Hiến Chế Về
Phụng Vụ Thánh - Sacrosanctum Concilium |
Prepared
for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia
Lời Giới
Thiệu
Các mầu nhiệm Phụng Vụ là "chóp đỉnh" sinh
hoạt của Giáo Hội đồng thời cũng là nguồn mạch các nhân đức. Dầu
Giáo Hội luôn luôn sống mật thiết với các mầu nhiệm Phụng Vụ,
nhưng trong lịch sử, trước Vaticanô II chưa có Công Ðồng nào lại
dành cả một Hiến Chế để bàn tới Phụng Vụ với một thời gian khá
lâu để chuẩn bị, thảo luận và biểu quyết.
Một vài Công Ðồng cũng đã đặt vấn đề nhưng
chỉ chú trọng đặc biệt tới ít nhiều nguyên tắc hoặc lên án những
sai lầm tín lý.
Thực là may mắn, một Phong Trào Phụng Vụ đã
nảy sinh trong thời chúng ta. Ðây là "một trong những hồng ân
lớn lao Thiên Chúa đã ban cho kỷ nguyên này!" 1. Nhờ
đó, người ta đã bắt đầu suy luận về Phụng Vụ một cách sâu xa và
chín chắn, mang tính chất thần học và mục vụ. Và vì vậy, Dân
Chúa ngày một ý thức về vai trò quan trọng của Phụng Vụ trong
đời sống Kitô hữu và Giáo Hội.
Hiến Chế về "Phụng Vụ Thánh" của Công Ðồng
Vaticanô II hướng dẫn phong trào này đến chỗ tuyệt đỉnh và mở ra
một kỷ nguyên mới cho đời sống cầu nguyện của Giáo Hội.
Hoàn cảnh
lịch sử
Trước Công Ðồng Tridentinô (kết thúc vào
năm 1563) nền Phụng Vụ theo nghi thức Rôma đã bị coi là quá cổ
kính. Phụng Vụ được phát triển và thay đổi nhưng chỉ phát triển
ở những yếu tố bên ngoài theo sáng kiến nhân loại bằng cách thêm
những cử điệu và nghi thức trang trọng. Các nghi thức này chắc
chắn chỉ thích hợp với thời đại còn nhiều người chưa biết đọc
biết viết và cho một số ít người trí thức hiểu được tiếng La
tinh, một ngôn ngữ hầu như là chính thức của một xã hội chịu quá
nhiều ảnh hưởng của giáo sĩ và Giáo Hội.
Thế rồi, thế giới ngày một biến đổi với
việc phát minh ngành báo chí, với thuyết nhân bản, với những
trào lưu văn hóa, với văn chương lãng mạn (do đó, tiếng Latinh
suy yếu dần dần), với xã hội ngày một bị trần tục hóa v.v...
Theo đà tiến hóa này, tâm thức con người cũng thay đổi sâu xa về
quan niệm đối với Giáo Hội và việc phụng tự. Do đó Phụng Vụ trở
nên một thứ kinh nguyện ngày càng xa lạ và bí nhiệm đối với dân
chúng. Họ tham dự với lòng tin tưởng nhưng thụ động và âm thầm
chẳng khác gì chứng kiến một động tác riêng của hàng giáo sĩ.
Trong khi đó, họ chỉ nuôi dưỡng lòng đạo bằng cách gia tăng
nhiều việc đạo đức cá nhân.
Công Ðồng Tridentinô cũng nhìn thấy rõ sự
kiện này 2. Tuy nhiên Công Ðồng chỉ chú trọng bảo vệ
giá trị một vài chân lý của các bí tích bị phái Tin Lành đem ra
mổ xẻ: như sự công hiệu của bí tích, hiến tế tạ ơn, sự hiện diện
thực sự của Chúa trong phép Thánh Thể, chức linh mục thừa tác...
Với chủ đích chống lại sự canh tân của Tin Lành, Công Ðồng phải
dừng lại ở lập trường bảo thủ với những nguyên tắc khắt khe.
Thái độ này đương nhiên hạn chế "việc cập nhật hóa" Phụng Vụ.
Từ khi cải tổ sách Phụng Vụ theo huấn thị
Công Ðồng Triđentinô người ta nói rằng Phụng Vụ Rôma có tính
cách bất động và cố định vì những qui luật dường như bất di bất
dịch. Ngôn ngữ dùng ở đó là ngôn ngữ chết và được coi như không
thể thay thế được nữa. Các nghi thức cổ truyền này phải được duy
ttrì và cử hành đúng như đã ghi chú tỉ mỉ trong sách chữ đỏ, cho
dù nhiều người không hiểu nguồn gốc và dấu hiệu tượng trưng bí
nhiệm của chúng.
Các qui tắc Phụng Vụ này áp dụng cho mọi
nơi, cả các nơi truyền giáo nữa (vì sau Công Ðồng Triđentinô là
thời kỳ hưng thịnh của công cuộc tryền giáo nên có nhiều xứ đạo
mới được thành lập). Khắp mọi nơi đều áp dụng như nhau: cùng
những qui tắc tỉ mỉ bất di bất dịch, cùng một ngôn ngữ, một tâm
tình tây phương như vậy. Giáo Hội không để ý tới tâm tình, thói
quen và phong tục tôn giáo nơi các dân tộc được chiếu giãi ánh
sáng Phúc Âm.
Tại Á Châu, một vài đề nghị đã được đem ra
mổ xẻ để giải quyết vấn đề thích nghi Phụng Vụ trong các xứ
truyền giáo. Việc thảo luận đưa tới những cuộc bút chiến sôi
động nẩy lửa chung quanh các nghi thức (chẳng hạn nghi thức
Trung Hoa). Kết cục, vấn đề không đi tới thành quả nào cả.
Mãi tới cuối thế kỷ vừa qua, ý hướng cải
tiến do Chúa Quan Phòng linh ứng mới xuất hiện trong Giáo Hội và
đã đem lại kết quả tốt đẹp cho nền Phụng Vụ. Chính ý hướng này
đã dọn đường cho việc "cập nhật hóa" của Công Ðồng Vaticanô II.
Phong
Trào Phụng Vụ
Những người tiên phong của phong trào cải
tiến Phụng Vụ cuối thế kỷ vừa qua chính là các tu sĩ dòng
Benedictô Solesmes, Beuron, Maria Laach v.v... Công lao của họ
được Ðức Giáo Hoàng Piô XII ghi nhận trong Thông Ðiệp Mediator
Dei (số 4).
Tuy nhiên người tiên phong đích thực của
phong trào này chính là Thánh Giáo Hoàng Piô X vị được mệnh danh
là Giáo Hoàng của Bí Tích Thánh Thể. Trong Tự Sắc "Tra le
sollicitudini", ngày 22-11-1903, Ngài mong muốn giáo hữu tham
gia tích cực vào các lễ nghi Phụng Vụ, nguồn mạch thứ nhất và
cần thiết để nuôi dưỡng tinh thần Kitô hữu (số 3).
Cố gắng đầu tiên của phong trào này là tìm
hiểu và đào sâu chính bản chất nội tại của Phụng Vụ. Những suy
tư này mang đặc tính lịch sử, thần học và mục vụ.
Phong trào đã khơi lại nét phong phú chứa
đựng trong các nghi thức cũ, đồng thời đem ra ánh sáng những nỗ
lực liên lỉ của Giáo Hội qua các thời đại trong việc thích ứng
những qui tắc nòng cốt Phụng Vụ cho mọi thời đại và cho mọi dân
tộc.
Từ triều đại Thánh Giáo Hoàng Piô X cho đến
triều đại Ðức Giáo Hoàng Piô XII, Giáo Hội không ngừng tiếp tục
việc cải tiến. Lúc ban đầu, việc cải tiến này có vẻ dò dẫm và dè
dặt rồi mạnh bạo dần theo đà tiến của việc tra cứu học hỏi và
hoàn cảnh thuận lợi để phổ biến.
Người có công lớn lao nhất là Ðức Giáo
Hoàng Piô XII. Với Thông Ðiệp Mediator Dei (1947), Ngài để lại
cho Giáo Hội tài liệu giáo huấn có giá trị đầu tiên về Phụng Vụ.
Thông điệp Mediator Dei cho đến nay vẫn là một trong những nguồn
mạch của Công Ðồng Vaticanô II đã thâu nhận và trích dẫn dồi dào
từ kho tàng này; đôi khi Công Ðồng còn đồng hóa các tư tưởng,
các lời nói của Thông điệp này như là của mình và đã không sử
dụng tới dấu hiệu để phân biệt hay ghi xuất xứ. Hiến Chế chỉ
thêm vào đó các yếu tố Thánh Kinh, cộng đoàn và mục vụ cho thích
hợp với thời đại và tinh thần Công Ðồng 3.
Lược
trình Hiến Chế
Lược đồ của Hiến Chế về Phụng Vụ Thánh được
một Ủy Ban tiền Công Ðồng soạn thảo dưới sự hướng dẫn của Ðức
Hồng Y Gaetano Cicognani. Sau khi Ngài từ trần, lược đồ được
chuyển sang Ðức Hồng Y Arcadio Larraona 4. "Ðây là
lược đồ được cứu xét đầu tiên ở Công Ðồng và cũng có thể là lược
đồ giá trị nhất theo tầm quan trọng của nó trong đời sống Giáo
Hội" 5.
Ngày 14-11-1962, trong một phiên họp khoáng
đại, lược đồ đã được các Nghị Phụ bỏ phiếu chấp thuận trên
nguyên tắc. Kết quả có 2,162 phiếu thuận và 46 phiếu chống. Sau
đó các chuyên viên Công Ðồng bắt tay vào việc cứu xét những điểm
đề nghị tu chỉnh. Công việc kéo dài từ 17-11 đến 6-12-1962 và
đầu kỳ họp II năm 1963.
Ngày 4-12-1963 Ðức Giáo Hoàng Phaolô VI,
trước kia khi còn là Hồng Y, đã tích cực ủng hộ lược đồ, bây giờ
long trọng công bố Hiến Chế với tư cách thủ lãnh của Giáo Hội.
Nội dung
giáo lý
Hiến Chế được chia thành 7 chương hàm chứa
nhiều nguyên tắc thần học và những tiêu chuẩn hướng dẫn việc
canh tân và phát triển hữu hiệu nền Phụng Vụ.
1. Trước hết
chương I
phác họa nền tảng thần học
của Phụng Vụ.
Phụng Vụ là công cuộc cứu rỗi của Chúa Kitô
(số 5). Công cuộc này còn được tiếp tục và tồn tại mãi trong
Giáo Hội, nhất là qua lễ nghi hiến tế tạ ơn và các bí tích (số
6).
Chính Chúa Kitô, Ðấng hiện diện trong Giáo
Hội, dùng các dấu chỉ bí tích dâng lên Thiên Chúa lễ vật toàn
thiện và thánh hóa nhân loại. Là thủ lãnh tối cao của Giáo Hội,
Người cầu nguyện với dân Người và ban phát nguồn ơn cứu chuộc.
Do đó, những động tác Phụng Vụ chỉ là sự
thực thi cụ thể chức vụ tư tế của Chúa Kitô trong Giáo Hội: chức
tư tế luôn luôn hiện diện và hoạt động, nó tự biểu lộ qua các
nghi thức khả giác và hữu hiệu (số 7).
Ðồng thời, Phụng Vụ là sự chờ đợi, là sự
nếm trước Phụng Vụ trên trời, nơi mà tất cả chúng ta đang tiến
về như những lữ hành (số 8).
Như thế, Phụng Vụ là "chóp đỉnh" các sinh
hoạt Giáo Hội (số 10) tuy không phải là sinh hoạt độc nhất của
Giáo Hội. Thực vậy, sứ mệnh tiên quyết của Giáo Hội là mời gọi
nhân loại trở về với nguồn ơn cứu rỗi qua việc rao giảng Phúc Âm
(số 9) và chuẩn bị tâm hồn mọi người sẵn sàng tiến tới các mầu
nhiệm thánh qua những việc đạo đức (như cầu nguyện riêng, nguyện
ngắm, việc sùng kính, sám hối v.v...) (số 11).
Sau phần dẫn nhập, Công Ðồng bước sang
những chỉ dẫn tổng quát cho việc cải tiến Phụng Vụ.
Ðể tín hữu xác tín đầy đủ và tham gia trọn
vẹn các nghi lễ một cách ý thức và chủ động, trước hết phải huấn
luyện các chủ chăn (số 14-18), rồi đến lượt các ngài sẽ huấn
luyện lại cho tín hữu (số 19).
Ngoài ra, còn phải tiếp tục cố gắng để cải
tiến cách tốt đẹp toàn bộ Phụng Vụ theo những qui tắc sau đây
(số 21):
A. Qui tắc tổng quát liên quan trực tiếp
tới những vị điều hành Phụng Vụ trong Giáo Hội (số 22-25).
B. Qui tắc dựa trên tính cộng đoàn của
Phụng Vụ (số 26-32).
C. Qui tắc dựa trên bản chất giáo dục và
mục vụ của Phụng Vụ (số 33-36). Chẳng hạn đề cập tới ngôn ngữ
được sử dụng trong các nghi lễ (số 35).
D. Qui tắc thích nghi Phụng Vụ với tâm tính
và hoàn cảnh dân tộc, địa phương (số 37-40).
Cuối cùng Hiến Chế phân tích đời sống phụng
vụ trong phạm vi các giáo phận (số 41, 45-46), giáo xứ (42-43)
và quốc gia (44).
2.
Chương II là những chỉ dẫn
để cải tiến các nghi thức trong
Thánh Lễ.
Một vài chi tiết đặc biệt và mới mẽ đáng kể như: lời nguyện giáo
dân (số 53), tiếng bản xứ (số 54), rước lễ hai hình (số 55), lễ
đồng tế (số 57).
3.
Chương III đề cập tới các
Bí Tích
khác và các Á Bí Tích.
Với những lời diễn nghĩa thần học giá trị (số 59-61).
4.
Chương IV bàn đặc biệt về
Kinh Nhật Tụng,
một phần vụ quan trọng khác để thi hành sứ mệnh tư tế của Chúa
Kitô và Giáo Hội. Ðó là việc dâng lên Thiên Chúa "bài ca chúc
tụng" và lời cầu khẩn cho thế gian được ơn cứ rỗi (số 83).
5.
Chương V của Hiến Chế trình
bày về Năm Phụng Vụ:
sau phần nhập đề thần học sâu xa (số 102-105), Công Ðồng nêu ra
một số qui tắc nhằm nâng cao giá trị của ngày Chúa Nhật (106),
duyệt lại chu kỳ phụng vụ với ý hướng nhấn mạnh đặc biệt mầu
nhiệm Phục Sinh (107-108), Mùa Chay (109-110) và các ngày lễ
mừng các Thánh (111).
6.
Chương VI và
VII
dành cho thánh nhạc
và thánh nghệ,
là một rong những phần nòng cốt của Phụng Vụ. Số 119 đặc biệt
nói về việc áp dụng thánh nhạc trong các xứ truyền giáo.
Phần Phụ Thêm:
Tuyên ngôn về việc tu chính niên lịch
Trong phần phụ thêm của Hiến Chế, các Nghị
Phụ muốn xác định thái độ về việc sửa lại niên lịch dân sự cho
chính xác 6.
Từ hơn một thế kỷ nay, trong phạm vi khoa
học, thương mại và chính trị, nhiều người đã nghiên cứu việc tu
chỉnh niên lịch dân sự. Ðã hai lần, Tòa Thánh được hỏi ý kiến về
vấn đề này, nhưng Ðức Lêô XIII, năm 1897, Ðức Piô XI, năm 1921,
đều trả lời rằng: để giải quyết một vấn đề quá tế nhị như vậy có
lẽ phải cần tới thầm quyền của Công Ðồng chung 7.
Trong khi soạn thảo lược đồ Hiến Chế về
Phụng Vụ Thánh, một vài Nghị Phụ lên tiếng muốn rằng Công Ðồng
nên đi bước đầu trong việc tu chính một niên lịch chính xác và
cố định. Nhưng vấn đề chưa ngã ngủ hoàn toàn, nên các Nghị Phụ
dành quyền quyết định cho Tòa Thánh, để tự do hành động, nhất là
đối với sáng kiến sửa đổi của xã hội dân sự (chẳng hạn như Liên
Hiệp Quốc).
Tuy nhiên Công Ðồng cũng nêu ra vài quy tắc
quan trọng nhắc Tòa Thánh lưu tâm khi có việc thay đổi:
a. Phải thận trọng trong việc thay đổi lễ
Phục Sinh nếu có, vì trong quá khứ vấn đề đó đã là lý do chia rẽ
giữa các kitô hữu.
b. Cố gắng duy trì tuần lễ bày ngày với
ngày Chúa Nhật, và thao nguyên tắc không thêm một ngày nào khác
ngoài tuần lễ.
Chú Thích:
1
Yves Congar O.P. Unam Sanctam 66, trg 14.
2
Xem Dz 946 (1749) v.v... Những người "Cải Cách" đã bàn luận sôi
nổi một vài vấn đề Phụng Vụ: như vấn đề ngôn ngữ trong Phụng Vụ,
rước lễ hai hình v.v... nhưng tiếc thay, họ bàn luận theo những
chiều hướng sai lạc.
3
Xem Pierre-Marie Gy. O.P. Unam sanctam 66, trg 117.
4
Cha Annibale Bugnini, linh mục thừa sai, chủ nhiệm tờ
"Ephemerides Liturgicae", là thư ký và chuyên viên của Hiến Chế.
5
Ðức Giáo Hoàng Phaolô VI công bố Hiến Chế về Phụng Vụ Thánh ngày
4-12-1963.
6
Chẳng hạn năm 1922. Hội Nghị Liên Hiệp Không Gian nhóm họp tại
Rôma để thảo luận về vấn đề này. Bên Mỹ châu có "World Calender
Association" đã phổ biến một hệ thống niên lịch cố định, khá
phức tạp. Có lẽ trong một thời gian gần đây Liên Hiệp Quốc sẽ có
sáng kiến về vấn đề này.
7
Về các tài liệu này, xin xem chauver Berrand, La question de la
Pâque et du Calendrier, Paris 1936, trg. 213-214.
Còn tiếp |
VỀ MỤC LỤC |
|
HỌC HỎI VỀ HỌC THUYẾT XÃ
HỘI CỦA GIÁO HỘI CÔNG GIÁO (BÀI 8)
|
VIII. Nạn Nghèo Đói và Lòng Từ
Thiện (287-310)
91. Tình trạng nghèo đói trong thế
giới loài người hôm nay ra sao?
Không cần
phải phân tích những con số thống kê về tỉ lệ nghèo đói, thực tế
cho thấy vô số nạn nhân gồm nhiều thành phần từ trẻ em, người
trưởng thành đến người già yếu đều đang sống trong tình trạng
đói nghèo. Nói cách khác, rất nhiều nhân vị đang gánh chịu sự
nghèo đói một cách bất công. Mỗi ngày nhiều nơi trên thế giới
hàng triệu con người đang sống trong tuyệt vọng; khốn thay, tình
trạng này mỗi ngày một xấu đi. Nhìn vào bức tranh ảm đạm này,
chúng ta thấy hàng triệu con người hàng ngày không có đủ thức
ăn, nước uống, nhà cửa, y tế, việc làm (cf.
Sollicitudo Rei Socialis,
#13 &14). Thật đáng buồn, bức tranh nghèo đói này là có thật và
đang tiếp tục diễn ra hàng ngày trong thế giới văn minh của loài
người chúng ta.
92. Giáo hội bên vực phẩm giá cho
những người nghèo như thế nào?
Giáo hội nhận
thức và dạy cho con cái mình rằng: Những người nghèo đói không
phải là những người bị mất ân sủng trước mặt Thiên Chúa; vì thực
ra, không ai hổ thẹn vì phải tần tảo để nuôi sống cho bản thân
mình. Thực vậy, Đức Giêsu vốn là Thiên Chúa, nhưng Ngài đã chấp
nhận làm người con của bác thợ mộc và lao động hằng ngày để mưu
sinh. Như thế, khi chiêm niệm Gương Thánh này, chúng ta dễ dàng
nhận thấy rằng: phẩm giá đích thực nơi con người ẩn chứa trong
đời sống luân lý, đức hạnh [chứ không phải ở địa vị hay chức
quyền]. Như thế, người nghèo khổ hay giàu sang đều có khả năng
như nhau để đạt được cuộc sống đức hạnh, và phần thưởng hạnh
phúc vĩnh cửu sẽ dành cho những ai thực hành đời sống đạo đức
ấy. Hơn thế nữa, Đức Giêsu luôn luôn ôm vào lòng những người
nghèo khổ và bị ngược đãi với một lòng thương xót đặc biệt. Ngài
gọi những người nghèo là những người được chúc phúc; đồng thời
Ngài cũng mời gọi những ai nghèo khổ bất hận hãy đến với Ngài để
tìm sự an ủi nghỉ ngơi (cf.
Rerum Novarum,
# 23–24).
93. Theo tin thần HTXH, chúng ta
nên hiểu nghèo đói trong thế giới đương đại theo những ý nghĩa
nào?
Theo thông
điệp Sollicitudo Rei Socialis, ngoài sự nghèo đói về thể
chất, thế giới hôm này đang trải qua những nạn đói nguy hiểm
khác. Cụ thể, đó là sự tước đoạt hay giới hạn quyền của con
người: như quyền tự do tôn giáo, quyền tham gia chia sẻ trách
nhiệm xây dựng xã hội, quyền tự do thành lập các hiệp hội tổ
chức cũng như quyền phát kiến trong các lãnh vực kinh tế. Tước
đoạt hay giới hạn những quyền này phải chăng đó là một hình thức
tồi tệ hơn sự tước đoạt tài sản vật chất (cf. Sollicitudo Rei
Socialis #15)? Thực vậy, phần lớn con người trong xã hội hôm
nay không tìm thấy phẩm giá của họ trong những nơi làm việc. Như
thế, nếu họ không bị bốc lột thì họ cũng bị xô đẩy ra bên lề xã
hội. Bên cạnh đó rất nhiều nạn nhân khác hàng ngày vẫn tranh đấu
để dành lấy những nhu cầu tối thiểu nhất cho họ. Thật không may,
tại thế giới thứ ba có rất nhiều nạn nhân đang sống trong tình
trạng này (cf. Centesimus Annus, n. 33).
94. Công bằng xã hội cần được hiểu
như thế nào?
Công bằng xã
hội được áp dụng cho hết tất cả mọi người, người làm chủ cũng
như là người làm công. Bản chất của công bằng xã hội đòi hỏi mỗi
cá nhân phải góp phần xây dựng công ích. Vì thực ra, đức công
bằng trước hết là một nhân đức thuộc phạm trù luân lý cũng như
pháp lý. Công bằng giúp xây dựng tổng thể chứ không phá vỡ; nó
dẫn đến hòa giải chứ không trả thù. Tự trong bản chất sâu thẳm,
đức công bằng được bắt nguồn từ đức ái mà hình thái biểu lộ của
đức ái là lòng thương xót, vị tha. Vì thế, nếu chỉ áp dụng công
bằng mà không có lòng thương xót, thì nó sẽ trở thành tê cứng và
vô cảm (cf. World Day of
Peace Message, 1998, #
1).
95. HTXH đề cập đến công bằng và
bái ái ra sao?
“Chúng ta
phải thừa nhận rằng, lòng thương xót chân thật là sự khởi nguồn
của đức công bằng.” Lòng thương xót đối với Kitô hữu một nghĩa
nào đó chính là sự hiện thân của sự bình đẳng giữa con người với
nhau; vì thế nó cũng là sự hiện thân một cách hoàn hảo nhất cho
đức công bằng. Tuy nhiên, sự bình đẳng được mang lại do bởi đức
công bằng thì bị giới hạn bởi những điều kiện yếu tố ngoại cảnh,
trong khi tình yêu và lòng thương xót sẽ giúp con người gặp nhau
trong bản chất của nhân vị con người (cf. Dives in
Misericordia, # 14).
Br.
Huynhquảng |
VỀ MỤC LỤC |
|
ĐỔI MỚI
(Chia sẻ về Truyền giáo, bài 8)
|
Chúng ta đang sống trong một thời
đại đầy những thay đổi. Những thay đổi nhanh đến chóng mặt. Điển
hình là lĩnh vực khoa học kỹ thuật. Điện tín là một phát minh
quan trọng giúp truyền tin nhanh chóng. Tuổi thọ của nó kéo dài
khá lâu. Fax thay thế điện tín một cách khá hoàn hảo. Truyền đi
trọn vẹn cả nội dung phong phú của một bức thư lẫn nét chữ của
người viết. Nhưng chỉ 10 năm sau fax hầu như bị khai tử bởi
e-mail, một hình thức thông tin không những đầy đủ, nhanh chóng
mà còn ít tốn kém.
Những đổi thay trong mọi lãnh vực
kéo theo sự đổi thay của nếp sống cũ của chính con người, và
thay đổi bậc thang giá trị. Có những giá trị cũ không còn hợp
thời. Có những giá trị mới xuất hiện. Có những điều hôm qua tốt,
hôm nay không còn tốt, có khi còn có hại.
Trong một bối cảnh như thế người
truyền giáo không thể bằng chân như vại. Phải đổi mới để theo
kịp thời đại. Phải đổi mới để việc truyền giáo có kết quả. Làm
việc truyền giáo là làm với con người. Con người đã thay đổi thì
việc truyền giáo cũng phải cập nhật hoá.
I. BẢN THÂN
Ta phải đổi mới bằng
1.Học hỏi
Trong xã hội đầy những phương tiện
mới, không thể nào không học. Học để biết sử dụng các phương
tiện mới. Học để ngang tầm nhận thức thời đại. Xã hội đang tiến
bộ. Giới trẻ hiện nay tiến rất nhanh, hiểu biết rất rộng, trong
những lãnh vực rất mới. Người truyền giáo nếu không học hỏi sẽ
không thể đồng hành, không thể đối thoại với giới trẻ. Để mình
tụt hậu không những ta đánh mất giới trẻ mà còn làm cho tôn giáo
mang một bộ mặt già nua, cũ kỹ, lỗi thời, lạc hậu. Khuôn mặt đó
sẽ làm cho giới trẻ cảm thấy không thích hợp, không hấp dẫn.
Học để hiểu biết xã hội. Xã hội
đổi mới, tâm tư tình cảm con người đổi mới. Làm việc truyền giáo
mà không hiểu tâm tư nguyện vọng của người dân ta sẽ có những
quyết định, những hoạt động không phù hợp, làm cho việc truyền
giáo không có kết quả mà có khi còn làm hại cho việc truyền giáo
nữa.
Nhưng nhất là học để thăng tiến
chính bản thân mình. Thăng tiến nhận thức. Thăng tiến chuyên
môn. Thăng tiến đạo đức.
Ta có thể học hỏi bằng nhiều cách.
Quen thuộc và thông thường nhất là qua trường lớp. Nhưng ở tuổi
chúng ta, học hỏi quan trọng hơn chính nhờ sách vở, báo chí,
truyền thanh, truyền hình. Những thông tin cho ta biết tình hình
xã hội tại địa phương, trong nước và trên thế giới. Những hiểu
biết giúp ta có nhận thức chính xác về thời đại để có những
quyết định, những hoạt động phù hợp. Ta cũng học hỏi qua tiếp
xúc. Tiếp xúc, trao đổi với mọi lứa tuổi, mọi tầng lớp, mọi giới
giúp ta hiểu biết tâm lý người đương thời. Hiểu biết đó sẽ giúp
rất nhiều trong mục vụ nhất là trong truyền giáo.
2. Phân định
Thời bao cấp chẳng có bao nhiêu
hàng hoá và cũng chẳng có chọn lựa. Cứ có hàng là quí, bất luận
tốt xấu. Thời khó khăn cho nên gì cũng tốt cả. Có gì cũng mua
hết. Nhưng thời kinh tế thị trường hàng hoá la liệt, tốt xấu đủ
loại thì hàng giả lại xuất hiện tràn lan ở mọi lãnh vực. Hàng
giả. Người giả. Bằng giả. Công ty giả. Vì thế phải biết phân
định. Hàng giả, hàng thật. Rồi phải chọn lựa chỉ mua những gì
cần thiết thôi. Trong việc truyền giáo cũng thế. Phải biết phân
định.
Trước hết phải biết phân định
đúng-sai. Đây là phân định nền tảng.
Đổi mới có nhiều cách. Có những cách sai, có những cách đúng. Ta
hãy noi gương Đức Giêsu trong sa mạc. Để hoạt động truyền giáo
Đức Giêsu có thể chọn lựa nhiều cách. Ma quỉ đã đề nghị với
Người những cách xem ra dễ dàng, ngoạn mục, thành công mau
chóng. Nhưng Đức Giêsu đã tỉnh táo phân định. Những cách ma quỉ
đưa ra có dễ dãi, nhẹ nhàng, hào nhoáng nhưng lại là cách thế
ngược với ý Đức Chúa Cha. Ngược với ý Đức Chúa Cha thì chỉ có
thể là sai lầm, giả dối. Nên Đức Giêsu đã chọn lựa thánh ý Chúa
Cha hơn là nghe theo ý riêng do sự lừa gạt của ma quỉ.
Giữa những cái đúng ta lại phải
phân biệt điều chính-điều phụ.
Người Pharisêu trong Phúc âm bị Đức Giêsu chê trách vì thường
lẫn lộn, giữ điều phụ mà không giữ điều chính. Như trong Mt 24,
12-36 : “Khốn cho các ngươi hỡi luật sĩ và biệt phái… Các ngươi
dài dòng kinh kệ, nhưng lại nuốt chửng gia tài của các bà goá…
Các ngươi nộp thuế một phần mười rau thơm, còn luật lệ trọng
nhất là công bình bác ái thì lại bỏ… Các ngươi biết lựa con muỗi
ra, nhưng lại nuốt cả một con lạc đà… Các ngươi lo lau sạch chén
đĩa, nhưng trong lòng dơ bẩn… Các ngươi giống như những ngôi mộ
quét vôi trắng, ngoài coi đẹp nhưng bên trong chứa đầy sự giả
hình, tội lỗi…”.
Đức Giêsu cho họ biết lề luật quan
trọng nhất là : “Hỡi Ítraen, hãy nghe Chúa là Thiên Chúa chúng
ta, là Thiên Chúa duy nhất, phải kính mến Chúa là Thiên Chúa hết
lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức mình. Đó là điều răn
thứ nhất. Điều răn thứ hai cũng giống điều răn thứ nhất là hãy
yêu thương anh em như chính mình. Chẳng còn điều răn nào trọng
hơn hai điều răn đó” (Mc 12, 28-31).
Giữa biết bao luật lệ Đức Giêsu đã
cho thấy luật chính là mến Chúa yêu người. Giữa biết bao bổn
phận phải chu toàn Đức Giêsu cho biết điều quan trọng nhất là
giữ công bình, bác ái.
Sau cùng phải có một phân định về
thực tế. Cái gì có thể làm được
trong hoàn cảnh hiện nay. Có nhiều điều tốt, điều hay. Nhưng
phải tuỳ lúc tuỳ nơi. Đức Giêsu cho ta biết mầu nhiệm về thời
gian “Khi giờ của Người chưa đến” ( Ga 2, 4 ) thì Người chưa
làm. Chẳng hạn sau khi làm phép lạ cho bánh hoá ra nhiều, Đức
Giêsu phải trốn đi vì dân chúng muốn tôn Người làm vua ( Ga 6,
15 ). Nhưng trước toà Philatô Người lại xưng mình là vua( Ga 18,
37 ).
Có lúc Đức Giêsu quyết liệt như
khi đối đầu với Pharisêu, luật sĩ hay khi xua đuổi những người
buôn bán ra khỏi đền thờ ( Mc 11, 15…). Có lúc Đức Giêsu rất nhẹ
nhàng tế nhị như khi xử án người phụ nữ ngoại tình ( Ga 8, 1-11
) , hiền lành như khi bị kết án, vác thập gía ( Mc 15, 1-28 ).
Khi gặp người bệnh tật, đau khổ, đói khát, Đức Giêsu làm phép lạ
chữa họ ( Mc 1, 21-39 ). Nhưng khi Pharisêu thách thức xin dấu
lạ trên trời Người đã không làm ( Mc 8, 11-12 ). Khi người do
thái thách thức Người xuống khỏi thập giá Người đã lặng thinh
(Mc 15, 29-31 ). Phân định thực tế là phân định thời giờ và nơi
chốn thuận tiện, nhưng cũng là phân định điều nào phù hợp với
thánh ý Thiên Chúa. Đổi mới mà không có phân định dễ rơi vào
thói theo mốt theo thời và có nguy cơ xa điều chính, xa căn cốt
của đạo, làm cho đạo biến chất, suy thoái.
a. Hiểu biết
những giá trị mới
Xã hội mới có những giá trị mới.
Chẳng hạn xưa kia trong các quan hệ xã hội, gia đình người ta đề
cao nề nếp, luật lệ. Nhưng nay người ta đề cao tình cảm. Trong
gia đình Nho giáo xưa kia người cha lúc nào cũng phải nghiêm
nghị. Con cái gặp bố là phải kính cẩn khép nép. Trong nhà có
việc lộn xộn ông bố quát một tiếng là tất cả đều im lặng chấp
nhận. Nhưng ngày nay hình ảnh một người cha như thế khó có thể
chấp nhận. Những ông bố trẻ bây giờ gần gũi con cái, chuyện trò
với con cái và kể cả chơi đùa với con cái nữa. Con đã chứng kiến
cảnh một gia đình đầm ấm. Ông bố bò làm ngựa cho con cỡi. Bố vừa
bò vừa hí như ngựa. Đứa con ngồi trên lưng bố thích chí. Đi được
mấy vòng bố mệt quá muốn nghỉ. Nhưng đứa con đang vui không
chịu. Thế là ông bố tiếp tục làm ngựa. Trong bầu khí này, nếu vị
linh mục không thay đổi, vẫn giữ hình ảnh một người cha phong
kiến trong gia đình xưa sẽ làm cho người ta tránh xa.
Nền văn minh nông nghiệp đang
chuyển dần sang công nghiệp. Trong nông nghiệp người ta chuộng
lễ hội. Các thứ lễ hội kể cả sinh hoạt của người nông dân không
xét đến thời gian. Thời giờ rộng rãi. Lúa có gặt chậm vài ngày
cũng được. Nhổ cỏ chậm một tuần cũng không sao. Không đòi hỏi
chính xác. Làm ruộng cứ theo kinh nghiệm ông bà để lại, không
cần khoa học kỹ thuật gì nhiều.
Nhưng hiện nay, ít nhất tại các
thành thị. Nếp sống đang chuyển sang công nghiệp. Nền kinh tế
thị trường thúc đẩy tư doanh. Thời giờ là vàng bạc. Mọi tính
toán cần chuẩn xác. Mọi hợp đồng phải rõ ràng. Tác phong công
nghiệp đang ảnh hưởng tới mọi sinh hoạt xã hội. Những buổi mít
tinh, hội họp đang dần dần trở nên ngắn gọn, bớt diễn văn hình
thức rườm rà. Người ta biết sự chính xác, đúng giờ, đúng hẹn
hơn. Vì có ít thời giờ nên mọi tổ chức có khoa học, đi thẳng vào
nội dung hơn.
Trong tình hình đó, nếu những buổi
lễ trong đạo không tổ chức có khoa học. Nếu những bài giảng
không ngắn gọn. Nếu những bài giáo lý không chính xác thì sẽ khó
lôi cuốn được người thời nay.
Vui tươi phục vụ. Một nét đẹp của
tuổi trẻ ngày nay là rất vui tươi.
Tính tình vui tươi cởi mở nên thích những người, những nơi vui
tươi.
Không phải chỉ tìm vui chơi, các
bạn trẻ còn tìm niềm vui trong những công việc thiện nguyện vô
vị lợi. Chương trình “Mùa hè xanh” do các đại học tổ chức đã có
kết quả tốt đẹp nhờ đánh đúng vào tâm lý quảng đại thích việc
nghĩa của tuổi trẻ. Biết bao sinh viên thành thị đã tình nguyện
đến vùng sâu vùng xa phục vụ đồng bào. Dù sinh hoạt thiếu thốn.
Dù sống đơn sơ đạm bạc. Dù công việc vất vả nhưng họ vẫn vui
tươi. Luôn luôn yêu đời ca hát. Niềm vui của họ làm vui cả bản
làng nơi họ đến phục vụ. Nhìn họ con có cản tưởng họ chính là
các vị thừa sai đem tin vui đến cho người nghèo xa xôi.
Nếu nhà truyền giáo hôm nay không
có niềm vui trong phục như thế sẽ chẳng đem tin vui đến cho mọi
người. Biết những giá trị mới, ta phải phấn đấu để rèn luyện cho
mình có những giá trị phù hợp với thời đại. Để phấn đấu rèn
luyện phải có tâm hồn trẻ trung, hăng hái. Để tâm hồn già cỗi
trong những giá trị xưa cũ, ta sẽ lỗi thời, chẳng thể làm chứng
cho những giá trị cao đẹp của Phúc âm.
b. Theo ơn Chúa
Thánh Thần
Những nỗ lực của con người thật sự
không đủ để đổi mới. Nhất là trong lãnh vực truyền giáo. Cần
phải có ơn Chúa Thánh Thần. Chính Chúa Thánh Thần mới khơi nguồn
sống mới, đổi mới tâm hồn, thúc đẩy ra đi, tạo nên một nguồn
phấn khởi mới, ban nhiệt tình truyền giáo mới.
Những ai thao thức với việc truyền
giáo không khỏi ước mơ một ngày lễ Ngũ tuần. Đức Chúa Thánh Thần
đến đã đổi mới các tông đồ từ những con người yếu đuối sợ sệt
thành những chứng nhân mạnh mẽ kiên cường. Từ những người đóng
kín nên những người cởi mở. Nhất là từ những người trốn chạy
thành những tông đồ nhiệt thành hăng say rao giảng Tin mừng.
Chắc lúc đó Đức Maria và các tông đồ phải khao khát Chúa Thánh
Thần bằng một niềm khao khát mãnh liệt. Các ngài đã mất tất cả.
Các ngài chỉ là con số không. Không còn chỗ nào hy vọng bấu víu.
Không còn nghị lực. Không còn lý tưởng. Có thể nói các ngài mở
rộng tâm hồn chờ mong Chúa Thánh Thần. Như người đói khát chờ
lương thực. Như con bệnh ngặt nghèo chờ mong thầy thuốc. Các
ngài đã quét dọn sạch sẽ tâm hồn, tẩy sạch cái tôi, để hoàn toàn
sống theo ơn Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Nên khi Chúa Thánh Thần
ngự xuống, các ngài đã hoàn toàn thay đổi. Đổi mới máu thịt. Đổi
mới trái tim. Đổi mới nghị lực. Nhờ thế mà việc truyền giáo của
các ngài thành công tốt đẹp. Vì thế mà các ngài dám hy sinh mạng
sống mình.
Hôm nay ta hãy bắt chước Đức Maria
và các tông đồ, khao khát ơn Chúa Thánh Thần. Tẩy rửa tâm hồn ta
sạch mọi dấu vết cái tôi, để hoàn toàn ngoan ngoãn theo ơn Chúa
Thánh Thần hướng dẫn. Hãy tha thiết kêu cầu Chúa Thánh Thần.
Nhưng cũng phải biết khai mở tâm hồn đón nhận ơn của Người. Đức
Chúa Thánh Thần vẫn đến. Tuỳ ta có mở tâm hồn hay không.
Thi sĩ Claudel đã diễn tả rất thi
vị việc Chúa Thánh Thần đến như sau :
“Trong một đêm bão táp, ta cô đơn
trong căn nhà biệt lập bỏ hoang, thình lình có ai gõ cửa. Người
ấy không gõ vào cửa thường sử dụng, nhưng gõ trên cánh cửa cũ
kĩ, mà ta nghĩ rằng không bao giờ mở ra được nữa. Nhưng có người
đang gõ, đã gõ. Người đã gõ vào con người ta, và điều này làm
cho ta đau đớn, giống như thai nhi đầu tiên cử động trong dạ
người phụ nữ.
Ai đã gõ ! Không nghi ngờ gì nữa,
đó là Đấng đang đến như kẻ trộm giữa đêm khuya. Và ta lắng nghe,
lòng hồi hộp; có thể là Người chỉ gõ một lần nữa thôi ! Nhưng
chỗi dậy và ra mở cánh cửa cũ kỹ, thật là một điều ngại ngùng.
Chìa khoá đã mất. Cần phải có dầu để làm trơn ống khoá. Và rồi
điều gì sẽ xảy ra khi ta mở tung cánh cửa ? Bóng đêm và gió sẽ
lùa vào; sẽ có một Đấng vô hình khiến ta không còn được thoải
mái trong căn nhà của mình. Lạy Thánh Thần Thiên Chúa, xin Ngài
chớ vào, con rất sợ gió.
Nhưng Người đã gõ. Gõ như thế nào
? Người gõ vào các tình cảm, gõ vào tài sản của chúng ta, gõ vào
thân xác con người chúng ta. Không những Thiên Chúa gõ cửa, Ngài
còn xô cửa vào. Ngài không ngừng chờ chực lắng nghe. Nhưng mỗi
lúc và mọi nơi, Ngài đều chạm phải bức tường cứng cỏi và bất
động. “Ôi lạy Thiên Chúa, chúng con sẽ cố gắng mở cửa cho Ngài,
chúng con biết rằng Ngài cũng đau buồn khi phải gõ mạnh vào
chúng con” (Je crois en Dieu, Gallimard 1961, p.322-323).
Mở cửa cũng phải phấn đấu lắm. Mở
cửa cũng phải đau đớn lắm. Nhưng có mở cửa Thánh Thần mới ùa vào
và mới đổi mới được tâm hồn ta.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin ngự đến
và đổi mới chúng con.
TGM. Jos Ngô Quang Kiệt
|
VỀ MỤC LỤC |
|
RƯỢU BỒ ĐÀO
(PORTO) ĐÃ NHẮM VÀ ĐÃ SAY
|
Trong những ngày qua, báo chí và
diễn đàn điện tử trên Internet tràn ngập những bài ca tụng đội
tuyển bóng đá Việt Nam vừa đoạt chiếc cúp AFF Susuki Cup 2008
danh giá Đông Nam Á, mà người Việt Nam đã chờ đợi trên 40 năm
qua. Nhân dịp nầy ông Henrique Calisto, huấn luyện viên Bồ Đào
Nha, cũng đã được ca tụng hết lời vì đã góp công lớn đưa đội
bóng đạt được thành quả trên. Hình ảnh ông Calisto đã được công
kênh trên đường phố. Tên ông được mọi người biết đến và Việt Nam
hóa ra Tô, thầy Tô, nghe rất thân thương. Trong các lời ca tụng
vị huấn luyện viên quê Matosinhos, vùng gần thành phố Porto với
loại rượu Bồ Đào (Porto) danh tiếng, câu nói của ông Chủ tịch
Công ty Gạch Đồng Tâm Võ Quốc Thắng rất đáng được lưu ý. “Nếu
đất nước Bồ Đào Nha có viện trợ cho VN cả trăm triệu đôla cũng
chẳng ai nhớ. Nhưng nếu ông làm cho đội tuyển VN thành công.
Hàng chục triệu người người dân VN sẽ rất quý mến đất nước Bồ
Đào Nha. Không có điều gì quảng bá cho đất nước tốt bằng điều
đó.”
“Ông Henrique Calisto đã mềm lòng và gật đầu đồng ý..”
(Trích báo Tuổi trẻ số thứ sáu, ngày 2 tháng giêng Dương lịch
năm 2009, trang 11.)
Để
đạt đến ngày vinh quang trên, thời gian trước đó, huấn luyện
viên Calisto đã bị công kích rất nhiều.
Trong những ngày cuối năm tháng 12, 2008, đội tuyển bóng đá quốc
gia và ông Calisto đã góp phần tạo cho người Việt Nam một đêm
Mừng Chúa Giáng Sinh 2008 và đón chào năm mới 2009 tuyệt vời.
Khi
nhìn thấy ông quàng lên mình quốc kỳ Bồ Đào Nha, tổ quốc ông,
tôi bất chợt nhớ đến bao nhiêu gương mặt Bồ Đào Nha khác đã từng
sinh sống, làm việc trên đất nước Việt Nam nầy.
Đó
là linh mục Diogo Carvalho (1578-1624) người đã cùng linh mục
người Napoli (Ý) Francesco Busomi, đến Đàng Trong năm 1615.
Nhưng ngay năm sau đó, đã can đảm quay về Nhật Bản và tử đạo tại
Sendai Nhật Bản ngày 22-2-1624.
Đó
là linh mục Gaspar Luis (1586- sau năm 1648) người đã viết bản
tường trình Đàng Trong năm 1621 và soạn cuốn Từ Vựng tiếng Việt
(nhưng bị thất lạc do đắm tàu). Đó là Amaral, Barbosa soạn thảo
từ điển tiếng Việt, rất tiếc, các văn bản trên chưa được tìm
thấy.
Nhưng trước hết và trên hết là công trạng của linh mục Francisco
Pina. (1585-1625). Quê hương ngài là Guarda, Bồ Đào Nha, chịu
chức linh mục năm 1616 để rồi năm sau, 1617, đến Đàng Trong .
Ngài thường trú tại Hội An (Quảng Nam), rồi Nước Mặn (Qui Nhơn)
nhưng cuối cùng, từ năm 1622, định cư tại Dinh trấn Thanh Chiêm
(Dinh Chăm). Tại đây ngài đã mua nhà, trau dồi văn hóa Á Đông và
áp dụng phương pháp ghi âm tiếng Việt bằng mẫu tự La tinh. Bản
phúc trình của ngài viết vào những năm 1623, 24 đã được tiến sĩ
Roland Jacques OMI (tức Dương Hữu Nhân) phát hiện tại thư viện
Ajuda của thủ đô Lisboa, Bồ Đào Nha, và đã được công bố. Hãy đọc
vài câu :
“... Về vấn đề học ngôn ngữ thì ở Kẻ Chàm là nơi luôn luôn tốt
nhất. Đây là kinh đô của triều đình. Ở đây người ta nói hay.
Nhiều người trẻ quy tụ về đây. Họ là sinh viên...Về phần con,
con đã soạn xong một tiểu luận về chính tả, về các thanh điệu
của ngôn ngữ nầy, và con đang lao vào ngữ pháp...Con phiên âm
theo chữ Bồ Đào Nha sao cho người chúng ta có thể đọc và học các
từ đó thuộc lòng...”
(Trích Những người Bồ Đào Nha tiên phong trong lĩnh vực Việt Ngữ
học, Roland Jacques, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội-2007, trang
43, 44)
Trước đây, khi chưa biết các tài liệu nầy, chúng ta thường chỉ
chú trọng đến linh mục Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes) là người có
công lớn trong việc xuất bản hai tác phẩm chữ Quốc ngữ rất quan
trọng là “Tự điển Annam- Bồ Đào Nha- Latinh” thường gọi tắt là
Từ điển Việt- Bồ- La và Phép giảng tám ngày tại Rôma, năm 1651.
Nhưng chính cha Đắc Lộ, người đến Đàng Trong tháng 12 năm 1624
(theo cha Đỗ Quang Chính, tháng 2,1625) cho biết mình đã học
tiếng Việt với cha Pina .
Kể
từ khi bản sao viết tay của cha Pina được phát hiện và được linh
mục Dòng Tận hiến Đức Bà Vô Nhiểm Dương Hữu Nhân tức Roland
Jacques công bố, cái nhìn về buổi đầu lịch sử hình thành chữ
quốc ngữ đã thay đổi nhiều.
Thật ra, cha Pina không tự mình nghĩ ra phương pháp ghi chú nầy
mà phải nói đó là công trình của nhiều người Bồ Đào Nha sinh
hoạt ở Nhật Bản và Trung quốc trước đó. Từ thế kỷ 16, các linh
mục Dòng tên đã sáng chế hệ thống La tinh hóa tiếng Nhật gọi là
rômaji, thực ra phải nói Bồ Đào Nha hóa vì ngôn ngữ Bồ
rất gần với hệ thống La tinh. Từ đó, các sách viết tay và các
bản in theo phương pháp Âu Châu, thay vì mộc bản, đã được tiến
hành. Từ năm 1591 cho đến năm 1598 ít nhất có bảy cuốn sách đã
được in ấn (Xem sách dịch Lịch sử công giáo Nhật Bản của Joseph
Jennes, CICM, Nhà Xuất Bản Tôn giáo, 2008 trang 124 tt..)
Tại
Trung quốc, loại sách phiên âm trên cũng khá phổ biến. Sách dùng
chủ yếu giúp các người Bồ Đào Nha và Âu Châu không biết chữ Hán
và cho sinh viên Nhật Bản, Trung Hoa làm quen với ngôn ngữ Âu
Châu.
Chính từ những kinh nghiệm trước đó mà cha Francisco Pina đã bắt
đầu Bồ Đào Nha hóa chữ Việt tại Thanh Chiêm (Dinh Chăm), Quảng
Nam với sự tiếp tay của nhiều nhà sư, nho sĩ, thông dịch viên và
học sinh.
Ông Nguyễn Phước Tương, một nhà
nghiên cứu chuyên viết về địa phương Quảng Nam, Đà Nẵng đã tóm
lược công trình trên qua bài viết khá súc tích “Hội An - Thanh
Chiêm. Cái nôi ra đời của chữ quốc ngữ “đăng trên Văn Hóa Hội An
số đặc biệt Xuân Mậu Tý 2008, trong đó, sau khi dẫn chứng nhiều
tài liệu ông đã đi đến kết luận “Như
vậy, chính Giáo sĩ Bồ Đào Nha Francesco Pina...cùng với các trí
thức và phiên dịch người Việt tại cảng thị Hội An và Dinh trấn
Thanh Chiêm đã phát minh đầu tiên chữ Quốc ngữ vào đầu thế kỷ
17, loại văn tự hiện đại của Việt nam. Đây là một sự kiện lịch
sử - văn hóa vô cùng vĩ đại mà nhân dân Hội An và nhân dân Thanh
Chiêm ngày nay có quyền tự hào.
Thế nhưng, trong những năm qua...chúng ta chưa có một hình thức
sinh động để giới thiệu với nhân dân địa phương, nhân dân cả
nước và khách du lịch quốc tế để họ biết rằng nơi đây trong quá
khứ đã từng ra đời sự kiện vĩ đại đó”
(Văn Hóa Hội An, số đặc
biệt Xuân Mậu Tý 2008, trang 54 -58)
Ông
Phạm Thông, một người đã từng du học tại Bungari, trong báo Khoa
học và Sáng tạo, đã lên tiếng yêu cầu hình thành một lễ hội tôn
vinh chữ Quốc ngữ . Trong bài viết : “Lễ hội dành cho chữ Quốc
ngữ?”, sau khi ghi nhận công trạng của linh mục Francisco Pina,
ông viết “Thiết nghĩ, chữ Quốc ngữ đối với chúng ta hiện nay
và mãi mãi sau nầy, quý báu và cần thiết như cơm gạo, như không
khí, ánh sáng mặt trời vậy. Ngày nay và mai sau, mỗi người Việt
Nam của chúng ta khi cầm trên tay một trang sách tiếng Việt, cầm
trên tay cây bút ký tên mình bằng chữ Quốc ngữ, phải nhớ đến
nguồn gốc của nó như từ đâu ta có bát cơm ăn.” Từ đó ông đưa
ra ý kiến “.. tôi thiết nghĩ chữ Quốc ngữ và những tiền nhân
có công khai sinh, phát triển và truyền bá nó, không kể họ là
ai, ngoại quốc hay là Việt, lương hay là giáo cũng cần được tôn
vinh trong lòng mỗi người dân Việt. Lễ hội chữ Quốc ngữ nếu được
khai sinh trên cái nôi hình thành Thanh Chiêm, Hội An là một sự
ứng xử đúng đạo lý nhất của người Việt, của người Quảng Nam là
‘uống nước nhớ nguồn’, ‘ăn quả nhớ kẻ trồng cây’. Và lễ hội chữ
Quốc ngữ sẽ là một điểm nhấn quan trọng góp phần làm hiển lộ
ngày càng rõ nét nền văn hóa đặc thù Đất Quảng” (Báo Khoa
học và Sáng tạo, số 69 (tháng 10/2008, trang 10,11)
Tháng 12 năm nay, dân tộc Việt Nam tự hào về chiến thắng đương
kim vô địch Singapore và Thái Lan trên đấu trường bóng đá, nhờ
công sức của ông Henrique Calisto, một người Bồ Đào Nha, nhưng
không ai nhớ đến một người Bồ Đào Nha khác, Francisco Pina, đã
chết đuối trên biển Quảng nam Đà Nẵng ngày 15 tháng 12 năm 1625,
mười ngày trước lễ Chúa Giáng Sinh, khi vừa tròn 40 tuổi, với
bao ước mơ chưa thành hình.
Nhân vật đó đã mãi mãi nằm xuống tại mảnh đất Việt Nam nầy, đã
đặt nền tảng ban đầu cho một di sản khổng lồ là nền văn học chữ
quốc ngữ . Qua bốn nghìn năm văn hiến, chúng ta còn lại bao
nhiêu văn bản Hán Nôm? Chứa được bao nhiêu căn phòng? Còn chữ
Quốc ngữ, tuổi chưa đầy 400 năm, nhưng nếu hôm nay nhà nước xây
dựng bảo tàng chữ Quốc ngữ, chắc chắn phải cần một tòa nhà đồ sộ
mới chứa hết.
Công trạng của linh mục Francesco Pina quá lớn, nhưng ngay một
ngôi mộ xứng đáng, dân tộc nầy cũng chưa dành cho ngài, ấy là
không kể những người dùng chữ Quốc ngữ để phỉ báng chữ Quốc ngữ
như là công cụ “thực dân, đế quốc”?!
Chưa đầy 10 năm khi những trang chữ Quốc ngữ xuất hiện trên
Internet mà nay ai cũng nhận ra khả năng tuyệt vời hội nhập thế
giới của lối chữ nầy. Chữ Quốc ngữ giúp dân tộc ta vượt qua
nhiều dân tộc trên thế giới về chất lượng và số lượng website.
Hãy gỏ một từ Quốc ngữ trên công cụ tìm kiếm Google hoặc Yahoo
bạn sẽ thấy rỏ ngay.
Cha
Pina ơi, cha đang nằm ở đâu trên mảnh đất vinh quang và đau
thương nầy?
Người Việt Nam đã quên cha nhưng rồi sẽ phải nhớ ơn cha. Huấn
luyện viên Calisto, người đồng hương của cha đã làm cho dân tộc
Việt Nam tự hào trong một vài năm, nhưng cha mới là người Bồ Đào
Nha mà người Việt cần phải biết ơn lâu dài, cha mới là hương vị
thơm ngon, ngọt ngào, say nồng của rượu Bồ Đào (Porto), không
chỉ trăm năm mà chắc chắn sẽ là mãi mãi với công trình sáng tạo
chữ Quốc ngữ.
Hội
An, ngày 03 tháng 1 năm 2009.
Lm Antôn Nguyễn Trường Thăng,
Quản xứ Hội An. |
VỀ MỤC LỤC |
|
MẸ THIÊN CHÚA VÀ MẸ TÔI
|
Trong những
phẩm chức của Mẹ thì phẩm chức “Mẹ Thiên Chúa” là một phẩm chức
cao trọng hơn cả. Bên cạnh phẩm chức ấy là phẩm chức Mẹ Nhân
Loại, và dĩ nhiên, là mẹ riêng tôi nữa.
Khi Tổng Thần
Gabriel được Thiên Chúa sai đến với Mẹ, và khi cất lời chào Mẹ:
“Hãy vui lên trinh nữ, vì được Thiên Chúa sủng ái, trinh nữ có
phúc hơn mọi phụ nữ” (Lc 1:28), hẳn là ngài cũng biết rằng lời
chào mừng ấy không dừng lại ở đó. Ý nghĩa của lời chào mừng ấy
còn phải đi xa hơn nữa khiến muôn thế hệ sau phải tự hỏi: Người
trinh nữ ấy vui với cái gì? Tại sao vui?
Nhưng cũng
nhờ Tổng Thần Gabriel, chúng ta tìm được lý do khiến Mẹ vui, đó
là Mẹ sẽ thụ thai và sinh một con trai, mà người con trai ấy là
Con Ðấng Tối Cao, là chính Thiên Chúa: “Trinh nữ sẽ thụ thai và
sinh một con trai. Ngài sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Ðấng
Tối Cao” (Lc 1:31-32). Như vậy, qua biến cố Truyền Tin, hình ảnh
người mẹ của Thiên Chúa đã được phác họa, và người đó chính là
Trinh Nữ Maria.
Khi làm mẹ
Chúa Giêsu, Ðức Maria cũng trở thành mẹ của cả nhân loại, vì
Chúa Giêsu đây không ai khác mà là một Adong mới, nơi Ngài, nhân
loại được nối kết, và được trở nên con cái Thiên Chúa. Ngài là
“Trưởng Tử” như lời Thánh Phaolô quảng diễn, và Ngài cũng chính
là “Ðầu” của nhiệm thể mà trong đó mỗi người chúng ta là những
chi thể. “Như mỗi người chúng ta có một thân thể với nhiều chi
thể, và mỗi chi thể có một nhiệm vụ khác nhau. Cũng vậy, tuy
nhiều, chúng ta chỉ làm thành một thân thể trong Ðức Kitô, và
mỗi phần tử là một chi thể khác nhau”
(Rm 12:4-5)..
Tư tưởng này, Thánh Phaolô cũng viết cho Giáo Ðoàn Corinthô:
“Anh em là thân thể của Chúa Kitô. Mỗi người trong anh em là một
chi thể trong đó” (1Cor 12: 27).
Vậy, nếu Mẹ
là mẹ của “đầu”, thì Mẹ cũng là mẹ của toàn thân thể, là Mẹ của
tất cả mọi chi thể.
Tại sao người
Trinh Nữ nhỏ bé thuộc một thôn trang nghèo nàn Nazareth lại có
thể trở thành một người mẹ cao trọng và quyền uy đến thế: “Trinh
nữ có phúc hơn mọi người nữ” (Lc 1:28). Ðể có câu trả lời, chúng
ta lại phải tìm về ý nghĩa của biến cố Truyền Tin. Sở dĩ Mẹ được
Thiên Chúa sủng ái, và được trở nên cao trọng, vì Mẹ khiêm
nhường và sự khiêm nhường ấy dẫn Mẹ đến chỗ hoàn toàn phục tùng
Thiên Chúa: “Này tôi là nữ tỳ Ngài, tôi xin vâng” (Lc 1:38).
Vâng, chính
sự khiêm nhường ấy, nên Thiên Chúa đã cất nhắc Mẹ lên cao. Và dù
được cao sang, vinh quang như thế, Mẹ vẫn hết sức khiêm nhường:
“Linh hồn tôi ngợi khen Chúa. Và tâm trí tôi hoan hỷ trong Ðấng
Cứu Chuộc tôi. Vì Chúa đã thương đến phận nữ tỳ tôi tớ Chúa. Này
về sau muôn đời sẽ khen tôi có phúc” (Lc 1: 46-49).
Nhưng ngoài
Chúa Giêsu ra, trong cái chung toàn thể nhân loại ấy, Mẹ cũng
còn là mẹ riêng của mỗi người chúng ta. Thánh Phaolô Tông Ðồ
trong mối tương quan con cái Thiên Chúa qua Chúa Kitô đã viết:
“Người Con trở thành trưởng tử của nhiều anh em” (Rm 8:29). Mầu
nhiệm này, ơn gọi này cũng được hiểu về vai trò làm anh của Chúa
Kitô đối với từng anh em của Ngài qua tương quan với Mẹ Maria.
Chính Chúa Kitô đã mặc khải cho biết điều này. Trước giờ hấp
hối, từ trên thập giá nhìn xuống thấy Mẹ và người môn đệ yêu
dấu, Ngài đã nói: “Hỡi bà! Này là con bà”, và với người môn đệ,
ngài nói: “Này là mẹ con” (Jn 19:26). Như vậy, chính Chúa Giêsu
đã mặc khải cho nhân loại và cho mỗi người chúng ta rằng, Ðức
Maria không chỉ là riêng của Ngài, mà còn là của mỗi người chúng
ta.
Khi sinh ra
Chúa trong hang đá Belem, cùng một lúc, Mẹ Maria cũng sinh chúng
ta ra trong tình thương yêu và bình an của Thiên Chúa. Khi Mẹ
cho Chúa Giêsu bú sữa, cũng là chính chúng ta được nuôi dưỡng
bởi dòng sữa tình yêu của người. Khi Mẹ nâng đỡ, bao bọc, và
nuôi dưỡng Chúa Giêsu, cũng chính là chúng ta từng người một
được mẹ nâng đỡ, bao bọc, và nuôi dưỡng. Và khi Chúa Giêsu hấp
hối trong Vườn Cây Dầu, vác thập giá lên núi Sọ, và chịu đóng
đanh trên đó, thì cũng chính là Mẹ có mặt bên mỗi người chúng ta
mỗi khi sầu khổ, lúc gặp thử thách, và ngay bên giường trước giờ
ly biệt cõi trần: “Thánh Maria Ðức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng
con là kẻ có tội khi nay và trong giờ lâm tử”. Ðó là lời cầu xin
mà Giáo Hội dạy con cái mình phải xin với Mẹ mọi ngày.
Tôi đã tham
dự đám tang của nhiều người Công Giáo, Phật Giáo, nhưng chỉ duy
một lần, gần đây tôi được tham dự đám tang của một người chị em
Tin Lành. Tôi không nói về sự khác biệt giữa Công Giáo và Phật
Giáo, nhưng so sánh với đám tang của người chị em Tin Lành với
những đám tang Công Giáo thì đây là điều khiến tôi phải suy
nghĩ. Cũng có Lời Chúa được chia sẻ, cũng có Thánh Thi được đọc
lên, nhưng thiếu hình bóng người Mẹ hiền. Người mẹ mà mỗi ngày
tôi đều xin với người: “cầu cho chúng con là kẻ có tội khi nay
và trong giờ lâm tử”. Ðiều gây ngạc nhiên, là chính những người
trong gia đình nhà hiếu cũng cảm thấy sự khác biệt ấy. Lý do, vì
tối hôm trước, một số nữ tu, anh chị em Công Giáo do sự quen
biết với một phần tử trong gia đình, đã xin phép đến đọc kinh
cho người quá cố. Những tràng Mân Côi được cất lên cùng với
những bài thánh ca đã làm cho con cháu của người quá cố bồi hồi
xúc động. Và chính vì thế, hôm sau, đứng trước quan tài, tôi
cũng xin cùng với một người trong gia đình ấy đọc một chục kinh
Mân Côi và hát một bài ca về Mẹ cầu cho người quá cố.
Hình ảnh
người mẹ tự nó đã là một hình ảnh đẹp và thu hút chứ không phải
vì người mẹ đó là Mẹ Thiên Chúa: “Thưa bà. Này là con bà”. Chúa
Giêsu đã chẳng nói với Mẹ trước giờ hấp hối điều này sao? Vậy
thì mặc dù Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, con vẫn hạnh phúc và sung sướng
nói với Mẹ như Chúa Giêsu đã cho phép con gọi thế: “Ðây là mẹ
con”. Ôi Maria! Con sung sướng biết bao.
Lễ Mẹ Thiên
Chúa ,
ngày 1 tháng 1 năm 2009
Tiến Sĩ Trần Mỹ Duyệt |
VỀ MỤC LỤC |
|
NHỮNG TÍN HIỆU KHÔNG VUI
|
Kể từ
01.01.2009, Pháp lệnh mới về dân số sẽ có hiệu lực. Pháp lệnh
mới quy định mỗi gia đình chỉ được phép có từ 1 đến 2 con, điều
này tưởng như không mới nhưng có một sự khác biệt rất lớn so với
quy định cũ. Quy định cũ ghi rõ “Mỗi gia đình chỉ nên có
từ 1 đến 2 con” Nay được đổi thành “Mỗi gia
đình chỉ được có từ 1 đến 2 con”.
Với quy định
cũ, đã có biết bao thai nhi đã bị gạt bỏ ra ngoài cuộc sống, bao
bi kịch kinh hoàng đã làm đảo lộn biết bao gia đình, đã có nhiều
người chỉ vì đôi ba chữ trong một pháp lệnh đã hãi sợ cho đường
thăng quan tiến chức, lo lắng cho công ăn việc làm, nhấp nhổm
không yên cho kinh tế gia đình đến nỗi đã ra tay giết hại những
thành viên vô tội trong chính gia đình của mình.
Với pháp lệnh
mới sẽ có hiệu lực vào năm 2009 này. Mặc dù ai cũng biết trong
pháp lệnh không đưa ra những biện pháp chế tài, thế nhưng những
gì Nhà Nước CS đang làm trên đất Việt Nam này, ủng hộ phá thai,
lật đổ giáo dục, tiêu diệt lương tri, coi thường công lý v.v...
đang nhan nhản khắp các tỉnh thành. Chúng ta biết chắc rằng rồi
đây sẽ còn có biết bao thai nhi vô tội sẽ phải chết oan ức tức
tưởi ngay trong chính cung lòng mẹ chỉ vì một vài chữ đã thay
đổi trong một pháp lệnh mà nghe qua có vẻ như rất triết lý, rất
khoa học và rất nhân đạo.
Nhưng thực
chất của vấn đề chỉ là ngụy biện vì có thứ triết lý nào đi hủy
diệt Sự Sống, vì có thứ khoa học nào tàn sát con người và càng
chẳng có thứ nhân đạo nào mà lại hủy diệt hàng loạt các thai nhi
chưa bao giờ có cơ hội chào đời. Con số 3 triệu ca phá thai mỗi
năm giờ đây sẽ còn có thể tăng cao hơn nữa trong những nỗi xót
xa nhục nhằn của những ai còn có chút lương tri, rồi đây con số
ấy sẽ lại gây bao kinh hoàng cho cả thế giới trong tiếng cười hả
hê của những con người ích kỷ sống trên cái chết của đồng loại.
Bất chấp cả những dự báo khoa học cho rằng trong vòng ít năm nữa
sẽ có trên bốn triệu thanh niên Việt Nam không có cơ hội nào để
lựa chọn bạn đời khác phái của mình.
Việt Nam đã
vậy, nhìn ra thế giới. nhân đọc qua một bài viết của Linh Mục
Nguyễn Hữu Thy với tựa đề “Hoa kỳ. Hàng triệu trẻ sơ sinh đang
run sợ trước nhiệm kỳ tổng thống của ông Barack Obama sắp tới”
trên trang vietcatholic.net.[1]
Chúng ta mới
thấy cái đáng sợ của tội lỗi ngày nay đang nhấn chìm nhân loại
vào trong văn hóa của sự chết là thế nào, chỉ một ý nghĩ chủ
quan của một người sống mà hàng triệu trẻ em vô tội sẽ phải chết
mỗi năm. Tôi ác diệt chủng này bao giờ mới có thể chấm dứt khi
mà ngày nay con người chỉ lo vơ vét và hưởng thụ, vơ vét hưởng
thụ của Bà Mẹ Trái Đất thôi chưa đủ, còn vơ vét hưởng thụ trên
cái chết của đồng loại nữa. Chẳng lẽ con người bước vào thập
niên đầu tiên của thiên niên kỷ mới được cho là văn minh tiến bộ
nhất lại là những tội ác kinh hoàng từ cổ chí kim chưa từng xẩy
ra đến như vậy. Xét về mọi góc độ, thì tội ác phá thai còn kinh
hoàng ghê tởm hơn rất nhiều những cuộc thảm sát đẫm máu nhất
trong lịch sử các bạo chúa hôn quân như Tần Thủy Hoàng, Hitler,
Pôn pốt..
Nhìn qua quốc
gia láng giềng Trung Quốc, một quốc gia CS với tội ác vào loại
bậc nhất trong lãnh vực phá thai, ngày nay cũng đang phải trả
giá về hậu quả kinh khủng của nó. Nạn béo phì ở trẻ em, nạn mất
cân bằng giới tính dẫn đến tình trạng hàng triệu thanh niên
không kiếm được vợ. Họ phải nhập khẩu cô dâu, biến thân phận
người phụ nữ thành một món hàng béo bở không hơn không kém mà
nhiều cô gái Việt Nam đã phải trả giá.
Hàng loạt các
vấn đề không thể giải quyết ngày một ngày hai cho dù có chi ra
bao nhiêu tiền của đi chăng nữa vì cái giá phải trả đâu phải chỉ
là tiền mà là hàng loạt những cái khác quý giá hơn, thiêng liêng
hơn. Có lẽ còn lâu mới có thể khắc phục hậu quả, mà muốn thế đi
nữa thì cũng chẳng dễ dàng gì vì con người vẫn đang ra sức tàn
phá các nền tảng luân lý, xã hội, môi trường và chính mình chỉ
để thỏa mãn lòng tham không đáy.
Các tín hiệu
không vui khác từ Việt Nam không chỉ dừng lại ở lãnh vực Bảo Vệ
Sự Sống mà còn ở các lãnh vực khác. Thế nhưng tất cả các lãnh
vực khác khi suy đồi cũng cho ra một kết quả cuối cùng là làm
cho cuộc sống ở cả người đã được sinh ra cũng như các thai nhi
tội nghiệp của chúng ta ngày một thê thảm hơn trước.
Những người
Công Giáo và những ai còn lương tri vẫn ngày đêm tranh đấu cho
Công Lý và Hòa Bình, cho Tự Do Tín Ngưỡng và Nhân Quyền thì
ngược ngạo thay, chính quyền phủ nhận tất cả để biến các Tu
Viện, các cơ sở giáo dục trở thành những vũ trường, những sân
golf dành cho các đại gia tham nhũng ăn chơi trác táng. Thật đau
lòng khi viện mồ côi lại bị coi như nơi nuôi dưỡng đào tạo các
mầm mống chống phá chính quyền, thật xót xa khi thể hiện lòng
yêu nước lại bị tù đầy.
Những bậc cha
mẹ ngày đêm mong mỏi cho con em mình được học hành tử tế trong
một môi trường lành mạnh thì ấm ức thay chính quyền lại hướng
dẫn các thầy cô phải dạy cho các em thái độ sống bất chấp các
giá trị đạo đức tinh thần bằng cách lừa dối các em. Một số các
em đã lỡ sa chân vào vũng lầy ma túy mong trở lại làm người nơi
các trại cai nghiện thì lại “được” chính quyền huấn luyện thêm
cho thói ma cô, giang hồ, đầu gấu, bắt đi đập phá Đền Thánh,
Dòng Tu. Người mang tật mang bệnh mong mỏi đến nhà thương chữa
trị thì đau lòng thay họ gặp toàn những lương y... tử mẫu, gặp
đâu giết đó.
Báo đài ngày
đêm ra rả cổ súy cho những trào lưu hưởng thụ. Lãnh đạo các cấp
chỉ biết bao che dung túng và tham nhũng. Kết quả cuối cùng tất
phải là người sống cạnh tranh với nhau không đủ, cạnh tranh với
các thai nhi và còn cạnh tranh cả với người chết nữa. Khi ấy,
con người ta đâm ra coi thường Sự Sống, nguyên nhân chính dẫn
đến chuyện phá thai.
Còn rất nhiều
những tín hiệu không vui ngày đêm đang gặm nhấm vào trái tim mỗi
người trong chúng ta. Đang báo hiệu cái chết của nhân tâm, cái
chết của lương tri và cái chết của con người đang đến gần từng
giờ từng phút. Nhưng chẳng lẽ chúng ta cứ mãi ngồi nguyền rủa
bóng tối mà chẳng dám thắp lên một ngọn nến sao ? Chúng ta vẫn
hãi sợ thế lực của bóng tối ngày nào thì ngày ấy không những
những thai nhi vô tội sẽ là nạn nhân mà chính chúng ta cũng sẽ
là những nạn nhân còn đau khổ hơn ngàn lần các em nữa.
Ngọn nến mà
chúng ta cần thắp sáng bây giờ là ngọn nến của sám hối, ngọn nến
cầu nguyện và ngọn nến của tình yêu. Những ngọn nến ấy mới có đủ
sức mạnh để thắp sáng lên những ngọn nến khác đốt cháy những tín
hiệu không vui ấy để chúng ta được sống và sống hạnh phúc.
Đaminh PHAN VĂN DŨNG,
Biên Hòa, một ngày cuối năm 2008
[1] Xin xem
theo địa chỉ sau đây:
http://www.vietcatholic.org/News800/ReadArticle.aspx?ID=62708. |
VỀ MỤC LỤC |
|
“CÁI THUỞ BAN ĐẦU
LƯU LUYẾN ẤY...”
|
Tôi là một sinh viên theo đạo Phật, có pháp danh hẳn hoi, từ Củ
Chi lên thành phố trọ học. Hôm ấy được nghỉ học, má nuôi dẫn tôi
đến tham dự buổi cầu nguyện Lòng Thương Xót Chúa ở nhà thờ Chí
Hoà. Vì không có đạo cho nên đối với tôi việc này thực sự không
mấy hứng thú. Nhưng tôi rất quí mến và thích cách sống của gia
đình má nuôi, nên đi thử cho má vui lòng, và cũng để coi có học
hỏi được điều gì mới lạ ở đây không. Buổi cầu nguyện hôm đó làm
tôi cảm thấy thích thú. Nói thích vậy thôi chứ tôi cũng không
mấy phấn khởi. Hôm đó tôi thích vì nghe ông cha ở đó giảng hay,
dí dỏm và thực tế, không làm tôi buồn ngủ, nhưng kêu tôi thứ năm
tuần nào cũng đi lễ như má tôi thì chắc không bao giờ. Đơn giản
vì có phải đạo tôi đâu mà tôi đi.
Thế rồi một biến cố xảy đến làm tôi cảm thấy chán nản mọi thứ.
Tôi chán học và chỉ muốn đi đến một nơi nào đó để được thư giãn.
Nhưng tiền đâu mà đi và đi thế nào? Trong lúc hoang mang như
thế, buồn buồn tôi đọc cuốn tập san “Nhờ Mẹ đến với Chúa” kể về
những chuyến công tác bác ái xã hội đến những tỉnh thành xa xôi
của cộng đoàn Lòng Thương Xót Chúa Chí Hoà. Tôi thấy thích thú
lắm, và nghĩ rằng nếu tham gia vào Đội Quân Áo Xanh tôi sẽ được
đi “du lịch miễn phí”! Tôi nhờ các bạn cùng phòng xin cho tôi
tham gia nhóm phục vụ, nhưng vì tôi không có đạo nên không ai
dám xin. Nỗi buồn của tôi như tăng lên gấp bội. Không tìm ra
cách giải quyết vấn đề của mình, tôi thấy mọi thứ bế tắc, tối
tăm và tuyệt vọng.
Thứ năm hàng tuần má tôi vẫn đi lễ ở Chí Hoà đều đặn. Thế là tôi
quyết định nghỉ học và đi lễ với má cho bớt căng thẳng. Nhưng
lần này có một điều gì đó thôi thúc tôi. Tôi cảm thấy rất muốn
tham gia vào Đội Quân Áo Xanh. Tôi ý thức mình tham gia không
phải để “đi du lịch miễn phí” nữa, nhưng là muốn được gặp gỡ,
chia sẻ, và hiểu hơn về những người nghèo khổ. Tôi xin tờ giấy
khấn “Nhờ Mẹ đến với Chúa” rồi viết vào đó nỗi lòng của mình.
Giấy khấn vừa gửi đi thì một chị bạn đến nói: “Sao em không trực
tiếp đến xin cha linh hướng? Nếu em tin tưởng thì Chúa và Đức Mẹ
sẽ giúp em được toại nguyện đó!” Vừa nghe thế tôi thấy lòng phấn
khởi hẳn lên. Tuy nhiên tôi lại bắt đầu hồi hộp và lo lắng vì
không biết sẽ nói gì với cha đây? Không biết cha có nhận lời tôi
không? Đã vậy tôi phải lên trường lúc bốn giờ để cùng các bạn
thuyết trình. Lòng tôi rối như tơ vò. Đúng bốn giờ kém mười lăm,
tôi nhận được tin nhắn không phải lên trường nữa. Tôi vui mừng
vì bớt được một nỗi lo nhưng vẫn hồi hộp lắm. Tôi nắm chặt tay
và thầm cầu nguyện: “Chúa ơi! Đức Mẹ ơi! Con là người ngoại đạo,
nhưng lúc này đây con tin tưởng hoàn toàn nơi Ngài. Xin hãy giúp
con!” Hết lễ tôi vào nhà thờ tìm cha linh hướng. Nhìn mọi người
vây quanh cha mà tôi lo lắng và sợ hãi quá. Tôi cố gắng chờ cho
đến khi những người vây quanh cha giãn dần mới dám tiến lại gần.
Thấy tôi đứng ngập ngừng rụt rè, cha lấy tay lau những giọt mồ
hôi trên trán, nhìn tôi khẽ hỏi: “Bé cần gì nào?” Ồ! Lạy Chúa!
Cơ hội của tôi đã đến. Tôi vội vã nói: “Cha ơi! Con là người
ngoại đạo, nhưng con rất muốn gia nhập vào Đội Quân Áo Xanh.
Không biết có được không cha?” Cha nắm lấy tay tôi, nhìn thẳng
vào mắt và trả lời dứt khoát: “Được chứ sao không? Con ra Lều
Phục Vụ ghi tên, số điện thoại, địa chỉ rồi đợi cha.” Eo ôi còn
gì hạnh phúc bằng! Tôi vui mừng như được sinh ra lần nữa. Tôi
chỉ kịp đáp lại cha một tiếng “dạ” rồi chạy ra khoe với mọi
người. Tôi vui mừng quá. Tạ ơn Chúa! Cảm ơn Đức Mẹ!
Cha nhận lời cho tôi gia nhập, tuy nhiên khi biết tôi không có
đạo thì có vài người bàn tán, xầm xì … Ngay cả hai người bạn dắt
tôi đi cũng không thấy đâu nữa. Tôi như con chim non lạc mẹ. Tôi
buồn muốn khóc, nhưng cố nén lại. Một lần nữa tôi lại xin Chúa
và Đức Mẹ: “Chúa ơi! Đức Mẹ ơi! Chúa và Đức Mẹ đã soi sáng cho
cha Long nhận lời con, con tin Chúa và Đức Mẹ sẽ không bỏ rơi
con đâu. Đúng không ạ? Xin hãy cho con lòng can đảm để vượt qua
những khó khăn phía trước.”
Hôm ấy tôi cảm thấy rất vui vì đã nghiệm thấy sự nhiệm mầu của
lời cầu nguyện. Tôi kể cho người bạn trai của tôi và hi vọng
nhận được sự chia sẻ của anh nhưng không ngờ anh nói muốn chia
tay. Trái tim tôi như vỡ nát từng mảnh. Tôi không hiểu chuyện gì
đã xảy ra. Tôi oán trách Chúa. Tại sao Ngài vừa cho tôi thấy
được sự mầu nhiệm của lời cầu nguyện nhưng giờ lại bỏ tôi. Lúc
đó tôi nghĩ tới cha Long. Nhắn tin tâm sự với cha và nhận được
những lời khuyên và cầu nguyện, tôi vơi bớt nỗi buồn. Tôi chợt
nghĩ có lẽ Chúa muốn thử thách tôi, và qua chuyện này Chúa muốn
dạy tôi điều gì đó.
Ngày thứ năm đầu tiên tôi được khoác lên mình chiếc áo xanh. Tôi
vui lắm vì Chúa đã cất gánh nặng cho tôi. Thay cho sự dò xét và
những lời bàn tán là ánh mắt trìu mến và những nụ cười thân
thiện của tất cả mọi người trong nhóm phục vụ. Tôi thật sự rất
vui và nhanh chóng hòa nhập. Đến với Đội Quân Áo Xanh, tôi tìm
lại được con người thật của chính mình, vui vẻ và hoạt bát.
Thiên Chúa đã giúp tôi được sống thật với chính con người mình,
vì thế tôi nguyện đem sức lực mình để giúp đỡ những con người
đang cần tôi, bất kể họ là ai.
Chính vì tâm nguyện như thế trong ngày đầu tiên gia nhập Đội
Quân Áo Xanh mà tôi đã đem tất cả tấm lòng đến với những con
người nghèo khó trong chuyến công tác ở Hòn Đất – Kiên Giang vừa
qua. Nhìn thấy niềm vui khi họ nhận được những món quà do cộng
đoàn Lòng Thương Xót Chúa trao gởi, tôi hiểu rằng tôi đã chọn
đúng đường. Tình yêu cần có sự bao dung. Tôi thầm cảm ơn người
bạn trai của tôi, vì nếu anh không chia tay tôi thì tôi sẽ không
biết mở rộng tấm lòng mà yêu thương tất cả mọi người như thế.
Tôi sẽ chỉ đóng khung trái tim mình lại trong hai người mà thôi!
Chuyến công tác bác ái qua đi nhưng đã để lại trong tôi nhiều
bài học quý giá. Tôi thấy mình quá nhỏ bé trước tình yêu của
Thiên Chúa và anh chị em trong đoàn công tác, vì thế tôi sẽ phải
cố gắng và cố gắng nhiều hơn nữa để tập yêu thương và phục vụ.
Nếu có khi nào chùn bước hay ngã quỵ trên đường đời thì tôi sẽ
nghĩ đến những con người đang cần tôi kia mà đứng lên. Tôi sẽ
tập yêu thương mọi người như Chúa yêu, dù cho họ có ghét bỏ tôi
đi chăng nữa. Tôi sẽ tập luôn nhìn vào điều tốt của tha nhân để
mến phục họ, và nếu có thấy được những điều chưa tốt thì sẽ tập
cảm thương họ, thay vì chê trách phê bình chỉ trích… vì tôi đã
gặp Chúa trong phút ban đầu gia nhập Đội Quân Áo Xanh, và tôi
nhận ra chính Chúa đã sống và đã dạy tôi như thế.
Ôi “cái thuở ban đầu lưu luyến ấy! Ngàn năm hồ dễ mấy ai
quên?...”
Cảm nghiệm của một người ngoại đạo
Thuỳ Dung
|
VỀ MỤC LỤC |
|
LÁ THƯ CỦA TỔNG THỐNG LINCOLN - GỞI THẦY GIÁO DẠY CON TRAI ÔNG
|
Con tôi sẽ phải học
tất cả những điều này, rằng không phải tất cả mọi người đều công
bằng, tất cả mọi người đều chân thật. Nhưng xin thầy hãy dạy cho
cháu biết cứ mỗi kẻ vô lại ta gặp trên đường phố thì ở đâu đó sẽ
có một người chính trực, cứ mỗi một chính trị gia ích kỷ, ta sẽ
gặp một nhà lãnh đạo tận tâm.
Bài học này sẽ mất
nhiều thời gian tôi biết, nhưng xin thầy hãy dạy cho cháu biết
rằng mỗi một đồng đô la kiếm được do công sức lao động của mình
bỏ ra còn quý giá hơn nhiều so với 5 đô la nhặt được trên hè
phố.
Xin hãy dạy cho cháu
biết cách chấp nhận thất bại và cách tận hưởng niềm vui chiến
thắng. Xin hãy dạy cho cháu tránh xa sự đố kị. Xin hãy dạy cho
cháu biết được bí quyết của niềm vui chiến thắng thầm lặng. Dạy
cho cháu biết được rằng những kẻ hay bắt nạt người khác nhất lại
là những kẻ dễ đánh bại nhất.
Xin hãy giúp cháu
nhìn thấy thế giới kỳ diệu của sách, nhưng cũng hãy cho cháu có
đủ thời gian để lặng lẽ suy tư về sự bí ẩn muôn thuở của cuộc
sống: đàn chim tung cánh trên bầu trời, đàn ong bay lượn trong
ánh nắng và những bông hoa nở ngát bên đồi xanh.
Ở trường xin thầy
hãy dạy cho cháu biết chấp nhận thi trượt còn vinh dự hơn gian
lận trong khi thi. Xin giúp cháu có niềm tin vào ý kiến riêng
của bản thân, dù tất cả mọi người đều cho rằng ý kiến đó hoàn
toàn sai lầm.
Xin hãy dạy cho cháu
biết cách đối xử dịu dàng đối với những người hoà nhã và cứng
rắn đối với những kẻ thô bạo. Xin tạo cho cháu sức mạnh để không
chạy theo đám đông khi tất cả mọi người đều chỉ biết chạy theo
thời thế.
Xin dạy cho cháu
biết phải lắng nghe tất cả mọi người nhưng cũng cần phải sàng
lọc những gì nghe được qua một tấm lưới chân lý để cháu chỉ đón
nhận những gì tốt đẹp.
Xin hãy dạy cho cháu
biết cách mỉm cười khi buồn bã. Xin hãy dạy cho cháu biết rằng
không có sự xấu hổ trong những giọt nước mắt. Xin hãy dạy cho
cháu biết chế giễu những kẻ yếm thế và cẩn thận trước sự ngọt
ngào đầy cạm bẫy.
Xin hãy dạy cho cháu
biết rằng có thể bán cơ bắp và trí tuệ cho người ra giá cao
nhất, nhưng không bao giờ cho phép ai ra giá mua trái tim và tâm
hồn mình.
Xin hãy dạy cho cháu
ngoảnh tai làm ngơ trước một đám đông gào thét và đứng thẳng
người bảo vệ những gì cháu cho là đúng Xin hãy đối xử dịu dàng
với cháu nhưng đừng vuốt ve nuông chiều cháu bởi vì chỉ có sự
thử thách của lửa mới tôi luyện được những thanh sắt cứng rắn.
Xin hãy cho cháu
biết rằng cháu phải luôn có niềm tin tuyệt đối vào bản thân bởi
vì khi đó cháu sẽ có niềm tin tuyệt đối vào nhân loại.
Đây quả là một yêu
cầu quá lớn, thưa thầy, nhưng xin thầy cố gắng hết mình. Nếu
được như vậy thật là điều tuyệt vời đối với con trai tôi.
Abraham
Lincoln
Phần Quảng Diễn và
Thêm Ý
1-
Cuộc đời không phải
chỉ toàn những cái xấu nhưng xấu tốt lẫn lộn, sống ở đời ta phải
chấp nhận nó và cho những kẻ dữ, kẻ xấu biết rằng còn rất nhiều
người tốt đang giữ gìn và phát triển công lý, công đạo. Những
người này được sự kính phục của mọi người dù họ không có quyền
cao chức trọng hay giầu có. Ngược lại kẻ phá bỏ công lý, công
đạo (lẽ phải ở đời) bị khinh khi, đàm tiếu và bị xử theo pháp
luật khi pháp luật nghiêm chỉnh.
2-
Tiền mình kiếm ra
mình tiêu mới đáng hãnh diện. Tiền nhặt được ở ngoài đường, dù
không có tội nhưng không hãnh diện. Tiền do đè nén, hà hiếp hay
xách nhiễu người ta mà có càng là điều nhục nhã. Kẻ không biết
nhục với những hành động đó thì chẳng còn gì để nói nữa.
3-
Biết chấp nhận thất
bại để sau đó tu chí đứng lên làm lại mới được kính phục. Luôn
giữ trên môi một nụ cười dù đời “không thuận thảo” với mình.
Không ganh tị, đố kị nhưng hoà ái, trung dung. Biết tận hưởng
niềm vui chiến thắng thầm lặng, không ồn ào, không khoe khoang.
Những kẻ hay khoe khoang là những kẻ có nhiều nhược điểm nhất.
Chấp nhận thi trượt còn hơn là đậu mà gian lận. Bằng cấp chỉ đo
được kiến thức một cách tương đối. Không có bằng cho đạo đức,
nhân ái, bao dung mà mỗi người cần, lãnh đạo cũng như thường
dân. Những kẻ thất bại mà yếm thế, chán đời là những kẻ hèn yếu,
nhu nhược không đáng được trọng.
4-
Tôn trọng tuyệt đối
Lẽ phải và Sự Thật, những giá trị cao quý nhất của đời sống. Bỏ
Lẽ Phải và Sự Thật, mớ sự việc của nhân sinh chỉ còn lại một
đống phế liệu. Khi đã nắm vững sự thật và công lý, không gì có
thể lay chuyển nổi ta nữa dù ta chỉ có một mình và bên kia là số
đông.
5-
Đi với bụt mặc áo cà
sa, đi với ma mặc áo giấy. Hoà dịu với người tử tế, thẳng thắn
với kẻ hung bạo chỉ biết dùng sức mạnh của võ lực. Biết lắng
nghe mọi người rồi rút ra những điều quý giá mà ta không có
trước khi nghe.
6-
Dùng tay chân và trí
óc để mưu sinh nhưng không bán đạo đức và lương tâm của mình cho
bất cứ thế lực nào muốn lợi dụng mình làm tay sai cho họ trong
những việc bất chính nhất là những việc có phương hại đến những
người đang cùng sống với ta trong xã hội.
7-
Thẳng thắn nói lên
công lí và công đạo dù chỉ có một mình mình một phe. Bậc cha mẹ,
thầy cô xin đừng nuông chiều trẻ em vì tạo cho chúng những tính
xấu: ỷ lại, lười biếng, chính hai tính xấu này giết chúng sau
này.
8-
Thiết lập và xây đắp
niềm tin vào bản thân (tự tin) để làm mọi việc. Người có niềm tự
tin ắt sẽ có tự trọng. Có tự trọng sẽ giữ liêm sỉ, không làm
điều tà khuất. Người không còn liêm sỉ (không biết xấu hổ vì
những điều xấu mình làm) sẽ chẳng còn gì để nói nữa.
9-
Đào tạo con người
cần đến một kỹ thuật cao. Học làm người học suốt đời không
hết.“Dạy con từ thuở lên ba” trẻ thơ được học cái gì nó sẽ thể
hiện ra đời sống sau này khi trưởng thành. Ấu học (cái học khi
còn thơ) là điều tối quan trọng.
10-
Người muốn mở mang
trí tuệ cần phải có sách nhưng không thể là con “mọt sách” mà
phải nhìn xa trông rộng ra thế giới bên ngoài để chiêm nghiệm
nhiều điều khó tìm hoặc không có trong sách vở. Cổ nhân nói:”Tận
tín ư thư bất như vô thư” cũng là điều hữu lý vậy.
Bút Xuân Trần Đình Ngọc
|
VỀ MỤC LỤC |
|
ĐỪNG THƯƠNG HẠI (3)
|
(Ông bố
choàng tay ôm các con và nói với giọng cứng rắn rằng: “Đối diện
với cái chết của mẹ, chúng ta cảm thấy một nỗi đau khổ lớn lao,
nhưng hãy nhớ: chúng ta phải thương mẹ với sự can đảm, không
phải với sự thất vọng. Đó là cách mẹ các con ước muốn, và bố tin
chắc rằng các con có thể làm được điều đó như mẹ ước muốn.”)
Anh Thư 9
tuổi, Mỹ Hoa 7 tuổi, và Anh Tuấn 6 tuổi, sống với dì Mỹ Linh và
2 đứa con gái của bà: Huyền Linh 8 tuổi và Thục Linh 5 tuổi vì
bà mẹ của chúng đang nằm bệnh viện. Ông bố ăn tối với chúng mỗi
tối và rồi đi nhà thương canh mẹ. Thỉnh thoảng dì Mỹ Linh cũng
đi và bấy giờ ông dượng Anh Minh cố gắng làm cho chúng vui với
những câu chuyện hoặc trò chơi. Dì Mỹ Linh cảm thấy mình kiệt
sức và xuống tinh thần, một phần vì bỗng nhiên phải chăm sóc
thêm ba đứa trẻ, và một phần vì sự quan tâm đối với người em rất
thân thiện với bà. Những người lớn đều biết rằng bà mẹ của Anh
Thư đang ở trong tình trạng cực kỳ nguy hiểm vì bệnh ung thư. Họ
không muốn cho con trẻ biết về bệnh tình của người mẹ. Cách đây
một năm rưỡi, bà mẹ cũng ở nhà thương và trở về với chúng. Bất
cứ lúc nào chúng nó hỏi “khi nào mẹ về”, chúng đều được nói
rằng”sắp về”. Chúng cảm được có một sự ẩn dấu đằng sau những cái
nhìn lo lắng và những cuộc nói chuyện nho nhỏ giữa bà dì và ông
bố của chúng. Không thể hiểu được, nhưng chúng cũng cảm thấy khó
chịu nên trở thành biến chứng, sinh ra càu nhàu, bực bội, và
cứng đầu. Anh Thư mất sự lo lắng của bà mẹ hơn những đứa khác và
nhận ra được tình trạng đó hơn. Vì Anh Thư là cô bé lớn nhất nên
dì Mỹ Linh yêu cầu nó chăm sóc cho những đứa nhỏ hơn và cho nó
ấn tượng có bổn phận của một người lớn nhất. Cô bé Anh Thư sẵn
sàng gánh vác nhiều trách nhiệm nhưng lại phát triển một thái độ
của kẻ trên nên bọn trẻ không thích. Điều đó thêm vào sự phức
tạp mà chúng đang sống.
Rồi bà mẹ
chết, và nỗi đau khổ của người lớn không thể dấu được nữa. Các
trẻ phải được thông báo. Ông bố yêu cầu để cho ông yên với ba
đứa trẻ trong một thời gian, và dì Mỹ Linh sẽ nói với hai trẻ
của bà. Dì Mỹ Linh đau khổ đến tột độ. Ông bố gọi ba đứa trẻ lại
và nói: “Các con cưng của bố, bố có điều rất nghiêm chỉnh muốn
nói với các con.” Cả ba trẻ đã cảm được cái gì không may, đã ý
thức được về bầu không khí đã thay đổi trong nhà; “Có phải có gì
không tốt đẹp xảy ra cho mẹ phải không?” cô bé lớn Anh Thư hỏi.
“Mẹ các con đã về trời hôm nay để ở với Thiên Chúa. Mẹ các con
rất hạnh phúc ở đó. Chúng ta cần phải can đảm bây giờ và phải lo
cho nhau.” Phải mất mấy giây để điều ông bố nói được cảm nghiệm.
Bị khủng hoảng, cô bé lớn khóc: “Tại sao mẹ bỏ chúng ta, bố? Tại
sao mẹ phải về trời bây giờ? Chúng ta cần có mẹ!” “Chúng ta
không thể làm gì được về điều đó con ơi! Thiên Chúa gọi mẹ của
chúng con về với Ngài và chúng ta không thể hỏi điều Ngài làm.”
Bé Mỹ Hoa hỏi: “Ba muốn nói là mẹ không còn về nhà nữa?” Ông bố
nhè nhẹ trả lời: “Đúng đó con!” “Nhưng con muốn mẹ!” cô bé út
vừa nói vừa khóc. Ông bố an ủi chúng và biết rằng sự đau khổ của
chúng cũng cần được bày tỏ. Khi các trẻ yên tĩnh, ông bố nói:
“Không có mẹ rất khó khăn. Chúng ta cần có một thời gian để làm
quen. Chúng ta cần phải cùng nhau làm việc và giúp nhau. Chúng
ta sẽ làm một chương trình sớm hết sức như cái gì cần phải làm
kế tiếp. Vào lúc đó, Dì Mỹ Linh và hai đứa trẻ của bà vào phòng.
Hai đứa trẻ của bà khóc vì những người chung quanh hơn là vì
chúng trực tiếp liên quan đến thảm kịch. Dì Mỹ Linh ôm tất cả
các bé vào vòng tay, ấp úng giữa những giọt nước mắt: “Những con
cừu non tội nghiệp. Những con cừu non không mẹ tội nghiệp!” Ông
bố lắc đầu nhìn Dì Mỹ Linh, nhưng Dì Mỹ Linh không hiểu. Các trẻ
lại bộc khóc đau khổ, không mấy chốc lên đến tột đỉnh. Ông bố ra
hiệu cho ông dượng yêu cầu đưa các con gái ông đi vào phòng một
lúc. Ba đứa trẻ cũng ra khỏi vòng tay của bà dì và trở lại bên
ông bố. Ông chồng sau cùng khuyên bà vợ Mỹ Linh nằm xuống nghỉ
một chút. Bấy giờ ông bố choàng tay ôm các con, nói với giọng
cứng rắn rằng: “Bây giờ, các con, chúng ta cảm thấy sự đau khổ
nầy. Hãy nhớ: chúng ta phải nhớ mẹ với sự can đảm, không phải
với sự thất vọng. Đó là cách mẹ các con ước muốn và bố tin chắc
rằng các con có thể làm được điều đó như mẹ ước muốn. Nào, hãy
quay quần bên nhau.” Ông im lặng chờ đợi các con thích ứng. Khi
chúng đã trở nên sẵn sàng, ông nói tiếp: “Đến giờ cơm tối rồi.
Dì Mỹ Linh cần chúng ta giúp đỡ. Tất cả chúng ta chú ý đến bữa
ăn tối trên bàn.” “Bố, con không thể ăn bây giờ” cô bé lớn ấp
úng giữa những giọt lệ. “Con ơi, con cần phải sống. Nếu con
không ăn tối nay có thể được, nhưng vì bữa cơm tối đã sẵn, con
sẽ tìm thấy cái con có thể ăn được.” Và với những lời khích lệ,
ông bố đã thuyết phục được tất cả các con và đề nghị một công
việc cho mỗi đứa.
Con trẻ bị
xuống tinh thần bỡi sự thương hại mà dì Mỹ Linh đã biểu lộ. Ông
bố tỏ ra can đảm và sự nhạy cảm cần thiết trong hoàn cảnh đó, và
với một chương trình hướng về điều sẽ làm kế tiếp, ông đã đưa
những đứa con mình sớm đi vào con đường hồi phục.
Rất nhiều
thảm kịch như thế xảy ra trong cuộc sống chúng ta. Là những
người lớn, chúng ta được mong đợi chấp nhận và làm cái gì tốt
nhất đối với hoàn cảnh. Khuynh hướng tự nhiên của chúng ta là
cảm thấy thương hại cho các đứa trẻ vô tội trong tình trạng bi
đát. Tuy nhiên, sự thương hại của chúng ta chỉ mang lại những
hậu quả tai hại hơn là thảm cảnh nữa. Nếu người lớn cảm thấy
thương hại cho một đứa trẻ, đứa trẻ càng cảm thấy chính đáng
trong việc thương hại chính mình. Nó có thể dễ dàng tiêu phí
suốt cuộc đời, thương hại cho chính nó, và rồi không thể nhận
lấy trách nhiệm để ứng phó với những bổn phận của cuộc đời và
tìm một cách vô ích một ai đó để bổ túc cho sự mất mát mà đời
dành cho nó. Thật khó cho nó để trở thành một thành phần sản
xuất của xã hội vì sự chú ý của nó hoàn toàn tập trung vào chính
nó và vào cái nó nên có như một quyền lợi chính đáng.
Một trong
những tình trạng nguy khốn nghiêm túc nhất cho một đứa trẻ là
mất một bố mẹ. Thời gian tái lập theo sau sự mất mát đó có thể
nhuộm mầu tang thương suốt cả cuộc đời đứa trẻ. Nếu là bà mẹ
chết thì càng khó khăn hơn nữa. Những đứa trẻ như thế cần sự
nâng đỡ về tình cảm có thể từ mọi người chung quanh chúng. Điều
cuối cùng chúng cần đó là sự thương hại. Sự thương hại là cảm
xúc tiêu cực – nó làm cho cá nhân con người cảm thấy mình nhỏ
bé, không quan trọng, làm mất đi sự tự tin, và tiêu diệt niềm
tin vào cuộc đời. Sự chết là một phần của sự sống. Nó phải được
chấp nhận. Không có sự chết, không thể có được cuộc đời. Dĩ
nhiên, chúng ta không muốn nhìn thấy những đứa trẻ bị tổn thương
bỡi cái chết của một bố mẹ. Nhưng sự đau buồn của chúng ta không
thể khôi phục sự sống cho người chết. Trong khi sự chết xảy ra,
sự sống vẫn tiếp tục. Con trẻ cần ý thức về bổn phận của mình để
tiếp tục xây đắp cuộc đời của chúng một cách can đảm ngay cả
dưới những điều kiện cực kỳ khó khăn. Sự thương hại trong những
lúc như thế chỉ làm kiệt quệ sự can đảm mà chúng cần có trong
những lúc đó.
Chúng ta
không thể bảo vệ con trẻ chúng ta xa cách cuộc đời. Sức mạnh và
sự can đảm mà nhờ đó chúng ta thõa đáp cuộc sống trong thời kỳ
trưởng thành, được xây dựng trong thời thơ ấu. Điều đó có nghĩa
là chúng ta học cách chấp nhận nó trong bước đường dài của chúng
ta và làm sao để tiếp tục đi. Nếu chúng ta muốn hướng dẫn con
trẻ chúng ta đi vào trong sự chấp nhận cuộc đời cách can đảm đó,
nếu chúng ta muốn dạy cho chúng sự hài lòng đến từ sự khắc phục
những bất trắc, và khích lệ khả năng chúng làm điều phải được
làm kế tiếp, chúng ta phải can đảm, không nhường bước cho sự
thương hại. Chúng ta phải chú trọng đến sự thương tâm mà chúng
ta thường học hỏi từ những nền văn hóa, tránh hành động theo
phản ứng tự nhiên, và hãy tỏ sự thiện cảm và cảm thông bằng cách
nâng đỡ các trẻ ứng phó với vấn đề đau khổ cũng như trong việc
tìm cho chúng một lối đi về phía trước. Điều đó có nghĩa là
chúng ta không bỏ rơi con trẻ cho cơn khủng hoảng. Trái lại,
chúng ta cùng nhau đến để nâng đỡ chúng như chúng ta nâng đỡ một
người lớn trong cơn khốn cùng của họ.
Có thể nói:
hoặc lúc nầy hay lúc khác nhiều người trong chúng ta đã chạm
trán với một số người lớn tỏ ra không thích sự thương hại, những
người không muốn gặp những ai tỏ sự thương hại như một hình thức
của thiện cảm. Trong những trường hợp như thế, chúng ta phải cẩn
thận diễn tả cảm tình muốn cảm thông với sự tin tuởng vào khả
năng của họ trong việc ứng phó những hoàn cảnh khó khăn mà họ
đang gặp phải. Và chúng ta cũng phải làm như thế đối với các con
trẻ của chúng ta. Sự kính trọng đối với con trẻ đòi hỏi chúng ta
phải nâng cao ý thức về trách nhiệm, về phẩm giá, không được làm
hạ giá bằng cách kích thích sự tự ái của chúng. Trong cơn khủng
hoảng, trẻ con nhìn đến người lớn để tìm một dấu chỉ như phải
ứng phó cách nào với tình cảnh không quen thuộc đó. Chúng cảm
được thái độ chúng ta và dùng nó như một hướng dẫn.
Thật không
khó để phân biệt giữa thương hại và thương tâm. Thương tâm ám
chỉ: tôi hiểu cảm giác anh có, nó làm anh đau nhiều, cái khó
khăn anh đang phải chịu. Tôi đau lòng về chuyện đó và tôi sẽ
giúp anh thắng vượt những khó khăn đó. Còn thương hại ám chỉ một
thái độ của kẻ trên, thái độ của một chủ nhân ông đối với người
được thương hại. Anh là một cái gì đáng thương hại, tôi cảm thấy
thương hại cho anh. Tôi sẽ làm tất cả điều tôi có thể làm để bù
đắp vào cái mà anh thiệt thòi. Cảm giác đau buồn về điều xảy ra
là thương tâm. Còn cảm giác đau buồn cho anh là người mà điều đó
xảy ra là thương hại. Chúng ta có khuynh hướng nghi ngờ khả năng
của tất cả những con người mà chúng ta xem là nhỏ và yếu, và như
một kết quả, chúng ta làm suy giảm sự đầy sinh lực mà chúng có
thể phát huy nếu sự thương hại của chúng ta không làm chúng co
rút vào sự thụ động để rồi chỉ còn biết phàn nàn và đòi hỏi.
Lm. Lê văn Quảng,
tiến sĩ tâm lý.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
NhỮng ngưỜi đưỢc tuyỂn chỌn đáp lẠi |
Tác Phẩm
CHÚA VẪN THƯƠNG
Lm. MICAE-PHAOLÔ TRẦN MINH HUY pss
Phần hai
BẠn cỘng tác vào
Chương trình CỨu ĐỘ cỦa Thiên Chúa
6.
NhỮng ngưỜi đưỢc tuyỂn chỌn đáp lẠi
Những gì Chúa chờ
đợi nơi người Chúa tuyển chọn
Chớ gì các linh mục, tu sĩ
không tìm hiệu quả ở ngoài Chúa. Chúa ban cho bạn ơn đặc biệt khích
lệ họ tìm được trong tương quan thân mật với Chúa, bí quyết một đời
dâng hiến hạnh phúc. Bạn hãy năng dâng họ cho Chúa. Bạn hãy kết hợp
với lời cầu nguyện của Chúa cho họ. Sức sống của Nước Chúa nơi trần
gian tùy thuộc phần lớn ở họ.
Thế gian qua đi mà không
chịu để tâm nghe Chúa, chính vì vậy mà nhiều cuộc đời bị chao đảo,
hoang phí, nhưng đau khổ hơn cho Thánh Tâm Chúa là chính những người
hiến dâng, vì thiếu Đức Tin và tình yêu, đã không nghe Chúa. Tiếng
nói của Chúa mất đi trong sa mạc. Bao nhiêu cuộc đời linh mục, tu sĩ
đã không sinh hoa kết quả như thế!
Bao nhiêu người bực tức
chua cay, chán nản vì không chịu đứng trong chương trình cứu độ!
Chúa luôn sẵn sàng thanh tẩy họ và đặt họ vào lại vị trí, nếu họ
muốn mềm mỏng với hoạt động của Chúa Thánh Thần. Bạn hãy lấy tình
huynh đệ dâng họ cho Chúa, cho ánh sáng tình yêu của Chúa.
Bạn hãy nghĩ đến các linh
mục, tu sĩ trẻ, tràn đầy nhiệt huyết tông đồ, tưởng họ có thể canh
tân Giáo Hội mà không bắt đầu canh tân chính bản thân họ.
Bạn hãy nghĩ đến những
người trí thức, rất hữu ích và rất cần thiết, với điều kiện là họ
khiêm tốn theo đuổi những nghiên cứu, tìm tòi để phục vụ mà không
khinh miệt ai.
Bạn hãy nghĩ đến những
linh mục và tu sĩ đứng tuổi, nghĩ rằng họ có mọi phương tiện của họ
và dễ dàng có khuynh hướng vượt qua Chúa.
Bạn hãy nghĩ đến những anh
chị em đồng nghiệp già nua gặp phải sự thiếu thông cảm của các anh
chị em trẻ, tự cảm thấy mình bị vượt qua và thường đứng ngoài cuộc.
Thực ra họ đang đi vào giai đoạn phong phú của cuộc đời họ, lúc mà
sự tước bỏ được thực hiện và thánh hóa họ, nếu họ biết đón nhận với
tình yêu.
Bạn hãy nghĩ đến những anh
chị em đang dọn mình chết. Bạn hãy cầu xin cho họ lòng cậy trông và
phó thác cho lòng nhân hậu của Chúa. Tội lỗi, lầm lỡ, sai trái của
họ từ lâu đã được tẩy xóa. Chúa chỉ nhớ lòng hăng say dâng hiến ban
đầu, những cố gắng, những vất vả, những mệt nhọc họ đã chấp nhận cho
Chúa.
Chúa cần những lịnh mục và
tu sĩ mà đời sống là sự diễn tả cụ thể lời cầu nguyện, chúc tụng,
khiêm tốn, bác ái của Chúa. Chúa cần những linh mục và tu sĩ ngày
qua ngày luôn bận tâm họa lại gương mặt của Chúa nơi những ai được
ủy thác cho họ, một cách tế nhị và hết sức kính trọng tha nhân. Chúa
cần những linh mục và tu sĩ phó mình trước hết cho những thực tại
siêu nhiên, hầu đem chuyển sức sống cho cả cuộc đời thực tế của con
người hôm nay. Chúa cần những linh mục và tu sĩ “hành nghề thiêng
liêng”, chứ không phải là những công chức hay những kẻ tự cao tự
đại. Những linh mục và tu sĩ hiền lành nhẫn nại, có tinh thần phục
vụ, không bao giờ lẫn lộn quyền bính với cường quyền. Tóm lại là
những linh mục và tu sĩ biết yêu thương, chỉ tìm một việc, chỉ có
một mục đích là Thiên Chúa Tình Yêu được yêu mến hơn lên.
Vấn đề Phúc âm hóa thế
giới là vấn đề Đức Tin trong một tình yêu. Tất cả vấn đề là ở đó:
làm cho tình yêu lớn lên trong trái tim con người hiện nay trên mặt
đất. Thanh tẩy con người khỏi cái thú tính tấn công, luôn lấy mình
là trọng tâm và làm cho con người nên đạo đức tiến tới tham dự vào
bản tính thần linh. Con người cần tự do chọn lựa tình yêu hơn hận
thù, bạo lực, ý muốn quyền lực và bản năng thống trị.
Tình yêu được thanh tẩy
nhờ sự thanh thoát tiền bạc và từ bỏ chính mình. Nó phát triển đến
độ con người nghĩ đến tha nhân trước khi nghĩ đến mình, khiêm tốn
chia sớt những lo âu, những nhọc nhằn, những khổ đau và ngay cả niềm
vui của tha nhân. Đồng thời con người cũng ý thức mình cần đến người
khác, chấp nhận đón nhận cũng như cho đi. Một linh mục hay một tu sĩ
không có tình yêu là một thân xác không có linh hồn.
Phải nói cho mọi người,
nhất là các linh mục và tu sĩ biết rằng sự phong phú thiêng liêng lệ
thuộc vào sự sẵn sàng của các tâm hồn cho tác động của Chúa Thánh
Linh, cái quan trọng đối với Chúa không phải là đọc nhiều, nói
nhiều, làm nhiều mà chính là để Chúa hành động qua bạn.
Bạn hãy xác tín rằng nếu
Chúa có được một chỗ như Chúa ao ước trong đời sống, trong con tim,
trong lời cầu nguyện của linh mục và tu sĩ, thì linh mục và tu sĩ sẽ
tìm được quân bình, triển nở và sung mãn với thiên chức làm cha, làm
mẹ thiêng liêng của mình. Cao cả và đáng sợ thay tâm hồn linh hồn
linh mục và tu sĩ! Họ có thể tiếp nối Chúa và lôi kéo người ta đến
cùng Chúa, nhưng than ôi, họ cũng có thể làm người ta thất vọng và
tránh xa Chúa, đôi khi còn muốn lôi cuốn và giữ người ta lại cho
mình!
Bạn hãy nhớ đến những linh
mục và tu sĩ sa ngã, mà có nhiều người biện minh: vì thiếu đào tạo,
thiếu khổ chế, thiếu sự nâng đỡ huynh đệ và phụ tử, dùng sai khả
năng, do đó chán nản, ngã lòng, cám dỗ và tiếp theo… Họ không mấy
hạnh phúc và lắm lần cảm thấy nhớ nhung thần thánh! Bạn không tin
rằng trong Thánh Tâm Chúa có nhiều sức mạnh tha thứ hơn họ có sức
phạm tội sao? Bạn hãy lấy tình huynh đệ mang họ trong tư tưởng và
lời cầu nguyện của bạn. Cũng qua họ nữa mà Chúa muốn thi thố ơn cứu
độ cho thế gian. Bạn hãy nhìn thấy Chúa trong mỗi người, đôi khi dẫy
chết, biến dạng… Bạn hãy thờ lạy Chúa ở trong họ, và bạn sẽ
làm sống lại cuộc Phục sinh của Chúa trong tất cả.
Một loại linh mục và tu sĩ
làm Chúa buồn thực sự, đó là những linh mục và tu sĩ trở nên kiêu
ngạo và cứng cỏi. Ý muốn khẳng định quyền lực và cái tôi dần dần làm
trống vắng khỏi tâm hồn họ lòng bác ái sâu xa, lẻ đáng phải điều
khiển mọi thái độ và công việc của họ. Cái ác một linh mục và tu sĩ
kiêu ngạo cứng cỏi làm càng tác hại! Cái thiện một linh mục và tu sĩ
hiền lành làm càng sinh ích! Bạn hãy sửa chữa cho những người đầu và
nâng đỡ những người sau. Chúa tha thứ nhiều sự cho linh mục và tu sĩ
hiền lành. Chúa rút lui khỏi linh mục và tu sĩ kiêu ngạo cứng cỏi,
vì Chúa không có chỗ trong đó, Chúa bị chết ngộp.
Bạn hãy năng dâng cho Chúa
những đau khổ của anh chị em linh mục và tu sĩ của bạn: Đau khổ
trong tâm trí, đau khổ trong thân xác, đau khổ trong con tim. Bạn
hãy nối kết những đau khổ đó với những đau khổ của Chúa trong cuộc
Khổ Nạn và trên Thập Giá để họ kín múc được giá trị đem lại bình an
và đồng công cứu thế.
Bạn hãy xin với Mẹ giúp
bạn trong sứ mệnh này và đặc biệt nhớ đến sứ mệnh ấy trong mỗi thánh
lễ bạn dâng, kết hợp với Mẹ và trong sự hiện diện từ mẫu của Mẹ. Bạn
đừng quên rằng việc cứu chuộc trước hết là một công trình của tình
yêu hơn là một công trình của tổ chức. Ôi chớ gì tất cả các anh chị
em linh mục và tu sĩ của bạn biết được Chúa yêu thương họ là dường
nào, và nếu không có Chúa thì họ chẳng có thể làm gì được, tuy nhiên
Chúa vẫn cần ngang qua họ như Thánh Tâm Chúa ao ước.
Chúa hiện diện trong mỗi
một trinh nữ hiến dâng cho Chúa tuổi xuân và đời sống họ trong các
Xứ Truyền Giáo, để phục vụ Giáo Hội Chúa. Chúa luôn có mặt là bác ái
của trái tim họ, là nghị lực của ý chí họ, là ánh sáng của trí khôn
họ. Chúa hiện diện đó, là ánh sáng của cuộc đời họ, là chứng nhân
của những cố gắng, những hy sinh của họ, ngang qua họ mà đến với các
linh hồn họ tiếp cận.
Bạn hãy dâng cho Chúa
những của lễ sống động mà Chúa đang ẩn mình đây, nhưng Chúa đang làm
việc, đang cầu nguyện, đang ước ao trong họ. Bạn hãy nghĩ đến muôn
ngàn phụ nữ dâng hiến cho Chúa và đã lãnh nhận sứ mệnh không thể
thay thế được là tiếp tục hoạt động của Mẹ trong Giáo Hội, miễn là
họ để thấm nhập Chúa trong chiêm niệm. Cái ngày nay Giáo Hội đang
thiếu không phải là sự tận tụy, những sáng kiến, những công cuộc này
khác, mà chính là tỷ lệ đời sống chiêm niệm đích thực.
Lý tưởng là một tâm hồn
hiến dâng vừa hiểu biết nhiều khoa học vừa có nhiều tình yêu và
nhiều khiêm tốn. Nhưng tốt hơn có ít khoa học với nhiều tình yêu và
khiêm tốn, hơn là có nhiều khoa học với ít tình yêu và khiêm tốn.
Bạn hãy năng xin Chúa làm
nổi lên, ngay cả giữa trần thế, những tâm hồn chiêm niệm có tinh
thần phổ quát lo việc cầu nguyện và đền tội cho bao nhiêu người ngày
nay đang đóng kín lòng trước lời mời gọi của ơn thánh Chúa. Bạn hãy
nhớ thánh Têrêxa Avila đã góp phần vào ơn cứu rỗi của nhiều linh
hồn, cũng như thánh Phanxicô Xavie và Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu
xứng đáng là Bổn Mạng Các Xứ Truyền Giáo.
Bạn hãy chia sẻ những ưu
tư cho Giáo Hội của Chúa, đặc biệt cho các linh mục của Chúa. Họ là
“những người yêu dấu” của Chúa, ngay cả những người vì bão tố mà bỏ
Chúa một thời gian. Chúa rất thương xót họ và những linh hồn đã được
ủy thác cho họ. Lòng nhân hậu của Chúa đối với họ vô tận, nếu nhờ
những lời cầu nguyện và các hy sinh của các anh chị em của họ mà họ
đến gieo mình vào vòng tay Chúa. Việc truyền chức đã ghi cho họ một
dấu không thể xóa đi được, ngay cả khi không thể chu toàn chức linh
mục thừa tác, thì đời sống của họ nối kết với hiến tế cứu độ của
Chúa là một của lễ tình yêu mà Chúa sẽ dùng đến.
Bạn hãy tận dụng thời gian
Chúa còn để bạn tại thế để tha thiết cầu xin cho con số các linh hồn
chiêm niệm được gia tăng. Chính họ sẽ cứu thế giới và đem lại cho
Giáo Hội sự đổi mới thiêng liêng mà Giáo Hội đang cần.
Trong lúc này, nhiều nhà
thần học giả danh đang tung ra những suy nghĩ của mình tưởng rằng
thanh tẩy Đức Tin thì lại càng làm thêm hoang mang. Chỉ những ai gặp
gỡ Chúa trong thinh lặng cầu nguyện, trong khiêm tốn đọc Thánh Kinh,
trong kết hợp sâu xa với Chúa có đủ khả năng nói về Chúa, vì lúc đó
chính Chúa gợi lên trong tư tưởng của họ và nói qua môi miệng của
họ.
Thế giới đi trệch đường.
Ngay cả Giáo Hội cũng bị chia rẽ, nhiệm thể Chúa đau khổ. Satan được
cởi trói. Như sau mỗi Công Đồng trong lịch sử Giáo Hội, nó gieo rắc
lộn xộn khắp nơi, nó làm mù tối trí khôn, không nhận ra những thực
tại thiêng liêng, nó làm chai cứng trái tim con người trước lời mời
gọi tình yêu của Chúa. Các linh mục và những người hiến dâng phải
phản ứng lại bằng cách dâng mọi khổ đau, mọi hấp hối của nhân loại
nối kết với đau khổ, hấp hối của Chúa “cho trần gian được sống”.
Linh mục không còn thuộc
về mình nữa. Người đã tự do dâng hiến cho Chúa mãi mãi, cả thân xác
cả linh hồn. Vì vậy, linh mục không hoàn toàn giống như những đàn
ông khác. Sống trong thế gian nhưng không còn thuộc về thế gian,
linh mục phải cố gắng đồng nhất với Chúa, trong hiệp nhất tư tưởng
và con tim, trong chia sẻ những lo âu và ước muốn, trong sự thân mật
mỗi ngày một lớn thêm mãi. Bằng cách cư xử của mình, linh mục diễn
tả lòng kính trọng vô biên của Chúa Giêsu đối với Chúa Cha và lòng
bác ái của Ngài đối với con người dù họ thế nào đi nữa. Và linh mục
phải làm mới lại không ngừng việc tự hiến trọn vẹn cho Chúa.
Chúa đang rất cần đến
những tâm hồn dâng hiến. Họ là muối đất, nhưng nếu muối lạt thì còn
dùng được việc chi? Chính qua lòng tốt, khiêm nhượng, dịu dàng, niềm
nở, chiếu tỏa niềm vui của họ mà Chúa muốn tỏ mình ra cho thế gian.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
BỆNH LOÃNG XƯƠNG
|
Ở tuổi “17,
bẻ gẫy sừng trâu”, nếu chẳng may có té ngã thì cũng chỉ bị trầy
da, xước thịt hoặc nặng lắm thì bong gân, trật khớp.
Nhưng tới
tuổi 55-60, khi mà kinh nguyệt quý bà đã từ giã ra đi, thì té
ngã có thể đưa tỡi gẫy chiếc xương hông, xương đùi, xương chậu.
Lý do là ở tuổi này, kích thích tố nữ giảm, kéo theo sự mất
calcium trong xương, xương trở nên mảnh mai, giòn và dễ gẫy.
Xương đã bị loãng hoặc xốp. Đó là bệnh Loãng xương hoặc Xốp
xương.
Sau e ngại bị
Sa Sút Trí Tuệ (Alzheimer), té ngã vì loãng xương rồi nằm liệt
giường liệt chiếu là mối e ngại kế tiếp của tuổi về già.
Đại cương
Tại sao xương
đang đặc, chắc mà đột nhiên lại trở nên rỗng toác, mảnh mai như
cái xơ mướp vậy. Thưa là tại vì lớp “xi măng” calci trong cốt
sắt “ đạm chất protein” bị “rút ruột”.
Về phương
diện cấu trúc, xương là một cái khung do chất đạm tạo thành.
Trên chiếc sườn đó calci bám kín vào. Calci càng nhiều thì xương
càng đặc, chắc.
Khoảng 99%
calci trong cơ thể được dùng để tạo xương và răng. Phần còn lại
lưu hành trong máu và có vai trò trong sự đông máu, co dãn cơ
thịt, chức năng enzym . Khi lượng calci cho các nhu cầu thứ hai
này thiếu thì sinh tố D sẽ lấy calci từ xương để đáp ứng.
Trong suốt
đời người, calci liên tục được đưa tới và lấy đi ở xương.
Vào thời kỳ
thiếu niên, calci tới xương nhiều hơn là rời khỏi xương. Tới
tuổi trung niên thì số lượng đến và đi bằng nhau. Nhưng khi lên
tới tuổi già thì calci rời xương ra đi nhiều hơn là đến với
xương. Có hai nguyên nhân:
- Ở tuổi cao,
sự hấp thụ calci trong thực phẩm của ruột non giảm xuống, do đó
không có nhiều calci để đóng vào xương.
- Estrogen do
noãn sào tiết ra ít đi, mà estrogen giúp calci bám vào xương. Do
đó, nữ giới thường hay bị mỏng, loãng xương hơn nam giới và tỷ
lệ gẫy xương cũng cao hơn.
Thoái hóa
xương là một biến đổi bình thuờng, khởi sự ngay từ tuổi trung
niên và tiếp tục cho tới khi về già. Trong thay đổi này, thành
phần cấu tạo xương không thay đổi, nhưng khối lượng và độ đặc
(bone mass & bone density) của xương thay đổi.
Bệnh loãng
xương xảy ra khi xương thoái hóa nhiều đến mức mà xương không
chịu đựng được các sức ép bình thường, trở nên dễ gẫy.
Bệnh thường
thấy ở xương cổ tay, xương cột sống, xương hông.
Loãng xương
là một bệnh khá trầm trọng, nhưng lại âm thầm diễn tiến với rất
ít dấu hiệu báo trước, khiến cho nhiều người không để ý, tới
khi một xương nào đó gẫy sau một té ngã.
Loãng xương
có thể là tiền phát hoặc thứ phát.
a-
Tiền phát là do hậu quả những thay đổi bình thường của tuổi cao
và sự suy giảm chức năng của tuyến sinh dục. Có khoảng 95% các
trường hợp loãng xương ở trong nhóm này.
b-
Thứ phát, khoảng 5%, gây ra do sự không vận động cơ thể, bệnh
kinh niên, thiếu dinh dưỡng, tác dụng phụ của một số dược phẩm.
Các nguy cơ đưa tới loãng xương
1 -Tuổi
tác.
Loãng xương
tăng với tuổi cao, dù là nam hay nữ giới. Lý do là ở tuổi này,
sự hấp thụ của calci ở ruột giảm và lượng estrogen cần cho calci
bám vào xương cũng ít hơn.
Các nhà
chuyên môn cho hay, 90% trường hợp gẫy xương ở người trên 60
tuổi là do loãng xương
2- Giới
tính.
Nữ giới bị
loãng xương nhiều hơn nam giới gấp bốn lần. Lý do của sự khác
biệt này là vì nữ giới có khối lượng xương nhỏ hơn nam giới; họ
cũng thường ăn thực phẩm có ít calci hơn và ít vận dụng sức lực.
Ngoài ra, tới
tuổi mãn kinh, estrogen nữ giảm do đó calci ít được hấp thụ và
chuyển vào xương.
3- Mầu
da.
Người da
trắng và da vàng thường hay bị loãng xương hơn người da đen, vì
những người này có khối xương đặc hơn với nhiều khoáng calci.
4- Y sử gia
đình
Nếu cha mẹ,
anh chị em đã bị gẫy xương thì thân nhân tăng nguy cơ loãng
xương lên gấp hai lần.
5- Thiếu
estrogen.
Estrogen giúp
hấp thụ calci từ thực phẩm và chuyển vào xương. Estrogen giảm
trong các trường hợp mãn kinh, cắt bỏ buồng trứng hoặc giảm chức
năng tuyến sinh dục nam nữ.
Phụ nữ không
có kinh kỳ trong một thời gian lâu vì bất cứ lý do nào cũng đưa
đến hư hao xương.
Những nữ thể
thao gia vận động nhiều nên kinh nguyệt thường bị gián đoạn. Hậu
quả là sự giảm tế bào mỡ, giảm estrogen, giảm calci và độ đặc
của xương giảm đi khá nhiều.
6- Cho con bú.
Khi còn trong
bụng mẹ cũng như khi mới sinh ra, thai nhi cần rất nhiều calci
để tạo xương và tăng trưởng. Do đó, khi nuôi con bằng sữa mẹ quá
sáu tháng thì sự hao xương ngắn hạn có thể xẩy ra. Người mẹ cần
dùng thêm cho đủ số calci và sinh tố D để phòng bệnh xương.
Sau khi ngưng
cho con bú, tình trạng calci ở người mẹ trở lại bình thường.
7- Dược
phẩm.
Dùng steroid
quá 6 tháng để chữa một bệnh nào đó, như hen suyễn, viêm xương
khớp đều là rủi ro bị loãng xương.
Steroid giảm
sự hấp thụ calci ở ruột, giảm sự tái hấp thụ calci ở thận, tăng
sự rút calci từ xương và làm cho xương trở nên xốp.
Một số dược
phẩm khác như Dilantin, Phenobarbital, Lithium, Phenothiazine,
Tetracycline, Cyclosporin, kích thích tố tuyến cận giáp
(parathyroid gland)...cũng làm tiêu hao calci từ xương hoặc ngăn
cản sự hấp thụ calci ở ruột.
8- Không vận
động
cơ
thể.
Cơ thể ít vận
động đưa tới hao xương, giảm khối xương.
Lý do sự cử
động bắp thịt tạo sức ép lên xương và làm cho xương bền chắc
hơn. Người bệnh nằm liệt giường lâu ngày thì xương rất yếu và dễ
gẫy.
Các phi hành
gia trong không gian trong thời gian lâu cũng có rủi ro hư hao
xương, vì cơ thể chỉ bay bổng mà không vận động
9- Tâm trạng
buồn
Người thường
xuyên buồn rầu, sợ hãi cũng có rủi ro bị loãng xương hơn người
“tâm thân an lạc” tới 6%. Lý do là trong tình trạng stress,
lượng cortisol tăng, gây trở ngại cho sự hấp thụ calci.
10- Hút nhiều
thuốc
lá.
So với người
không hút thuốc lá, người hút có tỷ lệ loãng xương nhiều hơn tới
từ 6-10%. Hậu quả là gẫy cột sống tăng gấp đôi và xương hông
tăng 50%.
Tại Hoa kỳ,
cứ 8 trường hợp gẫy xương ở phụ nữ thì một trường hợp do hút
thuốc lá lâu năm.
Nguyên lý của
tác động này chưa được biết rõ. Thường thường, người hút nhiều
thuốc lá có thân hình mảnh mai, ít vận động. Riêng đối với nữ
giới, thuốc lá có thể đưa tới sớm tắt kinh và ảnh hưởng tới sự
sản xuất estrogen.
11- Nghiện
rượu
Rượu tăng
hormon của tuyến cận giáp parathyroid đưa tới giảm calci dự trữ;
giảm sự sản xuất sinh tố D cần thiết cho hấp thụ calci; giảm
kích thích tố testosterone và estrogen đưa tới kém hấp thụ
calci.
Người say
rượu cũng tăng rủi ro té ngã, gẫy xương.
12- Thiếu
sinh tố
D.
Quan sát
những người sử dụng cùng lượng calcium như nhau, người sống ở
vùng ít có ánh nắng thường bị loãng xương nhiều hơn người sống ở
nơi có nhiều ánh nắng mặt trời. Đó là vì nắng chiếu trên da tạo
ra sinh tố D và sinh tố này góp phần tích cực trong việc hấp thụ
calci và bảo vệ xương.
12- Nhiều
chất
xơ
Thực phẩm
thực vật nhiều chất xơ ngăn cản sự hấp thụ calci.
13- Chất
đạm
Tiêu thụ quá
nhiều chất đạm động vật làm tăng bài tiết calci trong nước tiểu,
trong khi chất đạm thực vật không có tác dụng này.
14- Cà phê
Uống nhiều cà
phê cũng làm hao xương ở người cao tuổi, nhất là khi không uống
thêm sữa có bổ sung calci.
Phòng tránh loãng xương
Mặc dù được
coi như một bệnh khó tránh và có hậu quả nghiêm trọng của tuổi
già, nhưng các nghiên cứu mới đây cho thấy bệnh có thể một phần
nào tránh và chữa được.
Xương cứng
mạnh hay yếu giòn tùy thuộc vào sự dinh dưỡng, sự vận động cơ
thể và lượng kích thích tố estrogen.
Cho nên để
phòng bệnh, ta cần lưu ý duy trì tốt ba yếu tố này.
1- Tiêu thụ
đủ
số
lượng
calci mà cơ
thể
cần
qua thực
phẩm.
Dinh dưỡng
lành mạnh là điều rất quan trọng để có bộ xương vững chắc. Dinh
dưỡng này dựa trên sự khéo léo chọn lựa các loại thực phẩm căn
bản có nhiều calci. Thực phẩm có nhiều calci là sữa, sữa chua,
pho mát cứng, cá sardine, cá salmon, sò, rau có lá màu lục, cam,
đậu nành.
Đậu nành có
loại phytoestrogen, tương tự như estrogen của cơ thể, nên cũng
có tác dụng tốt trong việc hấp thụ calci.
Tuổi thiếu
niên cần 1200mg calci mỗi ngày, tuổi trưởng thành cần
1500mg/ngày.
Nếu vì lý do
nào đó mà không đủ calci qua thực phẩm, có thể dùng calci phụ.
Nên uống khi ăn no để calci dễ dàng hấp thụ và không quá 600mg
mỗi lần.
Nên tham khảo
ý kiến bác sĩ trước khi dùng thêm calci, vì tiêu thụ quá nhiều,
calci có thể đưa tới vài rối loạn như nhịp tim bất thường, tổn
thưng mạch máu, suy yếu cơ, nhức đầu, sỏi thận.
2- Cần
dùng thêm sinh tố
D
khoảng
400 IU-800UI/ngày để
giúp sự
hấp
thụ
calci được
hữu
hiệu.
3- Vận
động
cơ
thể
Xương là
những mô bào sống, cần được sự vận động của cơ bắp để vững chắc.
Do đó, nếu quá tĩnh tại, khối lượng xượng sẽ giảm rất nhiều.
Ngoài sự làm
xương vững chắc, vận động còn giảm thiểu nguy cơ té ngã bằng
cách tăng cường sức mạnh bắp thịt, cải thiện sự thăng bằng và
phối hợp các động tác của cơ thể.
Vận động cũng
giúp trái tim khỏe mạnh, tăng sức lực cơ thể.
Đi bộ, chạy,
đánh tennis, khiêu vũ, cử tạ đều rất tốt.
Chỉ cần 30
phút đi bộ mỗi ngày là xương cốt chắc bền hơn rồi.
Ngoài ra:
- nếu thiếu
estrogen, nên thảo luận với bác sĩ coi có thể dùng estrogen thay
thế.
- ngưng uống
rượu, hút thuốc lá và
- thay thế
dược phẩm đang dùng gây ra hao xương.
Khám phá loãng xương trước khi
xương gẫy
Ở tuổi cao
hoặc có rủi ro bị loãng xương, nên làm một số thử nghiệm để sớm
khám phá coi có bị hao xương trước khi xương gẫy.
Đo tỷ trọng
xương (densitrometry) giúp tìm ra bệnh loãng xương trước khi có
triệu chứng bệnh như gẫy xương, giảm chiều cao, lệch xương sống.
Đây là một kỹ
thuật khá chính xác để ước lượng nguy cơ gẫy xương và để theo
dõi việc điều trị bệnh này.
Những người
nên làm xét nghiệm tỷ trọng xương là:
- Phụ nữ dưới
65 tuổi ở trong thời kỳ mãn kinh mà có một hay nhiều nguy cơ bị
loãng xương;
- Tất cả phụ
nữ trên 65 tuổi;
- Phụ nữ đã
hết kinh mà bị gẫy xương;
- Phụ nữ đang
được điều trị với kích thích tố thay thế, với thuốc cortisone
lâu ngày và phụ nữ thiếu estrogen;
- Người đang
được điều trị bệnh loãng xương.
Điều trị
Nếu được điều
trị sớm, loãng xương có thể chữa được.
Dược phẩm
thuộc nhóm Biphosphonates etidronate (Didronel), pamidronate
(Aredia), alendronate (Fosamax), risedronate (Actonel),
zoledronate (Zometa or Reclast), ibandronate (Boniva), đứng đầu
trong các loại thuốc
để điều trị loãng xương.
Bằng
cách vừa ngăn chặn sự tiêu hao và tăng cường độ đặc của xương,
thuốc giảm rủi ro gẫy xương hông và cột sống rất nhiều.
Thuốc được
coi như an toàn, nhưng cũng có một số tác dụng phụ như ợ chua,
đau bụng, nhức đầu, đau bắp thịt, táo bón, tiêu chẩy, đầy hơi..
Để thuốc công
hiệu và tránh kích thích thực quản, nên:
-
Uống vào buổi sáng với một ly đầy nước, khoảng 30 phút trước khi
ăn hoặc dùng loại thuốc nào khác.
-
Ngồi nghỉ khoảng nửa giờ để tránh ợ chua.
-
Đừng uống vào buổi chiều nếu quên không uống sáng nay.
Không dùng
thuốc kể trên nếu có thai, đang có bệnh thận trầm trọng, bị ợ
chua với viêm thực quản.
Ngoài ra, các
dược phẩm như Raloxifene, calcitonin, estrogen, kích thích tố
tuyến cận giáp cũng được dùng để trị loãng xương.
Kết luận
Phòng tránh
loãng xương đã quan hệ, nhưng phòng tránh té ngã ở người cao
tuổi cũng không kém phần quan trọng.
Vì mất thăng
bằng cơ thể, kém thị giác, bắp thịt suy yếu, mất phương hướng,
dùng nhiều dược phẩm có thể khiến cho người tuổi cao dễ bị té
ngã.
Và gẫy xương
sẽ xảy ra.
Bác sĩ Nguyễn Ý-Đức,
Texas-Hoa Kỳ
www.nguyenyduc.com
|
VỀ MỤC LỤC |
TÌNH YÊU TRƯỚC VÀ SAU
Chuyện phiếm của Gã
Siêu |
Nếu so sánh giữa con người
với con vật, gã nghiệm ra rằng : Trong khi con vật luôn dẫm
chân tại chỗ, trước sau như một, ngày xưa và hôm nay vẫn cứ y
như thế, thì con người biến đổi không ngừng.
Gã xin đưa ra một vài thí dụ
điển hình :
Con chim ngày xưa làm tổ thế
nào, thì hôm nay nó vẫn làm tổ như vậy, cho dù chiếc tổ ấy được
đan bằng những cọng cỏ khô thật tỉ mỉ và khéo léo.
Con ong ngày xưa kéo mật thế
nào, thì hôm nay nó vẫn kéo mật như vậy, cho dù mật ong có hương
vị thơm ngon tuyệt vời.
Dầu vậy, thỉnh thoảng gã cũng
thấy con vật này hay con vật kia có những hành động khác thường,
chẳng hạn : con sáo biết nói, con gấu biết đi xe đạp, con khỉ
biết nhảy dây…Sở dĩ chúng làm được như vậy là do dày công tập
luyện, để rồi hành động theo phản xạ, chứ không phải hành động
theo bản năng.
Trong khi đó, con người không
ngừng biến đổi và tạo nên những tiến bộ trong mọi lãnh vực.
Chẳng hạn trong lãnh vực ăn.
Ngày xưa người ta ăn tươi nuốt sống, còn hôm nay chúng ta đã
biết nấu chín và chế biến thành những món đặc sản, cao lương mỹ
vị.
Chẳng hạn trong lãnh vực mặc.
Ngày xưa người ta lấy lá cây hay da thú mà che thân, còn hôm nay
chúng ta đã biết dệt nên bao nhiêu loại vải, đã biết may thành
bao nhiêu mẫu mã áo quần.
Trong lãnh vực ở. Ngày xưa
người ta ở hang, ở lỗ, còn ngày nay chúng ta đã biết xây dựng
những tòa nhà nhiều tầng, thậm chí còn có cả những tòa nhà chọc
trời.
Trong lãnh vực đi, ngày xưa
người ta đi bộ, đi voi, đi ngựa, còn ngày nay chúng ta đã có
được biết bao nhiêu phương tiện di chuyển như xe đạp, xe máy, xe
hơi, tàu thủy, tàu hỏa, tàu bay, thậm chí còn có cả những phi
thuyền, hỏa tiễn để chinh phục không gian.
Hôm nay gã xin “tán hươu tán
vượn” với bàn dân thiên hạ về những biến đổi trong tình yêu. Đặc
biệt là những biến đổi nơi anh đờn ông con giai trong quãng
đời…làm chồng của mình.
Về tình yêu của anh chồng
dành cho chị vợ, có người đã chia ra thành ba thời kỳ hay ba
giai đoạn, nhưng cũng có người chỉ chia ra làm hai thời kỳ hay
hai giai đoạn mà thôi.
Dựa vào những suy nghĩ cá
nhân cũng như dựa vào những kinh nghiệm xương máu của các chiến
hữu trên khắp các vùng chiến thuật, gã sẽ bàn tới những thời kỳ
hay những giai đoạn này.
Trước hết về ba thời kỳ,
hay ba giai đoạn của tình yêu.
Theo tác giả Kim Vốn trên báo
“Phụ Nữ Chủ Nhật” thì đối với nhiều chuyên gia tâm lý, tình yêu
có thể được chia thành ba giai đoạn, đó là sáu tuần, sáu tháng
và sáu năm với “các thái độ ứng xử được thích nghi cho phù hợp”,
đi từ chiều chuộng, sang chăm sóc một cách miễn cưỡng, để rồi
cuối cùng…người vợ chẳng còn một ký lô gà ram nào sốt!
Sự phân chia này được trình
bày bằng lời nói cũng như bằng giọng nói của anh chồng như sau
:
Sáu tuần : Anh yêu em!
Sáu tháng : Thì anh yêu em
mà!
Sáu năm : Nếu không yêu cô
thì tôi đã bỏ quách đi từ lâu rồi!
Sáu tuần : Em yêu, mẹ gọi
điệu thoại cho em nè!
Sáu tháng : Điện thoại của em
đó!
Sáu năm : Điện hoài điện hủy!
Sáu tuần : Anh nghĩ rằng em
rất thích có chiếc nhẫn ấy.
Sáu tháng : Ít ra chiếc lọ
cũng có ích vì nó dùng để cắm hoa.
Sáu năm : Ừ thì cứ mua thứ gì
mà cô muốn!
Sáu tuần : Ồ, không việc gì
đâu.
Sáu tháng : Cẩn thận, coi
chừng vỡ.
Sáu năm : Trời ơi, người đâu
và vụng về đến thế!
Sáu tuần : Em mà nấu thì sẽ
có một bữa ăn ngon lành.
Sáu tháng : Tối nay chúng ta
sẽ ăn gì đây ?
Sáu năm : Ngày nào cũng trứng
luộc thì chịu làm sao được ?
Sáu tuần : Với chiếc áo đầm
này, em mới đẹp làm sao ?
Sáu tháng : Lại một chiếc áo
đầm nữa à ?
Sáu năm : Bao nhiêu chiếc áo
đầm mới đủ cho cô đây ?
Sáu tuần : Anh đã cắt cỏ
vườn, em khỏi phải quan tan nữa.
Sáu tháng : Chiếc máy cắt cỏ
hết mẹ nó xăng!
Sáu năm : Hôm nay cô đi mà
cắt cỏ vườn.
Sáu tuần : Anh đã mướn cho em
một cuốn phim thật hay.
Sáu tháng : Có thật là em
muốn xem cuốn phim đó không ?
Sáu năm : Tối nay có bóng đá,
cô để TV đó cho tôi.
Gã cũng đã sưu tầm được một số
hình ảnh khác rất cụ thể về ba giai đoạn của tình yêu, nhưng
mang tính cách trung lập hơn, khách quan hơn và vô tư hơn, không
ngả bên này cũng không nghiêng bên nọ, không bênh chị vợ mà hạ
thấp anh chồng, hay ngược lại hạ thấp chị vợ mà bênh anh chồng.
Gã tạm gọi ba giai đoạn này là
: Trước, liền sau và lâu sau.
Với những người thích màu sắc,
thì trước khi cưới là một màu hồng rực rỡ, liền sau khi cưới là
một màu trắng nhạt, còn lâu sau khi cưới là một màu xám ảm đạm.
Với những người thích nghiên
cứu về thời tiết, thì trước khi cưới là những ngày mùa xuân nắng
ấm, liền sau khi cưới là những ngày hè thu oi bức hay mưa dông,
còn lâu sau khi cưới là những ngày dài mùa đông lạnh giá.
Với những người thích âm
thanh, trước khi cưới anh nói thì em nghe và em nói thì anh
nghe, liền sau khi cưới, anh nói thì anh nghe và em nói thì em
nghe, còn lâu sau khi cưới, thì cả hai cùng nói, nhưng hàng xóm
phải nghe.
Với những người có tinh thần
ăn uống, trước khi cưới thì nhìn nhau mà no, liền sau khi cưới
thì nhìn nhau mà ngáp, còn lâu sau khi cưới thì nồi niêu xoong
chảo thỉnh thoảng lại bay ra ngoài sân.
Với những người vốn mang dòng
máu ga lăng, trước khi cưới thì chiếc dù lệch hẳn về phía nàng
và chàng sẵn sàng chịu ướt, liền sau khi cưới thì chiếc dù nằm ở
chính giữa và mỗi người chịu ướt một nửa, còn lâu sau khi cưới
thì chiếc dù lệch hẳn về phía chàng và nàng đành cam chịu ướt.
Từ đó, người ta đi tới một kết
luận không mấy sáng sủa :
- Yêu nhau trong ba ngày, ghét
nhau trong ba tháng và chịu đựng nhau suốt ba mươi ba năm.
Có kẻ còn bi quan hơn khi phát
biểu :
- Trong cuộc đời anh đàn ông
có hai ngày vui lớn. Ngày vui thứ nhất đó là ngày lấy vợ, còn
ngày vui thứ hai đó là ngày vợ chết.
Tiếp đến về hai thời kỳ,
hay hai giai đoạn của tình yêu.
Nhiều chuyên viên tâm lý khác
thích đơn giản và sáng sủa hơn, nên đã chia tình yêu và nhất là
tình yêu của anh chồng thành hai thời kỳ hay hai giai đoạn.
Các chuyên gia này đã chọn
ngày cưới mà cắm mốc thời gian cho sự phân chia ấy. Vì thế, hai
thời kỳ hay hai giai đoạn này được gọi là tình yêu trước khi
cưới và tình yêu sau khi cưới.
Báo “Phụ Nữ Chủ Nhật”, số ra
ngày 15.01.2006 có đăng một bài ngăn ngắn với những ghi nhận như
sau :
Trước khi cưới :
- Anh yêu! Ghê quá, con chuột
chết kìa.
- Để đó cho anh.
Sau khi cưới :
- Anh ơi! Có con mèo chết
trên mái nhà mình.
- Thì lấy cây mà hất nó
xuống, có con mèo chết mà cũng phải kêu chồng.
Trước khi cưới :
- Em bệnh hả : Em yêu! Có đau
lắm không em ?
Sau khi cưới :
- Khỏe chưa ? Dậy nấu cơm ăn,
bộ tính cho cả nhà xơi mì gói hả ?
Trước khi cưới :
- Không sao, dù bận nhưng nếu
em cần là anh đến ngay.
Sau khi cưới :
- Anh còn lu bu nhiều việc
lắm, chưa về ngay được đâu!
Trước khi cưới :
- Chúc em một sinh nhật thật
vui vẻ và hạnh phúc.
Sau khi cưới :
- Ôi dào, còn đầu óc đâu mà
lãng với mạn nữa hả em.
Trước khi cưới :
- Sao anh ăn cái gì em nấu
cũng thấy ngon!
Sau khi cuới :
- Em chiên kiểu gì mày cháy
đen như vậy ?
Trước khi cưới :
- Trông em thật dễ thương mỗi
khi em khóc.
Sau khi cưới :
- Hết than thở rồi lại khóc
lóc, vợ con gì thấy mà phát chán.
Trước khi cưới :
- Em là người phụ nữ đẹp nhất
mà anh từng gặp!
Sau khi cưới :
- Thằng bạn anh mới cưới được
một cô bé vừa xinh lại vừa đẹp. Nó lấy vợ trễ, thế mà khôn.
Trước khi cưới :
- TV có gì hay không em ?
Sau khi cưới :
- Dọn cơm chưa ? Tối ngày
ngồi đó mà xem phim Hàn Quốc.
Trên báo “Gia đình”, một chị
vợ cũng đã ghi lại tâm sự buồn của mình, trước khi chia tay ca
bản “anh đi đường anh, tôi đi đường tôi và tình nghĩa đôi ta chỉ
có thế mà thôi” :
Trước khi cưới :
Anh chiều chuộng em như một
nàng công chúa nhỏ : khi ăn, anh chủ động gắp cho em; khi đi xe
bus đông người, anh giành chỗ tốt cho em, dù mặt đỏ tía tai; khi
đi qua đường, anh luôn dắt tay em và đi trước mở lối cho em.
Sau khi cưới :
Khi ăn, anh chẳng thèm nhìn em
lấy một lần; khi lên xe bus, anh để mặc em đứng bám vào tay vịn;
khi đi qua đường, anh cũng chẳng thèm nắm lấy tay em.
Kết luận :
Là phụ nữ, ai cũng muốn được
yêu thương, được chiều chuộng, được bảo vệ. Anh có hiểu hay
không ?
Trước khi cưới :
Mọi áo quần, trong cũng như
ngoài, đều do anh mua. Mẫu mã nào mới anh cũng đều sắm cho em.
Sau khi cưới :
Anh chưa một lần đưa em đi mua
đồ, mỗi lần tới siêu thị, đến trước gian hàng của phụ nữ, em kéo
anh vào để cùng chọn với em, anh lại nói một cách khó chịu :
- Em thấy bên trong có bóng
dáng một thằng đờn ông nào không ?
Kết luận :
Anh không hiểu tâm tình người
phụ nữ là như vậy, bảo sao em không bị tổn thương ?
Trước khi cưới :
Anh thường kéo em ra ngoài
luyện tập thể dục và nói cho em hiểu rằng sức khỏe là vốn liếng
quí giá nhất của con người.
Sau khi cưới :
Bản thân anh không tập thể dục
nữa, lại còn bắt em phải ở nhà cả ngày, quanh quẩn với những
công việc lặt vặt. Ngay cả khi em muốn tới câu lạc bộ tập thẩm
mỹ, anh cũng không cho.
Kết luận :
Anh có biết rằng phụ nữ khi đã
đến tuổi trung niên, nếu không chú trọng rèn luyện và bảo dưỡng,
thì tốc độ lão hóa sẽ rất nhanh.
Trước khi cưới :
Anh thường đem lại cho em rất
nhiều những niềm vui bất ngờ. Chẳng hạn như anh đặt trên bàn của
em chiếc vé xem văn nghệ, làm em vui suốt cả tuần.
Sau khi cưới :
Anh bỏ em qua một bên, chẳng
thèm nói một lời. Có khi em nấu nướng thật ngon và đợi anh về
cùng ăn, nhưng anh lại gọi điện thoại và nói với em rằng :
- Tối nay anh có tiệc chiêu
đãi, không về ăn cơm đâu…
Kết luận :
Anh có hiểu rằng một khi cơm
canh đã nguội ngắt, em còn lòng dạ nào để hâm nóng lại đây.
Trước khi cưới :
Dù đi công tác xa thế nào, thì
hàng đêm anh đều gọi điện thoại về cho em.
Sau khi cưới :
Khi đi công tác xa, thỉnh
thoảng anh mới gọi điện thoại về cho em, nhưng cũng chỉ hỏi bài
tập của con đã làm xong chưa. Ngay cả một câu quan tâm đến em,
anh cũng không có.
Kết luận :
Anh có biết rằng khi vắng anh,
em nhớ anh nhiều lắm hay không ? Sao anh quá tiết kiệm lời nói
với em như thế.
Dù chia tình yêu thành ba hay
thành hai thời kỳ và giai đoạn, nhưng những biến đổi trên xem
ra cũng thật bất lợi, vì thế có kẻ đã băn khoăn tự hỏi :
- Phải chăng hôn nhân chính là
nấm mồ chôn vùi tình yêu ?
Nghĩ như vậy xem ra có phần
hơi bi quan, bởi vì trên thế gian vẫn có những cặp yêu thương
nhau cho đến lúc đầu bạc răng long, đúng như lời mừng chúc :
trăm năm hạnh phúc. Tuy nhiên cũng giúp cho chúng ta nhận ra cái
khó khăn trong tình yêu.
Thực vậy, tình yêu trước hôn
nhân hay còn được gọi là tình yêu của cái thuở ban đầu lưu luyến
ấy, thường dễ dàng bởi vì lúc bấy giờ người ta đang “mê mẩn cả
tâm thần”, sẵn sàng kê cho bằng một trăm chỗ lệch, cũng như sẵn
sàng chín bỏ làm…mười một, mười hai.
Cái khó khăn nhất chính là
tình yêu sau hôn nhân. Làm sao duy trì cho nó được bền vững và
liên tục phát triển, bởi vì lúc bấy giờ người ta mới tìm thấy
những con rận trong chăn, cũng như mới khám phá ra những khuyết
điểm của nhau và những lao đao vất vả trong cuộc sống lứa đôi.
Thế nhưng, dù khó khăn tới đâu
chăng nữa thì cũng vẫn phải tìm lấy phương thức riêng để giải
quyết và vượt qua, nếu muốn làm cho tình yêu của mình được hâm
nóng, và bản thân mình, dù là những cặp “uyên ương…già”, cũng
vẫn không kém phần say đắm.
Những vun trồng và chăm sóc
của chúng ta sẽ làm cho khóm gừng càng già càng cay.
Những hy sinh cho nhau và vì
nhau của chúng ta sẽ làm cho tình yêu ngày càng thêm nồng thắm.
Gã Siêu
gasieu@gmail.com
|
VỀ MỤC LỤC |
|
- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến,
bài vở..., xin gởi về địa chỉ
giaosivietnam@gmail.com
- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục
vụ của Giáo sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các
Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn
gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực
Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh
vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức
Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và
Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quy vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại
www.conggiaovietnam.net
Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị
Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã
sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác
nhau.
TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca
Phạm Quốc Sử
USA
|
|
*************
|
|