Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam

 

 

 

ĐỰƠC CHỌN GIỮA LOÀI NGƯỜI
VÀ CHO LOÀI NGƯỜI  (x. Dt, 5.1)

 

GIÁO SĨ:

Xuất phát từ giáo dân, hiện diện vì giáo dân và cậy dựa vào giáo dân

 

ĐỂ CÙNG LÀM VINH DANH THIÊN CHÚA

 

www.conggiaovietnam.net                          giaosivietnam@gmail.com

Đặc San Điện Tử    Giáo Sĩ Việt Nam    Số 91, Chúa Nhật 19.04.2009


MỤC LỤC 

Năm Phụng Vụ                                                                        Hiến Chế Về Phụng Vụ Thánh

“…VÀ NHỮNG ĐIỀU THIẾU SÓT”                                                        Lm. Vĩnh Sang, DCCT

CÓ MỘT NƠI CHÚA KHÔNG THỂ ĐẾN                                                                   Xuân Thái

MÙA CHAY THÁNH VÀ BÍ TÍCH HÒA GIẢI                                    Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh

LỀ LUẬT CHÚA GIÚP CHO TA SỨC MẠNH                       Nhà Văn Xuân Vũ Trần Đình Ngọc

NGƯỜI CG VÀ GIÁO DỤC KITÔ GIÁO TRONG MÔI TRƯỜNG XÃ HỘI HÔM NAY     HY GB. Phạm Minh Mẫn

Mất Nhà                                                                                                  Hoàng Thị Đáo Tiệp

CÙNG NHAU VUI SỐNG                                                                           Lm. Lê Văn Quảng

CAM CHUA, CHANH NGỌT                                                                       Nhà Văn Quyên Di

ĐỊNH NGHĨA ĐỜI SỐNG THIÊNG LIÊNG                  Lm. Micae-Phaolô Trần Minh Huy pss 

SỚM KHÁM PHÁ UNG THƯ RUỘT GIÀ                                                 Bác sĩ Nguyễn Ý-Đức

SOI GƯƠNG -                                                                              Chuyện phiếm của Gã Siêu


Năm Phụng Vụ

Hiến Chế Về Phụng Vụ Thánh

Sacrosanctum Concilium

 

Bản dịch Việt Ngữ của Giáo Hoàng Học Viện Piô X

Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia

 

Chương V

Năm Phụng Vụ

 

102. Ý nghĩa năm phụng vụ. Giáo Hội, Mẹ hiền, ý thức mình có bổn phận cử hành các công trình cứu chuộc của Ðấng Phu Quân chí thánh bằng việc tưởng niệm vào những ngày ấn định trong năm. Mỗi tuần, vào ngày gọi là ngày Chúa Nhật, Giáo Hội tưởng nhớ việc Chúa Phục Sinh; mỗi năm một lần Giáo Hội còn cử hành mầu nhiệm ấy hết sức trọng thể vào dịp lễ Chúa Phục Sinh, cùng với cuộc Thương Khó hồng phúc của Người.

Giáo Hội còn phô diễn trọn mầu nhiệm Chúa Kitô qua chu kỳ một năm, từ Nhập Thể, Giáng Sinh, đến Thăng Thiên, Hiện Xuống, cùng với sự mong đợi niềm hy vọng hồng phúc và ngày Chúa lại đến.

Trong khi cử hành những Mầu Nhiệm Cứu Chuộc như thế, Giáo Hội rộng mở cho các tín hữu sản nghiệp nhân đức và công nghiệp của Chúa, khiến cho những mầu nhiệm này có thể nói là hiện diện qua mọi thời đại 8*, ngõ hầu các tín hữu tiếp xúc với các mầu nhiệm đó sẽ được đầy tràn ơn cứu chuộc.

103. Ðức Maria, Mẹ Thiên Chúa. Trong khi cử hành các mầu nhiệm của Chúa Kitô theo chu kỳ hằng năm như thế với một tình yêu đặc biệt, Giáo Hội tôn kính Ðức Maria vinh hiển, Mẹ Thiên Chúa, Ðấng đã nối kết với công trình cứu chuộc của Con Người bằng mối dây bất khả phân ly. Nơi Mẹ, Giáo Hội ngưỡng mộ và tán tụng thành quả tuyệt diệu của công trình cứu chuộc, và vui mừng chiêm ngắm nơi Mẹ, như trong hình ảnh tinh tuyền trọn hảo, điều mà toàn thể Giáo Hội ước mong và trông đợi.

104. Các Thánh Tử Ðạo và các Thánh khác. Ngoài ra, Giáo Hội còn thêm vào niên kỳ những lễ kính nhớ các Thánh Tử Ðạo và các Thánh khác, là những đấng nhờ muôn vàn hình thức ơn Chúa, đã đạt tới sự trọn lành, và đã chiếm được phần rỗi đời đời, giờ đây đang ca khen Thiên Chúa bài ca tuyệt diệu ở trên trời và đang cầu bầu cho chúng ta. Bởi chưng, trong những ngày kính nhớ các Thánh, Giáo Hội công bố mầu nhiệm phục sinh nơi các Ngài: vì đã cùng chịu thương khó và cùng được vinh hiển với Chúa Kitô. Giáo Hội cũng trình bày cho các tín hữu những gương mẫu của các Ngài, những gương mẫu lôi kéo mọi người đến với Chúa Cha qua Chúa Kitô, và nhờ công nghiệp các Ngài, Giáo Hội lãnh nhận được những hồng ân của Thiên Chúa.

105. Giáo Hội kiện toàn việc huấn luyện các tín hữu. Sau cùng, theo luật lệ lưu truyền: cứ mỗi mùa trong năm, Giáo Hội kiện toàn việc huấn luyện các tín hữu bằng những việc lành hồn xác, bằng việc giảng dạy, lời cầu nguyện, việc sám hối và các việc bác ái.

Vì thế, Thánh Công Ðồng quyết ấn định những điều sau đây.

106. Chú trọng ngày chúa nhật. Theo Tông Truyền bắt nguồn từ chính ngày Chúa Kitô sống lại, Giáo Hội cử hành mầu nhiệm phục sinh vào mỗi ngày thứ tám, ngày thật đáng gọi là ngày của Chúa hay ngày Chúa Nhật. Thực vậy, trong ngày đó các Kitô hữu phải họp nhau lại để nghe Lời Chúa và tham dự Lễ Tạ Ơn, để kính nhớ cuộc Thương Khó, sự Sống Lại và vinh quang của Chúa Giêsu, đồng thời cảm tạ Thiên Chúa, vì Ngài đã "dùng sự Phục Sinh của Chúa Giêsu Kitô từ trong kẻ chết sống lại mà tái sinh họ trong niềm hy vọng sống động" (1P 1,3). Vì vậy, ngày Chúa Nhật là ngày lễ nguyên thủy phải được đề cao và in sâu vào lòng đạo đức của các tín hữu, để ngày ấy trở thành ngày vui mừng và ngày nghỉ việc. Các cuộc lễ khác, nếu không thật sự là lễ rất quan trọng thì không được lấn át ngày Chúa Nhật, bởi vì ngày Chúa Nhật là nền tảng và trung tâm của cả năm phụng vụ.

107. Canh tân năm phụng vụ. Phải tu chỉnh năm phụng vụ thế nào để sau khi duy trì hay phục hồi những tập tục và quy chế cổ truyền về các mùa thánh, theo những hoàn cảnh của thời đại chúng ta, vẫn giữ được tính cách ban đầu của những mùa ấy, hầu nuôi dưỡng đúng mức lòng đạo đức của các tín hữu, khi cử hành những mầu nhiệm cứu chuộc trong đạo, nhất là mầu nhiệm phục sinh. Vả lại, nếu cần thích ứng với hoàn cảnh địa phương, thì phải theo quy tắc các khoản 39 và 40.

108. Phần Riêng mỗi Mùa. Trước hết, phải hướng tâm trí các tín hữu về những ngày lễ của Chúa, là những lễ quanh năm cử hành các mầu nhiệm cứu chuộc. Vì thế, Phần Riêng mỗi Mùa phải có một chỗ thích hợp vượt trên lễ các Thánh, để trọn vẹn chu kỳ các mầu nhiệm cứu chuộc được kính nhớ đúng mức.

109. Mùa chay. Hai đặc tính của Mùa Chay là việc sám hối và nhất là việc nhớ lại hoặc dọn mình chịu phép Rửa Tội, chuẩn bị các tín hữu cử hành mầu nhiệm phục sinh, bằng sự nhiệt thành nghe lời Chúa và chuyên chăm cầu nguyện hơn. Hai đặc tính trên phải được trình bày rõ ràng hơn cả trong Phụng Vụ lẫn giáo lý phụng vụ. Do đó:

a) Những yếu tố về phép Rửa Tội riêng cho Phụng Vụ Mùa Chay phải được áp dụng rộng rãi hơn. Một số yếu tố thuộc truyền thống xa xưa, nếu có thể, cần phải được tái lập.

b) Còn các yếu tố về việc sám hối cũng vậy. Trong khi dạy giáo lý, phải khắc ghi vào tâm trí các tín hữu không những các hiệu quả xã hội của tội mà còn chính bản chất của việc sám hối là ghét tội vì tội xúc phạm đến Thiên Chúa. Không được bỏ quên vai trò của Giáo Hội trong tác động sám hối, và phải nhấn mạnh đến việc cầu cho các tội nhân.

110. Việc thực hành sám hối. Trong Mùa Chay, việc sám hối không những chỉ ở trong lòng và có tính cách cá nhân, mà còn phải tỏ lộ ra bên ngoài và có tính cách xã hội. Vậy hãy khuyến khích việc thực hành sám hối tùy theo khả năng của thời đại ta, của các miền khác nhau cũng như hoàn cảnh các tín hữu. Việc thực hành sám hối đó phải được các Ðấng Bản Quyền cổ võ như đã nói ở khoản 22.

Tuy nhiên, việc giữ chay thánh trong Mùa Phục Sinh là việc phải được giữ cách nhiệm nhặt, khắp nơi đều phải giữ vào ngày thứ Sáu Chúa chịu thương khó và chịu chết, nếu tiện cũng phải kéo dài qua thứ Bảy Tuần Thánh, để tâm hồn người tín hữu một khi được nâng cao và giải thoát, được hưởng niềm vui Chúa Sống Lại.

111. Lễ các Thánh. Theo truyền thống, các Thánh được tôn kính trong Giáo Hội và các di hài đích thực cũng như hình ảnh của các Ngài vẫn được sùng kính. Thực vậy, những lễ kính các Thánh nói lên những việc lạ lùng của Chúa Kitô nơi các tôi tớ Người và phô bày những gương sáng thích hợp cho các tín hữu bắt chước.

Ðể những lễ kính các Thánh không lấn át các lễ kính nhớ chính những mầu nhiệm cứu chuộc, nhiều lễ các Thánh sẽ để cho từng Giáo Hội địa phương, hoặc cho mỗi Quốc Gia hay Dòng Tu cử hành. Chỉ phổ biến cho toàn thể Giáo Hội những lễ kính các Thánh thực sự có tầm quan trọng phổ quát.

 


Chú Thích:

8* Khi Phong Trào Phụng Vụ khởi phát, đã có nhiều người nói tới sự "có mặt" các mầu nhiệm này trong năm Phụng Vụ. Ðức Piô XII đã trình bày vấn đề rất cặn kẽ trong Thông điệp Mediator Dei, số 166, và Công Ðồng Vaticanô II nhắc lại giáo lý đó.

VỀ MỤC LỤC
“…VÀ NHỮNG ĐIỀU THIẾU SÓT”

 

Quý độc giả Ephata và Giáo Sĩ Việt Nam thân mến,

Có một vài người phàn nàn với tôi, rằng cha Quang Uy cứ hay nói về chuyện nạo phá thai, chỗ nào ngài cũng nói… Tôi biết có người không thích nghe đề tài này, tôi xem ra tranh luận không đi đến đâu nên im lặng, cứ để họ tự hiểu, cãi làm gì gây... “mất đoàn kết” !

Tôi ước ao họ – những người kêu ca than phiền – có dịp nào đó đi từ Bắc chí Nam thăm các Nghĩa Trang Anh Hài, những nghĩa trang chôn cất các hài nhi bị phá vì cha mẹ các cháu không cho các cháu làm người. Vài năm trở lại đây, nhiều người đau xót trước tệ nạn nạo phá thai, đã lập các Nghĩa Trang Anh Hài, Nghĩa Trang Đồng Nhi rải rác khắp mọi miền đầt nước, gần như tỉnh thành nào cũng có.

Nếu Trịnh Công Sơn cất tiếng hát “khi đất nước tôi thanh bình, tôi sẽ đi thăm, …đi xem mộ bia đầy như nấm”, thì bây giờ số mộ bia dành cho các cháu chỉ trong một năm thôi cũng bằng số mộ bia dành cho những người nằm xuống trong hai mươi năm “nội chiến từng ngày” mà ông Sơn bảo sẽ đi thăm, “nấm” thai nhi bây giờ nhiều lắm !

Tôi nghĩ nếu họ có một lần nào đó đến thăm “Góc Thương Xót” ở DCCT Sài-gòn, nơi chúng tôi “tập kết” các thai nhi mỗi ngày để lo cho các cháu, để các cháu không bị đổ vào hầm cầu, không bị bỏ xuống cống, không bị thiêu chung với “rác y tế”... Thăm từng bọc thai nhi bầy nhầy hôi thối, và nếu họ can đảm mở từng bọc ra, sẽ thấy những con người đầy đủ hình dạng nằm co quắp lềnh bềnh trong các dịch nhờn, chắc hẳn họ sẽ nghĩ khác, không trách cha Uy, không trách chúng tôi “nói nhiều” nữa. Thôi ! tại họ không biết, trách nhau làm gì !?!

Hôm qua, thứ sáu 10.4.2009, tôi bị cám dỗ ( Thứ Sáu Tuần Thánh thì đáng lẽ phải tĩnh tâm, ăn chay, và kiêng… đọc báo chứ nhỉ ? ) lướt mắt trên tờ báo Phụ Nữ, ngay giữa trang nhất, dĩ nhiên sẽ là tin quan trọng nhất: “Báo động đỏ… !” Bài của tác giả Thiên Nga và Nguyễn Cầm[1].

Tôi mạn phép chép lại một đoạn: 

BÁO ĐỘNG ĐỎ "BỆNH"... NẠO PHÁ THAI 

Các bác sĩ sản khoa gọi hiện tượng này là "bệnh", vì số người nạo hút thai hiện nay ở một số bệnh viện đã nhiều hơn số bệnh nhân đến khám vì các bệnh lý sản phụ khoa khác. Tại các bệnh viện lớn như: Từ Dũ, Hùng Vương, Đại Học Y Dược, mỗi tháng, có từ 550 đến 600 ca nạo hút thai. Còn tại các bệnh viện ven Sài-gòn như: Thủ Đức, Tân Phú... trung bình, mỗi quý có từ 100 đến 200 ca nạo hút thai.

Có thai thì đi... giải quyết !

Ngày 8 tháng 4, chúng tôi đến bệnh viện quận Thủ Đức, Sài-gòn. Rất nhiều nữ công nhân rỉ tai nhau rằng, sau khi vỡ kế hoạch, thì hãy tranh thủ đến bệnh viện này vào giữa ca, “xử lý” xong, lại trở về đi làm tiếp. Ngồi cạnh tôi là M. ( 21 tuổi, công nhân ) hỏi: “Dính bầu hả ? Chuyện nhỏ ! 15 phút là xong, lo gì”. Rồi cô cho biết mình đã ba lần phá thai, vì đây là lần thứ tư. Vì thế, bác sĩ nào “mát tay” cô đều "thuộc". Nữ hộ sinh Lê Thị Ánh Hồng cho biết, đối tượng nạo hút thai ở đây có 75% là công nhân, 5% là học sinh, sinh viên. Những thai trên 13 tuần thường rơi vào trẻ vị thành niên. 

Theo chị Hồng, những trường hợp như M. không hề cá biệt, thậm chí có người đi phá thai đến 9, 10 lần. Bác sĩ thấy mặt là phát ngán, nhưng vẫn phải thực hiện thủ thuật, vì nếu không, họ sẽ tìm đến những cơ sở bên ngoài, không an toàn”.

Con số nạo hút thai tác giả nêu lên tôi nghĩ không chính xác, cứ nhìn hình tác giả chụp thì ta có thể đoán được bao nhiêu ca một ngày, hoặc đơn giản thôi, trong hình có tới ba phòng “Thủ Thuật”, mỗi ca “15 phút là xong”, một ngày bao nhiêu giờ làm việc, đừng kể làm thêm giờ hoặc làm cả ngoài giờ ( có những ngày Nhóm BVSS Sài-gòn của DCCT chúng tôi phải chờ khá muộn mới xin được xác thai đem về, vì hôm đó có quá nhiều ca phá thai ) thì ta có ngay số ca trung bình một ngày tại một điểm, thử làm tính xem, có chắc là dưới 3.000 ca một tháng hay không ?

Tôi không nghĩ tác giả đã dẫn chứng sai, tôi nghĩ chính là các trung tâm đã cho tác giả con số… sai, không đúng sự thật ! Chẳng lẽ một bệnh viện lớn như Từ Dũ hoặc Hùng Vương mà mỗi ngày lại chỉ có… 20 ca ? ( 600 ca một tháng ) và bệnh viện Thủ Đức mỗi ngày chỉ có 7 ca ? ( 200 ca một tháng ) Hình chụp cho thấy đông người lắm mà !

Tôi đã chép lại một đoạn, trong đó tác giả kể về bệnh viện Thủ Đức. Thật oái oăm và chua xót, cách nay 31 năm, bệnh viện này chính là Tu Viện của DCCT chúng tôi ! Tu Viện xưa, nay trở thành nơi giết người. Dạo ấy, “người ta” đã đuổi anh em DCCT chúng tôi ra, không một mảnh giấy, không một bản án phán quyết từ bất cứ một loại tòa án nào. Và từ đó, nơi phục vụ cho Sự Sống đã trở thành nơi tiêu diệt Sự Sống, nơi học nói lời Tình Yêu trở thành “đoạn cuối Tình Yêu”, nơi gieo rắc Tình Thương trở thành nơi xót xa cay đắng đến tận cùng.

Tôi muốn giải lý tại sao xã hội chúng ta ngày nay bị phân hóa và tồi tệ thế, cướp bóc giết người hoành hành, lừa đảo gạt gẫm đầy dẫy, quá nhiều hành vi phi văn hóa, xin đơn cử vài chuyện mới đây thôi: Tuyển thủ quốc gia bán độ, đánh nhau, uống rượu nhậu nhẹt say sưa, còn cổ động viên thì ném đầu chó thui xuống sân bóng[2], bạn trẻ bẻ vặt hoa Anh Đào trong ngày lễ hội, khách tham quan cướp phá hoa ở phố hoa giữa ban ngày[3], cướp heo đất trong ngày Tết, mọi người phóng uế bừa bãi ngoài đường, tài xế lái xe bất chấp tính mạng người khác[4]...

Khó có thể kể hết được. Tôi muốn nói cái lý do để xã hội tan hoang ra như vậy vì người ta đã đặt sai chuẩn mực đạo đức xã hội và con người, người ta đã thay những nơi, những hoạt động, những chương trình, những kế hoạch của Tình Thương bằng những nơi, những hoạt động, những chương trình những kế hoạch của Sự Chết.

Kêu ca hay trách móc chẳng dẫn đến đâu, chúng ta cùng nhau nhận trách nhiệm và chung tay xây dựng lại, phải mất bao nhiêu năm và bao nhiêu thế hệ để thay đổi một tiêu chuẩn sống ? Nhưng nếu không làm thì ai sẽ làm thay cho chúng ta ? Hội Thánh vẫn luôn có trách nhiệm lên tiếng và rọi sáng con đường của nhân loại ( xem Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội Công Giáo ).

Đêm nay cầm nến Phục Sinh trong tay nhắc nhớ ta điều ấy, nếu không là Ánh Sáng, cây nến cầm trên tay còn sinh ích gì ? Nếu không là muối mặn nữa, thì đổ ra đường cho người ta giẵm đạp lên chứ để mà làm gì ?!?

Thiếu sót cũng là một tội đấy ! Phiền một nỗi, ngày nào cũng “xét mình”, cũng “kiểm” cái tội này mãi, rồi hóa... nhàm !

Lm. VĨNH SANG, DCCT sáng thứ bảy Tuần Thánh 2009

VỀ MỤC LỤC
CÓ MỘT NƠI CHÚA KHÔNG THỂ ĐẾN

Mùa chay đã qua đi, nhưng sứ điệp “Hãy sám hối và tin vào Tin mừng vì Nước trời đang đến” vẫn còn đọng lại trong lòng mỗi người. Khi được rắc tro trên đầu, người tín hữu đã được nhắc nhớ về thân phận bụi đất của mình, một thứ bụi đất vừa là hư vô những cũng vừa là vi diệu thánh thiêng, vì sẽ được sống lại hiển vinh trong ngày cánh chung sau hết.

Tất cả những điều ấy đều chỉ là những nghi thức, nhưng có ích hay sẽ trôi đi vô ích như bao nhiêu nghi thức khác đều tùy thuộc mỗi người, và từ đó, mùa Phục sinh đang đến hôm nay sẽ có ý nghĩa hay không, đều tùy thuộc vào nhận thức và hành động của mỗi chúng ta.

Chúa sống lại có ích gì cho tôi ?

Thánh Phaolô viết rằng : “Nếu Đức Kitô không phục sinh, thì niềm tin và lời rao giảng của chúng ta là vô ích (1 Cor 15, 14) ”. Thật vậy, nếu Đức Kitô không sống lại, thì dù có thật một Giêsu lịch sử, nhưng sẽ không có một Đức Giêsu là con Thiên Chúa, sẽ không có cứu độ, tất nhiên cũng chẳng có Kitô giáo nên cũng chẳng có chúng ta là những Kitô hữu như bây giờ. Nếu Đức Giêsu không sống lại, thì sẽ không có sự siêu việt duy nhất của Kitô giáo. Khi ấy Đức Giêsu cũng chỉ là một vị Đạo sư hoặc một Giáo chủ như Đức Phật, Khổng tử hoặc Lão tử …. và bao nhiêu vị khác nữa mà thôi.

Nhưng nếu Đức Giêsu đã thật sự sống lại và tôi đang là một Kitô hữu, thì sự sống lại của Ngài có chút nào ảnh hưởng đến tôi, đến lối sống gia đình tôi và cộng đoàn của tôi không ? Lễ Phục sinh luôn có rất đông người tham dự, nhiều nơi đã biến thành các sinh hoạt văn hóa hấp dẫn thu hút vô số người với đủ mọi thành phần. Đây quả là một tín hiệu đáng phấn khởi vì tin mừng Chúa sống lại đang mỗi ngày một lan rộng và phổ cập, nhưng bên cạnh đó, những điều đáng lo lắng và cần phải suy nghĩ vẫn luôn không thiếu. Thực tế đã nói lên điều ấy.

Tôi đã dự biết bao Đại lễ phục sinh long trọng hoành tráng với đủ các loại nghi thức đẹp mắt và trang nghiêm, nhưng tôi vẫn là tôi không có gì thay đổi, tôi vẫn đầy rãy những thói hư tật xấu như trước, đôi khi còn tệ hại hơn. Điều đáng tiếc này vẫn luôn không hiếm.

Tại sao vậy ? Vì tôi chỉ coi chuyện Đức Kitô sống lại như một điều gì đó xảy ra ở bên ngoài tôi, nhưng rất cần làm lễ kỷ niệm để nhớ về, hoặc cao hơn, như một lễ giỗ tổ tiên, để tỏ lòng biết ơn, lễ càng lớn thì càng vui vẻ và càng an tâm hãnh diện, như thế đã là quá đủ. Những suy nghĩ lệch lạc kiểu như thế vẫn luôn không thiếu ở mọi nơi mọi thời. Về điều này, một nhà tu đức đã viết :

Nếu Đức Giêsu chỉ sinh ra tại Bêlem, chỉ sống tạị đất nước Do Thái, chỉ chịu chết trên đồi Calvê, và chỉ phục sinh trong lịch sử cách đây hơn 2000 năm, mà không sinh ra, sống, chịu chết và phục sinh ngay trong tâm hồn ta, tại đây và lúc này, thì tất cả những biến cố ấy của Ngài đều hoàn toàn vô ích đối với ta”.

Nghe biết về điều này, tôi chợt giật mình và nhận ra rằng, điều cốt lõi để sự sống lại của Ngài mang ích lợi cho tôi, là Ngài phải được phục sinh ngay trong cung lòng tôi, trong tâm thức tôi trước hết.

Theo niềm tin và sự tuyên xưng nơi môi miệng tôi thì Ngài vẫn đang sống và đang làm Vua hiển trị, nhưng các điều ấy dường như đều chỉ xảy ra ở bên ngoài. Còn bên trong, Ngài vẫn luôn vắng bóng hoặc ngủ quên hoặc đã được an táng từ lâu. Thỉnh thoảng tôi cũng nhớ đến Ngài, nhưng như một người đã sống trước tôi 2000 năm, tương tự như nhớ đến các bậc tiền nhân hay đến một Đức vua Lê Lợi hoặc Quang Trung nào đó của lịch sử. Trong tâm thức tôi, Ngài được coi như một người quá cố. Một người đã chết như thế tất nhiên sẽ không mấy ảnh hưởng, nói gì đến chuyện làm tôi thay đổi.

Vậy, để được biến đổi trở nên một con người mới, mạnh mẽ, tốt đẹp tràn đầy thần linh Chúa, tôi cần ý thức rõ ràng, phải có những cố gắng và thao thức về sự phục sinh của Ngài trong tôi, Ngài có thật sự sống và hoạt động trong tôi thì tôi mới được biến đổi để trở nên giống Ngài.

Cuộc đời tôi nhiều lần ảm đạm, tâm hồn tôi nhiều khi bất an và buồn tẻ chẳng có gì hứng thú hoặc khởi sắc về mặt tâm linh, chính vì tôi đã để Chúa ngủ quên hoặc đang nằm chết  trong ngôi mộ tâm thức của tôi. Khi nào Ngài có mặt trong tôi, đầy quyền năng của một vị Thiên Chúa, Ngài sẵn sàng làm mọi sự để biến tôi nên hoàn thiện, mạnh mẽ và giúp đỡ cứu nguy khi tôi bị khốn cùng.

Có một nơi Chúa không thể đến:

Thiên Chúa hoàn toàn tự do. Là hình ảnh của Ngài, tôi cũng hoàn toàn tự do. Phẩm giá đó của Thiên Chúa đòi buộc Ngài phải tôn trọng tự do của tôi. Ngài không muốn đơn phương làm mọi việc một mình, dù Ngài dư sức làm các điều ấy, chỉ vì muốn tôn trọng tôi.

Như vậy, tuy Chúa đang có mặt ở mọi nơi và hoạt động cùng khắp, nhưng có một nơi Ngài không thể tự do hiện diện và hoạt động theo ý Ngài, đó chính là tâm hồn tôi. Cõi lòng tôi là một không gian bất khả xâm phạm đối với chính Ngài, nghĩa là chính Ngài cũng không thể bước vào. Ngài chỉ vào đó để hiện diện và hoạt động khi tôi cho phép, bằng cách mời gọi và hướng về Ngài rồi hết mình sống với sự hiện diện ấy. Sự hiện diện ấy chỉ đạt tới tuyệt đỉnh và trở nên tích cực hoạt động khi nào tôi có được những trải nghiệm mà Thánh Phaolô đã nói : “ Tôi sống, nhưng không còn là tôi sống, mà là Đức Kitô đang sống trong tôi” ( Gl, 2, 20 )

Để được như vậy, không cách nào khác hơn là phải hy sinh “CÁI TÔI” đang thống lĩnh tâm hồn tôi. Bình thường, tôi chỉ nghĩ về tôi, với những quyền lợi của tôi, hạnh phúc hoặc đau khổ của tôi. Mọi suy nghĩ và hoạt động của tôi đều bị CÁI TÔI ích kỷ ấy chi phối, điều khiển và huy động, khiến tôi lúc nào cũng chỉ muốn lo cho bản thân mình. Nhưng càng lo cho bản thân bao nhiêu, tôi càng cảm thấy thiếu thốn, trống rỗng và đau khổ bấy nhiêu, vì nhu cầu và đòi hỏi của tôi thì đổi thay vô hạn còn sức mạnh và năng lực của tôi thì lại rất có hạn. Trong bầu trời tâm thức ấy, tôi chỉ dành một chỗ rất nhỏ cho Chúa và tha nhân, thay vì Ngài phải là một ưu tư nhất, lo lắng lớn lao nhất. Như thế, tôi đang sống bình thường theo tự nhiên nhưng lại rất ngược với tinh thần Tin mừng.

Để có Chúa trong lòng, để thực sự có Chúa sống lại nơi tâm hồn, không chỉ hát hoặc đọc vài ba kinh bâng quơ vô cảm máy móc, thì Chúa liền hiện đến như phù thủy gọi âm binh bằng những câu thần chú. Nhưng phải là những tâm tình và cố gắng liên lỷ bằng những hành động thiết thực với tinh thần tỉnh thức luôn nhìn lại mình, phải xem lại mỗi lời nói hành vi của mình với mọi người xung quanh. Nghĩa là phải sám hối, nghĩa là phải điều chỉnh và muốn đổi thay để từng giờ, từng ngày sẽ hoàn thiện hơn và giống Chúa hơn. Quả thật, đó là cả một quá trình, một quá trình không hề đơn giản.

Nhà Thiền có một thuật ngữ rất thú vị : Đốn ngộ rồi tiệm tu, nghĩa là hiểu ngay, biết liền và sửa dần từng bước qua từng ngày. Lời Chúa thật dễ hiểu, nhưng để cái hiểu lý thuyết ấy có thể biến thành hành động và lối sống thực tế rất cần phải có thời gian. Và, để thanh lọc tâm hồn được nên giống Chúa chính là những nỗ lực phải thực hiện suốt cả cuộc đời, vì có ai sửa một lần là đủ, có ai tu một ngày mà đắc đạo bao giờ.

Những ai có Chúa phục sinh trong lòng, đôi khi rất dễ nhận ra, nhưng nhiều khi lại khó lòng nhận biết.

Có thể là người chẳng có gì khôn ngoan thông thái, nhưng họ luôn đoán biết nhu cầu người khác để có những quan tâm phù hợp.

Có thể là người vụng về nhiều mặt, nhưng họ luôn biết tìm đến tha nhân để làm một điều gì đó ích lợi thiết thực cho mọi người.

Có thể là người đang tối mặt vì thất bại, hoặc khốn khổ vì tai ương hoạn nạn nhưng nơi họ vẫn ánh lên sự bình an sâu thẳm.

Có thể là người lỗi phạm hoặc sai lầm, nhưng họ luôn biết lắng nghe tiếng Chúa nhắc nhở trong lòng, và nhất là, tiếng Chúa nói qua mỗi tha nhân.

Có thể là người rất nghèo, nhưng họ luôn nhạy bén mẫn cảm và biết chia sẻ với những kẻ nghèo hơn đang có mặt nhiều lắm ở xung quanh.

Có thể là người đã làm được công này việc kia, nhưng họ luôn thấy mình là những đầy tớ vô dụng chỉ đang làm việc các phải làm của bổn phận tự nhiên mà thôi.

Dù dễ hoặc khó nhận ra, nhưng nơi họ đều có một điếm giống nhau chung nhất, đó là họ biết yêu thương tha nhân và quên mình trong phục vụ. Nhờ như thế, họ luôn xứng đáng được hưởng phúc lộc bình an nơi mỗi Thánh lễ mà họ tham dự. Bình an là phước lộc cao trọng nhất mà ai cũng hằng mong ước, vì bình an chính là khởi đầu hạnh phúc Nước Trời ngay tại trần gian này.

Trong mỗi Thánh Lễ, từ Bình an được lập lại 7 lần. Con số 7 theo Thánh kinh chỉ sự viên mãn tràn đầy như khi có Chúa phục sinh trong lòng. Có Chúa trong lòng là đang ởThiên đàng, đang có Nước Trời, dù vẫn còn đang sống ở trên mặt đất này vậy.

Lạy Cha,

Chiều qua, bầu trời nhiều gió lộng và rất đẹp. Trong không gian mênh mông bao la, ở đó, con đã được dự một buổi thả diều thật thú vị. Nhìn con diều chao lượn cao vút và uyển chuyển đong đưa bên những áng mây đủ mầu, ai cũng thấy lòng mình như lắng xuống rồi lại mở ra đầy tĩnh tại thư thái. Giữa một xã hội mà nhịp sống đang hối hả và bon chen quay cuồng đến chóng mặt này, đó quả là một món quà mang thật nhiều ý nghĩa.

Xin cho con một chút mộng mơ, để thấy mình biến thành cánh diều kia và sẽ học được nhiều điều bổ ích. Con diều bay cao được chính là nhờ sợi dây nhỏ bé đang điều chỉnh ở dưới đất, để từ đó, biết kiềm chế và nương theo sợi dây mỏng manh nhỏ bé đang điều khiển, vì thiếu sợi dây con diều chẳng thể bay lên, mà  Luật yêu thương  của Cha chính là sợi dây này. Bứt khỏi sợi dây, con diều sẽ lộn nhào xuống đất.

Bay lên cao trong ân sủng Chúa, chính là lúc con đang có sự bình an, bình an ấy sẽ lan tỏa thành niềm vui và những nụ cười nơi nào Cha muốn con có mặt vậy.

Amen.

Xuân Thái .

VỀ MỤC LỤC
MÙA CHAY THÁNH VÀ BÍ TÍCH HÒA GIẢI

 

 

Mùa chay là mùa ăn năn thống hối vì tôi lỗi mình đã phạm khiến Chúa phải chịu chết trên thập giá, nhưng cũng báo hiệu một vui mừng vì Chúa sẽ sống lại phục sinh cứu chuộc loài người thoát khỏi tội lỗi.

 

Chúa đã cứu nhân loại, cứu mỗi người chúng ta khỏi sự chết đời đời. Biết vậy, nhưng tại sao ngày nay số người có đạo / có tôn giáo, đặc biệt người công giáo lại suy giảm mỗi ngày?  Đó là vấn nại mà mỗi người tín hữu chúng ta phải suy nghĩ để tìm ra lý do. Bí tích hòa giải trong mùa chay có sức mạnh giúp gì cho chúng ta cải đổi đời sống không?

 

Nhân đọc bản báo cáo tình trạng tôn giáo ở Hoa Kỳ do Ủy Ban khảo sát tôn giáo tại Hoa Kỳ (ARIS)[1] mới đưa ra ngày 8 tháng 3 năm 2009, chúng tôi xin trình bày chiến dịch vận động khuyến khích giáo dân tích cực tham gia bí tích hòa giải trong mùa chay thánh này của Giáo Hội khắp nơi để canh tân đời sống cá nhân, kích động sinh hoạt giáo xứ hầu cùng nhau đến gần Chúa hơn.

 

TÌNH TRẠNG TÔN GIÁO TẠI HOA KỲ.

 

Cuộc khảo sát tôn giáo tại Hoa Kỳ được thực hiện từ tháng 2 đến tháng 11 năm 2008 và 54, 461 người lớn được hỏi ý kiến. Sau đây là kết quả cuộc khảo sát

 

Ngạc nhiên nhất là số người khai vô tôn giáo lại gia tăng. Năm 1990 chỉ có 8.2% khai vô tôn giáo, năm 2001 tăng lên 14.2% và năm 2008 đã tăng tới 15%.

 

Con số này cũng thay đổi theo vùng / địa dư. Phía Bắc New England đã chiếm chỗ của vùng Tây Bắc Thái Bình Dương là vùng ít người có đạo nhất ở Hoa Kỳ. 34% những người ở Vermont được hỏi đã trả lời là họ không thuộc về một tôn giáo nào cả.

 

Về Công giáo thì miền Đông Bắc Hoa Kỳ cũng thay đổi. Theo kết quả nghiên cứu  của ARIS thì số người công giáo đã chuyển từ phía Đông Bắc về Tây Nam.

 

Trong khoảng những năm 1990 và 2008, tỷ lệ số người công giáo ở New England đang từ 50% tụt xuống 36%; ở New York đang từ 44% xuống còn 37%, trong khi đó ở California lại tăng từ 29% lên 37% và ở Texas thì từ 23% lên 32%.

 

Theo Barry Kosmin, trưởng ban nghiên cứu thì số người công giáo ở miền Đông Bắc giảm xụt như thế không có gì ngạc nhiên cả. Còn ở California tỷ lệ người công giáo cao hơn là nhờ số người gốc Latino di dân tới và người gốc Latino hiện ở Hoa Kỳ sinh sôi nảy nở  thêm[2].

 

Theo kết quả thăm dò thì nếu số người gốc Y Pha Nho / Spanish, (đa số là công giáo) không tăng  thì số người công giáo của cả nước sẽ bị giảm xút đáng kể.  Thực vậy, dân da trắng hồi xưa phần lớn là công giáo nhưng bây giờ thì lại là vô tôn giáo, do đó thành phần vô tôn giáo đã tăng.

 

….KHÔNG ĐỒNG ĐỀU.

 

Nhìn chung, tỷ lệ người Kitô hữu ở Hoa Kỳ trong thập niên 1990 đã đang từ 86.2% xuống còn 76.7% nhưng nay thì còn 76% (giảm chút xíu 0.7%).

 

Tuy nhiên tỷ lệ giảm xút đó không được phân chia đồng đều. Mặc dù số người công giáo có giảm, nhưng bản nghiên cứu của ARIS lại cho thấy 90% số người Kitô hữu giảm xút không phải là công giáo mà lại thuộc những giáo phái khác như Methodist, Lutheran và Episcopal.

 

Con số đó đang từ 18.7% năm 1990 co lại còn 17.2% năm 2001 và đến nay thì thụt xuống chỉ còn 12.9%.    

 

Bản khảo sát cho thấy phần lớn số người theo Kito giáo tăng là ở nơi những người chỉ nhận mình là Kito hữu, là phái tin lành truyền đạo hoặc là Kito hữu nhưng không thuộc giáo phái nào cả.  (Christian, Evangelical / Born Again or non-denominational Christian).

 

Nhóm này tăng từ 5% năm 1990 lên 8.5% vào năm 2001, và năm 2008 thì lên tới 11.8%.

 

VẬN ĐỘNG KHUYẾN KHÍCH ĐI XƯNG TỘI 

 

Giáo Hội rất lo ngại về tình trạng số giáo dân giảm xút nên đã mở chiến dịch vận động mọi người canh tân đời sống, khơi động lại sinh hoạt giáo dân, giáo xứ bằng cách đi xưng tội rước lễ, nhất là trong mùa chay thánh. 

 

Trước đây ít ngày, tờ New York Times đã cho đăng hai bài dài nói về phép hòa giải để khuyến khích mọi người đi xưng tội trong mùa Chay Thánh này. Tại giáo xứ Thánh Gioan Tông đồ ở Connecticut, Đức ông Stephen DiGiovan mấy năm trước đây đã tăng giờ ngồi tòa giải tội và kết quả đem lại rất là phấn khởi như báo ngày 21 tháng 2 vừa qua cho thấy mỗi tuần có vào khoảng 450 người đã đi xưng tội.

 

Tờ New York Times cũng cho biết mùa chay này giáo phận Bridgeport, Connecticut cũng phát động chiến dịch “Xưng tội trong mùa Chay”. Và tất cả 87 xứ trong giáo phận   đều có cha ngồi tòa  mỗi tuần và còn tăng thêm giờ nữa.

 

Ngày 9 tháng 3 vừa qua, tờ New York Times trở lại chủ đề Xưng Tội trong mùa Chay, nhưng lần này đề cập đến xứ đạo của tỉnh nhà, xứ Đông Harlem, cha Gilbert Luis Centina đã mở cửa tòa giải tội xuốt đêm.

 

Thực sự, trong mùa Chay Thánh, 21 nhà thờ / xứ đạo Công Giáo ở Manhattan đã mở chiến dịch gọi là “24 giờ Hòa Giải với Chúa”,  có cha ngồi tòa giải tội suốt đêm các ngày thứ sáu và thứ bảy.  

 

Chiến dịch này được phối hợp bởi giới trẻ thuộc Nhà thờ chính tòa St. Patrick. Mario Bruschi làm trưởng toán đã cho tờ New York Times  hay là họ đã theo gương của Tổng giáo phận Chicago những năm trước đây cũng đã mở chiến dịch tương tự gọi là “24 giờ Hồng Ân”. 

 

HÃY BẬT ĐÈN SÁNG LÊN

 

Một số báo Công Giáo địa phương thuộc địa phận đã đăng những bài khuyến khích xưng tội trong mùa Chay. Chẳng hạn tờ The Catholic Review của địa phận Baltimore số ra ngày 9 tháng 3 đã nói về việc Tổng Giáo Phận phát động chiến dịch “Ánh Sáng đang chiếu rọi cho Ngươi / The Light Is On for You”.

 

Tất cả các linh mục tại tất cả các giáo xứ thuộc Baltimore sẽ ngồi tòa suốt các chiều thứ tư trong tuần.

 

Cha Christopher Whatley, linh mục chánh xứ St. Mark ở Catonsville đã nói với tờ  The Catholic Review  “Phép Hòa Giải là một trong những kho tàng đáng kể nhất của niềm Tin của chúng ta”.

 

Ở miền Tây Hoa Kỳ, TGM  Porland, Oregon, DC John Vlazny đã viết một bài trên tờ The Catholic Sentinel số ra ngày 5 tháng 3 nói về Sự quan trọng của bí tích Hòa Giải. Đức cha cho biết trong mùa chay này, ngài đã yêu cầu tất cả các linh mục ở các xứ đạo phải dành thêm giờ ngồi tòa giải tội.

 

Đức TGM Vlazny nói rằng, 40 ngày mùa Chay phải là thời gian đặc biệt để chúng ta tìm lại sức mạnh hầu thắng lướt tội lỗi và đến gần với Chúa Kito hơn.

 

Mỗi người chúng ta trong cuộc tiếp cận đặc biệt này với chúa Kito qua bí tích hòa giải –Đức Giám Mục cắt nghĩa- hãy xin Chúa thương sót, cứu giúp và canh tân, cải hóa chúng ta, mang chúng ta trở lại con đường mà Chúa đã vạch ra cho chúng ta trong Tin Mừng Phúc Âm.

 

Trở lại Connecticut, tờ báo Stanford Advocate ra ngày 25 tháng 2 năm 2009 đã đi một bài về chiến dịch xưng tội. Chiến dịch này được hội Hiệp Sĩ Columbus bảo trợ, đã quảng bá, vận động bằng bích chương dán trên các xe bus công cộng trong thành phố và các toa xe lửa cũng như xuất hiện trên vô tuyến truyền thanh Radio và truyền hình TV.

 

Cuộc vận động được cảm hứng bởi chủ đề của năm Thánh Phaolo năm nay: “Hãy hòa giải với Chúa”, đã được Đức Giám mục William Lori diễn giải trong thư mục vụ của ngài nói về bí tích Giải tội / Hòa giải với Chúa. 

 

MỘT CUỘC CÁCH MẠNG…

 

Chiến dịch vận động tham gia xưng tội không phải chỉ thấy ở Hoa Kỳ mà còn thấy được khuyến khích mãi tận Melbourne bên Úc Châu. Đức TGM Denis Hart đã viết một bài trên báo địa phận, tờ Karos số ra ngày 8-3-2009 nói về phép hòa giải.

 

Đức TGM đã đưa ra một thông điệp cho mùa Chay Thánh năm nay qua lời thánh Phaolo gửi cho giáo đoàn Ephêso: “…Anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa, trong Đức Kito khi Người chịu chết trên thánh giá và phục sinh để sống thực sự công chính và thành thiện” (Ephêsô 4:23-24).

 

Đức TGM diễn giải:

 

Thực sự, mùa chay là mùa vui mừng, mùa hân hoan mừng vui theo sau một biến đổi tâm hồn được thực hiện bằng cầu nguyện, ăn chay, hãm mình và những hành động bác ái cụ thể đã giúp chúng ta hòa giải với Chúa.

 

Tuy nhiên, cuộc cách mạng tâm hồn này –TGM tiếp tục diễn giải- không thể đến với chúng ta bằng sức riêng của mình mà còn cần phải có sự trợ giúp của Chúa Thánh thần đổ xuống trên mỗi người chúng ta nhờ bí tích hòa giải.

 

KẾT LUẬN:

 

Do đó Mùa Chay Thánh này là thời gian để chúng ta canh tân bí tích hòa giải trong cộng đồng xứ đạo chúng ta.

 

“Chúa Kitô đã chịu chết và sống lại, nhờ phép hòa giải Ngài đã thanh tẩy chúng ta qua các mục tử của Ngài với lòng thương xót vô bờ bến cho chúng ta trở lại hiệp thông với Đức Chúa Cha  ở trên trời và, cùng với những người anh em chúng ta Ngài đã biến đổi chúng ta thành tặng vật tình yêu, nỗi vui mừng và bằng an của Ngài”[3]

 

Đức Thánh Cha đã thúc dục chúng ta “hãy thường xuyên lợi dụng bí tích giải tội, một bí tích hòa giải tha thứ mà chúng ta cần phải làm sống lại trong đời sống Kito giáo của chúng ta ngày nay với tất cả giá trị và sự quan trọng cần thiết của nó”. Đây là một lời khuyên nhủ của Đức thánh Cha hiện vẫn còn vang vọng nơi tất cả các giáo hội trên hoàn vũ trong Mùa Chay Thánh này.

 

[1] The American Religious Identification Survey (ARIS)

[2] Không thấy nói đến số người công giáo gốc VN.

[3] Lời Đức Thánh Cha Benedicto XVI trong thông điệp Angelus ngày 15-2-09

 

Fleming Islands, Florida

Mùa Chay Thánh 2009

Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh

VỀ MỤC LỤC

LỀ LUẬT CHÚA GIÚP CHO TA SỨC MẠNH

 

Đức Giáo Hoàng Piô  XII: ”Ngày nay có lẽ cái tội

lớn nhất của thế giới là đánh mất ý thức về tội lỗi.”

  

Tôi đánh mất những gì là ý thức

về tội tôi hằng lỗi phạm thường xuyên

Bỏ ngoài tai lời Giáo hội  vẫn  khuyên

Nhắc nhủ tôi nên làm hoặc nên tránh!

  

Tôi muốn theo mẫu gương nhiều vị Thánh

Nhưng du di nhiều điều luật Chúa răn

Xưng tội rồi, tôi chẳng đủ ăn năn

Tôi tái phạm những lỗi lầm tai hại!

  

Lương tâm tôi bảo tôi rằng sai trái

Nhưng không sao, Chúa chẳng chấp tội đâu!

Lễ Chúa nhật hơi nhức nhức cái đầu

Tôi nằm ì, thế là tôi mất lễ!

  

Giữ kỷ  luật không là chuyện quá dễ

Phải hãm mình, ép xác, đạt mục tiêu

Bớt rong chơi, bớt thể xác yêu chiều

Mới hoàn thành những gì Giáo hội dạy!

  

Khi xưa tôi rất siêng năng lễ lạy

Nhưng từ khi khôn lớn bỗng lười đi

Tôi nghĩ rằng thôi siêng quá làm chi

Sống thế này là chu toàn bổn phận!

  

Vả mình nay cuộc sống nhiều lận đận!

Nào tăng ca, nào xe lái đường xa

Đường kẹt luôn, tối chưa thấy căn nhà

Lễ lậy thế cũng là chu toàn lắm!

  

Mùa thương khó tôi không hề đi ngắm

Không dự trù đi cáo giải, ăn năn

Xét mình nay dù xét kỹ, trở trăn

Chỉ tội nhẹ, ăn năn là xong hết!

  

Này tôi ơi! Đừng bao giờ tự quyết!

Tội lỗi ta làm Chúa rất đau thương

Đừng hoài nghi! Ta cứ thẳng trên đường

Luật Chúa dạy và lề luật Hội thánh!

 

Lề luật Chúa giúp ta thêm sức mạnh!

Ráng làm sao ta giữ đủ, chu toàn

Hồn  đơn sơ ta vui sống bình an

Nhờ nghị lực, quyết tâm theo đường Chúa!

 Xuân Vũ Trần Đình Ngọc 

VỀ MỤC LỤC
NGƯỜI CÔNG GIÁO VÀ GIÁO DỤC KITÔ GIÁO TRONG MÔI TRƯỜNG XÃ HỘI HÔM NAY

 

1.  Người công giáo và niềm tin kitô giáo

Dựa vào Lời Chúa trong Sách Thánh cũng như trong đời sống của Giáo Hội Chúa Giêsu Kitô, người  công giáo tin rằng Đấng Tối Cao, Đấng Chí Thánh Chí Tôn, là Thiên Chúa nhất thể tam vị.  Tin rằng Ngôi Cha là Tình Yêu.  Tin rằng Thiên Chúa Cha yêu thương loài người đến độ gởi Người Con Một là Đức Giêsu Kitô, là hiện thân Tình Yêu, đến làm người sống với loài người, để những ai tin vào Người Con nầy thì được sống muôn đời.  Tin rằng Chúa Cha cũng gởi Thánh Thần của Ngài, là Thần Khí sự sống và là nguồn lực Tình Yêu, đến với mọi người, để những ai đón nhận Thánh Thần thì được sống dồi dào.

Cốt lõi niềm tin kitô giáo là xác tín Thiên Chúa là Cha trên trời giàu lòng yêu thương.  Và vì yêu thương, Ngài ban cho ta cả kho tàng hồng ân cứu độ.  Hồng ân trọng đại nhất là Người Con Một và Thánh Thần của Ngài, cùng Lời Chúa và các Nhiệm tích.  Do đó, người công giáo chân chính là người cảm nhận những gì mình có, - sự sống và đạo làm người, gia đình cùng mọi sự an lành và mọi điều thiện hảo trong cuộc sống - , là quà tặng của Người Cha đầy lòng thương yêu.  Đối với người công giáo, sống niềm tin kitô giáo là đáp trả lại tình thương vô biên của Cha trên trời với tấm lòng thảo kính tuân hành ý Ngài.  Tôn ý của Ngài là người người sống yêu thương chan hoà trong gia đình, coi mọi người anh em đồng bào và đồng loại là con một Cha, là anh em một nhà, và chia sẻ cho nhau mọi hồng ân Chúa ban cho, trước tiên là hồng ân đức tin, là cánh cửa mở vào kho tàng hồng ân cứu độ.   

2.  Người công giáo và luật của Đạo Chúa

Luật tối thượng của Đạo Chúa là mến Chúa yêu người.  Luật nầy trước tiên được ghi khắc ngay trong bản chất con người được Thiên Chúa tạo thành theo hình ảnh của Ngài là Tình Yêu.  Luật thành văn đến sau, nhằm giúp con người ý thức về nguồn gốc của mình là con Cha trên trời, về bản chất của mình là yêu thương. 

Ngay từ thời sơ khai của Giáo Hội công giáo, cách đây 20 thế kỷ, nhiều người trong xã hội bấy giờ đã nhận ra các tín hữu tiên khởi hợp thành một cộng đoàn yêu thương và cộng sinh, nhờ thế mà trong cộng đoàn không có ai thiếu thốn, đói khổ, bị bỏ rơi.  Cách đây gần 500 năm, khi ông bà tổ tiên đón nhận Đạo Chúa mới đến trên đất nước Việt Nam, đồng bào chúng ta đã chứng kiến Đạo Chúa là sức sống mới, là sức mạnh của tình yêu mới nối kết các tín hữu tiên khởi trong tình huynh đệ tương thân tương trợ và đùm bọc lẫn nhau.  Và vì thế, họ đặt tên cho Đạo mới là Đạo yêu thương.  Ngày nay, cũng chính nhờ sức mạnh của tình yêu mới đó, có những cộng đoàn công giáo ngay trong Thành phố nầy, cùng chung sức khắc phục cách có hiệu quả tình trạng nô lệ sự dữ và tội lỗi, tình trạng suy thoái trầm trọng của đời sống luân lý và đạo đức trong gia đình cũng như ngoài xã hội.  Nay, tại những cộng đoàn đó, mọi người sống trong tình liên đới huynh đệ, trong một hoà khí tự do và an lành hơn.  Những nơi đó, trước đem lại sự sợ hãi cho cộng đồng, nay trở thành điểm tựa đáng tin cho nhiều người.

Từ đó, người ta không còn dừng lại ở định nghĩa người công giáo là người đi nhà thờ, song người công giáo là người cảm nhận được Cha trên trời yêu thương, đồng thời là người biết sống tình huynh đệ liên đới với mọi người, không phân biệt giai cấp người giàu hay nghèo, sang hay hèn, học thức hay thiếu học, bạn hay thù, lành hay dữ. 

3.  Người công giáo và hai loại tình yêu trong cuộc sống gia đình và xã hội

Cách đây 2 năm, nhân chuyến viếng thăm Trung Quốc, tôi có dịp gặp gỡ và trao đổi với một số chức sắc trong cộng đồng dân Chúa tại Trung Quốc.  Các vị đó có nêu lên một vấn đề trong lịch sử truyền giáo tại Trung Quốc, và phân ra hai loại nhà truyền giáo. Loại một là những nhà truyền giáo quan tâm tìm hiểu văn hoá bản xứ, trân trọng văn hoá đó, và góp phần tạo khả năng và thuận lợi cho việc phát huy nền văn hoá đó. Loại hai là những nhà truyền giáo không quan tâm tôn trọng văn hoá bản xứ, đồng thời áp đặt trên người dân bản xứ những gì xa lạ từ thế giới bên ngoài.  Loại nầy bị coi là một chướng ngại cho sự phát triển của đạo Chúa cũng như của Giáo Hội công giáo nơi bản xứ. 

Tôi có chia sẻ những suy nghĩ và nhận định của tôi: lịch sử và cuộc sống xác minh rằng trong gia đình cũng như ngoài xã hội, xưa cũng như nay, có hai loại tình yêu thương. Loại một là tình yêu tôn trọng và đồng cảm, mở đường và trợ lực cho sự tăng trưởng của đối tượng được yêu thương.  Loại hai là tình yêu mang tính gia trưởng, chuyên chế và áp đặt đối với đối tượng được yêu thương.  Loại hai nầy làm đình trệ sự phát triển của đối tượng được yêu thương, dù là con người hay gia đình hay dân tộc.   

4.  Người công giáo bước theo Đức Giêsu Đấng cứu độ, để đi đến sự sống mới  

Trong cuộc đời tại thế, Đức Giêsu đã loan Tin Mừng cứu độ và phục vụ cho sự sống con người.  Vào cuối đời, Ngài đã tự nguyện đón nhận khổ nhục và cả cái chết của kiếp trần ai.  Từ đó, nhờ sức mạnh vô biên của tình yêu thương, Ngài đã biến khổ nhục và cái chết của kiếp người, từ một nhục hình và một ngõ cụt, trở thành cửa ngỏ dẫn mọi người vào con đường cứu độ đưa đến sự sống mới, sự sống dồi dào trong tự do và hạnh phúc lâu dài.

Bước theo con đường cứu độ Chúa đã mở ra, người công giáo cũng cần phải tự nguyện trải qua cái chết ngay trong kiếp sống nầy, để đi đến sự sống mới.  Chết ngay trong kiếp sống nầy, cốt yếu là chết đi cho lòng tham sân si là tà tâm, để mở rộng chánh tâm cho tình yêu mới được lớn lên và toả sáng.  Tình yêu mới mà Chúa đổ vào lòng ta, mang tính vị tha và liên đới, quảng đại và bao dung đối với mọi người anh em đồng bào và đồng loại.  Khi thoát khỏi  động cơ ích kỷ hẹp hòi của lòng tham sân si, tình yêu mới sẽ là tình huynh đệ vị tha và liên đới, sẽ không còn mang tính đối kháng là tính đưa đến thái độ phân biệt đối xử và thù nghịch giữa những người anh em đồng bào và đồng loại. 

5. Người công giáo Việt Nam chuẩn bị cử hành Năm Thánh 2010 tại Việt Nam

  Để chuẩn bị cử hành Năm Thánh 2010 kỷ niệm 350 năm hình thành Giáo Hội công giáo trên đất nước chúng ta, và 50 năm thiết lập hàng giáo phẩm Việt Nam, người công giáo VN, thừa hưởng truyền thống đạo hiếu của dân tộc VN, đồng thời đã đón nhận niềm tin kitô giáo, vừa là quà tặng của Cha trên trời, vừa là gia sản vô giá cha ông chúng ta để lại, cần chung sức đền đáp công ơn nầy.

Đền đáp, một mặt, bằng cách dành thời gian nhìn lại, dưới ánh sáng niềm tin kitô giáo, những nếp nghĩ và thái độ ứng xử, những cách nói và lối hành văn, cả trong kinh sách từ xưa, nay không còn phù hợp với nền văn hoá sự sống và văn minh tình thương, đồng thời nhận ra những thiếu sót, những lệch lạc, những sai trái, đối với tôn ý của Cha trên trời, đối với luật Chúa dạy sống bác ái huynh đệ, đối với mọi người là con một Cha và anh em một nhà, để điều chỉnh và bổ sung, đền bù và đổi mới.  Vả lại, con đường sám hối và đổi mới là con đường vượt qua những bất cập, những giới hạn nhân loại, để tìm đến nguồn ánh sáng và sức sống mới từ Tin Mừng cứu độ Chúa Giêsu Kitô.  Đó cũng là con đường thắp sáng lên trên đất nước Việt Nam ngọn lửa tình yêu cứu độ mà Đức Giêsu đã mang vào thế giới nầy từ gần 2000 năm nay.

Đền đáp, mặt khác, bằng cách tích cực tham gia đời sống và sứ vụ mà Chúa Kitô đã trao cho Giáo Hội của Ngài.  Sự hiện hữu của Giáo Hội Chúa Kitô trên trái đất nầy là vì xã hội loài người, vì sự sống của mọi người, của mọi dân tộc.  Do đó, sứ vụ của Giáo Hội là bước theo Chúa Kitô yêu thương và phục vụ cho sự sống và phẩm giá của mọi người anh em trong cộng đồng dân tộc cũng như cộng đồng thế giới hôm nay. Sứ vụ đó còn là tạo khả năng và thuận lợi cho mọi người mở rộng tâm trí và đổi mới hướng sống của mình, từ quy ngã và duy vật chất đến hướng thượng và hướng tha.   

6. Người công giáo chu toàn sứ vụ yêu thương và phục vụ trong xã hội hôm nay

Trong hoàn cảnh xã hội hôm nay, chu toàn sứ vụ yêu thương và phục vụ mà Chúa Kitô trao cho Giáo Hộiï, cơ bản là nỗ lực góp sức xây bốn viên đá nền hay bốn trụ cột cho những ngôi nhà gia đình và xã hội đang được xây lên trên trái đất còn ngổn ngang nhiều gian dối và bất công, nhiều hận thù và bạo lực, nhiều thiếu hụt và đói khổ về mặt vật chất, tinh thần cũng như tâm linh. 

Bốn viên đá nền hay bốn trụ cột đó là bốn giá trị nền tảng từ Tin Mừng Chúa Kitô.  Bốn giá trị nền tảng từ Tin Mừng cứu độ của Chúa Kitô là : một là chân lý, hai là công lý, ba là tình bác ái huynh đệ liên đới và đại đồng, bốn là sự an bình và hoà bình.  Xây bốn trụ cột đó có nghĩa là chung sức thể hiện cùng chiếu toả đủ cả bốn giá trị nền tảng đó, trong đời sống gia đình, đời sống giáo hội, và đời sống xã hội hôm nay.  Bốn giá trị nền tảng đó sẽ là bốn trụ cột vững chắc chống đỡ những mái nhà nhân loại.

Lịch sử loài người xác minh bốn trụ cột được xây bằng chất liệu những giá trị nền tảng từ  Tin Mừng cứu độ của Chúa Kitô, có khả năng bảo đảm cho ngôi nhà gia đình trở nên một mái ấm vững chắc, cho ngôi nhà dân tộc cũng như ngôi nhà thế giới đượm tình huynh đệ tương thân tương trợ và trở nên vững bền trong chân lý, công lý và hoà bình.  Lịch sử các chế độ trong xã hội loài người tự cổ chí kim cũng xác minh những trụ cột được xây bằng những sản phẩm do tham vọng hay trí khôn của con người sáng chế ra qua các thời đại, đều không làm cho những ngôi nhà được xây lên trên mặt đất nầy mang tính trường tồn trong tự do, an bình và hạnh phúc thật.   

Hồng Y Gioan B. Phạm Minh Mẫn

VỀ MỤC LỤC

MẤT NHÀ

 

Lần đầu tiên trong suốt bao năm "ôm" cái tiệm làm tóc làm móng cho khách (tiệm Hair & Nail), tôi mới được gặp một bà khách mà lúc đồng hồ ở tiệm thấy đúng ba giờ chiều thì mặc cho tôi đang phục vụ bà: bà thản nhiên lấy ra xâu chuỗi Mân Côi và cứ thế chìm đắm trong kinh nguyện...

Bà lần chuỗi lúc ba giờ chiều là tôi hiểu: lần chuỗi kinh "Kính Lòng Thương Xót Chúa".

Bà có vẻ như người Ý lai Mễ. Tóc muối tiêu mà muối nhiều hơn tiêu dù nét mặt và dáng dấp bà chỉ độ năm mươi tuổi là cùng.

Đây cũng là lần đầu tiên bà tới tiệm tôi. Do bà thích kiểu tóc tôi cắt cho bà bạn cùng đi nhà thờ với bà nên bà ấy giới thiệu bà đến. Trước khi đến, bà có gọi làm hẹn, muốn sau ba giờ rưởi chiều. Tôi xin bà nếu muốn vậy, hãy chờ hôm sau vì hôm nay tôi có hẹn với bác sĩ lúc ba giờ rưởi nên khoảng ba giờ hai mươi là tôi phải đi. Bà gọi lúc sáng sớm nên tôi cũng thành thật cho biết ngoài giờ đã hẹn đi bác sĩ thì trong suốt cả ngày: tôi chưa được người khách nào hẹn hết! Xin bà có thể đến ngay nếu muốn hoặc bất cứ giờ nào khác. Bà bảo không đến sớm được và hỏi tôi: cắt kiểu tóc giống như bà bạn ấy, với thêm gội đầu và sấy mất khoảng bao nhiêu phút? Tôi nói khoảng hai mươi phút. Bà cho biết sẽ đến lúc hai giờ hai mươi lăm, được không? Tôi đáp "yes" với vẻ thật "happy" cho bà an tâm (cũng là "happy" cho tôi luôn, vì đang... ế ẩm!). Bà bảo thêm: hãy nhớ đúng hẹn cho bà chớ không được trễ và bà phải rời tiệm trước ba giờ. Tôi lại khẳng định "yes" để bà thật an lòng và còn cho biết: dẫu có may mắn được đắt khách, nhất định tôi vẫn lo thu xếp để vài ba phút trước giờ bà hẹn, tôi chỉ có "ngồi chơi xơi nước" đợi bà thôi... Thế nhưng, mãi tới hai giờ năm mươi bà mới đến: vì bị lạc đường!

Bây giờ tôi mới hiểu hóa ra bà tính toán giờ hẹn, giờ rời tiệm phải như vậy, là do muốn dành khoảng thời gian chỉ có chừng dăm phút, mươi phút ngắn ngủi trong ngày vào đúng ba giờ chiều - Giờ Chúa Giêsu trút hơi thở trên Thánh Giá - để bà được ở thinh lặng với Chúa trong kinh nguyện: đọc chuỗi Kinh Kính Lòng Thương Xót Chúa... Và hiểu được vậy, tôi không khỏi tự trách mình! Vì cùng có đạo mà bà nhiệt thành với Chúa đáng quý thay, còn tôi ôi nhạt nhẽo đáng buồn! Tôi chỉ có hay lần chuỗi Kinh Kính Lòng Thương Xót Chúa lúc ba giờ chiều của ngày Thứ Sáu thôi, chớ các ngày khác tôi chẳng chú tâm! Và vì chẳng chú tâm nên tôi hời hợt, vô tình khi lấy hẹn (đâu có nhạy bén nghĩ ra việc bà muốn tránh có mặt trong tiệm lúc ba giờ để được ở thinh lặng với Chúa; cũng đâu có thấy nhu cầu nên hỏi han tìm hiểu xem tại sao bà muốn hẹn ở khoảng thời gian như vậy, để nếu được bà cho biết thì tôi sẽ gọi đến văn phòng bác sĩ mình xin dời giờ hẹn hoặc sớm hơn hoặc muộn hơn, bởi lúc đó tôi đâu đã có khách nào hẹn trong ngày...)! Lại chưa có bao giờ tôi dám ngang nhiên chìm đắm trong kinh nguyện (tức tuyên xưng đức tin, đức cậy, đức mến của mình) mà không đúng nơi phải chỗ, nhất là trước mặt người lạ và ở chỗ làm ăn... vì ngại những lời tiếng nọ kia: cho rằng mình bệnh hoạn hoặc mỉa mai...! Thế nhưng, hình ảnh của bà khách chưa một lần quen biết nầy - hiện đang ngồi trước khung kính và trên chiếc ghế tôi làm tóc cho - tay cứ lần chuỗi và mắt nhắm nghiền... chẳng "care" gì đến tôi (cũng như mặc kệ mọi người trong tiệm muốn nghĩ sao thì nghĩ) lại khiến tôi đã biết tự trách mình còn kính yêu nễ phục bà thay!

Để biểu lộ sự đồng tình với bà, tôi đi vặn nhỏ ti-vi xuống, rồi mới trở lại bên ghế tóc. Nhắm thấy hãy còn kịp giờ, tôi cũng muốn theo bà lần chuỗi kinh nhưng thú thật tôi vẫn chưa thoát được bao nỗi ngại...! Thôi thì hãy chờ thời gian vậy! Và chính vì thế tôi thấy nễ bà nầy lắm! Tôi lo cắt tóc cho bà và cắt đâu đã xong thì bà đã lần chuỗi xong. Bà mở mắt, vừa cất xâu chuỗi vừa nhoẻn nụ cười dễ mến và thốt lời cám ơn tôi đã vặn nhỏ ti-vi. Tôi xin bà chớ có cám ơn mình, chính tôi phải cám ơn bà mới đúng. Vì nhờ được bà đến tiệm và chứng kiến cảnh bà chìm đắm trong việc lần chuỗi Kinh Kính Lòng Thương Xót Chúa lúc ba giờ chiều, mà ngày thường chớ không phải ngày Thứ Sáu nên giúp tôi thức tỉnh nhiều nỗi lắm! Tôi cũng tâm sự việc mình chỉ có thói quen lần chuỗi kinh ấy lúc ba giờ chiều của ngày Thứ Sáu thôi. Lại chỉ mới bắt đầu được có mấy năm nay và hễ bận khách hoặc phải việc là đâu giữ được! Còn bà, đã ngày thường chớ chẳng phải ngày Thứ Sáu, lại giữ được như thế ắt là đã thành nếp từ bao giờ, thật đáng ngưỡng mộ thay!

Bà bảo tôi chớ có bé cái nhầm! Trước đây bà khô đạo lắm! Đến Thánh Lễ ngày Chúa Nhật bà còn lúc đi lúc không, nói chi biết đến lần chuỗi Kinh Kính Lòng Thương Xót Chúa! Chỉ có mới gần một năm nay đấy thôi! Do bị mất đi ngôi nhà duy nhất bà tậu được trong đời, bà mới biết quay về với Chúa để thường xuyên tham dự Thánh Lễ và không chỉ ba giờ chiều, cả đến ba giờ sáng của mỗi ngày: bà đều nồng nhiệt dâng lên Chúa: chuỗi Kinh Kính Lòng Thương Xót Chúa.

Chỉ vì "Mất Nhà" ư?! Ôi! Có sự chuyển đổi tuyệt vời thế ư? Tôi xin bà nói rõ thêm để mình được hiểu. Và đây, câu chuyện bà kể...

... Bà là người con duy nhất của bố mẹ mình. Lúc mẹ mới sinh bà thì trong thời gian còn ở cữ, bố ngoại tình bị mẹ bắt quả tang nên tha hồ bố năn nỉ, mẹ dứt khoát ly dị và bế bà theo. Vì bị bố phản bội nên cuộc đời của mẹ kể từ đấy không còn tin tưởng vào người đàn ông nào nữa để tiến tới hôn nhân. Hễ thích thích ai, mẹ đến ở với người ta và chán thì chia tay. Ấn tượng của tuổi thơ bà là hai mẹ con cứ dời chỗ ở liên tục chớ chưa bao giờ được yên nơi ổn chỗ. Do đó dù chỉ là một cô bé mới có tám, chín tuổi nhưng bà đã biết khát khao mơ ước cho mình có được ngôi nhà...

Năm mười tám tuổi, bà lập gia đình với người bạn trai cùng lớp mà cả hai đều tay trắng và tha thiết yêu thương nhau. Dù đồng lương hai vợ chồng kiếm được thật khiêm nhường, nhưng vẫn chắt chiu dành dụm, quyết phải tậu ngôi nhà, mới sẽ tính chuyện sinh con. Vì chưa có con nên bà làm trong tiệm bánh có bao nhiêu giờ phụ trội đều xin làm tất. Còn chồng làm về điện lạnh nên sau giờ làm việc hoặc cuối tuần cứ đi sửa ti-vi, tủ lạnh... để kiếm thêm. Ròng rã suốt tám năm, hai vợ chồng đã để dành được khá tiền và đang tính chuyện mua nhà thì đùng một cái: bà phát hiện bao nhiêu tiền trong trương mục đã bị chồng lấy ra đánh bạc thua sạch! Đã vậy chồng còn mượn thêm của bố mẹ anh em kẻ năm nghìn, người ba nghìn... nói rằng để góp vào cho đủ số tiền ước ao muốn trả trước là ba mươi phần trăm khi mua nhà, thì nợ trả hàng tháng sẽ được giảm đi đỡ phải lo... nhưng kỳ thật là đem đánh bạc luôn! Ôi! Chồng bà bài bạc đổ đốn đến như vậy là cùng! Bà khinh bỉ, thù hận chồng, chẳng muốn nghe muốn tin gì nữa ở chồng! Bởi vậy, tha hồ cho chồng quỳ gối trước mặt bà để xin lỗi và năn nỉ, thề hứa hoán cải thôi bài bạc... bà vẫn dứt khoát phải ly dị...

... Quá buồn khổ trước việc bà ly dị, ông tiếp tục lao vô bài bạc! Trên đường đi đánh bạc về vào một đêm bão tuyết, ông đã bị tông xe chết thảm! Phần bà ly dị rồi thì ở vậy, "làm ngày không đủ tranh thủ làm đêm" để quyết phải tậu cho bằng được ngôi nhà. Đúng mười năm sau thì bà mua được nhà. Bà đón mẹ về ở với mình mới có vài năm, mẹ vội qua đời! Mấy lúc gần đây kinh tế Mỹ bị xuống quá, thêm tai trời ách nước như cuồng phong, bão lụt, đất chuồi, núi lở, cháy rừng... làm biết bao người tan nhà nát cửa trắng tay nhưng bà vẫn may mắn giữ được ngôi nhà mình đã khao khát tậu nên. Mà rồi chỉ có bởi tại cơn bệnh nan y bất ngờ đổ chập xuống, khiến bà phải nghỉ việc làm để lo chữa trị nên đâu có tiền tháng tháng tiếp tục trả góp nợ tiền mua nhà! Bà phải đành bị mất nhà!

Nhờ bị mất nhà, bà mới thật sự được trở lại với đức tin nhất là với lòng kính Chúa yêu người (bà theo đạo chồng. Thời gian yêu nhau và buổi đầu cưới nhau, hai người luôn có tham dự Thánh Lễ mỗi Chúa Nhật nhưng sau đó bắt đầu bê trễ rồi bỏ luôn chỉ vì phải lao thân đi làm kiếm tiền để thỏa mãn cho khát vọng tậu nhà). Vì Chúa có lời dạy: "Trước hết các con hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, rồi tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho" (Mt 6, 33). Nhưng bà thì dại dột, chỉ có ưu tiên cho việc tậu nhà, để rồi mất trắng! Và có mấ trắng cái nhà bà mới giật mình hiểu ra đời mình đã trót vướng vào căn bệnh bất trị là bệnh sắm nhà! Cũng như Chúa đã khuyến cáo: "Các con hãy coi chừng, đừng khinh rẻ một ai trong những kẻ hèn mọn nầy, vì Thầy bảo các con, thiên thần của họ trên trời hằng chiêm ngưỡng Thánh Nhan Cha Ta, Đấng ngự trên trời" (Mt 18, 10). Mà bà thì khinh bỉ chồng chỉ vì chồng trót lỡ lầm bài bạc nên chẳng dung tha... Thì việc bà không bài bạc nhưng Chúa vẫn khiến cho bà phải cơn bệnh để bị mất nhà, chính là thông điệp tình yêu Chúa nhắc nhở bà, giá như biết xem việc chồng bài bạc cũng là cơn bệnh để lo chạy chữa... Nhưng bà đã chẳng lo chạy chữa cho chồng, còn đẩy chồng vào tuyệt vọng để chồng cứ tiếp tục lầm đường sai lối, kết thúc cuộc đời quá thảm!... Còn bà, trong cơn bệnh được bao người giúp đỡ nên đã vượt qua được. Ngay cả việc bà mất nhà nên bị "bad credit" đâu thể mướn được gian apartment để ở, thì cũng có người đứng ra bảo đảm ký giấy thuê giúp cho... khiến bà đã xác mạnh thêm được hồn an...

Và cũng nhờ thế bà cứ thiết tha dâng chuỗi kinh Kinh Kính Lòng Thương Xót Chúa mỗi ngày lúc ba giờ chiều với cả ba giờ sáng để nài xin Chúa ban ơn cho người người được sáng mắt sáng lòng: đừng quá ham chuộng của thế trần có đó mất đó mà bỏ quên Chúa. Cũng như nài xin Chúa ban cho mỗi người biết thương yêu nhau, chớ đừng vì lỗi nầy lỗi nọ của nhau mà tẩy chay, khinh bỉ, hận thù... Thấy ai làm lỗi thì hãy coi như người đó rủi ro mắc bệnh và mừng mình chưa bị bệnh để an ủi, giúp đỡ, tận tâm tận lực tìm thầy chạy thuốc cứu chữa cho... 

Hoàng Thị Đáo Tiệp

VỀ MỤC LỤC
CÙNG NHAU VUI SỐNG
 

Ngày xưa với đại gia đình, con trẻ bị cưỡng bách bỡi môi trường phải dựa vào nhau để có niềm vui. Truyền thống đó đã được lưu truyền từ thế hệ nầy đến thế hệ khác và tiếp tục mãi cho tới khi có sự giải trí tập thể qua truyền thanh và truyền hình. Chúng ta hoàn toàn thích thú với những câu chuyện mô tả tình thân thiện của gia đình qua những điều họ cùng nhau thực hiện. Một trong những cảnh hấp dẫn nhất đó là cảnh cả con trẻ lẫn người lớn cùng nhau vui nhảy vũ điệu dân tộc trong những ngày Lễ, Hội của Đình Làng hay những ngày Tết dân tôc. Thật thảm não khi nhìn thấy có nhiều gia đình hôm nay đã tách lìa đến nỗi con cái đi tìm cái vui riêng với những phương tiện được cung cấp mà không thích có sự cùng nhau tham dự. Tình trạng nầy xảy ra, một phần vì có sự thay đổi văn hóa khiến con trẻ chống lại người lớn, một phần vì chúng ta thiếu sự khéo léo trong việc sống chung một cách dân chủ. 

Một yếu tố khác là sự mất đi sở thích chung giữa cha mẹ và con cái khơi nguồn từ sự khước từ thế giới người lớn của con trẻ và sự mất khả năng đi vào thế giới của con trẻ một cách bình đẳng của người lớn. 

Trong nhiều gia đình, con trẻ không muốn người lớn chơi với chúng. Một khi có tình trạng chiến tranh lạnh trong gia đình, không thể có niềm vui chung với nhau. Khi cha mẹ và con cái cùng chơi chung với nhau, sự hận thù giảm và sự hài hòa có cơ hội. 

Nuôi dưỡng bầu khí thân mật qua trò chơi là tùy thuộc vào cha mẹ. Trong cách thế đó, chúng ta có thể thay đổi hình ảnh người lớn chống lại con trẻ. Hãy chọn lấy một nhóm người có cùng mục đích và cùng sở thích. 

Khi đứa trẻ còn bé, chúng ta cảm thấy dễ chơi; nhưng khi nó lớn lên rồi, chúng ta xem ra không còn sự thích thú chơi với nó như ngày xưa nữa. Tuy nhiên, đứa trẻ một cách thất vọng ước mong có được hình thức tham dự nầy. Giờ chơi có thể trở thành một điểm mốc cho sự hài hòa và cảm thông giữa bố mẹ và con cái. Trò chơi ở nhà có thể là nguồn của niềm vui hơn là sự cạnh tranh. Ở đây đứa trẻ có thể học được bài học: người ta chơi không phải vì sự thắng- thua mà còn vì niềm vui chung với nhau nữa. Thật vậy, đây là một bài học không dễ, vì hầu hết những người lớn không nhận thấy rằng nhiều đứa trẻ thích thắng trong bất cứ cái gì chúng làm. Mọi gia đình nên có trò chơi hợp với trình độ tuổi của con trẻ. Cũng nên có một thời gian xác định cho trò chơi gia đình vì đó là một phần của thói quen hàng ngày. Dĩ nhiên, giờ giấc được thay đổi để cho những phần tử khác của gia đình có thể tham dự. 

Một người cha có 5 con: 3 trai và 2 gái, là người rất thích chơi banh chày và nhập đội banh của địa phương cách tài tử. Mỗi mùa xuân khi thời tiết cho phép, ông bắt đầu thực tập với các con. Ngay cả đứa con trai 3 tuổi cũng có câu lạc bộ tầm cỡ cho nó. Ông bố ném những trái banh một cách rất dễ thành công trong cuộc chơi. Khi con trẻ khôn lớn hơn, ông ném banh trong cách thế để thõa đáp sự khéo léo đang tăng dần của chúng. Những đứa trẻ lớn hơn chấp nhận thái độ nhẫn nại đối với những đứa nhỏ hơn và ít khéo léo hơn, và cùng chơi chung trò chơi để không ai bị loại trừ. Chúng vui thích với sự khéo léo đang lớn dần của đứa nhỏ nhất giống như bố nó vậy. Ông không bao giờ phê bình trận chơi không hay hoặc để mất banh. Ông luôn tỏ ra khích lệ. Rõ ràng là ông có một thời giờ tuyệt đẹp, và các con ông cũng vậy. 

Đức Huy 8 tuổi rất mê banh chày. Nếu có trận nào ở gần đó, nó chắc chắn có mặt. Bố mẹ nhấn mạnh nó phải xin phép để bố mẹ biết nó ở đâu. Một buổi chiều kia, mọi người không biết nó ở đâu để tìm. Trời bắt đầu tối, và khi ông bố muốn gọi cảnh sát thì cậu bé đi vào hoàn toàn không quan tâm chút nào. Lo lắng đưa đến giận dữ, ông bố muốn đập nó. “Bố ơi, chờ một chút, cậu bé van xin. Để con nói điều gì xảy ra. Đoạn nó cắt nghĩa: nó đi với nhóm thanh niên lớn hơn nó đến chỗ chơi banh cách khoảng 10 cây số. Bố ơi, bố không bao giờ chở con đi chơi banh. Con xin bố cả trăm lần . Bố đều nói bố bận và có nhiều chuyện khác phải làm.” 

Đây là sự mặc khải cho ông bố. Nó muốn bố nó chia xẻ với nó niềm vui. Ông bố đã nhận thức được điều đó và đã hành động theo nhận thức. Cả bố mẹ bây giờ tham dự một cách thích thú thật sự vào những trận banh ở địa phương, và cả ba đã cùng đi chung với nhau để thưởng thức những trận đấu banh. 

Tất cả trẻ con đều mê thích đóng kịch hoặc một trò chơi nào đó. Bố mẹ không phải luôn luôn là khán giả. Đôi khi họ cũng có thể đóng kịch. Trẻ con đặc biệt thích đóng vai người lớn trong khi bố mẹ đóng vai con trẻ trong một câu chuyện. Một câu chuyện thần tiên được mọi người biết có thể trở thành một vở kịch không cần chuẩn bị, không cần khán giả, chỉ cần diễn xuất. 

Có nhiều dự phóng cho sinh hoạt của gia đình. Trước giáng sinh, cả gia đình dành những buổi tối đến trang hoàng cây giáng sinh. Tối trước ngày lễ Các Bà Mẹ hoặc những ngày đặc biệt trong gia đình, những giỏ bằng giấy đẹp được làm và chưng dọn trên bàn ăn. Mỗi dịp như vậy, chúng ta có cơ hội để cùng nhau làm việc và cùng nhau thưởng thức niềm vui chung của gia đình.  

Những lúc khác thì giả vờ đi du lịch toàn thế giới. Mọi người đều cố gắng thu thập dữ kiện, thông tin, và những tờ quảng cáo về mỗi nước. Mỗi mùa nghỉ hè đều có một đề tài để nghiên cứu cho toàn gia đình. 

Những dự phóng như thế tùy thuộc vào sở thích của gia đình. Sự nhiệt tâm của bố mẹ có thể ảnh hưởng đến sinh hoạt, và con trẻ rất nhiều lần cho thấy sự thông minh sáng tạo của chúng. Một gia đình kia cho mở một bảo tàng viện sau khi con cái họ tham gia chuyến quan sát học hỏi của nhà trường. Bất cứ một món đồ gì gợi lên một cái gì từ văn hóa cổ đều được dán nhãn hiệu và đặt trên giá trong phòng bảo tàng. Mọi người trong gia đình trố mắt nhìn những mẫu mảnh nhỏ mà vẫn được dùng và gợi lên những ý nghĩa của nó về một hiện tượng đã xảy ra trong quá khứ. Một mảnh gỗ, một viên đá, một mảnh da có liên quan đến những sự kiện lịch sử đều được góp nhặt. Đôi khi có cả những con búp bê, những đồ chơi mà trẻ con thích. 

Ngoài ra, kàraokê, cùng hát với nhau cũng là những giây phút luôn mang lại sự đoàn kết lạ lùng cho gia đình. Sau giờ ăn tối, có thể là một giờ kàraokê rất vui cho gia đình vì giờ hát đó mọi người đều có thể tham dự. Con trẻ có thể học những bài hát ở nhà và cũng có thể dạy lại những bài hát mà chúng học được từ trường. Khi chúng lớn, chúng bắt đầu hợp ca và có thể làm được những điều lạ lùng bằng cách chia bè và hát hợp bè với nhau. 

Nếu bố mẹ biết lắng nghe và tĩnh táo, họ sẽ khám phá ra những loại giải trí nào làm chúng thích và với sự tưởng tượng họ có thể cho phát triển những loại sở thích cũng như những loại tài năng đó của con trẻ. 

Cái người ta cùng thích sẽ khiến người ta cùng tìm lại với nhau. Qua trò chơi và dự phóng mà mọi người cảm thấy thích thú, một cảm giác của tình thân thiện trong nhóm phát triển. Tình thân hữu thì cần thiết cho sự bình đẳng, cho bầu khí hài hòa và thoải mái, là những điều rất cần cho sự an vui và hạnh phúc của cuộc sống gia đình chúng ta.

Lm. Lê Văn Quảng, tiến sĩ tâm lý

VỀ MỤC LỤC

CAM CHUA, CHANH NGỌT

 

 

Tôi bước xuống phi trường Orlando vào một buổi sáng trời xanh và trong vắt. Nắng vàng như màu hổ phách và ấm như một tấm chăn nhẹ cuộn lấy toàn thân. Trong hương gió nghe như thoang thoảng mùi biển mặn. Florida, vùng đất cực Đông-Nam của Hiệp chủng quốc Hoa Kì, tiểu bang của mặt trời và bãi biển đã chiếm cảm tình của tôi ngay từ phút ban đầu.

Tại Floriđa, tôi có những người bạn thật hiền và dễ thương, Có những người bạn, chúng tôi đã gặp gỡ nhau trên con đường hướng về lí tưởng. Cớ những người bạn, chỉ biết nhau qua liên lạc thư từ và điện thoại, chưa hề biết mặt, nhưng dường như đã thân quen tự thuở nào. Có những người bạn đang sống cuộc đời tận hiến với con đường phục vụ trải dài phía trước. Có những người bạn đang len lỏi trong các cảnh đời, sống cuộc sống chứng nhân cho Tình Yêu và Chân Lí. Cảnh và người Flonda nhứ có một cái gì cuốn hút khiến tôi náo nức, hân hoan tìm gặp.

Gặp các bạn, tôi thấy trái tim reo vui. Có một cái gì ấm áp không phải là cái ấm áp của nắng, nhưng là cái ấm áp của tình người. Có một cái gì tươi tắn, không phải là cái tươi tắn của một ngày trời xanh gió nhẹ, nhưng là cái tươi tắn của hoa nhân ái đang nở trong nụ cười và ánh mắt.

Trên đường về nơi cư ngụ, chúng tôi ghé vào một trại ương cây, Bạn tôi làm việc trong trại ương cây đó. Người ta bảo cây cỏ vốn hiền, ai chơi với cây cỏ tính cũng hiền. Đối với tôi điều này quá đúng, ít nhất là trong trường hợp của bạn tôi. Bạn thật hiền và thật tốt, ít nói và thường lấy nụ cười làm câu trả lời. Trong cái vẻ hồn hậu, hiền lành của bạn, hình như có chứa một tấm lòng quảng đại, bao dung.

Trại ương cây bạn tôi làm việc là một trại thí nghiệm các giống cây cam, chanh, quít, bưởi... Một khu vườn bát ngát với không gian ướp đẫm hương hoa. Tôi như chìm ngập trong niềm vui và kỉ niệm. Ngày xưa còn bé, tôi đã thích hương hoa bưởi, cái mùi hoa mộc mạc và tinh khiết. Trong đêm, hoa bưởi tỏa hương thơm ngát, khiến một thi nhân tiền chiến đã ước định giờ giấc, không phải bằng đồng hồ, không phải bằng ánh mặt trời, cũng không phải bằng tiếng gà gáy hay bằng nhịp sinh hoạt của con người, mà bằng hương hoa bưởi: ''Hoa bưởi thơm rồi, đêm đã khuya. '' Hoa bưởi còn làm tôi nhớ tới những li thạch trắng ăn và một buồi trưa hè. Ăn vào, như ăn cả sự mềm mại, ngọt ngào, tươi mát, thơm tho của cuộc đời. Rồi còn hoa chanh, hoa cam nữa. Đều là những hương hoa dễ thương của kỉ niệm. Nhớ một ngày xa xưa, đặt chân đến vùng đất cao nguyên Ban Mê, tôi đã lên đồi cam của một người bạn. Thật đúng là trái vàng hoa bạc, và cái hương hoa làm cho người ta ngây ngất, đến độ tôi có ước muốn ngông cuồng và rồ dại là được nằm chết êm đềm giữa một vườn cam.

Tôi không thể tin nổi tai mình khi nghe bạn cho biết trong vườn ương cây này có trên 450 loại chanh, cam, quít, bưởi khác nhau. Để chứng minh điều đó, bạn dẫn chúng tôi đi thăm vườn. Thật lạ lùng và kì diệu, sự tác tạo của Thiên Chúa! Nhiều loại trái cây tôi chưa từng biết đến bao giờ, đang có mặt trong vườn cây này. Nó vẫn có đó, vẫn hiện diện trên mặt đất, nhưng tầm nhìn hạn hẹp của tôi khiến tôi chưa biết chúng. Cơ man là bưởi! Thứ nhỏ nhất trái chỉ nặng chừng một phần tư pound, còn thứ to nhất thì...không thể tưởng tượng được ? Tôi  muốn thay bạn tôi để giới thiệu với bạn một vài chi tiết lạ lùng: có những thứ quít, trái nặng chừng 5 pounds, to hơn bưởi nhiều. Bưởi thì đủ loại to_nhỏ khác nhau, có thứ bưởi ruột màu đào, có thứ vàng ươm, có thứ trắng trong. Bưởi Biên Hòa cũng có mặt. Chanh thì có thứ trái nhỏ xíu và dài như một trái ớt, được gọi ngay là chanh ớt; có thứ chanh quả nặng chừng... 9 pounds; có thứ chanh ăn ngọt lịm như đường. Cam cũng thế, cam đường ăn thơm và ngọt, nhưng cũng có thứ cam chua lè, chua hơn chanh nhiều; có thứ cam vỏ lấm láp bẩn thỉu như mới nhúng bùn, những bóc ra, múi vàng ươm, ăn vào thơm, ngọt vô cùng? Có thứ cam vỏ vàng nhạt mà cắt ra ruột đỏ tươi như máu! Có thứ cam trái nhỏ hơn quả trứng gà, mà cũng cớ thứ cam trái lớn dị thường như một trái bưởi ?

Tôi muốn giá mà có mẹ tôi ở đây bây giờ. Bà cụ rất thích cây cối và trồng trọt. Tôi đã được nghe không biết đến mấy trăm lần mẹ nói về ''vườn cam nhà mình'' hồi còn ở nhà quê, với mấy trăm gốc cam đường. Nếu mẹ tôi ở đây tôi sẽ khệ nệ bưng đến trước mặt mẹ quả quít nặng 5 pounds, quả chanh nặng 9 pounds mà trịnh trọng thưa rằng: ''Thưa mẹ, đây là quả chanh, quả quít '' Tôi sẽ bóc cho mẹ một múi chanh ngọt và một múi cam chua, rồi tinh nghịch đố mẹ xem thứ nào là cam, thứ nào là chanh.

Đêm hôm đó, tôi không ngủ được. Trong đầu tôi lộn xộn đầy những thứ chanh, cam, bưởi, quít, và cũng lộn xộn đầy những ý tưởng lạ kì. À, thế ra không phải chanh nào cũng chua, như kiểu người ta nói ''ớt nào là ớt chẳng cay…, chanh nào là chanh chẳng chua''. Thế ra không phải quít bắt buộc phải bé hơn bưởi. Hóa ra cũng không phải cứ trái nào vỏ đẹp thì ruột mới ngon. Cái vườn ương cây của bạn tôi làm cho mọi sự đảo lộn hết.

Những quả cam, quả chanh, quả quít, quả bưởi trong vườn ương cây của bạn tôi dạy cho tôi một bài học lớn về những định kiến. Cam thì phải ngọt. Chanh thì phải chua. Quít thì phải bé hơn bưởi. Những định kiến ấy cũng chẳng khác gì những định kiến về con người và sinh hoạt của xã hội loài người. Tôi vẫn thường có định kiến rằng người này ngu dốt, người kia xảo quyệt không chơi được, người nọ nói cái gì cũng đáng tin không cần suy nghĩ, Tôi vẫn đánh giá rằng tổ chức này bê bối không nên tham gia, cô ca sĩ kia giọng không nghe được, đoàn thể nọ tổ chức cái gì thì cũng thất bại- Và những cái đáng giá đó ăn nếp trong trí óc tôi, trở thành một định kiến, không còn thay đổi được nữa. Khi đã có định kiến như vậy hình như tôi không cho người ta cơ hội để thay đổi, để tốt hơn, để thăng tiến. Tôi để cho người ta nằm chết dí trong cái nếp đánh giá của mình.

Thế nhưng ngày hôm nay, chính mắt tôi nhìn thấy trái quít to hơn trái bưởi. Chính lưỡi tôi nếm vị ngọt ngào của một trái chanh. Trong tôi có một cái gì đổ vở. Thường những cái đổ vỡ đem đến cho người ta cảm giác đau thương, mất mát. Nhưng đêm hôm ấy, cái đổ vỡ trong tôi làm tôi hân hoan vui sướng và cảm thấy lòng thanh thản nhẹ nhàng. Cái đổ vỡ của định kiến. Tôi biết rằng tôi vừa được giải thoát. Định kiến làm cho trí tôi nhỏ lại và lòng tôi trở nên hẹp hòi, chai cứng. Định kiến làm tôi mất đi cái bỡ ngỡ, thích thú, vui mừng trước sự đổi mới và vươn lên của một con người, trước sự cải thiện và thăng tiến của một tổ chức. Định kiến khiến tôi không biết nói lên một lời khích lệ, không biết làm một cử chỉ nâng đỡ, không biết thứ tha cho một lỗi lầm, không biết góp phần vào việc cải tiến và làm hữu hiệu hóa một tổ chức. Định kiến làm cho tôi khe khắt và thiếu bao dung.Cho đến bây giờ, tôi đoán ra được nét quảng đại, bao dung của bạn tôi từ đâu mà có. Dĩ nhiên, đó là bản chất của bạn tôi, nhưng chắc chắn nó cũng được tăng thêm nhờ bạn tôi hằng ngày tiếp xúc với những cây chanh, cây cam, cây quít, cây bưởi, trong vườn ương cây của bạn.

Đêm đen mà tôi như nhìn thấy ánh sáng. Và khí trời lạnh mà tôi thấy lòng ấm áp lạ lùng. Ánh sáng của sự tỉnh thức và sự ấm áp của tình yêu. Phải, tôi biết mình đang được Thiên Chúa yêu thương. Nếu Ngài không yêu thương tôi, chắc Ngài đã có định kiến về tôi từ lâu rồi. Biết bao lần tôi hứa với Ngài điều nọ điều kia rồi tôi không làm. Vậy mà Thiên Chúa không có định kiến rằng tôi là kẻ bất trung. Biết bao lần tôi chối bỏ tình Ngài. Vậy mà Thiên Chúa không có định kiến rằng tôi là kẻ phản bội. Biết bao lần tôi cãi lại ý Ngài để rồi chịu đau khổ. Vậy mà Thiên Chúa không có định kiến rằng tôi là một kẻ cố chấp. Biết bao lần tôi ươn lười không muốn tiến bước trên đường tu đức. Vậy mà Thiên Chúa không có định kiến rằng tôi là người tội lỗi không tha thứ được. Nếu Thiên Chúa có định kiến về tôi và về nhân loại, chắc không một ai đến được với Ngài khi bước chân vào cõi đời đời. Vậy mà tôi lại có đủ mọi thứ định kiến với biết bao nhiêu người, bao nhiêu tổ chức.

Nghĩ đến đây, tôi khám phá ra được một điều này: để bỏ đi những định kiến, người ta phải biết yêu, cũng như Thiên Chúa không có định kiến với tôi, bởi vì Ngài yêu Tôi. Khì yêu thì người ta bỏ qua tất cả và tìm cách giúp cho người mình yêu trở nên tốt hơn, đẹp hơn, hạnh phúc hơn. Nếu tôi yêu người nào thực, tôi sẽ không còn định kiến về người ấy nữa. Và tôi sẽ chờ đợi để khám phá ra những đổi mới, những vươn lên của người tôi yêu.

Cảm ơn những quả cam, quả chanh, quả quít, quả bưởi. Cảm ơn miền đất Floriđa. Cảm ơn bạn tôi, người bạn dễ thương và đầy quảng đại. Và cảm ơn Thiên Chúa, Đấng yêu tôi rất mực và không bao giờ có định kiến về tôi. Tôi cũng cảm ơn Ngài, qua vườn ương cây của người bạn, dạy tôi bài học quí báu và đầy hữu ích: đừng giữ những định kiến trong trí óc và trái tim con.

Nhà Văn Quyên Di

VỀ MỤC LỤC
ĐỊNH NGHĨA ĐỜI SỐNG THIÊNG LIÊNG 

 

NGƯỜI NỮ TU SỐNG TU ĐỨC TOÀN DIỆN  

tác giả: Lm. Micae-Phaolô Trần Minh Huy pss 

LỚP THẦN HỌC LIÊN TU SĨ - TÒA GIÁM MỤC BÙI CHU  (2008 - 2009)

Chương III : (tiếp)

B. ĐỊNH NGHĨA ĐỜI SỐNG THIÊNG LIÊNG 

ĐỜI SỐNG THIÊNG LIÊNG LÀ ĐỜI SỐNG NHÂN BẢN ĐƯỢC SỐNG TRONG CHÚA THÁNH THẦN

Định nghĩa này phải hiểu trong tiến trình:

Con Người → Tu Đức Nhân Bản (đạo làm người) → Nhân Bản Thiêng Liêng (đạo làm người/con Chúa) → Thánh Nhân (hiệp thông tình bạn với Chúa: Ga 15,15) 

“Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay, nhất là của người nghèo và những ai đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Chúa Kitô, và không có gì thực sự là của con người mà lại không gieo âm hưởng trong lòng họ... Họ phải cảm thấy thực sự liên hệ mật thiết với loài người và lịch sử nhân loại” (Hiến Chế Mục Vụ "Giáo Hội trong Thế Giới ngày nay: Vui Mừng và Hy Vọng" số 1). 

Đời sống nhân bản khởi sự từ khi sinh ra, trải dài cho đến lúc chết, và còn tiếp tục cả sau khi chết, qua danh thơm tiếng tốt hay ố danh tiếng xấu (“Cọp chết để da, người ta chết để tiếng”). 

Đời sống thiêng liêng là đời sống nhân bản đó được sống trong Chúa, vì Chúa và cho Chúa: “Dầu ăn, dầu uống, dầu làm bất cứ điều gì khác, anh em hãy làm cho sáng danh Chúa” (thánh Phaolô) 

Trong cả hai cuộc sống ấy (nhân bản và thiêng liêng), mỗi người được mời gọi sống tới mức độ trưởng thành tốt nhất, mức độ trọn hảo: “Hãy nên trọn lành như Cha trên trời là Đấng trọn lành” (Mt 5,48), hay nói theo ngôn ngữ hiện nay là “trăm phần trăm”                        

Chính thái độ sống làm cho cuộc sống đạt tới mức 100%. Vậy thái độ của chúng ta đối với môn Tu Đức này sẽ rất có ý nghĩa. Nó không phải chỉ là một hiểu biết mang tính kiến thức về đời sống thiêng liêng, mà là một cuộc sống. Và nếu là cuộc sống, thì bao lâu còn sống, bấy lâu chúng ta còn học Tu đức, còn thực hành tu đức, sống tu đức và thăng tiến nhờ tu đức. 

Tuy nhiên, dường như có sự thiếu liên tục giữa giai đoạn đặc biệt đào tạo chuyên sâu về tu đức như giai đoạn Nhà Tập, trong đó đời sống thiêng liêng phải vượt trổi hơn đời sống tông đồ, và các giai đoạn đào tạo kế tiếp khác. 

Sau giai đoạn đó, việc đào tạo tu đức dần dần bị coi là xong rồi, như đã đạt được một mớ kiến thức về tu đức. Nhưng biết được chưa chắc đã sống được: “Nói thì hay mà vỗ tay thì lỗi” hay như thánh Phaolô thú nhận: "Có những điều tốt tôi muốn làm nhưng tôi không làm được, và có những điều xấu tôi không muốn làm mà tôi lại làm!"    

Ngoài ra, nhiều khi không có sự tiếp tục đào luyện tu đức có hệ thống trong những năm kế tiếp nữa (các hình thức thường huấn, học hỏi trao đổi dịp tĩnh tâm tháng và năm).    

Và cũng thiếu một sự tương tác giữa các môn học khác với môn học và đời sống tu đức. Chớ gì chúng ta có thể chiêm ngắm và cầu nguyện trong và qua các môn học khác. 

Chính tinh thần sống tu đức này thổi sinh khí và gia tăng nghị lực cho chúng ta trong việc học các môn học khác nữa (chia sẻ kinh nghiệm năm chuẩn bị thi Thành Chung)

Hầu hết các ngành đào tạo hiện nay đều đòi hỏi một thời gian thực tập, sau khi học xong phần lý thuyết (Y khoa, Sư phạm v.v...). Điều đó càng đúng hơn nữa với đào tạo nhân bản và đào tạo thiêng liêng.     

Hai việc đào tạo này luôn luôn gắn kết, quyện lấy nhau và bổ túc cho nhau. Sự trưởng thành nhân bản và thiêng liêng không tùy thuộc vào tuổi tác và địa vị (xem Daniel và hai bậc kỳ lão trong chuyện bà Suzana).     

Và cũng vì thế người ta nói đến “nhân đức thật” và “nhân đức ảo.” Còn Chúa Giêsu thì căn dặn “hãy nghe những lời họ nói, nhưng đừng bắt chước việc họ làm, vì họ nói mà không làm.” Và người bình dân Việt Nam lại thách đố: "Làm quan hãy xét cho dân, không tin ngài xuống ngài mần ngài coi!" 

Vì thế, hai việc đào tạo nhân bản và thiêng liêng này phải song hành với nhau trong suốt cả cuộc đời mỗi người, trải nghiệm qua thành công và thất bại: “Tiên cũng có khi đọa, thánh cũng có khi lầm.” Nhưng Nguyễn Thái Học an ủi, khích lệ: “Ai từng chiến thắng mà không hề chiến bại, ai nên khôn mà chẳng dại đôi lần, nhưng đây chưa phải trận sau cùng chiến đấu!” 

Ai trong chúng ta cũng có những lần trải nếm kinh nghiệm của thánh Phaolô về hai sức mạnh đối nghịch nhau trong bản thân mỗi người, khiến những điều tốt ta muốn làm thì lại không làm được, và những điều xấu không muốn làm thì ta lại làm.    

Hãy chấp nhận những giới hạn, bất toàn và bất lực của mình, mỗi ngày chúng ta càng trở nên khiêm tốn hơn về chính mình, trước mặt Chúa, cũng như trước mặt người khác. 

Và mỗi người chúng ta cũng hãy nghĩ như thế cho tha nhân: bao lâu còn mang nặng thân phận con người, họ cũng có những yếu đuối, sai sót, lỗi lầm, bất toàn và bất lực của họ, dù họ là ai đi nữa, Bề trên hay bề dưới. Càng chấp nhận họ như họ là như thế, ta sẽ càng trở nên cảm thông với họ hơn, độ lượng với họ hơn, tha thứ và bỏ qua cho họ hơn. 

Cảm thông, độ lượng, tha thứ, bỏ qua cho người và khiêm tốn về mình, các mối quan hệ nhân bản của ta sẽ được cải thiện tốt hơn và đời sống thiêng liêng cũng sẽ được phát triển đúng mức. 

Cuộc đời nhân bản – thiêng liêng của chúng ta lắm khi cũng “ba chìm bảy nổi chín long đong.” Và tiền nhân chúng ta cũng thường nhắc nhở: “Lênh đênh qua cửa Thần Phù, khéo tu thì nổi vụng tu thì chìm.”Chớ chi chúng ta biết chìa tay ra cho nhau như Chúa Giêsu đã chìa tay cứu Phêrô khỏi chìm. 

Như thế, cuộc đời chúng ta không được biểu diễn như một đường thẳng, mà là những đường gợn sóng hoặc là những đường xoắn trôn ốc. 

Nhưng Thiên Chúa luôn luôn viết thẳng trên những đường cong của cuộc đời của chúng ta.

Vì vậy đào tạo tu đức không chỉ là công việc và nỗ lực của con người, mà là công việc của chính Chúa Thánh Thần và đương sự, cùng với sự cộng tác tích cực của toàn thể Giáo Hội lữ hành, mang sẵn trong mình đủ các yếu tố

- cả thần linh và nhân loại,

- cả thánh thiện và tội lỗi,

- cả sức mạnh và yếu đuối,

- cả thưõng tích và chữa lành… 

Chúng ta sẽ cố gắng thực hiện hài hòa việc được đào tạo và tự đào tạo, trong đó việc tự đào tạo của chị em đóng vai chính: “chính ứng sinh là người chịu trách nhiệm trước tiên trong việc huấn luyện chính mình” (PDV 69).  

Việc tự đào tạo biến chúng ta thành những sinh vật có xương sống hay có vỏ cứng, luôn luôn tự mình có thể đứng vững được, dù có xây xát và thương tích. 

Nếu không có tự đào tạo, thì việc đào tạo chỉ dừng lại ở những lời hoa mỹ của phương diện tri thức lý thuyết, và chỉ tạo nên những sinh vật không có xương sống hay tầm gửi, luôn dựa dẫm vào người khác hay cộng đoàn, dễ vấp ngã khi phải sống một mình. 

C. CÁC MỐI TƯƠNG QUAN VÀ CON ĐƯỜNG SỐNG THÁNH 

Con người không phải là thiên thần, mà cũng chẳng phải là con vật, nhưng mang sẵn cả hai yếu tố đó, trong mọi chiều kích nhân bản và thiêng liêng.  

Tất cả mọi người đều được mời gọi nên thánh qua tiến trình làm người, làm người kitô hữu và làm người tông đồ, nghĩa là thành nhân đã rồi mới thành thánh nhân.  

Người đi tu làm linh mục và tu sĩ vẫn không thôi là con người, khi đang nỗ lực nên thánh trong bậc sống ơn gọi và sứ vụ của mình.

VẬY THÁNH THIỆN LÀ GÌ?

Trước hết, sự thánh thiện không phải là, hay không chỉ là:

            -  một cái gì trừu tượng,

            -  một cái gì chúng ta mặc vào mình,

            -  những việc đạo đức tốt lành nào đó trong đời mình,

            -  một vai trò chúng ta đảm nhận,

            -  vấn đề luân thường đạo lý,

            -  một hệ thống tự hoàn hảo của con người,

            -  chỉ qui về đời sống bên trong của một người... 

Sự thánh thiện là tất cả những cái đó ở trong một bối cảnh rộng lớn hơn, nghĩa là, đạt đến sự thánh thiện không chỉ là nỗ lực của con người, nhưng còn là công trình của ân sủng Chúa, qua các mối tương quan của cuộc sống. 

Như thế, sự thánh thiện có liên quan đến các mối tương quan, ở trong các mối tương quan và nhờ các mối tương quan: 

-    Đã có một thời người ta liên kết sự thánh thiện với việc đọc kinh, thực hành các bổn phận tôn giáo và những việc đạo đức, một cách cá nhân.  

-    Thực ra, sự thánh thiện được liên kết chặt chẽ với các mối tương quan với Chúa, với bản thân, với tha nhân và với môi trường thiên nhiên, trong đó tương quan với Chúa là nền tảng.  

   "Lời mời gọi nên thánh trong mối tương quan sâu xa với Thiên Chúa và lời mời gọi phục vụ và hy sinh dựa trên việc thiết lập những tương quan lành mạnh với mọi người" (Trích Thông cáo báo chí của Hội Nghị Các Giám Mục Á Châu từ 27/8 - 1/9/2007 tại Thái Lan) 

CON NGƯỜI MUỐN NÊN THÁNH phải nỗ lực mỗi ngày để nên đồng hình đồng dạng với CHÚA GIÊSU (Tình yêu bao gồm và không loại trừ), trong các mối TƯƠNG QUAN

-  VỚI CHÚA

-  VỚI CHÍNH MÌNH

-  VỚI THA NHÂN

-  VỚI THIÊN NHIÊN

-  VỚI TỨ CHUNG

dưới sự dẫn dắt của Chúa Thánh Thần. 

- Các mối tương quan này rất tương thuộc và tương tác lẫn nhau, nên nếu có cái gì “trục trặc” trong một tương quan thì các tương quan khác cũng bị ảnh hưởng. Chính trong và qua các mối tương quan này mà chúng ta được lớn lên trong sự thánh thiện. Do đó, để có được sự thánh thiện, các mối tương quan này đều phải hòa nhập và giữ đúng vị trí, hài hòa, quân bình và trưởng thành.  

- Có được các mối tương quan như thế được coi là có được sự thánh thiện. Như vậy, sự thánh thiện không được hiểu theo một cá nhân biệt lập, nhưng theo mối tương quan toàn diện của cá nhân với Thiên Chúa, với tha nhân, với chính mình và với môi trường sống (thiên nhiên)

- Sự thiếu trưởng thành thiêng liêng của chúng ta là do việc chúng ta thiếu những tương quan đích thực, hay có những tương quan không trưởng thành, những tương quan sai lầm, những ngăn chặn và sợ hãi tâm lý của chúng ta trong những tương quan.                        

- Khi những tương quan vắng mặt trong đời sống chúng ta thì sự thánh thiện cũng vắng mặt. Và khi những tương quan bị ngăn cản trong đời sống chúng ta thì sự thánh thiện cũng bị ngăn cản. Do đó, người ta nói đến sự thánh thiện hay nhân đức ảo và nhân đức thật. 

THÁNH THIỆN và TỘI LỖI

Chúng ta cũng cần nói đến mối tương quan giữa sự thánh thiện và tội lỗi:

- Tội lỗi và sự thánh thiện nên được hiểu theo những mối tương quan đích thực hay không đích thực. Nếu những mối tương quan của chúng ta là những liên hệ tình yêu không chân chính hoặc thiếu tình yêu đích thực thì lúc đó có tội.            

- Theo Kinh Thánh, tội lỗi và sự thánh thiện được hiểu trong bối cảnh của những mối tương quan. Trong Cựu Ước: tội của Ađam và Evà, tội của Israel, tội của Cain, tội của Vua Đavít… tất cả là những tội ở trong và bởi các mối tương quan. Trong Tân Ước, tội cũng được hiểu theo sự không có hoặc thất bại không thiết lập được những tương quan, hay thiếu những tương quan tình thương hoặc có những tương quan tình thương sai lầm và đi xa khỏi những tương quan ngay chính.

- Chúa Giêsu coi tội là tình trạng tha hóa phẩm giá con người hơn là chỉ những vô trật tự luân lý (ngày Sabbath vì con người, chứ  không phải con người vì ngày Sabbath). Chính những người Biệt phái và Luật sĩ cũng hiểu tội lỗi và sự thánh thiện trong bối cảnh lề luật và nghi thức.

I. LIÊN HỆ VỚI THIÊN CHÚA TƯƠNG QUAN NỀN TẢNG

1.      Tương quan với Chúa Cha

2.     Tương quan với Chúa Giêsu, đặc biệt Chúa Giêsu chịu đóng đinh và Chúa Giêsu Thánh Thể

3.      Tương quan với Chúa Thánh Thần

4.      Tương quan với Đức Mẹ

5.      Tương quan với các thiên thần, nhất là thiên thần giữ mình

6.      Tương quan với thánh cả Giuse, thánh Quan Thầy và các thánh 

Liên hệ với Thiên Chúa là khía cạnh quan trọng nhất của đời sống độc thân thánh hiến.  

Liên hệ với Thiên Chúa là tuyệt đối then chốt để sống độc thân thánh hiến hiệu quả. Do đó quyền ưu tiên phải được dành cho liên hệ này.

Liên hệ với Thiên Chúa được bày tỏ qua đời sống thiêng liêng và cầu nguyện. Cầu nguyện không là gì khác hơn là liên hệ của chúng ta với Thiên Chúa. Cầu nguyện là liên hệ với Thiên Chúa, đối thoại với Thiên Chúa, thông hiệp với Thiên Chúa, ở với Thiên Chúa, ở trước nhan Thiên Chúa, ý thức về Thiên Chúa.  

Đây là liên hệ siêu ngôi vị. Liên hệ siêu ngôi vị này bao gồm hai ngôi vị: một ngôi vị thần linh và một ngôi vị con người. Trong liên hệ này, ngôi vị Thần linh đến với chúng ta và chúng ta, những con người, đi tới Người, trong tiến trình cầu nguyện mang chiều kích vừa thần linh vừa nhân loại. 

Thiên Chúa là Chúa của liên hệ và liên kết.

Khi Thiên Chúa liên hệ với chúng ta, chúng ta có thể hoặc nói “vâng” hoặc nói “không” với Ngài. Khi chúng ta nói “vâng” thì lúc ấy có liên hệ. Và đây là Liên hệ Siêu ngôi vị và cũng là sự Thánh thiện siêu ngôi vị. 

Độc thân thánh hiến phải giúp chúng ta phát triển liên hệ này với Thiên Chúa. Do đó, chúng ta chú ý đến một sự nối kết chặt chẽ giữa độc thân thánh hiến và đời sống cầu nguyện.  

Độc thân thánh hiến là một hồng ân liên hệ đặc biệt với Thiên Chúa. Chính nhờ liên hệ của chúng ta với Thiên Chúa, chúng ta di chuyển đến tất cả những liên hệ khác. Kính mến Thiên Chúa nâng cao liên hệ tình yêu của chúng ta với người khác.  

Nếu chúng ta loại trừ Thiên Chúa ra khỏi liên hệ của chúng ta, thì chúng ta có thể trở thành phá hoại chính bản thân mình và người khác.  

Thiết lập mối liên hệ cá nhân với Thiên Chúa qua đời sống cầu nguyện là chiều kích hàng dọc trong liên hệ của chúng ta (đối thần); còn thiết lập liên hệ cá nhân với anh chị em chúng ta là chiều kích hàng ngang trong liên hệ của chúng ta (đối nhân). Chiều kích hàng dọc này là động cơ thúc đẩy và là ý nghĩa đích thực cho chiều kích hàng ngang trong đời sống chúng ta.  

II. TƯƠNG QUAN VỚI THA NHÂN 

1.      Tương quan với Bề Trên

2.      Tương quan với các nữ tu đàn chị

3.      Tương quan với bạn đồng môn

4.      Tương quan với các nữ tu đàn em

5.      Tương quan với các nữ tu tương lai và các mầm non ơn gọi tu sĩ

6.      Tương quan với các linh mục và nam tu sĩ

7.      Tương quan với các linh mục lớn tuổi và có trách    nhiệm

8.      Tương quan với các linh mục bằng tuổi và có trách     nhiệm

9.      Tương quan với các linh mục trẻ

10.  Tương quan với các mầm non ơn gọi giáo sĩ

11.  Tương quan với giáo dân nói chung

12.  Tương quan với Ban Hành Giáo

13.  Tương quan với các đoàn thể

14.  Tương quan với những người già cả, bệnh tật và hấp hối

15.  Tương quan với các đàn ông góa vợ, nhất là các đàn ông góa trẻ

16.  Tương quan với giới trẻ

17.  Tương quan với giới thiếu nhi

18.  Tương quan với những người phục vụ trong nhà xứ, nhất cô bếp

19.  Tương quan với Chính Quyền

20.  Tương quan với các tôn giáo bạn, nhất là các vị lãnh đạo

21.  Tương quan với lương dân.

22.  Tương quan với giới giàu có

23.  Tương quan với giới nghèo 

Liên hệ của chúng ta với nhau được gọi là liên hệ liên nhân vị. Có một thời người ta cho việc liên hệ của mình với Thiên Chúa mới quan trọng, còn liên hệ với nhau thì không mấy quan trọng. Kết quả là tu sĩ tránh liên hệ gần gũi với những người mình thi hành thừa tác vụ cho.  

Những liên hệ với con người chỉ được coi là vấn đề riêng tư. Kết quả là một số tu sĩ có liên hệ trí thức và thiêng liêng với con người, chứ không có liên hệ tình cảm và nhân bản, luôn giữ thái độ xa cách và loại trừ. Và tình trạng có thể đưa tới bất cập hay thái quá.

Liên hệ liên nhân vị là một chiều kích quan trọng của tình yêu của người độc thân thánh hiến. Thánh Gioan chối bỏ khả năng kính mến Chúa ở đâu thiếu vắng tình yêu con người. Ngài mặc nhiên nối kết lòng kính mến Chúa với tình yêu con người. Ngài nhấn mạnh rằng không thể kính mến Chúa là được, nếu không có tình yêu con người.  

Tình yêu Thiên Chúa là suối nguồn, là nền tảng và động lực của tình yêu con người. Tình yêu con người là sao chép, biểu lộ và diễn tả tình yêu Thiên Chúa. Người không yêu thương cận nhân của mình thì không thể biết Thiên Chúa, không thể kính mến Thiên Chúa được: “Nếu một người nói rằng mình kính mến Thiên Chúa, nhưng lại ghét anh em mình thì người ấy là kẻ nói dối. Vì người ấy không thể kính mến Thiên Chúa, Đấng mà người ấy không thấy, nếu người ấy không yêu thương người anh em của mình, người mà người ấy thấy. Ai kính mến Thiên Chúa thì cũng phải yêu thương anh em” (1Ga 4, 7-21).  

Trong khi chúng ta đi tìm kiếm Thiên Chúa, thì chúng ta cũng phải đi qua tình yêu và tình bạn nhân loại (“qua sông nên phải lụy đò, tối trời nên phải lụy O bán dầu”). Chính nhờ chúng ta cảm nghiệm tình yêu nhân loại, chúng ta mới cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa.  

Một số người trong chúng ta chưa tiếp xúc được với tình yêu Thiên Chúa và chưa được tình yêu Thiên Chúa óac động, vì chúng ta chưa thực sự tiếp xúc với con người và chúng ta chưa để cho con người tiếp xúc với chúng ta. Nếu chúng ta không yêu thương một con người khác, mà chỉ kính mến Thiên Chúa, thì chúng ta chẳng yêu mến ai cả. Nếu chúng ta chưa phải lòng con người, thì chúng ta chưa thực sự phải lòng hữu thể thần linh: “Không thể có cảm nghiệm về Thiên Chúa, nếu không được một cảm nghiệm về thế giới làm trung gian.”  

Cái làm trung gian cho cảm nghiệm về Thiên Chúa chủ yếu là liên hệ của con người với những con người khác” (Karl Rahner, Doctrine and Life tr. 71). Những mối liên hệ liên nhân vị là thánh thiêng tự bản chất và chúng mạc khải diện mạo của Thiên Chúa. Thái độ cá nhân “Tôi và Thiên Chúa” hay “Tôi và Chúa Giêsu” mà không có liên hệ với con người là xa lạ đối với ý thức Kitô giáo. 

Tu sĩ trở thành một phần của cộng đoàn Dân Chúa gồm những con người phục vụ lẫn nhau. Nhờ những việc phục vụ này, tu sĩ thiết lập được mối liên hệ tình yêu với Thiên Chúa và con người. Do đó, cùng đích và cốt yếu của người tu sĩ hệ tại việc cổ vũ những mối liên hệ quân bình, hài hòa và trưởng thành.  

Nhưng vì những việc phục vụ có đặc điểm là liên hệ tình yêu, một số trong các liên hệ với con người có thể dẫn đến chỗ vi phạm độc thân thánh hiến. Do đó, tu sĩ phải rất thận trọng trong các liên hệ của mình, vì luôn luôn có nguy cơ liên quan đến liên hệ.  

Do có những nguy cơ liên quan đến những liên hệ của chúng ta, nên một số người trong chúng ta tránh xa con người và những mối liên hệ, và để hết tâm trí vào công việc; thậm chí trở thành những người tham công tiếc việc.  

Tâm lý tham công tiếc việc giữ chúng ta xa khỏi sự thách đố của những liên hệ độc thân thánh hiến đích thực (không có cám dỗ khơng có công nghiệp; chưa có cám dỗ chưa chắc đã được bảo đảm), và cũng làm cho sứ vụ chúng ta trở nên xa lạ và mất hiệu quả. Khi tránh xa những liên hệ thì chúng ta sẽ xơ cứng trở thành những người thực hiện, những công chức, những cỗ máy…   

Chúng ta có thể thậm chí tìm những bù trừ và thay thế dễ dãi để lấp vào chỗ những liên hệ đích thực, như thích ăn nhậu, âm nhạc, báo chí, chim cá kiểng, truyền hình v.v… Những thứ đó dễ hơn nhiều so với nỗ lực thiết lập những mối liên hệ tốt với con người. 

Một số người trong chúng ta tránh liên hệ và do đó trở thành những nhà trí thức lạnh lùng, thay vì những con người có tình có nghĩa trong liên hệ. Chúng ta trở thành những công chức thay vì những người phục vụ thân tình, thấu cảm. Chúng ta trú ẩn vào việc làm chuyện này chuyện nọ, vào xây cất, vào thành công, vào những lễ hội nọ cử hành kia, vào địa vị và quyền lực.  

Độc thân ‘vì Nước Thiên Chúa’ phải là cái gì xây dựng được những tương quan con người mạnh mẽ. Cha Connolly nhận xét: “Giáo huấn truyền thống của chúng ta về độc thân thánh hiến đã không xử lý vấn đề này một cách tích cực hay sáng tạo. Nó mạnh mẽ can ngăn việc phát triển bất cứ liên hệ con người nồng ấm nào, bên trong hay bên ngoài cộng đoàn, và nhất là với bất cứ phần tử khác phái nào. Nó dạy chúng ta yêu người, nhưng yêu trên tầm mức phục vụ chung chung (quảng đại và dễ thương), chứ không để hết tâm trí hay không có liên hệ cá nhân” (F.B. Connolly CSSR, Religious life: A Profile of the Future. Bangalore: Asian Trading Corporation, 1985. tr. 31) 

Việc phát triển liên hệ con người là nền tảng, vì không có những liên hệ ấy thì người độc thân thánh hiến sẽ không cảm nghiệm được hạnh phúc. Sự thiếu hạnh phúc này sẽ hạn chế chứng tá của mình cho niềm vui được tìm thấy trong sự thông hiệp với Thiên Chúa. Dân ngoại đánh giá cộng đoàn kitô đầu tiên: “Xem kìa, họ thương yêu nhau dường nào!” và họ đã muốn sống như thế mà Đạo được phát triển. 

Không có việc phát triển những liên hệ con người thì người độc thân thánh hiến sẽ không là một thừa tác viên hữu hiệu của sứ điệp Thiên Chúa và tình yêu của Ngài được.  

Một người được kêu gọi đến đời sống độc thân thánh hiến phải tìm kiếm sự thân mật với Thiên Chúa, và đồng thời, người ấy phải gầy dựng sự thân mật với những con người khác. Khi hai chiều kích của sự thánh thiện này vắng bóng trong cuộc đời và thừa tác vụ của chúng ta thì khả năng nên thánh của chúng ta cũng vắng bóng trong cuộc đời chúng ta.

Chính trong và nhờ các mối liên hệ (với Chúa và với con người) mà chúng ta lớn lên trong sự thánh thiện. Nhưng cũng chính trong và vì các mối liên hệ với con người này mà chúng ta phải chiến đấu và có khi vấp ngã, hoặc làm cho anh chị em mình phải chiến đấu và vấp ngã.

III. TƯƠNG QUAN VỚI CHÍNH MÌNH 

1.      Người được Chúa Thánh Thần thánh hiến, chiếm hữu và hướng dẫn.

2.      Người của siêu nhiên và cầu nguyện.

3.      Người của linh thánh.

4.      Người có một nền tảng Kinh Thánh vững chắc.

5.      Người mở ra với hiệp thông.

6.      Người hăng say truyền giáo.

7.      Người cởi mở đối thoại.

8.      Người của truyền thông xã hội.

9.      Người nhạy cảm với các vấn đề xã hội.

10.  Người của sứ vụ tiên tri. 

MÔ HÌNH NGƯỜI NỮ TU HÔM NAY VÀ NGÀY MAI 

Tây phương có câu ngạn ngữ “Trong khi rèn, người ta trở thành thợ rèn.” Cũng thế, càng sống đời tu sĩ, chị em càng trở nên tu sĩ hơn. Nhưng công cuộc được đào luyện và tự đào luyện còn nhiều gian nan, cần ơn Chúa và cố gắng bản thân.

  

1. TU SĨ LÀ NGƯỜI ĐƯỢC CHÚA THÁNH THẦN CHIẾM HỮU VÀ HƯỚNG DẪN

 

Mẹ Maria là kiểu mẫu mọi thời cho người nữ tu để mình được Chúa Thánh Thần: - tác động, - chiếm hữu - và hướng dẫn.

Trình thuật truyền tin tô đậm nét cho xác quyết này:

-          ‘Việc ấy sẽ xảy ra cách nào được, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!’

-          ‘Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa’

-          “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.”

-          “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.”

Lk 1, 34-35,37-38

Nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần, Mẹ Maria mang thai Chúa Giêsu. Nhờ Mẹ mang Chúa đến thăm, bà Elizabeth được đầy Chúa Thánh Thần: “Bà Êlisabét vừa nghe tiếng bà Maria chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được đầy tràn Thánh Thần” (Lk 1,41)

Một số nhân vật Phúc Âm được đầy Chúa Thánh Thần:

-          Gioan Tẩy Giả: “Vì em bé sẽ nên cao cả trước mặt Chúa…và ngay khi còn trong lòng mẹ, em đã đầy Thánh Thần” (Lk 1,15)

-          Dacaria: “Dacaria, được đầy Thánh Thần, liền nói tiên tri rằng…” (Lk 1,67)

-          Giuse (x. Mt 1,18-24; Lk 2,1-7)

-          Simêon: “Ông là người công chính và sùng đạo, ông những mong chờ niềm an ủi của Israel, và Thánh Thần hằng ngự trên ông. Ông đã được Thánh Thần linh báo là ông sẽ không thấy cái chết trước khi được thấy Đấng Kitô của Chúa. Được Thánh Thần thúc đẩy, ông lên đền thờ.” (Lk 2:25-27) 

Đặc biệt Chúa Giêsu:

- Được Isaia báo trước: “Thần khí của Đức Chúa là Chúa Thượng ngự trên tôi, vì Đức Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai đi báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, ngày phóng thích cho những tù nhân, công bố một năm hồng ân của Đức Chúa, một ngày báo phục của Thiên Chúa chúng ta; Người sai tôi đi yên ủi mọi kẻ khóc than…” (Is. 61,1-2) 

- Chính Chúa Giêsu khẳng định về mình ở Hội đường Nazareth: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa… Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe” (Lk 4,18-21)

Cũng như mọi người, nữ tu đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần và trở nên đền thờ Ngài ngự. Vài đoạn Kinh Thánh nói rõ điều đó:

- Mk 1,8 “Tôi thì tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần.“

Lk 3,16 “Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa.”

Ga 1,33 “Tôi đã không biết Người. Nhưng chính Đấng sai tôi đi làm phép rửa trong nước đã bảo tôi: "Ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần."

Ga 3,5 Đức Giêsu đáp: "Thật, tôi bảo thật ông: không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí.”            

Tđcv 1:5 “Ông Gioan thì làm phép rửa bằng nước, còn anh em thì trong ít ngày nữa sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần.”

Người nữ tu phải để Chúa Thánh Thần hướng dẫn, như đã làm với chính Chúa Giêsu:

-          Mt 4,1 Bấy giờ Đức Giêsu được Thần Khí dẫn vào hoang địa, để chịu quỷ cám dỗ.

-          Mk 1,12 “Thần Khí liền đẩy Người vào hoang địa.”

-          Lk 4,1 “Đức Giêsu được đầy Thánh Thần, từ sông Giođan trở về.”

Người nữ tu cũng được Chúa Thánh Thần dạy dỗ và nhắc nhở mọi điều Chúa Giêsu đã dạy: “Nhưng Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Ga 14,26)

Thánh Thần cũng sẽ dạy cho biết phải nói gì: “Khi người ta đưa anh em ra trước hội đường, trước mặt những người lãnh đạo và những người cầm quyền, thì anh em đừng lo phải bào chữa làm sao, hoặc phải nói gì, vì ngay trong giờ đó, Thánh Thần sẽ dạy cho anh em biết những điều phải nói” (Lk 12,11-12)

Thánh Thần còn nói thay cho nữa:

Mt 10,20 “Thật vậy, không phải chính anh em nói, mà là Thần Khí của Cha anh em nói trong anh em.” MK 13,11 "Khi người ta điệu anh em đi nộp, thì anh em đừng lo trước phải nói gì, nhưng trong giờ đó, Thiên Chúa cho anh em biết điều gì, thì hãy nói điều ấy: thật vậy, không phải chính anh em nói, mà là Thánh Thần nói.”

Chúa Thánh Thần giúp kiện toàn đời sống và sứ vụ bằng 7 ơn của Ngài: - Khôn ngoan, - tri thức, - thấu hiểu,             - sức mạnh, - lo liệu, - đạo đức - và kính sợ Chúa.

Chúa Thánh Thần đã ngự xuống trên các tông đồ dưới hình những lưỡi lửa, cho họ nói các thứ tiếng khác nhau, biến đổi họ nên can đảm rao giảng Chúa Kitô Phục Sinh và hôm ấy có khoảng ba ngàn người theo Đạo (x. Tđcv 2,1-41).

Chúng ta phải trung thành và ngoan ngoãn nghe theo ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần, hầu mang lại hoa trái: Bác ái, vui mừng, bình an, nhẫn nại, tế nhị, tốt bụng, quảng đại, hòa nhã, trung tín, khiêm tốn, tự chủ và thanh khiết.

Xin Chúa Thánh Thần dùng môi miệng của ta mà

-          nói điều Chúa muốn nói;

-          xin Ngài soi sáng trong trí khôn cho ta viết lại;

-          Ngài cũng có thể cầm tay ta giúp ta viết lên điều Ngài muốn;

-          xin Ngài viết ra trên vách cho ta xem mà chép lại, như trường hợp Danien giải thích cho vua Bensatsa: “Thiên Chúa đã cho bàn tay đến viết hàng chữ kia. Đây là những chữ đã được viết ra: MƠ-NÊ, TƠ-KÊN, PƠ-RẾT.  

Và đây là lời giải thích:

-          MƠ-NÊ có nghĩa là đếm: Thiên Chúa đã đếm và chấm dứt những ngày của triều đại ngài;

-          TƠ-KÊN có nghĩa là cân: ngài đã bị đặt trên bàn cân và thấy là không đủ;

-          PƠ-RẾT có nghĩa là phân chia: vương quốc của ngài đã bị phân chia và trao cho các dân Mêđi và Batư.” (Dn 5,24-28) 

2. TU SĨ LÀ NGƯỜI CỦA SIÊU NHIÊN VÀ CẦU NGUYỆN

Tu sĩ phải thực sự là một con người của đạo đức và cầu nguyện, nghĩa là có đời sống thông hiệp cá nhân sâu xa với Chúa Ba Ngôi.           

Điều ấy được biểu lộ rõ nét trong mối tương quan với tha nhân: tu sĩ suy nghĩ với tinh thần của Chúa, nhìn thấy với con mắt của Chúa, và yêu thương với con tim của Chúa… 

Đời sống cầu nguyện làm cho tu sĩ có khả năng ý thức về chính mình và sự lệ thuộc của đời sống ơn gọi của mình vào Thiên Chúa.           

Tu sĩ ý thức sự hiện diện và hoạt động của Chúa trong cuộc sống hằng ngày của mình bằng sự trao hiến trọn vẹn chính mình và lụy phục hoàn toàn nơi Chúa, noi gương Chúa Giêsu Kitô.

Đời sống cầu nguyện giúp tu sĩ tìm thấy Chúa Giêsu nơi tha nhân, đặc biệt nơi những người đau khổ, bệnh tật, nghèo hèn, ở bên lề, bị áp bức, và thấp cổ bé miệng,… ngõ hầu yêu thương và phục vụ họ, như Chúa Giêsu đã dạy và đã làm gương.

Dân chúng mong đợi nhìn thấy tu sĩ là người của Chúa, có kinh nghiệm sống với Chúa và dạy cho họ biết làm thế nào để cầu nguyện.

3. TU SĨ LÀ NGƯỜI CỦA LINH THÁNH

Tu sĩ phải nên giống Chúa Giêsu, tiếp tục sứ vụ của Chúa Giêsu, Đấng đã được Chúa Cha thánh hóa và sai đến trong trần gian để cứu độ trần gian (Jn 10,36).

Tu sĩ phải để mình được đào luyện và tự đào luyện trở thành con người của linh thánh, bởi vì tu sĩ là “người của Chúa, thuộc về Chúa và làm cho dân chúng nghĩ tới Chúa, đồng thời giúp dân chúng trở về với Chúa và đạt tới Chúa” (PDV số 47).

Yếu tố linh thánh này rất quan trọng trong các tôn giáo truyền thống Á Châu. Nó có khả năng giúp sứ mệnh khơi dậy niềm tin tại Việt Nam. Tông huấn Ecclesia in Asia nhấn mạnh rằng dân chúng Á Châu cần nhìn thấy nhà tu là “những con người mà tâm trí luôn hướng về những sự cao siêu của Thánh Thần” (EA số 43)

Các sư sãi và ni cô của Phật giáo có một kỹ luật tu đức nhấn mạnh đến tự chế, bỏ mình và thanh thoát khỏi thế trần, hầu chiến đấu chống lại các cám dỗ và say mê tìm kiếm giải thoát. Sự kiện này thách thức chúng ta đào sâu tu đức của mình; nếu không, chứng tá của chúng ta trong xã hội Việt Nam sẽ giảm bớt khả năng thuyết phục.

Chúng ta cần học hỏi ở họ lối sống như cửa mở vào cõi thiêng và phương tiện hiệp thông với linh thánh, đồng thời củng cố đời sống nội tâm tông đồ truyền giáo của chúng ta. Nếu chúng ta thực sự sống cách vui tươi, hạnh phúc và trung thành nếp sống Phúc Âm và các nhân đức kitô giáo (đặc biệt vâng lời, khó nghèo, thanh khiết), chứng tá và sứ vụ của chúng ta sẽ rất hữu hiệu. “Điều đó rất đúng với bối cảnh Á Châu, nơi mà dân chúng cảm thấy được thuyết phục bởi đời sống thánh thiện hơn là bởi những tri thức lý sự” (EA số 42).

Đức Phaolô VI bảo rằng thời đại này tin vào các chứng nhân hơn là thầy dạy, và nếu họ có tin vào các thầy dạy thì bởi vì các thầy dạy đó là những chứng nhân.

Ở trong Giáo Hội, chúng ta có đủ mọi phương tiện thích hợp, tự nhiên cũng như siêu nhiên, để trở nên con người của linh thánh. Việc quan trọng nhất là chúng ta kiên trì thực hành các phương thế ấy trong cuộc sống hằng ngày.

4. TU SĨ LÀ NGƯỜI CÓ NỀN TẢNG  KINH THÁNH VỮNG CHẮC

Sống trong thế gian nhưng không thuộc về thế gian, tu sĩ “được mời gọi biến đổi thế gian, chứ không phải để bị thế gian biến đổi.”

Ma quỉ đã dùng lời Kinh Thánh để cám dỗ Chúa Giêsu trong sa mạc, Chúa Giêsu cũng đã dùng Lời Chúa mà chiến thắng và xua đuổi ma quỉ. Do đó, tu sĩ phải là một con người đức tin, được đức tin tác động mãnh liệt, với một nền tảng Thánh Kinh vững chắc, vì mọi cuộc khủng hoảng đều do thiếu đức tin mà ra.

Tuy nhiên, tu sĩ cũng có thể bị ảnh hưởng bởi các yếu tố văn hóa và tâm thức xã hội, chính trị, kinh tế (nạn gian lận, hưởng thụ…). Vì thế, việc đào tạo và tự đào tạo hôm nay cần ghi nhớ các yếu tố này trong khi nỗ lực xây dựng và phát triển sức mạnh siêu nhiên hầu thăng tiến và hoàn thiện tự nhiên.

Chúng ta cũng phải ý thức về trình độ trưởng thành nhân bản và thiêng liêng của từng người, để sống và đào luyện thích hợp như thánh Phaolô nói: “Tôi cho anh em ăn sữa chứ không phải thức ăn cứng, vì anh em chưa đủ sức, và cho đến nay anh em vẫn chưa thể” (cf. 1 Cor 3,2).

Chúa Giêsu cũng nhắc các tông đồ tương tự: “Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em. Nhưng bây giờ, anh em không có sức chịu nổi. Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật tồn vẹn” (Ga 16,12-13)

Với nền tảng Thánh Kinh vững chắc, tu sĩ sẽ vượt thắng những thách đố và chiến đấu trăn trở về tự do và phục tùng với bộ ba “quyền phục, lý phục và tâm phục hay tâm bất phục” hoặc “bằng mặt mà không bằng lòng” để sống đức vâng lời trọn vẹn, vì vâng lời chính là lắng nghe: « Cá không ăn muối cá ươn, con cưỡng cha mẹ trăm đường con hư. »

Quả thế, với đức tin mạnh mẽ và đâm rễ sâu trên nền tảng Thánh Kinh vững chắc, đặt trọng tâm vào Chúa Giêsu, vào Phúc Âm, vào Giáo Hội, vì các linh hồn, cầu nguyện và biện phân dưới sự dẫn dắt của Chúa Thánh Thần, tu sĩ sẽ vâng lời cách sẵn lòng và siêu nhiên các vị lãnh đạo và cơ cấu của Giáo Hội, không phải như những con người và cơ cấu nhân loại, nhưng là Ý Chúa ở trong và qua những con người và cơ cấu này.

5. TU SĨ LÀ NGƯỜI MỞ RA VỚI HIỆP THÔNG

Hiệp thông và hiệp nhất là lời cầu nguyện tha thiết của Chúa Cứu Thế cho các môn đệ của Ngài. Mối hiệp thông này bắt rễ trong Chúa Ba Ngôi và từ Chúa Ba Ngôi (ad intra – ad extra).

Tu sĩ phải sống mối hiệp thông trọn vẹn của Hội Thánh trong tâm tình vâng phục thảo hiếu, để xây dựng nhiệm thể toàn vẹn của Chúa Kitô (x. Eph 4:12)

Theo tinh thần Tông huấn Ecclesia in Asia số 43, tu sĩ phải sống và làm việc trong tinh thần hiệp thông và cộng tác để làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa.

Tu sĩ phải góp phần xây dựng mối hiệp thông của toàn thể nhân loại và thế giới được tạo thành vẫn hằng ngóng chờ ngày giải thoát (x. Rm 8:18-23)

Đối với sứ vụ của Giáo Hội, hiệp thông và truyền giáo luôn song hành và kết nối không thể tách lìa nhau (x. Ecclesia in Asia số 24), bởi vì trước khi nói về Chúa, thì phải sống hiệp thông mật thiết với Chúa, nói với Chúa và nghe Chúa nói đã: không ai có thể cho cái mình không có ! 

6. TU SĨ LÀ NGƯỜI HĂNG SAY TRUYỀN GIÁO

Chúa Giêsu là nhà truyền giáo được Chúa Cha sai đi đầu tiên. Và Đức Mẹ thực hiện sứ mệnh truyền giáo khi mang Chúa Giêsu đến thăm bà Elizabeth.

Công Đồng Vaticanô II giúp Giáo Hội tái khám phá căn tính truyền giáo của mình. Truyền giáo là bản chất, là cảm thức và lẽ sống, là ý nghĩa, là nguồn gốc và mục đích của Giáo Hội (x. Ad Gentes số 2)

Do đó, tu sĩ là nhà truyền giáo tự bản chất và phải luôn hăng say truyền giáo. Nếu không thế, tu sĩ sẽ không còn là tu sĩ nữa và đánh mất căn tính của mình: “Vô phúc cho tôi, nếu tôi không rao giảng Phúc Âm” (1 Cor 9,16).

Đấng Cứu Thế đã sinh ra ở Á Châu, nhưng Kitô giáo ở Á châu ngày nay vẫn còn là một thiểu số tuyệt đối ở cái lục địa rộng lớn nhất địa cầu này, với gần hai phần ba dân số thế giới. Vậy chúng ta phải có trong trí óc và con tim lời kêu gọi khẩn thiết tiếp tục sứ vụ của Chúa Giêsu cho đồng bào mình, với ước vọng nồng cháy làm cho Ngài được nhận biết và yêu mến.

Vatican II mở rộng tầm nhìn của chúng ta ra với Nước Thiên Chúa (lớn hơn là Giáo Hội mà chúng ta thường quan niệm) và thúc đẩy chúng ta truyền giáo, tin tưởng rằng Chúa Thánh Thần đã khơi dậy một tinh thần truyền giáo thực sự nơi con tim của nhiều người.

7. TU SĨ LÀ NGƯỜI CỦA ĐỐI THOẠI 

Thượng Hội Đồng Giám Mục Á Châu và Liên Hiệp Các Hội Đồng Giám Mục Á Châu đã chỉ rõ con đường hiện diện mới của Giáo Hội với ba chiều kích đối thoại:

-          đối thoại với các nền văn hóa,

-          đối thoại với các tôn giáo khác,

-          và đối thoại với người nghèo.

Con đường đối thoại bắt rễ trong Thiên Chúa và bắt đầu từ Thiên Chúa, Đấng luôn duy trì cuộc đối thoại với nhân loại, đặc biệt với người nghèo, người bị áp bức, người bị bỏ rơi…

Là chứng tá của Tin Mừng, tu sĩ phải là một con người của đối thoại, với cả bên ngoài lẫn bên trong Giáo Hội. Đáng buồn là lắm khi cuộc đối thoại bên trong Giáo Hội và cộng đoàn không mấy dễ dàng!

Đối với Á Châu, cái nôi của nhiều truyền thống văn hóa, tôn giáo lớn và đại đa số người nghèo của thế giới, sứ mệnh đối thoại và truyền giáo lại còn thích hợp và cấp bách hơn. Do đó, tu sĩ cần được huấn luyện và tự đào luyện tốt các kỹ năng đối thoại.

Chúng ta cần, không chỉ đối thoại ba chiều như đường lối hiện hữu và truyền giáo mới của Giáo Hội; nhưng trong bối cảnh đặc biệt của Việt Nam, chúng ta còn cần đến chiều kích đối thoại thứ tư, đối thoại với người Cộng Sản.

Cuộc đối thoại này bao gồm hai khía cạnh:

- Đối thoại bằng cuộc sống: sống tinh thần cởi mở và thân thiện, chia sẻ niềm vui nỗi buồn, những vấn đề nhân sinh và những mối bận tâm vì công lý, hòa bình và tình thương.

- Đối thọai bằng hành động: hợp tác lành mạnh vì sự phát triển toàn diện con người và lợi ích của cộng đồng, nhất là bằng việc làm chứng tá cho tình yêu Thiên Chúa đối với họ: một tình yêu lớn hơn vượt thắng một tình yêu nhỏ hơn và những lôi cuốn của nó.

Tình yêu ấy biến đổi mọi sự, một sự biến đổi từ bên trong của mỗi cơ cấu (ngày nay không ai chờ đợi một Revolution, cho bằng mong đợi một Evolution).

Nhưng trước hết, chúng ta phải bắt đầu, bắt đầu lại, và luôn tiếp tục cuộc đối thoại đại kết bên trong lòng Giáo Hội (x. Ecclesia in Asia số 30), vì lắm khi cuộc đối thoại với bên trong lòng Giáo Hội còn khó khăn hơn cuộc đối thoại với bên ngoài!

8. TU SĨ LÀ NGƯỜI CỦA TRUYỀN THÔNG XÃ HỘI

Ngày nay, không ai phủ nhận vai trò quan trọng và ảnh hưởng vạn năng của truyền thông đại chúng, với những lợi ích và những tác hại của nó, trong đời sống của con người, “đặc biệt cuộc sống của thế hệ trẻ được sinh ra và lớn lên trong một thế giới bị điều kiện bởi truyền thông đại chúng” (Ecclesia in Asia số 48).

Tu sĩ ngày nay phải biết sử dụng các phương tiện tân tiến của Truyền thông xã hội, như những dụng cụ hữu hiệu để sống trong mối hiệp thông con tim và khối óc của toàn thể Giáo Hội, để cập nhật các hiểu biết về thần học và mục vụ, cũng như những giáo huấn về xã hội và luân lý của Giáo Hội, để truyền thông sứ điệp Phúc Âm, và để thăng tiến đời sống thiêng liêng của mình.

Tu sĩ trong thời đại chúng ta phải học cách sử dụng hợp pháp các phương tiện truyền thông, không như các chuyên gia nghề nghiệp thuộc lãnh vực này, ngõ hầu sử dụng và hướng dẫn kẻ khác, nhất là giới trẻ, làm sao sử dụng cách đúng đắn các phương tiện truyền thông trong cuộc sống hằng ngày.

Chính vì thế mà ĐGH Gioan Phaolô II khuyên rằng giáo dục truyền thông cần phải là một phần không ngừng gia tăng trong công cuộc đào tạo linh mục, chủng sinh, tu sĩ, giáo lý viên, giáo dân chuyên nghiệp, sinh viên… theo những chỉ dẫn mục vụ của Aetatis Novae, với sự lưu tâm thích hợp tới những hoàn cảnh hiện hành ở Á Châu và Việt Nam (x. Ecclesia in Asia số 48).

9. TU SĨ LÀ NGƯỜI NHẠY BÉN VỚI NHỮNG ĐỔI THAY XÃ HỘI 

Mọi sự đang thay đổi và tiếp tục thay đổi đến chóng mặt. Tu sĩ phải là những người bắt nhịp hài hòa với tình hình hiện nay của một thế giới đang thay đổi; phải luôn sẵn sàng và bén nhạy để đọc được các thời triệu, chấp nhận các mới mẻ của những đổi thay, và can đảm thích nghi chính mình cách khôn ngoan sáng suốt với những bước chân của Chúa Thánh Thần, Đấng hằng làm cho mọi sự nên mới (x. Kh 21:5).

Sự nhạy cảm này giúp chúng ta hiểu rõ hơn các nhu cầu của dân chúng, nhận thức được những vấn nạn không lời của họ, đáp ứng các thỉnh nguyện, chia sẻ những hy vọng, những trông đợi, những niềm vui và những gánh nặng của họ (x. Gaudium et Spes số 1).

Vì vậy, Công Đồng Vaticanô II thúc bách không ngừng hoàn thiện các hiểu biết về những sự của Thiên Chúa và những việc của con người, ngõ hầu đi vào đối thoại cách thích đáng với những người đương thời.

Sự nhạy bén này sẽ gợi ý và hướng dẫn những đổi thay trí não và con tim hướng tới cuộc trở lại liên lĩ với Chúa và với tha nhân, bằng việc “để cho qua đi và để cho Chúa liệu.” Đặt Chúa vào giữa thì mọi sự sẽ đến cùng nhau, với cái nhìn tích cực (thấy khía cạnh tốt của những gì xảy đến), với lòng cảm thông (tha nhân không muốn thế, nhưng Chúa bắt phải làm thế) và biết ơn Chúa và tha nhân (nhờ đó mà ta được biến đổi và lớn lên).

Chúa luôn đổi mới lời mời gọi của Ngài, xuyên qua Phúc Âm, các dấu chỉ thời đại, các biến cố thăng trầm của cuộc sống mỗi ngày, thì chúng ta, là những người theo Chúa Giêsu, cũng phải đổi mới sự đáp trả của mình cho tương xứng.

Mọi việc Chúa Kitô làm đều mang dấu ấn của thay đổi, thay đổi từ cũ sang mới, từ điều được trông đợi đến điều bất ngờ: Ngài ngồi ăn với người những tội lỗi, nói chuyện với người Xamari, vượt quá luật ngày Xabát, yêu thương kẻ thù, và Ngài hy sinh mạng sống vì người khác.

Mọi hành động ấy đều là những thay đổi. Qua những thay đổi ấy, Hội Thánh được sinh ra, và hôm nay, cũng qua hững thay đổi như thế mà Hội Thánh còn tồn tại và tiếp tục sống động.

Luật của sự sống và sinh trưởng là thay đổi, và mỗi chặng đường sinh trưởng của con người đều được ghi dấu bằng những thay đổi quyết định, từ lúc được sinh ra cho đến lúc chết đi, trải qua tích cực cũng như tiêu cực: « Mai nam, trưa nắng, chiều nồm ; trời còn luân chuyển huống mòm thế gian »

Trong chiều hướng này, tu sĩ được mời gọi trở thành những con người phục vụ khiêm tốn trong bất cứ cái gì, bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào, và bất cứ thế nào, mà dân chúng cần đến.

10. TU SĨ LÀ NGƯỜI CỦA SỨ VỤ TIÊN TRI

Với sự tham dự vào chức linh mục cộng đồng, tu sĩ được thúc đẩy sống sứ vụ tiên tri.

Để thực hiện sứ vụ tiên tri của mình, Chúa Giêsu đã nói đến Bát Phúc, người con hoang đàng, người Samaritanô tốt bụng… Ngài đã đến với người tội lỗi, gái điếm, ngoại tình, bị bỏ rơi, nghèo hèn, ở bên lề và bị loại trừ, dù Ngài bị chỉ trích là điên khùng, phản động, phạm thượng, đi lại và ăn uống với phường thu thuế và tội lỗi.

Tu sĩ phải thực thi sứ vụ tiên tri của mình, với tất cả con tim, với tất cả linh hồn, và với tất cả sức mạnh của mình:

- Loan báo và sống tình yêu nồng cháy của Chúa Giêsu đối với Thiên Chúa, Nước Chúa, và đối với dân chúng.

- Tố cáo thói giả hình, bất công, áp bức,… dù phải trả với giá đắt của thập giá và cái chết: Giám mục Oscar Romero và Mục sư Martin Luther King là những chứng tá hùng hồn hiện đại cho sứ vụ tiên tri này.

Tu sĩ luôn có cơ hội để tuyên bố và trình bày cho thế giới và Dân Chúa sứ điệp yêu thương của Chúa, tại đây và lúc này. Đồng thời tu sĩ cũng phải nhắc nhở dân chúng về mối liên hệ giao ước của họ với Thiên Chúa.

Tuy sứ vụ tiên tri là một nhiệm vụ khó khăn và nguy hiểm, tu sĩ phải đóng vai trò chỉnh sữa ở trong Giáo Hội cũng như ở ngoài Xã Hội, khi có quá nhiều áp bức xã hội, chính trị, kinh tế và tôn giáo cực đoan, vì “kiến nghĩa bất vi bất nghĩa”

Hơn nữa phải theo nguyên tắc của Phêrô: “Các ông nghĩ thế nào cho phải lẽ trước mặt Chúa, vâng lời các ông hay là vâng lời Chúa hơn” (Tđcv 4,19) – “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời con người” (Tđcv 5,29)

Dĩ nhiên chỉ khi nào tu sĩ sống được cái đức dũng này: “Phú quí bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất” nghĩa là giàu sang không ham, bần hèn không thay đổi lòng, bạo lực không khuất phục được, vì đã có Chúa làm gia nghiệp. 

KẾT LUẬN

Một khi đã có bản vẽ, đã có mô hình, đã có mẫu, chúng ta sẽ bắt tay vào thực hiện công trình.

Cầu mong mỗi người chúng ta đều cố gắng hình thành cho mình một mẫu nữ tu thích hợp, và nỗ lực xây dựng đời sống ơn gọi của mình theo cái mẫu đó, trong sự cộng tác tích cực và hữu hiệu giữa được đào tạo và tự đào tạo, theo đường lối của Giáo Hội, dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. 

Với sức con người lắm khi rất khó, nhưng với Chúa thì mọi sự luôn đều là có thể.

IV. TƯƠNG QUAN VỚI MÔI TRƯỜNG THIÊN  NHIÊN 

Cuộc sống nhân bản, thiêng liêng và tông đồ của người tu sĩ cũng cần đến mối tương quan với môi trường thiên nhiên. 

Trong thời đạo đức sinh học của chúng ta hôm nay, tu sĩ cần thiết lập một mối tương quan lành mạnh với toàn thể thế giới được tạo thành, nơi mà Chúa Thánh Thần hằng hoạt động.  

“Thiên Chúa ở trong tất cả” là lối hiểu nền tảng của mối tương quan giữa Thiên Chúa và thụ tạo: Thiên Chúa không ở ngoài thụ tạo và Ngài tiếp tục sáng tạo, canh tân tạo vật của Ngài cho đến kiện toàn viên mãn theo kế hoạch yêu thương của Ngài (2 Cr 5,19; 1 Cr 8,6; Eph 1,3-14; Cl 1,15-29; Ga 1,1-3; Kh 21,5), và cứu chuộc nó (Rm 8,19). Chúng ta được kêu gọi tham dự vào công trình sáng tạo này của Thiên Chúa (St 1, 28) như một trách nhiệm tôn giáo.  

Thật vậy, đời sống thiêng liêng là toàn thể cuộc sống được sống trong Thần Khí, nên khi chăm sóc thụ tạo, chúng ta cũng làm cho trách nhiệm này hoà nhập vào chính đời sống thiêng liêng của chúng ta. 

Để chu toàn đời sống và sứ vụ của mình, ta phải nhìn vào đời sống và giáo huấn của Chúa Giêsu liên quan tới tạo vật: hạt giống, hoa cỏ, chim trời, cá biển, cây nho, cây vả, vườn tược, cánh đồng, mùa gặt, sa mạc, núi non, nắm men, thúng bột, ngọn đèn, v.v.… (nhổ cỏ / nhổ tận gốc tật xấu; chăm cây cảnh / chăm nhân đức v.v.) 

Chúa Giêsu được Thần Khí hướng dẫn và Ngài thường ra đi từ sáng sớm tinh sương hay muộn màng khi trời đã tối, ngay cả giữa đêm khuya thanh vắng, một mình, vào sa mạc hay lên núi, ở đó sứ mạng và sự hiệp thông thân mật của Ngài với Chúa Cha được thử thách, khẳng định và củng cố (x. Mc 6,31).  

Ta nên tìm thư giãn trong các môi trường thiên nhiên, để nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng và gia tăng hiệp thông thân mật với Thiên Chúa, bằng cách để cho trí óc và con tim ngưỡng mộ và thưởng thức vẻ đẹp của tạo vật.  

Ta có thể dành thời gian để suy ngắm và cầu nguyện ngay trên bờ biển lúc rạng đông lên hay khi hoàng hôn xuống, dưới ánh trăng sao dịu mát ban đêm giữa cánh đồng bao la bát ngát hay trong rừng sâu giữa mùa hè …. lắng nghe tiếng sóng vỗ của đại dương, tiếng reo của suối, tiếng thì thầm của cây cối, tiếng líu lo của chim chóc, tiếng xào xạc của hoa cỏ …. như là nghe thấy Chúa Thánh Thần (Ecclesia in Asia, no. 15) nói trong trí khôn, trong con tim và trong linh hồn vậy.  

Ta sẽ cảm nhận rõ sự hiện diện thân tình của Thiên Chúa nơi thiên nhiên, đồng thời cảm nhận được sự cao cả của Chúa và sự thấp hèn của mình. Ta sẽ học thực hành sống khiêm nhường trong tương quan với Thiên Chúa, với tha nhân và với tạo thành (xem ý nghĩa và nội dung biến cố “Tráng sinh lên đường”)

Chúng ta cũng thực hành thư giãn thân thể nhờ nhịp độ của hơi thở: Khi hít vào, ta tưởng tượng rằng năng lực của Chúa Thánh Thần đang chuyển vào trong mình ta để chữa lành, thánh hoá và tăng thêm sức mạnh, và trong khi thở ra lại nghĩ rằng Chúa Thánh Thần đang đẩy những điều xấu ra khỏi cuộc sống mình.  

Tập thư giản bằng cách: Hít dưỡng khí vào thật sâu qua mũi cho căng đầy bụng, rồi chuyển qua huyệt đan điền, đẩy ra toàn thân tới tận chân tơ kẻ tóc / đường gân thớ thịt. Xong lại rút thán khí về qua huyệt đan điền để đẩy ra ngoài qua miệng. Trong khi đó để tâm trí kiểm soát đường đi của hơi thở. Còn ý nghĩ thì nghĩ rằng Chúa Thánh Thần đi vào để thánh hóa và rút bỏ những xấu xa quỉ quái khỏi lòng trí và thân xác ta.  

Cuộc đời không luôn luôn xảy ra như lòng ta mong ước. Có những điều tích cực mong mãi không được. Lại có những điều tiêu cực không chờ đợi vẫn đến, cố tránh mà vẫn phải gặp. Vận dụng hơi thở để giải trừ: Khi hít vào, ta cũng có thể nghĩ là mình đón nhận tất cả những gì là tích cực; còn thở ra là loại bỏ tất cả những gì là tiêu cực từ bất cứ đâu mà đến. 

Với cách này, ta tập giữ tâm hồn ở trạng thái thanh thản, như kinh Yataka dạy ‘Con hãy giữ tâm như đất: trên đất, người ta đổ ra dầu ngọt dầu chua, dầu cay dầu đắng, dầu sạch dầu dơ, đất vẫn một mực thản nhiên, đất không giận, đất không thương’

Một tinh thần lành mạnh trong một thân thể tráng kiện. Nếu chúng ta biết vun trồng và bảo vệ thiên nhiên, thì thiên nhiên sẽ bảo vệ và tăng sức lực cho chúng ta. (Ecclesia in Asia, no.41). Chẳng hạn câu chuyện “cây thầu dầu với tiên tri Giôna”: 

“Chúa khiến một cây thầu dầu mọc lên ở phía trên ông Giôna để có bóng mát che đầu ông, hầu làm ông hết buồn bực. Ông Giôna vui, vui lắm vì cây thầu dầu. Nhưng hôm sau, khi hừng đông ló rạng, Chúa khiến một con sâu cắn cây thầu dầu và cây bị héo. Khi mặt trời mọc, Chúa cho có một cơn gió đông nóng bỏng, và mặt trời giội nắng xuống đầu ông Giôna; ông ngất xỉu và xin cho mình được chết, ông nói: "Thà tôi chết còn hơn là sống.” Chúa hỏi ông Giôna: "Ngươi nổi giận vì cây thầu dầu, như thế có lý không? " Ông trả lời: "Con có lý để nổi giận đến chết được!" Chúa phán: "Ngươi, ngươi thương hại cây thầu dầu mà ngươi đã không vất vả vì nó, và không làm cho nó lớn lên; trong một đêm nó đã sinh ra, rồi trong một đêm lại chết đi. Còn Ta, chẳng lẽ Ta lại không thương hại Ninivê, thành phố lớn, trong đó có hơn một trăm hai mươi ngàn người không phân biệt được bên phải với bên trái, và lại có rất nhiều thú vật hay sao?” (Giona 4,6-11) 

(xem Phụ Lục I: SỐNG TƯƠNG QUAN VỚI THIÊN NHIÊN QUA MỘT SỐ THÁNH THI)

V. TƯƠNG QUAN VỚI “TỨ CHUNG”

1.      Cái chết

2.      Phán xét

3.      Thiên Đàng

4.      Hỏa Ngục 

Không có cái gì chắc chắn sẽ đến như cái chết; không có gì công bằng và nghiêm ngặt cho bằng cuộc phán xét chung thẩm; không có gì cay đắng và khủng khiếp cho bằng hỏa ngục; và không có gì dịu ngọt hạnh phúc cho bằng thiên đàng.

 

nghĩ vỀ cái cHẾt

“Hãy để cái chết làm thấy dạy cho chúng ta” (Thánh Augustinô)

 

1. CÁI CHẾT: MỘT CON ĐƯỜNG SỐNG THÁNH 

“Đã đến giờ tôi phải ra đi. Tôi đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin. Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính; Chúa là vị Thẩm Phán chí công sẽ trao phần thưởng đó cho tôi trong Ngày ấy, và không phải chỉ cho tôi, nhưng còn cho tất cả những ai hết tình mong đợi Người xuất hiện” (2 Tm 4,6-8) 

“Nếu ngày nào ta cũng sống như thể đó là ngày tận thế của mình, đến một lúc nào đó ta sẽ thấy mình đúng.” Hãy luôn nhìn vào gương mỗi ngày để tự hỏi: “Nếu hôm nay là ngày cuối của đời mình, liệu tôi có muốn làm những việc hôm nay tôi sắp làm mà lương tâm tôi sẽ ân hận không?” Và khi nhận ra câu trả lời là “không” thì ngày này qua ngày khác, tôi biết mình cần thay đổi điều gì đó.  

Ghi nhớ rằng "một ngày nào đó gần thôi mình sẽ chết đi" là một bí quyết vô cùng quan trọng giúp ta quyết định những lựa chọn lớn trong đời, bởi vì hầu hết mọi thứ - những mong đợi của người khác, lòng kiêu hãnh, nỗi lo sợ xấu hổ khi thất bại - đều phù phiếm trước cái chết, chẳng có gì quan trọng cả.  

Luôn nhớ rằng mình sẽ chết là cách tốt nhất để biết tránh sa vào cái bẫy suy nghĩ rằng mình không muốn mất đi cái gì đó. Lòng ta được thanh thoát, chẳng có lý gì để không đi theo tiếng gọi của Chúa: “Không ai biết được lúc nào Chúa vạch đường ranh giới chấm dứt cuộc đời mình.” 

Không ai muốn chết cả. Thế mà cái chết lại là điểm đến của tất cả chúng ta. Không ai có thể trốn khỏi nó. Có lẽ đó cũng là điều hợp lẽ, bởi Cái Chết là sản phẩm tuyệt vời nhất của Cuộc Sống. Nó là yếu tố làm thay đổi cuộc sống. Nó gạt bỏ cái cũ và mở đường cho cái mới. Ngay bây giờ “cái mới” là thế hệ chúng ta, nhưng không xa nữa đâu, chúng ta sẽ trở thành cái cũ và bị loại bỏ. Xin thứ lỗi cho tôi, nói như thế là quá gay, nhưng mà đúng như vậy đấy.  

Thời gian của chúng ta là có hạn, nên đừng phí phạm bằng cách sống cuộc đời của người khác. Đừng rơi vào bẫy của sự độc đoán, giáo điều của người khác. Đừng để những ý kiến ồn ào xung quanh đánh chìm tiếng nói của Chúa ở bên trong chúng ta. Và quan trọng nhất, hãy có dũng cảm để đi theo tiếng gọi của lương tâm chúng ta và lời thúc giục của Chúa Thánh Thần. Nhờ đó, chúng ta sẽ biết được cái gì thực sự là quan trọng, còn mọi thứ khác chỉ là thứ yếu thôi.  

Con người là con vật duy nhất biết mình sẽ chết. Nhưng cái biết này vẫn còn là lý thuyết xa lạ, nhất là đối với người trẻ, đang khoẻ mạnh, đang yêu, đang thành công, tương lai đang hứa hẹn và cuộc đời đang mĩm cười với. Chỉ khi nào vấp phải một chứng bệnh nan trị, khi y học khiêm tốn nhìn nhận giới hạn của mình và buộc lòng phải tàn nhẫn tuyên bố bản án tử, thì khi đó sự biết mình sắp chết mới trở nên gần gũi thiết thân, hay nhức nhối đến từng làn da thớ thịt. 

Trước cái biết sắp chết này, có người tuyệt vọng, buông xuôi hoặc bất mãn, căm hận, nổi loạn “trả thù đời”, để rồi chết đi khổ sở không bình an. Nhưng có người lại coi đó là một may mắn: có thời gian chuẩn bị hành trình tốt đẹp đi về vĩnh cửu. 

Vì thế, các bậc thánh hiền dạy hãy năng nghĩ đến cái chết, vì nó giúp mình sống một cuộc đời tốt lành thánh thiện hơn. Thật vậy, có ai biết chốc lát nữa mình sẽ chết mà còn ham hố những sự đời này, còn gieo rắc bất công, hận thù, còn ghen ghét tranh chấp hơn thua nữa, mà không trái lại, an hòa với mọi người, tôn trọng lương tâm của kẻ khác, giao phó cho lòng nhân từ của Chúa lời phẩm bình cuối cùng và sự xét đoán chung thẩm, nỗ lực chuẩn bị tâm hồn để ra đi trong bình an về với Chúa? 

Cái may mắn cho mình, cho người và cho đời là ở chỗ đó: có gì nữa để mất đâu mà sợ mất, có gì cần được nữa ở đời này đâu mà lo cho được?! Cảm nhận được điều đó đem lại cho chúng ta sự thanh thản và sức mạnh cho tâm hồn; đồng thời nỗ lực sống một cuộc sống đẹp như lời khuyên: “Ngày con sinh ra, mọi người cười (vui mừng vì con ra đời) mà con khóc. Con hãy sống thế nào để ngày con chết đi, con cười (mãn nguyện) mà mọi người khóc (vì thương tiếc con)”

2. Cái chẾt: hẠnh phúc trỞ vỀ

(trích CHÚA VẪN THƯƠNG tr.114-117) 

Bạn hãy nhìn cái chết với lòng trông cậy

Những kẻ khác giảng về sự khủng khiếp của cái chết. Còn bạn hãy giảng về niềm vui của cái chết. “Ta sẽ đến như kẻ trộm”, Chúa đã nói như vậy không phải để làm cho bạn sợ, nhưng vì thương bạn, muốn bạn luôn luôn sẵn sàng và sống từng phút giây dường như lúc bạn phải vĩnh viễn ra đi: “Con ơi, hôm nay có thể là ngày cuối cùng rồi đó!” 

Bạn hãy sống trên trần gian như người đang chờ chết, như người từ cõi bên kia trở lại. Chúa luôn có mặt bên bạn, ngay cả lúc mọi sự dường như đổ vỡ, và nhất là trong giờ chết của bạn. Bạn sẽ thấy đôi bàn tay Chúa choàng xuống trên bạn và ôm chặt bạn vào lòng. Bạn sẽ khám phá ra bạn đã làm việc, đã đau khổ cho ai.  

Bạn sẽ cám ơn Chúa đã đối xử với bạn như thế, đã gìn giữ bạn khỏi bao nhiêu nguy hiểm phần hồn phần xác, đã dẫn dắt bạn trên những con đường hết sức bất ngờ, đôi khi như lạc lối nữa, nhưng đã làm cho đời sống bạn được đồng nhất trong việc phục vụ anh chị em của bạn. Lời tạ ơn của bạn sẽ không ngừng vang lên khi bạn khám phá thấy lòng thương xót của Chúa trên bạn cũng như trên thế giới. 

Bạn hãy năng dâng cho Chúa cái chết của con người để họ được sống bằng sự sống của Chúa. Bạn hãy nghĩ đến cuộc gặp gỡ của chúng ta trong ánh sáng. Chính vì vậy mà bạn đã được tạo dựng, đã làm việc, đã đau khổ. Khi đến phiên bạn, Chúa sẽ hái lấy bạn. Bạn hãy năng nghĩ đến đó và dâng trước cho Chúa giờ chết của bạn hiệp nhất với cái chết của Chúa Giêsu. 

Bạn cũng hãy năng nghĩ đến cái gì sẽ đến sau cái chết. Phải, bạn hãy nhìn cái chết với lòng trông cậy và hãy tận dụng chuỗi ngày cuối đời mà chuẩn bị chết với tình yêu. Bạn cũng hãy nghĩ đến cái chết của anh chị em đồng loại, ba bốn trăm ngàn người mỗi ngày vĩnh viễn ra đi. Bạn hãy cầu nguyện cho những người không hề nghĩ tới lúc phải ra đi. Đó là một cách hữu hiệu nhất làm cho Hy Tế Can-vê của Chúa Giêsu thêm giá trị và thánh lễ bạn dâng mỗi ngày thêm phong phú. 

Nhiều người chẳng hề nghĩ Chúa sẽ đến gọi họ chiều nay! Bao nhiêu tai nạn, bao nhiêu thiên tai bất ngờ, còn bạn, bạn hãy ngủ yên trong vòng tay Chúa chiều nay. Bạn hãy làm mọi việc trong khi nghĩ đến lúc đó, nó sẽ giúp bạn. Chính vì yêu bạn mà Chúa Giêsu đã chấp nhận cái chết. Bạn chỉ có thể cho Chúa bằng chứng lớn lao khi chấp nhận cái chết kết hiệp với Chúa Giêsu. 

Bạn hãy tiếp tục năng liên kết cái chết của bạn với cái chết của Chúa Giêsu và dâng lên Chúa Cha qua tay Mẹ Maria, dưới ảnh hưởng của Chúa Thánh Thần. Nhân danh cái chết của bạn liên kết với cái chết của Chúa Giêsu, bạn có thể xin những ơn trợ giúp cấp thời để sống tốt hơn trong hiện tại. Bạn hãy tận dụng điều đó. 

Chính bằng cái chết của Chúa Giêsu mà Thiên Chúa đã làm cho thế gian được sống. Và bằng sự hiến dâng cái chết của Chúa Giêsu mà Chúa tiếp tục ban sự sống cho loài người. Bạn hãy tín nhiệm Chúa. Chúa luôn có mặt mọi lúc trong cuộc sống trần gian của bạn. Chúa sẽ có mặt lúc bạn đi vào đời sống vĩnh cửu. Và Mẹ Chúa, người đã tỏ ra quá tốt với bạn như thế, Mẹ cũng sẽ có mặt với bạn, với tất cả sự dịu dàng từ mẫu của Mẹ. 

Bạn cũng hãy năng nghĩ đến anh chị em của bạn trong luyện ngục, họ không thể tự mình làm chi cho mình thêm công nghiệp. Họ cần đến công nghiệp của anh chị em còn ở trần gian giúp cho họ. Chớ gì mọi người, những ngươi già cả, ốm đau, bệnh tật biết dùng những năm tháng cuối đời để thêm ơn và công nghiệp cho các linh hồn và cho chính mình. Cái chết của họ sẽ dịu dàng hơn, vì Chúa đã hứa ban một ơn trợ giúp đặc biệt vào lúc trọng đại đó cho những ai sống cho kẻ khác trước mình. Chính đó là tình yêu. Với những hy sinh nhỏ bé, hãy dọn mình chết bằng cách yêu mến. 

Chúa biết giờ chết của bạn và cách nó sẽ xảy ra. Chính Chúa đã chọn cho bạn với tất cả tình yêu. Chúa sẽ có mặt vào giờ ra đi trọng đại cuối cùng của bạn, với mọi ơn cần thiết. Chính mức độ tình yêu của bạn sẽ cho bạn dự phần cách sung mãn. Người ta chết như người ta đã sống. Nếu bạn sống trong yêu thương, cái chết sẽ đến với bạn trong tình yêu. Chính Chúa sẽ đợi bạn ở cuối đường đời, sau khi đã là bạn đồng hành của bạn suốt cả cuộc sống bạn. Còn bạn, hãy dùng cho tốt quãng thời gian còn lại. 

Bạn hãy rao giảng tinh thần lạc quan cho những người ngã lòng. Chúa ở với Giáo Hội mọi ngày cho đến tận thế. Thay vì ngã lòng, họ hãy kêu đến Chúa: Lạy Chúa, xin cứu chúng con kẻo chúng bạn chết mất. Họ hãy gia tăng Đức Tin vào sự hiện diện và quyền năng của Chúa. Cách trực diện với sự chết đối với bạn phải là vấn đề Đức Tin, Đức Cậy và Đức Mến. Cái chết là một cuộc khởi hành để đến đích. Trong nhà Cha, nơi đó bạn sẽ gặp lại tất cả.

Người ta chết như người ta đã sống.

Bạn hãy sống trong tình yêu để được chết trong tình yêu

Hôm nay, bạn hãy ngủ yên trong vòng tay Chúa.

Và chớ gì bạn sẽ ra đi như thế!

BÀI CHIA SẺ

1. Mỗi người tự chọn đề tài, được gợi hứng từ những gì đã chia sẻ trong lớp. Viết tối thiểu 3 trang, tối đa 6 trang khổ giấy A4.

2. Viết những gì đang làm chị em bận tâm nhất:

- về những thuận lợi cũng như khó khăn, những điểm mạnh cũng như những điểm yếu, những kỳ vọng và trông đợi ở bản thân, ở Bề trên, ở chị em trong cộng đoàn,                        

- cũng như những thách đố, những trăn trở về tình cảm và công việc liên quan đến sứ vụ tông đồ của chị em để tiến lên trong đời tu. 

3. Viết càng đúng với thực tế bao nhiêu càng có giá trị bấy nhiêu, vì tu đức không phải là một kiến thức, mà là một cuộc sống thăng trầm không ngừng được điều chỉnh, và trong cuộc sống đó mỗi người “chia sẻ” để tìm kiếm bình an và hạnh phúc cho mình, bây giờ và sau này.  

Không những thế, mỗi người đều cố gắng đem lại bình an và hạnh phúc cho người khác, giống như Chúa Giêsu, Ngài đến không để giải thích đau khổ, để cất đau khổ, nhưng để chịu đau khổ, để chia sẻ đau khổ với con người và mời gọi con người chia sẻ đau khổ của nhau, hầu đạt tới hạnh phúc.

còn tiếp

VỀ MỤC LỤC
SỚM KHÁM PHÁ UNG THƯ RUỘT GIÀ

 

Từ năm 2000, tháng Ba mỗi năm đã được các tổ chức chống ung thư tại Hoa Kỳ chọn là tháng để bà con ”đề cao cảnh giác” với nan bệnh ung thư Ruột Già và lưu ý tới việc tới các bác sĩ khám nghiệm để sớm tìm ra bệnh.

Ung thư ruột già là nguyên nhân gây tử vong đứng hàng thứ nhì trong các bệnh ung thư tại Mỹ, sau phổi.

Thống kê cho biết, năm 2008, có 139,000 người lớn tại Hoa Kỳ được chẩn đoán bị ung thư ruột già với hơn 50.000 tử vong.

Theo Hội Ung Thư Hoa Kỳ,  phân nửa số tử vong này có thể được cứu sống nếu mọi người hiểu rõ bề bệnh, phòng tránh các nguy cơ gây ra bệnh và làm các thử nghiệm tìm bệnh đều đặn. Các thử nghiệm sàng lọc này có thể sớm nhận diện bướu thịt (polyp) đáng ngại hoặc u tiền ung thư để loại bỏ trước khi chúng chuyển sang bệnh hiểm nghèo.

Theo bác sĩ Durado D. Brooks, Giám đốc khoa ung thư nhiếp tuyến và ruột già thuộc Hội Ung Thư Hoa Kỳ thì “Ung thư ruột già là một trong những ung thư duy nhất có thể phòng tránh qua khám nghiệm đều đặn”. Cơ quan Kiểm Soát Bệnh Hoa Kỳ (CDC) cũng có cùng quan điểm.

Ngoài ra nghiên cứu cho hay, 90% người được sàng lọc khám phá ra ung thư ruột già sớm có tỷ lệ sống sót 5 năm, trong khi đó nếu khám phá trễ số người sống sót còn có 10%.

Vậy thì những thử nghiệm đó là gì và được thực hiện như thế nào, chúng ta cùng nhau tìm hiểu.

Trước hết, xin nhắc lại là những rủi ro đưa tới ung thư ruột già gồm có:

- Tuổi cao ( trên 50 tuổi);

- Cá nhân hoặc thân nhân có tiền sử bướu thịt, ung thư ruột già;

- Cá nhân có tiền sử viêm loét ruột;

- Di truyền;

- Hút thuốc lá;

- Đời sống quá tĩnh tại;

- Ăn nhiều thịt đỏ.

1- Khám hậu môn với ngón tay

Thử nghiệm đầu tiên mà thầy thuốc sẽ làm là khám hậu môn. Nói tới khám xét là ta cứ ngượng ngùng “em chã ”. Vì khi không lại phải “vạch mông” cho người coi cái ”cửa sau”, phần thầm kín của con người, thì cũng lạnh mình, đỏ mặt. Nhưng khi cần thì vẫn phải làm.

Chổng mông để lương y thọc ngón tay chuối mắn - ngọc ngà vào, ngoáy qua ngoáy lại từ trước ra sau, từ trên xuống dưới. Để coi mặt trong ruột có trơn tru, có cái u cái mụn nào không; rút ngón tay ra có chút máu dính vào bao cao su. Với chiêu thức ngoáy tay, thầy thuốc cũng kiểm tra coi cái tuyến tiền liệt của các ông xem có sưng, có gồ ghề. Chẳng là ung thư ruột cũng “ nhân nghĩa bà Tú Đễ ” thường tới thăm chú tuyến tinh dịch này của quý lão ông lắm đấy.

Với vài giọt hóa chất, thầy thuốc thử phân coi có vết máu.

Thử nghiệm này rất giản dị, không đau đớn mà lại rẻ tiền nhưng hữu ích thì “thần sầu”.  Thần sầu vì có thể giúp ta sớm phát hiện những10% nan bệnh, sớm điều trị, nâng cao kết quả, nhiều hy vọng lành bệnh. Do đó, ta nên làm mỗi năm.

Nếu thử nghiệm thấy có máu thì thầy thuốc sẽ tìm cách trực tiếp nhìn vào trong ruột 

2- Chụp X-quang ruột với chất cản quang

Dung dịch cản quang được bơm vào ruột để hình ảnh ruột hiện rỏ ràng trên phim X-quang. Quan sát hình chụp, bác sĩ có thể tìm ra u bướu hoặc bất thường trong ruột. Nếu thấy bướu thịt, bác sĩ sẽ đề nghị làm nội soi.

3- Thử phân tìm tế bào ung thư (Stool DNA test)

Đây là thử nghiệm tương đối mới.

Bác sĩ đưa cho bệnh nhân một hộp thử nghiệm với hướng dẫn cách thức lấy phân rồi chuyển cho phòng thí nghiệm để tìm tế bào ung thư tách ra từ u bướu của ruột.

Bệnh nhân sẽ được nhắc nhở không ăn một vài thực phẩm hoặc dùng vài loại thuốc để có kết quả chính xác. Nếu kết quả dương tình, nội soi ruột sẽ được thực hiện.

4- Tìm máu ẩn trong phân

 Trong điều kiện bình thường, phẩn không có máu và đàm. Phẩn có máu là dấu hiệu của một bệnh nào đó của ống tiêu hóa.

Máu có thề đỏ tươi, bầm đen hoặc nâu sẫm tùy theo vị trí bệnh xa hay gần hậu môn. Gần ( trực tràng, trĩ)  thì đỏ, xa (ruột non, bao tử) thì bầm vì đã bị vi khuẩn biến thành hóa chất hematin có mầu đen.

Máu đỏ tươi thường là do trĩ hậu môn, trĩ mạch lươn dưới da chung quanh hậu môn, bướu thịt hoặc ung thư ruột già, trực tràng.

Máu bầm đen trong các bệnh loét dạ dày, đứt mạch máu ở ruột già, dùng quá nhiều aspirin hoặc rượu, uống thuốc chống đông máu.

Số lượng máu có thể nhiều hoặc ít như trường hợp máu ẩn (occult blood).

 Máu ẩn có rất ít trong phẩn mà mắt thường không thấy và chỉ tìm ra được khi nhìn qua kính hiển vi hoặc thử nghiệm hóa học.

Nguồn gốc máu ẩn có thể từ loét viêm dạ dày, viêm đường ruột, trĩ, ung thư hoặc polyp trong ruột già. 

Để thử nghiệm, phẩn được lấy trong ba ngày liên tiếp và đựng trong hộp đặc biệt do phòng thí nghiệm cung cấp. Giao hộp phẩn cho phòng thí nghiệm để họ tìm máu.

Ba ngày trước và trong thời gian lấy phẩn, bệnh nhân cần theo hướng dẫn như sau:

- Tránh dùng vitamin C hoặc tiêu thụ quá nhiều thực phẩm chứa sinh tố này như chanh, cam vì sinh tố này cho kết quả dương tính sai.

- Tránh ăn nhiều thịt đỏ có nhiều heme, thực phẩm có nhiều enzym peroxidase như nấm, broccoli, giá đậu, cauliflower, táo, cam, chuối, dưa canteloup, nho. Các chất này có thể làm cho kết quả thử nghiệm dương tính sai

- Nên ăn thực phẩm có nhiều chất xơ như đậu, rau để khối phẩn mềm lớn.

- Tránh thuốc kích thích dạ dày, ruột gây ra xuất huyết như thuốc chống acit, thuốc có chất steroid, thuốc chống viêm đau có chất aspirin, rượu.

- Tránh uống sinh tố có chất sắt.

Kiếm máu ẩn trong phẩn có khả năng tìm ra polyp và ung thư ruột già khá sớm. Tuy nhiên, kết quả dương tính không có nghĩa là đã bị ung thư vì có nhiều nguyên do khác gây ra xuất huyết đường ruột. Thí dụ khi dùng thuốc aspirin, ibuprofen, trong bệnh loét dạ dày, viêm ruột…Đo đó, bệnh nhân có máu ẩn trong phân cần được xác định với phương pháp nội soi, quan sát đường ruột.

Giới chức y tế đề nghị tìm máu ẩn trong phẩn mỗi năm một lần.

5- Nội soi ruột già

Có người ví Nội soi ruột già là tiêu chuẩn vàng (golden standard) để sàng lọc ung thự ruột già-trực tràng.

Đây là phương pháp khảo sát mặt trong của toàn thể trực tràng với một ống dây quang học bằng nhựa mềm dễ uốn, có đèn sáng dẫn đường và máy chụp hình. Đưa ống sâu vào hậu môn, điều chỉnh máy, bác sĩ có thể làm một vòng thám hiểm bất cứ góc cạnh nào của ruột và mao tôn cương: qua đèn, nhìn ruột rõ như ban ngày, nào là  gồ ghề bướu thịt, loét lở thành ruột, bê bết máu tươi đều thấy hết, ngoại trừ bầy vi sinh vật lúc nhúc cộng sinh. Nhắc lại là trong trường hợp bình thường, lòng ruột già chơn mềm như mặt trong của má.

 Hình ảnh ruột được chiếu trên màn hình TV để phân tích và có thể lưu trữ.

Nội soi được làm tại bệnh viện hoặc phòng nội soi ngoại chẩn, trung bình kéo dài từ 30-60 phút và do bác sĩ chuyên ruột-bao tử thực hiện. Bệnh nhân được cho dùng liều thuốc an thần để giảm lo âu, khó chịu, do đó cần người lái xe đưa về sau khám nghiệm.

Trước khi làm nội soi, bệnh nhân được cho thuốc tẩy rửa ruột sạch sẽ để bác sĩ dễ quan sát. Đây là điểm mà nhiều người e ngại vì phải uống một lọ thuốc xổ cộng thêm cả lít nước để rồi tiêu chẩy soèn soẹt. Hiện nay có thuốc tẩy rửa dạng viên cho nên việc sửa soạn ít khó chịu hơn.

Một ngày trước thử nghiệm, bệnh nhân không ăn thực phẩm mà chỉ uống nước trong không bã.

Nếu thử nghiệm vào buổi sáng, không ăn uống gì sau nửa đêm. Nếu là buổi chiều thì uống thuốc tẩy xổ theo đúng hướng dẫn.

Không nên uống aspirin hoặc thuốc chống viêm 5 ngày trước thử nghiệm để tránh nguy cơ xuất huyết.

Sau thử nghiệm, bệnh nhân cảm thấy tưng tức ở bụng, nhưng hết sau vài giờ. Dăm giờ sau thử nghiệm, bệnh nhân có thể ăn lại như thường lệ. 

Mục đích của nội soi gồm có:

- Đánh giá các u bướu, loét lở, thu hẹp lòng ruột già khi chụp hình X-quang ruột;

- Chẩn đoán viêm ruột;

- Tìm nguyên nhân gây ra tiêu chảy khi các thử nghiệm thông thường không thành công;

- Tìm nguyên nhân xuất huyết đường tiêu hóa, đặc biệt trong bệnh thiếu máu do thiếu sắt;

- Chẩn đoán ung thư ở người có thân nhân bị ung thư hoặc bướu thịt;

- Cắt bỏ bướu thịt, chữa xuất huyết ruột hoặc lấy vật lạ trong ruột.

Nội soi được áp dụng khi có một trong các bất thường như thay đổi thói quen đại tiện, máu trong phẩn, đau bụng liên tục, người từ 50 tuổi trở lên.

Hội Ung Thư đề nghị những ai trên 50 tuổi nên làm nội soi ruột già mỗi 7-10 năm. Người có rủi ro ung thư ruột già cần thực hiện sàng lọc này gần hơn, tùy theo ý kiến của bác sĩ điều trị.

Bình thường, phương pháp rất an toàn, hãn hữu lắm mới có khó khăn như lủng ruột.

Nếu có u bướu, bác sĩ sẽ thực hiện sinh thiết (biopsy) để xác định tế bào ung thư, chụp x-quang xương, CT scan…rồi điều trị.

Mặc dù nội soi ruột là phương thức sàng lọc hữu hiệu, nhưng số người thực hiện cũng khá khiêm nhường. Lý do là nhiều người ngại đau, ngại phải uống thuốc tẩy sổ để làm sạch ruột và lý do quan trọng hơn là chi phí nội soi khá cao. Nếu bảo hiểm không đài thọ thì bệnh nhân phải bỏ tiền túi ra trang trải.

Với người trẻ hơn mà có các rủi ro như:

- đã có ung thư hoặc bướu thịt trong quá khứ;

- thân nhân bị ung thư hoặc bướu thịt ruột già;

- có bệnh loét ruột hoặc bệnh Crohn;

- tiêu thụ nhiều chất béo, ít chất xơ

thì nên  thực hiện cá phương pháp sàng lọc tìm kiếm ung thư ruột già.

6- Virtual Colonoscopy

Đây là phương pháp mới được giới thiệu năm 2008 để chụp hình hiện trạng thực sự của ruột với máy CT scan ( computerized tomography). Những hình ảnh này nom giống như khi nhìn trực tiếp ruột già. Virtual colonoscopy do bác sĩ quang tuyến thực hiện, Một loại gas được bơm vào để ruột già phồng lên rồi làm CT scan tìm polyp.

Nếu thấy có bất thường, bác sĩ sẽ làm nội soi ruột để quan sát rõ ràng hơn và nếu cần thì cắt bỏ. Chi phí cho phương pháp này cũng khá cao.

7- Flexible Sigmoidoscopy

Một thiết bị đơn giản hơn máy nội soi ruột già là máy nội soi ruột sigma (sigmoidoscope) chỉ được dùng để quan sát phần dưới của ruột già và trực tràng mà thôi. Khoảng 50% ung thư hoặc bướu thịt xuất hiện ở phần trên ruột già.

Một ống mềm uốn cong , đầu có gắn máy thu hình nhỏ với đèn được dưa vào hậu môn. Qua thiết bị, bác sĩ quan sát phần dưới ruột già và trực tràng để tìm ra bất thường.

Coi vậy ta thấy có nhiều cách để sàng lọc tìm kiếm ung thư ruột già, nhưng căn bản chỉ có hai loại được giới chức y tế khuyên cần làm theo định kỳ: Đó là tìm máu ẩn trong phẩn (Fecal occult blood test) và nội soi ruột già (Colonoscopy screening).

Kết luận

Với chiều dài 5 feet ( 152 cm) ruột già có vai trò quan trọng trong cơ thể.

- Ruột tái hấp thụ chất lỏng, nhiều sinh tố khoáng chất  cần thiết từ khối thực phẩm đang được tiêu hóa.

- Loại bỏ độc chất và vi sinh vật gây hại ra khỏi cơ thể theo phẩn.

Nếu các nhiệm vụ này không được hoàn tất chu đáo, sức khỏe tổng quát sẽ chịu nhiều khó khăn mà ruột già cũng bị tổn thương, bệnh hoạn.

Ung thư ruột già là một trong những bệnh hoạn đó.

Điều trị ung thư ruột già không phải là chuyện dễ dàng, vì bệnh thường chỉ được khám phá khi đã vững vàng, ổn định, đôi khi còn gieo rắc một vài hạt giống ác quái vào các cơ quan bộ phận khác ngoài ruột.

Do đó, các giới chức y tế đều nhắc nhở dân chúng để ý tới dấu hiệu báo động của bệnh, cấp kỳ thông báo cho bác sĩ và làm các thử nghiệm sẵn có đề truy tìm “ung tặc”, càng sớm càng tốt.

Nhưng nhiều thử nghiệm như vậy thì chúng tôi biết chọn lựa cái nào bây giờ?

Về thắc mắc này thì không có nhà chuyên môn nào dám cả quyết trả lời. Vì mọi sự tùy theo điều kiện bệnh, tình trạng bệnh nhân, lại cũng còn tùy khả năng tài chánh, có đủ tiền trả cho nội soi hay không. Cái khó nó bó cái khôn mà. Nhiều bảo hiểm thuận trả cho chi phí này. Riêng người được hưởng Medicare bên Mỹ tuổi 50 trở lên thì chính phủ trả.  cứu sống ta đấy. Vì với thử nghiệm, có thể tìm ra ung thư ở giai đoạn rất sớm, từ đó điều trị sẽ có nhiều kết quả hơn. Và hồi phục cũng mau hơn.

Theo Giáo sư Giải Phẫu LaSalle Leffall, Đại Học Y Khoa Howard, nếu được điều trị từ khi còn trứng nước, ung thư ruột già có từ 80% tới 90% cơ may lành hẳn; nếu để tới khi nó lan rộng thì tỷ lệ xuống còn 1/3.

 Điều đáng ngại là, theo Hội Ung thư Hoa Kỳ, chỉ có 30% người được khuyến khích làm thử nghiệm tìm kiếm bệnh chịu thực hiện lời khuyên.

Bác sĩ Nguyễn Ý-Đức, Texas-Hoa Kỳ.

VỀ MỤC LỤC

SOI GƯƠNG - Chuyện phiếm của Gã Siêu

 

Cách đây đã lâu, gã đã đưa ra một nhận xét riêng tư như sau :

Người ta thường bảo : Nhân sao vật vậy. Con người thế nào, thì con vật cũng thế ấy.

Tuy nhiên, nếu “xem mặt mà bắt hình dong”,  xét theo tiêu chuẩn đẹp và xấu, thì định luật trên lại trật lất, chẳng đúng được một tí ti ông cụ nào cả.

Thực vậy, nơi loài vật, con đực thường đẹp hơn con cái và lại thường hay làm đỏm để lấy le với con cái. Vì thế trong tiếng Pháp, danh từ ‘’coquetterie’’ có nghĩa là sự làm dáng, bắt nguồn từ chữ ‘’coq’’ có nghĩa là anh gà trống!

Nơi loài người thì khác, đờn bà con gái vốn được coi là phái đẹp, và nghệ thuật làm đẹp vốn là nghề riêng của các nàng. Thậm chí có kẻ đã tuyên bố một cách “hách xì xằng” như sau :

- Là đờn bà con gái, mà nêáu không biết làm đỏm mí lại ăn quà vặt, thì hỏng còn là đờn bà con gái nữa.

Trong những năm gần đây, phong trào “Đờn ông đòi quyền…sướng” đã vùng lên, khiến nhiều kẻ trong hàng ngũ cánh mày râu cũng đã chịu khó siêng năng lui tới mỹ viện để cắt bỏ chỗ này hay vá đắp chỗ kia, rồi hàng loạt những loại mỹ phẩm được dành riêng cho phe ông con trai được trình làng và hốt bạc.

Từ đó gã nghiệm ra rằng : Phàm đã là người, thì ai cũng thích mình đẹp. Chẳng ai muốn mình xấu bao giờ, ngoại trừ những người sinh ra, ông trời bắt xấu mà thôi.

Mà dầu có xấu chăng nữa, thì cũng vẫn cố ngoi lên cho mình đẹp thêm một chút theo kiểu “đen thủi đen thui cũng lượt là”.

Gã còn nhớ, ngày xưa khi bước vào tuổi mới lớn, mấy chú nhóc đầu húi cua ba phân đều, thế mà cũng mang theo một chiếc gương và một chiếc lược nhỏ trong túi quần, đề rồi thỉnh thoảng lại lén nhìn khuôn mặt mình. Sau đó, đưa tay lên đầu mà nắn nắn, ép ép.

Còn phe kẹp tóc thì khỏi phải nói :

- Một hôm trận gió tình yêu thổi,

  Đứng ngẩn trông vời áo tiểu thư.

Các nàng bỗng thấy mình xinh đẹp hẳn lên và không tiếc thời gian cũng như công sức bỏ ra cho việc làm đẹp của mình. Áo quần phải phẳng phiu, không còn lôi thôi lếch thếch. Đầu tóc phải mượt mà, không còn bù xù rối tung lên nữa.

Thậm chí có cô bé muốn cho mái tóc của mình quăn tít thò lò, nhưng vì không được tới tiệm uốn tóc, nên trong lúc ngồi thổi cơm, đã hơ chiếc đũa cả vào lửa, rồi cuốn những lọn tóc của mình vào chiếc đũa cả còn nóng hổi ấy, cho tóc được quăn !!!

Còn bây giờ ấy hả ?

Mỗi khi phải chường mặt ra phố xá, hay tới một nơi hẹn nào đó, các bà các cô có khi ngồi “thiền” hàng giờ trước tấm gương để trang điểm, giống như cô bé đi chùa Hương :

- Hôm qua em đi chùa Hương,

  Hoa cỏ còn mờ hơi sương,

  Cùng thầy me em vấn đầu…soi gương.

Vì thế, nếu như cô nàng đỏng đảnh có trễ hẹn một vài tiếng đồng hồ, âu cũng chỉ là chuyện thường ngày ở huyện mà thôi.

Rồi bất kỳ đi đến đâu, các nàng đều mang theo một cái bóp nhỏ. Trong cái bóp nhỏ này, thôi thì hầm bà lằng, lỉnh kỉnh đủ mọi thứ đồ nghề : một chiếc gương, một chiếc lược, một chiếc bút chì, vài thỏi son và một tí phấn…Hễ rảnh lúc nào, là các nàng liền sửa sang lại cái diện mạo của mình ngay lập tức.

Tuy nhiên, để biết mình đẹp hay xấu, người ta thường phải soi mình vào gương. Gã không biết ai là người đã chế tạo ra chiếc gương đầu tiên. Nếu biết, thì chắc hẳn phải trao cho người ấy mọi thứ giải thưởng cao qúi nhất. Và nếu bình chọn qua “internet”, hẳn người ấy sẽ ăn đứt mọi sự bầu bán của các bà các cô, vì chiếc gương bây giờ đã trở thành “vật bất ly thân” của các nàng rồi mà.

Thế nhưng, lúc chưa có chiếc gương thì sao ?

Theo gã nghĩ : khi chưa phát minh ra chiếc gương, thì lúc bấy giờ rất có thể người ta đã nhìn mình nơi những tấm kim loại nhẵn bóng, hay soi mình trên dòng nước để thấy được cái dung nhan mỹ miều của mình, giống như cô Tấm cô Cám thường nhìn mình nơi giếng nước đầu làng.

Thần thoại Hy Lạp có kể lại một câu chuyện như sau :

Narcisse là con của thần sông Céphise. Ngay từ nhỏ, chàng đã được thần minh phú ban cho một khuôn mặt tuyệt vời, nhưng lại chưa một lần được nhìn thấy.

Tới tuổi trưởng thành, ngày kia chàng thơ thẩn bên bờ suối. Bỗng chàng nhìn thấy khuôn mặt mình in trên dòng nước, một khuôn mặt thật hết ý. Và thế là trong phút giây say đắm khuôn mặt của chính mình, chàng đã nhảy xuống con suối để ôm chặt lấy khuôn mặt mình. Và chàng đã bị dòng nước cuốn trôi.

Thế nhưng, kể từ khi chàng chết đi, bên bờ suối ấy trổ sinh một loài hoa mang tên chàng. Và người Việt Nam chúng ta gọi đó là hoa thủy tiên.

Bây giờ, người ta đã sản xuất ra đủ mọi thứ gương : gương lồi, gương lõm, gương phẳng và đặc biệt là gương soi. Vậy những chiếc gương này thường được dùng vào công việc gì ?

Hồi còn bé, bọn nhóc con như gã, thường mang chiếc gương ra ngoài sân, cho ánh nắng mặt trời đổ xuống, rồi phản chiếu thành một đốm sáng. Đốm sáng ấy, bọn nhóc cho hắt lên tường, hay chiếu thẳng vào mặt của người nào đó mà chúng muốn chọc ghẹo, khiến họ bị chói cả mắt.

Có lẽ trò chơi này của bọn con nít đã bắt nguồn từ một sáng kiến của Archimède.

Theo gã được biết thì Syracuse vừa là một thành phố, lại vừa là một  hải cảng sầm uất thuộc đảo Sicile. Ngày kia, quân đội La Mã, dưới sự hướng dẫn của tướng Marcellô, đã dùng tàu thuyền vây hãm và tấn công thành phố.

Archimède dàn quân trên sườn núi và dùng những chiếc gương khổng lồ, cho phản chiếu ánh sáng mặt trời và đã đốt cháy toàn bộ những chiến thuyền của địch quân, ngay khi chúng còn ở tít  tận đàng xa.

Cũng hồi còn bé, bọn nhóc con như gã, thường nuôi cá lia thia. Mỗi con trong một cái chai nhỏ. Muốn tập cho cá biết chọi, bọn nhóc phải để một chiếc gương sát với cái chai. Nhìn vào gương, cá lia thia tưởng là kẻ địch muốn ăn thua đủ, và thế là cứ việc nhắm mắt, húc đầu mà tấn công.

Có lẽ kinh nghiệm này của bọn con nít đã bắt nguồn từ điển “Gương loan” hay “Loan kính” rất xa xưa.

Chuyện rằng :

Diểm Tân Vương nuôi một con chim loan, nhưng ba năm không hót được một tiếng nào.

Sau có người bảo :

- Chim loan có đôi mới hót.

Tân Vương liền dùng gương lớn đặt trước lồng. Chim loan nhìn vào gương tưởng là đồng loại, nên cất tiếng hót, rồi cứ hót mãi và hót hoài cho tới khi giẫy lên đành đạch mà chết.

Vì thế mới có thơ rằng :

- Đã gác  gương loan treo giá ngọc,

  Nỡ hoài chim cú đậu cành mai.

Tuy nhiên, công dụng thông thường nhất của những chiếc gương là để chúng ta soi vào mà nhìn thấy khuôn mặt của mình.

Có những người nhìn vào gương để thấy khuôn mặt của mình thật xinh đẹp và rất lấy làm hãnh diện như anh chàng Narcisse trong thần thoại Hy Lạp.

Có những người nhìn vào gương để thấy những lem luốc hay nhọ bẩn trên khuôn mặt của mình, rồi vội vã chùi xóa đi, chứ chẳng dại gì cứ để nguyên những vết lem luốc và nhọ bẩn ấy mà hiên ngang đi ra giữa phố phường hay gặp gỡ người này người khác.

Có những người nhìn vào gương, để trang điểm cho khuôn mặt mình thêm xinh đẹp hơn.

Ngày nay, nhiều người chủ trương “cái đẹp đè bẹp cái nết”, nên họ sẵn sàng hao tốn thời giờ, hao tốn tiền bạc, hao tốn công sức để làm đẹp cho cái dung nhan của mình.

Thế nhưng, cái đẹp bên ngoài nơi thân xác chẳng tồn tại được bao lâu, không sớm thì muộn nó cũng sẽ bị tàn phai với thời gian. Vì thế, “cái nết đánh chết cái đẹp” mãi mãi vẫn là một sự thật  ngàn đời chẳng hề đổi thay.

Bởi đó, việc quan trọng cần phải làm ngay, đó là hãy nhìn vào gương để thấy tâm hồn mình lúc này như thế nào ?

Tương truyền rằng ngày xưa vua Tần là Tần Thủy Hoàng có một chiếc gương rất kỳ lạ. Chiếc gương kỳ lạ này được treo ở trong cung và được gọi là “chiếu đảm kính”.  Chiếc gương kỳ lạ này soi thấu tận tim đen và biết được ai là người chính và ai là kẻ tà.

Những cung nữ nào có tà tâm khi soi vào gương, thì mặt liền bị phổng lên và trái tim liền bị rúng động. Lập tức, cung nữ ấy bị vua Tần hạ lệnh giết ngay.

Vì thế, tác giả “Chinh Phụ Ngâm” đã viết :

- Gương lầu Tần dấu đã soi chung.

Tuy nhiên, chiếc gương kỳ diệu này mãi mãi chỉ là một huyền thoại, một câu chuyện hoang đường, chứ chẳng bao giờ có thực. Nếu loại gương kỳ diệu này được sản xuất và bày bán trên thị trường, thì hẳn rằng biết bao nhiêu kẻ sẽ phải khốn đốn, xất bất xang bang, bởi vì lúc bấy giờ người ta đâu còn che dấu được bộ mặt thật của mình nữa. Và rồi những chiếc mặt nạ nhân nghĩa, những chiếc mặt nạ đạo đức, những chiếc mặt nạ chung thủy… chắc chắn  sẽ rơi rụng như sung!!!

Chính vì thế, dân Tây Ban Nha, vốn nổi tiếng với môn đấu bò, đã nói với nhau rằng :

- Có rất nhiều những chiếc gương để nhìn thấy khuôn mặt, nhưng lại chẳng có một chiếc gương nào để nhìn thấy tâm hồn.

Sống trong cuộc đời, chúng ta giống như người mang hai cái giỏ. Cái giỏ phía trước chứa đựng những sai lỗi khuyết điểm của người khác. Còn cái giỏ phía sau lưng chứa đựng những sai lỗi khuyết điểm của chính bản thân mình.

Vì thế, chúng ta thường nhìn thấy rất rõ những sai lỗi khuyết điểm của người khác, để rồi lên tiếng phê bình chỉ trích một cách gắt gao và nghiệt ngã. Còn những sai lỗi của bản thân thì lại chẳng nhìn thấy. Và nếu có nhìn thấy, thì cũng sẽ đưa ra một ngàn lẻ một lý do để bênh vực bào chữa. Nào là bởi thế kia, nào là vì thế nọ…nên mới ra nông nỗi này.

Chúng ta thường khoan dung với bản thân mà hà khắc với người khác. Đáng lý ra, chúng ta phải khoan dung với người khác mà hà khắc với chính bản thân mình. Chúng ta chỉ nhìn thấy cái rơm cái rác trong mắt người khác, còn cái xà trong mắt mình là chẳng nhìn thấy bao giờ.

Vì thế, chúng ta thường cư xử theo kiểu :

- Chân mình những lấm mê mê,

  Lại cầm bó đuốc mà rê chân người.

Cũng vì vậy mà dân Ăng lê, dù mang dòng máu phớt tỉnh, đã phải phát biểu :

- Con mắt nhìn thấy mọi sự, nhưng lại chẳng bao giờ nhìn thấy chính mình.

Hay :

- Con chồn, con cáo chẳng bao giờ ngửi thấy mùi hôi của mình.

Từ đó, chúng ta thấy biết mình là một việc làm cần thiết, như người Tàu vốn thường bảo :

- Tri bỉ tri kỷ, bách chiến bách thắng. Biết mình biết người, trăm trận đều thắng.

Trước cửa ngôi đền kính thần Apollo tại Delphes, người ta đã khắc ghi hàng chữ sau đây :

- Hãy biết chính mình bạn.

Và thánh Augustinô vốn hằng cầu nguyện :

- Lạy Chúa, xin cho con biết Chúa và xin cho con biết con.

Tuy nhiên, có cách nào để chúng ta biết mình hay không ? Ngày hôm nay, chúng ta không có “chiếu đảm kính”, hay chiếc gương kỳ diệu của Tần Thủy Hoàng, nhưng ai nấy đều có những giây phút thinh lặng.

Những giây phút thinh lặng này được sánh ví như mặt nước hồ thu, vừa trong lại vừa phẳng, không một gợn sóng. Soi mình trên đó, chúng ta sẽ nhìn thấy được tâm hồn với những tội lỗi vấp phạm. Đắm chìm trong thinh lặng, chúng ta sẽ nhìn thấy được cõi lòng với những khuyết điểm đã vướng mắc.

Vì thế, trong các tu viện, mỗi ngày đều có những khoảng khắc thinh lặng để các tu sĩ hồi tâm xét mình, kiểm điểm lại cuộc sống, nhờ đó khám phá ra sai sót của mình.

Tuy nhiên, biết mình mà thôi cũng chưa đủ, chúng ta còn phải sửa mình. Đây mới thực sự là điều quan trọng, đòi hỏi nhiều nỗ lực và kiên nhẫn.

Sống trong cuộc đời, chúng ta giống như người bơi ngược dòng nước. Nếu không cố gắng bơi, thì chắc chắn sẽ bị dòng nước cuốn trôi.

Như một cô gái nhìn vào chiếc gương, khám phá ra những vết lọ lem trên khuôn mặt, thì lập tức phải chùi xóa đi, đồng thời trang điểm cho khuôn mặt mình được xinh đẹp hơn.

Cũng vậy, nhờ những giây phút thinh lặng, chúng ta khám phá ra con người thật của mình, lập tức phải uốn nắn những sai lỗi và tập luyện những nhân đức, nhờ đó tốt lành, hoàn thiện hơn.

Người Đông phương chúng ta thường nói :

- Phải tu thân trước đã, rồi sau đó mới tề gia, trị quốc và bình thiên hạ.

Muốn tu thân thì điều kiện đầu tiên là phải biết mình một cách chính xác. Một người đi lạc đường mà cứ tưởng mình đi đúng đường, hay ngược lại, đi đúng đường mà cứ tưởng mình đi lạc đường, cả hai đều nguy hiểm.

Cũng giống như một người đau bụng mà cứ tưởng là mình đau đầu. Vì thế bao nhiêu thứ thuốc đau đầu, anh ta đều…xơi cho bằng hết. Kết quả bệnh đau bụng không hề thuyên giảm, mà còn có mòi trầm trọng hơn.

Biết mình và nhận ra những sai lỗi có thể là chuyện dễ, nhưng sửa đổi lại những sai lỗi ấy, mới thực sự là chuyện khó. Kinh nghiệm bản thân cho thấy : Rất nhiều lần chúng ta đã dốc quyết  tập nhân đức này, sửa thói xấu kia, nhưng điều dốc quyết ấy chẳng kéo dài được bao lâu, ba bảy hai mươi mốt ngày là cùng, để rồi mèo vẫn hoàn mèo, chó đen vẫn giữ mực, chúng ta vẫn chứng nào tật ấy, mãi mãi vẫn chỉ là những kẻ tầm thường mà thôi.

Vì thế, Napoléon đã nói :

- Thắng được cả châu Âu còn dễ hơn là thắng được bản thân mình.

Trong khi đó, các vị thánh là những người cũng yếu đuối, cũng sai lỗi như chúng ta. Thế nhưng, điều khác biệt, đó là một khi nhận biết những sai lỗi của mình, các ngài đã đi tới cùng trong việc uốn nắn sửa đổi, nhờ đó các ngài đã trở nên những vị thánh.

Biết mình mắc tật nghiện rượu, anh chàng bợm nhậu kia đã quyết tâm sửa đổi bằng cách cứ mỗi khi ngồi vào bàn uống rượu, anh ta liền nhỏ một giọt nến vào chiếc ly. Cứ thế, cứ thế. Ngày này qua ngày khác. Cho tới khi chiếc ly đầy nến và anh ta chừa bỏ được tật nghiện rượu của mình.

Biết mình hay làm những việc sai quấy, anh chàng kia đã quyết tâm sửa đổi bằng cách cứ mỗi khi làm được một việc tốt, anh ta bỏ một hạt đậu trắng vào trong một cái chai. Còn mỗi khi chẳng may làm một việc xấu, anh ta bỏ một hạt đậu đen cũng vào trong cái chai ấy.

Ban tối trước khi đi ngủ, anh ta đổ những hạt đậu ra và ngồi đếm. Lúc đầu chỉ toàn là đậu đen. Điều đó chứng tỏ anh ta là một kẻ gian ác.

Sau đó, đậu đen cứ giảm dần, còn đậu trắng cứ tăng lên. Điều đó chứng tỏ anh ta đã có được những tiến bộ trong việc sửa đổi bản thân.

Cuối cùng, đậu đen không còn nữa, mà chỉ toàn đậu trắng. Điều đó chứng tỏ anh đã trở nên một con người tốt lành, dễ thương và dễ mến.

Để kết luận, gã xin ghi lại mẩu đối thoại giữa con cú mèo và con chim gáy như sau :

Ngày kia, con cú mèo gặp con chim gáy. Chim gáy hỏi :

- Bác sắp đi đâu đấy ?

Cú mèo trả lời :

- Tôi sắp sang ở bên phương Đông.

Chim gáy hỏi tiếp :

- Tại sao lại đi như thế ?

Cú mèo nói :

- Tại vì ở đây, mỗi khi nghe tiếng tôi kêu, mọi người đều tỏ ra bực bội và ghét bỏ tôi, cho nên tôi phải dời đi nơi khác.

Chim gáy lắc đầu :

- Bác phải làm thế nào để đổi được tiếng kêu của mình. Chứ nếu không đổi được tiếng kêu, thì dù có sang phương Đông, khi nghe tiếng kêu của bác, người ta cũng vẫn bực bội và ghét bỏ bác mà thôi, vì nhân tình đâu mà chả thế. Cứ như ý tôi, thì không gì bằng bác phải rụt cổ, thu cánh suốt đời không kêu nữa là hơn.

Chúng ta thường nói :

- Nhân vô thập toàn. Chẳng ai là người hoàn hảo trên cõi đời này.

Vì thế, hãy dùng những giây phút thinh lặng, như chiếc gương soi vào tận đáy tâm hồn, khám phá ra những sai lỗi khuyết điểm, rồi ra sức uốn nắn sửa đổi, nhờ đó thăng tiến bản thân, đổi mới cuộc đời, trở thành những con người dễ thương và đáng mến.

Gã Siêu     gasieu@gmail.com

VỀ MỤC LỤC

- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến, bài vở..., xin gởi về địa chỉ

giaosivietnam@gmail.com

- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:

Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục vụ của Giáo sĩ;  Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh vực; Mỗi  Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)

- Quy vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại

www.conggiaovietnam.net

Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị

Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác nhau.

TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam

Lm. Luca Phạm Quốc Sử  USA

 

 

Duoc chon giua loai nguoi va cho loai nguoi; GIAO SI: Xuat phat tu giao dan, hien dien vi giao dan va cay dua vao giao dan, de cung lam VINH DANH THIEN CHUA

*************