Mầu Nhiệm
Thánh Của Lễ Tạ Ơn |
Hiến Chế Về Phụng
Vụ Thánh
Sacrosanctum
Concilium
Bản dịch Việt Ngữ của Giáo Hoàng Học
Viện Piô X
Prepared for Internet by Vietnamese
Missionaries in Asia
Chương II
Mầu Nhiệm Thánh
Của Lễ Tạ Ơn
47. Thánh lễ và
mầu nhiệm Vượt qua.
Trong Bữa Tiệc sau hết, đêm bị nộp, Ðấng Cứu Chuộc chúng ta đã
thiết lập Hy Tế Tạ Ơn bằng Mình Máu Người, để nhờ đó Hy Tế Khổ
Giá kéo dài qua các thời đại cho tới khi Người lại đến, và cũng
để ủy thách cho Hiền Thê yêu quí của Người là Giáo Hội việc
tưởng nhớ cái Chết và sự Sống Lại của Người: đây là bí tích tình
yêu, dấu chỉ hiệp nhất, mối dây bác ái
1, bữa tiệc ly phục sinh, "trong đó khi lãnh nhận Chúa
Kitô, tinh thần ta được tràn đầy ân sủng, và bảo chứng cho ta,
một vinh quang tương lai"
2.
48. Giáo dân tham
dự thánh lễ cách tích cực.
Vì thế, Giáo Hội hằng bận tâm lo cho các Kitô hữu tham dự vào
mầu nhiệm đức tin ấy, không như những khách bàng quan, câm lặng,
nhưng là những người thấu đáo mầu nhiệm đó nhờ các nghi lễ và
kinh nguyện: họ tham dự hoạt động thánh một cách ý thức, thành
kính và linh động: họ được đào tạo bởi lời Chúa; được bổ sức nơi
bàn tiệc Mình Chúa; họ tạ ơn Chúa; và trong khi dâng lễ vật tinh
tuyền, không chỉ nhờ tay linh mục mà còn liên kết với ngài, họ
tập dâng chính mình; và ngày qua ngày, nhờ Chúa Kitô Trung Gian
3, họ được tiêu hao trong tình kết liên với Thiên Chúa
và với nhau, để cuối cùng Thiên Chúa trở nên mọi sự trong mọi
người.
49. Thánh lễ có
giáo dân tham dự. Vì
vậy, để Hy Lễ, ngay cả nghi thức bên ngoài, thu đạt được một
hiệu năng mục vụ trọn vẹn, Thánh Công Ðồng quyết định những điều
sau đây, về những Thánh Lễ cử hành có dân chúng tham dự, nhất là
những ngày Chúa Nhật và các ngày lễ buộc.
50. Canh tân phần
chung của thánh lễ.
Phải làm sao tu chỉnh Nghi Thức Thánh Lễ để biểu lộ rõ ràng hơn
nữa ý nghĩa riêng biệt của mỗi phần, cũng như mối tương quan của
chúng, đồng thời để việc tham dự thành kính và linh động của các
tín hữu được dễ dàng hơn.
Do đó, các nghi lễ, dù vẫn hoàn toàn duy
trì bản chất của chúng, nhưng phải được đơn giản hơn. Phải loại
bỏ những gì, theo dòng thời gian, được gia bội hoặc thêm thắt mà
ít lợi ích. Phải tái lập theo qui tắc cổ điển của các Thánh Giáo
Phụ, một số những gì xét là chính đáng và cần thiết đã bị oan
uổng mai một theo thời gian.
51. Phần Thánh
Kinh. Ðể bàn tiệc
lời Chúa được bày dọn phong phú hơn cho các tín hữu, phải mở
rộng kho tàng Thánh Kinh hơn nữa; muốn thế, trong khoảng một số
năm ấn định, phải đọc cho dân chúng phần Thánh Kinh quan trọng
hơn.
52. Bài giảng.
Bài giảng căn cứ vào Thánh Kinh để trình bày các mầu nhiệm đức
tin và những qui tắc cho đời sống Kitô giáo trong suốt chu kỳ
năm phụng vụ, rất đáng được coi như một phần của chính Phụng Vụ.
Hơn nữa, trong những Thánh Lễ được cử hành những ngày Chúa Nhật
và lễ buộc có dân chúng tham dự, không được bỏ giảng, nếu không
có lý do hệ trọng.
53. Lời nguyện
giáo dân. Phải tái
lập "lời nguyện chung" hay "lời nguyện giáo dân", sau Phúc Âm và
bài giảng, nhất là những ngày Chúa Nhật và lễ buộc, để khi dân
chúng tham dự lời nguyện đó, họ cầu khẩn cho Hội Thánh, cho các
nhà cầm quyền, cho những kẻ khốn khổ vì mọi nhu cầu khác nhau,
cho tất cả mọi người, và cho phần rỗi của toàn thế giới
4.
4*
54. La ngữ và
tiếng bản quốc.
Tiếng bản quốc có thể được dùng cách thích đáng trong những
Thánh Lễ cử hành có dân chúng tham dự, nhất là trong các bài đọc
và "lời nguyện chung", cũng như tùy theo hoàn cảnh địa phương,
cả trong những phần dành cho dân chúng, chiếu theo quy tắc khoản
36 của Hiến Chế này.
Tuy nhiên phải dự liệu sao để các Kitô hữu
có thể cùng đọc hoặc cùng hát chung, ngay cả bằng La ngữ, các
phần thường lễ dành cho họ trong Thánh Lễ.
Nhưng ở bất cứ nơi nào việc dùng tiếng bản
quốc rộng rãi hơn trong Thánh Lễ được xem là chính đáng, đều
phải tuân giữ những điều đã qui định trong khoản 40 của Hiến Chế
này.
55. Rước lễ dưới
hai hình. Rất đáng
khuyến khích các tín hữu tham dự Thánh Lễ cách toàn hảo hơn,
bằng cách, sau khi linh mục rước lễ, họ cũng lãnh nhận Mình Chúa
trong cùng một Hy Lễ đó.
Dù vẫn duy trì các nguyên tắc tín lý do
Công Ðồng Trentô qui định
5, nhưng có thể cho rước lễ dưới hai hình
5* tùy theo phán đoán của các Giám Mục, chiếu theo
những trường hợp được Tông Tòa minh định, không những cho giáo
sĩ, tu sĩ mà cả giáo dân nữa, chẳng hạn cho các tiến chức trong
Thánh Lễ phong chức, những người tuyên khấn trong Thánh Lễ khấn
dòng, và các tân tòng trong Thánh Lễ tiếp diễn sau lễ Rửa Tội
của họ.
56. Sự hợp nhất
của thánh lễ. Có thể
nói Thánh Lễ gồm hai phần, phần Phụng Vụ Lời Chúa và phần Phụng
Vụ Thánh Thể. Hai phần này được liên kết chặt chẽ đến nỗi tạo
thành một hành vi phụng thờ độc nhất. Do đó, Thánh Công Ðồng tha
thiết khuyến dụ những mục tử chắn dắt các linh hồn, trong khi
dạy giáo lý, phải nhiệt thành dạy dỗ các tín hữu biết tham dự
trọn vẹn Thánh Lễ, nhất là những ngày Chúa Nhật và các ngày lễ
buộc.
57. Ðồng tế
.
(1)
Việc đồng tế biểu lộ chính đáng tính cách duy nhất của chức linh
mục. Cho đến nay, việc đồng tế vẫn được dùng trong Giáo Hội,
Ðông Phương cũng như Tây Phương. Vì vậy, Thánh Công Ðồng muốn mở
rộng quyền đồng tế trong những trường hợp sau đây:
6*
1 - a) ngày Thứ Năm Tuần Thánh, Lễ Dầu cũng
như Lễ Chiều;
b) các Thánh Lễ trong các Công Ðồng, các
Hội Nghị Giám Mục và các Hội Ðồng;
c) Thánh Lễ tôn chức Ðan Viện Phụ.
2 - Ngoài ra Ðấng Bản Quyền còn phải cứu
xét có nên đồng tế hay không mà ban phép cho những trường hợp
sau đây:
a) Thánh Lễ tu hội và Thánh Lễ chính trong
các nhà thờ, khi lợi ích các Kitô hữu không đòi buộc mọi Linh
Mục hiện diện cử hành riêng biệt;
b) các Thánh Lễ trong những cuộc hội họp,
thuộc bất cứ loại nào, của các linh mục triều cũng như dòng.
(2) 1-
Việc ấn định qui luật đồng tế trong địa phận thuộc quyền các
Giám Mục.
2- Tuy nhiên mỗi linh mục vẫn có quyền cử
hành lễ riêng trừ khi cùng một lúc trong cùng một nhà thờ, và
ngày Thứ Năm Tuần Thánh.
58. Soạn thảo một
nghi lễ đồng tế.
Phải soạn thảo một nghi lễ mới về đồng tế, và phải sát nhập vào
Sách Nghi Lễ Giám Mục và Sách Lễ Roma.
Chú Thích:
1
Xem T. Augustinô, In Joannis Evangelium Traetatus XXVI, ch. VI,
số 13: PL 35, 1613.
2
Breviarium Romanum, Lễ Mình Thánh Chúa Kitô, Kinh Chiều II, tiền
xướng Kinh Magnificat.
3
Xem T. Cyrillô Alex., Commentarium in Joannis Evangelium, cuốn
XI, ch. XI-XII: PG 74, 557-565, nhất là 564-565.
4
Xem 1Tm 2,1-2.
4*
Việc giáo dân cùng cầu nguyện cho Giáo Hội, cho chính quyền và
cho "tất cả mọi người" (1Tm 2,1), là một truyền thống có từ thời
các Tông Ðồ và các Giáo Phụ đầu tiên (x. Documentation
Catholique số 1445 (4-1965), cột 597). Vào cuối thời Trung Cổ,
lời nguyện đó biến mất dần dần, lý do có lẽ vì đã có lời nguyện
tương tự trong phần Lễ Quy với những kinh "memento" cầu cho
người còn sống và đã qua đời.
5
Khóa XXI, 16-7-1562. Doctrina de Communione sub utraque specie
et parvulorum, ch. 1-3, kh. 1-3: Concilium Tridentinum, nhà x.b.
đã trích, bộ VIII, 698-699.
5*
Việc rước lễ dưới hai hình đã bị bãi bỏ trong nghi lễ Roma vào
cuối thế kỷ XII. Từ đó về sau chỉ một mình chủ tế mới được đặc
ân rước lễ hai hình thôi. Lý do thay đổi có lẽ như sau: 1) Lý do
thực tế là giáo hữu ngày một đông nên việc cho rước lễ hai hình
gặp nhiều bất tiện và phiền phức (Công Ðồng Constance có nêu ra
một vài "nguy hiểm và gương xấu": DS 1200). 2) Lý do thứ hai là
dựa và điều Giáo Hội minh xác về việc Chúa hiện diện thực sự ở
một trong hai hình (rước lễ một trong hai hình là rước lấy "Chúa
Kitô toàn diện").
Công Ðồng Constance năm
1415 đã lên án Wyclef và các đồ đệ chủ trương sai lầm rằng mọi
tín hữu cần phải rước lễ dưới hai hình (DS 1198-1200). Công Ðồng
Trentô cũng tái xác nhận lập trường đó nhân dịp chống lại phái
Tin Lành (DS 1729 và 1733).
Ở đây Công Ðồng Vaticanô
II, với thái độ thận trọng, vừa duy trì giáo lý Công Ðồng Trentô
vừa mở ra một lối đi mới, hợp lý và thực tiễn.
6*
Ðồng tế với Giám Mục (dưới nhiều cách khác nhau) cũng như giữa
các linh mục với nhau đã thịnh hành từ thời các Thánh Giáo Phụ.
Lễ nghi này nói lên quan niệm sâu xa về đặt tính hợp nhất giữa
chức Linh Mục và phép Thánh Thể. Thánh Inhaxiô thành Antiokia
(chết năm 107), đã diễn tả rõ ràng quan niệm này bằng câu nói
sau đây: "Chỉ có một Phép Thánh Thể..., một bàn thờ, cũng như
chỉ có một Giám Mục với Linh mục đoàn và các thày phó tế của
Ngài" (Thư gởi cho giáo dân Philadelphia, 4: PG 5,700).
Giáo Hội Ðông Phương vẫn còn duy trì truyền
thống tốt đẹp này. Trong khi đó Giáo Hội Tây Phương chỉ còn thực
hành trong Thánh Lễ phong chức Giám Mục và Linh Mục thôi.
Do đó, Công Ðồng Vaticanô II muốn làm sống
lại thói quen tốt lành và đầy ý nghĩa tượng trưng này. |
VỀ MỤC LỤC |
|
“BÀI ĐẠI GIẢNG VỀ
LÒNG KHIÊM HẠ” ĐÃ KHUẤT !
|
Sinh - tử là
quy luật có từ muôn thuở, đã là người khi cất tiếng khóc chào
đời thì đến một ngày nào đó cũng phải trở về Nguồn Cội. Trong
dòng chảy quy luật ấy, sáng Chúa nhật 22 tháng 2, Đức Cố Hồng Y
Phaolô Maria đã trở về với Nguồn Cội của Ngài, Ngài trở về với
Đấng Khiêm Hạ trên mọi người khiêm hạ, Ngài trở về với Đấng Hiền
Lành trên mọi kẻ hiền lành trong cuộc đời này.
Lược qua tiểu
sử của Đức Cố Hồng Y Phaolô Maria, mọi người sẽ chẳng tìm thấy
chỗ nào ghi lại những “chiếc công hiển hách”, những mảnh bằng
“tổ quốc ghi công” hay được nhận danh hiệu “giáo sĩ yêu nước”
như ai nào đó đã được nhận. Ta cũng chẳng thấy ghi lại là Đức Cố
Hồng Y xây được bao nhiêu cái nhà thờ, bao nhiêu cái đền, bao
nhiêu cái đài. Đọc kỹ tiểu sử của Đức Cố Hồng Y mọi người sẽ
thấy sao mà nó lại giống với dáng hình nhỏ bé khiêm hạ của Ngài.
Tiểu sử của Ngài nó đi với Ngài như hình với bóng vậy, hình như
nó gắn liền với cuộc đời nhỏ bé của cụ già đáng kính. Đức Cố
Hồng Y cũng chẳng để lại tập bài giảng hùng hồn, thuyết phục cho
hậu thế như những vị khác đã để lại.
Nhìn cuộc đời
của Ngài, một lần nữa ta lại xác tín với nhau rằng Thiên Chúa có
cách của Ngài, Thiên Chúa dùng những cây bút chì nhỏ bé trong
lòng bàn tay của Ngài để vẽ nên bức tranh tuyệt vời về Đức Khiêm
Hạ. Thiên Chúa dùng mỗi người mỗi cách, mỗi người mỗi vẻ theo
Thánh Ý của Ngài. Có người, Thiên Chúa dùng trong khả năng hùng
biện, tài giảng thuyết để mời gọi mọi người theo Chúa. Có người,
Thiên Chúa dùng trong khả năng hoạt động xã hội lo cho những
người nghèo khó tất bạt. Với Đức Cố Hồng Y Phạm Đình Tụng, Thiên
Chúa lại dùng sự khiêm hạ của Đức Cố để biểu lộ tình thương của
Ngài cho mọi người.
Trong vườn
hoa nhà Chúa, có những bông hoa khoe sắc bởi những thành công
này, những chiến thắng nọ bỗng dưng lại có một bông hoa nhỏ bé
khiêm hạ nằm cạnh những bông hoa to lớn khác. Bông hoa nhỏ bé
khiêm hạ Hồng Y Phaolô Maria Phạm Đình Tụng đã tô điểm cho những
bông hoa rực rỡ khác bằng lối sống nhỏ bé của mình.
Trong bối
cảnh lịch sử của xã hội miền Bắc, có quá nhiều biến động, dưới
con mắt của người đời, Thiên Chúa phải dùng một con người năng
động và mạnh mẽ. Thế nhưng, ngược lại với con mắt của người đời
ấy, Thiên Chúa dùng một con người nhỏ bé, khiêm hạ. Mà Thiên
Chúa của chúng ta cũng “kỳ cục”, Thiên Chúa ấy hết sức “lạ lùng”
từ ngàn xưa, đó là Thiên Chúa luôn thực thi quyền năng của Ngài
trong những con người khiêm hạ. Thiên Chúa đã dùng những con
người nhỏ bé để biểu lộ tình thương và quyền năng của Ngài. Như
ngày xưa Thiên Chúa đã dùng Đavít để chiến thắng với một Goliát
hùng mạnh thì ngày nay Thiên Chúa cũng dùng một Phaolô Maria nhỏ
bé để sống, để làm chứng trước chủ nghĩa vô thần.
Nhắc đến đây,
tôi lại nhớ đến một linh mục đàn anh. Cũng vì hoàn cảnh đất
nước. Linh mục ấy được gửi từ miền Nam ra miền Bắc và sau đó
Ngài được chịu chức chính thức. Sau “vụ án phong chức” ấy, vài
vị có chức kháo láo với nhau rằng : “Không bao giờ có ông … thứ
hai !”. Cũng đúng thôi, không bao giờ có ông … thứ hai thì Chúa
lại dùng nhiều ông khác nữa !
Sau ngày lãnh
sứ vụ linh mục, vị “linh mục bất đắc dĩ” của Dòng Chúa Cứu Thế ở
miền Bắc ấy sống trong dòng chảy biết bao nhiêu khó khăn cùng
với Cha già cố Giuse Vũ Ngọc Bích và Đức Cố Hồng Y Phạm Đình
Tụng thân yêu. Chắc có lẽ “bắt mạch” được lối sống của Cha già
cố Giuse Bích và Đức Cố Hồng Y nên chăng vị “linh mục bất đắc
dĩ” ấy đã sống một đời sống nhỏ bé, khiêm hạ của Ngài giữa lòng
Giáo miền Bắc đầy khó khăn thử thách.
Vị “linh mục
bất đắc dĩ” ấy có thân hình nho nhỏ như Cha già cố Giuse, như
Đức Cố Hồng Y Tụng. Vui nhất là không chỉ giống thể xác, thân
hình mà còn giống cả cái lối sống khiêm hạ. “Linh mục bất đắc
dĩ” của Dòng Chúa Cứu Thế ấy chẳng vung tay vung chân mỗi lần ra
toà giảng, cũng chẳng để lại những tập sách để đời nhưng cuộc
đời của “linh mục bất đắc dĩ” ấy cũng là một bài giảng sống động
cho nhiều người.
Người đời vẫn
tìm kiếm những gì là bề ngoài, những gì là hoành tráng còn Thiên
Chúa thì ngược lại. Thiên Chúa vẫn tìm đến những gì là nhỏ bé,
khiêm hạ.
Một linh mục
đàn anh trong Dòng khi nhắc đến vị “linh mục bất đắc dĩ” này nói
với tôi : “Anh chẳng thua Cha … gì ngoài đức khiêm nhường !”.
Câu nói ấy
nghe sao mà kinh quá ! Quả thật, người ta vẫn đi tìm những điều
gì đó là hoành tráng bên ngoài, là đình đám bề nổi để được người
đời tôn kính, xông hương. Thế nhưng, trong dòng chảy của cuộc
đời nhiều người tìm cái vẻ bên ngoài ấy vẫn có những con người
lội ngược dòng chảy bình thường ấy để tìm sự nhỏ bé, khiêm hạ và
sống cái sự nhỏ bé khiêm hạ ấy trong cuộc đời mình.
Phải nói là
đức khiêm nhường sao mà nó khó học thật. Đâu có đơn giản để mặc
lấy đức khiêm nhường nơi Đức Hồng Y, như Cha già cố Giuse Vũ
Ngọc Bích, như vị “linh mục bất đắc dĩ” kia … Phải có ơn Chúa và
sự cố gắng của mình mới học và sống được bài học khiêm hạ của
Thầy Chí Thánh Giêsu. Nó khó học vì lẽ phần đông trong cuộc đời
mình luôn luôn muốn khẳng định vị thế, vai trò của mình trong
cái cõi tạm này. Lẽ ra người ta đi tìm vị thế, vai trò của mình
trong Cõi Hằng Sống đàng này họ lại đi tìm những thứ phù vân.
Đức Cố Hồng Y
Phaolô Maria cũng vậy, trong cái dòng chảy của vinh quang của
người đời, Ngài phải nhận lấy sứ mạng là Tổng Giám Mục, là Giám
đốc Chủng Viện, là tước Hồng Y đấy nhưng trong sâu thẳm lòng
mình, Ngài vẫn sống cuộc đời nhỏ bé, đơn sơ.
Những ngày
này, Đức Cố Hồng Y đang nằm giữa Nhà Thờ Lớn Hà Nội, được nhiều
và rất nhiều phái đoàn kính viếng, tiễn biệt.
Với tâm tình
con thảo và biết ơn vị cha già kính yêu của Giáo Hội nên con cái
của Giáo Hội từ Bắc chí Nam đã cố làm những gì có thể được để tỏ
lòng kính mến ấy nhưng thật tâm, tôi trộm nghĩ Đức Cố Hồng Y
cũng chẳng bao giờ mong mình được người ta làm long trọng như
vậy vì vốn dĩ cả đời Ngài sống trong nhỏ bé, trong khiêm hạ.
Nhìn lại cuộc
đời của Đức Cố Hồng Y, có lẽ điểm son mà mọi người nhận ra đó là
bài học về sự nhỏ bé, về lòng khiêm hạ. Và bài học sống động
nhất Ngài để lại cho hậu thế chính là bài học này.
Đâu cần phải
đi Tây đi U mới có được bài học nhỏ bé này. Đâu cần phải có
nhiều bằng nhiều cấp mới có bài học khiêm hạ này. Chưa chắc có
nhiều bằng Thạc sĩ, Tấn sĩ lại học và sống được bài học mà Đức
Cố Hồng Y Phaolô Maria đã sống.
Ngài đã khuất
bóng, sự khuất bóng của Ngài để lại cho chúng ta nhiều bài học
nhưng bài học quan trọng nhất, ý nghĩa nhất, đặc biệt nhất chính
là bài học về lòng khiêm hạ. học về lòng khiêm hạ xem ra đơn
giản ấy vậy mà đôi khi cả đời cũng khó có thể hoàn tất. Bài học
về lòng khiêm hạ nơi Đức Cố Hồng Y xem ra đơn giản ấy vậy mà các
đấng các bậc có bằng Tấn sĩ, Thạc sĩ chưa chắc đã học xong. Bài
Tạ ơn Chúa,
cảm ơn Đức Cố Hồng Y vì lẽ Thiên Chúa, qua con người nhỏ bé, đơn
sơ khiêm hạ của Đức Cố Hồng Y, Thiên Chúa đã vẽ nên bức hoạ
tuyệt tác về sự khiêm nhường. Xin Chúa qua lời chuyển cầu của
Đức Cố Hồng Y giúp cho mỗi người chúng ta ngày mỗi ngày học và
sống bài học khiêm hạ mà Đức Cố Hồng Y đã học nơi Chúa Giêsu và
đã sống như Chúa Giêsu.
Lm. Anmai, C.Ss.R. |
VỀ MỤC LỤC |
|
CHÚA GIẾ SU CÓ THỰC
SỰ CHẾT NHƯ GIÁO HỘI DẠY HAY KHÔNG ?
|
Hỏi :
nhân Mùa Chay sắp đến, xin cha giải thích hai câu hỏi quan trọng
sau đây :
1- Chúa
Giêsu có thực sự chết như Giáo Hội vẫn dạy hay không, vì có
một Giám mục kia đả nói: “Chúa Giê su đâu có chết. Đó chỉ là
cách nói cho có vẻ bi thảm mà thôi”!
2- Những
người sinh ra và chết trước khi Chúa Giếsu ra đời và hòan tất
công cuộc cứu chuộc - thì tất cả ở đâu và khi nào mới được vào
Thiên Đàng ?
Trả lời:
1. Về câu hỏi thứ
nhất, tôi không tin có
một Giám mục hay Linh mục Công giáo nào lại dám nói như vậy Có
chăng chỉ có những vị ở bên ngoài Giáo Hội Công Giáo hay Chính
Thống Giáo mà thôi (Eastern Orthodox Churches). Được biết, các
gíáo phái ngoài Công Giáo như Anh giáo (Anglican) Methodist,
Lutheran, Epíscopal, Baptíst..v.v.. .đều có chức giám mục (có
cả nữ giám mục nữa !) nhưng họ không thuộc truyến thống Tông Đồ
(Apostolic succession) như các Giám mục trong Giáo Hội Công
Giáo, và cũng không hiệp thông, vâng phục Giám Mục Roma, tức
Đức Giáo Hòang là Thủ lãnh Giám mục Đòan (Head of College of
Bíshops) và là Chủ Chăn tối cao của Giáo Hội hòan vũ. (Supreme
Pastor of The Universal Catholic Church)
Vì thế , có thể có những “giám mục “ ngoài
Công Giáo đã dạy dỗ sai lầm hay mâu thuẫn với các Giám mục Công
Giáo, hiệp thông với Đức Thánh Cha trong sứ vụ rao giảng Phúc Âm
, bảo vệ chân lý, và đức tin công giáo tinh tuyền.
Trong niềm tin của Giáo Hội, dựa trên Kinh
Thánh, Thánh Truyền ( Tradition) và mặc khải (revelation) thì
Chúa Giê su là” Thiên Chúa thật, đồng bản tính với Chúa Cha
và Chúa Thánh Thần” ( Kinh Tin Kinh Nicene). Nhưng Ngài củng
lá CON NGƯỜI thật, được Đức Trinh nữ Maria sinh ra với
quyền năng của Chúa Thánh Thần. Như thế, Chúa Giêsu có hai bản
tính không hề tách biệt nhau : đó lá Thiên Tính và nhân tính. (
divine and human nature) Ngài chính là “ Ngôi Lời đã trở
nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. ( Jn 1:14.)
Nhưng tại sao Chúa Giêsu phải chịu chết
trên thập giá năm xưa, một sự kiên kich sử mà không ai có thể
chối cãi đựoc ?
Vậy Chúa có thực chết hay “giả vờ” chết
để bi thảm hóa sự viêc như có ai đã nói ?
Để trả lời câu hỏi này, trước hết, chúng ta
cần nhớ lại rằng sự chết là hậu quả đương nhiên của tội lỗi mà
con người mắc phạm như Thiên Chúa đã nói với Adam và Eva “ ..ngày
nào ngươi ăn, (trái cấm) chấc chắn ngươi sẽ phải chết.”
( St 2:17)
Thánh Phaolô cũng giải thích thêm như sau
về nguyên nhân gây ra sự chết cho con người : “Vì một
người duy nhất mà tội lỗi đã xâm
nhập trần gian, và tội lỗi gây nên sự chết ; như thế, sự chết
đã lan tràn tới mọi người, bởi vì mọi người đã phạm tội”(Rm
5:12)
Như thế ,mọi người phải chết vì đó là hậu
quả của tội lỗi. Không ai có thể tránh được hậu quả này trừ
Chúa Giêsu và Mẹ Maria, tuy mang thân xác con người nhưng không
hề vướng mấc tội tổ tông và mọi tội khác. Nhưng Chúa Giêsu đã
chết trong thân xác con người của Chúa không phải vì hậu quả của
tội lỗi , vì Chúa hòan toàn vô tội Người vô tội, nhưng đã tự
hiến chịu chết thay cho kẻ tội lỗi như Thánh Phaolô đả nói rõ
như sau Thiên Chúa đã sai chính Con mình đến mang thân xác
giống như thân xác tội lỗi của chúng ta để đèn tội chúng
ta. Thiên Chúa đã lên án tội trong thân xác Con mình..” (Rm
8:3)
Đó là tất cả ly do vì sao Chúa Giê su đã
vui lòng vác thập giá , chịu mọi cực hình để cuối cùng i “
đã phải nếm sự chết là để cho mọi người được cứu độ nhờ ơn Thiên
Chúa”( Dt 2:9). Chính Chúa Giêsu cũng đã xác nhận
điều này trong Sách Khải Huyền( Revelation) như sau : “
Ta là Đấng Hằng Sống. Ta đã chết và nay Ta sống muôn đời muôn
thuở, và Ta giữ chìa khóa của Tử thần và Âm phủ “ Kh1:18)
Như thế rõ rệt là Chúa Giế su đã thực sự
chết trong thân xác nhân loại của Ngài qua bằng chứng Kinh thánh
nêu trên và giáo lý sau đây của Giáo Hội:
“Cái chết của Chúa Giêsu đã là một cái
chết thực sự chấm dứt sự sống con người trần thế của Ngài.
Nhưng vì sự hiệp nhất của thân xác Ngài với ngôi vị của Chúa
Con, nên thân xác đó đả không trở thành một tử thi như những cái
xác khác “ vì thần lực của Chúa đã tránh cho thân xác Chúa Kitô
khỏi bị thối nát” (Th. Toma, S.th 3,51,3). ( x.SGLGHCG số
627)
Chính vì thân xác của Chúa không bị hư nát
qua sự chết như mọi xác con người nên ngày thứ nhất trong tuần
khi các phụ nữ đến viếng Mộ Chúa, “ họ thấy tảng đá đã lăn
ra khỏi mố. Nhưng khi bước vào, họ không thấy thi hái của Chúa
đâu cả” ( Mt 24:3)
. Họ không thấy xác Chúa vì Ngài đã sống
lại trong một thân xác sáng láng tốt lành khác thường đến nỗi
Maria Mac da la không nhận ra Chúa khi Người hiện ra, đứng bên
cạnh bà, đang khóc vì tưởng ai đã lấy trộm xác Chúa.( Ga:
20:11-14)
Tóm lại,, với Thiên tinh và địa vị là
Thiên Chúa Ngôi Hai thì Chúa Giêsu không thể chết được. Nhưng
với bản tinh nhân lọai và quả thực mang thân xác con người , thi
Ngài đã thực sự chết thay cho nhân loại tội lỗi trên thập giá
năm xưa như Kinh Thánh
Tân Ước đã ghi chép..Kinh Thánh còn cho biết thêm là sau
khi linh hồn Ngài lìa khỏi xác, Chúa Giêsu đã xuống nơi gọi là
“ Nguc Tổ Tông, hay Âm phủ” để rao giảng cho các vong
linh bị giam cầm” ở đó.( 1 Pr 3;19)
Các vong linh ở đây chính là linh hồn của
những người lành thánh đã chết trước khi Chúa Cứu Thế Giêsu ra
đời. Họ chưa được vào Thiên Đàng ngay vì Chúa Kitô chưa hòan tất
công cuộc cứu chuộc của Ngài. Vì thế ,sau khi Chúa hòan tất qua
Hy Tế thập giá, Ngài đã xuống nơi đây để loan báo Tin Mừng cứu
độ cho họ và dẫn đưa họ vào Thiên Quốc hưởng vinh phúc đời đời
vơi Thiên Chúa.
Về điểm này , Giáo lý của Giáo Hội cũng dạy
rõ như sau:
“ Tân ước đã nhiều lần khẳng định rằng
Chúa Giêsu “ đã phục sinh từ cõi những người chết”( Cv 3,45; Rm
6,11; 1Cr 15,20). Điều này giả thiết rằng, trước khi sống lại,
Ngài đã ở trong cõi những người chết (She’ol=Hades=Abode of
the deadl). Đó là ý nghĩa đầu tiên trong những lời giảng dạy của
các tông đồ về việc Chúa Giêsu đã xuống âm phủ , (tức nơi cư
ngụ của những người lành đã chết từ bao đời trước đó.).Chúa Giê
su đã chết như mọi người, và linh hồn của Ngài đã liên kết với
họ tại cõi người chết này.Nhưng Ngài xuống đó với tư cách là
Chúa Cứu Thế đến công bố Tin Mừng cho những vong linh đang bị
giam cần ở đây.’’. ( x.SGLGHCG, số 632; 1Pr 3: 18- 19) .
2- Về câu hỏi thứ
hai, xin được trả lời như sau :
Trước hết , cẳn cứ và lời Chúa trong những
câu Kinh Thánh sau đây :
a- “Chỉ
có một Thiên Chúa
Chỉ có một Đấng trung gian
Giữa Thiên Chúa và lòai người
Đó là một con người, Đức Kitô Giê
su
Đấng đã tự hiến làm giá chuộc mọi người
( 1Tm 2:5-6)
b- “ Ngòai Người ( Chúa Giế su) ra,
không ai đem lại ơn cứu độ; vì dưới gầm trời này,
không có một danh nào khác đã được ban
cho nhân lọai, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ.”
( Cv 4: 12)
Như thế có nghìa là tất cả những ai đã được
cứu rỗi và muốn được cứu rỗi thì đều phải nhờ công nghiệp cứu
chuộc của Chúa Kitô-Giê su, vì chỉ môt mình Ngài là Đấng trung
gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người trong việc mang lại
ơn cứu độ này mà thôi..Nói rõ hơn, những ai đã sinh ra và
chết đi trước khi Chúa Cứu Thế Giêsu sinh ra và hòan tất công
cuộc cứu chuộc nhân lọai của Ngài qua Hy Tế thập giá, thì đều
phải nhờ công ơn cứu chuộc vô giá này để được vào hưởng Thánh
Nhan Thiên Chúa trên Thiên Đàng. Điều này cũng áp dụng cho tất
cả những ai sinh ra và chết đi sau Chùa Giê su và cho đến mãn
thời gian, tức là cho đến tận thế. Tất cả đều phải nhờ Danh Chúa
Kitô và công nghiệp cứu chuộc của Ngài để đựoc cứu độ.
Đó là chân lý đã được mạc khải cho chúng ta
qua những câu kinh thánh trích trên đây.
Riêng trường hợp những người không được
biết Chúa Kitô, không được chịu phép rửa và không biết gì về
Phúc Âm của Chúa không vì lỗi của họ ; nghĩa là họ không có
cơ may đuơc biết Chúa vì không có ai loan báo TiN Mừng cứu độ
cho họ.Thí dụ, trường hợp cha ông chúng ta sinh ra và chết đi
trước khi Đạo thánh Chúa được rao giảng ở Việt Nam vào đầu thế
kỷ 16, thì dĩ nhiên họ không được biết Chúa và nghe Phúc Âm
của Ngài. Nhưng đó không phải vì lỗi của họ. Tuy nhiên, nếu họ
vẫn cố gắng sống theo tiếng nói của lương tâm và trong thâm
sâu, ước mong tìm Chân lý tức là tìm gặp Chúa thì họ cũng có
thể được cứu rỗi nhờ công nghiệp Chúa Kitô. ( x SGLGHCG, số
847, Lumen Gentium số 16), .vì “ Thiên Chúa, Đấng cứu
độ chúng ta, muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân
lý” ( 1 Tm 2 :4)
Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn |
VỀ MỤC LỤC |
|
HỌC LÀM NGƯỜI VÀ HỌC LÀM
CON CHÚA.
|
Khi tạo dựng vũ
trụ, Thiên Chúa đã dựng lên con người và cho con người làm chủ
muôn loài vạn vật. Nhưng so sánh với nhiều sinh vật khác, con
người lại thua kém về mọi mặt giác quan. Tai nghe không bằng con
dơi. Mắt nhìn thì thua con cú. Chân chạy thì kém xa con báo cả
ngàn lần. Còn nếu so sánh về sức mạnh với con voi, con trâu, con
bò …thì con người đáng muôn ngàn lần thất vọng . Và khi đứng
trước biển cả hoặc núi non rừng rậm, con người thấy mình bé nhỏ
vô nghĩa như mất hút trong thiên nhiên đến nỗi Thánh vịnh đã
phải kêu lên rằng :
“Lạy Chúa !
con người có là chi, mà Chúa cần biết đến ? Phàm nhân đáng là
gì, mà Chúa phải bận tâm ? ( Tv 144,3 )”
Con người thật yếu
đuối, nhưng chiều kích của nó lại vô cùng vĩ đại cao cả vì là
con của Thượng đế chí tôn, được có Cha là Đấng Sáng tạo, lại
được phép gọi Ngài là Abba, là Cha một cách thân thương gần gũi.
Những điều này nếu chỉ nói qua môi miệng thì không ấn tượng bao
nhiêu, nhưng ngay cả những khi chìm trong suy niệm, cũng không
mấy ai có thể hình dung để hiểu đủ và biết hết, vì đó là một
điều huyền nhiệm, do đó, chỉ còn biết rưng rưng cảm tạ với lòng
biết ơn sâu lắng.
“Thiên Chúa
đã yêu thương con người đến nỗi, đã sai Con Một của Ngài đến thế
gian,
để nhờ Con Một của Người mà chúng
ta được sống. ( 1 Ga 4,9 )”.
Thiên Chúa yêu
thương đến như si tình con người, Đức Giê su rất nhiều lần đã tự
xưng mình là CON NGƯỜI. Yêu thương cũng là tôn trọng, tôn trọng
đối tượng mà mình yêu mến. Đấng Sáng Tạo tôn trọng tự do của
loài thọ tạo. Phúc lộc và danh dự bắt đầu từ đây, nhưng thảm
kịch và bất hạnh cũng khởi đầu từ đây. Vì lịch sử con người cũng
là lịch sử của những bất trung, của tình yêu trắc trở đầy tính
phản bội từ phía con người đối với Thiên Chúa.
Nhân là người. Nhân
cũng là nhân nghĩa, là lòng nhân ái, cũng là tình yêu thương.
Khi tạo dựng con người, Chúa đã gieo những hạt mầm yêu thương
trong lòng con người, Ngài mong mỏi những hạt mầm ấy sẽ trưởng
thành và ngày một đâm rễ và đơm hoa kết trái để trở thành những
con người từ ái mang hình ảnh Thiên Chúa tình yêu. Cái mầm kia
lớn lên hay chết yểu đều do mỗi người toàn quyền quyết định, đó
là vinh dự lớn lao song cũng là trách nhiệm hết sức nặng nề.
Vì như thế, cần
phải học, rất cần phải thực hành những bài học làm người, vì làm
con Chúa là gì, nếu không phải là làm người
đích thực theo gương Đức Giêsu ?
Đọc Lời Chúa để tìm
biết Ý Chúa. Ý Chúa đã được thực hiện từ thuở đời đời và luôn
thể hiện qua mọi cảnh sống và được diễn tả bằng muôn ngàn cách
khác nhau. Ta hãy nghe ý Chúa qua một cảnh sống đầy ý nghĩa dưới
đây :
*
1.- Đại
sư Tinh
Vân có một người đệ tử, sau khi tốt nghiệp đại học, liền học
Thạc sĩ, rồi lại theo học Tiến sĩ. Sau nhiều năm, cuối cùng cũng
đã hoàn thành luận án tiến sĩ nên vô cùng vui mừng.
Một hôm người đồ đệ
này trở về và thưa với ngài Tinh Vân rằng : “Bạch Sư Phụ nay con
đã có học vị Tiến sĩ rồi, sau này con cần phải học thêm những gì
nữa không ? ” Ngài Tinh Vân đáp : “Học Làm Người”, học làm người
là việc học suốt đời chẳng thể nào tốt nghiệp được.
Ngài Tinh Vân cho
rằng, bất luận là sĩ nông công thương, người ở tầng lớp nào có
học tập là có tiến bộ, nay xin cùng chia sẻ với mọi người về
những điều cần phải học .
Thứ
Nhất, “Học nhận Lỗi”.
Con người thường không chịu nhận lỗi lầm về phần mình, tất cả
mọi lỗi lầm đều dễ đổ lỗi cho hoàn cảnh hoặc người khác, và
thường cho rằng bản thân mình mới đúng, đang khi đó, thật ra
không biết chính mình là một lỗi lầm rất lớn. Đối tượng mà mình
nhận lỗi có thể là cha mẹ, là bạn bè và mọi người trong xã hội,
thậm chí, nhận lỗi với cả con cái hoặc là người không tốt đối
với mình, nhận lỗi như vậy bản thân chẳng mất mát gì, ngược lại
còn thể hiện được sự độ lượng của bản thân. Học nhận lỗi là một
điều rất tốt, là sự tu tập lớn lao nhưng cũng là điều khó thực
hiện nhất.
Thứ
Nhì, “Học Nhu Hòa”. Răng
người ta rất cứng, lưỡi người ta lại mềm, nhưng sống chưa hết
cuộc đời thì răng lại rụng hết, nhưng lưỡi thì vẫn còn nguyên,
cho nên cần phải học mềm mỏng, học nhu hòa thì đời con người ta
mới có thể tồn tại theo quy luật tự nhiên. Tâm nhu hòa là kết
quả và là một tiến bộ lớn trong việc tu tập. Những người cố chấp
thì tấm lòng của họ, tính cách của họ rất lạnh, rất cứng y như
một miếng sắt vậy. Nếu chúng ta có thể điều hòa hơi thở, điều
hòa thân tâm, dần dần điều phục cái Tâm như ngựa hoang, như vượn
chuyền cành này khiến cho nó nhu hòa mềm mại, thì cuộc sống mới
vui tươi, sinh động và ích lợi hơn biết mấy.
Thứ
Ba, “Học Nhẫn Nhục”.
Thế gian này nếu nhẫn được một chút thì sóng yên biển lặng, lùi
một bước thì biển rộng trời cao. Nhẫn, vạn sự được tiêu trừ.
Nhẫn chính là biết xử sự, biết hóa giải, biết dùng trí tuệ và
năng lực làm cho chuyện lớn hóa thành nhỏ, chuyện nhỏ hóa thành
không. Các vị muốn sinh tồn, muốn sống an bình, thì cần phải
biết nhẫn, để có thể hiểu rõ những đúng sai, thiện ác, tốt xấu
của thế gian, thậm chí đôi khi còn phải chấp nhận nó.
Thứ
Tư, “Học Thấu Hiểu”.
Thấu hiểu lẫn nhau sẽ bớt hẳn nảy sinh những thị phi, tranh
chấp, hiểu lầm. Mọi người nên thấu hiểu thông cảm lẫn nhau, để
giúp đỡ lẫn nhau. Không thông cảm lẫn nhau làm sao có thể sống
hòa bình cho được?
Thứ Năm, “Học Buông
Bỏ”. Cuộc
đời như một chiếc va li, lúc cần dùng thì xách lên, không cần
dùng nữa thì đặt nó xuống. Lúc cần đặt xuống lại không đặt
xuống, cũng như kéo một túi hành lý nặng nề không tự tại chút
nào cả. Năm tháng cuộc đời có hạn, nhận lỗi, tôn trọng, bao
dung, mới làm cho người ta biết chấp nhận mình, biết buông bỏ
thì mới có thể an nhiên tự tại được.
Thứ
Sáu, “Học Cảm Động”.
Nhìn thấy ưu điểm hoặc thành công của người khác chúng ta nên
hoan hỷ, nhìn thấy điều không may của người khác nên cảm động.
Cảm động là cái tâm thương yêu, tâm bồ tát, tâm bồ đề. Trong
cuộc đời mấy mươi năm của tôi, có rất nhiều câu chuyện, nhiều
lời nói làm tôi cảm động, cho nên tôi cũng rất nỗ lực tìm cách
làm cho người khác cảm động.
Thứ
Bảy, “Học Sinh Tồn”.
Để sinh tồn chúng ta phải duy trì bảo vệ và rèn luyện tập tành
để thân thể được khỏe mạnh. Thân thể khỏe mạnh không những có
lợi cho bản thân, mà còn làm cho gia đình bạn bè yên tâm, đó
cũng là hành vi hiếu đễ và biết ơn đối với mọi người mà không
cần phải dùng đến lời nói .
2.- Bảy
điều Đại sư Tinh Vân muốn đệ tử của mình phải học để làm người,
cách nói tuy có khác, nhưng nội dung không xa lắm với bài ca Đức
Mến mà Thánh Phao lô đã dạy :
Đức mến
tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất
cả. Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu,
không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc. ( 1 Co 13, 4 -7
)
Thánh nữ
Têrêsa còn nhấn mạnh hơn nữa : Rất cần phải học yêu thương. Yêu
thương cũng phải tập tành, phải rèn luyện qua từng ngày
sống….Không ai chỉ cần yêu thương một lần là đủ cho suốt cả đời.
Xem như thế,
để được làm người đúng nghĩa chưa bao giờ là chuyện dễ dàng. Và
để trở nên con Chúa một cách đích thực cũng không hề là điều đơn
giản. Vì thế, không thể ảo tưởng để tự ru ngủ mình bằng một lối
sống đạo dẽ dãi hình thức và đầy tính ồn ào trình diễn. Quả
thật, Đức Giêsu chưa bao giờ hứa hẹn con đường theo Ngài là
những con đường trải toàn thảm đỏ với những hoa hông, nhưng Ngài
đã thẳng thắn và quyết liệt nói rằng :
“ Ai muốn
theo tôi, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mỗi ngày, theo tôi
”.
Rất mạnh mẽ.
Thật dứt khoát và không thể hiểu lầm.
Mỗi lần nhớ
lại những lời nói ấy, ai cũng thấy lòng mình như có sóng dậy,
những con sóng dễ chịu và cả những con sóng hết sức khó chịu khổ
đau. Vì nội tâm của ta luôn là một bãi chiến trường giữa 2 thế
lực lớn là CON và NGƯỜI, ở nơi đó, ta không được phép đứng ngoài
như một khán giả đi xem đá bóng. Trong những cuộc chiến ấy, ta
phải nhập cuộc và tham dự một cách tích cực, vì nó sẽ là chính
ta, trong CON VẬT. Nó cũng sẽ là chính ta, trong CON NGƯỜI sau
những cuộc xung đột đã diễn ra ở nội tâm mình. Ta là CON hoặc là
NGƯỜI đều tùy thuộc vào kết quả sau cùng những đấu tranh nội tâm
ấy.
Vì con đường
từ bỏ mình chính là con đường tự lột xác, mà sự lột xác nào lại
không gây ra nhiều đớn đau và cả những xốn xang nghi ngại. Từ bỏ
mình cũng chính là những lựa chọn, mà lựa chọn nào không để lại
ít nhiều di chứng là những thương tích vì mệt mỏi và mất mát
tiếc nuối ?
Phải học làm
người. Phải tập tành rèn luyện để làm con Chúa.
Chẳng ai học
một lần là đủ. Cũng không có ai chỉ cần tập tành vài lần mà
thành. Điều đơn giản ấy thì ai cũng biết, đó là những việc phải
liên lỷ thực hiện cho đến hết cuộc đời. Đó là một thách đố khó
thể vượt qua ? hoặc là những đòi hỏi gắt gao quá sức mỗi người ?
Có thể như vậy, nhưng rất có thể, sẽ không là như vậy.
Vì thật may
mắn, Thiên Chúa tình yêu không xem xét những thành quả việc làm
cho bằng muốn thấy thiện chí và niềm tin của mỗi chúng ta. Đó
cũng là tâm tình và lời cầu nguyện như được gối đầu giường của
chị Thánh Têrêsa Hài đồng :
Lạy Chúa !
khi đời con đã về chiều, con sẽ ra trình diện trước nhan Chúa
với hai bàn tay trắng.
Xin Chúa đừng
tính đếm những việc con làm, vì những việc tốt lành nhất của con
cũng đều mang tỳ vết trước mặt Chúa.
Nhưng xin
Chúa hãy lấy Sự Công chính của Ngài để mặc cho con làm áo, và
xin Chúa cho con được lãnh nhận chính Ngài làm gia nghiệp đời
đời.
Những lời
nguyện ấy đã được Chị Thánh kiên trì dâng lên từ hơn 100 năm
trước, và hôm nay, chúng con vẫn muốn không có gì cần phải đổi
thay. Amen.
Xuân Thái. |
VỀ MỤC LỤC |
|
HẠNH NGỘ MÙA
CHAY, VỚI CHÚA VÀ VỚI NHAU |
Quý độc giả
Ephata và Giáo Sĩ Việt Nam thân mến,
Chúng tôi vừa
ra đến Hà Nội để chuẩn bị đi giúp Tuần Đại Phúc tại Giáo Phận
Bắc Ninh, một cha trong cộng đoàn nhờ chia sẻ với anh chị em
Giáo Dân Thái Hà về đề tài Gia Đình. Chả là vì trong Năm Thánh
của DCCT Thái Hà, cứ đến thứ sáu trước Thánh Lễ tối, lại có một
đề tài học hỏi cho Năm Giáo Dục Gia Đình Kitô giáo được rút ra
trong Thư Mục Vụ của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam. Lần này chúng
tôi được giao đề tài: “Gia đình là môi trường giáo dục sự Hiệp
Nhất”.
Trong bầu khí
khởi động vào Mùa Chay, nhập đề buổi nói chuyện tại Nhà Thờ Thái
Hà tối thứ sáu 27.2.2009, chúng tôi đã kể cho mọi người nghe một
chuyện mới xảy ra hôm trước ở buổi Tĩnh Tâm kết thúc khoá học
Bảo Vệ Sự Sống tại Sài - gòn, có một anh đã quỳ xuống chân thành
thú nhận trước mặt Chúa và anh chị em cùng khoá một sự thật đau
lòng đẫm nước mắt sám hối.
Nhiều năm
trước, khi anh còn là sinh viên, anh đã trót đưa người bạn gái
đi phá thai. Anh cứ ngỡ bào thai mới 3, 4 tuần tuổi chỉ là một
giọt máu tý tẹo, chưa ra hình dáng con người thì chưa phải là
con của mình. Anh lại còn hăng say nhiệt tình tham gia các chiến
dịch Mùa Hè Xanh của sinh viên, đi các vùng quê xa và sâu, tuyên
truyền vận động người ta triệt sản, uống thuốc ngừa thai, đặt
vòng tránh thai. Bao nhiêu thành tích lẫy lùng, bao nhiêu danh
hiệu tuyên dương thì bây giờ là bấy nhiêu ân hận xót xa.
Cùng với nhiều
bạn học viên khoá BVSS khác, anh đã quỳ gối cúi đầu xin chúng
tôi trao ban Bí Tích Hoà Giải. Chúng tôi còn dặn rằng, sau khi
xin lỗi Chúa, còn cần phải giao hoà, phải xin lỗi chính đứa con
mình đã từ chối không để cho bé có cơ hội được chào đời.
Tan cuộc, đến
khuya chúng tôi nhận được Mail “nóng hổi” của anh bạn trẻ ấy.
Anh tâm sự rằng về nhà, anh đã ngồi một mình thầm thĩ cầu
nguyện, anh tin anh đã được Chúa soi sáng cho cảm nhận được đứa
con bé bỏng từ mười năm trước ấy là một bé trai nên anh đặt tên
con là An Phong Uy Nguyên.
Rồi anh đã nhỏ
nhẹ nói chuyện với chính đứa con của mình. Anh bảo anh đã khóc
mà xin lỗi bé. Đọc Mail thật dài của anh, chúng tôi hình dung
cảnh một người cha cao lớn tiến tới, khom mình xuống, ôm chầm
lấy con của mình, không phải như người cha tha thứ cho đứa con
hoang đàng trở về trong Tin Mừng Luca chương 15, nhưng phải đảo
ngược lại, như người cha tội lỗi đến nài xin đứa con bé bỏng tha
thứ cho mình, hãy chấp nhận mình là cha của nó, hãy bập bẹ kêu
lên với mình một tiếng: Ba !
Ngay lúc đó,
bản thân chúng tôi thật sự đã xúc động đến ứa nước mắt mà ngộ
được rằng: cái ôm chầm ấy, lời xin lỗi ấy, sự giải hoà thân
thương ấy chính là hình ảnh biểu trưng cho sự Hiệp Nhất trong
gia đình: cha mẹ và con cái với nhau, vợ chồng với nhau, anh chị
em ruột thịt với nhau. Hiệp Nhất là thuộc tính của Gia Đình
Thiên Chúa, nhưng Ngài lại muốn san sẻ với con người. Ngài trao
sự Hiệp Nhất như của hồi môn cho con cái đi lấy chồng lấy vợ,
như gia bảo kế thừa cho Gia Đình Nhân Loại. Tiếc là con người cứ
đánh rơi, đánh mất dần những “nén vàng” vốn liếng quý giá ấy
giữa chợ đời cay nghiệt này.
May mà Hội
Thánh còn “nghĩ” ra, còn “sáng tạo”, còn mở được một sinh lộ,
một con đường giải thoát cho mọi người, đó là Mùa Chay hằng năm
! Nhờ vậy, sau khi sự Hiệp Nhất bị xảy đàn tan nghé, tung toé
tang thương bởi những bạo hành, bạo lực, ngoại tình, ly thân, ly
dị, ngừa thai, phá thai, bất hiếu, bất nghĩa, tranh đoạt gia
tài, kiện cáo, vu khống, phản bội..., thì con người vẫn còn cơ
may tìm lại được sự Hiệp Nhất khi “metanoia”, sám hối và hoán
cải, hồi đầu, quy hướng về phía Thiên Chúa, xin Ngài thứ tha,
lại cũng nhìn vào mắt nhau mà xin tha thứ cho nhau.
Đã có một Tin
Mừng Luca chương 15 ngày xưa về “Người con Hoang Đàng”, cũng lại
có biết bao nhiêu những bản Tin Mừng hao hao như thế cho mọi
thời, cho ngày nay của chúng ta, về “Người cha tội lỗi”, về
“Người mẹ lỡ lầm”, về những “Người con bị từ khước”, hết sức
sống động và cụ thể, bằng xương bằng thịt, có cả máu và nước
mắt.
Trở lại buổi
trò chuyện với anh chị em tại Thái Hà, kết thúc, chúng tôi có đề
nghị một việc thực hành cụ thể trong Mùa Chay này, có thể làm
ngay, mà thật sự, nên làm ngay đi, đừng chần chừ, đừng khất lần
khất lữa: tối nay, sau khi từ Nhà Thờ về nhà, cha mẹ vợ chồng
con cái làm ngay một việc, đó là cùng thoả thuận, cùng quyết
định, đến đúng 21g chẳng hạn, tắt phụt luôn cái Tivi đi, cho dẫu
đang là giờ vàng, cho dẫu VTV3 bắt đầu phim “Những người độc
thân vui vẻ” hấp dẫn đến đâu đi nữa.
Thế là thôi
không dán mắt vào màn ảnh truyền hình, thôi không để cho thế
gian nó tuyên truyền, nó tiêm nhiễm vào đầu óc cả gia đình, nhất
là những đứa trẻ con của chúng ta những kiểu cách suy nghĩ và
sống vô đạo vô thần, mà thay vào đó, cùng nhau hướng mắt nhìn
lên bàn thờ, cùng Mẹ Maria dâng lên Thiên Chúa một Kinh Lạy Cha,
10 Kinh Kính Mừng và 1 Kinh Sáng Danh. Đọc ít thế thôi, đọc
nhiều thêm nữa là bọn trẻ trong nhà nó khiếp, nó ngán. Phần này
hết khoảng 5 phút.
Kinh hạt xong,
một người trong nhà đại diện đứng lên đọc một đoạn Lời Chúa,
hoặc chỉ cần 1, 2 câu Tin Mừng thôi cũng được, ví dụ: “Hỡi những
ai vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng Thầy, Thầy sẽ cho nghỉ
ngơi bồi dưỡng...” ( Mt 11, 28 ), hay “Người khoẻ mạnh không cần
thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Thầy không đến để kêu gọi
người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn” (
Mt 9, 12 – 13 ). Phần này chỉ hết khoảng 2 đến 3 phút.
Nghe Lời Chúa
xong, thinh lặng một chút, rồi người chủ gia đình – nhiều phần
là ông bố – có thể diễn giải đôi câu cho vợ con hiểu thêm Ý
Chúa, lại mời gọi từng người trong nhà dâng lên Chúa một lời cầu
nguyện thật đơn sơ chân thành, gói ghém mọi nỗi vui buồn sướng
khổ trong cuộc sống, thành công và thất bại, nụ cười và nước
mắt. Ví dụ: “Chúa ơi, hôm nay gia đình con vui quá, chồng con
vừa tìm được việc làm sau mấy tháng bị thất nghiệp. Chúng con
cám ơn Chúa !” – “Lạy Chúa, xin cứu chữa cho cậu em vợ nhà con
vừa bị tai nạn xe đang nằm cấp cứu ở bệnh viện” – “Kính thưa
Chúa, xin tạ ơn Chúa hôm nay bác sĩ vừa báo cho nhà con biết bào
thai trong bụng được 5 tháng là một bé gái” – “Chúa ơi, con là
út trong nhà, con biết con hư lắm, con xin lỗi Chúa, xin Chúa
tha thứ con”... Phần này có thể mất thêm 7 phút.
Gặp gỡ Thiên
Chúa rồi, lời giảng dạy của Ngài đẩy ta đến phần gặp gỡ nhau. Có
Chúa chứng giám, chồng xin lỗi vợ, vợ cám ơn chồng, bố mẹ nhắn
nhủ con, con thật thà hứa với bố mẹ một điều tốt đẹp tử tế.
Người Việt mình nhiều khi những lúc êm ấm hạnh phúc lại cứ e
ngại, xấu hổ, ít dám bộc bạch tâm tình bên trong, đâm ra bỏ lỡ
những cơ hội giải hoà, những dịp để tỏ lộ trìu mến yêu dấu lẫn
nhau. Thế mà khi nóng giận lại mắng chửi nhau, cãi nhau chẳng nể
nang kiêng cữ gì mới lạ ! Vậy thì chúng tôi xin mọi người hãy
thử một lần nhìn nhau mỉm cười, xiết tay nhau, xoa đầu, nói một
lời ân cần âu yếm, bất ngờ chồng ôm lấy vợ, vợ ôm lấy chồng, con
cái ôm chầm lấy bố mẹ mình, nước mắt tràn ra, tha thứ hết, quên
hết mọi lỗi lầm, chẳng cần nói gì thêm cũng hiểu từ nay tương
quan trong gia đình sẽ khác đi, đổi mới và hạnh phúc bình an...
Đấy mới chính
là phần đỉnh cao của kinh nguyện buổi tối một gia đình. Trước là
lắng nghe Chúa nói, sau là đáp lại với Ngài, đôi bên tìm nhau,
đối diện nhau, trò chuyện thân tình mộc mạc. Tiếp theo là với ơn
Chúa tác động thúc bách, con người gặp gỡ nhau, giao hoà trọn
vẹn. Chúng tôi xin mượn một cách nói của Nhà Phật, đó là “Hạnh
Ngộ”, nghĩa là một cuộc gặp gỡ trong hạnh phúc sâu xa giữa đôi
bên, Thiên Chúa với con người, con người với con người. Đâu có
khó khăn gì, đâu có mất thì giờ chi đâu, phần này cao lắm chỉ
hết thêm 5 phút nữa.
Kết thúc, người
chủ sự dùng công thức của Hội Thánh – lâu nay cứ nghĩ chỉ có các
cha mới được phép cử hành – chúc lành cho cả nhà: “Xin Thiên
Chúa toàn năng, là Chúa Cha, và Chúa Con, và Chúa Thánh Thần,
ban phúc lành cho gia đình chúng ta – Amen”. Chưa đầy 1 phút mà
hiệu quả ơn Thiên Chúa đổ xuống cho gia đình là vô hạn, vô cùng
!
Như vậy, tổng
cộng một buổi kinh nguyện gia đình như chúng tôi đề nghị chỉ mất
tròm trèm 15 phút, có chậm một chút cũng chỉ hết 20 phút. Thế mà
chúng ta cứ nghiệm mà xem, cứ thử làm mà xem, áp dụng ngay trong
gia đình mình thì sẽ thấy mình lần hồi giải quyết được bao nhiêu
là vấn nạn, hàn gắn được những điều tưởng như đã đổ vỡ tuyệt
vọng, và sau đó chắc chắn là mở ra cả một bầu khí mới, một nếp
sống mới cho mọi người. Mà nếu như lại xuất hiện những nghịch
cảnh éo le, những tai biến nguy khốn, những bất hoà xung đột, cả
nhà như thể đã được tiêm chủng một liều vaccin ân sủng của Chúa
để vượt qua thử thách, để lại càng xác tín vào Chúa, để lại càng
yêu thương gắn bó, hiệp nhất với nhau hơn...
Chiều nay, khi
chuẩn bị rời Hà Nội đi Bắc Ninh, đứng đợi xe trong sân Giáo Xứ
Thái Hà, một chị trung niên nhìn thấy chúng tôi, chạy đến nắm
tay chúng tôi cám ơn rối rít. Chị bảo: “Cha ơi, hôm qua nghe cha
giảng xong, về nhà, không ngờ ông xã con lại là người mở lời
trước hết, đề nghị mấy mẹ con chúng con cùng làm một buổi kinh
nguyện như cha hướng dẫn. Thưa cha, tuyệt vời quá, vì đối với
gia đình con, thế đã là một phép lạ rồi đấy ạ !”
Lm. LÊ QUANG
UY, DCCT, Bắc Ninh tối thứ bảy 28.2.2009 |
VỀ MỤC LỤC |
|
LẮNG NGHE
|
Hầu hết chúng ta quen với câu chuyện tiếu
lâm về đứa trẻ hỏi mẹ: “Mẹ, con đến từ đâu?” Bà mẹ cho một loạt
cắt nghĩa dài dòng về những con vật. “Con biết những điều đó
rồi. Điều mà con muốn biết là con đến từ đâu?” Bà mẹ cắt nghĩa
sâu xa hơn về việc sinh những đứa bé. Cậu bé vẫn không thõa mãn.
“Mẹ, anh Quang đến từ Vũng Tàu. Anh Bình đến từ Đà Lạt. Còn con
đến từ đâu?”
Đây là một
phần của những thành kiến tổng quát của chúng ta về con trẻ.
Chúng ta thường nghĩ rằng chúng ta biết điều chúng muốn nói mà
không thật sự chịu lắng nghe chúng. Chúng ta để miệng chúng ta
luôn bận rộn đến nỗi chúng ta không còn giờ để nghe những điều
đến từ miệng chúng. Nhiều người trong chúng ta hoàn toàn thích
thú một cuốn sách phổ thông hoặc một chương trình tivi đặt nền
tảng trên sự khôn ngoan bình dị của những đứa trẻ. Vì thế, không
cần thiết phải đi ra ngoài, ở trong nhà với con trẻ cũng đủ vui.
Điều chúng ta cần làm là Lắng Nghe!
Sĩ Hùng 6
tuổi giúp bố xếp những chiếc va li vào trong xe, chuẩn bị cho
những ngày đi nghỉ của gia đình. Còn một cái va li nhỏ không xếp
được nữa. “Bố ơi, lấy cái gối ngồi của mẹ ra và để nó ở phía
sau.” Ông bố phớt lờ lời đề nghị của nó, xếp lại những chiếc va
li nhưng vô ích. Ông bố mệt phờ, đi vào nhà uống ly nước. Cậu bé
lấy chiếc gối ra. Khi ông bố trở lại, ông ngạc nhiên thấy chiếc
va li nhỏ được xếp gọn gàng trong xe.
Ông bố không
chịu lắng nghe trong lúc lời đề nghị của đứa trẻ rõ ràng là có
lý. Con trẻ chúng ta rất nhạy bén với việc thu xếp tình hình.
Chúng có những lối giải quyết thông minh để đề nghị. Chúng có
một cái nhìn khác mà chúng ta có thể dùng cho lợi ích chúng ta.
Một ông bố
dẫn 5 đứa con đến để tìm sự giúp đỡ chuyên môn về vấn đề hướng
dẫn gia đình. Sau khi ông trình bày vấn đề, một sự phân tích rõ
ràng về tình trạng của gia đình ông, đưa đến một lời đề nghị cụ
thể để giải quyết vấn đề. Bấy giờ, người bố được yêu cầu đi ra
ngoài, và 5 đứa con được mời vào. Vị bác sĩ tâm lý hỏi chúng:
đâu là lý do có sự xung đột, và chúng cắt nghĩa rất là rõ ràng.
Chúng được hỏi cái gì nên được làm để giải quyết vấn đề xung
khắc đó. Chúng đã làm một đề nghị giống như vị bác sĩ tâm lý đã
đề nghị.
Ông bố có thể
tiết kiệm được số tiền và thời giờ đi đến tham khảo với vị bác
sĩ tâm lý nếu ông đã nghĩ đến việc lắng nghe những đứa con ông.
Rất nhiều lần, con cái chúng ta biết điều chúng ta làm là sai.
Nhưng chúng ta vẫn có cảm tưởng rằng chỉ chúng ta mới có quyền
nói cho chúng biết điều chúng đang làm là sai. Sự tự cao tự đại
của chúng ta ngăn cản chúng ta lắng nghe chúng. Thật ích lợi cho
chúng ta biết bao nếu chúng ta biết lợi dụng sự nhạy cảm của
chúng và biết đối xử với chúng một cách kính trọng trong việc
lắng nghe tiếng nói của con cái chúng ta.
Cậu bé Long
và hai cô bé Liên, Lan đang cãi nhau về việc chọn chương trình
ti vi. Long thích coi phim cao bồi trong khi hai cô gái thích
xem hài kịch. Cuối cùng thì bà mẹ xem ra kiệt sức: “Long ơi, mẹ
đau và mệt mỏi lắm rồi. Con vào phòng con đi.” “Tại sao lại cứ
luôn luôn nhắm đến con?” cu Long hét lên. “Không cãi lại, rời
khỏi đây ngay,” bà mẹ ra lệnh.
Bà mẹ nên
lắng nghe cậu bé. Nó hỏi một câu rất chí lý: “Tại sao cứ nhắm nó
thôi?” Vì bà rơi vào bẩy đã sắp sẵn bỡi 2 cô bé để làm rắc rối
cậu bé. Nếu bà mẹ biết lắng nghe cậu bé, bà có thể khám phá ra
cách thế mà chính bà đã giúp cho cuộc chiến cứ kéo dài liên
tục.
Cậu Minh
Chính 9 tuổi, đang chơi với con chó của nó trong phòng xem tivi
dẫu điều đó bị cấm nhặt. Cậu bé và con chó lăn đụng chiếc bàn,
làm ngã cái đèn, và bóng đèn bị vỡ. Bà mẹ giận dữ từ ngoài chạy
vào, mắng cho một trận, và kết luận với câu: “Chiều nay, con
không được đi bơi.” Cậu bé đáp lại ngay: “Chẳng sao cả.”
Cậu bé lo lắm
chứ. Nhưng cái tự ái của nó không để nó chấp nhận điều đó. Câu
trả lời của nó là một nối dài của sự bất tuân phục đã được tỏ lộ
và đã đánh bại bà mẹ.
Nhiều lần
chúng ta cần phải lắng nghe ý tưởng đàng sau những lời nói đứa
trẻ dùng. “Chẳng sao cả” thật sự muốn nói rằng: “ngay cả hình
phạt cũng không thể khuất phục được tôi.” Khi một đứa trẻ hét,
có nghĩa là: “con ghét mẹ. Con không thích như thế một khi con
không có đường lối riêng của con”. Khi nó hỏi một loạt tại sao,
nó muốn nói: “hãy chú ý tôi”.
Văn Sĩ 10
tuổi, ngồi bên cạnh bạn nó là Phúc trong chiếc xe buýt chở học
sinh của nhà trường. Bác tài xế lắng nghe đoạn đối thoại của
chúng như sau:
- Sĩ, hôm qua
sao mầy không đi học?
- Tao không
muốn đi học. Vì thế, tao định trong đầu là đau. Và tao đau thật.
- Mầy đau làm
sao?
- Đau bao tử.
- Tại sao?
- Tao không
muốn đi ra ngoài trong cái lạnh nầy. Sáng nay tao cảm thấy giống
như vậy. Nhưng mẹ tao đã canh lại nhiệt độ trong nhà quá nóng.
Tao không muốn phải chịu thêm một ngày nữa trong nhà như vậy.
Thoạt đầu, tao định trong đầu là đau, nhưng rồi tao thay đổi.
Tao đã phải vội vã để bắt kịp xe buýt. Tao đã không có bữa ăn
sáng vì tao vẫn còn cảm thấy đau.
Con trẻ rất
thành thật với nhau. Tuy nhiên, chúng ít cho chúng ta có dịp để
nghe chúng. Chúng ta thường nói một loạt về điều chúng ta nghe
đến nỗi khiến chúng phải ý tứ hơn. Bác tài xế thì lắng tai nghe.
Ông học được rằng con trẻ có thể tự làm mình đau để tránh điều
chúng không thích. Ông cũng học được một cái gì về ý nghĩa của
sự bình đẳng giữa các con trẻ. Cậu bé Phúc chấp nhận cậu Văn Sĩ
và chấp nhận điều mà nó đã làm như một phần của cuộc sống. Nó
không mở miệng dạy đời bạn nó.
Mỗi bà mẹ nên
học phân biệt ý nghĩa của âm thanh trong tiếng than khóc của con
trẻ. Nếu không có gì hơn là những âm thanh được tiếp tục, bà
phải biết khi nào nó chán và khi nào nó giận. Mỗi người chúng ta
đều có khả năng nầy, nhưng dường như chúng ta bỏ nó qua một bên
khi con cái đã lớn. Chúng ta nghe tiếng thét từ một đứa trẻ,
chúng ta vội lao mình cách nhanh chóng để xem cái gì xảy ra. Rất
nhiều lần chúng ta đã làm thế vì có tiếng thét. Nhưng nếu chúng
ta biết dừng lại và lắng nghe một chút, chúng ta có thể tránh
được một sự đáp trả phục vụ cho mục đích sai lầm của đứa trẻ.
Nếu chúng ta biết lắng nghe, chúng ta đã gặt hái được biết bao
nhiêu điều tốt đẹp!
Lm. Lê văn
Quảng, tiến sĩ tâm lý |
VỀ MỤC LỤC |
|
ĂN CHAY
|
Thành ngữ
Việt Nam mình có câu: "Học ăn học nói học gói học mở" để khẳng
định tầm quan trọng của việc phải cần học hỏi: dù ngay với cả
những hành vi hoặc công việc làm rất đổi bình thường và quen
thuộc trong cuộc sống thường nhật của mỗi người như ăn, nói, gói
mở...
Suy nghĩ về
lời dạy nầy, tôi thấy thật chí lý và càng suy nghĩ thì càng tâm
đắc.
Tôi tâm đắc
trước hết ở sự việc: cái học đầu tiên là "Học Ăn"! Vâng, "học
ăn" phải được đặt lên hàng đầu và là ưu tiên số một cho
mọi sự học hỏi của con người để con người mới có sự sống mà tồn
tại. Vì hãy quan sát một trẻ mới sinh xem? Trẻ mới sinh thì đâu
thể nói (nên chưa có nhu cầu "học nói"), cũng đâu thể làm (nên
càng chưa có nhu cầu "học gói học mở", nhưng cần phải được ăn để
sống (nên bé có nhu cầu "học ăn". Do đó phải tập cho bé biết
ngậm vú mẹ, rồi biết nút vú mẹ để bú lấy sữa mà sống; hoặc ngậm
vú cao su với bú be sữa để bé được sống, được lớn dần lên thì
càng phải được tiếp tục "học ăn" vì đời người không phải chỉ có
"sống để ăn" mà là "ăn để sống" và sống sao cho nên hay nên tốt.
Do đó cần phải "ăn coi nồi ngồi coi hướng" (tức biết ý tứ trông
trước ngó sau mà ăn cho ra người có tư cách, có lòng vị tha,
biết giữ sĩ diện, biết nghĩ đến người khác chớ không là tham lam
ham hố chỉ biết có mình và ăn cho mình được thỏa thì thôi), phải
"liệu cơm gắp mắm" (nên tùy gia cảnh mà lo liệu và biết kềm hãm,
để đừng bị tán gia bại sản hoặc mang công mắc nợ chỉ tại bởi...
ăn!); phải biết tiết độ vì "tham thực cực thân" (ăn lắm vào sẽ
dễ đổ ra lắm bệnh làm hại xác thân, hại luôn cả nhân phẩm và làm
u tối tâm hồn mình) với vì "ăn nhiều ị lớn
đống" (nên sẽ thối hoảng ra chớ tốt lành chi đó...)
Kế đến tôi
tâm đắc ở mối liên hệ nối kết của ba sự việc "ăn, nói, làm"
trong cuộc sống của mỗi đời người mà then chốt vẫn là vấn đề
"ăn" (nên ông bà xưa mới sắp xếp cho câu thành ngữ trên theo thứ
tự đó, chớ không là thứ tự nào khác). Vì nếu "ăn" mà chẳng có
nên hay nên tốt thì "nói" với "làm" sẽ lôi thôi ra và sẽ kéo
theo sự sống của cá nhân đó, tập thể đó thành tệ hại cho mình,
hiểm họa cho người! Bởi lẽ "ăn tục nói phét", "ăn gian nói dối",
"ăn dơ ở bẩn", "đói ăn vụng túng làm liều", "miếng ăn là
miếng tồi tàn. Mất ăn một miếng lộn gan lên đầu"... thành
thử nhân phẩm, đạo lý, tình người đâu còn nên sự tàn hại nhau
với chiến tranh, chết chóc là điều không thể tránh...
Nói chung do
bởi vậy mà ông bà xưa đã có cái nhìn đúc kết là "ăn dơ ở bẩn, ăn
ngay ở lành" và tôn giáo thì đặc biệt hướng con người ta "Ăn
Chay" để hãm mình, tu tâm sửa tánh, thanh tẩy tâm hồn, canh
tân đời sống...
Việc ăn chay
có sự khác nhau ít nhiều giữa các tôn giáo. Với đạo thờ cúng ông
bà và đạo Phật thì ăn chay tức là không ăn thịt, tôm, cá trứng
mà ăn rau quả và các thức làm từ các loại đậu (như nước tương,
tương, chao, đậu hủ... làm từ đậu nành)... Ngày ăn chay có thể
theo định kỳ mồng một ngày rằm mỗi tháng, hoặc một thời gian nào
đó hay suốt đời (nên gọi là "ăn chay trường"). Còn với đạo Chúa,
ăn chay là vừa kiêng thịt (nhưng ăn tôm, cá, trứng) với vừa ăn
ít đi (tức chỉ ăn hai bữa trong ngày là bữa trưa và bữa tối. Nếu
bữa trưa ăn no thì bữa tối ăn lưng lửng bụng và ngược lại. Giữa
hai bữa, tuyệt đối không ăn vặt). Tuy nhiên nếu đau yếu hoặc già
lão hay dưới 14 tuổi thì không nhất thiết phải giữ luật. Ngày ăn
chay thì một năm chỉ ăn có hai ngày là thứ Tư Lễ Tro (ngày mở
đầu mùa Chay) và thứ Sáu Tuần Thánh (kỷ niệm ngày Chúa Giêsu
chịu khổ nạn, chịu chết trên Thánh Giá).
Hễ "ăn" là
phải có "học", nên "ăn chay" lại càng phải "học" vì đây là lối
"ăn" đòi hỏi có sự khổ chế, khổ hạnh, lội ngược dòng...
để kềm lòng, luyện chí, tự kiểm soát bản thân đừng bị "miếng ăn
là miếng tồi tàn" với luôn cả "danh, lợi, thú" điều
khiển...
Xin chia sẻ
việc tôi ăn chay...
Tuổi con gái
mới lớn 12, 13 tôi đã từng ăn chay. Không nhớ tôi học ở đâu cách
ăn chay mà tôi ăn chay như thế nầy... Lúc khởi đầu, cứ hôm nào
tôi có vái ông Địa để xin điều chi đó thì tôi luôn cúng ông Địa
nải chuối xiêm và chỉ ăn chay một ngày hôm đó thôi. Không bao
giờ tôi ăn chay mà không có kèm theo vái ông Địa cúng nải chuối
để cầu xin một điều gì. Lại ăn chay mà tôi vẫn luôn có sát sanh
(như bẫy chuột khoét dừa, tát ao bắt cá... vì nhà ngoại tôi vườn
tược mênh mông, nhiều mương, nhiều ao nước cạn đầy tôm cá...)
bởi quanh tôi, người ta ăn chay vẫn hay làm thế... Lớn dần lên,
có khi tôi ăn chay liên tiếp ba ngày hoặc ngày rằm mồng một mỗi
tháng và vẫn luôn phải có van vái, cầu xin điều chi đó với Phật,
với Trời, các luôn cả ông Địa chứng nhận cho mình (giờ nghĩ lại,
đúng là tôi ăn chay để... hối lộ, để xin ơn... mà cả đạo thờ
cúng ông bà và đạo Phật đều đâu có dạy thế!!!)
Lập gia đình
được theo đạo Công Giáo, nhưng thỉnh thoảng tôi cũng có vái cúng
ông Địa nải chuối và ăn chay! Chẳng hiểu sau ông xã tôi, bố mẹ
chồng tôi chẳng có rầy dạy chi việc nầy (qua đến Mỹ, tôi vẫn
"ngựa quen đường cũ", thỉnh thoảng vẫn có vái cúng, nhất là cho
việc làm ăn trong tiệm vì cứ được các bạn làm bên lương "xúi"
vái cúng. Lại các bạn làm nầy lớn tuổi hơn nên tôi cũng muốn
chìu lòng! May được linh mục Giuse Phan Ngọc Tuyến của xứ Đồng
Phát - Đồng Nai chỉ bảo rằng: làm vậy mắc tội trọng vì phạm đến
Chúa Thánh Thần, nên tôi chừa hẳn). Suốt gần bốn năm sống với
nhà chồng, tôi nhớ có những ngày ăn kiêng thịt, chớ tôi không có
ăn chay (bố mẹ chồng tôi đạo đức lắm! Có thể cụ thấy tôi gầy gò
đau yếu quanh năm, vừa đi học vừa có con nhỏ... nên thương,
không dạy tôi giữ luật Chay chăng?). Khi tôi ra ở riêng và lúc
đi dạy, có một lần (không nhớ chính xác năm 1978 hay 1979) tôi
được em nữ sinh lớp mình chủ nhiệm cũ, nhủ khẽ:
- Cô ơi ngày
mai là thứ Tư Lễ Tro khởi đầu mùa Chay Thánh, luật đạo buộc ăn
chay, cô nhớ ăn chay nhen.
- Ôi! Có luật
buộc vậy sao?! Cô đâu hay biết chi! Vâng, cô sẽ ăn chay nhưng em
phải hướng dẫn cho cô được rõ vì cô mù tịt...
Thế là em chỉ
cho tôi biết cách ăn chay và giải thích ý nghĩa. Em còn nói sẽ
ăn chay thêm một ngày nữa vào Thứ Sáu Tuần Thánh và đến lúc ấy
em sẽ nhắc. Tôi đã quyết tâm phải ăn chay hôm ngày Thứ Tư Lễ Tro
đó và cũng có rủ được ông xã... Tôi nhớ rõ sáng hôm đó tôi nhịn
đói để đi dạy (dạy từ 6 giờ 45 đến 12 giờ 45). Tôi định trưa về
nhà thì ăn no và tối đến chỉ ăn lưng lửng bụng. Nhưng, hết tiết
dạy thứ năm (tức tiết cuối) tôi đang bước xuống mấy bực thang
lầu thì một em nữ sinh khác vốn mến thương tôi lắm (em hay đến
chơi nhà tôi, có khi ở lại ngủ đêm và thầy trò ấp ủ chuyện...
vượt biển), chạy theo giúi vào tay tôi mảnh giấy. Em viết chỉ
vỏn vẹn có hai dòng.
Dòng thứ
nhất:
"Cô ơi "Dân
đói kêu trời xao xác nhạn..."
Dòng thứ hai:
"Cô ơi "Ăn
mặn nói ngay ăn chay nói dối"
Tôi giật
mình: hóa ra em cũng biết việc tôi ăn chay?! Và vâng, chỉ có hai
dòng như thế, mà tôi khổ tâm lắm!
Dòng thứ nhất
em trích câu thơ với kèm theo ba chấm tức còn nữa! Đó là bài thơ
trước đấy tôi đã chứng dẫn để dạy cho các em về dòng văn học
chống Pháp của phong trào Cần Vương:
"Dân đói
kêu trời xao xác nhạn,
Quân gian
chật đất rộn ràng ong!
Chín lần
xa giá non sông cách
Bốn bể
nhân dân nước lửa lòng"
(hiện nay tôi
không nhớ được ai là tác giả, có thể tên bài thơ là "Tự Thán" và
của cụ Phan Đình Phùng chăng?)
Tôi hiểu em
muốn nhắc khéo mình, vì thực tế của những năm 1978-1979 đói kém
lắm! Ăn gạo hẩm, bo bo, ăn độn mì! Xã hội thì đầy dẫy những bất
công, tệ nạn... Trong khi sáng hôm đó tôi lại dạy về dòng văn
học hiện thực của Xã Hội Chủ Nghĩa với con người mới phấn khởi
lạc quan, chế độ mới tốt đẹp đang lên... Cho nên em trích tiếp
theo câu thành ngữ "Ăn mặn nói ngay ăn chay nói dối" làm tôi
thấy bị mỉa mai lắm! Như thể bị tạt gáo nước lạnh vào mặt cho
việc mình ăn chay!... Bởi thế, tôi đã hủy bỏ việc ăn chay đầy ý
nghĩa mà lần đầu tiên mình ý thức được và toan thực hiện trong
đời!
Sau nầy sống
ở Mỹ, tôi cũng vẫn mặc cảm mình có dối có gian chớ chẳng tốt
lành gì (có ai hành nghề tự do mà "sạch" được hoàn toàn đâu, dù
rằng chỉ có "ôm" cái tiệm húi tóc dũa móng tay!) nên cứ
Thứ Tư Lễ Tro và Thứ Sáu Tuần Thánh hàng năm, tôi thiên về kiêng
thịt hơn là ăn chay. Chỉ có kể từ mùa Chay năm 2006, tôi mới dứt
khoát quyết định ăn chay hai ngày: Thứ Tư Lễ Tro và Thứ Sáu Tuần
Thánh (tất nhiên mặc cảm mình chẳng tốt lành chi ở tôi vẫn còn,
nhưng đã đến lúc tôi thấy phải ăn chay. Tôi ăn chay do lòng yêu
mến Giáo Hội nên muốn làm theo lời dạy của Giáo Hội: bảo ăn chay
hai ngày ấy trong Mùa Chay Thánh thì tôi cứ thanh thản vâng theo
vậy. Như con cái vâng lời cha mẹ vì yêu thương kính trọng cha mẹ
và cũng là để tỏ lòng hiếu thảo...). Sang đầu năm 2007, nhân đọc
cuốn Kinh Thánh Trọn Bộ Cựu Ước và Tân Ước" tôi bắt gặp lời nầy:
Ngày ăn chay các ngươi vẫn lo kiếm lợi, vẫn áp bức mọi kẻ
làm công cho mình, các ngươi ăn chay để mà đôi co cãi vã, để nắm
tay đánh đấm thật bạo tàn (I - sai - a 58: 3, 4) nên thấy nhẹ cả
lòng và thoát hẳn mặc cảm. Vì hiểu cái lỗi vấp phạm đáng
tởm nhất trong ngày ăn chay để Chúa phải cảnh báo và quở trách:
chung quy vẫn là lỗi đức Ái và sự Khiêm nhường! Chớ cái lỗi
không có nói thật nói ngay mà làm như vô tâm không biết hoặc dối
dối giấu giấu để mình được yên thân (như lúc còn ở Việt Nam đi
dạy) và cho mình cho người cũng được yên thân (trong chuyện làm
ăn sinh sống bên nầy) thì chưa thấy Chúa... lên danh sách! Cho
nên tôi thấy được... lên tinh thần! Kể từ mùa Chay năm 2007 tôi
hay có ăn chay thêm vào ngày thứ Sáu trong tuần và song song với
việc ăn chay, tôi luôn cố gắng thực hành theo lời Chúa dạy:
"Cách
ăn chay mà Ta ưa thích chẳng phải là thế nầy sao: mở xiềng xích
bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc, trả tự do cho người bị áp bức,
đập tan mọi gông cùm. Chẳng phải là chia cơm cho người đói, rước
vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ, thấy ai mình trần
thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt làm ngơ trước anh em cốt
nhục? (I - sai - a 58 : 6, 7). Tức
trong mọi chuyện, tôi gắng phải đặt đức Ái làm đầu để đừng lỗi
luật yêu thương (không ỷ mình là mẹ để khó khăn, o ép con cái;
là chủ để xử hiếp với thợ thầy; là người phục vụ để đập đổ khách
hàng; biết chạnh thương trước những mảnh đời khốn khổ để nhường
cơm xẻ áo làm ấm lòng nhau)... Bước qua năm 2008 tôi phấn đấu ăn
chay mỗi thứ Tư và thứ Sáu hàng tuần nếu có thể (tức nếu không
bị ngăn trở bởi đám tiệc, khách khứa) và ăn chay theo lời Đức Mẹ
Mễ Du dạy là ăn bánh mì với nước lả nếu có thể (tức chủ yếu là
tấm lòng với ý thức hãm mình, nên nếu trong nhà hãy còn các đồ
ăn thừa của những ngày hôm trước thì tôi vẫn ăn lại đồ thừa ấy,
chứ không phí tiền mua bánh mì). Và tôi ăn chay thêm ngày như
thế vì nhớ lời Chúa dạy cho các môn đệ. Khi các Ngài thấy Chúa
trừ được quỷ cho em bé bị kinh phong. Các Ngài hỏi Chúa: "Tại
sao chúng con không thể trừ quỷ ấy được?" thì Chúa bảo:
"Thứ quỷ ấy chỉ bị xua trừ bằng lời cầu nguyện và việc ăn chay"
(Mt 17 : 19 - 20). Tôi tự biết mình có những thói tật
khó chừa như thể là những "thần dữ" đã "đóng đô" dai dẳng ở
trong mình cần phải xua trừ như thần chia trí (làm ăn, xem tivi,
nghe nhạc là tôi chú tâm lắm! Nhưng tham dự Thánh Lễ, đọc kinh
thì luôn bị chia trí!), thần nóng tánh, thần buồn chán bi quan
(dù nhất thời, tùy việc tùy lúc chứ không luôn luôn)... nên ăn
chay để mong đuổi được chúng xa khỏi mình... (và cũng để cầu
nguyện, xua trừ cho chồng con nữa vì cảm biết chồng con cũng có
bị "thần dữ" đóng đô...)
Trong việc ăn
chay, tôi có cái kinh nghiệm là thật dễ bị cám dỗ! Nhất là ăn
chay mỗi thứ Tư (để nhớ về Thứ Tư Lễ Tro, về kiếp người tro bụi,
phù du hầu đừng tham "danh, lợi, thú" mà tham sống bác ái, sống
cho đi...) với mỗi thứ Sáu hàng tuần (để nhớ về Thứ Sáu Tuần
Thánh Chúa chịu nạn chịu chết cho kẻ có tội là mình, để mình dễ
có sự khiêm nhường, tha thứ cho mọi người...) là hai ngày đầy ý
nghĩa nên càng bị cám dỗ kinh khủng! Tánh tôi bình thường không
hay thấy đói thấy thèm ăn và cũng không coi trọng vấn đề ăn
uống. Nhưng, cứ hễ ngày ăn chay mà ngày thứ Tư là y như rằng tôi
bị thấy đói, thấy thèm nên có hôm không nhịn được, sắp đến giờ
đi Lễ vẫn phải kiếm cái chi bỏ vào miệng, khiến tôi dù đi lễ mà
đâu thể lên rước Lễ! Tánh tôi bình thường cũng chẳng bắt lỗi ai
hoặc để bụng chuyện gì. Nhưng, cứ ngày ăn chay mà thứ Sáu thì
câu nói của chồng, của con, của bạn làm, của khách... chẳng hiểu
sao lại làm tôi bực và nổi nóng lên... rồi cự, rồi gây! Cho nên
nhiều hôm tôi phải xin với chồng, với bạn làm: nhớ giùm hôm nay
tôi ăn chay đấy! Để tranh thủ lòng thương: đừng đem thức ăn
"quyến rủ" mình hoặc nói năng "trên gan" mình... Cũng mừng là
mỗi một lần bị cám dỗ và trót vấp vào thì tôi rút kinh
nghiệm mà cảnh giác hơn, cảnh giác mãi và rút kinh nghiệm mãi...
hy vọng với thời gian, tôi sẽ được tiến bộ hơn...
Và đã "chay"
thì gắng "tịnh". Thành thử những ngày ăn chay dù bận công việc
làm, tôi vẫn tranh thủ thả bộ ra sân khi có giờ rảnh để vừa giữ
được miệng mồm đỡ phải nói năng sanh sự, vừa lần chuỗi hướng
lòng nên học được bao điều hay từ bao việc mình thấy trên những
bước mình đi. Nhất là tôi học được đức Ái và lòng biết ơn... Vì
thả bộ trong ngày ăn chay, tôi thích thả bộ phía mặt sau của khu
thương mại nơi tiệm tôi (cho có sự hãm mình, bởi toàn những
thùng rác!). Nhờ vậy, tôi phát hiện được khu vực thùng rác ở
ngay đàng sau tiệm tôi: số người đêm về cư ngụ ngày một tăng
(khu vực nầy có hai thùng rác thật to đặt trong vòng bờ tường
xây kín ba mặt, mặt trước là hai cửa lớn có 4 cánh để mở ra đóng
vào. Thoạt đầu, tôi phát hiện một nắp thùng rác được mở ra bắt
qua bờ tường làm thành cái mái che mưa và bên dưới dọn sạch sẽ
để đống chăn, gối! Dần dần tôi thấy nắp thùng rác còn lại cũng
được mở ra bắt qua bờ tường làm mái và bên dưới có thêm đống
chăn gối. Có lúc thấy có thêm cái lều ở khoảng trống bên trong
giữa hai thùng rác với có luôn chăn gối trong đấy! Có những đêm
mưa to, sáng sớm vô, tôi thấy các chăn mền đều bị ướt nhưng trên
cái nẹp dọc bờ tường thấy để chai ketchup, chai mustard mới
nguyên chắc mới khui ra ăn sáng... Trời đang mùa đông lạnh, cứ
nghĩ cảnh đêm về mình rúc trong chăn ấm nệm êm có cả "heat" để
sưởi mà còn thấy lạnh... nên tôi cảm đến thế nào cái giá rét
những người nầy phải chịu! (chưa bao giờ tôi được gặp họ, vì có
lẽ họ muốn tránh nên về ngủ quá khuya và ra đi từ lúc sáng sớm).
Cũng như cảm thế nào lời Chúa dạy "Không ngoảnh mặt làm ngơ
trước anh em cốt nhục..."! Vâng, họ là anh em cốt nhục mình vì
cùng bằng xương, thịt con người biết run rét trước giá lạnh và
hơn nữa còn cùng con chung của Cha trên trời... Tạ ơn Cha trên
trời gìn giữ mình vẫn còn có được gian nhà để ở nên để đáp lại
tình Cha, tôi khát khao phải chia sẻ và chia sẻ mãi... Buổi
chiều trước lúc đóng cửa tiệm và về và tham dự Thánh Lễ Giáng
Sinh, tôi với cô bạn làm đã xúc cảm mang quà ra để đấy mà cứ
mong quà được giữ qua đêm chớ đừng mở vội (tức có nghĩa là đêm
Giáng Sinh họ sẽ không về đấy, mà được về ngụ ở mái ấm nào...).
Nhưng, sáng hôm sau tôi tạt qua, thấy hộp chocolate mình biếu
được để lên cái nẹp dọc bờ tường, cái mền cô bạn biếu được xếp
ngay ngắn đặt bên góc tường... nên tôi lại thấy mừng vì chắc đêm
qua họ có cảm được đôi chút ấm lòng...
Bởi vậy đâu
phải bên nước Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa mới có cảnh: "Dân đói
kêu trời xao xác nhạn..." mà ngay cả ở xứ Mỹ tự do và giàu có
nầy... Nếu mỗi người chúng ta dù cuộc sống chỉ tạm có đấp
đổi qua ngày mà chịu hãm mình
"Chay Tịnh"
để chia sẻ cho nhau thì cũng được ấm lòng nhau ít nhiều vậy...
Hoàng Thị Đáo Tiệp |
VỀ MỤC LỤC |
|
TÔI MUỐN NHIỀU...
|
Tôi muốn
nhiều...trong Cánh đồng truyền giáo
Muốn sẻ chia
với bạn hữu xa gần
những người thân
cùng xóm ngõ, cận lân
Cùng với tôi
trên cánh đồng diệu vợi!
Là cánh đồng
Chúa vẫn thường mong đợi
Mời mọi người
vào đó để sẻ chia
Mang Tin Mừng đi
khắp mọi vùng quê
để mọi người trở
nên con của Chúa!
Mong muốn vậy và
đồng thời khấn hứa
Nhưng khi gặp,
tôi lại muốn giữ riêng
Tôi không ưng có
thêm những láng giềng
Những người cùng
với tôi một nhiệm vụ!
Rõ ràng là có
điều gì tôi sợ
Sợ những người
làm hại ảnh hưởng tôi
Họ hơn tôi, bởi
kinh nghiệm việc đời
Bởi giỏi dắn,
bởi tu hành đạo hạnh!
Có thêm bạn,
cuộc truyền đạt thật mạnh
Việc rao truyền
Chân Lỳ khởi sắc thêm
Bao con người
với sở học uyên thâm
muốn cùng tôi
đào sâu việc truyền giáo!
Nhưng than ơi!
Lòng tôi đầy giông bão!
Không muốn người
cùng tôi sẽ sẻ chia
Đường tôi đi
giống sa mạc về khuya
Chúa chịu hết
những gì tôi gây hoạ!
Bệnh ích kỷ, tự
cao thì sẽ hoá
nên những gì làm
ngăn chận Phúc Âm
- Lẽ ra con hoan
hỉ đón bạn thân
Nhưng con đã
lạnh lùng! Ôi lậy Chúa!
Phải làm sao?
Con làm sao đây Chúa?
Kể từ con nghe
tiếng Chúa thiết tha
Con quyết tâm xa
lánh bãi tha ma
Nó ngăn chận
những con đường Truyền giáo!
Xuân Vũ Trần
Đình Ngọc
(Lấy ý từ LM
Quoist)
|
VỀ MỤC LỤC |
|
BOOMERANG
|
Sau một tháng ở
Úc-đại-lợi, tôi trở lại Hoa Kì, hành trang là những tình cảm
thân thương, mà những người bạn cùng lí tưởng của tôi ở Úc châu
trao gửi một cách nồng nàn, thắm thiết. Tôi cũng đem về những
món quà kỉ niệm, người tặng đã gói ghém trong đó một mối chân
tình, khiến mỗi khi nhìn chúng, lòng tôi thấy nao nao.
Ngồi trên máy bay,
tôi mở tôi xách, lấy cái boomerang ra ngắm nghía. Cái boomerang
này, một người bạn tặng cho tôi. Khi nhận nó từ tay bạn, tôi
biết bạn muốn nói với tôi một điều gì. Chúng tôi đã nói chuyện
nhiều với nhau bằng lời, nhưng cũng có những điều chúng tôi nói
bằng cử chỉ, những điều ấy thường thâm trầm và nhiều ý nghĩa.
Boomerang là một
thanh gỗ dẹp, hình cong cong như cái lưỡi liềm, hai đầu được gọt
tròn. Hai mặt của boomerang, một mặt phẳng, còn mặt kia cạnh
được mài cong tròn. Phía bên mặt phẳng, ở một đầu tôi thấy vát
dẹp xuống, lúc đầu tôi tưởng cái boomerang này bị mẻ, nhưng nhìn
kĩ tôi mới biết là người ta cố ý làm như thế.
Trên thị trường có
nhiều loại boomerang lắm. Cái boomerang của tôi thuộc loạt đẹp,
nó màu nâu, được quang dầu bóng loáng, trên mặt có chữ Australia
và hình con kangaroo đang nhảy.
Boomerang nguyên
thủy là một đồ chơi, hay cũng là một khí giời săn thú rừng, của
thổ dân Úc châu. Cầm cái boomerang ở một đầu phía không vát, mặt
phẳng úp vào lòng bàn tay, hướng về chiều gió thổi, xoay một góc
khoảng 45 độ với bên phải của hướng gió, nâng boomerang cao
ngang vai phải và theo chiều thẳng đứng, nhẹ nhàng ném boomerang
về phía trước, nó sẽ bay là là theo một hình cung elip và quay
trở về với người ném ở phía bên trái. Khi ném boomerang, người
ta phải đứng tại một điểm, nhận định chiều gió và nhắm sẵn mục
tiêu mới có kết quả như ý. Để đạt được kết quả ấy, người ta phải
tập luyện nhiều lần. Gió mạnh hay gió nhẹ không phải là điều
kiện quan trọng, quan trọng là phải ném cho đúng cách .
Nhìn cái boomerang,
tôi hình dung đến những thổ dân Úc châu hiền lành chất phác, vào
một thời nào đó đã sống thanh thản ở lục địa này, chân đạp trên
mặt đất rậm rạp cây rừng, tai nghe tiếng chim kêu, gió rít, hòa
lẫn vôi tiếng sóng biển xa xa. Thời buổi huy hoàng đó, đối với
họ không còn nữa, nay họ trở thành người thiểu số, sống trong
những vùng nhất định, những vùng chưa bị làn sông văn minh kĩ
thuật tràn tới làm xáo trộn đời sống vốn an hòa của họ.
Nhưng tôi nghĩ nhiều
hơn đến điều mà bạn tôi muốn nhắn gửi qua cái boomerang.
Bạn muốn tôi dù đi, nhưng sẽ có ngày quay trở lại, như cái
boomerang tuy được ném đi xa, nhưng rồi cũng sẽ trở về với người
ném nó. Vâng, bạn ạ, tôi sẽ trở về. Từ khi tôi tìm thấy nơi Úc
châu những người bạn cùng ôm ấp một lí tưởng, vùng đất ấy đối
với tôi đã trở nên thân yêu, và trước sau rồi thế nào cũng có
ngày chúng ta gặp lại. Khi những trái tim đã gặp gỡ nhau, trong
nó có sự thôi thúc để trở lại cùng nhau.
Để có được một vòng
quay trở về, boomerang phải có một hình thức cấu tạo đặc biệt.
Hai mặt của nó không giống nhau, một mặt phẳng, một mặt cạnh
được mài cong. Tuy nhiên cả hai mặt tạo nên cái boomerang, thiếu
một mặt nào cũng là thiếu cả cái boomerang. Hai mặt cần đến
nhau, bổ túc cho nhau. Tôi và bạn cũng thế, chúng ta không giống
nhau dù chúng ta yêu thương nhau, nhưng nếu chúng ta cảm thấy
cần nhau, chúng ta biết lấy cái mình có, đắp đổi cho nhau cái
mình không có, chúng ta sẽ không rời được nhau. Và nếu có phải
ra đi, chúng ta vẫn tìm cách trở về . Ngay dù con người thể chất
có xa nhau, thì lí tưởng và trái tim chúng ta vẫn mãi mãi tìm
đến với nhau.
Tôi chú ý đến cái
chỗ boomerang bị gọt vát mà thoạt nhìn, tôi cứ tưởng là bị mẻ.
Chính cái chỗ bị gọt vát đó làm cho boomerang có sức xé gió, bay
đi và trở về. Có những cái thoạt nhìn cứ tưởng là khuyết điểm,
nhưng thật ra lại là điều cần thiết để đạt được mục đích. Trong
tình bạn, đôi khi tôi nhìn thấy nơi bạn những điểm không ưa.
Không ưa, có lẽ vì những điểm ấy không đúng với quan niệm, ý
nghĩ và sở thích của tôi. Nhưng biết đâu những điểm ấy lại là
mấu chốt giữ vững tình bạn của chúng tôi, để rồi, chính vì những
điểm đó, mỗi khi xa nhau, chúng tôi lại tìm cách trở về .
Rời lãnh vực tình
bạn để bước sang những lãnh vực khác rộng rãi hơn, tôi thấy
trong bất cứ một sự tụ hội, một sự liên kết nào, người ta cũng
cần bổ túc cho nhau và chấp nhận những khiếm khuyết nơi nhau.
Nhờ thế, sự tụ hội, liên kết mới tồn tại lâu dài. Thiếu bổ túc
và chấp nhận, cuối cùng tổ chức nào cũng tan rã, mà đã tan rã
thì khócó cơ hội hàn gắn lại.
Có lẽ tôi nghĩ xa
hơn cả điều bạn muốn nhắn gửi. Tôi nghĩ đến cuộc trở về căn nhà
nội tâm sâu thẳm của mình. Người ta được tung ra ngoài đời, lăn
mình vào những hoạt động, quay theo vòng quay của nhịp sống xã
hội, nhào lộn với những thành công, thất bại nối tiếp nhau... Có
lúc người ta cần quay trở lại con người thật, con người bên
trong của mình để khám phá ra giá trị thật của nó, để định lại
hướng đi trong cuộc đời, để biết mình đang ở chỗ nào, sẽ tiến về
đâu, khi nào cần dừng lại, lúc nào phải quay về. Nếu những cuộc
trở về được lập đi lập lại nhiều lần, hằng năm, hằng tháng, hằng
tuần hay hằng ngày; như cái boomerang được ném đi, trở lại, ném
đi, trở lại… người ta sẽ dung hòa được cuộc sống hoạt động và
đời sống nội tâm, một sự dung hòa thật đẹp và ý nghĩa. Rất tiếc
có nhiều người không phải là cái boomerang mà chỉ là một thanh
gỡ bình thường, ném đi rồi là bay đi luôn, không bao giờ còn
quay trở về được nữa !
Cái boomerang được
ném ra, nhưng nếu không ném đúng cách, nó rơi xuống đất hay bay
luôn không trở lại. Chính nó có khả năng trở về, nhưng ngay từ
lúc bay đi,nó đã bay không đúng cách nên mất khả năng quay về.
Có phải đó cũng là điều đáng tiếc không?
Người ta cũng thế,
ai cũng có niềm ao ước và khả năng tìm về căn nhà nội tâm dồi
dào và sung mãn của mình. Nhưng khi bắt đầu cuộc sống hướng
ngoại, người ta đã không bắt đầu một cách chính đáng, đã không
nhắm sẵn một mục tiêu, người ta hoạt động vì hoạt động, hoạt
động một cách mông lung, không định hướng. Hoạt động hướng ngoại
kiểu ấy, người ta dễ dàng đánh mất đời sống nội tâm, không còn
căn nhà ở nơi sâu thẳm để trở về nữa.
Và cuối cùng, tôi
nghĩ đến cuộc trở về với Thiên Chúa, đấng tạo dựng nên tôi, cho
tôi vào đời, sống hạnh phúc và giúp người khác sống hạnh phúc.
Rồi một ngày nào đó , tôi cũng sẽ trở về với Thiên Chúa. Tôi như
cái boomerang nằm trong tay Chúa, Ngài tưng tôi đi. Cuối cùng
tôi cũng lại trở về, nằm thu gọn ngoan ngoãn trong bàn tay Ngài.
Bao giờ thì tôi trở
về? Dĩ nhiên đó là ngày tôi nhắm mắt, vĩnh biệt cõi đời để bước
vào cuộc sống thiên thu. Nhưng có phải cứ nhắm mắt xuôi tay là
đương nhiên được trở về với Chúa không? Đường về sẽ xa lạ và tôi
sẽ lạc lối, nếu ngay trong cuộc sống này, tôi không biết thực
tập cho một cuộc trở về thật sự. Sự thực tập ấy cần được lập lại
trong mỗi giai đoạn sống, mỗi năm, mỗi tháng, mỗi ngày. Khi tôi
khám phá ra con đường trở về với Chúa ngay trong cuộc sống này,
con đường ấy sẽ trở nên quen, và khi đến giờ đã định, tôi thanh
thản trở về , bước đi trên lối đi dấu ái, trở về nhà Cha tôi,
như trở về một nơi chớm thân thương và quen thuộc. Cái boomerang
là tôi ngày nào được Chúa gửi và đời, nay vòng trở lại nghỉ an
trong Chúa.
Boomerang! Boomerang!
Âm thanh huyền bí
mời gọi một cuộc trở về. Bạn ạ, hãy tin đi, tôi sẽ trở về. Trái
tim tôi có một màng lọc, không dễ cái gì cũng lọt được vào,
nhưng đã lọt vào thì sẽ nằm luôn trong đó, không ra nữa. Tình
thân của bạn đã lọt vào trái tim tôi, dễ gì nó lạt phai đi được.
Nó sẽ nằm đó và thôi thúc tôi dù đi đâu cũng sẽ trở về với bạn.
Tôi hiểu niềm tha thiết của bạn khi trao chơ tôi cái boomerang,
và tôi hiểu rõ lắm, bạn ạ, những điều bạn không nói bằng lời.
Và lạy Chúa, con
cũng sẽ trở về với Chúa, trở về với trái tim chan chứa yêu
thương. Xin dạy cho con biết thực tập cho cuộc trở về này, để
đường về nhà Chúa trở nên quen thuộc với con ngay từ bây giờ,
khi con còn đang sống, đang kiếm tìm hạnh phúc cho con và cho
người khác. Xin cho con biết thưa cùng Chúa như Augustinô :
''Hồn con khắc khoải đi tìm Chúa, và chỉ nghỉ yên khi đã gặp
Ngài. ''
Boomerang! Boomerang !
Nhà Văn Quyên Di |
VỀ MỤC LỤC |
|
CỦNG CỐ NHỮNG BƯỚC
ĐẦU PHÂN ĐỊNH VÀ SỐNG ƠN GỌI
|
NGƯỜI NỮ TU SỐNG TU ĐỨC TOÀN DIỆN
tác giả: Lm. Micae-Phaolô Trần Minh Huy pss
LỚP THẦN HỌC LIÊN
TU SĨ - TÒA GIÁM MỤC BÙI CHU (2008 - 2009)
CHƯƠNG II : CỦNG CỐ
NHỮNG BƯỚC ĐẦU PHÂN ĐỊNH VÀ SỐNG ƠN GỌI
ĐẶT VẤN ĐỀ
Biện phân
ơn gọi thánh hiến là lắng nghe lời Chúa kêu gọi. Vậy trước hết,
chúng ta thử khảo sát mấy từ ngữ quan trọng.
Ơn
Gọi ,
một từ ngữ thường
được sử dụng để gọi tên một lời mời gọi đến chức linh mục hay
đời sống tu sĩ. Tuy nhiên, trong ý nghĩa rộng rãi nhất của nó,
ơn gọi đơn giản là “một lời mời gọi.” Từ ngữ này không chỉ để
xác định chức linh mục hay tu sĩ mà thôi đâu.
Các bậc sống khác, như hôn nhân chẳng
hạn, cũng là một ơn gọi, giống như là linh mục hay tu sĩ.
Do đó, nếu
ơn gọi là một lời mời gọi thì chúng ta phải để thời giờ lắng
nghe hầu biết được chúng ta phải trở thành cái gì và ở đâu. Tiến
trình lắng nghe này thật căn bản để kiện toàn điều lòng chúng ta
ước mong tìm được ý nghĩa đời mình, trong kế hoạch quan phòng
của Thiên Chúa.
Là những
con người, chúng ta được mời gọi bởi hoàn cảnh an bài;
những giới hạn và khả
năng tiềm ẩn của chính chúng ta, trong một thời khắc lịch sử của
khả năng tình cảm, tri thức và tâm lý của chính chúng ta.
Nếu chúng
ta đi theo giáo huấn của các viện phụ và viện mẫu sa mạc, cũng
như của các giáo phụ và tiến sĩ Giáo Hội liên quan đến vấn đề
này, chúng ta sẽ chấp nhận rằng một ơn gọi được tìm thấy trong
sự sắp xếp an bài của các phương diện ý nghĩa của cuộc sống và
bởi ân sủng mà chúng ta đón nhận để thực hiện điều tốt nhất của
các tình huống đó.
Biện phân
là tiến trình lắng nghe và chọn lựa qua sự an bài trong các khía
cạnh ý nghĩa của cuộc đời một con người, cũng như ân sủng để tìm
kiếm và xác định hoàn cảnh và lời đáp trả đích thực đối với Tình
yêu của Chúa.
Đáng tiếc
là chúng ta có khuynh hướng lạm dụng hay sử dụng không đúng từ
ngữ “biện phân” này. Chúng ta gọi là biện phân bất cứ cái gì
phải làm với một quyết định, ngay cả việc rất đơn giản nhất là
chọn lựa giữa hai thứ đồ vật vật chất. Chúng ta cũng có khuynh
hướng dùng danh từ biện phân khi tất cả những gì chúng ta muốn
chỉ là một quyết định thận trọng về một việc gì đó cần đến lương
tri. Do đó, không phải tất cả mọi tiến trình phải lấy quyết định
đều đặt dưới phạm trù biện phân.
Biện phân
đòi hỏi khả năng suy tư thần học liên quan đến hoàn cảnh và đời
sống của một người. Khi chúng ta lắng nghe và chọn lựa
qua sự an bài của các phương diện quan trọng của cuộc sống và
khi chúng ta đón nhận ân sủng để tìm biết qua cầu nguyện đâu là
sự thật trong hoàn cảnh của chúng ta, hầu có thể xác định lời
đáp trả đích thực nhất với tình yêu Chúa, thì chúng ta đi đến sự
hiểu biết rõ ràng về cuộc đời chúng ta, sự rõ ràng vượt quá con
tim biện phân của chúng ta. Như thế có sự gặp gỡ giữa hai sự
hiểu biết rõ ràng, của Chúa và của chúng ta, nhờ đó chúng ta bắt
đầu nhìn thấy với con mắt đức tin những gì Chúa muốn trong chúng
ta và cho chúng ta.
Trong khi biện phân lời
mời gọi đến chức linh mục, tu sĩ hay một tác vụ tôn giáo, điều
hết sức quan trọng phải ghi nhớ trong lòng trí rằng ơn gọi đặc
biệt này trước hết là một lời mời gọi dâng hiến cuộc đời phục vụ
Chúa. Đó không phải là một lời mời gọi làm bất cứ cái gì hay trở
nên cái gì.
Tiến trình biện phân lời
mời gọi của một người là một nỗ lực vừa nhân loại vừa thần linh
để chọn một bậc sống diễn tả lời đáp trả tốt nhất của mình với
tình yêu và sự chăm sóc quan phòng của Chúa. Như thế nó không
bao giờ được đảm trách một mình, vì nó mời gọi một sự tương tác
giữa người biện phân và Thiên Chúa. Vậy, việc biện phân luôn
luôn nằm trong bối cảnh mối tương quan nhân vị của con người với
Chúa.
Cầu
Nguyện và Biện Phân
Cầu nguyện
là tâm điểm mối tương
quan của con người với Chúa làm cho con người tự nguyện sẵn sàng
với sự hiện diện dẫn dắt của Chúa trong đời sống mình, đồng thời
làm cho con người có khả năng nhận biết Chúa qua tương quan đối
thoại: “Xin cho con biết Chúa, xin cho con biết con” (thánh
Augustinô).
Như vậy,
biện phân không thể tách lìa cầu nguyện, nếu không nó sẽ không
thể là một biện phân đích thực. Biện phân không phải là một cái
gì chỉ đơn giản đòi học hỏi các phương pháp và kỹ thuật, dù đó
là những dụng cụ hữu ích trong chính tiến trình biện phân.
Biện phân
trước hết là một ân ban mà nguời ta tìm kiếm hằng ngày trong cầu
nguyện. Chúng ta học nghe tiếng Chúa với con tim của mình, học
nhận biết âm thanh của nó, đôi khi cả học biết những gì Chúa
muốn nói trước cả khi Ngài nói nó ra. Biện phân là một lời mời
gọi được phát sinh từ mối tương quan thân mật và hiệp thông với
Chúa. Nó là một ân ban cho ta có thể phân biệt được những hướng
dẫn của Chúa Thánh Thần.
Vì thế,
một người đi vào tiến trình biện phân ít nhất phải có hạt giống
đức tin trong mình.
Ta phải xác tín rằng
lời cầu nguyện ban sức mạnh và đào sâu mối ràng buộc bằng hữu
với Chúa. Ta cũng phải tin
rằng lời cầu nguyện và đức tin mang lại mục đích và ý nghĩa cho
cuộc đời được sống trong sự hiến dâng và cam kết phục vụ Chúa.
Nhờ hành trình cầu
nguyện, chúng ta nhận ra được rằng tiến trình biện phân, dù lắm
khi là một trăn trở, thực sự đơn giản nếu chúng ta để Chúa Thánh
Thần hướng dẫn chúng ta. Tiến trình này bao gồm bốn giai đoạn
sau đây: Giữ quan hệ với chính mình; giữ quan hệ với Chúa; chính
tiến trình lấy quyết định và khẳng định quyết định đã lấy.
Bây giờ chúng ta đến với câu hỏi
vô cùng quan trọng. Dấu hiệu nào của ơn gọi linh mục và tu sĩ là
nổi bật và thiết yếu nhất đáng sự quan tâm đặc biệt của những ai
dấn thân vào việc tuyển chọn, giáo dục và đào tạo các ứng sinh
trả? Câu trả lời là một quan tâm đúng đắn (Paul VI)
A. CÁC KỸ
NĂNG THÔNG THƯỜNG
I. LÝ LỊCH ỨNG SINH
Công
cuộc đào tạo ứng sinh hôm nay, tuy làm chung với nhiều người và
cho nhiều người, nhưng phải lưu tâm đến từng con người cá biệt
với từng hoàn cảnh cụ thể cá biệt. Chúng ta là người, không phải
là Chúa, để tự nhiên có thể biết được nhau. Do đó, chúng ta cần
cho nhau một số thông tin cần thiết, để vượt quá cái giới hạn
“biết người biết mặt mà không biết lòng,” để biết đúng bản chất
con người, chứ không phải các hiện tượng bên ngoài thôi, hầu có
thể hiểu đúng, cảm thông nhau và cộng tác tích cực với nhau
trong tiến trình được đào tạo và tự đào tạo nên những tu sĩ như
lòng Chúa và Giáo Hội mong muốn, thế gian chờ đợi.
1. Lý lịch bản thân
Giáo phận:
...…………………………………………...
Ngày Sinh theo Chứng
Minh Nhân Dân:...…………….
Ngày Sinh theo sổ
Rửa Tội: .…………………………..
Nơi sinh:
..........................................................................
Rửa tội ngày:
……………tại: ....……………………….
·
Thêm sức ngày:
………... tại: ………………………….
·
Hiện ngụ tại
giáo xứ: ...…………………………………
·
Tên cha sở:
.....………………………………………….
·
Địa chỉ hiện
tại (hộ khẩu): ……………………………..
·
Tên cha bảo
trợ: ..………………………………………
·
Địa chỉ:
...……………………………………………….
2. Sức khỏe
Trước đây mắc bệnh
mãn tính gì không?: .……………..
Đã giải phẫu vì bệnh
gì không?: ....……………………..
Hiện đang mắc bệnh
mãn tính gì không?: .……………..
3. Trình độ văn hóa –
Năng khiếu
Biết các chuyên môn
gì?: .....……………………………
4. Gia đình
Nghề nghiệp:
.…………………………………………..
Tên mẹ: …………………………
Sinh năm: ..………..
Nghề nghiệp:
.…………………………………………..
Địa chỉ và điện
thoại của cha mẹ: ....……………………
Là con thứ mấy trong gia đình:
… / ……………….
Có mấy anh đã …/chưa… lập gia
đình.
Có mấy em trai đã …/chưa… lập
gia đình.
Có mấy chị đã …/chưa… lập gia
đình.
Có mấy em gái đã …/chưa… lập
gia đình.
Trong gia đình có ai đi
tu?.……………………………..
Tên, địa chỉ và điện thoại Nhà
Dòng: …………………..
Trong gia đình có ai mắc bệnh
truyền nhiễm hay mãn tính gì không?
.......……………………………………..
5. Tìm hiểu Ơn Gọi - Đăng ký
vào dự tu:
Người phụ trách:
...............……………………………..
6. Sinh hoạt mục vụ
trước khi vào Dòng
Cha Xứ:
...………………………………………………
Dì Giáo:
.………………………………………………..
Đã làm gì: Giáo lý
viên……… Ca đoàn.……………….
Hội đoàn
khác.................................................................
7. Giai đoạn ở Dòng
Dì Giáo:
...………………………………………………
Vị linh hướng:
.....………………………………………
(Vị linh hướng cũ:
……………………………………..)
·
Địa chỉ và điện
thoại ba bạn thân theo thứ tự thân thiết (kể cả bạn là con
trai/bạn trai):
1.....………………………………………………..
2..………………………………………………….
3..………………………………………………….
Làm tại
…....................ngày…………………
(Ký rõ họ
tên)
II. BA YẾu TỐ Giúp Phân ĐInh Ơn GỌi
1. Ý Ngay
Lành
Trước hết là “ý ngay lành” và ý ngay lành này phải qui chiếu vào
lịch sử ơn kêu gọi của Chúa trong cuộc đời của mỗi người.
Ý
ngay lành này có thể được rõ nét dần dần qua cấu trúc:
-
Khởi đầu là lời kêu gọi
của Chúa;
-
Lời đáp trả tiếng Chúa
của ứng sinh;
-
Cam kết đi theo chính
Đức Kitô;
-
Sự biến đổi nhân cách
của ứng sinh cho phù hợp với đời sống ơn gọi được thực hiện nhờ
Chúa Thánh Thần;
-
Cuối cùng là dấn thân
thi hành sứ vụ qua lời khấn Dòng.
Chúa Giêsu đã nói: “Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính
Thầy đã chọn các con, và sai các con ra đi để các con sinh hoa
trái và hoa trái các con tồn tại, hầu tất cả những gì các con
xin Cha nhân danh Thầy thì Người ban cho các con. Điều Thầy
truyền dạy các con là hãy yêu thương nhau” (Ga 15,16-17).
Như
thế, phải khẳng định rằng mình theo chính Chúa Kitô chứ không
phải ai khác, dù là Bề trên hay chị em. Được hiểu hay không được
hiểu, được ủng hộ hay bị chống đối, vui hay buồn, sướng hay khổ,
thành công hay thất bại, mặc! Cứ bám chặt vào Chúa, bạn sẽ nhận
được một sức mạnh nâng đỡ lạ lùng, mà Thánh Phaolô xác quyết về
sức mạnh kỳ diệu đó là “chính Chúa Kitô sống trong tôi” (Gal
2,20).
(Hát LẠY CHÚA NÀY CON ĐÂY)
2. Động
Lực Thúc Đẩy Ý Hướng
a. Xác định động lực
Đàng sau mọi quyết định và hành động đều có một hay nhiều động
lực ẩn khuất tác động lâu dài. Ứng sinh cần một không gian và
thời gian để xem xét, làm sáng tỏ và thanh luyện các động lực
của mình. Có thế thì việc đáp trả lời mời gọi và cam kết theo
Chúa mới bền vững trong tin yêu và quảng đại.
b. Một ít động lực
Các động lực có ý
thức:
-
Lòng khao khát phục
vụ
-
Có nhiều thời gian
hơn để cầu nguyện
-
“Tôi muốn tìm sự bình
an”
-
Bối rối: “Tôi cảm
thấy Chúa gọi tôi, nhưng tôi sợ…”
Các động lực vô ý
thức: Nhiều
khi các động lực nhân loại can thiệp vào hầu làm thỏa mãn các
nhu cầu căn bản của con người đã không được thỏa mãn trong thời
niên thiếu:
-
Khao khát bình an/an
toàn
-
Ước muốn nuôi nấng
con cái
-
Khao khát được nhận
biết
-
Khao khát được chú
ý/kêu la ầm ĩ để được chấp nhận
-
Khao khát được hoàn
thành/kiện toàn
-
Sợ người khác phái
-
Để chu toàn một lời
hứa khi nhỏ
-
Để thoát khỏi nghèo
khổ
-
Thoát ly khỏi đời
sống gia đình bất hạnh
-
Tìm kiếm đặc ân
-
Thoả mãn tham vọng của
cha mẹ
Các
động lực ấy chẳng phải là tội, nhưng chúng bộc lộ các nhu cầu cơ
bản về mặt cảm xúc, sự đón nhận, ý thức lệ thuộc, ý thức về căn
tính của mình, khả năng thiết lập tương quan hài hoà với cả hai
phái và sự quý mến bản thân.
Để
tăng cường sự phát triển trưởng thành nhân bản và thiêng liêng,
ta cần trung thực loại bỏ hay uốn nắn các động lực đó.
Đời
sống dâng hiến đặt nền tảng trên sự quí mến bản thân với các nhu
cầu của nó. Sự quí mến bản thân giúp ta ý thức về sự dâng hiến
bản thân. Nếu không có qúi mến bản thân thì dâng hiến cái gì? Do
đó phải đối mặt gọi tên và giải quyết tốt các nhu cầu ấy để sự
dâng hiến bản thân được ý nghĩa trọn vẹn và bền bĩ.
Chỉ
trong ánh sáng tình yêu vô điều kiện và bất biến của Chúa, ước
muốn dâng hiến bản thân mới ngày một hiện rõ và tự do trao dâng
cho Chúa và tha nhân, theo sự thúc đẩy của ơn Chúa Thánh Thần
(x. Tv 16:5-6)
Chúa là phần sản nghiệp con được hưởng
Là chén phúc lộc dành cho con;
Số mạng con chính Người nắm giữ.
Phần tuyệt hảo may mắn đã về con,
Vâng, gia nghiệp ấy làm con thoả mãn
(Tv 16,5-6)
(Hát TÔI XIN CHỌN NGƯỜI)
c. Các loại ý hướng
Xem
xét các loại động lực thúc đẩy ý hướng này giúp chúng ta nắm rõ
nội dung và sức năng động trong ý hướng muốn tiến vào đời sống
dâng hiến:
1)
Ý hướng cam kết
khiến ứng sinh có khả năng đáp lại tiếng Chúa gọi, nhờ hoa quả
của Chúa Thánh Thần trong cuộc đời mình. Đây là ý hướng lý
tưởng. Ứng sinh tương đối trưởng thành và hướng tới tự hiến, do
đó chị có thể tự do đáp lại lời mời gọi của Chúa.
2)
Ý hướng phận vụ
cần một sự phân định cẩn thận giữa sự sẵn sàng bỏ mình và sự chỉ
tìm kiện toàn chính mình, vì ứng sinh vừa được tác động bởi sự
tìm kiếm chính mình, vừa được tác động bởi đức tin của mình. Chị
bị giằng co giữa việc tìm kiện toàn chính mình và hấp lực tự
hiến. Tính lưỡng diện này tỏ lộ lãnh vực không có tự do trong
cái tôi còn thiếu trưởng thành của chị.
3)
Ý hướng địa vị
tìm thăng tiến bản thân để che lấp sự bất ổn căn bản trong đời
sống của mình, hay vì ước muốn và tham vọng của người khác (coi
đời tu là một thăng tiến xã hội).
4)
Ý hướng trốn thoát
nhằm tìm kiếm sự che chở từ cuộc sống tu trì. Một người với ý
hướng này không có ơn gọi đích thực. Ứng sinh như thế là không
trưởng thành, căn tính không được đào luyện hay hội nhập tốt,
không ý thức được các nhu cầu của mình. Tính thiếu bền vững cả
trong thái độ lẫn ứng xứ có thể được quan sát thấy cách dễ
dàng.
Ứng
sinh có những ý hướng địa vị và trốn thoát thường không có ơn
gọi đích thực, bởi vì họ thiếu trưởng thành nhân cách và sẽ dễ
dàng từ bỏ hoặc phản bội sứ vụ căn bản của mình (x. Dụ ngôn
Người Gieo Giống).
"Đây
là ý nghĩa dụ ngôn: Hạt giống là lời Thiên Chúa. Những kẻ ở bên
vệ đường là những kẻ đã nghe nhưng rồi quỷ đến cất Lời ra khỏi
lòng họ, kẻo họ tin mà được cứu độ. Còn những kẻ ở trên đá là
những kẻ khi nghe thì vui vẻ tiếp nhận Lời, nhưng họ không có
rễ. Họ tin nhất thời, và khi gặp thử thách, họ bỏ cuộc. “Hạt rơi
vào bụi gai: đó là những kẻ nghe, nhưng dọc đường bị những nỗi
lo lắng và vinh hoa phú quý cùng những khoái lạc cuộc đời làm
cho chết ngộp và không đạt tới mức trưởng thành. Hạt rơi vào đất
tốt: đó là những kẻ nghe Lời với tấm lòng cao thượng và quảng
đại, rồi nắm giữ và nhờ kiên trì mà sinh hoa kết quả” (Lk
8,11-15)
(Slideshow THỬA ĐẤT LÒNG TÔI)
Nếu không thể
nào thay đổi được, nên khéo léo khuyên người có ý hướng địa vị
và trốn thoát tìm một đường lối sống ở nơi nào khác thì tốt hơn
là giữ họ lại theo đuổi đời sống tu trì.
3.
Cam Kết Tự Biến Đổi Cho Sứ
Vụ
Chúng ta cần
phải ý thức về nhiều nhân tố trong động lực ơn gọi của ứng sinh
và phân tích những đường lối chị dấn thân phục vụ tha nhân, bao
gồm cả việc chị trung thành với lời cam kết của chị. Một nhà
phân định bén nhạy có thể trực giác ngay được ý muốn phục vụ tha
nhân của ứng sinh như thế nào.
Nếu ứng sinh
có ý hướng địa vị (tu sĩ là người luôn được kính trọng và có vị
thế trong xã hội: một thăng tiến xã hội) là động cơ ưu tiên
trong việc đi tu, thì hãy khéo léo khuyên chị nên tìm một lối
sống khác.
Nhiệm vụ của
vị hướng dẫn đời sống ơn gọi của ứng sinh thật là quan trọng.
Người hướng dẫn cần giúp ứng sinh ý thức rõ nhiều động lực đang
có mặt nơi chị, đồng thời giúp chị thấy được sự xung khắc giữa
các động lực ấy và giải quyết chúng. Động lực nào phù hợp với
đời tu sẽ được dùng để thăng tiến đương sự. Động lực nào không
phù hợp với đời tu thì phải loại bỏ hay biến đổi. Nếu không làm
được như vậy, đương sự sẽ được mời ra đi…
III.
BA VẤN ĐỀ CƠ BẢN VÀ QUYẾT ĐỊNH
–
BIẾT
MÌNH
–
THÂN MẬT TÍNH DỤC
–
VÂNG LỜI
Ứng
sinh phải ý thức và trực diện với ba vấn đề cơ bản mang tính
quyết định này ngõ hầu đạt được một đường hướng dứt khoát hơn
cho cuộc đời mình. Nếu ba vấn đề này không được “giải quyết” thì
chúng sẽ ảnh hưởng mạnh trên cách ứng xử của chị, mà hậu quả sẽ
là một khủng hoảng ơn gọi.
Đừng quên câu định nghĩa và tiến trình sống tu đức toàn diện: “Đời
sống thiêng liêng là đời sống nhân bản được sống trong Chúa
Thánh Thần.”
Định nghĩa này phải hiểu trong tiến trình: Con Người → Tu Đức
Nhân Bản (đạo làm người) → Nhân Bản Thiêng Liêng (đạo làm con
Chúa) → Thánh Nhân (tình bạn với Chúa Ga 15,15).
1. BiẾT Mình
Ở
cửa đền Alphê, Socrate cho khắc chữ “HÃY TỰ BIẾT MÌNH.” Còn
Thánh Augustinô thì cầu nguyện mỗi ngày “XIN CHO CON BIẾT CHÚA,
XIN CHO CON BIẾT CON”
Tự
biết mình là yếu tố rất quan trọng để ứng sinh đạt được trưởng
thành. Ứng sinh phải cố gắng hiểu được mình là ai, với tất cả
những điểm mạnh và những điểm yếu. Nếu không có nhận thức rõ
ràng về mình, ứng sinh dễ có khuynh hướng tự tôn bằng sự phòng
vệ coi mình là tâm điểm hoặc tự ti và quá lệ thuộc vào người
khác.
Sự
kiện rất nhiều ứng sinh ngày nay không thể trực diện với chính
mình để biết mình là ai giải thích tại sao có nhiều sự thiếu
trưởng thành hay tự đánh giá thấp nơi nhiều tập sinh, ngay cả
nơi một số học viện nữa.
Ứng
sinh phải tự biết mình là ai, và đang ở đâu trong tiến trình tu
luyện. Đôi khi cũng phải dám hỏi: “Chúa nghĩ gì về con?”
Nhà
đào tạo cũng phải biết ứng sinh đang ở giai đoạn nào trong tiến
trình ấy, để nhẫn nại dẫn dắt, không đốt giai đoạn,
kẻo
đốt giai đoạn là đốt cháy cả một đời người.
2. VẤN ĐỀ Thân MẬt Tính DỤc
Ứng
sinh cần đạt được mức trưởng thành đầy đủ về tính dục, tâm lý và
một cuộc sống cầu nguyện siêng năng và đích thực, dưới sự hướng
dẫn của vị linh hướng, trong hi sinh, xả kỷ, tự hiến, tự giác kỷ
luật…
Các
ứng sinh buộc phải có một sự trưởng thành nhất định trong đời
sống nhân bản và thiêng liêng. Điều này thật dễ nhận ra nơi giáo
xứ nhà quê, nhưng lại khó biết được nơi các thành phố đông
người, nơi mà ngoài các bức tường nhà mình không ai biết ai.
Tình trạng khó kiểm soát này đặt ra nhiều vấn đề phức tạp, nhiều
biến động và chiến đấu cho các công dân trẻ mới tới đô thị, đặc
biệt là trong mối liên hệ với người khác phái (x. sinh viên tầm
gửi), ảnh hưởng đến đời sống thiêng liêng và cầu nguyện.
Ngoài ra, vì phải va chạm với môi trường xã hội và học đường,
nhiều ứng sinh có thể có bạn trai hay người yêu, hoặc lâm vào
một hoàn cảnh đáng tiếc, nên vấn đề thân mật tính dục trở nên có
thật.
Ngạn ngữ Việt Nam có câu “Lửa gần rơm lâu ngày sẽ cháy.” Nhưng
không ai lại đi trách lửa hay rơm về chuyện chúng đốt cháy hay
bị đốt cháy, đúng hơn phải trách kẻ đặt rơm gần lửa.
Nhiều trường hợp cần một sự biện phân chặt chẽ về lương tâm, một
sự thấu cảm đem lại nâng đỡ và bình an.
Con trót dại bao lần sa ngã,
Ôi Giêsu lượng cả đoái nhìn.
Con nguyền can đảm đứng lên,
Lệ sa rửa sạch tội khiên làu làu.
Xin ánh sáng soi vào tâm trí,
Tỉnh cơn mê, con sẽ dâng Ngài,
Bổng trầm điệu hát vui say,
Muôn ngàn khấn nguyện giải bày khúc nôi.
Thánh Thi Kinh Sáng CN Tuần III
Đối
với một số ứng sinh, để tiến bước trên con đường ơn gọi cần phải
có lòng can đảm, nhưng dừng lại và thay đổi hướng đi còn đòi hỏi
can đảm nhiều hơn.
Tu
viện sẽ xây dựng một lối sống khả dĩ giúp đỡ và ngăn ngừa cách
hữu hiệu các lối giải quyết cho những chiến đấu của họ. Nhưng
tiến trình khó khăn ấy cần có thời gian và những cố gắng chân
thành. Trong “Truyện Kiều,” Nguyễn Du diễn tả “dẫu lìa ngó ý
còn vương tơ lòng,” nghĩa là tuy đã chia tay, sự gắn bó dịu
dàng vẫn còn.
Phải nỗ lực thăng hoa các mối liên hệ và kiên vững mới có thể
tiếp tục.
Đường em em đi,
Đường anh anh đi.
Tình nghĩa đôi ta có
thế thôi.
Đã quyết không mong
sum họp nữa,
Bận lòng chi nữa lúc
chia phôi! (Nửa chừng xuân)
Yêu nhau trong tinh thần,
Yêu nhau trong lý
tưởng… (Hồm bướm mơ tiên)
Chọn sống độc thân thánh hiến là một chọn lựa tự do. Họ phải
đương đầu và làm việc để vừa thắng vượt các chiến đấu này, lại
vừa thăng tiến chọn lựa của mình.
Nếu địa hạt này không được trực diện và giải quyết, những vật
lộn này sẽ trở lại với họ, ngay cả sau khi đã tuyên khấn (tình
cũ không rũ cũng tới; bén mùi chùi chẳng sạch; quen ăn mà không
quen kiêng). Đừng đợi cho đến khi vấp ngã rồi mới nhớ đến
những lời khuyên: “Biết ai khôn ngoan thì tìm đến mà bàn hỏi
và chớ coi thường bất cứ lời chỉ giáo nào hữu ích. Hãy chúc tụng
Đức Chúa là Thiên Chúa mọi lúc; hãy xin Người dạy con cho biết
theo nẻo chính đường ngay và giúp con thành công trong mọi đường
đi nước bước cũng như mọi toan tính của con” (Tb 4,18-19).
Tuy nhiên, may thay, cuộc sống giữa muôn màu phức tạp của xã hội
trần thế cũng khiến cho các ứng sinh khác lớn lên trong việc xác
định ơn gọi của mình, cả về tình cảm đời sống nhân bản lẫn đời
sống thiêng liêng.
Trong đầm gì đẹp bằng
sen,
Lá xanh bông trắng
lại chen nhụy vàng,
Nhụy vàng bông trắng
lá xanh,
Gần bùn mà chẳng hôi
tanh mùi bùn.
Đời Sống thánh hiến được nêu bật như là một ân huệ và quà tặng
đặc biệt của Thiên Chúa, như là lựa chọn một tình yêu không chia
sẻ vì Chúa Kitô và vì Nước Thiên Chúa. Đời sống độc thân thánh
hiến cần được trình bày rõ ràng, không hàm hồ và theo cách tích
cực.
Ứng sinh phải khiêm tốn và nhiệt thành cầu nguyện và đón nhận
đời sống độc thân thánh hiến như là một món quà của ân sủng
Chúa. Cùng với Hội Thánh, họ phải khiêm tốn và kiên định cầu
nguyện cho ơn trung thành và sử dụng mọi sự trợ giúp siêu nhiên
cũng như tự nhiên, đặc biệt là lối thực hành khổ chế đã được
kinh nghiệm của Hội Thánh chấp thuận.
3. Vâng lỜi
Trong ba lời khuyên Phúc Âm của đời sống thánh hiến, đức vâng
lời phải là nền tảng, vì nó giúp giữ đễ dàng hai nhân đức kia.
Ứng sinh phải tập vâng lời triệt để trong mọi sự có liên quan
mới có thể giữ được hữu hiệu đức khó nghèo và khiết tịnh, dù bây
giờ người ta nhấn mạnh đến “vâng lời đối thoại” hay “vâng
lời trưởng thành”.
Quả vậy, với Vaticanô II, không còn “vâng lời tối mặt”;
nhưng “vâng lời đối thoại” hay “vâng lời trưởng thành”, nghĩa là
bề dưới được trình bày với Bề trên hết sự thật những gì nhận
thấy và suy nghĩ, với đầy đủ lý do và ước nguyện, có khi trái ý
Bề Trên, nhưng lời nói cuối cùng thuộc về Bề Trên, và bề dưới
vâng lời với tinh thần siêu nhiên.
Chúng ta biết rằng Bề Trên có quyền quyết định trái với ý của
tất cả chúng ta, nhưng chính Bề trên sẽ chịu trách nhiệm và trả
lời với Chúa. Đó là thực sự cảm thông với Giáo Hội (Sentire cum
Ecclesia).
Điều đáng e ngại là có thể một số Vị quá “sính quyền bính”
không dễ dàng lắng nghe sự thật và cho bề dưới cơ hội đối thoại
hay giải thích!
Nhưng đi cho tới cùng, vâng lời đòi hỏi mọi sự nơi chúng ta: trí
khôn, con tim, ý muốn, đời sống; nhượng bộ mọi sự cho Chúa, coi
vâng lời như diễn tả trọn vẹn sự lệ thuộc vào Chúa và Giáo
Hội.
Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể bị ảnh hưởng bởi các yếu tố văn
hóa và tâm thức do các cơ cấu xã hội, chính trị và tôn giáo.
Chẳng hạn, vì bị ảnh hưởng của Khổng giáo, của chế độ phong kiến
và thực dân, của các cơ cấu phẩm trật và gia trưởng, chúng ta
lắm khi phải đương đầu với những thách đố và chiến đấu trăn trở
về tự do và phục tùng với bộ ba “quyền phục, lý phục và tâm
phục hay tâm bất phục” hoặc “bằng mặt mà không
bằng lòng”
Và trong những trạng huống bức xúc có thể “tức nước vỡ bờ”,
chúng ta cần có ai đó giúp “đào sâu lòng sông và khơi dòng
cho nước chảy”. Vị linh hướng kinh nghiệm là người đó cách
thích hợp nhất.
Nhưng với đức tin mạnh mẽ và đâm rễ sâu trên nền tảng Thánh Kinh
vững chắc, đặt trọng tâm vào Chúa Giêsu, vào Phúc Âm, vào Giáo
Hội và vì các linh hồn, cầu nguyện và biện phân dưới sự dẫn dắt
của Chúa Thánh Thần, chúng ta sẽ vâng lời cách sẵn lòng và siêu
nhiên các vị lãnh đạo và cơ cấu Giáo Hội, không phải như những
con người và cơ cấu nhân loại, nhưng là Ý Chúa ở trong và qua
những con người và cơ cấu này.
(Hát NGUỒN TRỢ LỰC ĐỜI TÔI)
IV. VAI TRÒ CỦA
GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI ƠN GỌI
“Một kinh sư tiến đến
thưa Người rằng: "Thưa Thầy, Thầy đi đâu, tôi cũng xin đi theo."
Đức Giê-su trả lời: "Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng
Con Người không có chỗ tựa đầu." Một môn đệ khác thưa với Người:
"Thưa Ngài, xin cho phép con về chôn cất cha con trước đã." Đức
Giê-su bảo: "Anh hãy đi theo tôi, cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của
họ" (Mt 8, 19-22)
1. KHÍA CẠNH
TÍCH CỰC: BỐI CẢNH GIA ĐÌNH
“Bổn phận nuôi dưỡng ơn gọi thuộc về toàn thể cộng đồng kitô
hữu…. Nhưng đóng góp lớn nhất thuộc về gia đình, được kích hoạt
nhờ tinh thần đức tin, đức ái và lòng đạo đức… Gia đình được kể
như đệ tử viện đầu tiên.”
Tại
Việt Nam, gia đình có ảnh hưởng rất lớn tới nhân cách của mỗi
con người, ảnh hưởng tới việc đi theo và thực hành một tôn giáo
hay một ơn gọi.
Người Việt Nam rất đề cao giá trị của gia đình, vì gia đình như
một thế giới thu nhỏ bao gồm 3 thế hệ: ông bà, cha mẹ và con
cái. Mặc dù có những cách biệt giữa các thế hệ, nhưng các thành
viên trong cùng một gia đình vẫn luôn có một tình cảm sâu sắc
gắn bó với nhau.
Gia
đình đóng vai trò trợ lực rất quan trọng giúp cho ứng sinh ngày
một trưởng thành hơn. Có nhiều nhân tố giúp chị lớn lên: Mối
liên hệ mật thiết với cha mẹ nâng cao căn tính nhân vị của chị:
sự mạnh mẽ của ba, sự dịu dàng của mẹ.
Mối
tương quan lành mạnh với những người khác phái trong gia đình và
những người họ hàng sẽ giúp ứng sinh ý thức hơn về tính dục của
mình, hầu phát triển các mối tương quan xã hội của chính chị.
Điều đó cung ứng cho chị một sự ổn định tình cảm cần phải có cho
đời sống dâng hiến.
Những hoạt động trong và ngoài gia đình thách thức ứng sinh vượt
qua những cái mình thích hay không thích, và làm cho đời sống
tông đồ tương lai của chị trở thành một thực tế, chứ không chỉ
là một mơ mộng của tuổi trẻ.
Việc cầu nguyện và chia sẻ niềm tin trong gia đình giúp ứng sinh
đâm rễ sâu trong đời sống thiêng liêng. Là đệ tử viện đầu tiên,
gia đình giữ vai trò sinh tử trong việc đào tạo ứng sinh.
Cuộc họp hàng năm của đại diện các gia đình tu sinh nhấn mạnh
đến tầm quan trọng và sự đóng góp tích cực của gia đình đối với
Hội Dòng.
2. KHÍA CẠNH ÍT TÍCH CỰC: NHỮNG MONG ĐỢI VÀ HY VỌNG CỦA GIA
ĐÌNH
Người Việt Nam rất sùng đạo và nhiệt thành. Họ hết lòng kính
trọng các nhà tu hành, không chỉ trong phạm vị tôn giáo mà cả
ngoài xã hội nữa. Ngay cả hôm nay, các quan chức cộng sản cũng
nhận định rằng công dân tu sĩ có nhiều uy tín và ảnh hưởng trên
các công dân tín hữu khác.
Vì
thế, bậc tu trì trở thành một địa vị và một sự thăng tiến xã
hội, không chỉ cho chính vị tu sĩ, mà còn cho cả gia đình và họ
hàng thân thuộc: Vị tu sĩ sẽ được dân chúng kính trọng và vâng
phục, được hưởng một cuộc sống an toàn và dễ dãi, v.v… Một khi
người con làm linh mục hay tu sĩ, gia đình sẽ được hưởng vinh
quang và danh dự, được kính trọng ở mọi nơi (trở thành “ông bà
cố”).
Điều này đang là một thử thách đối với ơn gọi đích thực và sự
bất lợi tai hại của lòng kính trọng thái quá này đối với hàng
giáo sĩ và tu sĩ là biến họ thành những kẻ quan liêu và độc
đoán.
Nhiều khi, những mối lợi mang tính cá nhân hay gia đình như thế
khiến một số người thúc ép con cái đi tu. Một số các bậc cha mẹ
vì không thành công trong việc theo đuổi ơn gọi tu trì nên mong
đợi thấy lý tưởng và hình ảnh của mình được thực hiện nơi con
cái. Họ gây áp lực buộc con cái dấn thân vào đời sống tu trì hay
đời sống linh mục, dù con cái họ không có ơn gọi đó.
Dĩ
nhiên có rất nhiều gia đình Công giáo dâng hiến con trai con gái
mình cho Thiên Chúa thông qua Hội Thánh mà không hề thèm muốn
danh vọng, và nhiều ứng sinh quảng đại đáp lại lời mời gọi của
Thiên Chúa.
Là
nền tảng của xã hội, là cái nôi của sự sống và là nhà sư phạm
đầu tiên, gia đình có thể là một nguồn nước trong lành và cũng
có thể là trở lực đối với những ơn gọi đích thực. Do vậy, trách
nhiệm của Giáo Hội là biện phân và thanh luyện những động lực
ấy, vào thời điểm thu nhận cũng như trong tiến trình đào tạo,
trong nỗ lực gầy dựng cho có người kế tục sứ mệnh: Tre già măng
mọc (“Hy sinh đời bố củng cố đời con”).
Hãy
nghĩ đến Ông Bà Cha Mẹ chúng ta, đã sinh dưỡng chúng ta, lại dày
công hy sinh vất vả cùng Nhà Dòng để đào luyện, nâng đỡ, dìu dắt
chúng ta bằng cuộc sống đầy gương sáng và lời cầu nguyện không
ngừng của các ngài.
Hãy
lắng nghe lời cầu nguyện của các ngài: "Xin đừng sa thải con
lúc tuổi đà xế bóng, chớ bỏ rơi con khi sức lực suy tàn. ... Cả
lúc con già nua da mồi tóc bạc, lạy Thiên Chúa, xin đừng bỏ rơi
con" (TV 70: 9,18)
Chúng ta hãy tri ân các ngài, cầu nguyện và nâng đỡ các ngài,
ngõ hầu trong những ngày cuối đời, chờ đợi giờ Chúa gọi về nhà
Cha, các ngài cảm nhận được đền đáp, an ủi, yêu thương, bình an
và hạnh phúc. Hy vọng đến lượt chúng ta, thế hệ mai sau cũng làm
cho chúng ta như vậy.
(slideshow MẸ
CỦA CON ƠI)
Hãy nghĩ đến
công lao và tình thương, cùng hoài bảo của mẹ cha, cũng như của
các Bề trên hữu trách trong Giáo Hội và Nhà Dòng mà vượt lên mọi
khó khăn thử thách trong cuộc sống.
Dù là cuộc
sống tu trì thì cũng chẳng tránh khỏi mọi bất công, phân biệt
đối xử, thương người nọ hơn thương người kia, vì chẳng ai lấy
cân mà cân được tình cảm cho bằng nhau đâu! Cái quan trọng là
đừng lộ liểu quá, mà để trong lòng thì tốt hơn.
Vả lại, có
tình thương nào cao cả hơn tình Chúa thương ta đâu! Ta thế nào
thì Chúa thương ta thế ấy, và Chúa sẽ thương ta cho đến cùng.
Nhưng đối lại, Chúa cũng đòi hỏi và chờ đợi một tình thương
quảng đại cho đến cùng về phía ta cho Chúa đó: Một lần đã quảng
đại, hãy quảng đại cho đến cùng.
V.
ĐÁNH GIÁ ĐỘNG LỰC NỘI TÂM
1. Tính
HẤp DẪn CỦa Ơn GỌi
Thiên Chúa có
thể nói gián tiếp với ứng sinh qua Thánh Kinh, qua Giáo Hội, qua
gia đình và qua những nhu cầu của cuộc sống con người. Ngài cũng
có thể trực tiếp đánh động con tim và làm cho sự lôi cuốn lớn
lên dần thành cốt lõi của ơn kêu gọi.
Nhưng tính
hấp dẫn này phải được phân định qua việc đồng hành, linh hướng
để nắm chắc rằng ứng sinh đáp ứng được các khía cạnh thiêng
liêng và tông đồ của một cam kết dấn thân phục vụ Chúa và các
linh hồn.
2. BiỂu
LỘ CỤ ThỂ Ý HưỚng Ngay Lành
Tự do lương
tâm của ứng sinh là điều cần thiết cho quyết định tuyên khấn. Vị
linh hướng phải giúp ứng sinh khám phá ra những gì Thiên Chúa
thực sự kêu gọi chị trở thành và thực hiện.
Đáp trả tự do
của chị sẽ là cốt lõi sự cam kết của chị và động lực xứng hợp sẽ
đóng một vai trò quan trọng trong sự bền đỗ, khi chị cụ thể bày
tỏ ý hướng ngay lành muốn tuyên khấn.
Ứng sinh phải
tìm cho được lời khẳng định rằng Chúa muốn chị quyết định trở
thành tu sĩ. Để được vậy, chị phải hiểu rõ sâu xa những điểm
mạnh cũng như những điểm yếu của mình; đồng thời chị phải được
giúp tìm biết chính mình cách ý thức, cũng như các động lực vô
thức của chị, ngõ hầu chị thấy được chị phải biến đổi trong cái
gì.
Ứng sinh phải
đánh giá lại lời mời gọi của Chúa và sự đáp trả của chị để có
được một cam kết sâu xa hơn, theo tiến trình:
·
Khởi đầu là lời kêu gọi của Chúa;
·
Lời đáp trả tiếng Chúa của ứng
sinh;
·
Ứng sinh cam kết đi theo chính Đức
Kitô;
·
Ứng sinh biến đổi nhân cách của
mình cho phù hợp với đời sống ơn gọi được thực hiện nhờ Chúa
Thánh Thần;
·
Cuối cùng là Thẩm quyền hợp
pháp chấp nhận ứng sinh dấn thân tuyên khấn thi hành sứ vụ hiến
thân phục vụ Chúa và tha nhân.
Chị cũng phải
nội tâm hóa dấn thân của chị, cũng như cụ thể hóa đời sống sứ vụ
của một nữ tu, qua việc chị thường xuyên gặp gỡ Chúa Giêsu Kitô,
Đấng là nguyên thuỷ và cùng đích của mọi ơn gọi (x. Ga 15,
16).
Sau khi đã
chú ý lắng nghe với biện phân và khiêm tốn, dưới sự dẫn dắt của
Chúa Thánh Thần, vị linh hướng có thể khám phá được người thụ
hướng được Chúa gọi hay không.
Nếu có, vị
linh hướng xác định cho chị tiếp tục đi tới với niềm vui tươi,
hy vọng và hạnh phúc, mặc dù chị sẽ gặp thấy những khó khăn và
đen tối trong cuộc sống lữ hành của chị.
Nếu không, vị
linh hướng nên gợi ý cho chị đổi hướng sống trong bình an, đồng
thời bước theo con đường Chúa mời gọi chị đi với can đảm và hạnh
phúc.
Sự chọn lựa
và quyết định với tự do nội tâm (tòa trong) này phải được xác
lập và công nhận bởi thẩm quyền chiếu theo Hiếp pháp và nội qui
của Dòng (tòa ngoài): Hội đồng lãnh đạo bỏ phiếu quyết định
(biểu lộ sự kêu gọi của Chúa), có thể được trợ giúp bởi phiếu
tham khảo (lượng định) của Cộng đoàn.
(Hát CHÚA CẤT
TIẾNG GỌI CON) |
VỀ MỤC LỤC |
|
CHO VÀ GHÉP BỘ PHẬN CƠ THỂ
|
Ghép bộ phận
cơ thể được thực hiện lần đầu tiên tại Hoa Kỳ vào ngày 23 tháng
12 năm 1954 khi trái thận của người anh, Ronald Herrick, tặng
cho người em song sinh Richard Herrick. Phẫu thuật do bác sĩ
Joseph E. Murray thực hiện thành công mỹ mãn tại bệnh viện Peter
Bent Brigham, thành phố Boston.
Người nhận
sống thêm được 8 năm với mọi sinh hoạt bình thường cho tới khi
vĩnh biệt cõi trần vì một căn bệnh không liên quan tới thận. Và
người tặng tiếp tục cuộc sống khỏe mạnh với nghề dạy học cho tới
khi đủ tuổi nghỉ hưu.
Diễn tiến
phẫu thuật đã được họa sĩ Joel Babb ghi lại một cách hết sức
linh động, chính xác và hiện nay vẫn còn được trưng bầy tại thư
viện của Đại học Harvard ở Boston
Năm 1990, bác
sĩ Murray và bác sĩ E. Donnall Thomas được trao tặng giải Nobel
Y Học vì đã tiên phong đóng góp cho y học một sáng kiến độc đáo
và vô cùng nhân đạo là dùng chuyển-ghép bộ phận- mô bào cơ thể
để trị bệnh của con người. Bác sĩ Murray chuyển ghép thận còn
bác sĩ Thomas có công trong việc đặt nền móng cho việc ghép
chuyển tế bào tủy xương để chữa trị ung thư máu.
Từ đó, phẫu
thuật ghép cơ quan, mô bào phát triển mạnh mẽ với các kỹ thuật
tân tiến, tinh vi, mang lại sự sống cho nhiều người bệnh và
nhiều niềm vui chia sẻ cho người hiến tặng.
Xin cùng tìm
hiểu về việc làm có tính cách nhân đạo này.
Khái niệm về
việc chuyển-ghép bộ phận đã manh nha từ thuở xa xưa, nhưng trở
ngại chính là sự khước từ (reject) tế bào lạ của người nhận và
sự chống lại của mảnh ghép với ký-chủ (graft-versus-host).
Các khoa học
gia đã chứng minh được rằng, có một “sức mạnh sinh học”
(biological force) nào đó trong cơ thể gây cản trở cho sự ghép
này. Đó là phản ứng miễn dịch. Hệ miễn dịch có khả năng phân
biệt vật lạ xâm nhập cơ thể như vi khuẩn, virus, mô bào rồi tiêu
diệt chúng để tự bảo vệ. Cơ quan bộ phận ghép là vật lạ đối với
người nhận.
Sau nhiều năm
nghiên cứu, khoa học đã tìm ra cách để vượt qua trở ngại đó bằng
các chất ức chế hệ miễn dịch khi chuyển ghép. Nhiều dược phẩm,
hóa chất được tìm ra. Khởi đầu là với steroid cortisone, rồi
mercaptopurine, phóng xạ, antilymphotic serum (ALS), thuốc chống
ung thư bạch cầu (leukemia) Azathioprine rồi đến kháng sinh
Cyclosporine được dùng từ năm 1983.
Với sự phổ
biến của cho-ghép thì một nan giải khác lại xuất hiện. Đó là sự
thiếu các bộ phận để ghép. Hàng năm, có nhiều chục ngàn người ở
khắp nơi cần cơ quan mà không có, và nhiều bệnh nhân lâm chung
trong khi chờ đợi “Món Quà Tặng Đời Sống” -Gift of Life- đó.
Tại Hoa Kỳ,
có gần 80,000 bệnh nhân trong danh sách chờ đợi ghép bộ phận và
mỗi tháng có khoảng 3000 người mới được thêm vào.
Trong năm
2001, có 2025 bệnh nhân thận, 1347 bệnh gan, 458 bệnh tim và 361
bệnh phổi thiệt mạng vì mỏi mòn tuyệt vọng chờ đợi được ghép.
Để giải quyết
phần nào sự thiếu hụt này, giới chức y tế và nhiều tổ chức thiện
nguyện tại các quốc gia đã kêu gọi lòng nhân đạo của công chúng
trong việc hiến tặng những sợi mô bào huyết mạch của mình để cứu
sống người khác.
“Ghép”
(transplant) là phẫu thuật đặt một cơ quan hoặc mô bào lấy từ cơ
thể người cho chuyển sang một người bệnh có nhu cầu.
Bộ phận ghép
có thể từ người còn sống hoặc từ thi thể người hứa tặng vừa mới
vĩnh viễn ra đi.
Các bộ phận
từ người còn sống là:
- Thận
Đây là cơ
quan được hiến nhiều hơn cả. Sau khi hiến tặng một trái thận,
người cho vẫn sống đời sống bình thường vì trái thận còn lại có
đủ khả năng chu toàn nhiệm vụ cho hai thận.
- Gan
Mỗi người có
thể tặng một miếng gan và miếng gan này có thể tăng sinh và hoạt
động bình thường ở người nhận.
- Phổi
Mặc dù các
thùy phổi không tái sinh, nhưng mỗi người có thể tặng một thùy
phổi.
- Tụy tạng
Cũng như
phổi, tụy tạng không tái sinh nhưng mỗi người có thể tặng một
phần tụy tạng mà vẫn không bị hậu quả xấu nào.
Các bộ phận
cho không để dành lâu ngày được mà phải dùng trong một thời gian
nhất định. Chẳng hạn thận có thể được cất giữ trong 72 giờ, gan
18 giờ, tim 5 giờ, tụy tạng 20 giờ, giác mạc 10 ngày, da , xương
và van tim giữ được từ 5 năm trở lên, kể từ khi lấy ra.
Do đó ruột,
giác mạc, da, xương, tủy xương, tĩnh mạch, gân, dây chằng, van
tim, tai trong, sụn, máu ở cuống rốn, tế bào mầm trong máu ngoại
vi được thu nhận cất giữ trong ngân hàng bộ phận để dùng khi
cần.
Với cơ thể
một người quá cố thì hầu hết các bộ phận, mô bào đều được thu
nhận, sử dụng. Theo ước lượng, mỗi người hứa tặng thì tế bào của
họ có thể ghép cho 50 người bệnh có nhu cầu.
Khi não bộ
ngưng hoạt động hoàn toàn và vĩnh viễn, người cho sẽ được duy
trì tình trạng “sống” với tim phổi còn hoạt động trong một
khoảng thời gian ngắn để sửa soạn giải phẫu lấy cơ quan.
Thường
thường, mô bào như da, xương, van tim được lấy sau khi tim ngưng
đập 24 giờ, giác mạc được lấy 12 giờ.
Chỉ một số
nhỏ tử vong không hiến cơ quan được, như là nhiễm HIV dương
tính, ung thư đang phát triển mạnh, một số bệnh truyền nhiễm
trầm trọng. Còn đa số các bệnh kinh niên khác đều có thể hiến
thân xác của mình.
Trước khi lấy
bộ phận, bác sĩ chuyên khoa sẽ kiểm soát rất kỹ coi xem bộ phận
hiến tặng có hội đủ những tiêu chuẩn căn bản.
Từ trẻ sơ
sinh tới lão nhân 65 tuổi trở lên đều có thể cống hiến bộ phận
và mô bào.
Người dưới 18
tuổi, cần sự đồng ý của cha mẹ hoặc người đỡ đầu hợp pháp.
Ở Hoa Kỳ, mỗi
năm có từ 10,000-14,000 người mãn phần hội đủ tiêu chuẩn để hiến
bộ phận nhưng chỉ có non nửa số người này thực sự cho các bộ
phận.
Thủ tục hiến
cơ quan rất đơn giản và gồm có:
a- Tại đa số
các tiểu bang Hoa Kỳ đều có một văn phòng ghi danh người hiến
tặng.
b-Mỗi người
có thê ghi ý định tặng hiến trên bằng lái xe khi thi hoặc gia
hạn bằng.
c- Ký tên
đồng ý trên tấm thiệp tặng bộ phận (donnor card), cất trong ví
cho tới khi có cơ hội ghi trên bằng lái xe.
d- Cần cho
thân nhân hay ý định của mình để tránh sự phản đối sau khi mình
qua đời. Theo ước lượng, có tới 35% người có ý định hiến tặng mà
không bao giờ cho được, vì gia đình không chịu ký giấy đồng ý.
Do đó, thân nhân đôi khi cũng được yêu cầu ký một giấy tán trợ ý
định của người hiến tặng.
Năm 1984,
Quốc Hội Hoa Kỳ ban hành đạo luật về Ghép Bộ Phận. Việc mua bán
bộ phận bị nghiêm cấm để tránh người lắm tiền nhiều của lạm
dụng.
Các bộ phận
cho sẽ được đối chiếu với người nhận bằng hệ thống ghi danh do
cơ quan United Network for Organ Sharing (UNOS), trụ sở tại
thành phố Richmond, bang Virginia, điều khiển. Cơ quan chịu
trách nhiệm việc phân phối một cách công bằng các bộ phận tặng
hiến cho những người trong danh sách chờ đợi.
Ở Hoa Kỳ, các
bệnh viện phải thông báo các trường hợp tử vong cho Tổ Chức Cung
Cấp Bộ Phận (Organ Procurement Organisation). Nếu tổ chức thấy
cơ quan hoặc mô bào của tử thi thích hợp, họ sẽ cử người tới
thương lượng với gia đình người quá cố để xin bộ phận.
Các bệnh sau
đây có thể được ghép cơ quan: bệnh động mạch tim, viêm và xơ
cứng gan; COPD; tiểu đường với biến chứng thận và mắt; cao huyết
áp với suy tim; bệnh đa nang thận; hội chứng ruột ngắn.
Ghép thận phổ
biến nhất vì suy thận là chuyện dễ xảy ra khi bị cao huyết áp,
tiểu đường, nhiễm trùng tiết niệu. Người cho cũng có sẵn vì con
người chỉ cần một trái thận để sống bình thường. Kỹ thuật thay
thận cũng giản dị. Thận suy có thể để nguyên tại chỗ và thận mới
được ghép phía dưới thận bẩm sinh.
Chuyển-Ghép
bộ phận là việc làm có tính cách nhân đạo dựa trên sự vị tha và
niềm tin chung của con người. Hầu hết các tôn giáo đều chấp nhận
sự sự hiến tặng bộ phận hoặc mô bào cơ thể như một lý tưởng nhân
đạo, một hành động hoàn toàn bác ái, biểu hiệu của tình yêu
thương và tặng hiến..
Bác sĩ đang
điều trị sẽ giới thiệu, giúp đưa tên người có nhu cầu vào danh
sách chờ đợi.
Người có nhu
cầu phải đích thân tới một trong những bệnh viện chuyên vể ghép
cơ quan để làm thủ tục cần thiết. Các bệnh viện này đều là hội
viên của UNOS và tại Hoa Kỳ có hơn 200 trung tâm.
Bác sĩ của
bệnh viện sẽ khám nghiệm để coi xem mình có hội đủ các điều kiện
nhận không. Ta có thể ghi danh ở nhiều bệnh viện khác nhau và
mỗi bệnh viện có tiêu chuẩn hơi khác nhau. Tên của mình sẽ đưa
vào một danh sách chung của cả nước.
Khi có bộ
phận hiến, tất cả bệnh nhân đợi đều được mang ra để so sánh với
bộ phận cho này.
Các tiêu
chuẩn chọn lựa gồm có loại máu, loại cơ quan, kích thước, nhu
cầu cấp bách của bệnh nhân, thời gian chờ đợi và không gian cách
biệt giữa người cho và người nhận. Bộ phận cho sẽ dành cho người
bệnh nào thích hợp nhất với cơ quan hiến tặng.
Trung bình,
thời gian đợi để được ghép tim là 230 ngày, phổi 1068 ngày, gan
796 ngày, thận 1121 ngày và tụy tạng 501 ngày.
Theo thống
kê, tại Hoa Kỳ mỗi năm có khoảng 750,000 mô bào được chuyển
ghép.
Tới tháng 1
năm 2008, có trên 97,900 người đợi để được ghép bộ phận mà mỗi
tháng chỉ có khoảng 80 người nhận được tin vui có bộ phận và 20
người thiệt mạng vì mỏi mòn chờ đợi, không có tin vui.
Theo cơ quan
phối hợp hiến ghép cơ quan Hoa Kỳ thì vào năm 2004, 50% ghép
thận là từ người tặng còn sống, và đã có hơn 320 trường hợp tặng
một phần gan và 12 ca cho một thùy phổi.
Năm 2004,
khoảng 2500 tủy sống, 7000 giác mạc được ghép tại Hoa Kỳ.
Tới tháng 4
năm 2008, số người ghi danh hứa hiến tặng thân xác tại Hoa Kỳ đã
lên tới 70 triệu với khoảng 35% người ghi ý muốn tặng cơ quan
trên bằng lái xe của mình.
Vì sự khan
hiếm bộ phận cơ thể, một số vấn đề có tính cách luân lý và đạo
đức được nêu ra:
- Liệu có nên
dành ưu tiên ghép cho bệnh nhân có nhiều hy vọng sống sót?
- Liệu cha mẹ
trẻ em được ưu tiên ghép để chăm sóc con cái?
- Liệu có nên
tưởng thưởng để khuyến khích nhiều người hiến tặng? Hoặc thân
nhân người quá cố đồng ý việc hiến được tặng một số hiện kim?
- Liệu nại cớ
đi du lịch tới các quốc gia đang mở mang rồi mua ghép cơ quan bị
coi là lạm dụng, khai thác người nghèo?
- Liệu tử tù
chờ đợi hành hình có thể hiến tặng cơ quan để giúp thân nhân
được hưởng một phần lợi nhuận?
Chủng tộc có
vai trò quan trong trong việc ghép cơ quan. Tại Hoa kỳ, một vài
sắc dân thiểu số thường mắc các bệnh cần thay cơ quan, như người
Mỹ gốc châu Phi bị bệnh thận nhiều hơn người da trắng. Sự ghép
thành công hơn nếu bộ phận thay thế đến từ người cùng chủng tộc.
Do đó nếu người thiểu số không chịu hiến cho thì danh sách người
đợi sẽ dài hơn.
Nhiều người
e ngại rằng, khi biết mình đã hứa tặng bộ phận, bác sĩ sẽ không
tận tâm cứu chữa. Xin đừng e ngại, vì lương tâm chức nghiệp
không cho phép họ làm như vậy. Vả lại, các nhà chuyên môn khác
thực hiện việc thu-ghép bộ phận chứ không phải bác sĩ gia đình.
Họ chỉ lấy cơ quan sau khi bác sĩ điều trị đã cố gắng tìm đủ mọi
cách để cứu sống bệnh nhân mà vẫn thất bại.
Nhiều người
thắc mắc là liệu khi tặng cơ quan, thân hình có bị biến dạng vì
những vết cắt mổ?
Một lần nữa
xin cứ an tâm, vì lấy cơ quan cũng là những phẫu thuật tế nhị,
thực hiện cẩn thận để cơ quan lành lặn dùng được. Do đó, các vết
cắt mổ gọn gàng, được khâu lại đàng hoàng, chu đáo.
Chi phí cho
việc chuyển-ghép là vấn đề cần lưu ý.
Theo luật lệ
cũng như mục đích tối hậu của sự hiến tặng, người cho không được
nhận một lợi nhuận nào.
Với việc nhận
ghép, phí tổn cũng khá cao. Theo organdonor.gov, vào năm 2005,
ghép một trái thận tốn khoảng 210,000 mỹ kim còn ghép nhiều bộ
phận như gan-tụy tang-ruột chi phí lên tới 800,000 đô la.
Đây là món
tiền quá lớn nhưng bảo hiểm cá nhân, các chương trình của chính
phù như Medicare, Medicaid, một số các tổ chức từ thiện có thể
giúp đỡ trang trải.
Kết luận
Trong dịp đầu
năm, cùng với đón TẾT, mừng XUÂN, những lời chúc tụng, những
cánh thiệp nhiều màu xinh xinh được luân lưu. Để chúc nhau khang
an, thịnh vượng, “muôn người Hạnh Phúc chan hòa”.
Hạnh phúc đến
từ những việc rất nhỏ: một nụ cười của bé thơ; một cánh thư từ
người bạn cố tri, tiếng chim hót líu lo trên cành cây, một chén
cơm cho người đói khát …
Đức Phật
Thích Ca có giảng: “Cả trăm ngọn nến có thể đốt lên từ một ngọn
nến nhỏ nhoi mà ngọn nến này không sớm tắt. Hạnh phúc chẳng bao
giờ giảm bớt khi ta chia sẻ”.
Chia sẻ một
mô bào, một chút máu, một bộ phận cho người bệnh có nhu cầu được
cứu sống.
Bác sĩ Nguyễn
Ý-Đức, Texas-Hoa Kỳ |
VỀ MỤC LỤC |
NHỚ AI (3) -
Chuyện phiếm của Gã Siêu |
Sau khi trình làng hai bài
“Nhớ ai”, để bàn về nghệ thuật “bắn thuốc lào”, gã tưởng rằng
mình chỉ là một người hùng cô đơn, vì còn bám vào cái điếu bát,
cái điếu cày trong khi bàn dân thiên hạ đang hưởng ứng phong
trào bài trừ thuốc lá mà các vị tai to mặt lớn trong ngành y,
cũng như trong Liên Hiệp Quốc đã đưa ra.
Hơn thế nữa, gã cứ tưởng rằng
bài viết của gã chỉ là một tiếng kêu trong sa mạc, một viên sỏi
nhỏ rơi tõm xuống mặt nước hồ thu mà thôi.
Ai dè gã đã nhận được sự
hưởng ứng của nhiều người. Những người này cũng đã hay đang còn
hút thuốc lào, nên chi :
- Đồng thanh tương ứng, đồng
khí tương cầu”, có nghĩa là những người cùng một khuynh hướng
thì thường tìm đến nhau.
Hay :
- Đồng bệnh tương lân”, có
nghĩa là những người cùng một cảnh ngộ, thì thường giúp đỡ lẫn
nhau.
Hôm nay, gã xin lượm lặt
những kỷ niệm vui buồn của một thời hút thuốc lào, để trình bày
cùng bàn dân thiên hạ như một kết thúc có hậu.
Vị đầu tiên phát biểu một
cách hăng say là một cụ đã bước vào cái tuổi “thất thập cổ lai
hy”, nên rất xứng đáng mang danh hiệu là bậc trưởng lão. Cụ ấy
hiện nay đang sống ở bên Mỹ, thế mà lúc nào cũng kè kè chiếc
điếu cày bên mình. Cụ ấy còn tuyên bố một cách rất đao to búa
lớn :
- Bà xã tớ khuyên tớ bỏ thuốc
lào, tớ chỉ ậm ờ cho qua, rồi thì chứng nào vẫn tật ấy, chó đen
vẫn giữ mực, mèo vẫn hoàn mèo mà thôi.
Khi vắng mặt bà xã, cụ ấy đã
hăng tiết vịt mà tuyên bố với bọn đàn em đang trố mắt nhìn :
- Em một bên và điếu một bên,
bỏ thế quái nào được.
Mỗi lần họp hội, lâu lâu
người ta lại thấy cụ ấy…lỉnh ra ngoài. Bàn dân thiên hạ tưởng
rằng cụ ấy đi nghe điện thoại di động, hay bận công việc đột
xuất. Nào ngờ cụ ấy lỉnh ra ngoài, chỉ để bắn một phát thuốc
lào, sướng mê cu tơi.
Thậm chí, cụ ấy còn gửi cho
gã một tấm hình ngồi trong chiếc xe Mercedes sang trọng, thả
khói ra cứ y như đầu tầu xe lửa, những làn khói quyện lẫn vào
nhau cứ y như phượng múa rồng bay. Nhìn vào tấm hình, gã phải
gật gù khen đó là một tác phẩm nghệ thuật, mang tính cách hội
nhập văn hóa, tân cổ giao duyên, đông tây hòa hợp.
Thế nhưng, lâm ly bi đát hơn
cả là tâm sự của một anh bạn đã từng vào tù ra khám. Anh bạn ấy
kể lể tâm sự như sau :
Tôi chỉ biết hút thuốc lào từ
khi bị nhốt trong tù. Thực vậy, ở trong tù, thuốc lào thật khan
hiếm, nhưng ngược lại tiếng rít của nó phải nói là như xé gió,
bởi vì cái điếu thường được làm bằng đá vân ban, hay đá hoa
cương. Dĩ nhiên, tôi chỉ nói đến những ngày tôi ở trại Nam Hà
ngoài Bắc mà thôi.
Sau đó, tôi được trả tự do và
về làm ruộng tại Long Khánh. Tại đây, tôi vẫn tiếp tục…hút thuốc
lào trong khi lao động trên ruộng đồng.
Mặc dù không chuyên, nhưng
tôi cũng đã có dịp thử qua các loại điếu, từ điếu bát đến điếu
cày. Từ điếu làm bằng vỏ trái lựu đạn đến điếu nhôm làm bằng cán
chiếc băng ca, và kể cả điếu làm bằng thủy tinh…
Và có một loại điếu mà tôi
cảm thấy thú vị nhất, đó là điếu nặn bằng đất, còn xe thì làm
bằng ống rạ. Trước khi hút loại điếu này, thì cần phải uống một
ngụm nước và ngậm ở trong miệng. Hút xong, thì một là nuốt nước
vào trong bụng, hai là nhổ toẹt một cái xuống đất, cứ vô tư như
người Hà Nội. Sau đó mới thoải mái nhả khói ra…
Còn một cái thú khác nữa của
việc hút thuốc lào, mà tôi đã thề với đầu gối tôi rằng :
- Sống để bụng chết mang
theo, dứt khoát không thể bật mí cho bất kỳ ai, nhất là bật mí
cho bà xã thì sẽ chẳng bao giờ.
Tuy nhiên trong bàu khí sôi
nổi bàn về việc hút thuốc lào, tôi đành miễn cưỡng tỏ lộ, để nếu
mai tôi chết, thì bọn hậu sinh khả…ố, lỡ có táy máy thì cứ việc
nhắm mắt mà làm theo. Đó là cái thú ngậm chung cùng…một xe.
Chuyện là như thế này :
Khi uống rượu cần thì mọi
người cùng chung một vò, nhưng mỗi người một cần, một ống hút,
muốn hút thế nào thì mặc sức, tùy theo tửu lượng của mình.
Còn khi hút thuốc lào thì
khác, mỗi cái điếu chỉ có một xe, thành thử mọi người cùng chung
một điếu và cùng kéo một xe. Qủa là một hình ảnh của hiệp thông,
còn đẹp hơn cả chén nước mắm ở giữa mâm cơm, mà tác giả Pazzi đã
mô tả trong cuốn “Người Việt cao quí” để ca tụng tinh thần hợp
nhất của gia đình Việt Nam.
Việc ngậm chung một xe đã làm
cho tôi cảm thấy cõi lòng mình lâng lâng. Sở dĩ như thế vì việc
ngậm chung một xe của tôi hơi bị đặc biệt một chút.
Số là khi tôi sống cuộc đời
nông dân, chân lấm tay bùn ở Long Khánh. Lúc đó tôi đã lên chức
đội trưởng sản xuất. Cô đội phó của tôi đúng là một “cô em Bắc
kỳ nho nhỏ”. Tuy là Bắc kỳ 75, nhưng trông cô rất duyên dáng mặn
mà.
Giữa cảnh trời mây lãng đãng,
gió lao xao trên đồi cao, chân tay lấm lem, mồi hôi nhễ nhãi, mà
chơi một điếu thuốc lào, nhưng điếu thì phải được nặn bằng đất,
còn xe thì phải được làm bằng ống rạ, mới thấy được sự…”phê” của
thuốc lào mới sung sướng biết là chừng nào. Mắt lờ đờ, thở hổn
hển, miệng khẽ rên lên :
- Ôi đê mê, đê mê.
Một lần kia, tôi lên gò mối
để nghỉ giải lao, định bắn một phát, thì cô đội phó đến bên cạnh
để hỏi ý kiến về việc chấm điểm cho các đội viên. Xong việc, tôi
nặn đất làm điếu, cắt ống rạ làm xe.
Vì là một nông dân bất đắc
dĩ, trong người vẫn còn đọng lại một chút văn hóa phương Tây,
và nhất là thói “ga lăng” của dân Phú Lãng Sa, nên tôi lịch sự
nói với cô đội phó :
- Xin lỗi, khói thuốc có làm
cho cô khó chịu hay không ?
Cô ấy trả lời một cách hồn
nhiên :
- Thầy bu em đều biết hút
thuốc lào. Mùi khói thuốc chỉ làm cho em thêm nhớ nhà mà thôi.
Tôi bèn mượn câu thơ của Hồ
Dzếnh để đùa vui với cô một chút :
- Nếu nhớ nhà, thì nên châm
một điếu thuốc.
Nhưng cô bỗng nhoẻn miệng
cười, nụ cuời như khắc ghi vào con tim của tôi một dấu ấn không
bao giờ nhạt phai. Cô ấy nói :
- Ngày còn nhỏ, lúc vắng bố
mẹ, thỉnh thoảng em cũng bặp bặp vài cái xem nó ra làm sao.
Kể từ ngày đó, mỗi lần hút
thuốc, nếu có dịp, tôi đều lịch sự mời cô đội phó…bặp bặp trước
một chút. Khi tôi ngậm xe để hút, thì không còn thấy vị đắng của
thuốc lào nữa, mà chỉ thấy vị ngọt của làn môi hồng cô để lại và
hương thơm của cọng rạ mới, một hương thơm nhè nhẹ từ đồng ruộng
nơi thôn dã tỏa lan.
Tôi chợt nhớ những câu thơ
của Nhật Phạm trong bài “Kỷ niệm xưa” :
- Lượm mót được củ khoai
sùng,
Cặp vô bằng răng,
Rồi đưa cho nhau cắn,
Mà sao nó ngọt thôi là
ngọt.
Tới đây, tôi cũng xin kể lể
cà kê dê ngỗng thêm một chút xíu nữa về cô em Bắc kỳ nho nhỏ, cô
đội phó xinh xinh của tôi.
Cô vừa là đội phó lao động
sản xuất, vừa là đội phó văn nghệ, vừa là đội phó của ca đoàn.
Dĩ nhiên trong những lãnh vực này, tôi đều là đội trưởng.
Tôi cũng xin thanh minh thanh
nga rằng thì là giữa cô ấy và tôi, chỉ có một sự cộng tác chân
thành, chứ chẳng có một ý đồ đen tối hay mưu toan lợi dùng nào
sốt.
Cha sở của tôi thường bảo :
- Tháng năm là tháng Đức Bà
và cũng là tháng văn hóa nghệ thuật của giáo xứ.
Và thế là mười mấy đội hoa
được tổ chức, biểu diễn tài nghệ của mình trong ca vũ nhạc để ca
khen tán dương Đức Mẹ. Cô đội phó của tôi trong tháng năm này cứ
giống y như một bà quản.
Thực vậy, cô tập họp các em
lại để thành lập đội hoa và tự sáng tác ra các điệu múa cho việc
tiến nhang và dâng hoa cũng như dâng nến…
Còn tôi í à ? Tôi viết bài
hát cho hợp với màu hoa và các động tác mà cô đã sáng tác ra. Có
khi đang đập lúa, tự nhiên nghĩ ra một ý nhạc, tôi phải vội vã
lấy bút ra ghi lại liền, kẻo để lâu thì lại quên béng đi mất
thôi.
Mỗi lần thấy tôi lôi giấy bút
ra là cô đội phó liền hiểu ý. Trước tiên cô nháy nháy với đám
bạn, sau đó tự động đi nặn điếu và cắt ống rạ…Khi đã ghi lại hết
ý nhạc, thì tôi đã có sẵn điếu và đóm. Chỉ cần tớp một ngụm
nước, đánh một que diêm, làm một hơi dài, rồi nhẹ nhàng nuốt
nước vào bụng, vì vốn lịch sự tây, nên tôi chẳng nỡ nhổ toẹt
xuống đất như mấy chú ba Tàu Chợ Lớn. Sau đó lim dim nhả
khói…xanh tan dần giữa trời xanh. Ôi mới khoái làm sao !
Có người bảo rằng mùi thuốc
lào quả thực là hôi làm cho người khác không thể chịu nổi. Theo
tôi thì khác. Mùi thuốc lào cũng như mùi sầu riêng, mùi đờn ông,
mùi đờn bà, mùi thời gian, mùi cuộc đời, thậm chí đến cả mùi mắm
tôm… không thể bị gọi là mùi hôi được.
Những loại mùi này rất “huyền
hoặc kỳ bí”, chúng biến đổi tùy theo sự yêu ghét và tâm tính của
từng người. Người thích thì sẽ chết mê chết mệt tới độ ghiền.
Còn kẻ ghét thì né tránh xa xa, nuốt nước miếng nhìn người khác
thưởng thức, đôi khi còn muốn nếm thử cho biết mùi đời, để coi
thử nó như thế nào. Còn nếu gọi là mùi hôi, thì đã chạy mất tăm
mất dạng.
Trở lại với cô đội phó. Một
thời gian sau, cô ấy đi lấy chồng xa. Còn tôi thì theo sự diễn
tả của Huy Cận :
- Một hôm trận gío tình yêu
thổi,
Đứng ngẩn trông vời…áo tiểu
thư.
Có lẽ phải đổi ba chữ “áo
tiểu thư” thành “áo nông dân” cho phù hợp với cốt cách của thời
đại. Lúc bấy giờ, hình như mọi người đều nai lưng ra để mà lao
động hầu tìm kiếm chén cơm manh áo cho bản thân và gia đình giữa
một hoàn cảnh đầy khó khăn, chứ chẳng ai mơ màng tới sự vinh
quanh nơi những giọt mồ hôi và nước mắt, như một khẩu hiệu của
nhà nước vốn thường được đọc trên truyền thanh và truyền hình,
cũng như được giăng mắc khắp các nẻo đường trong thành phố.
Tuy nhiên những kẻ ngứa
miệng còn chua thêm mấy câu nữa cho ý nghĩa được đậm đà khó quên
:
- Lao động là vinh quang,
Lang thang thì chết đói.
Hay nói thì ở tù.
Lù khù thì sống lâu.
Có một người đã cắc cớ hỏi gã
:
- Người ta nói say như tắc kè
say thuốc lào nghĩa là làm sao ?
Theo gã hiểu có lẽ là say
thuốc phiện thì đúng hơn. Gã không nhớ đã đọc trong một cuốn
sách nào đó một giai thoại như sau :
Một ông nọ sống ở Hà Nội, là
dân “hít tô phe” chính hiệu con nai vàng, nghĩa là dân nghiện
thuốc phiện thức thiệc. Những người này khi hút phải nằm
nghiêng, đưa chiếc tẩu ra mà hơ trên ngọn đèn dầu, nên một bên
tai thường bị bẹp xuống. Vì thế người ta cũng thường gọi họ
là…dân bẹp tai hay dân tại bẹp.
Trong nhà có một con tắc kè
cứ bám đậu ở trên trần. Mỗi khi ông ta làm một ngao thuốc phiện
rồi nhả khói lên trần, thì con tắc kè cũng được hưởng xái. Không
chỉ một mình ông ta quờ quạng say thuốc, mà con tắc kè trên trần
cũng quờ quạng say thuốc y như ông ta vậy. Khi ông ta chết, con
tắc kè mấy ngày sau cũng chết theo vì bị cơn nghiện vật vã.
Một người khác, mãi tận Đan
Mạch đã gửi về cho gã một bài viết bằng tiếng Ăng lê của một anh
chàng Mẽo đi du lịch Việt Nam và cũng tập tành hút thuốc lào.
Gã xin dịch lại bài viết ấy
để bàn dân thiên hạ cùng thưởng thức, cũng như để biết xem một
người nước ngoài nghĩ gì về vấn đề này. Bài viết mang tựa đề
“Hãy để NÓ vào điếu và hãy hút”. Tác giả Teddy de Burca Jnr. Đã
ghi lại như thế này :
Dân ghiền thuốc lào ở Việt
Nam hẳn phải có hai lá phổi bằng sắt.
Dưới tác dụng của thuốc
lào, tôi đã chứng kiến cặp mắt đờ đẫn của những con người cường
tráng…Nhiều du khách ngoại quốc quên mất bữa ăn của mình vì chú
tâm vào cái bát điếu lúc nào cũng sẵn sàng như mời gọi…Thậm chí
có lần tôi thấy một anh chàng Mỹ gốc Phi, mặt mũi tái mét, mà
tôi sẽ kể lại sau.
Dĩ nhiên việc ” hút thuốc
bằng tẩu” của người phương Tây gợi lên hình ảnh một qúi ông
trong bộ đồ lớn nổi bật dưới ánh lửa với chai rượu mạnh trên tay
nơi bàn ăn, hay cũng có thể là hình ảnh một anh chàng thủy thủ
lão luyện nào đó bên cạnh một cô gái, mà anh ta quen được nơi
mỗi bến cảng, đang hài hòng với ống điếu trên môi, khi anh ta
ném cái nhìn về phía biển khơi, vì nơi đây mới chính là tình yêu
đích thực và duy nhất trong suốt cả cuộc đời anh ta. Còn các cô
nàng thì làm gì mà có được lòng thủy chung.
Tuy nhiên, cái điếu của
người Việt Nam lại có một chút gì đó là thanh tao. Cái điếu ấy
giống như một khẩu bazooka nho nhỏ, được gọi là điếu cày và
thuốc để hút được biết với tên gọi là “thuốc lào”. Nếu là một
tân binh thiếu kinh nghiệm về loại vũ khí hạng nặng này, bạn
không thể lường trước được hậu quả cúa nó như thế nào. Nó có thể
làm bạn quay cuồng và chẳng còn thiết ăn uống gì nữa.
Cái điếu cày ấy được làm
bằng một khúc tre dầy và đôi khi còn được phủ lên một lớp véc ni
mỏng, dài khoảng bảy tấc, một đầu có đục lỗ để bạn hút và một
vật hình nón hoặc cái bát để ở gần đáy làm chỗ cho thuốc vào.
Thuốc lào thì thô và đen như được đem đốt hay phơi ngoài nắng.
Người hút bắt đầu bằng
việc lấy một cục thuốc, vê tròn trên đầu ngón tay truớc khi đặt
vào nõ điếu. Tiếp đến, dùng que đóm, vừa đốt thuốc, vừa kéo…thật
đã. Người hút tạo ra một đám khói được nước làm cho mát từ
trong ống điếu. Sau cùng, bạn đốt cho thuốc cháy đỏ và rít một
hơi thật dài. Khói được tạo thành từ trong ống điếu kêu ùng ục
như trút cơn giận dữ. Đó là âm thanh đã làm cho tôi chết mê chết
mệt, khi lần đầu tiên đặt chân tới Việt Nam. Nó vang lên khi
bạn đang đi trên đường phố giữa dòng người qua lại, trong quán
bia hơi, hay tại quầy uống trà. Nó vang lên với một ai đó và
làm cho lá phổi của họ bớt đi phần trống vắng.
Sau khi rít một hơi thật
mạnh và tỏa ra một làn khói, mắt họ trở nên đờ đẫn, trán họ toát
ra những giọt mồ hôi, và có khi toàn thân họ đổ sụp xuống.
Những động tác này làm
tôi nhớ tới một anh chàng Mỹ gốc Phi. Tại một nhà hàng nọ, anh
ta đến bên người bạn tôi đang nhả khói thuốc lào. và nói :
- Xin chào.
Anh ta nhìn chằm chặp vào
chiếc điếu cày và cứ ngỡ đó là một khẩu súng. Anh ta nói với
bạn tôi :
- Từ thập niên 80 cho đến
bây giờ, tôi chưa một lần được hút.
Và thế là anh ta “dinh tê”
chiếc điếu cày về bàn của mình và bắn một phát. Lát sau, tôi
nhìn thấy toàn thân anh ta tái mét, đầu quẹo hẳn sang một bên và
hai tay quờ quạng…
Người hầu bàn Việt Nam
thấy vậy bèn nói với tôi :
- Anh ta say như điếu đổ.
Điều này có thể hiểu là
“say như diều lên mây”, hay “say như bị đá đè” đến nỗi đánh rơi
cả ống điếu. Còn tôi thì cứ tưởng anh ta sắp chết, nên vội chạy
đi lấy cho anh ta một ly nước. Thế nhưng, khi quay trở lại, tôi
thấy anh ta đã bò ra khỏi nhà hàng và bước đi còn loạng quạng…
Tác giả bài viết đã đúc kết
kinh nghiệm thuốc lào của mình như sau :
Dĩ nhiên, tất cả những
điều kể, nếu trên không thể làm cho bạn ngừng hút thuốc lào, thì
chẳng có gì ngăn cản được bạn. Vậy bạn cứ hút đi nhé, nhưng hãy
nhớ là sau khi hút, đừng vội đứng lên, kẻo bị té nhào xuống đất.
Người gửi cho gã bài viết
trên, đã ngẫu hứng làm thêm mấy câu thơ và gã xin mượn tạm như
một kết luận :
- Thuốc lào ơi hỡi thuốc lào,
Mi ở nước nào, mi chạy sang
đây ?
Làm cho lắm kẻ mê say,
Say như điếu đổ lăn quay ra
đường.
Sở dĩ lăn quay ra đường là
bởi vì họ hút theo phong cách Hà Nội. Như gã đã trình gày : Tại
thành phố này “Nước chè nóng và điếu cày kêu” hiện diện trên
từng khu phố. Ngồi vỉa hè mà hút điếu đầu tiên ban sáng, thì chỉ
có nước…lăn quay ra đường mà thôi.
Gã Siêu
gasieu@gmail.com |
VỀ MỤC LỤC |
|
- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến,
bài vở..., xin gởi về địa chỉ
giaosivietnam@gmail.com
- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục
vụ của Giáo sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các
Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn
gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực
Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh
vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức
Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và
Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quy vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại
www.conggiaovietnam.net
Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị
Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã
sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác
nhau.
TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca
Phạm Quốc Sử
USA
|
|
*************
|
|