Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam

 

 

 

ĐỰƠC CHỌN GIỮA LOÀI NGƯỜI
VÀ CHO LOÀI NGƯỜI  (x. Dt, 5.1)

 

GIÁO SĨ:

Xuất phát từ giáo dân, hiện diện vì giáo dân và cậy dựa vào giáo dân

 

ĐỂ CÙNG LÀM VINH DANH THIÊN CHÚA

 

www.conggiaovietnam.net                          giaosivietnam@gmail.com

Đặc San Điện Tử    Giáo Sĩ Việt Nam    Số 88, Chúa Nhật 08.03.2009


MỤC LỤC 

Mầu Nhiệm Thánh Của Lễ Tạ Ơn                                                                           Vatican 2

“BÀI ĐẠI GIẢNG VỀ LÒNG KHIÊM HẠ” ĐÃ KHUẤT !                             Lm. Anmai, C.Ss.R.

CHÚA GIẾ SU CÓ THỰC SỰ CHẾT NHƯ GIÁO HỘI DẠY HAY KHÔNG ?                     Lm. PX. Ngô Tôn Huấn

HỌC LÀM NGƯỜI VÀ HỌC LÀM CON CHÚA.                                                         Xuân Thái

HẠNH NGỘ MÙA CHAY, VỚI CHÚA VÀ VỚI NHAU                         Lm. Lê Quang Uy, DCCT

LẮNG NGHE                                                                                              Lm. Lê Văn Quảng

ĂN CHAY                                                                                                 Hoàng Thị Đáo Tiệp

TÔI MUỐN NHIỀU...                                                                        Nhà văn Trần Đình Ngọc

BOOMERANG                                                                                            Nhà Văn Quyên Di

CỦNG CỐ NHỮNG BƯỚC ĐẦU PHÂN ĐỊNH VÀ SỐNG ƠN GỌI          Lm. Micae-Phaolô Trần Minh Huy pss 

CHO VÀ GHÉP BỘ PHẬN CƠ THỂ                                                         Bác sĩ Nguyễn Ý-Đức

NHỚ AI (3) -                                                                               Chuyện phiếm của Gã Siêu


Mầu Nhiệm Thánh Của Lễ Tạ Ơn

Hiến Chế Về Phụng Vụ Thánh

Sacrosanctum Concilium

 

Bản dịch Việt Ngữ của Giáo Hoàng Học Viện Piô X

Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia

 

Chương II

Mầu Nhiệm Thánh Của Lễ Tạ Ơn

 

47. Thánh lễ và mầu nhiệm Vượt qua. Trong Bữa Tiệc sau hết, đêm bị nộp, Ðấng Cứu Chuộc chúng ta đã thiết lập Hy Tế Tạ Ơn bằng Mình Máu Người, để nhờ đó Hy Tế Khổ Giá kéo dài qua các thời đại cho tới khi Người lại đến, và cũng để ủy thách cho Hiền Thê yêu quí của Người là Giáo Hội việc tưởng nhớ cái Chết và sự Sống Lại của Người: đây là bí tích tình yêu, dấu chỉ hiệp nhất, mối dây bác ái 1, bữa tiệc ly phục sinh, "trong đó khi lãnh nhận Chúa Kitô, tinh thần ta được tràn đầy ân sủng, và bảo chứng cho ta, một vinh quang tương lai" 2.

48. Giáo dân tham dự thánh lễ cách tích cực. Vì thế, Giáo Hội hằng bận tâm lo cho các Kitô hữu tham dự vào mầu nhiệm đức tin ấy, không như những khách bàng quan, câm lặng, nhưng là những người thấu đáo mầu nhiệm đó nhờ các nghi lễ và kinh nguyện: họ tham dự hoạt động thánh một cách ý thức, thành kính và linh động: họ được đào tạo bởi lời Chúa; được bổ sức nơi bàn tiệc Mình Chúa; họ tạ ơn Chúa; và trong khi dâng lễ vật tinh tuyền, không chỉ nhờ tay linh mục mà còn liên kết với ngài, họ tập dâng chính mình; và ngày qua ngày, nhờ Chúa Kitô Trung Gian 3, họ được tiêu hao trong tình kết liên với Thiên Chúa và với nhau, để cuối cùng Thiên Chúa trở nên mọi sự trong mọi người.

49. Thánh lễ có giáo dân tham dự. Vì vậy, để Hy Lễ, ngay cả nghi thức bên ngoài, thu đạt được một hiệu năng mục vụ trọn vẹn, Thánh Công Ðồng quyết định những điều sau đây, về những Thánh Lễ cử hành có dân chúng tham dự, nhất là những ngày Chúa Nhật và các ngày lễ buộc.

50. Canh tân phần chung của thánh lễ. Phải làm sao tu chỉnh Nghi Thức Thánh Lễ để biểu lộ rõ ràng hơn nữa ý nghĩa riêng biệt của mỗi phần, cũng như mối tương quan của chúng, đồng thời để việc tham dự thành kính và linh động của các tín hữu được dễ dàng hơn.

Do đó, các nghi lễ, dù vẫn hoàn toàn duy trì bản chất của chúng, nhưng phải được đơn giản hơn. Phải loại bỏ những gì, theo dòng thời gian, được gia bội hoặc thêm thắt mà ít lợi ích. Phải tái lập theo qui tắc cổ điển của các Thánh Giáo Phụ, một số những gì xét là chính đáng và cần thiết đã bị oan uổng mai một theo thời gian.

51. Phần Thánh Kinh. Ðể bàn tiệc lời Chúa được bày dọn phong phú hơn cho các tín hữu, phải mở rộng kho tàng Thánh Kinh hơn nữa; muốn thế, trong khoảng một số năm ấn định, phải đọc cho dân chúng phần Thánh Kinh quan trọng hơn.

52. Bài giảng. Bài giảng căn cứ vào Thánh Kinh để trình bày các mầu nhiệm đức tin và những qui tắc cho đời sống Kitô giáo trong suốt chu kỳ năm phụng vụ, rất đáng được coi như một phần của chính Phụng Vụ. Hơn nữa, trong những Thánh Lễ được cử hành những ngày Chúa Nhật và lễ buộc có dân chúng tham dự, không được bỏ giảng, nếu không có lý do hệ trọng.

53. Lời nguyện giáo dân. Phải tái lập "lời nguyện chung" hay "lời nguyện giáo dân", sau Phúc Âm và bài giảng, nhất là những ngày Chúa Nhật và lễ buộc, để khi dân chúng tham dự lời nguyện đó, họ cầu khẩn cho Hội Thánh, cho các nhà cầm quyền, cho những kẻ khốn khổ vì mọi nhu cầu khác nhau, cho tất cả mọi người, và cho phần rỗi của toàn thế giới 4. 4*

54. La ngữ và tiếng bản quốc. Tiếng bản quốc có thể được dùng cách thích đáng trong những Thánh Lễ cử hành có dân chúng tham dự, nhất là trong các bài đọc và "lời nguyện chung", cũng như tùy theo hoàn cảnh địa phương, cả trong những phần dành cho dân chúng, chiếu theo quy tắc khoản 36 của Hiến Chế này.

Tuy nhiên phải dự liệu sao để các Kitô hữu có thể cùng đọc hoặc cùng hát chung, ngay cả bằng La ngữ, các phần thường lễ dành cho họ trong Thánh Lễ.

Nhưng ở bất cứ nơi nào việc dùng tiếng bản quốc rộng rãi hơn trong Thánh Lễ được xem là chính đáng, đều phải tuân giữ những điều đã qui định trong khoản 40 của Hiến Chế này.

55. Rước lễ dưới hai hình. Rất đáng khuyến khích các tín hữu tham dự Thánh Lễ cách toàn hảo hơn, bằng cách, sau khi linh mục rước lễ, họ cũng lãnh nhận Mình Chúa trong cùng một Hy Lễ đó.

Dù vẫn duy trì các nguyên tắc tín lý do Công Ðồng Trentô qui định 5, nhưng có thể cho rước lễ dưới hai hình 5* tùy theo phán đoán của các Giám Mục, chiếu theo những trường hợp được Tông Tòa minh định, không những cho giáo sĩ, tu sĩ mà cả giáo dân nữa, chẳng hạn cho các tiến chức trong Thánh Lễ phong chức, những người tuyên khấn trong Thánh Lễ khấn dòng, và các tân tòng trong Thánh Lễ tiếp diễn sau lễ Rửa Tội của họ.

56. Sự hợp nhất của thánh lễ. Có thể nói Thánh Lễ gồm hai phần, phần Phụng Vụ Lời Chúa và phần Phụng Vụ Thánh Thể. Hai phần này được liên kết chặt chẽ đến nỗi tạo thành một hành vi phụng thờ độc nhất. Do đó, Thánh Công Ðồng tha thiết khuyến dụ những mục tử chắn dắt các linh hồn, trong khi dạy giáo lý, phải nhiệt thành dạy dỗ các tín hữu biết tham dự trọn vẹn Thánh Lễ, nhất là những ngày Chúa Nhật và các ngày lễ buộc.

57. Ðồng tế .

(1) Việc đồng tế biểu lộ chính đáng tính cách duy nhất của chức linh mục. Cho đến nay, việc đồng tế vẫn được dùng trong Giáo Hội, Ðông Phương cũng như Tây Phương. Vì vậy, Thánh Công Ðồng muốn mở rộng quyền đồng tế trong những trường hợp sau đây: 6*

1 - a) ngày Thứ Năm Tuần Thánh, Lễ Dầu cũng như Lễ Chiều;

b) các Thánh Lễ trong các Công Ðồng, các Hội Nghị Giám Mục và các Hội Ðồng;

c) Thánh Lễ tôn chức Ðan Viện Phụ.

2 - Ngoài ra Ðấng Bản Quyền còn phải cứu xét có nên đồng tế hay không mà ban phép cho những trường hợp sau đây:

a) Thánh Lễ tu hội và Thánh Lễ chính trong các nhà thờ, khi lợi ích các Kitô hữu không đòi buộc mọi Linh Mục hiện diện cử hành riêng biệt;

b) các Thánh Lễ trong những cuộc hội họp, thuộc bất cứ loại nào, của các linh mục triều cũng như dòng.

(2) 1- Việc ấn định qui luật đồng tế trong địa phận thuộc quyền các Giám Mục.

2- Tuy nhiên mỗi linh mục vẫn có quyền cử hành lễ riêng trừ khi cùng một lúc trong cùng một nhà thờ, và ngày Thứ Năm Tuần Thánh.

58. Soạn thảo một nghi lễ đồng tế. Phải soạn thảo một nghi lễ mới về đồng tế, và phải sát nhập vào Sách Nghi Lễ Giám Mục và Sách Lễ Roma.

 


Chú Thích:

1 Xem T. Augustinô, In Joannis Evangelium Traetatus XXVI, ch. VI, số 13: PL 35, 1613.

2 Breviarium Romanum, Lễ Mình Thánh Chúa Kitô, Kinh Chiều II, tiền xướng Kinh Magnificat.

3 Xem T. Cyrillô Alex., Commentarium in Joannis Evangelium, cuốn XI, ch. XI-XII: PG 74, 557-565, nhất là 564-565.

4 Xem 1Tm 2,1-2.

4* Việc giáo dân cùng cầu nguyện cho Giáo Hội, cho chính quyền và cho "tất cả mọi người" (1Tm 2,1), là một truyền thống có từ thời các Tông Ðồ và các Giáo Phụ đầu tiên (x. Documentation Catholique số 1445 (4-1965), cột 597). Vào cuối thời Trung Cổ, lời nguyện đó biến mất dần dần, lý do có lẽ vì đã có lời nguyện tương tự trong phần Lễ Quy với những kinh "memento" cầu cho người còn sống và đã qua đời.

5 Khóa XXI, 16-7-1562. Doctrina de Communione sub utraque specie et parvulorum, ch. 1-3, kh. 1-3: Concilium Tridentinum, nhà x.b. đã trích, bộ VIII, 698-699.

5* Việc rước lễ dưới hai hình đã bị bãi bỏ trong nghi lễ Roma vào cuối thế kỷ XII. Từ đó về sau chỉ một mình chủ tế mới được đặc ân rước lễ hai hình thôi. Lý do thay đổi có lẽ như sau: 1) Lý do thực tế là giáo hữu ngày một đông nên việc cho rước lễ hai hình gặp nhiều bất tiện và phiền phức (Công Ðồng Constance có nêu ra một vài "nguy hiểm và gương xấu": DS 1200). 2) Lý do thứ hai là dựa và điều Giáo Hội minh xác về việc Chúa hiện diện thực sự ở một trong hai hình (rước lễ một trong hai hình là rước lấy "Chúa Kitô toàn diện").

Công Ðồng Constance năm 1415 đã lên án Wyclef và các đồ đệ chủ trương sai lầm rằng mọi tín hữu cần phải rước lễ dưới hai hình (DS 1198-1200). Công Ðồng Trentô cũng tái xác nhận lập trường đó nhân dịp chống lại phái Tin Lành (DS 1729 và 1733).

Ở đây Công Ðồng Vaticanô II, với thái độ thận trọng, vừa duy trì giáo lý Công Ðồng Trentô vừa mở ra một lối đi mới, hợp lý và thực tiễn.

6* Ðồng tế với Giám Mục (dưới nhiều cách khác nhau) cũng như giữa các linh mục với nhau đã thịnh hành từ thời các Thánh Giáo Phụ. Lễ nghi này nói lên quan niệm sâu xa về đặt tính hợp nhất giữa chức Linh Mục và phép Thánh Thể. Thánh Inhaxiô thành Antiokia (chết năm 107), đã diễn tả rõ ràng quan niệm này bằng câu nói sau đây: "Chỉ có một Phép Thánh Thể..., một bàn thờ, cũng như chỉ có một Giám Mục với Linh mục đoàn và các thày phó tế của Ngài" (Thư gởi cho giáo dân Philadelphia, 4: PG 5,700).

Giáo Hội Ðông Phương vẫn còn duy trì truyền thống tốt đẹp này. Trong khi đó Giáo Hội Tây Phương chỉ còn thực hành trong Thánh Lễ phong chức Giám Mục và Linh Mục thôi.

Do đó, Công Ðồng Vaticanô II muốn làm sống lại thói quen tốt lành và đầy ý nghĩa tượng trưng này.

VỀ MỤC LỤC
“BÀI ĐẠI GIẢNG VỀ LÒNG KHIÊM HẠ” ĐÃ KHUẤT !
 

Sinh - tử là quy luật có từ muôn thuở, đã là người khi cất tiếng khóc chào đời thì đến một ngày nào đó cũng phải trở về Nguồn Cội. Trong dòng chảy quy luật ấy, sáng Chúa nhật 22 tháng 2, Đức Cố Hồng Y Phaolô Maria đã trở về với Nguồn Cội của Ngài, Ngài trở về với Đấng Khiêm Hạ trên mọi người khiêm hạ, Ngài trở về với Đấng Hiền Lành trên mọi kẻ hiền lành trong cuộc đời này.

Lược qua tiểu sử của Đức Cố Hồng Y Phaolô Maria, mọi người sẽ chẳng tìm thấy chỗ nào ghi lại những “chiếc công hiển hách”, những mảnh bằng “tổ quốc ghi công” hay được nhận danh hiệu “giáo sĩ yêu nước” như ai nào đó đã được nhận. Ta cũng chẳng thấy ghi lại là Đức Cố Hồng Y xây được bao nhiêu cái nhà thờ, bao nhiêu cái đền, bao nhiêu cái đài. Đọc kỹ tiểu sử của Đức Cố Hồng Y mọi người sẽ thấy sao mà nó lại giống với dáng hình nhỏ bé khiêm hạ của Ngài. Tiểu sử của Ngài nó đi với Ngài như hình với bóng vậy, hình như nó gắn liền với cuộc đời nhỏ bé của cụ già đáng kính. Đức Cố Hồng Y cũng chẳng để lại tập bài giảng hùng hồn, thuyết phục cho hậu thế như những vị khác đã để lại. 

Nhìn cuộc đời của Ngài, một lần nữa ta lại xác tín với nhau rằng Thiên Chúa có cách của Ngài, Thiên Chúa dùng những cây bút chì nhỏ bé trong lòng bàn tay của Ngài để vẽ nên bức tranh tuyệt vời về Đức Khiêm Hạ. Thiên Chúa dùng mỗi người mỗi cách, mỗi người mỗi vẻ theo Thánh Ý của Ngài. Có người, Thiên Chúa dùng trong khả năng hùng biện, tài giảng thuyết để mời gọi mọi người theo Chúa. Có người, Thiên Chúa dùng trong khả năng hoạt động xã hội lo cho những người nghèo khó tất bạt. Với Đức Cố Hồng Y Phạm Đình Tụng, Thiên Chúa lại dùng sự khiêm hạ của Đức Cố để biểu lộ tình thương của Ngài cho mọi người.

Trong vườn hoa nhà Chúa, có những bông hoa khoe sắc bởi những thành công này, những chiến thắng nọ bỗng dưng lại có một bông hoa nhỏ bé khiêm hạ nằm cạnh những bông hoa to lớn khác. Bông hoa nhỏ bé khiêm hạ Hồng Y Phaolô Maria Phạm Đình Tụng đã tô điểm cho những bông hoa rực rỡ khác bằng lối sống nhỏ bé của mình.

Trong bối cảnh lịch sử của xã hội miền Bắc, có quá nhiều biến động, dưới con mắt của người đời, Thiên Chúa phải dùng một con người năng động và mạnh mẽ. Thế nhưng, ngược lại với con mắt của người đời ấy, Thiên Chúa dùng một con người nhỏ bé, khiêm hạ. Mà Thiên Chúa của chúng ta cũng “kỳ cục”, Thiên Chúa ấy hết sức “lạ lùng” từ ngàn xưa, đó là Thiên Chúa luôn thực thi quyền năng của Ngài trong những con người khiêm hạ. Thiên Chúa đã dùng những con người nhỏ bé để biểu lộ tình thương và quyền năng của Ngài. Như ngày xưa Thiên Chúa đã dùng Đavít để chiến thắng với một Goliát hùng mạnh thì ngày nay Thiên Chúa cũng dùng một Phaolô Maria nhỏ bé để sống, để làm chứng trước chủ nghĩa vô thần.

Nhắc đến đây, tôi lại nhớ đến một linh mục đàn anh. Cũng vì hoàn cảnh đất nước. Linh mục ấy được gửi từ miền Nam ra miền Bắc và sau đó Ngài được chịu chức chính thức. Sau “vụ án phong chức” ấy, vài vị có chức kháo láo với nhau rằng : “Không bao giờ có ông … thứ hai !”. Cũng đúng thôi, không bao giờ có ông … thứ hai thì Chúa lại dùng nhiều ông khác nữa !

Sau ngày lãnh sứ vụ linh mục, vị “linh mục bất đắc dĩ” của Dòng Chúa Cứu Thế ở miền Bắc ấy sống trong dòng chảy biết bao nhiêu khó khăn cùng với Cha già cố Giuse Vũ Ngọc Bích và Đức Cố Hồng Y Phạm Đình Tụng thân yêu. Chắc có lẽ “bắt mạch” được lối sống của Cha già cố Giuse Bích và Đức Cố  Hồng Y nên chăng vị “linh mục bất đắc dĩ” ấy đã sống một đời sống nhỏ bé, khiêm hạ của Ngài giữa lòng Giáo miền Bắc đầy khó khăn thử thách.

Vị “linh mục bất đắc dĩ” ấy có thân hình nho nhỏ như Cha già cố Giuse, như Đức Cố Hồng Y Tụng. Vui nhất là không chỉ giống thể xác, thân hình mà còn giống cả cái lối sống khiêm hạ. “Linh mục bất đắc dĩ” của Dòng Chúa Cứu Thế ấy chẳng vung tay vung chân mỗi lần ra toà giảng, cũng chẳng để lại những tập sách để đời nhưng cuộc đời của “linh mục bất đắc dĩ” ấy cũng là một bài giảng sống động cho nhiều người.

Người đời vẫn tìm kiếm những gì là bề ngoài, những gì là hoành tráng còn Thiên Chúa thì ngược lại. Thiên Chúa vẫn tìm đến những gì là nhỏ bé, khiêm hạ.

Một linh mục đàn anh trong Dòng khi nhắc đến vị “linh mục bất đắc dĩ” này nói với tôi : “Anh chẳng thua Cha … gì ngoài đức khiêm nhường !”.

Câu nói ấy nghe sao mà kinh quá ! Quả thật, người ta vẫn đi tìm những điều gì đó là hoành tráng bên ngoài, là đình đám bề nổi để được người đời tôn kính, xông hương. Thế nhưng, trong dòng chảy của cuộc đời nhiều người tìm cái vẻ bên ngoài ấy vẫn có những con người lội ngược dòng chảy bình thường ấy để tìm sự nhỏ bé, khiêm hạ và sống cái sự nhỏ bé khiêm hạ ấy trong cuộc đời mình.

Phải nói là đức khiêm nhường sao mà nó khó học thật. Đâu có đơn giản để mặc lấy đức khiêm nhường nơi Đức Hồng Y, như Cha già cố Giuse Vũ Ngọc Bích, như vị “linh mục bất đắc dĩ” kia … Phải có ơn Chúa và sự cố gắng của mình mới học và sống được bài học khiêm hạ của Thầy Chí Thánh Giêsu. Nó khó học vì lẽ phần đông trong cuộc đời mình luôn luôn muốn khẳng định vị thế, vai trò của mình trong cái cõi tạm này. Lẽ ra người ta đi tìm vị thế, vai trò của mình trong Cõi Hằng Sống đàng này họ lại đi tìm những thứ phù vân. 

Đức Cố Hồng Y Phaolô Maria cũng vậy, trong cái dòng chảy của vinh quang của người đời, Ngài phải nhận lấy sứ mạng là Tổng Giám Mục, là Giám đốc Chủng Viện, là tước Hồng Y đấy nhưng trong sâu thẳm lòng mình, Ngài vẫn sống cuộc đời nhỏ bé, đơn sơ.

Những ngày này, Đức Cố Hồng Y đang nằm giữa Nhà Thờ Lớn Hà Nội, được nhiều và rất nhiều phái đoàn kính viếng, tiễn biệt.

Với tâm tình con thảo và biết ơn vị cha già kính yêu của Giáo Hội nên con cái của Giáo Hội từ Bắc chí Nam đã cố làm những gì có thể được để tỏ lòng kính mến ấy nhưng thật tâm, tôi trộm nghĩ Đức Cố Hồng Y cũng chẳng bao giờ mong mình được người ta làm long trọng như vậy vì vốn dĩ cả đời Ngài sống trong nhỏ bé, trong khiêm hạ.

Nhìn lại cuộc đời của Đức Cố Hồng Y, có lẽ điểm son mà mọi người nhận ra đó là bài học về sự nhỏ bé, về lòng khiêm hạ. Và bài học sống động nhất Ngài để lại cho hậu thế chính là bài học này.

Đâu cần phải đi Tây đi U mới có được bài học nhỏ bé này. Đâu cần phải có nhiều bằng nhiều cấp mới có bài học khiêm hạ này. Chưa chắc có nhiều bằng Thạc sĩ, Tấn sĩ lại học và sống được bài học mà Đức Cố Hồng Y Phaolô Maria đã sống.

Ngài đã khuất bóng, sự khuất bóng của Ngài để lại cho chúng ta nhiều bài học nhưng bài học quan trọng nhất, ý nghĩa nhất, đặc biệt nhất chính là bài học về lòng khiêm hạ. học về lòng khiêm hạ xem ra đơn giản ấy vậy mà đôi khi cả đời cũng khó có thể hoàn tất. Bài học về lòng khiêm hạ nơi Đức Cố Hồng Y xem ra đơn giản ấy vậy mà các đấng các bậc có bằng Tấn sĩ, Thạc sĩ chưa chắc đã học xong. Bài

Tạ ơn Chúa, cảm ơn Đức Cố Hồng Y vì lẽ Thiên Chúa, qua con người nhỏ bé, đơn sơ khiêm hạ của Đức Cố Hồng Y, Thiên Chúa đã vẽ nên bức hoạ tuyệt tác về sự khiêm nhường. Xin Chúa qua lời chuyển cầu của Đức Cố Hồng Y giúp cho mỗi người chúng ta ngày mỗi ngày học và sống bài học khiêm hạ mà Đức Cố Hồng Y đã học nơi Chúa Giêsu và đã sống như Chúa Giêsu.    

Lm. Anmai, C.Ss.R.

VỀ MỤC LỤC
CHÚA GIẾ SU CÓ THỰC SỰ CHẾT NHƯ GIÁO HỘI DẠY HAY KHÔNG ?

 

Hỏi : nhân Mùa Chay sắp đến, xin cha giải thích hai câu hỏi quan trọng sau đây :

1- Chúa Giêsu có thực sự chết như Giáo Hội vẫn dạy hay không,  vì có một Giám mục kia đả nói: “Chúa Giê su đâu có chết. Đó chỉ là cách nói cho có vẻ bi thảm mà thôi”!

2- Những người sinh ra và chết trước khi Chúa Giếsu ra đời và hòan tất công cuộc cứu chuộc - thì  tất cả ở đâu và khi nào mới được vào Thiên Đàng ?

Trả lời:

1.  Về câu hỏi thứ nhất, tôi không tin có một Giám mục hay Linh mục Công giáo nào lại  dám nói như vậy Có chăng chỉ có những vị  ở bên ngoài Giáo Hội Công Giáo hay Chính Thống Giáo mà thôi (Eastern Orthodox Churches). Được biết,  các gíáo phái ngoài Công Giáo như Anh giáo (Anglican) Methodist, Lutheran, Epíscopal, Baptíst..v.v.. .đều có chức giám mục  (có cả nữ giám mục nữa !) nhưng  họ không thuộc truyến thống Tông Đồ (Apostolic succession) như các Giám mục trong Giáo Hội Công Giáo, và  cũng  không hiệp thông, vâng phục Giám Mục Roma,  tức Đức Giáo Hòang  là Thủ lãnh Giám mục Đòan (Head  of College of Bíshops) và là Chủ Chăn tối cao  của Giáo Hội hòan vũ. (Supreme Pastor of The Universal Catholic Church)

Vì thế , có thể có những “giám mục “ ngoài Công Giáo đã dạy dỗ sai lầm hay mâu thuẫn với các Giám mục Công Giáo, hiệp thông với Đức Thánh Cha trong sứ vụ rao giảng Phúc Âm ,  bảo vệ chân lý, và đức tin công giáo tinh tuyền.

Trong niềm tin của Giáo Hội, dựa trên Kinh Thánh, Thánh Truyền ( Tradition) và mặc khải (revelation) thì Chúa Giê su là” Thiên Chúa thật, đồng bản tính với Chúa Cha  và Chúa Thánh Thần” ( Kinh Tin Kinh Nicene). Nhưng Ngài củng lá CON NGƯỜI thật, được Đức Trinh nữ Maria sinh ra với quyền năng của Chúa Thánh Thần. Như thế,  Chúa Giêsu có hai bản tính không hề tách biệt nhau : đó lá Thiên Tính và nhân tính. ( divine and human nature)  Ngài chính  là “ Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. ( Jn 1:14.)

 Nhưng tại sao Chúa Giêsu phải chịu chết trên thập giá năm xưa, một sự kiên kich sử mà không ai có thể chối cãi đựoc ?

Vậy  Chúa có thực chết hay “giả vờ” chết để bi thảm hóa sự viêc như có ai đã nói ?

Để trả lời câu hỏi này, trước hết, chúng ta cần nhớ lại  rằng sự chết là hậu quả đương nhiên của tội lỗi mà  con người mắc phạm như Thiên Chúa đã nói với Adam và Eva “ ..ngày nào ngươi ăn, (trái cấm) chấc chắn ngươi sẽ phải chết.” ( St 2:17)

Thánh Phaolô cũng giải thích thêm  như sau về nguyên nhân gây ra sự chết cho con người : “Vì một người duy nhất mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian, và tội lỗi gây nên sự chết ; như thế, sự  chết đã lan tràn  tới mọi người, bởi vì mọi người đã phạm tội”(Rm 5:12)

Như thế ,mọi người phải chết vì đó là hậu quả của tội lỗi. Không ai có thể tránh được hậu quả này trừ  Chúa Giêsu và Mẹ Maria, tuy mang thân xác con người nhưng không hề vướng mấc  tội tổ tông và mọi tội khác. Nhưng Chúa Giêsu đã chết trong thân xác con người của Chúa không phải vì hậu quả của tội lỗi , vì Chúa hòan toàn vô tội  Người  vô tội, nhưng đã tự   hiến chịu chết thay cho kẻ tội lỗi  như Thánh Phaolô đả nói rõ  như sau Thiên Chúa đã sai  chính Con mình đến mang thân xác giống như thân xác tội lỗi của chúng ta để đèn tội chúng ta. Thiên Chúa đã lên án tội trong thân xác Con mình..” (Rm 8:3)

Đó là tất cả ly do vì sao Chúa Giê su đã vui lòng vác thập giá , chịu mọi cực hình để cuối cùng i  “ đã phải nếm sự chết là để cho mọi người được cứu độ nhờ ơn Thiên Chúa”( Dt 2:9). Chính Chúa Giêsu cũng đã xác nhận  điều này trong Sách Khải Huyền( Revelation) như sau : Ta là Đấng Hằng Sống. Ta đã chết và nay Ta sống muôn đời muôn thuở, và Ta giữ chìa khóa của Tử thần và Âm phủ “ Kh1:18)

Như thế rõ rệt là Chúa Giế su đã thực sự chết trong thân xác nhân loại của Ngài qua bằng chứng Kinh thánh nêu trên và   giáo lý sau đây của Giáo Hội:

Cái chết của Chúa Giêsu đã là một cái chết  thực sự chấm dứt sự sống con người   trần thế của Ngài. Nhưng vì sự hiệp nhất của thân xác Ngài với ngôi vị của Chúa Con, nên thân xác đó đả không trở thành một tử thi như những cái xác khác “ vì thần lực của Chúa đã tránh cho thân xác Chúa Kitô khỏi bị thối nát” (Th. Toma, S.th 3,51,3). ( x.SGLGHCG số 627)

Chính vì thân xác của Chúa không bị hư nát qua sự chết như mọi xác con người nên  ngày thứ nhất trong tuần khi các phụ nữ đến viếng Mộ Chúa, “ họ  thấy tảng đá đã lăn ra khỏi mố. Nhưng khi bước vào, họ không thấy thi hái của Chúa đâu cả” ( Mt 24:3)

. Họ không thấy xác Chúa vì Ngài đã sống lại trong một thân xác sáng láng tốt lành khác thường  đến nỗi Maria  Mac da la không nhận ra Chúa khi Người hiện ra, đứng bên cạnh bà, đang khóc  vì tưởng ai đã lấy trộm xác Chúa.( Ga: 20:11-14)

Tóm lại,, với Thiên tinh và địa  vị là Thiên Chúa Ngôi Hai thì Chúa Giêsu không thể chết được. Nhưng với bản tinh nhân lọai và quả thực mang thân xác con người , thi Ngài đã thực sự chết  thay cho nhân loại tội lỗi trên thập giá năm xưa như Kinh Thánh Tân Ước đã ghi chép..Kinh Thánh còn cho biết thêm là sau  khi linh hồn Ngài lìa khỏi xác, Chúa Giêsu đã xuống  nơi gọi là “ Nguc Tổ Tông,  hay Âm phủ”  để rao giảng cho các vong linh bị giam cầm”  ở đó.( 1 Pr 3;19)

Các vong linh ở đây chính là linh hồn của những người lành thánh đã chết  trước khi Chúa Cứu Thế Giêsu ra đời. Họ chưa được vào Thiên Đàng ngay vì Chúa Kitô chưa hòan tất công cuộc cứu chuộc của Ngài. Vì thế ,sau khi Chúa hòan tất qua Hy Tế thập giá, Ngài đã xuống nơi đây để loan báo Tin Mừng cứu độ cho họ và dẫn đưa họ vào Thiên Quốc hưởng  vinh phúc đời đời vơi Thiên Chúa.

Về điểm này , Giáo lý của Giáo Hội cũng dạy rõ như sau:

  “ Tân ước đã nhiều lần khẳng định rằng Chúa Giêsu “ đã phục sinh từ cõi những người chết”( Cv 3,45; Rm 6,11; 1Cr 15,20). Điều này giả thiết rằng, trước khi sống lại, Ngài đã ở trong  cõi những người chết  (She’ol=Hades=Abode  of the deadl). Đó là ý nghĩa đầu tiên trong những lời giảng dạy của các tông đồ về  việc Chúa Giêsu đã xuống âm phủ , (tức nơi cư ngụ của những người lành đã chết từ bao đời trước đó.).Chúa Giê su đã chết như mọi người, và linh hồn của Ngài đã liên kết  với họ tại cõi người chết này.Nhưng Ngài xuống đó với tư cách là Chúa Cứu Thế đến công bố Tin Mừng cho những vong linh đang bị giam cần ở đây.’’. ( x.SGLGHCG, số 632; 1Pr 3: 18- 19) . 

2- Về câu hỏi thứ hai, xin được trả lời như sau :

Trước hết , cẳn cứ và lời Chúa trong  những câu Kinh Thánh sau đây :

a-   “Chỉ có một Thiên Chúa

        Chỉ có một Đấng trung gian

        Giữa Thiên Chúa và lòai người

     Đó là một con người, Đức Kitô Giê su

Đấng đã tự hiến làm giá chuộc  mọi người ( 1Tm 2:5-6)

 

b- “ Ngòai Người ( Chúa Giế su) ra, không ai đem lại ơn cứu độ; vì dưới gầm trời này,

không có một danh nào khác đã được ban cho nhân lọai, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ.” ( Cv 4: 12)

Như thế có nghìa là tất cả những ai đã được cứu rỗi và muốn được cứu rỗi thì đều phải nhờ công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô-Giê su, vì chỉ môt mình Ngài là Đấng trung gian duy nhất  giữa Thiên Chúa và loài người trong việc mang lại ơn cứu độ này mà thôi..Nói rõ hơn,  những  ai đã sinh ra và chết  đi trước khi Chúa Cứu Thế Giêsu sinh ra và hòan tất công cuộc cứu chuộc nhân lọai của Ngài qua Hy Tế thập giá, thì đều phải nhờ công ơn cứu chuộc  vô giá này  để được vào hưởng Thánh Nhan Thiên Chúa trên Thiên Đàng. Điều này cũng áp dụng cho tất cả những ai sinh ra và chết đi sau Chùa Giê su và cho đến mãn thời gian, tức là cho đến tận thế. Tất cả đều phải nhờ Danh Chúa Kitô và công nghiệp cứu chuộc của Ngài để đựoc cứu độ.

Đó là chân lý đã được mạc khải cho chúng ta qua những câu kinh thánh  trích trên đây.

Riêng trường hợp  những người  không được biết Chúa Kitô, không được chịu phép rửa và  không biết gì về  Phúc Âm của Chúa  không vì lỗi của họ ;  nghĩa là họ  không có cơ may đuơc biết Chúa vì  không có ai loan  báo TiN Mừng cứu độ cho họ.Thí dụ, trường hợp cha ông chúng ta sinh ra và chết đi trước khi Đạo thánh Chúa được rao giảng ở Việt Nam vào đầu thế kỷ 16,  thì dĩ nhiên họ không được  biết Chúa và nghe Phúc Âm của Ngài. Nhưng đó không  phải vì lỗi của họ. Tuy nhiên,  nếu họ vẫn cố gắng  sống theo tiếng nói của lương tâm và trong thâm sâu, ước mong tìm Chân lý  tức là tìm gặp Chúa  thì  họ  cũng có thể được cứu rỗi nhờ công nghiệp Chúa Kitô. ( x SGLGHCG, số  847, Lumen Gentium số 16), .vì “ Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta,  muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý” ( 1 Tm 2 :4)

Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

VỀ MỤC LỤC

HỌC LÀM NGƯỜI VÀ HỌC LÀM CON CHÚA.

Khi tạo dựng vũ trụ, Thiên Chúa đã dựng lên con người và cho con người làm chủ muôn loài vạn vật. Nhưng so sánh với nhiều sinh vật  khác, con người lại thua kém về mọi mặt giác quan. Tai nghe không bằng con dơi. Mắt nhìn thì thua con cú. Chân chạy thì kém xa con báo cả ngàn lần. Còn nếu so sánh về sức mạnh với con voi, con trâu, con bò …thì con người đáng muôn ngàn lần thất vọng . Và khi đứng trước biển cả hoặc núi non rừng rậm, con người thấy mình bé nhỏ vô nghĩa như mất hút trong thiên nhiên đến nỗi Thánh vịnh đã phải kêu lên rằng :

 “Lạy Chúa ! con người có là chi, mà Chúa cần biết đến ? Phàm nhân đáng là gì, mà Chúa phải bận tâm ? ( Tv 144,3 )

Con người thật yếu đuối, nhưng chiều kích của nó lại vô cùng vĩ đại cao cả vì là con của Thượng đế chí tôn, được có Cha là Đấng Sáng tạo, lại được phép gọi Ngài là Abba, là Cha một cách thân thương gần gũi. Những điều này nếu chỉ nói qua môi miệng thì không ấn tượng bao nhiêu, nhưng ngay cả những khi chìm trong suy niệm, cũng không mấy ai có thể hình dung để hiểu đủ và biết hết, vì đó là một điều huyền nhiệm, do đó, chỉ còn biết rưng rưng cảm tạ với lòng biết ơn sâu lắng.

“Thiên Chúa đã yêu thương con người đến nỗi, đã sai Con Một của Ngài đến thế gian, để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống. ( 1 Ga 4,9 )”.

Thiên Chúa yêu thương đến như si tình con người, Đức Giê su rất nhiều lần đã tự xưng mình là CON NGƯỜI. Yêu thương cũng là tôn trọng, tôn trọng đối tượng mà mình yêu mến. Đấng Sáng Tạo tôn trọng tự do của loài thọ tạo. Phúc lộc và danh dự bắt đầu từ đây, nhưng thảm kịch và bất hạnh cũng khởi đầu từ đây. Vì lịch sử con người cũng là lịch sử của những bất trung, của tình yêu trắc trở đầy tính phản bội từ phía con người đối với Thiên Chúa.

Nhân là người. Nhân cũng là nhân nghĩa, là lòng nhân ái, cũng là tình yêu thương. Khi tạo dựng con người, Chúa đã gieo những hạt mầm yêu thương trong lòng con người, Ngài mong mỏi những hạt mầm ấy sẽ trưởng thành và ngày một đâm rễ và đơm hoa kết trái để trở thành những con người từ ái mang hình ảnh Thiên Chúa tình yêu. Cái mầm kia lớn lên hay chết yểu đều do mỗi người toàn quyền quyết định, đó là vinh dự lớn lao song cũng là trách nhiệm hết sức nặng nề.

Vì như thế, cần phải học, rất cần phải thực hành những bài học làm người, vì làm con Chúa là gì, nếu không phải là làm người đích thực theo gương Đức Giêsu ?

Đọc Lời Chúa để tìm biết Ý Chúa. Ý Chúa đã được thực hiện từ thuở đời đời và  luôn thể hiện qua mọi cảnh sống và được diễn tả bằng muôn ngàn cách khác nhau. Ta hãy nghe ý Chúa qua một cảnh sống đầy ý nghĩa dưới đây : *

1.- Đại sư Tinh Vân có một người đệ tử, sau khi tốt nghiệp đại học, liền học Thạc sĩ, rồi lại theo học Tiến sĩ. Sau nhiều năm, cuối cùng cũng đã hoàn thành luận án tiến sĩ nên vô cùng vui mừng. Một hôm người đồ đệ này trở về và thưa với ngài Tinh Vân rằng : “Bạch Sư Phụ nay con đã có học vị Tiến sĩ rồi, sau này con cần phải học thêm những gì nữa không ? ” Ngài Tinh Vân đáp : “Học Làm Người”, học làm người là việc học suốt đời chẳng thể nào tốt nghiệp được.

Ngài Tinh Vân cho rằng, bất luận là sĩ nông công thương, người ở tầng lớp nào có học tập là có tiến bộ, nay xin cùng chia sẻ với mọi người về những điều cần phải học .

Thứ Nhất, “Học nhận Lỗi. Con người thường không chịu nhận lỗi lầm về phần mình, tất cả mọi lỗi lầm đều dễ đổ lỗi cho hoàn cảnh hoặc người khác, và thường cho rằng bản thân mình mới đúng, đang khi đó, thật ra không biết chính mình là một lỗi lầm rất lớn. Đối tượng mà mình nhận lỗi có thể là cha mẹ, là bạn bè và mọi người trong xã hội, thậm chí, nhận lỗi với cả con cái hoặc là người không tốt đối với mình, nhận lỗi như vậy bản thân chẳng mất mát gì, ngược lại còn thể hiện được sự độ lượng của bản thân. Học nhận lỗi là một điều rất tốt, là sự tu tập lớn lao nhưng cũng là điều khó thực hiện nhất.

Thứ Nhì, “Học Nhu Hòa”. Răng người ta rất cứng, lưỡi người ta lại mềm, nhưng sống chưa hết cuộc đời thì răng lại rụng hết, nhưng lưỡi thì vẫn còn nguyên, cho nên cần phải học mềm mỏng, học nhu hòa thì đời con người ta mới có thể tồn tại theo quy luật tự nhiên. Tâm nhu hòa là kết quả và là một tiến bộ lớn trong việc tu tập. Những người cố chấp thì tấm lòng của họ, tính cách của họ rất lạnh, rất cứng y như một miếng sắt vậy. Nếu chúng ta có thể điều hòa hơi thở, điều hòa thân tâm, dần dần điều phục cái Tâm như ngựa hoang, như vượn chuyền cành này khiến cho nó nhu hòa mềm mại, thì cuộc sống mới vui tươi, sinh động và  ích lợi hơn biết mấy.

Thứ Ba, “Học Nhẫn Nhục”. Thế gian này nếu nhẫn được một chút thì sóng yên biển lặng, lùi một bước thì biển rộng trời cao. Nhẫn, vạn sự được tiêu trừ. Nhẫn chính là biết xử sự, biết hóa giải, biết dùng trí tuệ và năng lực làm cho chuyện lớn hóa thành nhỏ, chuyện nhỏ hóa thành không. Các vị muốn sinh tồn, muốn sống an bình, thì cần phải biết nhẫn, để có thể hiểu rõ những đúng sai, thiện ác, tốt xấu của thế gian, thậm chí đôi khi còn phải chấp nhận nó.

Thứ Tư, “Học Thấu Hiểu”. Thấu hiểu lẫn nhau sẽ bớt hẳn nảy sinh những thị phi, tranh chấp, hiểu lầm. Mọi người nên thấu hiểu thông cảm lẫn nhau, để giúp đỡ lẫn nhau. Không thông cảm lẫn nhau làm sao có thể sống hòa bình cho được?

Thứ Năm, “Học Buông Bỏ”. Cuộc đời như một chiếc va li, lúc cần dùng thì xách lên, không cần dùng nữa thì đặt nó xuống. Lúc cần đặt xuống lại không đặt xuống, cũng như kéo một túi hành lý nặng nề không tự tại chút nào cả. Năm tháng cuộc đời có hạn, nhận lỗi, tôn trọng, bao dung, mới làm cho người ta biết chấp nhận mình, biết buông bỏ thì mới có thể an nhiên tự tại được.

Thứ Sáu, “Học Cảm Động”. Nhìn thấy ưu điểm hoặc thành công của người khác chúng ta nên hoan hỷ, nhìn thấy điều không may của người khác nên cảm động. Cảm động là cái tâm thương yêu, tâm bồ tát, tâm bồ đề. Trong cuộc đời mấy mươi năm của tôi, có rất nhiều câu chuyện, nhiều lời nói làm tôi cảm động, cho nên tôi cũng rất nỗ lực tìm cách làm cho người khác cảm động.

Thứ Bảy, “Học Sinh Tồn”. Để sinh tồn chúng ta phải duy trì bảo vệ và rèn luyện tập tành để thân thể được khỏe mạnh. Thân thể khỏe mạnh không những có lợi cho bản thân, mà còn làm cho gia đình bạn bè yên tâm, đó cũng là hành vi hiếu đễ và biết ơn đối với mọi người mà không cần phải dùng đến lời nói .

2.- Bảy điều Đại sư Tinh Vân muốn đệ tử của mình phải học để làm người, cách nói tuy có khác, nhưng nội dung không xa lắm với bài ca Đức Mến mà Thánh Phao lô đã dạy : Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả. Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc. ( 1 Co 13, 4 -7 ) 

Thánh nữ Têrêsa còn nhấn mạnh hơn nữa : Rất cần phải học yêu thương. Yêu thương cũng phải tập tành, phải rèn luyện qua từng ngày sống….Không ai chỉ cần yêu thương một lần là đủ cho suốt cả đời.

Xem như thế, để được làm người đúng nghĩa chưa bao giờ là chuyện dễ dàng. Và để trở nên con Chúa một cách đích thực cũng không hề là điều đơn giản. Vì thế, không thể ảo tưởng để tự ru ngủ mình bằng một lối sống đạo dẽ dãi hình thức và đầy tính ồn ào trình diễn. Quả thật, Đức Giêsu chưa bao giờ hứa hẹn con đường theo Ngài là những con đường trải toàn thảm đỏ với những hoa hông, nhưng Ngài đã thẳng thắn và quyết liệt nói rằng :

“ Ai muốn theo tôi, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mỗi ngày, theo tôi ”.

Rất mạnh mẽ. Thật dứt khoát và không thể hiểu lầm.

Mỗi lần nhớ lại những lời nói ấy, ai cũng thấy lòng mình như có sóng dậy, những con sóng dễ chịu và cả những con sóng hết sức khó chịu khổ đau. Vì nội tâm của ta luôn là một bãi chiến trường giữa 2 thế lực lớn là CON và NGƯỜI, ở nơi đó, ta không được phép đứng ngoài như một khán giả đi xem đá bóng. Trong những cuộc chiến ấy, ta phải nhập cuộc và tham dự một cách tích cực, vì nó sẽ là chính ta, trong CON VẬT. Nó cũng sẽ là chính ta, trong CON NGƯỜI sau những cuộc xung đột đã diễn ra ở nội tâm mình. Ta là CON hoặc là NGƯỜI đều tùy thuộc vào kết quả sau cùng những đấu tranh nội tâm ấy.

Vì con đường từ bỏ mình chính là con đường tự lột xác, mà sự lột xác nào lại không gây ra nhiều đớn đau và cả những xốn xang nghi ngại. Từ bỏ mình cũng chính là những lựa chọn, mà lựa chọn nào không để lại ít nhiều di chứng là những thương tích vì mệt mỏi và mất mát tiếc nuối ?

Phải học làm người. Phải tập tành rèn luyện để làm con Chúa.

Chẳng ai học một lần là đủ. Cũng không có ai chỉ cần tập tành vài lần mà thành. Điều đơn giản ấy thì ai cũng biết, đó là những việc phải liên lỷ thực hiện cho đến hết cuộc đời. Đó là một thách đố khó thể vượt qua ? hoặc là những đòi hỏi gắt gao quá sức mỗi người ? Có thể như vậy, nhưng rất có thể, sẽ không là như vậy.

Vì thật may mắn, Thiên Chúa tình yêu không xem xét những thành quả việc làm cho bằng muốn thấy thiện chí và niềm tin của mỗi chúng ta. Đó cũng là tâm tình và lời cầu nguyện như được gối đầu giường của chị Thánh Têrêsa Hài đồng :

Lạy Chúa ! khi đời con đã về chiều, con sẽ ra trình diện trước nhan Chúa với hai bàn tay trắng.

Xin Chúa đừng tính đếm những việc con làm, vì những việc tốt lành nhất của con cũng đều mang tỳ vết trước mặt Chúa.

Nhưng xin Chúa hãy lấy Sự Công chính của Ngài để mặc cho con làm áo, và xin Chúa cho con được lãnh nhận chính Ngài làm gia nghiệp đời đời.

Những lời nguyện ấy đã được Chị Thánh kiên trì dâng lên từ hơn 100 năm trước, và hôm nay, chúng con vẫn muốn không có gì cần phải đổi thay. Amen.

Xuân Thái.

VỀ MỤC LỤC
HẠNH NGỘ MÙA CHAY, VỚI CHÚA VÀ VỚI NHAU

 

Quý độc giả Ephata và Giáo Sĩ Việt Nam thân mến,

Chúng tôi vừa ra đến Hà Nội để chuẩn bị đi giúp Tuần Đại Phúc tại Giáo Phận Bắc Ninh, một cha trong cộng đoàn nhờ chia sẻ với anh chị em Giáo Dân Thái Hà về đề tài Gia Đình. Chả là vì trong Năm Thánh của DCCT Thái Hà, cứ đến thứ sáu trước Thánh Lễ tối, lại có một đề tài học hỏi cho Năm Giáo Dục Gia Đình Kitô giáo được rút ra trong Thư Mục Vụ của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam. Lần này chúng tôi được giao đề tài: “Gia đình là môi trường giáo dục sự Hiệp Nhất”.

Trong bầu khí khởi động vào Mùa Chay, nhập đề buổi nói chuyện tại Nhà Thờ Thái Hà tối thứ sáu 27.2.2009, chúng tôi đã kể cho mọi người nghe một chuyện mới xảy ra hôm trước ở buổi Tĩnh Tâm kết thúc khoá học Bảo Vệ Sự Sống tại Sài - gòn, có một anh đã quỳ xuống chân thành thú nhận trước mặt Chúa và anh chị em cùng khoá một sự thật đau lòng đẫm nước mắt sám hối.

Nhiều năm trước, khi anh còn là sinh viên, anh đã trót đưa người bạn gái đi phá thai. Anh cứ ngỡ bào thai mới 3, 4 tuần tuổi chỉ là một giọt máu tý tẹo, chưa ra hình dáng con người thì chưa phải là con của mình. Anh lại còn hăng say nhiệt tình tham gia các chiến dịch Mùa Hè Xanh của sinh viên, đi các vùng quê xa và sâu, tuyên truyền vận động người ta triệt sản, uống thuốc ngừa thai, đặt vòng tránh thai. Bao nhiêu thành tích lẫy lùng, bao nhiêu danh hiệu tuyên dương thì bây giờ là bấy nhiêu ân hận xót xa.

Cùng với nhiều bạn học viên khoá BVSS khác, anh đã quỳ gối cúi đầu xin chúng tôi trao ban Bí Tích Hoà Giải. Chúng tôi còn dặn rằng, sau khi xin lỗi Chúa, còn cần phải giao hoà, phải xin lỗi chính đứa con mình đã từ chối không để cho bé có cơ hội được chào đời.

Tan cuộc, đến khuya chúng tôi nhận được Mail “nóng hổi” của anh bạn trẻ ấy. Anh tâm sự rằng về nhà, anh đã ngồi một mình thầm thĩ cầu nguyện, anh tin anh đã được Chúa soi sáng cho cảm nhận được đứa con bé bỏng từ mười năm trước ấy là một bé trai nên anh đặt tên con là An Phong Uy Nguyên.

Rồi anh đã nhỏ nhẹ nói chuyện với chính đứa con của mình. Anh bảo anh đã khóc mà xin lỗi bé. Đọc Mail thật dài của anh, chúng tôi hình dung cảnh một người cha cao lớn tiến tới, khom mình xuống, ôm chầm lấy con của mình, không phải như người cha tha thứ cho đứa con hoang đàng trở về trong Tin Mừng Luca chương 15, nhưng phải đảo ngược lại, như người cha tội lỗi đến nài xin đứa con bé bỏng tha thứ cho mình, hãy chấp nhận mình là cha của nó, hãy bập bẹ kêu lên với mình một tiếng: Ba !

Ngay lúc đó, bản thân chúng tôi thật sự đã xúc động đến ứa nước mắt mà ngộ được rằng: cái ôm chầm ấy, lời xin lỗi ấy, sự giải hoà thân thương ấy chính là hình ảnh biểu trưng cho sự Hiệp Nhất trong gia đình: cha mẹ và con cái với nhau, vợ chồng với nhau, anh chị em ruột thịt với nhau. Hiệp Nhất là thuộc tính của Gia Đình Thiên Chúa, nhưng Ngài lại muốn san sẻ với con người. Ngài trao sự Hiệp Nhất như của hồi môn cho con cái đi lấy chồng lấy vợ, như gia bảo kế thừa cho Gia Đình Nhân Loại. Tiếc là con người cứ đánh rơi, đánh mất dần những “nén vàng” vốn liếng quý giá ấy giữa chợ đời cay nghiệt này.

May mà Hội Thánh còn “nghĩ” ra, còn “sáng tạo”, còn mở được một sinh lộ, một con đường giải thoát cho mọi người, đó là Mùa Chay hằng năm ! Nhờ vậy, sau khi sự Hiệp Nhất bị xảy đàn tan nghé, tung toé tang thương bởi những bạo hành, bạo lực, ngoại tình, ly thân, ly dị, ngừa thai, phá thai, bất hiếu, bất nghĩa, tranh đoạt gia tài, kiện cáo, vu khống, phản bội..., thì con người vẫn còn cơ may tìm lại được sự Hiệp Nhất khi “metanoia”, sám hối và hoán cải, hồi đầu, quy hướng về phía Thiên Chúa, xin Ngài thứ tha, lại cũng nhìn vào mắt nhau mà xin tha thứ cho nhau.

Đã có một Tin Mừng Luca chương 15 ngày xưa về “Người con Hoang Đàng”, cũng lại có biết bao nhiêu những bản Tin Mừng hao hao như thế cho mọi thời, cho ngày nay của chúng ta, về “Người cha tội lỗi”, về “Người mẹ lỡ lầm”, về những “Người con bị từ khước”, hết sức sống động và cụ thể, bằng xương bằng thịt, có cả máu và nước mắt.

Trở lại buổi trò chuyện với anh chị em tại Thái Hà, kết thúc, chúng tôi có đề nghị một việc thực hành cụ thể trong Mùa Chay này, có thể làm ngay, mà thật sự, nên làm ngay đi, đừng chần chừ, đừng khất lần khất lữa: tối nay, sau khi từ Nhà Thờ về nhà, cha mẹ vợ chồng con cái làm ngay một việc, đó là cùng thoả thuận, cùng quyết định, đến đúng 21g chẳng hạn, tắt phụt luôn cái Tivi đi, cho dẫu đang là giờ vàng, cho dẫu VTV3 bắt đầu phim “Những người độc thân vui vẻ” hấp dẫn đến đâu đi nữa.

Thế là thôi không dán mắt vào màn ảnh truyền hình, thôi không để cho thế gian nó tuyên truyền, nó tiêm nhiễm vào đầu óc cả gia đình, nhất là những đứa trẻ con của chúng ta những kiểu cách suy nghĩ và sống vô đạo vô thần, mà thay vào đó, cùng nhau hướng mắt nhìn lên bàn thờ, cùng Mẹ Maria dâng lên Thiên Chúa một Kinh Lạy Cha, 10 Kinh Kính Mừng và 1 Kinh Sáng Danh. Đọc ít thế thôi, đọc nhiều thêm nữa là bọn trẻ trong nhà nó khiếp, nó ngán. Phần này hết khoảng 5 phút.

Kinh hạt xong, một người trong nhà đại diện đứng lên đọc một đoạn Lời Chúa, hoặc chỉ cần 1, 2 câu Tin Mừng thôi cũng được, ví dụ: “Hỡi những ai vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng Thầy, Thầy sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng...” ( Mt 11, 28 ), hay “Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Thầy không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn” ( Mt 9, 12 – 13 ). Phần này chỉ hết khoảng 2 đến 3 phút.

Nghe Lời Chúa xong, thinh lặng một chút, rồi người chủ gia đình – nhiều phần là ông bố – có thể diễn giải đôi câu cho vợ con hiểu thêm Ý Chúa, lại mời gọi từng người trong nhà dâng lên Chúa một lời cầu nguyện thật đơn sơ chân thành, gói ghém mọi nỗi vui buồn sướng khổ trong cuộc sống, thành công và thất bại, nụ cười và nước mắt. Ví dụ: “Chúa ơi, hôm nay gia đình con vui quá, chồng con vừa tìm được việc làm sau mấy tháng bị thất nghiệp. Chúng con cám ơn Chúa !” – “Lạy Chúa, xin cứu chữa cho cậu em vợ nhà con vừa bị tai nạn xe đang nằm cấp cứu ở bệnh viện” – “Kính thưa Chúa, xin tạ ơn Chúa hôm nay bác sĩ vừa báo cho nhà con biết bào thai trong bụng được 5 tháng là một bé gái” – “Chúa ơi, con là út trong nhà, con biết con hư lắm, con xin lỗi Chúa, xin Chúa tha thứ con”... Phần này có thể mất thêm 7 phút.

Gặp gỡ Thiên Chúa rồi, lời giảng dạy của Ngài đẩy ta đến phần gặp gỡ nhau. Có Chúa chứng giám, chồng xin lỗi vợ, vợ cám ơn chồng, bố mẹ nhắn nhủ con, con thật thà hứa với bố mẹ một điều tốt đẹp tử tế. Người Việt mình nhiều khi những lúc êm ấm hạnh phúc lại cứ e ngại, xấu hổ, ít dám bộc bạch tâm tình bên trong, đâm ra bỏ lỡ những cơ hội giải hoà, những dịp để tỏ lộ trìu mến yêu dấu lẫn nhau. Thế mà khi nóng giận lại mắng chửi nhau, cãi nhau chẳng nể nang kiêng cữ gì mới lạ ! Vậy thì chúng tôi xin mọi người hãy thử một lần nhìn nhau mỉm cười, xiết tay nhau, xoa đầu, nói một lời ân cần âu yếm, bất ngờ chồng ôm lấy vợ, vợ ôm lấy chồng, con cái ôm chầm lấy bố mẹ mình, nước mắt tràn ra, tha thứ hết, quên hết mọi lỗi lầm, chẳng cần nói gì thêm cũng hiểu từ nay tương quan trong gia đình sẽ khác đi, đổi mới và hạnh phúc bình an...

Đấy mới chính là phần đỉnh cao của kinh nguyện buổi tối một gia đình. Trước là lắng nghe Chúa nói, sau là đáp lại với Ngài, đôi bên tìm nhau, đối diện nhau, trò chuyện thân tình mộc mạc. Tiếp theo là với ơn Chúa tác động thúc bách, con người gặp gỡ nhau, giao hoà trọn vẹn. Chúng tôi xin mượn một cách nói của Nhà Phật, đó là “Hạnh Ngộ”, nghĩa là một cuộc gặp gỡ trong hạnh phúc sâu xa giữa đôi bên, Thiên Chúa với con người, con người với con người. Đâu có khó khăn gì, đâu có mất thì giờ chi đâu, phần này cao lắm chỉ hết thêm 5 phút nữa.

Kết thúc, người chủ sự dùng công thức của Hội Thánh – lâu nay cứ nghĩ chỉ có các cha mới được phép cử hành – chúc lành cho cả nhà: “Xin Thiên Chúa toàn năng, là Chúa Cha, và Chúa Con, và Chúa Thánh Thần, ban phúc lành cho gia đình chúng ta – Amen”. Chưa đầy 1 phút mà hiệu quả ơn Thiên Chúa đổ xuống cho gia đình là vô hạn, vô cùng !

Như vậy, tổng cộng một buổi kinh nguyện gia đình như chúng tôi đề nghị chỉ mất tròm trèm 15 phút, có chậm một chút cũng chỉ hết 20 phút. Thế mà chúng ta cứ nghiệm mà xem, cứ thử làm mà xem, áp dụng ngay trong gia đình mình thì sẽ thấy mình lần hồi giải quyết được bao nhiêu là vấn nạn, hàn gắn được những điều tưởng như đã đổ vỡ tuyệt vọng, và sau đó chắc chắn là mở ra cả một bầu khí mới, một nếp sống mới cho mọi người. Mà nếu như lại xuất hiện những nghịch cảnh éo le, những tai biến nguy khốn, những bất hoà xung đột, cả nhà như thể đã được tiêm chủng một liều vaccin ân sủng của Chúa để vượt qua thử thách, để lại càng xác tín vào Chúa, để lại càng yêu thương gắn bó, hiệp nhất với nhau hơn...

Chiều nay, khi chuẩn bị rời Hà Nội đi Bắc Ninh, đứng đợi xe trong sân Giáo Xứ Thái Hà, một chị trung niên nhìn thấy chúng tôi, chạy đến nắm tay chúng tôi cám ơn rối rít. Chị bảo: “Cha ơi, hôm qua nghe cha giảng xong, về nhà, không ngờ ông xã con lại là người mở lời trước hết, đề nghị mấy mẹ con chúng con cùng làm một buổi kinh nguyện như cha hướng dẫn. Thưa cha, tuyệt vời quá, vì đối với gia đình con, thế đã là một phép lạ rồi đấy ạ !”

Lm. LÊ QUANG UY, DCCT, Bắc Ninh tối thứ bảy 28.2.2009

VỀ MỤC LỤC

LẮNG NGHE

 

Hầu hết chúng ta quen với câu chuyện tiếu lâm về đứa trẻ hỏi mẹ: “Mẹ, con đến từ đâu?” Bà mẹ cho một loạt cắt nghĩa dài dòng về những con vật. “Con biết những điều đó rồi. Điều mà con muốn biết là con đến từ đâu?” Bà mẹ cắt nghĩa sâu xa hơn về việc sinh những đứa bé. Cậu bé vẫn không thõa mãn. “Mẹ, anh Quang đến từ Vũng Tàu. Anh Bình đến từ Đà Lạt. Còn con đến từ đâu?” 

Đây là một phần của những thành kiến tổng quát của chúng ta về con trẻ. Chúng ta thường nghĩ rằng chúng ta biết điều chúng muốn nói mà không thật sự chịu lắng nghe chúng. Chúng ta để miệng chúng ta luôn bận rộn đến nỗi chúng ta không còn giờ để nghe những điều đến từ miệng chúng. Nhiều người trong chúng ta hoàn toàn thích thú một cuốn sách phổ thông hoặc một chương trình tivi đặt nền tảng trên sự khôn ngoan bình dị của những đứa trẻ. Vì thế, không cần thiết phải đi ra ngoài, ở trong nhà với con trẻ cũng đủ vui. Điều chúng ta cần làm là Lắng Nghe! 

Sĩ Hùng 6 tuổi giúp bố xếp những chiếc va li vào trong xe, chuẩn bị cho những ngày đi nghỉ của gia đình. Còn một cái va li nhỏ không xếp được nữa. “Bố ơi, lấy cái gối ngồi của mẹ ra và để nó ở phía sau.” Ông bố phớt lờ lời đề nghị của nó, xếp lại những chiếc va li nhưng vô ích. Ông bố mệt phờ, đi vào nhà uống ly nước. Cậu bé lấy chiếc gối ra. Khi ông bố trở lại, ông ngạc nhiên thấy chiếc va li nhỏ được xếp gọn gàng trong xe. 

Ông bố không chịu lắng nghe trong lúc lời đề nghị của đứa trẻ rõ ràng là có lý. Con trẻ chúng ta rất nhạy bén với việc thu xếp tình hình. Chúng có những lối giải quyết thông minh để đề nghị. Chúng có một cái nhìn khác mà chúng ta có thể dùng cho lợi ích chúng ta. 

Một ông bố dẫn 5 đứa con đến để tìm sự giúp đỡ chuyên môn về vấn đề hướng dẫn gia đình. Sau khi ông trình bày vấn đề, một sự phân tích rõ ràng về tình trạng của gia đình ông, đưa đến một lời đề nghị cụ thể để giải quyết vấn đề. Bấy giờ, người bố được yêu cầu đi ra ngoài, và 5 đứa con được mời vào. Vị bác sĩ tâm lý hỏi chúng: đâu là lý do có sự xung đột, và chúng cắt nghĩa rất là rõ ràng. Chúng được hỏi cái gì nên được làm để giải quyết vấn đề xung khắc đó. Chúng đã làm một đề nghị giống như vị bác sĩ tâm lý đã đề nghị. 

Ông bố có thể tiết kiệm được số tiền và thời giờ đi đến tham khảo với vị bác sĩ tâm lý nếu ông đã nghĩ đến việc lắng nghe những đứa con ông. Rất nhiều lần, con cái chúng ta biết điều chúng ta làm là sai. Nhưng chúng ta vẫn có cảm tưởng rằng chỉ chúng ta mới có quyền nói cho chúng biết điều chúng đang làm là sai. Sự tự cao tự đại của chúng ta ngăn cản chúng ta lắng nghe chúng. Thật ích lợi cho chúng ta biết bao nếu chúng ta biết lợi dụng sự nhạy cảm của chúng và biết đối xử với chúng một cách kính trọng trong việc lắng nghe tiếng nói của con cái chúng ta. 

Cậu bé Long và hai cô bé Liên, Lan đang cãi nhau về việc chọn chương trình ti vi. Long thích coi phim cao bồi trong khi hai cô gái thích xem hài kịch. Cuối cùng thì bà mẹ xem ra kiệt sức: “Long ơi, mẹ đau và mệt mỏi lắm rồi. Con vào phòng con đi.” “Tại sao lại cứ luôn luôn nhắm đến con?” cu Long hét lên. “Không cãi lại, rời khỏi đây ngay,” bà mẹ ra lệnh. 

Bà mẹ nên lắng nghe cậu bé. Nó hỏi một câu rất chí lý: “Tại sao cứ nhắm nó thôi?” Vì bà rơi vào bẩy đã sắp sẵn bỡi 2 cô bé để làm rắc rối cậu bé. Nếu bà mẹ biết lắng nghe cậu bé, bà có thể khám phá ra cách thế mà chính bà đã giúp cho cuộc chiến cứ kéo dài liên tục. 

Cậu Minh Chính 9 tuổi, đang chơi với con chó của nó trong phòng xem tivi dẫu điều đó bị cấm nhặt. Cậu bé và con chó lăn đụng chiếc bàn, làm ngã cái đèn, và bóng đèn bị vỡ. Bà mẹ giận dữ từ ngoài chạy vào, mắng cho một trận, và kết luận với câu: “Chiều nay, con không được đi bơi.” Cậu bé đáp lại ngay: “Chẳng sao cả.” 

Cậu bé lo lắm chứ. Nhưng cái tự ái của nó không để nó chấp nhận điều đó. Câu trả lời của nó là một nối dài của sự bất tuân phục đã được tỏ lộ và đã đánh bại bà mẹ. 

Nhiều lần chúng ta cần phải lắng nghe ý tưởng đàng sau những lời nói đứa trẻ dùng. “Chẳng sao cả” thật sự muốn nói rằng: “ngay cả hình phạt cũng không thể khuất phục được tôi.” Khi một đứa trẻ hét, có nghĩa là: “con ghét mẹ. Con không thích như thế một khi con không có đường lối riêng của con”. Khi nó hỏi một loạt tại sao, nó muốn nói: “hãy chú ý tôi”. 

Văn Sĩ 10 tuổi, ngồi bên cạnh bạn nó là Phúc trong chiếc xe buýt chở học sinh của nhà trường. Bác tài xế lắng nghe đoạn đối thoại của chúng như sau:

- Sĩ, hôm qua sao mầy không đi học?

- Tao không muốn đi học. Vì thế, tao định trong đầu là đau. Và tao đau thật.

- Mầy đau làm sao?

- Đau bao tử.

- Tại sao?

- Tao không muốn đi ra ngoài trong cái lạnh nầy. Sáng nay tao cảm thấy giống như vậy. Nhưng mẹ tao đã canh lại nhiệt độ trong nhà quá nóng. Tao không muốn phải chịu thêm một ngày nữa trong nhà như vậy. Thoạt đầu, tao định trong đầu là đau, nhưng rồi tao thay đổi. Tao đã phải vội vã để bắt kịp xe buýt. Tao đã không có bữa ăn sáng vì tao vẫn còn cảm thấy đau. 

Con trẻ rất thành thật với nhau. Tuy nhiên, chúng ít cho chúng ta có dịp để nghe chúng. Chúng ta thường nói một loạt về điều chúng ta nghe đến nỗi khiến chúng phải ý tứ hơn. Bác tài xế thì lắng tai nghe. Ông học được rằng con trẻ có thể tự làm mình đau để tránh điều chúng không thích. Ông cũng học được một cái gì về ý nghĩa của sự bình đẳng giữa các con trẻ. Cậu bé Phúc chấp nhận cậu Văn Sĩ và chấp nhận điều mà nó đã làm như một phần của cuộc sống. Nó không mở miệng dạy đời bạn nó. 

Mỗi bà mẹ nên học phân biệt ý nghĩa của âm thanh trong tiếng than khóc của con trẻ. Nếu không có gì hơn là những âm thanh được tiếp tục, bà phải biết khi nào nó chán và khi nào nó giận. Mỗi người chúng ta đều có khả năng nầy, nhưng dường như chúng ta bỏ nó qua một bên khi con cái đã lớn. Chúng ta nghe tiếng thét từ một đứa trẻ, chúng ta vội lao mình cách nhanh chóng để xem cái gì xảy ra. Rất nhiều lần chúng ta đã làm thế vì có tiếng thét. Nhưng nếu chúng ta biết dừng lại và lắng nghe một chút, chúng ta có thể tránh được một sự đáp trả phục vụ cho mục đích sai lầm của đứa trẻ. Nếu chúng ta biết lắng nghe, chúng ta đã gặt hái được biết bao nhiêu điều tốt đẹp! 

Lm. Lê văn Quảng, tiến sĩ tâm lý
 

VỀ MỤC LỤC
ĂN CHAY

 

Thành ngữ Việt Nam mình có câu: "Học ăn học nói học gói học mở" để khẳng định tầm quan trọng của việc phải cần học hỏi: dù ngay với cả những hành vi hoặc công việc làm rất đổi bình thường và quen thuộc trong cuộc sống thường nhật của mỗi người như ăn, nói, gói mở...

Suy nghĩ về lời dạy nầy, tôi thấy thật chí lý và càng suy nghĩ thì càng tâm đắc.

Tôi tâm đắc trước hết ở sự việc: cái học đầu tiên là "Học Ăn"! Vâng, "học ăn" phải được đặt lên hàng đầu và là ưu tiên số một cho mọi sự học hỏi của con người để con người mới có sự sống mà tồn tại. Vì hãy quan sát một trẻ mới sinh xem? Trẻ mới sinh thì đâu thể nói (nên chưa có nhu cầu "học nói"), cũng đâu thể làm (nên càng chưa có nhu cầu "học gói học mở", nhưng cần phải được ăn để sống (nên bé có nhu cầu "học ăn". Do đó phải tập cho bé biết ngậm vú mẹ, rồi biết nút vú mẹ để bú lấy sữa mà sống; hoặc ngậm vú cao su với bú be sữa để bé được sống, được lớn dần lên thì càng phải được tiếp tục "học ăn" vì đời người không phải chỉ có "sống để ăn" mà là "ăn để sống" và sống sao cho nên hay nên tốt. Do đó cần phải "ăn coi nồi ngồi coi hướng" (tức biết ý tứ trông trước ngó sau mà ăn cho ra người có tư cách, có lòng vị tha, biết giữ sĩ diện, biết nghĩ đến người khác chớ không là tham lam ham hố chỉ biết có mình và ăn cho mình được thỏa thì thôi), phải "liệu cơm gắp mắm" (nên tùy gia cảnh mà lo liệu và biết kềm hãm, để đừng bị tán gia bại sản hoặc mang công mắc nợ chỉ tại bởi... ăn!); phải biết tiết độ vì "tham thực cực thân" (ăn lắm vào sẽ dễ đổ ra lắm bệnh làm hại xác thân, hại luôn cả nhân phẩm và làm u tối tâm hồn mình) với vì "ăn nhiều ị lớn đống" (nên sẽ thối hoảng ra chớ tốt lành chi đó...)

Kế đến tôi tâm đắc ở mối liên hệ nối kết của ba sự việc "ăn, nói, làm" trong cuộc sống của mỗi đời người mà then chốt vẫn là vấn đề "ăn" (nên ông bà xưa mới sắp xếp cho câu thành ngữ trên theo thứ tự đó, chớ không là thứ tự nào khác). Vì nếu "ăn" mà chẳng có nên hay nên tốt thì "nói" với "làm" sẽ lôi thôi ra và sẽ kéo theo sự sống của cá nhân đó, tập thể đó thành tệ hại cho mình, hiểm họa cho người! Bởi lẽ "ăn tục nói phét", "ăn gian nói dối", "ăn dơ ở bẩn", "đói ăn vụng túng làm liều", "miếng ăn là miếng tồi tàn. Mất ăn một miếng lộn gan lên đầu"... thành thử nhân phẩm, đạo lý, tình người đâu còn nên sự tàn hại nhau với chiến tranh, chết chóc là điều không thể tránh...

Nói chung do bởi vậy mà ông bà xưa đã có cái nhìn đúc kết là "ăn dơ ở bẩn, ăn ngay ở lành" và tôn giáo thì đặc biệt hướng con người ta "Ăn Chay" để hãm mình, tu tâm sửa tánh, thanh tẩy tâm hồn, canh tân đời sống...

Việc ăn chay có sự khác nhau ít nhiều giữa các tôn giáo. Với đạo thờ cúng ông bà và đạo Phật thì ăn chay tức là không ăn thịt, tôm, cá trứng mà ăn rau quả và các thức làm từ các loại đậu (như nước tương, tương, chao, đậu hủ... làm từ đậu nành)... Ngày ăn chay có thể theo định kỳ mồng một ngày rằm mỗi tháng, hoặc một thời gian nào đó hay suốt đời (nên gọi là "ăn chay trường"). Còn với đạo Chúa, ăn chay là vừa kiêng thịt (nhưng ăn tôm, cá, trứng) với vừa ăn ít đi (tức chỉ ăn hai bữa trong ngày là bữa trưa và bữa tối. Nếu bữa trưa ăn no thì bữa tối ăn lưng lửng bụng và ngược lại. Giữa hai bữa, tuyệt đối không ăn vặt). Tuy nhiên nếu đau yếu hoặc già lão hay dưới 14 tuổi thì không nhất thiết phải giữ luật. Ngày ăn chay thì một năm chỉ ăn có hai ngày là thứ Tư Lễ Tro (ngày mở đầu mùa Chay) và thứ Sáu Tuần Thánh (kỷ niệm ngày Chúa Giêsu chịu khổ nạn, chịu chết trên Thánh Giá).

Hễ "ăn" là phải có "học", nên "ăn chay" lại càng phải "học" vì đây là lối "ăn" đòi hỏi có sự khổ chế, khổ hạnh, lội ngược dòng... để kềm lòng, luyện chí, tự kiểm soát bản thân đừng bị "miếng ăn là miếng tồi tàn" với luôn cả "danh, lợi, thú" điều khiển...

Xin chia sẻ việc tôi ăn chay...

Tuổi con gái mới lớn 12, 13 tôi đã từng ăn chay. Không nhớ tôi học ở đâu cách ăn chay mà tôi ăn chay như thế nầy... Lúc khởi đầu, cứ hôm nào tôi có vái ông Địa để xin điều chi đó thì tôi luôn cúng ông Địa nải chuối xiêm và chỉ ăn chay một ngày hôm đó thôi. Không bao giờ tôi ăn chay mà không có kèm theo vái ông Địa cúng nải chuối để cầu xin một điều gì. Lại ăn chay mà tôi vẫn luôn có sát sanh (như bẫy chuột khoét dừa, tát ao bắt cá... vì nhà ngoại tôi vườn tược mênh mông, nhiều mương, nhiều ao nước cạn đầy tôm cá...) bởi quanh tôi, người ta ăn chay vẫn hay làm thế... Lớn dần lên, có khi tôi ăn chay liên tiếp ba ngày hoặc ngày rằm mồng một mỗi tháng và vẫn luôn phải có van vái, cầu xin điều chi đó với Phật, với Trời, các luôn cả ông Địa chứng nhận cho mình (giờ nghĩ lại, đúng là tôi ăn chay để... hối lộ, để xin ơn... mà cả đạo thờ cúng ông bà và đạo Phật đều đâu có dạy thế!!!)

Lập gia đình được theo đạo Công Giáo, nhưng thỉnh thoảng tôi cũng có vái cúng ông Địa nải chuối và ăn chay! Chẳng hiểu sau ông xã tôi, bố mẹ chồng tôi chẳng có rầy dạy chi việc nầy (qua đến Mỹ, tôi vẫn "ngựa quen đường cũ", thỉnh thoảng vẫn có vái cúng, nhất là cho việc làm ăn trong tiệm vì cứ được các bạn làm bên lương "xúi" vái cúng. Lại các bạn làm nầy lớn tuổi hơn nên tôi cũng muốn chìu lòng! May được linh mục Giuse Phan Ngọc Tuyến của xứ Đồng Phát - Đồng Nai chỉ bảo rằng: làm vậy mắc tội trọng vì phạm đến Chúa Thánh Thần, nên tôi chừa hẳn). Suốt gần bốn năm sống với nhà chồng, tôi nhớ có những ngày ăn kiêng thịt, chớ tôi không có ăn chay (bố mẹ chồng tôi đạo đức lắm! Có thể cụ thấy tôi gầy gò đau yếu quanh năm, vừa đi học vừa có con nhỏ... nên thương, không dạy tôi giữ luật Chay chăng?). Khi tôi ra ở riêng và lúc đi dạy, có một lần (không nhớ chính xác năm 1978 hay 1979) tôi được em nữ sinh lớp mình chủ nhiệm cũ, nhủ khẽ:

- Cô ơi ngày mai là thứ Tư Lễ Tro khởi đầu mùa Chay Thánh, luật đạo buộc ăn chay, cô nhớ ăn chay nhen.

- Ôi! Có luật buộc vậy sao?! Cô đâu hay biết chi! Vâng, cô sẽ ăn chay nhưng em phải hướng dẫn cho cô được rõ vì cô mù tịt...

Thế là em chỉ cho tôi biết cách ăn chay và giải thích ý nghĩa. Em còn nói sẽ ăn chay thêm một ngày nữa vào Thứ Sáu Tuần Thánh và đến lúc ấy em sẽ nhắc. Tôi đã quyết tâm phải ăn chay hôm ngày Thứ Tư Lễ Tro đó và cũng có rủ được ông xã... Tôi nhớ rõ sáng hôm đó tôi nhịn đói để đi dạy (dạy từ 6 giờ 45 đến 12 giờ 45). Tôi định trưa về nhà thì ăn no và tối đến chỉ ăn lưng lửng bụng. Nhưng, hết tiết dạy thứ năm (tức tiết cuối) tôi đang bước xuống mấy bực thang lầu thì một em nữ sinh khác vốn mến thương tôi lắm (em hay đến chơi nhà tôi, có khi ở lại ngủ đêm và thầy trò ấp ủ chuyện... vượt biển), chạy theo giúi vào tay tôi mảnh giấy. Em viết chỉ vỏn vẹn có hai dòng.

Dòng thứ nhất:

"Cô ơi "Dân đói kêu trời xao xác nhạn..."

Dòng thứ hai:

"Cô ơi "Ăn mặn nói ngay ăn chay nói dối"

Tôi giật mình: hóa ra em cũng biết việc tôi ăn chay?! Và vâng, chỉ có hai dòng như thế, mà tôi khổ tâm lắm!

Dòng thứ nhất em trích câu thơ với kèm theo ba chấm tức còn nữa! Đó là bài thơ trước đấy tôi đã chứng dẫn để dạy cho các em về dòng văn học chống Pháp của phong trào Cần Vương:

"Dân đói kêu trời xao xác nhạn,

Quân gian chật đất rộn ràng ong!

Chín lần xa giá non sông cách

Bốn bể nhân dân nước lửa lòng"

(hiện nay tôi không nhớ được ai là tác giả, có thể tên bài thơ là "Tự Thán" và của cụ Phan Đình Phùng chăng?)

Tôi hiểu em muốn nhắc khéo mình, vì thực tế của những năm 1978-1979 đói kém lắm! Ăn gạo hẩm, bo bo, ăn độn mì! Xã hội thì đầy dẫy những bất công, tệ nạn... Trong khi sáng hôm đó tôi lại dạy về dòng văn học hiện thực của Xã Hội Chủ Nghĩa với con người mới phấn khởi lạc quan, chế độ mới tốt đẹp đang lên... Cho nên em trích tiếp theo câu thành ngữ "Ăn mặn nói ngay ăn chay nói dối" làm tôi thấy bị mỉa mai lắm! Như thể bị tạt gáo nước lạnh vào mặt cho việc mình ăn chay!... Bởi thế, tôi đã hủy bỏ việc ăn chay đầy ý nghĩa mà lần đầu tiên mình ý thức được và toan thực hiện trong đời!

Sau nầy sống ở Mỹ, tôi cũng vẫn mặc cảm mình có dối có gian chớ chẳng tốt lành gì (có ai hành nghề tự do mà "sạch" được hoàn toàn đâu, dù rằng chỉ có "ôm" cái tiệm húi tóc dũa móng tay!) nên cứ Thứ Tư Lễ Tro và Thứ Sáu Tuần Thánh hàng năm, tôi thiên về kiêng thịt hơn là ăn chay. Chỉ có kể từ mùa Chay năm 2006, tôi mới dứt khoát quyết định ăn chay hai ngày: Thứ Tư Lễ Tro và Thứ Sáu Tuần Thánh (tất nhiên mặc cảm mình chẳng tốt lành chi ở tôi vẫn còn, nhưng đã đến lúc tôi thấy phải ăn chay. Tôi ăn chay do lòng yêu mến Giáo Hội nên muốn làm theo lời dạy của Giáo Hội: bảo ăn chay hai ngày ấy trong Mùa Chay Thánh thì tôi cứ thanh thản vâng theo vậy. Như con cái vâng lời cha mẹ vì yêu thương kính trọng cha mẹ và cũng là để tỏ lòng hiếu thảo...). Sang đầu năm 2007, nhân đọc cuốn Kinh Thánh Trọn Bộ Cựu Ước và Tân Ước" tôi bắt gặp lời nầy: Ngày ăn chay các ngươi vẫn lo kiếm lợi, vẫn áp bức mọi kẻ làm công cho mình, các ngươi ăn chay để mà đôi co cãi vã, để nắm tay đánh đấm thật bạo tàn (I - sai - a 58: 3, 4) nên thấy nhẹ cả lòng và thoát hẳn mặc cảm. Vì hiểu cái lỗi vấp phạm đáng tởm nhất trong ngày ăn chay để Chúa phải cảnh báo và quở trách: chung quy vẫn là lỗi đức Ái và sự Khiêm nhường! Chớ cái lỗi không có nói thật nói ngay mà làm như vô tâm không biết hoặc dối dối giấu giấu để mình được yên thân (như lúc còn ở Việt Nam đi dạy) và cho mình cho người cũng được yên thân (trong chuyện làm ăn sinh sống bên nầy) thì chưa thấy Chúa... lên danh sách! Cho nên tôi thấy được... lên tinh thần! Kể từ mùa Chay năm 2007 tôi hay có ăn chay thêm vào ngày thứ Sáu trong tuần và song song với việc ăn chay, tôi luôn cố gắng thực hành theo lời Chúa dạy:

"Cách ăn chay mà Ta ưa thích chẳng phải là thế nầy sao: mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc, trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm. Chẳng phải là chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ, thấy ai mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt làm ngơ trước anh em cốt nhục? (I - sai - a 58 : 6, 7). Tức trong mọi chuyện, tôi gắng phải đặt đức Ái làm đầu để đừng lỗi luật yêu thương (không ỷ mình là mẹ để khó khăn, o ép con cái; là chủ để xử hiếp với thợ thầy; là người phục vụ để đập đổ khách hàng; biết chạnh thương trước những mảnh đời khốn khổ để nhường cơm xẻ áo làm ấm lòng nhau)... Bước qua năm 2008 tôi phấn đấu ăn chay mỗi thứ Tư và thứ Sáu hàng tuần nếu có thể (tức nếu không bị ngăn trở bởi đám tiệc, khách khứa) và ăn chay theo lời Đức Mẹ Mễ Du dạy là ăn bánh mì với nước lả nếu có thể (tức chủ yếu là tấm lòng với ý thức hãm mình, nên nếu trong nhà hãy còn các đồ ăn thừa của những ngày hôm trước thì tôi vẫn ăn lại đồ thừa ấy, chứ không phí tiền mua bánh mì). Và tôi ăn chay thêm ngày như thế vì nhớ lời Chúa dạy cho các môn đệ. Khi các Ngài thấy Chúa trừ được quỷ cho em bé bị kinh phong. Các Ngài hỏi Chúa: "Tại sao chúng con không thể trừ quỷ ấy được?" thì Chúa bảo: "Thứ quỷ ấy chỉ bị xua trừ bằng lời cầu nguyện và việc ăn chay" (Mt 17 : 19 - 20). Tôi tự biết mình có những thói tật khó chừa như thể là những "thần dữ" đã "đóng đô" dai dẳng ở trong mình cần phải xua trừ như thần chia trí (làm ăn, xem tivi, nghe nhạc là tôi chú tâm lắm! Nhưng tham dự Thánh Lễ, đọc kinh thì luôn bị chia trí!), thần nóng tánh, thần buồn chán bi quan (dù nhất thời, tùy việc tùy lúc chứ không luôn luôn)... nên ăn chay để mong đuổi được chúng xa khỏi mình... (và cũng để cầu nguyện, xua trừ cho chồng con nữa vì cảm biết chồng con cũng có bị "thần dữ" đóng đô...)

Trong việc ăn chay, tôi có cái kinh nghiệm là thật dễ bị cám dỗ! Nhất là ăn chay mỗi thứ Tư (để nhớ về Thứ Tư Lễ Tro, về kiếp người tro bụi, phù du hầu đừng tham "danh, lợi, thú" mà tham sống bác ái, sống cho đi...) với mỗi thứ Sáu hàng tuần (để nhớ về Thứ Sáu Tuần Thánh Chúa chịu nạn chịu chết cho kẻ có tội là mình, để mình dễ có sự khiêm nhường, tha thứ cho mọi người...) là hai ngày đầy ý nghĩa nên càng bị cám dỗ kinh khủng! Tánh tôi bình thường không hay thấy đói thấy thèm ăn và cũng không coi trọng vấn đề ăn uống. Nhưng, cứ hễ ngày ăn chay mà ngày thứ Tư là y như rằng tôi bị thấy đói, thấy thèm nên có hôm không nhịn được, sắp đến giờ đi Lễ vẫn phải kiếm cái chi bỏ vào miệng, khiến tôi dù đi lễ mà đâu thể lên rước Lễ! Tánh tôi bình thường cũng chẳng bắt lỗi ai hoặc để bụng chuyện gì. Nhưng, cứ ngày ăn chay mà thứ Sáu thì câu nói của chồng, của con, của bạn làm, của khách... chẳng hiểu sao lại làm tôi bực và nổi nóng lên... rồi cự, rồi gây! Cho nên nhiều hôm tôi phải xin với chồng, với bạn làm: nhớ giùm hôm nay tôi ăn chay đấy! Để tranh thủ lòng thương: đừng đem thức ăn "quyến rủ" mình hoặc nói năng "trên gan" mình... Cũng mừng là mỗi một lần bị cám dỗ và trót vấp vào thì tôi rút kinh nghiệm mà cảnh giác hơn, cảnh giác mãi và rút kinh nghiệm mãi... hy vọng với thời gian, tôi sẽ được tiến bộ hơn...

Và đã "chay" thì gắng "tịnh". Thành thử những ngày ăn chay dù bận công việc làm, tôi vẫn tranh thủ thả bộ ra sân khi có giờ rảnh để vừa giữ được miệng mồm đỡ phải nói năng sanh sự, vừa lần chuỗi hướng lòng nên học được bao điều hay từ bao việc mình thấy trên những bước mình đi. Nhất là tôi học được đức Ái và lòng biết ơn... Vì thả bộ trong ngày ăn chay, tôi thích thả bộ phía mặt sau của khu thương mại nơi tiệm tôi (cho có sự hãm mình, bởi toàn những thùng rác!). Nhờ vậy, tôi phát hiện được khu vực thùng rác ở ngay đàng sau tiệm tôi: số người đêm về cư ngụ ngày một tăng (khu vực nầy có hai thùng rác thật to đặt trong vòng bờ tường xây kín ba mặt, mặt trước là hai cửa lớn có 4 cánh để mở ra đóng vào. Thoạt đầu, tôi phát hiện một nắp thùng rác được mở ra bắt qua bờ tường làm thành cái mái che mưa và bên dưới dọn sạch sẽ để đống chăn, gối! Dần dần tôi thấy nắp thùng rác còn lại cũng được mở ra bắt qua bờ tường làm mái và bên dưới có thêm đống chăn gối. Có lúc thấy có thêm cái lều ở khoảng trống bên trong giữa hai thùng rác với có luôn chăn gối trong đấy! Có những đêm mưa to, sáng sớm vô, tôi thấy các chăn mền đều bị ướt nhưng trên cái nẹp dọc bờ tường thấy để chai ketchup, chai mustard mới nguyên chắc mới khui ra ăn sáng... Trời đang mùa đông lạnh, cứ nghĩ cảnh đêm về mình rúc trong chăn ấm nệm êm có cả "heat" để sưởi mà còn thấy lạnh... nên tôi cảm đến thế nào cái giá rét những người nầy phải chịu! (chưa bao giờ tôi được gặp họ, vì có lẽ họ muốn tránh nên về ngủ quá khuya và ra đi từ lúc sáng sớm). Cũng như cảm thế nào lời Chúa dạy "Không ngoảnh mặt làm ngơ trước anh em cốt nhục..."! Vâng, họ là anh em cốt nhục mình vì cùng bằng xương, thịt con người biết run rét trước giá lạnh và hơn nữa còn cùng con chung của Cha trên trời... Tạ ơn Cha trên trời gìn giữ mình vẫn còn có được gian nhà để ở nên để đáp lại tình Cha, tôi khát khao phải chia sẻ và chia sẻ mãi... Buổi chiều trước lúc đóng cửa tiệm và về và tham dự Thánh Lễ Giáng Sinh, tôi với cô bạn làm đã xúc cảm mang quà ra để đấy mà cứ mong quà được giữ qua đêm chớ đừng mở vội (tức có nghĩa là đêm Giáng Sinh họ sẽ không về đấy, mà được về ngụ ở mái ấm nào...). Nhưng, sáng hôm sau tôi tạt qua, thấy hộp chocolate mình biếu được để lên cái nẹp dọc bờ tường, cái mền cô bạn biếu được xếp ngay ngắn đặt bên góc tường... nên tôi lại thấy mừng vì chắc đêm qua họ có cảm được đôi chút ấm lòng...

Bởi vậy đâu phải bên nước Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa mới có cảnh: "Dân đói kêu trời xao xác nhạn..." mà ngay cả ở xứ Mỹ tự do và giàu có nầy... Nếu mỗi người chúng ta dù cuộc sống chỉ tạm có đấp đổi qua ngày mà chịu hãm mình "Chay Tịnh" để chia sẻ cho nhau thì cũng được ấm lòng nhau ít nhiều vậy...

Hoàng Thị Đáo Tiệp

VỀ MỤC LỤC

TÔI MUỐN NHIỀU...

Tôi muốn nhiều...trong Cánh đồng truyền giáo

Muốn sẻ chia với  bạn hữu xa gần

những người thân cùng xóm ngõ, cận lân

Cùng với tôi trên cánh đồng diệu vợi!

  

Là cánh đồng Chúa vẫn thường mong đợi

Mời mọi người vào đó để sẻ chia

Mang Tin Mừng đi khắp mọi vùng quê

để mọi người trở nên con của Chúa!

  

Mong muốn vậy và đồng thời khấn hứa

Nhưng khi gặp, tôi lại muốn giữ riêng

Tôi không ưng có thêm những láng giềng

Những người cùng với tôi một nhiệm vụ!

  

Rõ ràng là có điều gì tôi sợ

Sợ những người làm hại ảnh hưởng tôi

Họ hơn tôi, bởi kinh nghiệm việc đời

Bởi giỏi dắn, bởi tu hành đạo hạnh! 

 

Có thêm bạn, cuộc  truyền đạt  thật mạnh

Việc rao truyền Chân Lỳ khởi sắc thêm

Bao con người với sở học uyên thâm

muốn cùng tôi đào sâu việc truyền giáo! 

 

Nhưng than ơi! Lòng tôi đầy giông bão!

Không muốn người cùng tôi sẽ sẻ chia

Đường tôi đi giống sa mạc về khuya

Chúa chịu hết những gì tôi gây hoạ!

  

Bệnh ích kỷ, tự cao thì sẽ hoá

nên những gì làm ngăn chận Phúc Âm

- Lẽ ra con hoan hỉ đón bạn thân

Nhưng con đã lạnh lùng! Ôi lậy Chúa!

  

Phải làm sao? Con làm sao đây Chúa?

Kể từ con nghe tiếng Chúa thiết tha

Con quyết tâm xa lánh bãi tha ma

Nó ngăn chận những con đường Truyền giáo!

 

 Xuân Vũ Trần Đình Ngọc

(Lấy ý từ LM Quoist)

VỀ MỤC LỤC
BOOMERANG

  

Sau một tháng ở Úc-đại-lợi, tôi trở lại Hoa Kì, hành trang là những tình cảm thân thương, mà những người bạn cùng lí tưởng của tôi ở Úc châu trao gửi một cách nồng nàn, thắm thiết. Tôi cũng đem về những món quà kỉ niệm, người tặng đã gói ghém trong đó một mối chân tình, khiến mỗi khi nhìn chúng, lòng tôi thấy nao nao.

Ngồi trên máy bay, tôi mở tôi xách, lấy cái boomerang ra ngắm nghía. Cái boomerang này, một người bạn tặng cho tôi. Khi nhận nó từ tay bạn, tôi biết bạn muốn nói với tôi một điều gì. Chúng tôi đã nói chuyện nhiều với nhau bằng lời, nhưng cũng có những điều chúng tôi nói bằng cử chỉ, những điều ấy thường thâm trầm và nhiều ý nghĩa.

 

Boomerang là một thanh gỗ dẹp, hình cong cong như cái lưỡi liềm, hai đầu được gọt tròn. Hai mặt của boomerang, một mặt phẳng, còn mặt kia cạnh được mài cong tròn. Phía bên mặt phẳng, ở một đầu tôi thấy vát dẹp xuống, lúc đầu tôi tưởng cái boomerang này bị mẻ, nhưng nhìn kĩ tôi mới biết là người ta cố ý làm như thế.

Trên thị trường có nhiều loại boomerang lắm. Cái boomerang của tôi thuộc loạt đẹp, nó màu nâu, được quang dầu bóng loáng, trên mặt có chữ Australia và hình con kangaroo đang nhảy.

Boomerang nguyên thủy là một đồ chơi, hay cũng là một khí giời săn thú rừng, của thổ dân Úc châu. Cầm cái boomerang ở một đầu phía không vát, mặt phẳng úp vào lòng bàn tay, hướng về chiều gió thổi, xoay một góc khoảng 45 độ với bên phải của hướng gió, nâng boomerang cao ngang vai phải và theo chiều thẳng đứng, nhẹ nhàng ném boomerang về phía trước, nó sẽ bay là là theo một hình cung elip và quay trở về với người ném ở phía bên trái. Khi ném boomerang, người ta phải đứng tại một điểm, nhận định chiều gió và nhắm sẵn mục tiêu mới có kết quả như ý. Để đạt được kết quả ấy, người ta phải tập luyện nhiều lần. Gió mạnh hay gió nhẹ không phải là điều kiện quan trọng, quan trọng là phải ném cho đúng cách .

Nhìn cái boomerang, tôi hình dung đến những thổ dân Úc châu hiền lành chất phác, vào một thời nào đó đã sống thanh thản ở lục địa này, chân đạp trên mặt đất rậm rạp cây rừng, tai nghe tiếng chim kêu, gió rít, hòa lẫn vôi tiếng sóng biển xa xa. Thời buổi huy hoàng đó, đối với họ không còn nữa, nay họ trở thành người thiểu số, sống trong những vùng nhất định, những vùng chưa bị làn sông văn minh kĩ thuật tràn tới làm xáo trộn đời sống vốn an hòa của họ.

Nhưng tôi nghĩ nhiều hơn đến điều mà bạn tôi muốn nhắn gửi qua cái boomerang. Bạn muốn tôi dù đi, nhưng sẽ có ngày quay trở lại, như cái boomerang tuy được ném đi xa, nhưng rồi cũng sẽ trở về với người ném nó. Vâng, bạn ạ, tôi sẽ trở về. Từ khi tôi tìm thấy nơi Úc châu những người bạn cùng ôm ấp một lí tưởng, vùng đất ấy đối với tôi đã trở nên thân yêu, và trước sau rồi thế nào cũng có ngày chúng ta gặp lại. Khi những trái tim đã gặp gỡ nhau, trong nó có sự thôi thúc để trở lại cùng nhau.

 

Để có được một vòng quay trở về, boomerang phải có một hình thức cấu tạo đặc biệt. Hai mặt của nó không giống nhau, một mặt phẳng, một mặt cạnh được mài cong. Tuy nhiên cả hai mặt tạo nên cái boomerang, thiếu một mặt nào cũng là thiếu cả cái boomerang. Hai mặt cần đến nhau, bổ túc cho nhau. Tôi và bạn cũng thế, chúng ta không giống nhau dù chúng ta yêu thương nhau, nhưng nếu chúng ta cảm thấy cần nhau, chúng ta biết lấy cái mình có, đắp đổi cho nhau cái mình không có, chúng ta sẽ không rời được nhau. Và nếu có phải ra đi, chúng ta vẫn tìm cách trở về . Ngay dù con người thể chất có xa nhau, thì lí tưởng và trái tim chúng ta vẫn mãi mãi tìm đến với nhau.

Tôi chú ý đến cái chỗ boomerang bị gọt vát mà thoạt nhìn, tôi cứ tưởng là bị mẻ. Chính cái chỗ bị gọt vát đó làm cho boomerang có sức xé gió, bay đi và trở về. Có những cái thoạt nhìn cứ tưởng là khuyết điểm, nhưng thật ra lại là điều cần thiết để đạt được mục đích. Trong tình bạn, đôi khi tôi nhìn thấy nơi bạn những điểm không ưa. Không ưa, có lẽ vì những điểm ấy không đúng với quan niệm, ý nghĩ và sở thích của tôi. Nhưng biết đâu những điểm ấy lại là mấu chốt giữ vững tình bạn của chúng tôi, để rồi, chính vì những điểm đó, mỗi khi xa nhau, chúng tôi lại tìm cách trở về .

Rời lãnh vực tình bạn để bước sang những lãnh vực khác rộng rãi hơn, tôi thấy trong bất cứ một sự tụ hội, một sự liên kết nào, người ta cũng cần bổ túc cho nhau và chấp nhận những khiếm khuyết nơi nhau. Nhờ thế, sự tụ hội, liên kết mới tồn tại lâu dài. Thiếu bổ túc và chấp nhận, cuối cùng tổ chức nào cũng tan rã, mà đã tan rã thì khócó cơ hội hàn gắn lại.

Có lẽ tôi nghĩ xa hơn cả điều bạn muốn nhắn gửi. Tôi nghĩ đến cuộc trở về căn nhà nội tâm sâu thẳm của mình. Người ta được tung ra ngoài đời, lăn mình vào những hoạt động, quay theo vòng quay của nhịp sống xã hội, nhào lộn với những thành công, thất bại nối tiếp nhau... Có lúc người ta cần quay trở lại con người thật, con người bên trong của mình để khám phá ra giá trị thật của nó, để định lại hướng đi trong cuộc đời, để biết mình đang ở chỗ nào, sẽ tiến về đâu, khi nào cần dừng lại, lúc nào phải quay về. Nếu những cuộc trở về được lập đi lập lại nhiều lần, hằng năm, hằng tháng, hằng tuần hay hằng ngày; như cái boomerang được ném đi, trở lại, ném đi, trở lại… người ta sẽ dung hòa được cuộc sống hoạt động và đời sống nội tâm, một sự dung hòa thật đẹp và ý nghĩa. Rất tiếc có nhiều người không phải là cái boomerang mà chỉ là một thanh gỡ bình thường, ném đi rồi là bay đi luôn, không bao giờ còn quay trở về được nữa !

Cái boomerang được ném ra, nhưng nếu không ném đúng cách, nó rơi xuống đất hay bay luôn không trở lại. Chính nó có khả năng trở về, nhưng ngay từ lúc bay đi,nó đã bay không đúng cách nên mất khả năng quay về. Có phải đó cũng là điều đáng tiếc không?

Người ta cũng thế, ai cũng có niềm ao ước và khả năng tìm về căn nhà nội tâm dồi dào và sung mãn của mình. Nhưng khi bắt đầu cuộc sống hướng ngoại, người ta đã không bắt đầu một cách chính đáng, đã không nhắm sẵn một mục tiêu, người ta hoạt động vì hoạt động, hoạt động một cách mông lung, không định hướng. Hoạt động hướng ngoại kiểu ấy, người ta dễ dàng đánh mất đời sống nội tâm, không còn căn nhà ở nơi sâu thẳm để trở về nữa.

Và cuối cùng, tôi nghĩ đến cuộc trở về với Thiên Chúa, đấng tạo dựng nên tôi, cho tôi vào đời, sống hạnh phúc và giúp người khác sống hạnh phúc. Rồi một ngày nào đó , tôi cũng sẽ trở về với Thiên Chúa. Tôi như cái boomerang nằm trong tay Chúa, Ngài tưng tôi đi. Cuối cùng tôi cũng lại trở về, nằm thu gọn ngoan ngoãn trong bàn tay Ngài.

Bao giờ thì tôi trở về? Dĩ nhiên đó là ngày tôi nhắm mắt, vĩnh biệt cõi đời để bước vào cuộc sống thiên thu. Nhưng có phải cứ nhắm mắt xuôi tay là đương nhiên được trở về với Chúa không? Đường về sẽ xa lạ và tôi sẽ lạc lối, nếu ngay trong cuộc sống này, tôi không biết thực tập cho một cuộc trở về thật sự. Sự thực tập ấy cần được lập lại trong mỗi giai đoạn sống, mỗi năm, mỗi tháng, mỗi ngày. Khi tôi khám phá ra con đường trở về với Chúa ngay trong cuộc sống này, con đường ấy sẽ trở nên quen, và khi đến giờ đã định, tôi thanh thản trở về , bước đi trên lối đi dấu ái, trở về nhà Cha tôi, như trở về một nơi chớm thân thương và quen thuộc. Cái boomerang là tôi ngày nào được Chúa gửi và đời, nay vòng trở lại nghỉ an trong Chúa.

Boomerang!  Boomerang!

Âm thanh huyền bí mời gọi một cuộc trở về. Bạn ạ, hãy tin đi, tôi sẽ trở về. Trái tim tôi có một màng lọc, không dễ cái gì cũng lọt được vào, nhưng đã lọt vào thì sẽ nằm luôn trong đó, không ra nữa. Tình thân của bạn đã lọt vào trái tim tôi, dễ gì nó lạt phai đi được. Nó sẽ nằm đó và thôi thúc tôi dù đi đâu cũng sẽ trở về với bạn. Tôi hiểu niềm tha thiết của bạn khi trao chơ tôi cái boomerang, và tôi hiểu rõ lắm, bạn ạ, những điều bạn không nói bằng lời.

Và lạy Chúa, con cũng sẽ trở về với Chúa, trở về với trái tim chan chứa yêu thương. Xin dạy cho con biết thực tập cho cuộc trở về này, để đường về nhà Chúa trở nên quen thuộc với con ngay từ bây giờ, khi con còn đang sống, đang kiếm tìm hạnh phúc cho con và cho người khác. Xin cho con biết thưa cùng Chúa như Augustinô : ''Hồn con khắc khoải đi tìm Chúa, và chỉ nghỉ yên khi đã gặp Ngài. ''

Boomerang! Boomerang !

Nhà Văn Quyên Di

VỀ MỤC LỤC
CỦNG CỐ NHỮNG BƯỚC ĐẦU PHÂN ĐỊNH VÀ SỐNG ƠN GỌI

 

NGƯỜI NỮ TU SỐNG TU ĐỨC TOÀN DIỆN  

tác giả: Lm. Micae-Phaolô Trần Minh Huy pss 

LỚP THẦN HỌC LIÊN TU SĨ - TÒA GIÁM MỤC BÙI CHU  (2008 - 2009)

CHƯƠNG II : CỦNG CỐ NHỮNG BƯỚC ĐẦU PHÂN ĐỊNH VÀ SỐNG ƠN GỌI

ĐẶT VẤN ĐỀ 

Biện phân ơn gọi thánh hiến là lắng nghe lời Chúa kêu gọi. Vậy trước hết, chúng ta thử khảo sát mấy từ ngữ quan trọng. 

Ơn Gọi, một từ ngữ thường được sử dụng để gọi tên một lời mời gọi đến chức linh mục hay đời sống tu sĩ. Tuy nhiên, trong ý nghĩa rộng rãi nhất của nó, ơn gọi đơn giản là “một lời mời gọi.” Từ ngữ này không chỉ để xác định chức linh mục hay tu sĩ mà thôi đâu. Các bậc sống khác, như hôn nhân chẳng hạn, cũng là một ơn gọi, giống như là linh mục hay tu sĩ. 

Do đó, nếu ơn gọi là một lời mời gọi thì chúng ta phải để thời giờ lắng nghe hầu biết được chúng ta phải trở thành cái gì và ở đâu. Tiến trình lắng nghe này thật căn bản để kiện toàn điều lòng chúng ta ước mong tìm được ý nghĩa đời mình, trong kế hoạch quan phòng của Thiên Chúa. 

Là những con người, chúng ta được mời gọi bởi hoàn cảnh an bài; những giới hạn và khả năng tiềm ẩn của chính chúng ta, trong một thời khắc lịch sử của khả năng tình cảm, tri thức và tâm lý của chính chúng ta.

Nếu chúng ta đi theo giáo huấn của các viện phụ và viện mẫu sa mạc, cũng như của các giáo phụ và tiến sĩ Giáo Hội liên quan đến vấn đề này, chúng ta sẽ chấp nhận rằng một ơn gọi được tìm thấy trong sự sắp xếp an bài của các phương diện ý nghĩa của cuộc sống và bởi ân sủng mà chúng ta đón nhận để thực hiện điều tốt nhất của các tình huống đó. 

Biện phân là tiến trình lắng nghe và chọn lựa qua sự an bài trong các khía cạnh ý nghĩa của cuộc đời một con người, cũng như ân sủng để tìm kiếm và xác định hoàn cảnh và lời đáp trả đích thực đối với Tình yêu của Chúa. 

Đáng tiếc là chúng ta có khuynh hướng lạm dụng hay sử dụng không đúng từ ngữ “biện phân” này. Chúng ta gọi là biện phân bất cứ cái gì phải làm với một quyết định, ngay cả việc rất đơn giản nhất là chọn lựa giữa hai thứ đồ vật vật chất. Chúng ta cũng có khuynh hướng dùng danh từ biện phân khi tất cả những gì chúng ta muốn chỉ là một quyết định thận trọng về một việc gì đó cần đến lương tri. Do đó, không phải tất cả mọi tiến trình phải lấy quyết định đều đặt dưới phạm trù biện phân. 

Biện phân đòi hỏi khả năng suy tư thần học liên quan đến hoàn cảnh và đời sống của một người. Khi chúng ta lắng nghe và chọn lựa qua sự an bài của các phương diện quan trọng của cuộc sống và khi chúng ta đón nhận ân sủng để tìm biết qua cầu nguyện đâu là sự thật trong hoàn cảnh của chúng ta, hầu có thể xác định lời đáp trả đích thực nhất với tình yêu Chúa, thì chúng ta đi đến sự hiểu biết rõ ràng về cuộc đời chúng ta, sự rõ ràng vượt quá con tim biện phân của chúng ta. Như thế có sự gặp gỡ giữa hai sự hiểu biết rõ ràng, của Chúa và của chúng ta, nhờ đó chúng ta bắt đầu nhìn thấy với con mắt đức tin những gì Chúa muốn trong chúng ta và cho chúng ta.  

Trong khi biện phân lời mời gọi đến chức linh mục, tu sĩ hay một tác vụ tôn giáo, điều hết sức quan trọng phải ghi nhớ trong lòng trí rằng ơn gọi đặc biệt này trước hết là một lời mời gọi dâng hiến cuộc đời phục vụ Chúa. Đó không phải là một lời mời gọi làm bất cứ cái gì hay trở nên cái gì.  

Tiến trình biện phân lời mời gọi của một người là một nỗ lực vừa nhân loại vừa thần linh để chọn một bậc sống diễn tả lời đáp trả tốt nhất của mình với tình yêu và sự chăm sóc quan phòng của Chúa. Như thế nó không bao giờ được đảm trách một mình, vì nó mời gọi một sự tương tác giữa người biện phân và Thiên Chúa. Vậy, việc biện phân luôn luôn nằm trong bối cảnh mối tương quan nhân vị của con người với Chúa. 

Cầu Nguyện và Biện Phân

Cầu nguyện là tâm điểm mối tương quan của con người với Chúa làm cho con người tự nguyện sẵn sàng với sự hiện diện dẫn dắt của Chúa trong đời sống mình, đồng thời làm cho con người có khả năng nhận biết Chúa qua tương quan đối thoại: “Xin cho con biết Chúa, xin cho con biết con” (thánh Augustinô). 

Như vậy, biện phân không thể tách lìa cầu nguyện, nếu không nó sẽ không thể là một biện phân đích thực. Biện phân không phải là một cái gì chỉ đơn giản đòi học hỏi các phương pháp và kỹ thuật, dù đó là những dụng cụ hữu ích trong chính tiến trình biện phân.  

Biện phân trước hết là một ân ban mà nguời ta tìm kiếm hằng ngày trong cầu nguyện. Chúng ta học nghe tiếng Chúa với con tim của mình, học nhận biết âm thanh của nó, đôi khi cả học biết những gì Chúa muốn nói trước cả khi Ngài nói nó ra. Biện phân là một lời mời gọi được phát sinh từ mối tương quan thân mật và hiệp thông với Chúa. Nó là một ân ban cho ta có thể phân biệt được những hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.

Vì thế, một người đi vào tiến trình biện phân ít nhất phải có hạt giống đức tin trong mình. Ta phải xác tín rằng lời cầu nguyện ban sức mạnh và đào sâu mối ràng buộc bằng hữu với Chúa. Ta cũng phải tin rằng lời cầu nguyện và đức tin mang lại mục đích và ý nghĩa cho cuộc đời được sống trong sự hiến dâng và cam kết phục vụ Chúa.  

Nhờ hành trình cầu nguyện, chúng ta nhận ra được rằng tiến trình biện phân, dù lắm khi là một trăn trở, thực sự đơn giản nếu chúng ta để Chúa Thánh Thần hướng dẫn chúng ta. Tiến trình này bao gồm bốn giai đoạn sau đây: Giữ quan hệ với chính mình; giữ quan hệ với Chúa; chính tiến trình lấy quyết định và khẳng định quyết định đã lấy. 

Bây giờ chúng ta đến với câu hỏi vô cùng quan trọng. Dấu hiệu nào của ơn gọi linh mục và tu sĩ là nổi bật và thiết yếu nhất đáng sự quan tâm đặc biệt của những ai dấn thân vào việc tuyển chọn, giáo dục và đào tạo các ứng sinh trả? Câu trả lời là một quan tâm đúng đắn (Paul VI) 

A. CÁC KỸ NĂNG THÔNG THƯỜNG 

     I.  LÝ LỊCH ỨNG SINH 

Công cuộc đào tạo ứng sinh hôm nay, tuy làm chung với nhiều người và cho nhiều người, nhưng phải lưu tâm đến từng con người cá biệt với từng hoàn cảnh cụ thể cá biệt. Chúng ta là người, không phải là Chúa, để tự nhiên có thể biết được nhau. Do đó, chúng ta cần cho nhau một số thông tin cần thiết, để vượt quá cái giới hạn “biết người biết mặt mà không biết lòng,” để biết đúng bản chất con người, chứ không phải các hiện tượng bên ngoài thôi, hầu có thể hiểu đúng, cảm thông nhau và cộng tác tích cực với nhau trong tiến trình được đào tạo và tự đào tạo nên những tu sĩ như lòng Chúa và Giáo Hội mong muốn, thế gian chờ đợi.

1. Lý lịch bản thân

  • Tên thánh và họ tên: …………………………………..

  • Giáo phận: ...…………………………………………...

  • Ngày Sinh theo Chứng Minh Nhân Dân:...…………….

  • Ngày Sinh theo sổ Rửa Tội: .…………………………..

  • Nơi sinh: .......................................................................... 

  • Rửa tội ngày: ……………tại: ....……………………….

·       Thêm sức ngày: ………... tại: ………………………….

·       Hiện ngụ tại giáo xứ: ...…………………………………

·       Tên cha sở: .....………………………………………….

·       Địa chỉ hiện tại (hộ khẩu): ……………………………..

·       Tên cha bảo trợ: ..………………………………………

·       Địa chỉ: ...……………………………………………….

2. Sức khỏe

  • Chiều cao: ………… Trọng lượng: ...………………….

  • Trước đây mắc bệnh mãn tính gì không?: .……………..

  • Đã giải phẫu vì bệnh gì không?: ....……………………..

  • Hiện đang mắc bệnh mãn tính gì không?: .……………..

3. Trình độ văn hóa – Năng khiếu

  • Đã học xong: ……………………………………………

  • Biết các chuyên môn gì?: .....……………………………

4. Gia đình

  • Tên cha: ………………………… Sinh năm: ………….

  • Nghề nghiệp: .…………………………………………..

  • Tên mẹ: …………………………  Sinh năm: ..………..

  • Nghề nghiệp: .…………………………………………..

  • Địa chỉ và điện thoại của cha mẹ: ....……………………

  • Là con thứ mấy trong gia đình: … / ……………….

  • Có mấy anh đã …/chưa… lập gia đình.

  • Có mấy em trai đã …/chưa… lập gia đình.

  • Có mấy chị đã …/chưa… lập gia đình. 

  • Có mấy em gái đã …/chưa… lập gia đình.

  • Trong gia đình có ai đi tu?.……………………………..

  • Tên, địa chỉ và điện thoại Nhà Dòng: …………………..

  • Trong gia đình có ai mắc bệnh truyền nhiễm hay mãn tính gì không? .......……………………………………..       

5. Tìm hiểu Ơn Gọi -  Đăng ký vào dự tu:

  • Từ năm……………. đến năm...………………………..

  • Người phụ trách: ...............……………………………..

6. Sinh hoạt mục vụ trước khi vào Dòng

  • Tại giáo xứ nơi gia đình ở........…………………………

  • Cha Xứ: ...………………………………………………

  • Dì Giáo: .………………………………………………..    

  •  Đã làm gì: Giáo lý viên……… Ca đoàn.……………….     

Hội  đoàn khác.................................................................                     

7. Giai đoạn ở Dòng

  • Ngày vào Dòng: .……………………………………….

  • Dì Giáo: ...………………………………………………

  • Vị linh hướng: .....………………………………………

  • (Vị linh hướng cũ: ……………………………………..)

·         Địa chỉ và điện thoại ba bạn thân theo thứ tự thân thiết (kể cả bạn là con trai/bạn trai):                       

              1.....………………………………………………..

              2..………………………………………………….

              3..………………………………………………….

Làm tại …....................ngày…………………  

                                                    (Ký rõ họ tên)

    II. BA YẾu TỐ Giúp Phân  ĐInh Ơn GỌi 

        1. Ý Ngay Lành

Trước hết là “ý ngay lành” và ý ngay lành này phải qui chiếu vào lịch sử ơn kêu gọi của Chúa trong cuộc đời của mỗi người.  

Ý ngay lành này có thể được rõ nét dần dần qua cấu trúc:

-          Khởi đầu là lời kêu gọi của Chúa;

-          Lời đáp trả tiếng Chúa của ứng sinh;

-          Cam kết đi theo chính Đức Kitô;

-          Sự biến đổi nhân cách của ứng sinh cho phù hợp với đời sống ơn gọi được thực hiện nhờ Chúa Thánh Thần;

-          Cuối cùng là dấn thân thi hành sứ vụ qua lời khấn Dòng.  

Chúa Giêsu đã nói: “Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con, và sai các con ra đi để các con sinh hoa trái và hoa trái các con tồn tại, hầu tất cả những gì các con xin Cha nhân danh Thầy thì Người ban cho các con. Điều Thầy truyền dạy các con là hãy yêu thương nhau” (Ga 15,16-17).  

Như thế, phải khẳng định rằng mình theo chính Chúa Kitô chứ không phải ai khác, dù là Bề trên hay chị em. Được hiểu hay không được hiểu, được ủng hộ hay bị chống đối, vui hay buồn, sướng hay khổ, thành công hay thất bại, mặc! Cứ bám chặt vào Chúa, bạn sẽ nhận được một sức mạnh nâng đỡ lạ lùng, mà Thánh Phaolô xác quyết về sức mạnh kỳ diệu đó là “chính Chúa Kitô sống trong tôi” (Gal 2,20).  

(Hát LẠY CHÚA NÀY CON ĐÂY) 

        2. Động Lực Thúc Đẩy Ý Hướng  

a. Xác định động lực

Đàng sau mọi quyết định và hành động đều có một hay nhiều động lực ẩn khuất tác động lâu dài. Ứng sinh cần một không gian và thời gian để xem xét, làm sáng tỏ và thanh luyện các động lực của mình. Có thế thì việc đáp trả lời mời gọi và cam kết theo Chúa mới bền vững trong tin yêu và quảng đại. 

b. Một ít động lực

Các động lực có ý thức:

-          Lòng khao khát phục vụ

-          Có nhiều thời gian hơn để cầu nguyện

-          “Tôi muốn tìm sự bình an”

-          Bối rối: “Tôi cảm thấy Chúa gọi tôi, nhưng tôi sợ…”

Các động lực vô ý thức: Nhiều khi các động lực nhân loại can thiệp vào hầu làm thỏa mãn các nhu cầu căn bản của con người đã không được thỏa mãn trong thời niên thiếu:

-          Khao khát bình an/an toàn

-          Ước muốn nuôi nấng con cái

-          Khao khát được nhận biết

-          Khao khát được chú ý/kêu la ầm ĩ để được chấp nhận

-          Khao khát được hoàn thành/kiện toàn

-          Sợ người khác phái

-          Để chu toàn một lời hứa khi nhỏ

-          Để thoát khỏi nghèo khổ

-          Thoát ly khỏi đời sống gia đình bất hạnh

-          Tìm kiếm đặc ân

-          Thoả mãn tham vọng của cha mẹ 

Các động lực ấy chẳng phải là tội, nhưng chúng bộc lộ các nhu cầu cơ bản về mặt cảm xúc, sự đón nhận, ý thức lệ thuộc, ý thức về căn tính của mình, khả năng thiết lập tương quan hài hoà với cả hai phái và sự quý mến bản thân.  

Để tăng cường sự phát triển trưởng thành nhân bản và thiêng liêng, ta cần trung thực loại bỏ hay uốn nắn các động lực đó.  

Đời sống dâng hiến đặt nền tảng trên sự quí mến bản thân với các nhu cầu của nó. Sự quí mến bản thân giúp ta ý thức về sự dâng hiến bản thân. Nếu không có qúi mến bản thân thì dâng hiến cái gì? Do đó phải đối mặt gọi tên và giải quyết tốt các nhu cầu ấy để sự dâng hiến bản thân được ý nghĩa trọn vẹn và bền bĩ.  

Chỉ trong ánh sáng tình yêu vô điều kiện và bất biến của Chúa, ước muốn dâng hiến bản thân mới ngày một hiện rõ và tự do trao dâng cho Chúa và tha nhân, theo sự thúc đẩy của ơn Chúa Thánh Thần (x. Tv 16:5-6)  

Chúa là phần sản nghiệp con được hưởng

            Là chén phúc lộc dành cho con;

            Số mạng con chính Người nắm giữ.

            Phần tuyệt hảo may mắn đã về con,

            Vâng, gia nghiệp ấy làm con thoả mãn (Tv 16,5-6) 

(Hát TÔI XIN CHỌN NGƯỜI) 

c. Các loại ý hướng 

Xem xét các loại động lực thúc đẩy ý hướng này giúp chúng ta nắm rõ nội dung và sức năng động trong ý hướng muốn tiến vào đời sống dâng hiến: 

1)      Ý hướng cam kết khiến ứng sinh có khả năng đáp lại tiếng Chúa gọi, nhờ hoa quả của Chúa Thánh Thần trong cuộc đời mình. Đây là ý hướng lý tưởng. Ứng sinh tương đối trưởng thành và hướng tới tự hiến, do đó chị có thể tự do đáp lại lời mời gọi của Chúa.

2)      Ý hướng phận vụ cần một sự phân định cẩn thận giữa sự sẵn sàng bỏ mình và sự chỉ tìm kiện toàn chính mình, vì ứng sinh vừa được tác động bởi sự tìm kiếm chính mình, vừa được tác động bởi đức tin của mình. Chị bị giằng co giữa việc tìm kiện toàn chính mình và hấp lực tự hiến. Tính lưỡng diện này tỏ lộ lãnh vực không có tự do trong cái tôi còn thiếu trưởng thành của chị.

3)      Ý hướng địa vị tìm thăng tiến bản thân để che lấp sự bất ổn căn bản trong đời sống của mình, hay vì ước muốn và tham vọng của người khác (coi đời tu là một thăng tiến xã hội).

4)      Ý hướng trốn thoát nhằm tìm kiếm sự che chở từ cuộc sống tu trì. Một người với ý hướng này không có ơn gọi đích thực. Ứng sinh như thế là không trưởng thành, căn tính không được đào luyện hay hội nhập tốt, không ý thức được các nhu cầu của mình. Tính thiếu bền vững cả trong thái độ lẫn ứng xứ có thể được quan sát thấy cách dễ dàng.  

Ứng sinh có những ý hướng địa vị và trốn thoát thường không có ơn gọi đích thực, bởi vì họ thiếu trưởng thành nhân cách và sẽ dễ dàng từ bỏ hoặc phản bội sứ vụ căn bản của mình (x. Dụ ngôn Người Gieo Giống).  

"Đây là ý nghĩa dụ ngôn: Hạt giống là lời Thiên Chúa. Những kẻ ở bên vệ đường là những kẻ đã nghe nhưng rồi quỷ đến cất Lời ra khỏi lòng họ, kẻo họ tin mà được cứu độ. Còn những kẻ ở trên đá là những kẻ khi nghe thì vui vẻ tiếp nhận Lời, nhưng họ không có rễ. Họ tin nhất thời, và khi gặp thử thách, họ bỏ cuộc. “Hạt rơi vào bụi gai: đó là những kẻ nghe, nhưng dọc đường bị những nỗi lo lắng và vinh hoa phú quý cùng những khoái lạc cuộc đời làm cho chết ngộp và không đạt tới mức trưởng thành. Hạt rơi vào đất tốt: đó là những kẻ nghe Lời với tấm lòng cao thượng và quảng đại, rồi nắm giữ và nhờ kiên trì mà sinh hoa kết quả” (Lk 8,11-15) 

(Slideshow THỬA ĐẤT LÒNG TÔI) 

Nếu không thể nào thay đổi được, nên khéo léo khuyên người có ý hướng địa vị và trốn thoát tìm một đường lối sống ở nơi nào khác thì tốt hơn là giữ họ lại theo đuổi đời sống tu trì.

3. Cam Kết Tự Biến Đổi Cho Sứ Vụ

Chúng ta cần phải ý thức về nhiều nhân tố trong động lực ơn gọi của ứng sinh và phân tích những đường lối chị dấn thân phục vụ tha nhân, bao gồm cả việc chị trung thành với lời cam kết của chị. Một nhà phân định bén nhạy có thể trực giác ngay được ý muốn phục vụ tha nhân của ứng sinh như thế nào.  

Nếu ứng sinh có ý hướng địa vị (tu sĩ là người luôn được kính trọng và có vị thế trong xã hội: một thăng tiến xã hội) là động cơ ưu tiên trong việc đi tu, thì hãy khéo léo khuyên chị nên tìm một lối sống khác.  

Nhiệm vụ của vị hướng dẫn đời sống ơn gọi của ứng sinh thật là quan trọng. Người hướng dẫn cần giúp ứng sinh ý thức rõ nhiều động lực đang có mặt nơi chị, đồng thời giúp chị thấy được sự xung khắc giữa các động lực ấy và giải quyết chúng. Động lực nào phù hợp với đời tu sẽ được dùng để thăng tiến đương sự. Động lực nào không phù hợp với đời tu thì phải loại bỏ hay biến đổi. Nếu không làm được như vậy, đương sự sẽ được mời ra đi…   

     III. BA VẤN ĐỀ CƠ BẢN VÀ QUYẾT ĐỊNH

         BIẾT MÌNH

         THÂN MẬT TÍNH DỤC

         VÂNG LỜI      

Ứng sinh phải ý thức và trực diện với ba vấn đề cơ bản mang tính quyết định này ngõ hầu đạt được một đường hướng dứt khoát hơn cho cuộc đời mình. Nếu ba vấn đề này không được “giải quyết” thì chúng sẽ ảnh hưởng mạnh trên cách ứng xử của chị, mà hậu quả sẽ là một khủng hoảng ơn gọi.  

Đừng quên câu định nghĩa và tiến trình sống tu đức toàn diện: “Đời sống thiêng liêng là đời sống nhân bản được sống trong Chúa Thánh Thần.”  

Định nghĩa này phải hiểu trong tiến trình: Con Người → Tu Đức Nhân Bản (đạo làm người) → Nhân Bản Thiêng Liêng (đạo làm con Chúa) → Thánh Nhân (tình bạn với Chúa Ga 15,15). 

1. BiẾT Mình  

Ở cửa đền Alphê, Socrate cho khắc chữ “HÃY TỰ BIẾT MÌNH.” Còn Thánh Augustinô thì cầu nguyện mỗi ngày “XIN CHO CON BIẾT CHÚA, XIN CHO CON BIẾT CON” 

Tự biết mình là yếu tố rất quan trọng để ứng sinh đạt được trưởng thành. Ứng sinh phải cố gắng hiểu được mình là ai, với tất cả những điểm mạnh và những điểm yếu. Nếu không có nhận thức rõ ràng về mình, ứng sinh dễ có khuynh hướng tự tôn bằng sự phòng vệ coi mình là tâm điểm hoặc tự ti và quá lệ thuộc vào người khác.  

Sự kiện rất nhiều ứng sinh ngày nay không thể trực diện với chính mình để biết mình là ai giải thích tại sao có nhiều sự thiếu trưởng thành hay tự đánh giá thấp nơi nhiều tập sinh, ngay cả nơi một số học viện nữa. 

Ứng sinh phải tự biết mình là ai, và đang ở đâu trong tiến trình tu luyện. Đôi khi cũng phải dám hỏi: “Chúa nghĩ gì về con?” 

Nhà đào tạo cũng phải biết ứng sinh đang ở giai đoạn nào trong tiến trình ấy, để nhẫn nại dẫn dắt, không đốt giai đoạn,

kẻo đốt giai đoạn là đốt cháy cả một đời người.  

2. VẤN ĐỀ Thân MẬt Tính DỤc   

Ứng sinh cần đạt được mức trưởng thành đầy đủ về tính dục, tâm lý và một cuộc sống cầu nguyện siêng năng và đích thực, dưới sự hướng dẫn của vị linh hướng, trong hi sinh, xả kỷ, tự hiến, tự giác kỷ luật…  

Các ứng sinh buộc phải có một sự trưởng thành nhất định trong đời sống nhân bản và thiêng liêng. Điều này thật dễ nhận ra nơi giáo xứ nhà quê, nhưng lại khó biết được nơi các thành phố đông người, nơi mà ngoài các bức tường nhà mình không ai biết ai. 

Tình trạng khó kiểm soát này đặt ra nhiều vấn đề phức tạp, nhiều biến động và chiến đấu cho các công dân trẻ mới tới đô thị, đặc biệt là trong mối liên hệ với người khác phái (x. sinh viên tầm gửi), ảnh hưởng đến đời sống thiêng liêng và cầu nguyện. 

Ngoài ra, vì phải va chạm với môi trường xã hội và học đường, nhiều ứng sinh có thể có bạn trai hay người yêu, hoặc lâm vào một hoàn cảnh đáng tiếc, nên vấn đề thân mật tính dục trở nên có thật.  

Ngạn ngữ Việt Nam có câu “Lửa gần rơm lâu ngày sẽ cháy.” Nhưng không ai lại đi trách lửa hay rơm về chuyện chúng đốt cháy hay bị đốt cháy, đúng hơn phải trách kẻ đặt rơm gần lửa.  

Nhiều trường hợp cần một sự biện phân chặt chẽ về lương tâm, một sự thấu cảm đem lại nâng đỡ và bình an.  

Con trót dại bao lần sa ngã,

Ôi Giêsu lượng cả đoái nhìn.

Con nguyền can đảm đứng lên,  

Lệ sa rửa sạch tội khiên làu làu.

Xin ánh sáng soi vào tâm trí,

Tỉnh cơn mê, con sẽ dâng Ngài,

Bổng trầm điệu hát vui say,

Muôn ngàn khấn nguyện giải bày khúc nôi.

Thánh Thi Kinh Sáng CN Tuần III 

Đối với một số ứng sinh, để tiến bước trên con đường ơn gọi cần phải có lòng can đảm, nhưng dừng lại và thay đổi hướng đi còn đòi hỏi can đảm nhiều hơn.  

Tu viện sẽ xây dựng một lối sống khả dĩ giúp đỡ và ngăn ngừa cách hữu hiệu các lối giải quyết cho những chiến đấu của họ. Nhưng tiến trình khó khăn ấy cần có thời gian và những cố gắng chân thành. Trong “Truyện Kiều,” Nguyễn Du diễn tả “dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng,” nghĩa là tuy đã chia tay, sự gắn bó dịu dàng vẫn còn. 

Phải nỗ lực thăng hoa các mối liên hệ và kiên vững mới có thể tiếp tục.

Đường em em đi,

Đường anh anh đi.

Tình nghĩa đôi ta có thế thôi.

Đã quyết không mong sum họp nữa,  

Bận lòng chi nữa lúc chia phôi! (Nửa chừng xuân) 

            Yêu nhau trong tinh thần,

Yêu nhau trong lý tưởng… (Hồm bướm mơ tiên) 

Chọn sống độc thân thánh hiến là một chọn lựa tự do. Họ phải đương đầu và làm việc để vừa thắng vượt các chiến đấu này, lại vừa thăng tiến chọn lựa của mình.  

Nếu địa hạt này không được trực diện và giải quyết, những vật lộn này sẽ trở lại với họ, ngay cả sau khi đã tuyên khấn (tình cũ không rũ cũng tới; bén mùi chùi chẳng sạch; quen ăn mà không quen kiêng). Đừng đợi cho đến khi vấp ngã rồi mới nhớ đến những lời khuyên: “Biết ai khôn ngoan thì tìm đến mà bàn hỏi và chớ coi thường bất cứ lời chỉ giáo nào hữu ích. Hãy chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa mọi lúc; hãy xin Người dạy con cho biết theo nẻo chính đường ngay và giúp con thành công trong mọi đường đi nước bước cũng như mọi toan tính của con” (Tb 4,18-19). 

Tuy nhiên, may thay, cuộc sống giữa muôn màu phức tạp của xã hội trần thế cũng khiến cho các ứng sinh khác lớn lên trong việc xác định ơn gọi của mình, cả về tình cảm đời sống nhân bản lẫn đời sống thiêng liêng.

Trong đầm gì đẹp bằng sen,    

Lá xanh bông trắng lại chen nhụy vàng, 

Nhụy vàng bông trắng lá xanh,   

Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. 

Đời Sống thánh hiến được nêu bật như là một ân huệ và quà tặng đặc biệt của Thiên Chúa, như là lựa chọn một tình yêu không chia sẻ vì Chúa Kitô và vì Nước Thiên Chúa. Đời sống độc thân thánh hiến cần được trình bày rõ ràng, không hàm hồ và theo cách tích cực.  

Ứng sinh phải khiêm tốn và nhiệt thành cầu nguyện và đón nhận đời sống độc thân thánh hiến như là một món quà của ân sủng Chúa. Cùng với Hội Thánh, họ phải khiêm tốn và kiên định cầu nguyện cho ơn trung thành và sử dụng mọi sự trợ giúp siêu nhiên cũng như tự nhiên, đặc biệt là lối thực hành khổ chế đã được kinh nghiệm của Hội Thánh chấp thuận.  

3. Vâng lỜi 

Trong ba lời khuyên Phúc Âm của đời sống thánh hiến, đức vâng lời phải là nền tảng, vì nó giúp giữ đễ dàng hai nhân đức kia. Ứng sinh phải tập vâng lời triệt để trong mọi sự có liên quan mới có thể giữ được hữu hiệu đức khó nghèo và khiết tịnh, dù bây giờ người ta nhấn mạnh đến “vâng lời đối thoại” hay “vâng lời trưởng thành”.  

Quả vậy, với Vaticanô II, không còn “vâng lời tối mặt”; nhưng “vâng lời đối thoại” hay “vâng lời trưởng thành”, nghĩa là bề dưới được trình bày với Bề trên hết sự thật những gì nhận thấy và suy nghĩ, với đầy đủ lý do và ước nguyện, có khi trái ý Bề Trên, nhưng lời nói cuối cùng thuộc về Bề Trên, và bề dưới vâng lời với tinh thần siêu nhiên.  

Chúng ta biết rằng Bề Trên có quyền quyết định trái với ý của tất cả chúng ta, nhưng chính Bề trên sẽ chịu trách nhiệm và trả lời với Chúa. Đó là thực sự cảm thông với Giáo Hội (Sentire cum Ecclesia). 

Điều đáng e ngại là có thể một số Vị quá “sính quyền bính” không dễ dàng lắng nghe sự thật và cho bề dưới cơ hội đối thoại hay giải thích!    

Nhưng đi cho tới cùng, vâng lời đòi hỏi mọi sự nơi chúng ta: trí khôn, con tim, ý muốn, đời sống; nhượng bộ mọi sự cho Chúa, coi vâng lời như diễn tả trọn vẹn sự lệ thuộc vào Chúa và Giáo Hội.   

Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể bị ảnh hưởng bởi các yếu tố văn hóa và tâm thức do các cơ cấu xã hội, chính trị và tôn giáo. Chẳng hạn, vì bị ảnh hưởng của Khổng giáo, của chế độ phong kiến và thực dân, của các cơ cấu phẩm trật và gia trưởng, chúng ta lắm khi phải đương đầu với những thách đố và chiến đấu trăn trở về tự do và phục tùng với bộ ba “quyền phục, lý phục và tâm phục hay tâm bất phục” hoặc “bằng mặt mà không bằng lòng” 

Và trong những trạng huống bức xúc có thể “tức nước vỡ bờ”, chúng ta cần có ai đó giúp “đào sâu lòng sông và khơi dòng cho nước chảy”. Vị linh hướng kinh nghiệm là người đó cách thích hợp nhất. 

Nhưng với đức tin mạnh mẽ và đâm rễ sâu trên nền tảng Thánh Kinh vững chắc, đặt trọng tâm vào Chúa Giêsu, vào Phúc Âm, vào Giáo Hội và vì các linh hồn, cầu nguyện và biện phân dưới sự dẫn dắt của Chúa Thánh Thần, chúng ta sẽ vâng lời cách sẵn lòng và siêu nhiên các vị lãnh đạo và cơ cấu Giáo Hội, không phải như những con người và cơ cấu nhân loại, nhưng là Ý Chúa ở trong và qua những con người và cơ cấu này.  

(Hát NGUỒN TRỢ LỰC ĐỜI TÔI)  

     IV. VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI ƠN GỌI 

      “Một kinh sư tiến đến thưa Người rằng: "Thưa Thầy, Thầy đi đâu, tôi cũng xin đi theo." Đức Giê-su trả lời: "Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu." Một môn đệ khác thưa với Người: "Thưa Ngài, xin cho phép con về chôn cất cha con trước đã." Đức Giê-su bảo: "Anh hãy đi theo tôi, cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ" (Mt 8, 19-22) 

        1. KHÍA CẠNH TÍCH CỰC: BỐI CẢNH GIA ĐÌNH 

“Bổn phận nuôi dưỡng ơn gọi thuộc về toàn thể cộng đồng kitô hữu…. Nhưng đóng góp lớn nhất thuộc về gia đình, được kích hoạt nhờ tinh thần đức tin, đức ái và lòng đạo đức… Gia đình được kể như đệ tử viện đầu tiên.”  

Tại Việt Nam, gia đình có ảnh hưởng rất lớn tới nhân cách của mỗi con người, ảnh hưởng tới việc đi theo và thực hành một tôn giáo hay một ơn gọi.  

Người Việt Nam rất đề cao giá trị của gia đình, vì gia đình như một thế giới thu nhỏ bao gồm 3 thế hệ: ông bà, cha mẹ và con cái. Mặc dù có những cách biệt giữa các thế hệ, nhưng các thành viên trong cùng một gia đình vẫn luôn có một tình cảm sâu sắc gắn bó với nhau.  

Gia đình đóng vai trò trợ lực rất quan trọng giúp cho ứng sinh ngày một trưởng thành hơn. Có nhiều nhân tố giúp chị lớn lên: Mối liên hệ mật thiết với cha mẹ nâng cao căn tính nhân vị của chị: sự mạnh mẽ của ba, sự dịu dàng của mẹ. 

Mối tương quan lành mạnh với những người khác phái trong gia đình và những người họ hàng sẽ giúp ứng sinh ý thức hơn về tính dục của mình, hầu phát triển các mối tương quan xã hội của chính chị. Điều đó cung ứng cho chị một sự ổn định tình cảm cần phải có cho đời sống dâng hiến.  

Những hoạt động trong và ngoài gia đình thách thức ứng sinh vượt qua những cái mình thích hay không thích, và làm cho đời sống tông đồ tương lai của chị trở thành một thực tế, chứ không chỉ là một mơ mộng của tuổi trẻ.  

Việc cầu nguyện và chia sẻ niềm tin trong gia đình giúp ứng sinh đâm rễ sâu trong đời sống thiêng liêng. Là đệ tử viện đầu tiên, gia đình giữ vai trò sinh tử trong việc đào tạo ứng sinh.  

Cuộc họp hàng năm của đại diện các gia đình tu sinh nhấn mạnh đến tầm quan trọng và sự đóng góp tích cực của gia đình đối với Hội Dòng.  

2. KHÍA CẠNH ÍT TÍCH CỰC: NHỮNG MONG ĐỢI  VÀ HY VỌNG CỦA GIA ĐÌNH  

Người Việt Nam rất sùng đạo và nhiệt thành. Họ hết lòng kính trọng các nhà tu hành, không chỉ trong phạm vị tôn giáo mà cả ngoài xã hội nữa. Ngay cả hôm nay, các quan chức cộng sản cũng nhận định rằng công dân tu sĩ có nhiều uy tín và ảnh hưởng trên các công dân tín hữu khác.   

Vì thế, bậc tu trì trở thành một địa vị và một sự thăng tiến xã hội, không chỉ cho chính vị tu sĩ, mà còn cho cả gia đình và họ hàng thân thuộc: Vị tu sĩ sẽ được dân chúng kính trọng và vâng phục, được hưởng một cuộc sống an toàn và dễ dãi, v.v… Một khi người con làm linh mục hay tu sĩ, gia đình sẽ được hưởng vinh quang và danh dự, được kính trọng ở mọi nơi (trở thành “ông bà cố”).  

Điều này đang là một thử thách đối với ơn gọi đích thực và sự bất lợi tai hại của lòng kính trọng thái quá này đối với hàng giáo sĩ và tu sĩ là biến họ thành những kẻ quan liêu và độc đoán.  

Nhiều khi, những mối lợi mang tính cá nhân hay gia đình như thế khiến một số người thúc ép con cái đi tu. Một số các bậc cha mẹ vì không thành công trong việc theo đuổi ơn gọi tu trì nên mong đợi thấy lý tưởng và hình ảnh của mình được thực hiện nơi con cái. Họ gây áp lực buộc con cái dấn thân vào đời sống tu trì hay đời sống linh mục, dù con cái họ không có ơn gọi đó.  

Dĩ nhiên có rất nhiều gia đình Công giáo dâng hiến con trai con gái mình cho Thiên Chúa thông qua Hội Thánh mà không hề thèm muốn danh vọng, và nhiều ứng sinh quảng đại đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa.  

Là nền tảng của xã hội, là cái nôi của sự sống và là nhà sư phạm đầu tiên, gia đình có thể là một nguồn nước trong lành và cũng có thể là trở lực đối với những ơn gọi đích thực. Do vậy, trách nhiệm của Giáo Hội là biện phân và thanh luyện những động lực ấy, vào thời điểm thu nhận cũng như trong tiến trình đào tạo, trong nỗ lực gầy dựng cho có người kế tục sứ mệnh: Tre già măng mọc (“Hy sinh đời bố củng cố đời con”).  

Hãy nghĩ đến Ông Bà Cha Mẹ chúng ta, đã sinh dưỡng chúng ta, lại dày công hy sinh vất vả cùng Nhà Dòng để đào luyện, nâng đỡ, dìu dắt chúng ta bằng cuộc sống đầy gương sáng và lời cầu nguyện không ngừng của các ngài. 

Hãy lắng nghe lời cầu nguyện của các ngài: "Xin đừng sa thải con lúc tuổi đà xế bóng, chớ bỏ rơi con khi sức lực suy tàn. ... Cả lúc con già nua da mồi tóc bạc, lạy Thiên Chúa, xin đừng bỏ rơi con" (TV 70: 9,18) 

Chúng ta hãy tri ân các ngài, cầu nguyện và nâng đỡ các ngài, ngõ hầu trong những ngày cuối đời, chờ đợi giờ Chúa gọi về nhà Cha, các ngài cảm nhận được đền đáp, an ủi, yêu thương, bình an và hạnh phúc. Hy vọng đến lượt chúng ta, thế hệ mai sau cũng làm cho chúng ta như vậy.  

(slideshow MẸ CỦA CON ƠI) 

Hãy nghĩ đến công lao và tình thương, cùng hoài bảo của mẹ cha, cũng như của các Bề trên hữu trách trong Giáo Hội và Nhà Dòng mà vượt lên mọi khó khăn thử thách trong cuộc sống.  

Dù là cuộc sống tu trì thì cũng chẳng tránh khỏi mọi bất công, phân biệt đối xử, thương người nọ hơn thương người kia, vì chẳng ai lấy cân mà cân được tình cảm cho bằng nhau đâu! Cái quan trọng là đừng lộ liểu quá, mà để trong lòng thì tốt hơn. 

Vả lại, có tình thương nào cao cả hơn tình Chúa thương ta đâu! Ta thế nào thì Chúa thương ta thế ấy, và Chúa sẽ thương ta cho đến cùng. Nhưng đối lại, Chúa cũng đòi hỏi và chờ đợi một tình thương quảng đại cho đến cùng về phía ta cho Chúa đó: Một lần đã quảng đại, hãy quảng đại cho đến cùng.  

       V. ĐÁNH GIÁ ĐỘNG LỰC NỘI TÂM 

1. Tính HẤp DẪn CỦa Ơn GỌi 

Thiên Chúa có thể nói gián tiếp với ứng sinh qua Thánh Kinh, qua Giáo Hội, qua gia đình và qua những nhu cầu của cuộc sống con người. Ngài cũng có thể trực tiếp đánh động con tim và làm cho sự lôi cuốn lớn lên dần thành cốt lõi của ơn kêu gọi.  

Nhưng tính hấp dẫn này phải được phân định qua việc đồng hành, linh hướng để nắm chắc rằng ứng sinh đáp ứng được các khía cạnh thiêng liêng và tông đồ của một cam kết dấn thân phục vụ Chúa và các linh hồn. 

2. BiỂu LỘ CỤ ThỂ Ý HưỚng Ngay Lành 

Tự do lương tâm của ứng sinh là điều cần thiết cho quyết định tuyên khấn. Vị linh hướng phải giúp ứng sinh khám phá ra những gì Thiên Chúa thực sự kêu gọi chị trở thành và thực hiện.  

Đáp trả tự do của chị sẽ là cốt lõi sự cam kết của chị và động lực xứng hợp sẽ đóng một vai trò quan trọng trong sự bền đỗ, khi chị cụ thể bày tỏ ý hướng ngay lành muốn tuyên khấn.  

Ứng sinh phải tìm cho được lời khẳng định rằng Chúa muốn chị quyết định trở thành tu sĩ. Để được vậy, chị phải hiểu rõ sâu xa những điểm mạnh cũng như những điểm yếu của mình; đồng thời chị phải được giúp tìm biết chính mình cách ý thức, cũng như các động lực vô thức của chị, ngõ hầu chị thấy được chị phải biến đổi trong cái gì.  

Ứng sinh phải đánh giá lại lời mời gọi của Chúa và sự đáp trả của chị để có được một cam kết sâu xa hơn, theo tiến trình:

·         Khởi đầu là lời kêu gọi của Chúa;

·         Lời đáp trả tiếng Chúa của ứng sinh;

·         Ứng sinh cam kết đi theo chính Đức Kitô;

·         Ứng sinh biến đổi nhân cách của mình cho phù hợp với đời sống ơn gọi được thực hiện nhờ Chúa Thánh Thần;

·         Cuối cùng là Thẩm quyền hợp pháp chấp nhận ứng sinh dấn thân tuyên khấn thi hành sứ vụ hiến thân phục vụ Chúa và tha nhân.  

Chị cũng phải nội tâm hóa dấn thân của chị, cũng như cụ thể hóa đời sống sứ vụ của một nữ tu, qua việc chị thường xuyên gặp gỡ Chúa Giêsu Kitô, Đấng là nguyên thuỷ và cùng đích của mọi ơn gọi (x. Ga 15, 16).  

Sau khi đã chú ý lắng nghe với biện phân và khiêm tốn, dưới sự dẫn dắt của Chúa Thánh Thần, vị linh hướng có thể khám phá được người thụ hướng được Chúa gọi hay không.  

Nếu có, vị linh hướng xác định cho chị tiếp tục đi tới với niềm vui tươi, hy vọng và hạnh phúc, mặc dù chị sẽ gặp thấy những khó khăn và đen tối trong cuộc sống lữ hành của chị.  

Nếu không, vị linh hướng nên gợi ý cho chị đổi hướng sống trong bình an, đồng thời bước theo con đường Chúa mời gọi chị đi với can đảm và hạnh phúc.  

Sự chọn lựa và quyết định với tự do nội tâm (tòa trong) này phải được xác lập và công nhận bởi thẩm quyền chiếu theo Hiếp pháp và nội qui của Dòng (tòa ngoài): Hội đồng lãnh đạo bỏ phiếu quyết định (biểu lộ sự kêu gọi của Chúa), có thể được trợ giúp bởi phiếu tham khảo (lượng định) của Cộng đoàn. 

(Hát CHÚA CẤT TIẾNG GỌI CON)

VỀ MỤC LỤC

CHO VÀ GHÉP BỘ PHẬN CƠ THỂ

 

Ghép bộ phận cơ thể được thực hiện lần đầu tiên tại Hoa Kỳ vào ngày 23 tháng 12 năm 1954 khi trái thận của người anh, Ronald Herrick, tặng cho người em song sinh Richard Herrick. Phẫu thuật do bác sĩ Joseph E. Murray thực hiện thành công mỹ mãn tại bệnh viện Peter Bent Brigham, thành phố Boston.

Người nhận sống thêm được 8 năm với mọi sinh hoạt bình thường cho tới khi vĩnh biệt cõi trần vì một căn bệnh không liên quan tới thận. Và người tặng tiếp tục cuộc sống khỏe mạnh với nghề dạy học cho tới khi đủ tuổi nghỉ hưu.

Diễn tiến phẫu thuật đã được họa sĩ Joel Babb ghi lại một cách hết sức linh động, chính xác và hiện nay vẫn còn được trưng bầy tại  thư viện của Đại học Harvard ở Boston

Năm 1990, bác sĩ Murray và bác sĩ E. Donnall Thomas được trao tặng giải Nobel Y Học vì đã  tiên phong đóng góp cho y học một sáng kiến độc đáo và vô cùng nhân đạo là dùng chuyển-ghép bộ phận- mô bào cơ thể để trị bệnh của con người. Bác sĩ Murray chuyển ghép thận còn bác sĩ Thomas có công trong việc đặt nền móng cho việc ghép chuyển tế bào tủy xương để chữa trị ung thư máu.

Từ đó,  phẫu thuật ghép cơ quan, mô bào phát triển mạnh mẽ với các kỹ thuật tân tiến, tinh vi, mang lại sự sống cho nhiều người bệnh và nhiều niềm vui chia sẻ cho người hiến tặng.

Xin cùng tìm hiểu về việc làm có tính cách nhân đạo này. 

Khái niệm về việc chuyển-ghép bộ phận đã manh nha từ thuở xa xưa, nhưng trở ngại chính là sự khước từ  (reject) tế bào lạ của người nhận và sự chống lại của mảnh ghép với ký-chủ (graft-versus-host).

Các khoa học gia đã chứng minh được rằng, có một “sức mạnh sinh học” (biological force) nào đó trong cơ thể gây cản trở cho sự ghép này. Đó là phản ứng miễn dịch. Hệ miễn dịch có khả năng phân biệt vật lạ xâm nhập cơ thể như vi khuẩn, virus, mô bào rồi tiêu diệt chúng để tự bảo vệ. Cơ quan bộ phận ghép là vật lạ đối với người nhận.

Sau nhiều năm nghiên cứu, khoa học đã tìm ra cách để vượt qua trở ngại đó bằng các chất ức chế hệ miễn dịch khi chuyển ghép. Nhiều dược phẩm, hóa chất được tìm ra. Khởi đầu là với steroid cortisone, rồi mercaptopurine, phóng xạ, antilymphotic serum (ALS), thuốc chống ung thư bạch cầu (leukemia) Azathioprine rồi đến kháng sinh Cyclosporine được dùng từ năm 1983. 

Với sự phổ biến của cho-ghép thì một nan giải khác lại xuất hiện. Đó là sự thiếu các bộ phận để ghép. Hàng năm, có nhiều chục ngàn người ở khắp nơi cần cơ quan mà không có, và nhiều bệnh nhân lâm chung trong khi chờ đợi “Món Quà Tặng Đời Sống” -Gift of Life- đó.

Tại Hoa Kỳ, có gần 80,000 bệnh nhân trong danh sách chờ đợi ghép bộ phận  và mỗi tháng có khoảng 3000 người mới được thêm vào.

Trong năm 2001, có 2025 bệnh nhân thận, 1347 bệnh gan, 458 bệnh tim và 361 bệnh phổi thiệt mạng vì mỏi mòn tuyệt vọng chờ đợi được ghép.

Để giải quyết phần nào sự thiếu hụt này, giới chức y tế và nhiều tổ chức thiện nguyện tại các quốc gia đã kêu gọi lòng nhân đạo của công chúng  trong việc hiến tặng những sợi mô bào huyết mạch của mình để cứu sống người khác.  

“Ghép” (transplant) là phẫu thuật đặt một cơ quan hoặc mô bào lấy từ cơ thể người cho chuyển sang một người bệnh có nhu cầu.

Bộ phận ghép có thể từ người còn sống hoặc từ thi thể người hứa tặng vừa mới vĩnh viễn ra đi. 

Các bộ phận từ người còn sống là:

- Thận

Đây là cơ quan được hiến nhiều hơn cả. Sau khi hiến tặng một trái thận, người cho vẫn sống đời sống bình thường vì trái thận còn lại có đủ khả năng chu toàn nhiệm vụ cho hai thận.

- Gan

Mỗi người có thể tặng một miếng gan và miếng gan này có thể tăng sinh và hoạt động bình thường ở người nhận.

- Phổi

Mặc dù các thùy phổi không tái sinh, nhưng mỗi người có thể tặng một thùy phổi.

- Tụy tạng

Cũng như phổi, tụy tạng không tái sinh nhưng mỗi người có thể tặng một phần tụy tạng mà vẫn không bị hậu quả xấu nào.

Các bộ phận cho không để dành lâu ngày được mà phải dùng trong một thời gian nhất định. Chẳng hạn thận có thể được cất giữ trong 72 giờ, gan 18 giờ, tim 5 giờ, tụy tạng 20 giờ, giác mạc 10 ngày, da , xương và van tim giữ được từ 5 năm trở lên, kể từ khi lấy ra.

Do đó ruột, giác mạc, da, xương, tủy xương, tĩnh mạch, gân, dây chằng, van tim, tai trong, sụn, máu ở cuống rốn, tế bào mầm trong máu ngoại vi được thu nhận cất giữ trong ngân hàng bộ phận để dùng khi cần.

Với cơ thể một người quá cố thì hầu hết các bộ phận, mô bào đều được thu nhận, sử dụng. Theo ước lượng, mỗi người hứa tặng thì tế bào của họ có thể ghép cho 50 người bệnh có nhu cầu. 

Khi não bộ ngưng hoạt động hoàn toàn và vĩnh viễn, người cho sẽ được duy trì tình trạng “sống” với tim phổi còn hoạt động trong một khoảng thời gian ngắn để sửa soạn giải phẫu lấy cơ quan.

Thường thường, mô bào như da, xương, van tim được lấy sau khi tim ngưng đập 24 giờ, giác mạc được lấy 12 giờ.   

Chỉ một số nhỏ tử vong không hiến cơ quan được, như là nhiễm HIV dương tính, ung thư đang phát triển mạnh, một số bệnh truyền nhiễm trầm trọng. Còn đa số các bệnh kinh niên khác đều có thể hiến thân xác của mình. 

Trước khi lấy bộ phận, bác sĩ chuyên khoa sẽ kiểm soát rất kỹ coi xem bộ phận hiến tặng có hội đủ những tiêu chuẩn căn bản.  

Từ trẻ sơ sinh tới lão nhân 65 tuổi trở lên đều có thể cống hiến bộ phận và mô bào.

Người dưới 18 tuổi, cần sự đồng ý của cha mẹ hoặc người đỡ đầu hợp pháp.

Ở Hoa Kỳ, mỗi năm có từ 10,000-14,000 người mãn phần hội đủ tiêu chuẩn để hiến bộ phận nhưng chỉ có non nửa số người này thực sự cho các bộ phận. 

Thủ tục hiến cơ quan rất đơn giản và gồm có:

a- Tại đa số các tiểu bang Hoa Kỳ đều có một văn phòng ghi danh người hiến tặng.

b-Mỗi người có thê ghi ý định tặng hiến trên bằng lái xe khi thi hoặc gia hạn bằng.

c- Ký tên đồng ý trên tấm thiệp tặng bộ phận (donnor card), cất trong ví cho tới khi có cơ hội ghi trên bằng lái xe.

d- Cần cho thân nhân hay ý định của mình để tránh sự phản đối sau khi mình qua đời. Theo ước lượng, có tới 35% người có ý định hiến tặng mà không bao giờ cho được, vì gia đình không chịu ký giấy đồng ý. Do đó, thân nhân đôi khi cũng được yêu cầu ký một giấy tán trợ ý định của người hiến tặng.  

Năm 1984, Quốc Hội Hoa Kỳ ban hành đạo luật về Ghép Bộ Phận. Việc mua bán bộ phận bị nghiêm cấm để tránh người lắm tiền nhiều của lạm dụng.

Các bộ phận cho sẽ được đối chiếu với người nhận bằng hệ thống ghi danh do cơ quan United Network for Organ Sharing (UNOS), trụ sở tại thành phố Richmond, bang Virginia, điều khiển. Cơ quan chịu trách nhiệm việc phân phối một cách công bằng các bộ phận tặng hiến cho những người trong danh sách chờ đợi. 

Ở Hoa Kỳ, các bệnh viện phải thông báo các trường hợp tử vong cho Tổ Chức Cung Cấp Bộ Phận (Organ Procurement Organisation). Nếu tổ chức thấy cơ quan hoặc mô bào của tử thi thích hợp, họ sẽ cử người tới thương lượng với gia đình người quá cố để xin bộ phận.  

Các bệnh sau đây có thể được ghép cơ quan: bệnh động mạch tim, viêm và xơ cứng gan; COPD; tiểu đường với biến chứng thận và mắt; cao huyết áp với suy tim; bệnh đa nang thận; hội chứng ruột ngắn.

Ghép thận phổ biến nhất vì suy thận là chuyện dễ xảy ra khi bị cao huyết áp, tiểu đường, nhiễm trùng tiết niệu. Người cho cũng có sẵn vì con người chỉ cần một trái thận để sống bình thường. Kỹ thuật thay thận cũng giản dị. Thận suy có thể để nguyên tại chỗ và thận mới được ghép phía dưới thận bẩm sinh. 

Chuyển-Ghép bộ phận là việc làm có tính cách nhân đạo dựa trên sự vị tha và niềm tin chung của con người. Hầu hết các tôn giáo đều chấp nhận sự sự hiến tặng bộ phận hoặc mô bào cơ thể như một lý tưởng nhân đạo, một hành động hoàn toàn bác ái, biểu hiệu của tình yêu thương và tặng hiến..

Bác sĩ đang điều trị sẽ giới thiệu, giúp đưa tên người có nhu cầu vào danh sách chờ đợi.

Người có nhu cầu phải đích thân tới một trong những bệnh viện chuyên vể ghép cơ quan để làm thủ tục cần thiết.  Các bệnh viện này đều là hội viên của UNOS và tại Hoa  Kỳ có hơn 200 trung tâm. 

Bác sĩ của bệnh viện sẽ khám nghiệm để coi xem mình có hội đủ các điều kiện nhận không. Ta có thể ghi danh ở nhiều bệnh viện khác nhau và mỗi bệnh viện có tiêu chuẩn hơi khác nhau. Tên của mình sẽ đưa vào một danh sách chung của cả nước.  

Khi có  bộ phận hiến, tất cả bệnh nhân đợi đều được mang ra để so sánh với bộ phận cho này.

Các tiêu chuẩn chọn lựa gồm có loại máu, loại cơ quan, kích thước, nhu cầu cấp bách của bệnh nhân, thời gian chờ đợi và không gian cách biệt giữa người cho và người nhận. Bộ phận cho sẽ dành cho người bệnh nào thích hợp nhất với cơ quan hiến tặng.

Trung bình, thời gian đợi để được ghép tim là 230 ngày, phổi 1068 ngày, gan 796 ngày, thận 1121 ngày và tụy tạng 501 ngày. 

Theo thống kê, tại Hoa Kỳ mỗi năm có khoảng 750,000 mô bào được chuyển ghép.  

 Tới tháng 1 năm 2008, có trên 97,900 người đợi để được ghép bộ phận mà mỗi tháng chỉ có khoảng 80 người nhận được tin vui có bộ phận và 20 người thiệt mạng vì mỏi mòn chờ đợi, không có tin vui.

Theo cơ quan phối hợp hiến ghép cơ quan Hoa Kỳ thì vào năm 2004, 50% ghép thận là từ người tặng còn sống, và đã có hơn 320 trường hợp tặng một phần gan và 12 ca cho một thùy phổi.

 Năm 2004, khoảng 2500 tủy sống, 7000 giác mạc được ghép tại Hoa Kỳ.

Tới tháng 4 năm 2008, số người ghi danh hứa hiến tặng thân xác tại Hoa Kỳ đã lên tới 70 triệu với khoảng 35% người ghi ý muốn tặng cơ quan trên bằng lái xe của mình.

Vì sự khan hiếm bộ phận cơ thể, một số vấn đề có tính cách luân lý và đạo đức được nêu ra:

- Liệu có nên dành ưu tiên ghép cho bệnh nhân có nhiều hy vọng sống sót?

- Liệu cha mẹ trẻ em được ưu tiên ghép để chăm sóc con cái?

- Liệu có nên tưởng thưởng để khuyến khích nhiều người hiến tặng? Hoặc thân nhân người quá cố đồng ý việc hiến được tặng một số hiện kim?

- Liệu nại cớ đi du lịch tới các quốc gia đang mở mang rồi mua ghép cơ quan bị coi là lạm dụng, khai thác người nghèo?

- Liệu tử tù chờ đợi hành hình có thể hiến tặng cơ quan để giúp thân nhân được hưởng một phần lợi nhuận? 

Chủng tộc có vai trò quan trong trong việc ghép cơ quan. Tại Hoa kỳ, một vài sắc dân thiểu số thường mắc các bệnh cần thay cơ quan, như người Mỹ gốc châu Phi bị bệnh thận nhiều hơn người da trắng. Sự ghép thành công hơn nếu bộ phận thay thế đến từ người cùng chủng tộc. Do đó nếu người thiểu số không chịu hiến cho thì danh sách người đợi sẽ dài hơn. 

 Nhiều người e ngại rằng, khi biết mình đã hứa tặng bộ phận, bác sĩ sẽ không tận tâm cứu chữa. Xin đừng e ngại, vì lương tâm chức nghiệp không cho phép họ làm như vậy. Vả lại, các nhà chuyên môn khác thực hiện việc thu-ghép bộ phận chứ không phải bác sĩ gia đình. Họ chỉ lấy cơ quan sau khi bác sĩ điều trị đã cố gắng tìm đủ mọi cách để cứu sống bệnh nhân mà vẫn thất bại. 

Nhiều người thắc mắc là liệu khi tặng cơ quan, thân hình có bị biến dạng vì những vết cắt mổ?

Một lần nữa xin cứ an tâm, vì lấy cơ quan cũng là những phẫu thuật tế nhị, thực hiện cẩn thận để cơ quan lành lặn dùng được. Do đó, các vết cắt mổ gọn gàng, được khâu lại đàng hoàng, chu đáo. 

Chi phí cho việc chuyển-ghép là vấn đề cần lưu ý.

Theo luật lệ cũng như mục đích tối hậu của sự hiến tặng, người cho không được nhận một lợi nhuận nào.

Với việc nhận ghép, phí tổn cũng khá cao. Theo organdonor.gov, vào năm 2005, ghép một trái thận tốn khoảng 210,000 mỹ kim còn ghép nhiều bộ phận như gan-tụy tang-ruột chi phí lên tới 800,000 đô la.

Đây là món tiền quá lớn nhưng bảo hiểm cá nhân, các chương trình của chính phù như Medicare, Medicaid, một số các tổ chức từ thiện có thể giúp đỡ trang trải.

Kết luận

Trong dịp đầu năm, cùng với đón TẾT, mừng XUÂN, những lời chúc tụng, những cánh thiệp nhiều màu xinh xinh được luân lưu. Để chúc nhau khang an, thịnh vượng, “muôn người Hạnh Phúc chan hòa”.

Hạnh phúc đến từ những việc rất nhỏ: một nụ cười của bé thơ; một cánh thư từ người bạn cố tri, tiếng chim hót líu lo trên cành cây, một chén cơm cho người đói khát …

Đức Phật Thích Ca có giảng: “Cả trăm ngọn nến có thể đốt lên từ một ngọn nến nhỏ nhoi mà ngọn nến này không sớm tắt. Hạnh phúc chẳng bao giờ giảm bớt khi ta chia sẻ”.

 Chia sẻ một mô bào, một chút máu, một bộ phận cho người bệnh có nhu cầu được cứu sống.

Bác sĩ Nguyễn Ý-Đức, Texas-Hoa Kỳ

VỀ MỤC LỤC

NHỚ AI (3) - Chuyện phiếm của Gã Siêu

 

Sau khi trình làng hai bài “Nhớ ai”, để bàn về nghệ thuật “bắn thuốc lào”, gã tưởng rằng mình chỉ là một người hùng cô đơn, vì còn bám vào cái điếu bát, cái điếu cày trong khi bàn dân thiên hạ đang hưởng ứng phong trào bài trừ thuốc lá mà các vị tai to mặt lớn trong ngành y, cũng như trong Liên Hiệp Quốc đã đưa ra.

Hơn thế nữa, gã cứ tưởng rằng bài viết của gã chỉ là một tiếng kêu trong sa mạc, một viên sỏi nhỏ rơi tõm xuống mặt nước hồ thu mà thôi.

Ai dè gã đã nhận được sự hưởng ứng của nhiều người. Những người này cũng đã hay đang còn hút thuốc lào, nên chi  :

- Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”, có nghĩa là những người cùng một khuynh hướng thì thường tìm đến nhau.

Hay :

- Đồng bệnh tương lân”, có nghĩa là những người cùng một cảnh ngộ, thì thường giúp đỡ lẫn nhau.

Hôm nay, gã xin lượm lặt những kỷ niệm vui buồn của một thời hút thuốc lào, để trình bày cùng bàn dân thiên hạ như một kết thúc có hậu.

Vị đầu tiên phát biểu một cách hăng say là một cụ đã bước vào cái tuổi “thất thập cổ lai hy”, nên rất xứng đáng mang danh hiệu là bậc trưởng lão. Cụ ấy hiện nay đang sống ở bên Mỹ, thế mà lúc nào cũng kè kè chiếc  điếu cày bên mình. Cụ ấy còn tuyên bố một cách rất đao to búa lớn :

- Bà xã tớ khuyên tớ bỏ thuốc lào, tớ  chỉ ậm ờ cho qua, rồi thì chứng nào vẫn tật ấy, chó đen vẫn giữ mực, mèo vẫn hoàn mèo mà thôi.

Khi vắng mặt bà xã, cụ ấy đã hăng tiết vịt mà tuyên bố với bọn đàn em đang trố mắt nhìn :

- Em một bên và điếu một bên, bỏ thế quái nào được.

Mỗi lần họp hội, lâu lâu người ta lại thấy cụ ấy…lỉnh ra ngoài. Bàn dân thiên hạ tưởng rằng cụ ấy đi nghe điện thoại di động, hay bận công việc đột xuất. Nào ngờ cụ ấy lỉnh ra ngoài, chỉ để bắn một phát thuốc lào, sướng mê cu tơi.

Thậm chí, cụ ấy còn gửi cho gã một tấm hình ngồi trong chiếc xe Mercedes sang trọng,  thả khói ra cứ y như đầu tầu xe lửa, những làn khói quyện lẫn vào nhau cứ y như phượng múa rồng bay. Nhìn vào tấm hình, gã phải gật gù khen đó là một tác phẩm nghệ thuật, mang tính cách hội nhập văn hóa, tân cổ giao duyên, đông tây hòa hợp.

Thế nhưng, lâm ly bi đát hơn cả là tâm sự của một anh bạn đã từng vào tù ra khám. Anh bạn ấy kể lể tâm sự như sau :

Tôi chỉ biết hút thuốc lào từ khi bị nhốt trong tù. Thực vậy, ở trong tù, thuốc lào thật khan hiếm, nhưng ngược lại tiếng rít của nó phải nói là như xé gió, bởi vì cái điếu thường được làm bằng đá vân ban, hay đá hoa cương. Dĩ nhiên, tôi chỉ nói đến những ngày tôi ở trại Nam Hà ngoài Bắc mà thôi.

Sau đó, tôi được trả tự do và về làm ruộng tại Long Khánh. Tại đây, tôi vẫn tiếp tục…hút thuốc lào trong khi lao động trên ruộng đồng.

Mặc dù không chuyên, nhưng tôi cũng đã có dịp thử qua các loại điếu, từ điếu bát đến điếu cày. Từ điếu làm bằng vỏ trái lựu đạn đến điếu nhôm làm bằng cán chiếc băng ca, và kể cả điếu làm bằng thủy tinh…

Và có một loại điếu mà tôi cảm thấy thú vị nhất, đó là điếu nặn bằng đất, còn xe thì làm bằng ống rạ. Trước khi hút loại điếu này, thì cần phải uống một ngụm nước và ngậm ở trong miệng. Hút xong, thì một là nuốt nước vào trong bụng, hai là nhổ toẹt một cái xuống đất, cứ vô tư như người Hà Nội. Sau đó mới thoải mái nhả khói ra…

Còn một cái thú khác nữa của việc hút thuốc lào, mà tôi đã thề với đầu gối tôi rằng :

- Sống để bụng chết mang theo, dứt khoát không thể bật mí cho bất kỳ ai, nhất là bật mí cho bà xã thì sẽ chẳng bao giờ.

Tuy nhiên trong bàu khí sôi nổi bàn về việc hút thuốc lào, tôi đành miễn cưỡng tỏ lộ, để nếu mai tôi chết, thì bọn hậu sinh khả…ố, lỡ có táy máy thì cứ việc nhắm mắt mà làm theo. Đó là cái thú ngậm chung cùng…một xe.

Chuyện là như thế này :

Khi uống rượu cần thì mọi người cùng chung một vò, nhưng mỗi người một cần, một ống hút, muốn hút thế nào thì mặc sức, tùy theo tửu lượng của mình.

Còn khi hút thuốc lào thì khác, mỗi cái điếu chỉ có một xe, thành thử mọi người cùng chung một điếu và cùng kéo một xe. Qủa là một hình ảnh của hiệp thông, còn đẹp hơn cả chén nước mắm ở giữa mâm cơm, mà tác giả Pazzi đã mô tả trong cuốn “Người Việt cao quí” để ca tụng tinh thần hợp nhất của gia đình Việt Nam.

Việc ngậm chung một xe đã làm cho tôi cảm thấy cõi lòng mình lâng lâng. Sở dĩ như thế vì việc ngậm chung một xe của tôi hơi bị đặc biệt một chút.

Số là khi tôi sống cuộc đời nông dân, chân lấm tay bùn ở Long Khánh. Lúc đó tôi đã lên chức đội trưởng sản xuất. Cô đội phó của tôi đúng là một “cô em Bắc kỳ nho nhỏ”. Tuy là Bắc kỳ 75, nhưng trông cô rất duyên dáng mặn mà.

Giữa cảnh trời mây lãng đãng, gió lao xao trên đồi cao, chân tay lấm lem, mồi hôi nhễ nhãi, mà chơi một điếu thuốc lào, nhưng điếu thì phải được nặn bằng đất, còn xe thì phải được làm bằng ống rạ, mới thấy được sự…”phê” của thuốc lào mới sung sướng biết là chừng nào. Mắt lờ đờ, thở hổn hển, miệng khẽ rên lên :

- Ôi đê mê, đê mê.

Một lần kia, tôi lên gò mối để nghỉ giải lao, định bắn một phát, thì cô đội phó đến bên cạnh để hỏi ý kiến về việc chấm điểm cho các đội viên. Xong việc, tôi nặn đất làm điếu, cắt ống rạ làm xe.

Vì là một nông dân bất đắc dĩ,  trong người vẫn còn đọng lại một chút văn hóa phương Tây, và nhất là thói “ga lăng” của dân Phú Lãng Sa, nên tôi lịch sự nói với cô đội phó :

- Xin lỗi, khói thuốc có làm cho cô khó chịu hay không ?

Cô ấy trả lời một cách hồn nhiên :

- Thầy bu em đều biết hút thuốc lào. Mùi khói thuốc chỉ làm cho em thêm nhớ nhà mà thôi.

Tôi bèn mượn câu thơ của Hồ Dzếnh để đùa vui với cô một chút :

- Nếu nhớ nhà, thì nên châm một điếu thuốc.

Nhưng cô bỗng nhoẻn miệng cười, nụ cuời như khắc ghi vào con tim của tôi một dấu ấn không bao giờ nhạt phai. Cô ấy nói :

- Ngày còn nhỏ, lúc vắng bố mẹ, thỉnh thoảng em cũng bặp bặp vài cái xem nó ra làm sao.

Kể từ ngày đó, mỗi lần hút thuốc, nếu có dịp, tôi đều lịch sự mời cô đội phó…bặp bặp trước một chút. Khi tôi ngậm xe để hút, thì không còn thấy vị đắng của thuốc lào nữa, mà chỉ thấy vị ngọt của làn môi hồng cô để lại và hương thơm của cọng rạ mới, một hương thơm nhè nhẹ từ đồng ruộng nơi thôn dã tỏa lan.

Tôi chợt nhớ những câu thơ của Nhật Phạm trong bài “Kỷ niệm xưa” :

- Lượm mót được củ khoai sùng,

  Cặp vô bằng răng,

  Rồi đưa cho nhau cắn,

  Mà sao nó ngọt thôi là ngọt.

Tới đây, tôi cũng xin kể lể cà kê dê ngỗng thêm một chút xíu nữa về cô em Bắc kỳ nho nhỏ, cô đội phó xinh xinh của tôi.

Cô vừa là đội phó lao động sản xuất, vừa là đội phó văn nghệ, vừa là đội phó của ca đoàn. Dĩ  nhiên trong những lãnh vực này, tôi đều là đội trưởng.

Tôi cũng xin thanh minh thanh nga rằng thì là giữa cô ấy và tôi, chỉ có một sự cộng tác chân thành, chứ chẳng có một ý đồ đen tối hay mưu toan lợi dùng nào sốt.

Cha sở của tôi thường bảo :

- Tháng năm là tháng Đức Bà và cũng là tháng văn hóa nghệ thuật của giáo xứ.

Và thế là mười mấy đội hoa được tổ chức, biểu diễn tài nghệ của mình trong ca vũ nhạc để ca khen tán dương Đức Mẹ. Cô đội phó của tôi trong tháng năm này cứ giống y như một bà quản.

Thực vậy, cô tập họp các em lại để thành lập đội hoa và tự sáng tác ra các điệu múa cho việc tiến nhang và dâng hoa cũng như dâng nến…

Còn tôi í à ? Tôi viết bài hát cho hợp với màu hoa và các động tác mà cô đã sáng tác ra. Có khi đang đập lúa, tự nhiên nghĩ ra một ý nhạc, tôi phải vội vã lấy bút ra ghi lại liền, kẻo để lâu thì lại quên béng đi mất thôi.

Mỗi lần thấy tôi lôi giấy bút ra là cô đội phó liền hiểu ý. Trước tiên cô nháy nháy với đám bạn, sau đó tự động đi nặn điếu và cắt ống rạ…Khi đã ghi lại hết ý nhạc, thì tôi đã có sẵn điếu và đóm. Chỉ cần tớp một ngụm nước, đánh một que diêm, làm một hơi dài, rồi nhẹ nhàng nuốt nước vào bụng, vì vốn lịch sự tây, nên tôi chẳng nỡ nhổ toẹt xuống đất như mấy chú ba Tàu Chợ Lớn. Sau đó lim dim nhả khói…xanh tan dần giữa trời xanh. Ôi mới khoái làm sao !

Có người bảo rằng mùi thuốc lào quả thực là hôi làm cho người khác không thể chịu nổi. Theo tôi thì khác. Mùi thuốc lào cũng như mùi sầu riêng, mùi đờn ông, mùi đờn bà, mùi thời gian, mùi cuộc đời, thậm chí đến cả mùi mắm tôm… không thể bị gọi là mùi hôi được.

Những loại mùi này rất “huyền hoặc kỳ bí”, chúng biến đổi tùy theo sự yêu ghét và tâm tính của từng người. Người thích thì sẽ chết mê chết mệt tới độ ghiền. Còn kẻ ghét thì né tránh xa xa, nuốt nước miếng nhìn người khác thưởng thức, đôi khi còn muốn nếm thử cho biết mùi đời, để coi thử nó như thế nào. Còn nếu gọi là mùi hôi, thì đã chạy mất tăm mất dạng.

Trở lại với cô đội phó. Một thời gian sau, cô ấy đi lấy chồng xa. Còn tôi thì theo sự diễn tả của Huy Cận :

- Một hôm trận gío tình yêu thổi,

  Đứng ngẩn trông vời…áo tiểu thư.

Có lẽ phải đổi ba chữ “áo tiểu thư” thành “áo nông dân” cho phù hợp với cốt cách của thời đại. Lúc bấy giờ, hình như mọi người đều nai lưng ra để mà lao động hầu tìm kiếm chén cơm manh áo cho bản thân và gia đình giữa một hoàn cảnh đầy khó khăn, chứ chẳng ai mơ màng tới sự vinh quanh nơi những giọt mồ hôi và nước mắt,  như một khẩu hiệu của nhà nước vốn thường được đọc trên truyền thanh và truyền hình, cũng như được giăng mắc khắp các nẻo đường trong thành phố.

Tuy nhiên những kẻ  ngứa miệng còn chua thêm mấy câu nữa cho ý nghĩa được đậm đà khó quên :

- Lao động là vinh quang,

  Lang thang thì chết đói.

  Hay nói thì  ở tù.

  Lù khù thì sống lâu.

Có một người đã cắc cớ hỏi gã :

- Người ta nói say như tắc kè say thuốc lào nghĩa là làm sao ?

Theo gã hiểu có lẽ là say thuốc phiện thì đúng hơn. Gã không nhớ đã đọc trong một cuốn sách nào đó một giai thoại như sau :

Một ông nọ sống ở Hà Nội, là dân “hít tô phe” chính hiệu con nai vàng, nghĩa là dân nghiện thuốc phiện thức thiệc. Những người này khi hút phải nằm nghiêng, đưa chiếc tẩu ra mà hơ trên ngọn đèn dầu, nên một bên tai thường bị bẹp xuống. Vì thế người ta cũng thường gọi họ là…dân bẹp tai hay dân tại bẹp.

Trong nhà có một con tắc kè cứ bám đậu ở trên trần. Mỗi khi ông ta làm một ngao thuốc phiện rồi nhả khói lên trần, thì con tắc kè cũng được hưởng xái. Không chỉ một mình ông ta quờ quạng say thuốc, mà con tắc kè trên trần cũng quờ quạng say thuốc y như ông ta vậy. Khi ông ta chết, con tắc kè mấy ngày sau cũng chết theo vì bị cơn nghiện vật vã.

Một người khác, mãi tận Đan Mạch đã gửi về cho gã một bài viết bằng tiếng Ăng lê của một anh chàng Mẽo đi du lịch Việt Nam và cũng tập tành hút thuốc lào.

Gã xin dịch lại bài viết ấy để bàn dân thiên hạ cùng thưởng thức, cũng như để biết xem một người nước ngoài nghĩ gì về vấn đề này. Bài viết mang tựa đề “Hãy để NÓ vào điếu và hãy hút”. Tác giả Teddy de Burca Jnr. Đã ghi lại như thế này :

Dân ghiền thuốc lào ở Việt Nam hẳn phải có hai lá phổi bằng sắt.

Dưới tác dụng của thuốc lào, tôi đã chứng kiến cặp mắt đờ đẫn của những con người cường tráng…Nhiều du khách ngoại quốc  quên mất bữa ăn của mình vì chú tâm vào cái bát điếu lúc nào cũng sẵn sàng như mời gọi…Thậm chí có lần tôi thấy một anh chàng Mỹ gốc Phi, mặt mũi tái mét, mà tôi sẽ kể lại sau.

Dĩ nhiên việc ” hút thuốc bằng tẩu” của người phương Tây gợi lên hình ảnh một qúi ông trong bộ đồ lớn nổi bật dưới ánh lửa với chai rượu mạnh trên tay nơi bàn ăn, hay cũng có thể là hình ảnh một  anh chàng thủy thủ lão luyện nào đó  bên cạnh một cô gái, mà anh ta quen được nơi mỗi bến cảng, đang hài hòng với ống điếu trên môi, khi anh ta ném cái nhìn về phía biển khơi, vì nơi đây mới chính là tình yêu đích thực và duy nhất trong suốt cả cuộc đời anh ta. Còn các cô nàng thì làm gì mà có được lòng thủy chung.

Tuy nhiên, cái điếu của người Việt Nam lại có một chút gì đó là thanh tao. Cái điếu ấy giống như một khẩu bazooka nho nhỏ, được gọi là điếu cày và thuốc để hút được biết với tên gọi là  “thuốc lào”. Nếu là một tân binh thiếu kinh nghiệm về loại vũ khí hạng nặng này, bạn không thể lường trước được hậu quả cúa nó như thế nào. Nó có thể làm bạn quay cuồng và chẳng còn thiết ăn uống gì nữa.

Cái điếu cày ấy được làm bằng một khúc tre dầy và đôi khi còn được phủ lên một lớp véc ni mỏng, dài khoảng bảy tấc, một đầu có đục lỗ để bạn hút và một vật hình nón hoặc cái bát để ở gần đáy làm chỗ cho thuốc vào. Thuốc lào thì thô và đen như được đem đốt hay phơi ngoài nắng.

Người hút bắt đầu bằng việc lấy một cục thuốc, vê tròn trên đầu ngón tay truớc khi đặt vào nõ điếu. Tiếp đến, dùng que đóm, vừa đốt thuốc, vừa kéo…thật đã. Người hút tạo ra  một đám khói được nước làm cho mát từ trong ống điếu. Sau cùng, bạn đốt  cho thuốc cháy đỏ và rít  một hơi thật dài. Khói được tạo thành  từ trong ống điếu kêu  ùng ục như trút cơn giận dữ. Đó là âm thanh đã làm cho tôi chết mê chết mệt, khi lần đầu tiên đặt chân tới Việt Nam.  Nó vang lên khi bạn đang đi trên đường phố giữa dòng người qua lại,  trong quán bia hơi, hay tại quầy uống trà. Nó vang lên với một ai đó  và làm cho lá phổi của họ bớt đi phần trống vắng.

Sau khi rít một hơi thật mạnh và tỏa ra một làn khói, mắt họ trở nên đờ đẫn, trán họ toát ra những giọt mồ hôi, và có khi toàn thân họ đổ sụp xuống.

Những động tác này  làm tôi nhớ tới một anh chàng Mỹ gốc Phi. Tại một nhà hàng nọ, anh ta đến bên  người bạn tôi đang nhả khói thuốc lào. và nói :

- Xin chào.

Anh ta nhìn chằm chặp vào chiếc điếu cày và cứ ngỡ đó là một khẩu súng. Anh ta nói với  bạn tôi :

- Từ thập niên 80 cho đến bây giờ, tôi chưa một lần được hút.

Và thế là anh ta “dinh tê” chiếc điếu cày về bàn của mình và bắn một phát. Lát sau, tôi nhìn thấy toàn thân anh ta tái mét, đầu quẹo hẳn sang một bên và hai tay quờ quạng…

Người hầu bàn Việt Nam thấy vậy bèn nói với tôi :

- Anh ta say như điếu đổ.

Điều này có thể hiểu là “say như diều lên mây”, hay “say như bị đá đè” đến nỗi đánh rơi cả ống điếu. Còn tôi thì cứ tưởng anh ta sắp chết, nên vội chạy đi lấy cho anh ta một ly nước. Thế nhưng, khi quay trở lại, tôi thấy anh ta đã bò ra khỏi nhà hàng và bước đi còn loạng quạng…

Tác giả bài viết đã đúc kết kinh nghiệm thuốc lào của mình như sau :

Dĩ nhiên, tất cả những điều kể, nếu trên không thể làm cho bạn ngừng hút thuốc lào, thì chẳng có gì ngăn cản được bạn. Vậy bạn cứ hút đi nhé, nhưng hãy nhớ là sau khi hút, đừng vội đứng lên, kẻo bị té nhào xuống đất.

Người gửi cho gã bài viết trên, đã ngẫu hứng làm thêm mấy câu thơ và gã xin mượn tạm như một kết luận :

- Thuốc lào ơi hỡi thuốc lào,

  Mi ở nước nào, mi chạy sang đây ?

  Làm cho lắm kẻ mê say,

  Say như điếu đổ lăn quay ra đường.

Sở dĩ lăn quay ra đường là bởi vì họ hút theo phong cách Hà Nội. Như gã đã trình gày : Tại thành phố này “Nước chè nóng và điếu cày kêu” hiện diện trên từng khu phố. Ngồi vỉa hè mà hút điếu đầu tiên ban sáng, thì chỉ có nước…lăn quay ra đường mà thôi.

Gã Siêu    gasieu@gmail.com

VỀ MỤC LỤC

- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến, bài vở..., xin gởi về địa chỉ

giaosivietnam@gmail.com

- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:

Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục vụ của Giáo sĩ;  Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh vực; Mỗi  Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)

- Quy vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại

www.conggiaovietnam.net

Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị

Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác nhau.

TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam

Lm. Luca Phạm Quốc Sử  USA

 

 

Duoc chon giua loai nguoi va cho loai nguoi; GIAO SI: Xuat phat tu giao dan, hien dien vi giao dan va cay dua vao giao dan, de cung lam VINH DANH THIEN CHUA

*************