con ở lại trong Thầy và lời Thầy ở lại trong các con, thì các con muốn gì cứ xin, các con sẽ được ban cho như ý” (Ga 15, 7).  

Bạn có thể kinh nghiệm được quyền năng phép lạ đó vẫn làm việc trong cuộc đời bạn, chẳng hạn Chúa cho bạn lời giải đáp cho các vấn đề của bạn, can đảm và sức mạnh để trực diện với nghịch cảnh, bình an tâm hồn, ơn chữa lành, tha thứ, tình yêu thương, khích lệ, động viên… Hãy chia sẻ những điều này cho kẻ khác với! Xin Chúa chúc lành cho bạn !

XI. ĐỂ THÀNH NGƯỜI ĐÀO TẠO VÀ HƯỚNG DẪN KẺ KHÁC CẦU NGUYỆN

1. Học Chủ Sự Cầu Nguyện 

Chúng ta chỉ có thể huấn luyện người khác trong trường cầu nguyện của Chúa Giêsu, nếu chúng ta để mình tiếp tục được huấn luyện và tự đào luyện chính mình bằng sự cần mẫn thực hành đời sống cầu nguyện cá nhân, cũng như tích cực tham gia vào các hoạt động chủ sự cầu nguyện.

Mỗi người hãy luân phiên với các nhà đào tạo trong việc hướng dẫn các giờ kinh trong cộng đoàn. Những cơ hội này cung cấp cho chúng ta kinh nghiệm hướng dẫn cầu nguyện cho giáo dân khi ra xứ.

Một trong những vai trò của việc cử hành là giúp cộng đoàn cầu nguyện, bằng cách làm cho cộng đoàn có thể đi vào trong chính mầu nhiệm đang cử hành. Sự hiện diện, những lời suy niệm và phẩm chất các lời hướng dẫn của chúng ta phải  mang tính thúc giục quyết tâm.

Tuy nhiên, đôi khi chúng ta có cảm giác mình không thể cầu nguyện sốt sắng được, vì thường bị chi phối bởi tiến trình cử hành, bởi những chi tiết của việc tổ chức và bởi những phản ứng của cộng đoàn. 

Vì thế, chúng ta cần phải chuẩn bị cho lời kinh phụng vụ, về phương diện kỹ thuật cũng như phương diện thiêng liêng, để chúng ta sống những gì chúng ta nói và hướng dẫn.

Nếu có chuẩn bị thực sự, chúng ta sẽ cảm thấy tự do hơn để cầu nguyện và qui tụ lời cầu nguyện của cộng đoàn lên Chúa.  Trong thời gian đào tạo ở Dòng, việc huấn luyện phụng vụ phải cung ứng cho ứng sinh một sự chuẩn bị tốt cho việc cử hành, không chỉ về mặt kỹ thuật, mà nhất là về mặt thiêng liêng. Phải quan tâm đến cơ hội lên tiếng trong cử hành phụng vụ (chẳng hạn vào lúc bắt đầu Thánh Lễ). Việc đó khiến chúng ta cố gắng giúp cộng đoàn đi vào cầu nguyện.

2.  Học Hướng Dẫn Thiêng Liêng 

Chúng ta phải chuẩn bị chính mình để có thể hướng dẫn cộng đoàn Dân Chúa trong đời sống thiêng liêng, đặc biệt trong việc linh hướng. Trong lãnh vực này, ta phải điều chỉnh lại quan niệm cho rằng chỉ linh mục mới làm linh hướng, vì ngày nay việc linh hướng và xưng tội có thể tách biệt nhau; đồng thời có nhiều nam nữ tu sĩ có khả năng làm linh hướng. Tuy nhiên, những ai muốn và được Bề Trên cắt cử làm linh hướng phải được Chúa Thánh Thần kêu gọi và phải được đào tạo kỹ lưỡng.

 

KẾT LUẬN

Chúng ta phải luôn ý thức về căn tính của mình trong mọi chiều kích nhân bản, thiêng liêng, giới tính và tâm lý của một đời sống quân bình và trưởng thành, để luôn trung thành với lời cam kết và sứ vụ của mình, đặc biệt là trong đời sống cầu nguyện: chúng ta cầu nguyện thế nào thì chúng ta sống thế ấy, và chúng ta sống thế nào thì chúng ta cầu nguyện như vậy.

Chúng ta có thể cảm thấy được an ủi và hay phải chán nản trong cầu nguyện. Vì thế, chúng ta phải ý thức rằng chúng ta cầu nguyện không phải để thoả mãn những gì chúng ta sẽ nhận được, nhưng để tìm gặp Chúa, mà Chúa thì đôi khi được thấy trong sự trần trụi và không ích kỷ.

Không ai biết được lúc nào Chúa đến. Thái độ chờ đợi trong cầu nguyện phải là thái độ ý thức và tỉnh táo. Vì thế, Tân Ước đã nhiều lần nhắc nhở chúng ta phải kiên trì trong cầu nguyện. Chúng ta phải trung thành với thời gian mà chính chúng ta đã ấn định cho việc cầu nguyện: luôn trung thành với lời cầu nguyện hằng ngày và kiên trì trong suốt thời gian cầu nguyện. Điều này dẫn đến một lời cầu nguyện sâu xa.

Chúng ta cũng phải kiên trì tìm gặp gỡ với Chúa ở bất cứ nơi nào và vào bất cứ lúc nào. Chúa Giêsu đã hứa ở lại với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Ngài hiểu rõ chúng ta, luôn sẵn sàng giúp đỡ và trấn an chúng ta trong những lúc khó khăn và hoang mang: Hãy yên lòng, Thầy đây, đừng sợ!

VỀ MỤC LỤC
THỊT ÐỎ, THỊT TRẮNG

  

“Ăn nhiều thịt đó có thể giảm tuổi thọ”

Đó là kết quả nghiên cứu do Viện Ung Thư Hoa Kỳ thực hiện và được phổ biến trên Archives of Internal Medicine ngày 24 tháng 3 năm 2009.

Người hướng dẫn nghiên cứu, bác sĩ Rashmi Sinha cho biết tiêu thụ 4 oz (113g) thịt đỏ mỗi ngày (tương đường với một hamburger nhỏ) sẽ tăng nguy cơ tử vong tới 30 lần trong vòng 10 năm sắp tới vì bệnh tim hoặc ung thư. Thịt xúc xích, bacon hoặc thịt chế biến khác cũng gây hậu quả tương tự.

 Nghiên cứu cũng cho hay, ăn thịt gà vịt, cá, gà tây cũng giảm nguy cơ tử vong một chút.

Các nghiên cứu trước đây đã tìm thấy một sự liên hệ giữa tiêu thụ nhiều thịt đỏ với tăng rủi ro bệnh tim và ung thư, đặc biệt ung thư ruột già. Nhưng theo các quan sát viên, việc làm của Viện Ung Thư Hoa Kỳ rộng rãi hơn và là nghiên cứu đầu tiên về rủi ro của thịt đỏ với tử vong.

Tin tức này đã được y giới cũng như truyền thông rộng rãi gửi tới quần chúng và trở nên đề tài mà giới tiêu thụ thắc mắc, nhắc nhở. Vì đối với thường dân, thịt nào chả là thịt. Họ vẫn thường được nhắc nhở rằng, thịt là chất dinh dưỡng quan trọng cho cơ thể, mỗi người phải tiêu thụ hàng ngày để sinh tồn. 

Vậy thì thịt đỏ và thịt trắng khác nhau như thế nào?

Xin cùng tìm hiểu. 

Trong phạm vi dinh dưỡng, Thịt là chất đạm do động vật có vú, gia súc, chim muông cầm thú trên rừng, ngoài ruộng cũng như sinh vật dưới nước cung cấp. Đây là phần mềm nằm giữa da và xương và cũng là thành phần cấu tạo các bộ phận của cơ thể.

Gia súc là những động vật có sừng, móng chân chẻ như bò, cừu dê, heo. 

Cấu trúc

Thịt được tạo thành bởi vô số những sợi tế bào nhỏ chứa dung dịch protein, nitrogen, muối, carbohydrat, diêu tố, sinh tố, khoáng chất và chất mầu. Chung quanh sợi thịt là một dung dịch chất lỏng có cùng các thành phần vừa kể.

Tất cả được bao bọc bởi những màng đạm chất gọi là mô liên kết. Mô liên kết càng ít thì chất béo càng nhiều và thịt sẽ mềm hơn.  

Thịt có khoảng 75% nước, 25% đạm và 5% còn lại là chất béo, carbohydrat và khoáng chất.

Tỷ lệ nước thay đổi tùy theo loại thịt, vị trí thịt trên con vật, tùy theo mùa trong năm cũng như thời tiết của vũ trụ vào lúc con vật bị giết mổ.

Cấu trúc của thớ thịt ảnh hưởng tới phẩm chất thịt. Cấu trúc này tùy thuộc vào sự vận động, dinh dưỡng và tuổi của con vật.

Chúng ta thường khoái ăn món “thịt gà đi bộ”, cho là thịt chắc hơn là thịt công nghiệp, nuôi chung trong phòng hẹp, không nhúc nhích được. Theo một số tác giả, vận động nhiều làm cho thịt kém mềm. Tuy nhiên có nghiên cứu lại nói vận động làm cơ bắp phì đại. giảm mô liên kết, nhờ đó thịt mềm.

Thường thường, động vật về già hơi có nhiều mô liên kết hơn khi còn ít tuổi đời, do đó thịt thường dai. 

Vận động nhiều, tuổi cao thì thịt cứng và dai. Thịt thăn-lưng- sườn mềm hơn thịt ở vai, bụng.

Ngay sau khi con vật được hy sinh, thịt trở nên cứng; nhưng để vài ngày nó lại mềm dẻo (pliant) trở lại.

Thịt bò có mầu đỏ, bê mầu hồng nhạt, lợn hồng xám, cừu non có mầu đỏ thẫm. Mầu của thịt là do chất myoglobin tạo thành. 

Mỡ trong các loại thịt cũng khác nhau: mỡ heo thì mềm, mầu hồng nhạt; mỡ cừu cứng; mỡ bê có rất ít chất béo còn mỡ bò thì cứng, mầu trắng hoặc trắng ngà.

Thịt bò có nhiều chất đạm hơn thịt lợn nhưng thịt lợn lại nhiều chất béo hơn.

Khách mua thịt thường để ý coi thịt có ngon, tươi, mềm và có dễ dàng cho việc nấu nướng.  

Cách làm mềm thịt

Có nhiều cách để làm cho thịt mềm:

- Sau khi mổ, thịt được giữ trong phòng lạnh với nhiệt độ từ 3º đến 4ºC, với độ ẩm khoảng 80 % để thịt khỏi khô. Giữ như vậy thì một số diêu tố và vi sinh vật sẽ tác dụng vào thịt và thịt sẽ giữ được trạng thái ban đầu.

- Làm mềm bằng cách cho điện chay qua khiến thịt giãn mềm. Lý do là thịt có một trương lực co giãn. Khi luồng điện chạy qua thì thớ thịt sẽ liên hồi co giãn, tới khi mềm thì hết co.

- Cán và đập vào thịt có thể tăng độ mềm tới 50%. Xay hoặc cắt từng khúc nhỏ cũng làm thịt mềm.

- Một số diếu tố thực vật như chất papain của đu đủ, ficin của trái sung, bromelin của trái dứa ...cũng làm thịt mềm khi nấu. 

Nấu thịt

Phẩm chất của thịt tùy theo thịt cắt ở phần nào của con vật. Thịt thăn, thịt lườn mềm ngon hơn.

Tuy nhiên, dù sử dụng phần thịt nào mà với tay đầu bếp hiểu biết, kinh nghiệm, họ có nhiều cách để làm món thịt hấp dẫn và ngon hơn .

 Nguyên tắc đầu tiên cần nhớ là không nên nấu thịt ở nhiệt độ quá cao, trong thời gian quá lâu, thịt sẽ teo và dai vì sẽ bị mất nước thịt và mỡ.

Nấu từ từ ở nhiệt độ vừa phải, khoảng 150ºC, thịt sẽ mềm và mọng nước ngọt. Dưới tác dụng của hơi nóng, các thớ thịt dính với nhau, mỡ lỏng ra và thịt đổi mầu từ đỏ sang hồng rồi nâu hay xám.  

Sau đây là mấy cách nấu thịt.

a-- Nấu với chất lỏng như om (braise) trong nồi đậy kín, nấu cách thủy hoặc luộc.

Luộc thì cho nhiều nước còn om thì nước vừa phải, ngập mặt thịt là đủ. Nước ngọt của thịt sẽ hòa tan trong nước sáo, nước dùng.

 Nấu cách thủy là làm chín thịt bằng hơi nước sôi, chất ngọt của thịt được giữ nguyên. Thịt có thể được ướp gia vị, mắm muối tùy theo ý thích trước khi nấu. 

b- Đút lò, nướng trên vỉ hoặc trong chảo không cho thêm nước hoặc mỡ. 

c- Thịt làm cháy sém mặt ngoài rồi mới nấu có nhiều vị ngọt hơn là không cháy sém vì chất ngọt được giữ nguyên trong thịt. 

Cắt thái thịt

Cắt thịt đã nấu cũng là cả một nghệ thuật: phải có dao thật sắc, cắt ngang thớ thịt chứ không cắt dọc theo thớ, cắt thành từng miếng gọn gàng bằng nhau. 

Giá trị dinh dưỡng

Có người thích ăn thịt bò, người thích thị heo, thịt gà. Thịt càng khó kiếm thì càng quý như thịt thú vật trên rừng, nhưng chỉ là để thay đổi khẩu vị chứ không có giá trị dinh dưỡng hơn như nhiều người tin tưởng.

Thịt là nguồn chất đạm quan trọng và nhiều khoáng phosphor, đồng, sắt và kẽm. Gan có nhiều chất sắt, nhất là gan lợn. Gan cũng có một số sinh tố A.

Các loại sinh tố nhóm B như thiamin, riboflavin, niacin hòa tan trong nước, do đó khi nấu thịt với nước thì sinh tố tan vào nước dùng còn khi nướng thì các sinh tố vương vãi đi mất. 

Rủi ro của thịt

Có một số ý kiến cho là ăn nhiều thịt làm tăng nguy cơ bệnh động mạch tim, cao huyết áp, ung thư ruột già.

 Vấn đề bệnh động mạch tim là vì nhiều người sợ thịt có nhiều mở bão hòa. Cho nên nếu giới hạn chất béo, chất cholesterol từ động vật, dùng nhiều hơn chất béo thực vật bất bão hòa trong khẩu phần ăn hàng ngày sẽ tránh được nguy cơ này.

Cao huyết áp thực ra không phải do thịt mà có thể là ở loại thịt muối có nhiều muối natri.

Vấn đề ung thư ruột già thì chưa có bằng chứng rõ rệt nào về sự liên hệ nhân quả này.

Cần lưu ý là trong thịt gia súc đôi khi có nhiều hóa chất như kháng sinh, hormon tăng trọng. Các hóa chất này được dùng để làm gia súc mau lớn và ngừa bệnh tật. Cơ quan chính quyền thường không cho phép trang trại nuôi súc vật bằng hóa chất vài tuần trước khi giết thịt.

Các cơ quan y tế ngày càng quan tâm hơn đến việc kiểm soát phẩm chất thịt trên thị trường. Nhiều nơi đã quy định việc đóng dấu kiểm tra lên thịt để người dùng có thể an tâm về mức độ an toàn.

Tuy nhiên, để tránh mọi bất trắc có thể do thịt gây ra, thì ta cứ khôn ngoan như cổ nhân: tiêu thụ thịt vừa phải, ăn nhiều thực phẩm khác nhau. Vì cuộc sống của con người lâu hay mau, khỏe mạnh hay yếu đuối tùy thuộc phần lớn vào cách ăn uống của họ. 

Vài ưu tư về thịt động vật

Thịt chế biến

Trên thị trường có bán nhiều loại acid amin pha lẫn với sinh tố, khoáng chất dưới hình thức viên, bột hoặc dung dịch lỏng. Đa số được chế biến từ chất đạm động vật hoặc thực vật.

Cách đây nhiều  năm, Cơ Quan Thực Phẩm và Dược Phẩm Hoa Kỳ đã ra lệnh cấm một loại acid amin biến chế bán trên thị trường vì có gần hai mươi người thiệt mạng sau khi dùng.

Những acid amin chế biến  này thường được quảng cáo là làm bắp thịt nở nang, có nhiều năng lượng rất tốt cho người vận động nhiều và cho ai muốn giảm cân. Nhưng theo các nhà dinh dưỡng,  chúng không có giá trị đúng như quảng cáo mà còn có thể gây nhiều nguy hiểm như sáo trộn trong việc hấp thụ chất đạm thiên nhiên, làm tăng bài tiết calci đưa tới loãng xương và tiêu chẩy.

Nhưng “thịt thay thế” làm từ đạm thực vật thì được coi như tốt vì ít gây rủi ro cho tim và mạch máu. “Thịt” này  có hương vị tương tự thịt động vật, lại dễ tiêu, nhiều sinh tố, khoáng chất.  Đa số  các “giả thịt” được làm từ đậu nành vì đậu này có nhiều chất dinh dưỡng hơn các thực vật khác.

Thịt đỏ, thịt trắng

Thịt đỏ, thịt trắng là nói tới mầu của các sợi thịt trong thịt gia súc trước khi nấu nướng..

Màu của thịt có thể là đỏ, trắng hoặc mảu trung dung tùy theo tỷ lệ của sợi thịt đỏ.

Màu đỏ là do một số chất màu như là huyết tố cơ (myoglobin) và huyết cầu tố (hemoglobin) trong sợi thịt mà thành.

Thịt đỏ có 40% sợi mầu đỏ trong khi đó thịt trắng chỉ có 30%.

Nồng độ chất màu thay đổi tùy theo loại động vật, thực phẩm, vai trò cấu tạo của cơ bắp, sự vận động của con vật cũng như phái tính và tuổi tác của chúng.

Ngoài ra cũng có một vài chất mầu khác trong thịt mà chất thấy rõ hơn cả là mầu vàng có trong các mô mỡ.

Theo Bộ Canh Nông Hoa Kỳ, các súc vật nuôi trong trang trại như bò, cừu, dê, heo có nhiều myoglobin hơn gà vịt, cá cho nên được xếp vào nhóm thịt đỏ.

Tỷ lệ myoglobin trong thịt bò non là 0,4-1%, bò già 1.5- 2%; heo và thịt bê 0,1-0,3%; gà đùi 0,18-0,20%; thịt gà “trắng” white meat chỉ có 0,05%.

Từ trước, thịt heo thuộc nhóm thịt đỏ vì nhiều myoglobin hơn gà vịt, cá. Vào thập niên 1980, dân chúng ý thức được sự nguy hại của thịt đỏ, cho nên các chủ trại nuôi heo làm một cuộc “khuyến thị” quảng cáo thịt heo như một thứ thịt đỏ khác không nguy hại. Và họ đã thành công với thương vụ gia tăng.

Coi vậy thì gọi là thịt đỏ  vì có chất mầu đỏ hemoglobin và myoglobin mà thành phần cấu tạo gồm có chất đạm và sắt. Vai trỏ chính của chúng chỉ là chuyên chở oxygen.

Vấn đề cần lưu ý là thịt đỏ thường có nhiều chất béo bão hòa hơn là các loại thịt khác. Mà chất béo, nếu tiêu thụ quá nhiều sẽ gây ra một số bệnh cho cơ thể, như bệnh tim mạch, mập phì, tai biến não…Do đó, y giới vẫn luôn luôn nhắc nhở là nên ăn thịt nạc, ít mỡ.

Tháng 2 năm 2006, nghiên cứu tại Đại học Harvard, Hoa Kỳ, ở phụ nữ cho hay, ăn nhiều red meat tăng rủi ro ung thư nhũ hoa.

Giáo sư Sheila Bingham, viện dinh dưỡng Cambridge, Anh quốc cho hay là đã từ lâu, mọi người đã ý thức được là ăn nhiều thịt đỏ và thịt chế biến là nguy cơ ung thư ruột già.

Mới đây, các nghiên cứu gia tại Đức lại nêu ra một tin vui khác là, không ăn hoặc bớt ăn thịt đỏ có thể kéo dài tuổi thọ.

Về lý do gây hại của thịt đỏ, các nhà nghiên cứu đưa ra ba giải thích tạm thời:

- Khi nấu nướng, đặc biệt khi nướng, một số hóa chất gây ung thư có thể được tạo ra và gây bệnh.

- Một chất có tự nhiên trong thịt có thể có tác dụng tương tự như hormon nữ, và đưa tới ung thư vú.

- Các hormon mà trang chủ nuôi súc vật có thể là rủi ro gây ung thư vú.


Kết luận

Nhận xét về thịt đỏ, bác sĩ Barry Popkin, Đại học North Carolina, nhấn mạnh là ăn một ít thịt đỏ có nhiều ích lợi cho sức khỏe. Nhưng ông ta nói thêm: “Điều quan trọng là nên giảm tiêu thụ tổng số lượng thịt, nhất là thịt chế biến, thịt bảo quản với nhiều muối và giảm số lượng chất béo bão hòa trong thịt”.Và “Nếu muốn trường thọ trong khỏe mạnh, nên bớt ăn thịt đỏ”.

Còn  chuyên gia dinh dưỡng Mark Wahlqvist, Đại học Monash bên Úc châu tuyên bố ăn một chút thịt đỏ khoảng 30g/ngày cung cấp cho cơ thể một số chất dinh dưỡng quan trọng, đặc biệt là khi thịt này lại có ít mỡ béo”.

Thực ra, vẫn còn nhiều điều cần tìm hiểu, tranh luận vể thịt và thịt đỏ thịt trắng nhưng ý kiến chung của các nhà dinh dưỡng thì khôn ngoan hơn cả là nên áp dụng một chế độ dinh dưỡng với nhiều thực phẩm khác nhau, số lượng cân bằng và ăn vừa đủ cho nhu cầu cơ thể.

Như trong tài liệu Hướng Dẫn của Hội Dinh Dưỡng Hoa Kỳ.

Bác sĩ Nguyễn Ý-Đức   Texas-Hoa Kỳ.

VỀ MỤC LỤC
MẶT NẠ  Chuyện phiếm của Gã Siêu

 

Cách đây mấy năm, cứ mỗi khi hè về, các đài truyền hình tại Việt Nam  đều thi nhau trình chiếu bộ phim “Tây Du Ký” để phục vụ quí vị con nít.

Chính vì thế, sáng hôm nay, khi gã chuẩn bị đi chợ, thì đứa cháu con ông bác đến bên và năn nỉ ỉ ôi :

- Chú nhớ mua cho cháu chiếc mặt nạ Tôn Ngộ Không nhé.

Chẳng là thấy bọn nhóc hàng xóm, đứa nào cũng trang bị cho mình một chiếc mặt nạ. Đứa thì đeo mặt nạ Đường Tăng. Đứa thì đeo mặt nạ Trư Bát Giới. Vì thế, đứa cháu gã nhất định đòi cho bằng được chiếc mặt nạ Tôn Ngộ Không.

Ghé vô tiệm bán đồ chơi con nít, gã nhìn thấy đủ thứ mặt nạ, làm bằng giấy cũng như làm bằng nhựa, từ “Người nhện” cho đến con sư tử. Từ cô gái mắt to cho đến thằng quỉ dữ. Thôi thì hầm bà lằng…

Cầm chiếc mặt nạ Tôn Ngộ Không, mang về cho đứa cháu mà bỗng dưng gã cảm thấy buồn rười rượi, bởi vì gã nghiệm rằng trong cuộc sống hiện nay có quá nhiều người đeo mặt nạ để đến với nhau.

Thế nhưng, trước hết mặt nạ là gì ?

Mặt nạ là một thứ mặt giả, được làm bằng những chất liệu khác nhau, như “các tông”, nhựa dẻo, kim loại…Tùy theo công dụng của nó, mà chúng ta có được những thứ mặt nạ khác nhau.

Trong quân đội, những người lính được trang bị chiếc mặt nạ chống hơi độc, khi tấn công vào những cao ốc hay những đường hầm bị coi là nguy hiểm.

Tại thẩm mỹ viện, các bà các cô đến để chăm sóc sắc đẹp, cũng thường được các chuyên viên đắp cho một chiếc mặt  nạ bằng kem, bằng bột, bằng dưa leo, bằng cà chua, bằng lòng trắng trứng gà…để tẩy và dưỡng da mặt.

Tại bệnh viện, người ta cũng thường chụp vào mặt bệnh nhân một chiếc mặt nạ, để gây mê, hay để giúp cho bệnh nhân được thở dưỡng khí.

Trong lãnh vực thể thao, những người thợ lặn được trang bị chiếc mặt nạ để có thể thở dưới nước. Hay những vận động viên đấu kiếm cũng được trang bị chiếc mặt nạ bằng sắt để phòng chống những tai nạn có thể xảy ra.

Tuy nhiên, người ta thường hay dùng mặt nạ để che dấu bộ mặt thật của mình trong những lễ hội.

Theo phong tục phương Tây, mặt nạ thường được sử dụng trong hai lễ hội chính yếu sau  đây :

Lễ hội thứ nhất là lễ hội giả trang, hay  “Carnaval”, được tổ chức vào ngày thứ ba trước thứ tư lễ tro. Người Pháp gọi ngày thứ ba này là “thứ ba béo” (mardi gras). Trong ngày thứ ba béo, người ta mặc sức ăn uống, nhảy nhót, đeo mặt nạ và cải trang thành con người hay con vật mà mình muốn diễn tả.

Lễ hội này chấm dứt vào lúc 12 giờ đêm, để rồi ngày thứ tư lễ tro, người ta sẽ ăn chay kiêng thịt, xức tro trên đầu, như dấu chỉ của cõi lòng sám hối ăn năn và chính thức bước vào…mùa chay. Phải chăng đây là một sự bù lỗ cho những hy sinh hãm mình người ta thực hiện trong suốt bốn mươi ngày đêm trong mùa chay ?

Lễ hội thứ hai là lễ hội “Halloween”, được tổ chức vào tối ngày 31 tháng 10. Đây là một lễ hội dành riêng cho quí vị con nít. Buổi tối hôm ấy, bọn nhóc được hóa trang và mang mặt nạ quỉ dữ, đi tới từng nhà và người trong nhà thường phải cho bọn nhóc ấy  bánh kẹo.

Từ những sự việc kể trên, hai chữ “mặt nạ” được mang thêm một nghĩa bóng, đó là sự giả hình và gian dối. Chẳng hạn như khi chúng ta nói :

- Hãy lột mặt nạ những kẻ hắc ám.

Nếu hiểu đeo mặt nạ là sống bằng sự giả hình và gian dối, thì có lẽ con số những kẻ đeo mặt nạ hơi bị nhiều trong xã hội rồi đấy.

Sách Cổ Học Tinh Hoa kể lại “Lời nói của người bán cam” như sau :

Ở Hàng Châu có người bán các thứ quả, khéo để dành cam, lâu ngày mà không ủng, vỏ vẫn đỏ hồng, trông đẹp như vàng, như ngọc, đem ra chợ bán giá đắt, mà người ta lại tranh nhau mua. Ta cũng mua một quả. Đem về bóc ra, hơi xông lên mũi, múi xác như bông nát. Ta liền đem ra chợ hỏi người bán cam :

- Anh bán cam cho người ta để làm của cúng lễ, đãi khách khứa hay là chỉ làm cho choáng bề ngoài để đánh lừa người ta ? Tệ thật ! Anh giả dối lắm !

Người bán cam cười và nói :

- Tôi làm nghề này đã lâu năm để kiếm tiền nuôi thân. Tôi bán, người ta mua, chẳng ai nói gì, chỉ có ông kêu ca ! Thiên hạ giả dối nhiều chẳng phải gì một mình tôi ? Ông thật không chịu nghĩ đến nơi…Này thử xem, người đeo hổ phù, ngồi da hổ, hùng dũng trông ra dáng quan võ lắm, kỳ thực không biết có giỏi được như Tôn Tẫn, Ngô Khởi không ? Người đội mũ cao, đóng đai dài, đường hoàng trông ra dáng quan văn lắm, kỳ thực không biết có giỏi được như Y Doãn, Cao Dao không ? Giặc nổi lên không biết dẹp, dân khổ không biết cứu, quan lại tham nhũng không biết trừng trị, pháp độ hỏng nát không biết sửa đổi, ngồi không ăn lương, chẳng biết xấu hổ. Thế mà lúc ngồi công đường, đi xe ngựa, uống rượu ngon, ăn cao lương, oai vệ, hách dịch vô cùng ! Đó bề ngoài chẳng như vàng như ngọc, mà bề trong chẳng như bông nát là gì ? Ông không chịu xét những hạng người ấy, mà đi xét quả cam của tôi.

Ta nghe nói, nín lặng, không trả lời được ra làm sao. Ta nghĩ người ấy nói có giọng khôi hài. Dễ chừng người ấy ghét kẻ gian tà, giận phường thế tục, mới thác ra truyện bán cam để dạy người đời chăng ?

Vì vậy, bàn dân thiên hạ mới có câu thơ :

- Trông em, anh tưởng sao mai,

  Biết rằng trong có như ngoài hay không ?

- Nhác trông cứ tượng tô vàng,

  Nhìn ra mới biết chẫu chàng ngày mưa.

Báo chí tại Việt Nam trong những ngày gần đây đã phanh phui biết bao nhiêu quan chức đã dùng bằng giả để leo lên ghế nọ ghế kia.

Vào chợ mua sắm, chúng ta gặp phải biết bao nhiêu loại hàng giả. Nếu không tinh ý thì khó mà phân biệt được. Thậm chí người ta đã tổ chức cả một hội chợ tại Hà Nội đề trình bày những mẫu mã hàng thiệc và hàng giả.

Bác nông dân mua chai thuốc diệt cỏ, mang về xịt trên ruộng đồng. Xịt xong cỏ không chết mà còn liên tục phát triển, thành thử bị thất thu. Thì ra đó chỉ là thuốc dổm.

Có anh bạn quí từ xa ghé thăm, bèn vội chạy ra tiệm mua một chai rượu tây XO hẳn hoi để đãi khách. Thế nhưng, thoạt khi mở nắp, mùi cồn nồng nặc xông lên mũi. Hóa ra đó là hàng nhái. Đổ đi thì tiếc, mà uống vào thì nhức đầu.

Tuy nhiên, điều bi đát hơn cả đó là người ta đến với nhau bằng những chiếc mặt nạ, người ta cư xử với nhau bằng sự giả dối, người ta luôn “đóng kịch” với nhau ở mọi nơi và trong mọi lúc.

Sự gian dối và lường gạt dường như đã trở thành một nguyên tắc chỉ đạo, giúp chúng ta gặt hái những thành công trên đường đời.

Trước hết là trong lãnh vực thương mại : muốn mau kiếm lời, thì phải gian dối bằng mọi cách. Nào là cân thiếu và thước hụt. Nào là hàng giả và hàng nhái. Nào là nói thách và nói dối. Có  nói thành không và không nói thành có. Buôn bán mà cứ thật thà như đếm, thì thà rằng dẹp tiệm đi còn hơn.

Chính vì vậy, người xưa đã bảo :

- Thật thà như thể lái trâu,

  Yêu nhau cũng thể nàng dâu mẹ chồng.

Tiếp đến là trong lãnh vực quân sự : muốn mau chiến thắng thì làm sao phải lừa được kẻ địch. Gã nhớ không rõ lắm, hình như trong “Tam Quốc Diễn Nghĩa” có kể lại một sự việc như sau :

Tào Tháo dẫn một đội quân hùng tấn công Gia Cát Lượng. Thấy lực lượng của mình vừa ít lại vừa yếu, Khổng Minh bèn dùng kế nghi binh. Ông buộc cành cây vào đuôi ngựa, rồi đánh cho ngựa phi nước đại, làm cho cát bụi tung bay mịt mù. Địch quân thấy vậy hoảng sợ chạy trốn và Khồng Minh đã chiến thắng một cách dễ dàng.

Trước ngày 30 tháng 4 năm 1975 cũng thế. Việt Cộng tuy ít, nhưng dùng chiến thuật du kích, bất ngờ tấn công chỗ này chỗ khác. Rồi gây hoảng sợ bằng cách tung tin đồn thất thiệt, đã chiếm được tỉnh nọ tỉnh kia. Tạo hoang mang bằng cách bắn đọp đọp chỗ này vài tiếng, chỗ kia vài tiếng, ngụy trang máy cày thành chiến xa, lái đi ầm ầm trong đêm, làm cho tâm lý quân đội và người miền Nam bị chao đảo và hốt hoảng. Chính vì sự chao đảo và hốt hoảng này đã dẫn tới tình trạng co rúm và thua chạy, dù chẳng bị tấn công.

Trong lãnh vực chính trị cũng thế : Để chạy đua vào những chức vụ quan trọng như tổng thống, dân biểu, nghị sĩ…các ứng cử viên đã tự đánh bóng mình bằng những hình ảnh đẹp đẽ và những lời tuyên bố đao to búa lớn thật nảy lửa. Nhưng sau khi đã an tọa trên chiếc ghế của mình, thì mọi sự vẫn…vẫn như cũ.

Dám ăn dám nói là chuyện đương nhiên, còn có dám làm hay không, thì việc này còn phải…”ngâm kíu” và xét lại.

Người ta thường bảo :

- Nghề luật sư là nghề thường xuyên phải giả dối, thường xuyên phải đóng kịch.

Chính một luật sư bên Âu châu đã phát biểu :

- Nghề diễn viên rất cần cho nghề luật sư. Khi ra tòa, nếu mô tả được đúng tình cảm định khoác cho mình, thì rất có ảnh hưởng đến người nghe, là bồi thẩm đoàn và ba tòa quan lớn : không giận mà làm như giận, không thương mà làm như thương, như vậy bảo đảm “chăm phần chăm” là sẽ thành công.

Cũng vị luật sư này đã kết luận một cách chua chát :

- Đã là người thì ai mà lại chẳng đóng kịch. Cha mẹ đóng kịch trang nghiêm với con cái mà trong thâm tâm chưa chắc đã là trang nghiêm. Càng điêu luyện thì càng dễ thành công.

Thực vậy, kinh nghiệm đời thường nhiều khi cho thấy : muốn thành công, thì đừng bao giờ nói ra ngoài miệng những gì mình suy nghĩ trong lòng. Dù trong lòng có ghét cay ghét đắng, thì ngoài miệng vẫn ngọt như mía lùi, vẫn bùi như lạc rang.

Kinh nghiệm này cũng đã được tục ngữ ca dao Việt Nam diễn tả :

- Khẩu phật tâm xà.

- Miệng Ngài mô, bụng bồ dao găm.

- Ngoài thì thơn thớt nói cười,

  Mà trong nham hiểm giết người không gươm.

Sách Cổ Học Tinh Hoa kể lại mẩu chuyện mang tựa đề là “Ác ngầm” như sau :

Vua Ngụy đem một người con gái đẹp dâng vua Kinh. Vua Kinh rất lấy làm thích thú và đem lòng yêu thương người con gái ấy.

Phu nhân là Trịnh Tu biết thế, chính mình cũng tỏ ra  yêu mến người con gái ấy, có khi lại còn tỏ ra yêu mến hơn cả nhà vua nữa. Người con gái ấy muốn ăn mặc, chơi bời gì, phu nhân cũng đều sắm sửa cho đủ cả.

Vua khen :

- Phu nhân biết ta yêu mến tân nhân, nên cũng đem lòng yêu mến tân nhân của ta, thật có khác nào như người con có hiếu thờ cha mẹ, người bầy tôi trung thờ vua vậy.

Phu nhân đã chắc bụng vua không ngờ mình là người ghen, nhân dịp mới bảo tân nhân rằng :

- Vua yêu mến nhà ngươi lắm, nhưng ghét cái mũi nhà ngươi. Giá từ nay, hễ ngươi trông thấy vua, ngươi cứ che lấy cái mũi đi, thì sẽ được vua yêu mến  mãi đấy.

Tân nhân nghe theo lời ấy, từ đó mỗi khi trông thấy vua, là che ngay cái mũi lại.

Vua thấy thế, bảo với phu nhân rằng :

- Tân nhân trông thấy ta mà cứ che mũi là ý làm sao ?

Phu nhân thưa :

- Tôi không được rõ.

Đợi vua cưỡng hỏi nữa, phu nhân mới thưa rằng :

- Tôi nghe đâu tân nhân có nói hơi vua khí nặng, rất lấy làm khó chịu.

Vua phát giận bảo :

- À nếu thế thì xẻo cái mũi nó đi.

Vua nói đoạn, thì một viên hầu cận cầm dao ra xẻo ngay cái mũi của tân nhân. Sở dĩ như vậy là vì phu nhân đã dặn một viên quan hầu đứng chực sẵn ở đấy trước, rằng : Hễ nghe vua phán gì, thì phải làm ngay lập tức.

Trong Phúc âm, Chúa Giêsu đã dùng rất nhiều hình ảnh cụ thể để diễn tả về hạng người giả hình, đeo mặt nạ đạo đức. Nào là họ kinh kệ dài dòng nhưng lại nuốt trửng gia tài của các bà góa. Nào là họ nói mà không làm, và nếu có làm thì cũng tìm cách kiếm chác cho mình một chút hào quang để nghênh ngang với đời. Nào là họ chịu khó tắm rửa cơ thể và lau chùi những đồ dùng, nhưng tâm hồn lại chất đầy tội ác. Nào là họ giống như mồ mả, bên ngoài thì đẹp đẽ, nhưng bên trong chỉ toàn dòi bọ và xú khí…Và Ngài đã kết luận :

- Hãy nghe những lời họ nói, nhưng đừng làm theo những việc họ đã làm.

Gã xin đưa ra một vài trường hợp người ta cư xử với nhau theo sự giả dối.

Trước hết trong phạm vi gia đình, vợ chồng thường đeo mặt nạ đối với nhau : Có những anh chồng luôn tỏ yêu thương và chu toàn những bổn phận đối với vợ con, nhưng đồng thời vẫn cứ lăng nhăng lít nhít,  hở một tí là đèo bòng bồ nhí. Chắc hẳn khi trở về gia đình, những anh chồng này phải đeo cái mặt nạ đạo mạo, mực thước. Nhưng khi đến với bồ nhí lại đeo cái mặt nạ hào hoa phong nhã.

Tiếp đến trong phạm vi nhà trường, thày cô thường đeo mặt nạ đối với học trò của mình. Người Việt Nam chúng ta vốn có truyền thống “tôn sư trọng đạo”, quí mến những bậc thầy :

- Muốn sang thì bắc cầu kiều,

  Muốn con hay chữ phải yêu lấy thầy.

Sở dĩ như vậy là do ảnh hưởng của Nho giáo. Thực vậy, đối với Nho giáo thì trên cõi đời này có ba hạng người chúng ta phải tỏ lòng trọng kính, đó là quân sư phụ, có nghĩa là vua thầy và cha. Ông thầy là biểu tượng của sự hiểu biết đã đành, mà còn là biểu tượng của tác phong đạo đức, xứng đáng được gọi là bậc mô phạm, làm khuôn mẫu cho bàn dân thiên hạ noi theo.

Thế nhưng, trong mấy ngày qua báo chí tại Việt Nam đã phanh phui chuyện một ông thầy hiếp dâm học trò của mình là một nữ sinh lớp 12 tại Cần Thơ. Thậm chí một ông thầy khác ở Kiên Giang còn có hành vi đồi bại đối với sáu bảy em tiểu học của mình.

Những ông thầy này, khi đứng trên bục gỗ để giảng dạy, hẳn cũng bệ vệ, oai phong lắm lắm, nhưng hành động của họ đã làm cho chiếc mặt nạ đạo đức ấy bị rơi rụng, để rồi họ hiện nguyên hình là những…con quỉ râu xanh!

Để kết luận, gã xin kể lại vở kịch “Hầu Tước” của Albert Thompson. Vở kịch ấy có nội dung như thế này :

Sau khi Đức Quốc Xã bị sụp đổ và Thế giới đại chiến lần thứ hai kết thúc, quân đội Đồng Minh đi lục soát trong các trai tập trung để tìm kiếm những nạn nhân khốn khổ và bất hạnh bị nhốt trong đó. Và họ đã gặp được một quả phụ còn sống sót.

Chồng bà là một người Do Thái đã trở lại Công Giáo và đã bị thủ tiêu. Bà biết được rằng lúc phải ra đứng trước những họng súng thù địch, ông vẫn không ngừng cầu nguyện :

- Lạy Chúa, xin tha thứ cho họ.

Thế nhưng, người con trai của bà không thể nào chịu đựng nổi cảnh thương tâm này. Óan giận nổi lên bừng bừng, anh ta đã nhào tới, cướp lấy một khẩu súng và điên cuồng nhả đạn vào đám mật vụ, làm cho một người trong bọn bị thương nặng.

Tên mật vụ này, khi hấp hối trong bệnh viện, đã cho mời bà quả phụ đến để xin tha thứ, và rồi sau đó cả hai cùng đọc một kinh “Lạy Cha”, như dấu chỉ của sự hòa giải.

Vở bi kịch này đã thành công và gặt hái nhiều kết quả tốt đẹp mỗi khi trình diễn và đã để lại một ấn tượng sâu đậm trong lòng khán giả.

Tuy nhiên, có một lần trình diễn, khi tới chỗ tên mật vụ và người góa phụ cùng đọc kinh “Lạy Cha”, thì diễn viên đóng vai tên mật vụ đang hấp hối bỗng dừng lại, nhất định không chịu đọc câu :

- Như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con.

Anh ta đứng phắt dậy, xua tay và nói lớn :

- Tất cả đều đóng kịch, đóng kịch hết.

Mỗi ngày, vợ chồng, cha mẹ và con cái đều đọc kinh “Lạy Cha”, thế mà gia đình vẫn cứ lục đục và bất hòa, cơm chẳng lành và canh chẳng ngọt, thiếu điều muốn thượng cẳng chân hạ cẳng tay với nhau và cho chén dĩa bay ra ngoài sân.  Phải chăng chúng ta cũng đang đóng kịch và đeo mặt nạ với nhau ?

Mỗi ngày có hàng triệu người đọc kinh “Lạy Cha” thế mà nhân loại  vẫn sôi sục vì khủng bố, vì chiến tranh. Phải chăng người ta cũng đang đóng kịch và đeo mặt nạ với nhau ?

Hãy chấm dứt những thái độ đóng kịch và hãy vứt bỏ những chiếc mặt nạ giả nhân giả nghĩa, để đến với nhau bằng tất cả tấm lòng chân thành của mình.

Gã Siêu    gasieu@gmail.com

VỀ MỤC LỤC

- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến, bài vở..., xin gởi về địa chỉ

giaosivietnam@gmail.com

- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:

Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục vụ của Giáo sĩ;  Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh vực; Mỗi  Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)

- Quy vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại

www.conggiaovietnam.net

Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị

Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác nhau.

TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam

Lm. Luca Phạm Quốc Sử  USA

 

 

Duoc chon giua loai nguoi va cho loai nguoi; GIAO SI: Xuat phat tu giao dan, hien dien vi giao dan va cay dua vao giao dan, de cung lam VINH DANH THIEN CHUA

*************