Việc Tôn Kính Ðức
Nữ Trinh Trong Giáo Hội |
Thánh Công
Ðồng Chung Vaticanô II
Hiến Chế Tín Lý
Về Giáo Hội - Lumen Gentium
Bản dịch Việt
Ngữ của Giáo Hoàng Học Viện Piô X
Prepared for
Internet by Vietnamese Missionaries in Asia
Chương VIII
Ðức Nữ
Trinh Maria Mẹ Thiên Chúa
Trong Mầu
Nhiệm Chúa Kitô
Và Giáo Hội
67*
IV. Việc Tôn
Kính Ðức Nữ Trinh Trong Giáo Hội
87*
66. Bản tính
và nền tảng của việc tôn kính Ðức Mẹ. Nhờ hồng ân
Thiên Chúa, Ðức Maria được tôn vinh, sau Chúa Con, vượt trên hết
các thiên thần và loài người, vì Ngài là Mẹ rất thánh của Thiên
Chúa và đã tham dự vào các mầu nhiệm của Chúa Kitô; do đó Ngài
đáng được Giáo Hội tôn vinh và đặc biệt sùng kính. Thực vậy, từ
những thời rất xa xưa, Ðức Nữ Trinh đã được tôn kính dưới tước
hiệu "Mẹ Thiên Chúa", và các tín hữu đã khẩn cầu cùng ẩn náu
dưới sự che chở của Ngài trong mọi cơn gian nan khốn khó
21. Nhất là từ công đồng Ephêsô, Dân Thiên Chúa đã gia
tăng lòng tôn kính Ðức Maria cách lạ lùng: họ sùng kính mến yêu,
cầu khẩn và noi gương đúng như lời Ngài đã tiên báo: "Muôn đời
sẽ khen tôi có phúc, vì Ðấng toàn năng đã làm cho tôi những việc
trọng đại" (Lc 1,48-49). Sự tôn kính ấy, như vẫn luôn có trong
Giáo Hội, tuy hoàn toàn đặc biệt, nhưng tự bản chất vẫn khác
biệt với sự thờ phượng dâng lên Ngôi Lời nhập thể và lên Chúa
Cha và Chúa Thánh Thần; việc tôn kính Ðức Maria khuyến khích
thêm việc thờ phượng Thiên Chúa Ba Ngôi. Giáo Hội đã chấp nhận
nhiều hình thức tôn sùng Mẹ Thiên Chúa, trong giới hạn của giáo
lý lành mạnh và chính thống, tùy theo hoàn cảnh, thời gian và
nơi chốn, hợp với tính khí cùng tinh thần của tín hữu; những
hình thức ấy, qua việc tôn vinh Mẹ, cũng làm cho tín hữu nhận
biết đúng đắn, yêu mến, làm vinh danh, và tuân giữ giới răn Chúa
Con, vì Người mà muôn vật được tạo thành (x. Col 1,15-16) và nơi
Người, Chúa Cha hằng hữu "muốn có đầy đủ mọi sự" (Col 1,19).
88*
67. Chiều
hướng mục vụ. Thánh Công Ðồng cố ý dạy giáo lý
công giáo ấy, đồng thời Giáo Hội cũng khuyến khích hết mọi con
cái hãy nhiệt tâm phát huy lòng sùng kính Ðức Nữ Trinh, nhất là
trong phụng vụ, hãy coi trọng những việc thực hành và việc đạo
đức nhằm suy tôn ngài và đã được quyền Giáo Huấn Giáo Hội cổ võ
qua các thế kỷ, cũng như hãy kính cẩn tuân giữ những quyết định
của các thời đại trước liên quan đến việc tôn kính ảnh tượng
Chúa Kitô, Ðức Nữ Trinh và các Thánh
22. Công Ðồng cũng hết lòng khuyến khích các nhà thần
học và những người rao giảng lời Chúa, khi xét đến phẩm chức phi
thường của Mẹ Thiên Chúa, hãy cẩn thận tránh mọi tư tưởng phóng
đại sai lầm cũng như mọi tư tưởng hẹp hòi quá đáng
23. Nhờ học hỏi Thánh Kinh, các Thánh Giáo Phụ, các
tiến sĩ và học hỏi các phụng vụ trong Giáo Hội, dưới sự hướng
dẫn của quyền Giáo Huấn, họ hãy làm sáng tỏ đúng mức những chức
vụ và đặc ân của Ðức Trinh Nữ; những chức vụ và đặc ân này luôn
qui hướng về Chúa Kitô, nguồn mạch toàn thể chân lý, thánh thiện
và đạo đức. Họ phải cẩn thận tránh xa mọi lời nói hay việc làm
có thể làm cho các anh em ly khai hay bất cứ ai khác hiểu sai
giáo lý đích thực của Giáo Hội. Phần các tín hữu, hãy nhớ rằng,
lòng tôn sùng chân chính không hệ tại tình cảm chóng qua và vô
bổ, cũng không hệ tại một sự dễ tin phù phiếm, nhưng phát sinh
từ một đức tin chân thật. Ðức tin dẫn chúng ta đến chỗ nhìn nhận
địa vị cao cả của Mẹ Thiên Chúa, và thúc đẩy chúng ta lấy tình
con thảo yêu mến và noi gương các nhân đức của Mẹ chúng ta.
89*
Chú Thích:
(lưu ý:
những số ghi chú nhỏ hơn đã được đăng vào những số báo trước)
88*
Số 66: Bản tính và nền tảng việc tôn kính Ðức Trinh Nữ.
Nền tảng việc tôn kính Ðức Maria là do việc
Mẹ Thiên Chúa được gắn liền với mầu nhiệm cứu rỗi của Chúa Kitô.
Vì Ðức Maria được dự phần vào mầu nhiệm này hơn bất cứ ai khác,
nên Giáo Hội đặc biệt tôn kính Mẹ. Việc tôn kính - bản chất của
việc sùng mộ - được gọi là đặc biệt (so sánh với việc tôn kính
các Thánh), nhưng xét theo yếu tính thì hoàn toàn khác biệt với
việc tôn thờ chỉ dành riêng cho một mình Thiên Chúa. Tiêu chuẩn
của việc tôn kính là phải phù hợp với giáo lý chính thống. Việc
tôn kính chỉ có bảo đảm khi trung thành với ơn linh ứng riêng và
phải hoàn toàn hướng về Con duy nhất mà trong Người, Chúa Cha
tác thành mọi sự. Việc sùng mộ sẽ trở nên ảo tưởng nếu không đưa
đến việc tuân giữ các giới răn Chúa. Giả thiết như thế rồi, cũng
còn phải lưu ý đến những hình thức tôn kính khác nhau nhưng vẫn
hợp pháp, do hoàn cảnh thời gian và nơi chốn tạo ra, hay do
những tâm tình khác nhau của mỗi dân tộc. Vậy phải thận trọng
nhưng đừng có đầu óc thiển cận. Việc tôn kính với cùng một hình
thức như nhau sẽ trở nên nghèo nàn; phải để quyền cho công giáo
tính.
89*
Số 67: Tinh thần giảng thuyết và tôn kính Ðức Trinh Nữ.
Sau cùng, Công Ðồng ban bố một vài qui tắc
mục vụ cho việc giảng thuyết và tôn kính Ðức Maria. Công Ðồng
giới thiệu đặc biệt việc tôn kính có tính cách phụng vụ, nhưng
cũng không quên những hình thức, những việc thực hành đạo đức
không đi ngược với những nguyên tắc đã đề ra. Việc tôn kính theo
phụng vụ được chú trọng hơn là vì có sự chỉ dẫn trực tiếp của
Giáo Hội. Những hình thức tôn sùng cũng như Công Ðồng cổ võ, dù
không bàn đến chi tiết. Những tiêu chuẩn để giảng thuyết rất đơn
giản: đừng tán tụng thái quá, không hẹp hòi thiển cận, hoàn toàn
tuân theo chỉ thị của Giáo Hội, biết dựa vào Thánh Kinh và Thánh
Truyền. Như vậy Công Ðồng muốn ngay cả việc giảng thuyết về Ðức
Mẹ cũng phải qui về Chúa Kitô. Kết luận của số này là vài lời
khuyên tổng quát về việc sùng mộ đích thực nhằm gửi tới Dân Chúa
(không chỉ bằng tình cảm nhất thời, không phải niềm tin viễn
vông, nhưng là sự thực hành sâu xa của một đức tin chính thực,
lấy tình yêu hàm chứa lòng biết ơn mà tuyên xưng sự cao cả của
Mẹ Thiên Chúa, và đức tin đó còn làm cho chúng ta biết quảng đại
noi theo sự hiệp nhất giữa Mẹ với Thiên Chúa).
|
VỀ MỤC LỤC |
|
CÂY NA ĐỒNG
MỎ (CHIA SẺ 3 về Truyền Giáo)
|
Đồng Mỏ là một chợ huyện nằm trên
đường vào Lạng sơn, cách thị xã gần 40Km. Vào khoảng tháng 7,
tháng 8, du khách qua lại Lạng sơn bị cuốn hút bởi những núi na
đồ sộ như xây thành hai bên đường. Không xe nào không dừng lại
cho khách chọn na. Những trái na lớn, căng tròn khoe mình chào
mời khách. Từng đoàn xe tải xếp hàng chờ chất na chở đi khắp các
miền đất nước, và xuất khẩu sang Trung quốc.Kẻ bán người mua tấp
nập. Khuôn mặt ai cũng rạng rỡ niềm vui.
Cách đây hơn 10 năm thì Đồng Mỏ
không được như thế. Đồng Mỏ cũng như đa phần diện tích tỉnh Lạng
sơn chỉ có những ngọn núi đá vôi trơ trụi. Không cây gì mọc
được. Đất khô cằn lại xa thị xã, nên dân cư nghèo nàn thưa thớt.
Đất không có giá vì chẳng ai muốn đến định cư tại đây.
Những người còn lại vì quá nghèo
không biết đi đâu đành ở lại. Cho đến một ngày người ta thử
trồng cây na. Thấy có trái. Người ta nhân rộng ra. Và người ta
khám phá ra rằng vùng đất Đồng Mỏ đặc biệt thích hợp với cây na.
Trồng dưới chân núi cúng lên. Trồng trên sườn núi cũng mọc. Thậm
chí nhét vào khe đá cũng tươi tốt.
Thế là người ta ùn ùn kéo về. Đất
đai đắt lên. Phố xá đông vui. Mọi người đua nhau trồng na. Na
phủ kín từ dười thung lũng lên đến tận đỉnh núi. Cả vùng biến
thành một rừng na bạt ngàn. Mùa đông lá na rụng hết coi thật trơ
trụi. Nhưng mùa xuân rừng na xanh tươi. Lộc non mơn mởn. Và mùa
hè đầy những trái thơm ngọt ngào. Tất cả đều là na hảo hạng.
Ngắm nhìn vườn na xanh tươi phủ
kín vùng đá vôi Đồng Mỏ, tôi miên man nghĩ đến việc truyền giáo
tại Lạng sơn.
Truyền giáo được ví như đi gieo
hạt giống. Lạng sơn là vùng núi khô cằn nên việc gieo hạt rất
khó khăn.
Việc truyền giáo tại Lạng sơn
chính thức bắt đầu từ năm 1913 khi Toà Thánh lập Phủ doãn Tông
toà Lạng sơn. Gần 100 năm trôi qua, số giáo dân chỉ vào khoảng
trên dưới 5000. Linh mục chính thức chỉ có 3. Một thất bại.
Nhưng có lẽ cánh đồng truyền giáo
của Lạng sơn cũng giống như vùng núi đá vôi Đồng Mỏ. Đồng Mỏ đã
trồng được na thì thế nào cũng phải có loại cây thích hợp với
Lạng sơn chứ. Sau mấy năm ở Lạng sơn tôi thấy có vài loại hạt
giống mọc được tại vùng đất này.
1. Hạt giống khiêm nhường
Trước khi tôi về Lạng sơn, tất cả
các nữ tu đang phục vụ tại Lạng sơn đều bị trục xuất. Trừ các
chị Tiểu muội.
Khi đến Lạng sơn, các chị tìm được
một ngôi nhà thờ đổ nát cách Cao bằng 9 Km. Phần thân nhà thờ
không còn dấu vết, cỏ mọc hoang vu. Chỉ còn lại ngọn tháp cháy
dở, loang lổ đạn bom. Thấy cảnh nhà thờ hoang tàn giữa một vùng
dân cư thưa thớt nghèo khổ, các chị quyết định lưu lại.
Các chị nhận làm con làm cháu, làm
chị em với người dân trong vùng. Sinh sống với họ. Chia sẻ cảnh
nghèo với họ. Các chị làm nghề may vá để sinh sống. Nhưng đến
mùa cấy mùa gặt, các chị cũng đi vần công đổi công theo phong
tục trong làng. Các chị được mọi người quí mến. Căn lều của các
chị không lúc nào vắng bóng trẻ em.
Mọi người đón nhận các chị, coi
các chị là người nhà, người làng người nước. Chính quyền chấp
thuận cho các chị ở đến nay đã hơn 10 năm.
Vùng đất sỏi đá rất khô cằn nhưng
đã đón nhận hạt giống khiêm nhường. Vì hạt giống khiêm nhường
không bắt đất đá phải thay đổi, nhưng biết thay đổi chính mình
cho phù hợp với đất đá.
Khiêm nhường đã gọt dũa các góc
cạnh cá nhân để tròn trịa chìm vào cuộc sống chung. Khiêm nhường
giúp trở nên bé nhỏ để được yêu thương. Trở nên yếu ớt để được
giúp đỡ, trở nên dễ thương để được đón nhận
Người truyền giáo cần noi gương
khiêm nhường của Đức giê su khi truyện trò với người phụ nữ xứ
Sâm ria. Đức Giê su đã đến với chị như một người đói khát, nghèo
nàn chẳng có gì. Đức Giê su đã hạ mình xin chị nước uống. Nhờ
khiêm nhường hạ mình mà Đức Giê su đã xoá được những biên giới
ngăn cách, những kỳ thị, những chia rẽ bất hoà giữa người Giu
đêa và người Sâm ria. Nhờ khiêm nhường mà Đức Giê su đã xin được
nước uống và hơn thế nữa xin được 1 linh hồn, và hơn thế nữa,
xin được 1 tông đồ giáo dânnhiệt thành.
2. Hạt giống
phục vụ.
Lạng sơn là vùng đa thần giáo.
Niềm tin vào thần thánh rất mạnh mẽ. Vai trò của các thày mo rất
quan trọng. Khi làm nhà làm cửa, khi cưới vợ gả chồng, khi gặp
tai nạn, đều pahỉ mời thày mo. Mỗi lần mời thay mo rất tốn kém.
Quan trọng nhất là lễ nghi an táng
người chết. Tục lệ thờ cúng tổ tiên rất quan trọng không những
vì lòng hiếu thảo mà còn vì niềm tin. Người dân tộc tin rằng
không chôn táng đúng nghi lễ, hồn ma khôn gsiêu thoát được sẽ về
quấy pha gia đình. Vì thế mọi nghi lễ đều phải tuân theo sự
hướng dẫn của thày mo.
Khi cha mẹ qua đời, con cái phải
ngày đêm phục quanh quan tài. Aên tại chỗ, ngủ tại chỗ. Con dâu
làm một cây tiền. Con trai góp một con heo. Ngày và cách thức
chôn đều do thày mo quyết định. Thày tính toán tuổi tác, ngày
giờ để định giờ ra ma. Có những con ma phải chờ 7 ngày mới ra
được. Trong thời gian chờ đợi ma còn ở nhà, mỗi ngày thày mo
phải làm nghi lễ. Mỗi lần nghi lễ gia đình tạ thầy 1 thúng gạo
nếp, đôi gà và một số tiền. Ma càng ở lâu càng tốn kém, mỏi mệt.
Khi đi chôn thày mo đi trước dẫn
đường. Thày đi đường nào, quan tài và gia đình phải đi theo
đường ấy. Có nhứng khi con ma gặp trắc trở, thày mo phải tìm
đường vòng qua đồi, băng qua núi rất vất vả.
Từ khi có các linh mục ra làm việc
tại Lạng sơn, người dân được chứng kiến đám ma đạo. Đã lâu năm
không có linh mục nên nghi lễ an táng người công giáo được mọi
người chung quanh lưu ý, xem xét và so ssánh. Người dân nhận xét
đám ma đạo rất đơn sơ dễ hiểu vì tất cả đều bằng tiếng Việt, đọc
lớn tiếng, rõ ràng cho mọi người nghe.
Người có đạo rất đoàn kết. Bình
thường không có nhà thờ, chẳng có nghi lễ, tưởng rằng những
người có đạo cô đơn. Nhưng đến v iệc mới thấy người có đạo đông
đảo và có tình đàn kết. Nghe tin một người qua đời, lập tức
nghững giáo xứ chung quanh kéo đến. Dù nhà đám ở tận vùng sâu
vùng xa, anh em giáo hữu vẫn không quyên, không quả ngại đến
chia vui sẻ buồn.
Người có đạo có tinh thần phục vụ.
Đám ma người dân tộc tuy quan trọng nhưng việc tổ chức lại tuỳ
thuộc vào hoàn cảnh kinh tế. Người có tiền mới có nhiều chỗthân
quen và mới đủ khả năng làm đám ma to, qui tụ đông người/ đám ma
người nghèo thật buồn. Ít ai đến thăm viếng vì nhà không đủ khả
năng dọn cơm đãi khách. Trái lại bên đạo đám ma nào cũng như
nhau, dù sang dù hèn, dù mời dù không bà con đồng đạo vẫn kéo
đến chia buồn, đọc kinh cầu nguyện và giúp đáp.
“Thày mo đạo” có tinh thần phục vụ
vô vị lợi. Đám ma ở xa hàng trăm cây số đường núi mà thầy không
bỏ đám nào. Làm lễ đưa tiễn rất chu đáo. Giảng giải dõng dạc rõ
ràng. Aên uống qua loa rồi về. Không phải tốn kém thù lao, lễ
lộc gì cả.
Vốn coi trọng người chết nhưng lại
nghèo, nên đồng bào dân tộc rât thích đám ma đạo. Tinh thần phục
vụ của giáo dân và nhất là của linh mục được coi là nét hấp dẫn
của đạo công giáo.
Thực ra phục vụ chính là thái độ
của Đức Kitô, Đấng “đến không phải để được phục vụ, nhưng để
phục vụ”. Phục vụ mà gây phiền nhiễu, tốn kém, mệt mỏi làm cho
người được phục vụ e ngại, sợ hãi thì còn tệ hơn là không phục
vụ. Phục vụ không những làm cho tâm hồn người dân được tin
tưởng, bình an, tươi vui mà còn giúp giảm đi những lo âu, tốn
kém, mệt nhọc, đang là một giá trị Phúc Aâm được xã hội và quần
chúng hết sức quan tâm và yêu mến.
3. Hạt giống
đoàn kết
Tại Lạng sơn giáo dân rất ít. Xưa
kia ít linh mục nên giáo dân phải di chuyển nhiều. Các xứ nghèo,
khó khăn, nên có việc gì phải nhờ các xứ khác giúp đỡ. Vì thế mà
trong giáo phận giáo dân quen biết nhau hầu hết. Một số giáo
dân, nhát là người dân tộc sống tản mát trong các làng xa, cảm
thấy lẻ loi. Trong những thời kỳ khó khăn, họ như bị loại trừ.
Sau này đi lại dễ dàng hơn nên anh em rủ nhau đi thăm những anh
chị em xa xôi. Nhất là khi những anh chị em đó đau yếu hay có
công việc. Cả các cha các thày cũng quan tâm thăm viếng.
Sự thăm viếng gợi nên thắc mắc cho
nhưĩng anh chị em lương dân trong bản ;”Tại sao những người
nghèo túng, không có địa vị, bị khinh miệt nay được nhiều người
quan tâm đến thế?” để ý tìm hiểu, họ biết đó là sự quan tâm của
những người anh em con cái Chúa. Thích thú tình đoàn kết nên mỗi
lần có người bên đạo thăm viếng trong làng, dân làng déo đến
chia sẻ. Cuộc thăm viếng riêng tư trở thành buổi gặp gỡ chung.
Thăm một người thì gặp cả làng.
Sự đoàn kết dần dà dẫn đến cộng
tác. Năm ngoái, một bà cụ neo đơn trong làng có căn nhà bị dột
cần phải làm lại mái nhà. Anh chị em công giáo đứng ra tổ chức.
Anh em trong bản làng giúp đúc ngói xi măng. Khi đã đủ số ngói
cần thiết, anh em bên đạo kéo vào cùng với anh em bản làng lợp
lại mái nhà cho bà cụ. Buổi công tác chung kết thúc bằng một bữa
rượu thanh đạm nhưng đậm đà tình nghĩa.
Tôi hiểu rằng tình đoàn kết là một
hạt giống mau bén rễ và chóng phát triển. Đoàn kết nối đoàn kết.
Nhờ tình đoàn kết, những Kitô hữu sống lẻ loi được an ủi và được
trân trọng. Nhờ tình nghĩa đoàn kết những anh em công giáo được
đón tiếp trong các bản làng. Nhờ tình đoàn kết anh em bản làng
qui tụ lại với anh em công giáo. Tôi coi đó là những tiền đề
thuận lợi cho Phúc âm.
4. Hat giống yêu
thương.
Cách Đồng Đăng khoảng 15 Km có một
bản làng nằm trên sườn đồi dốc dác. Bản có khoảng 100 mái nhà.
Cả bản có họ hàng với nhau. Cuộc sống nói chung là nghèo nàn
nhưng có tình nghĩa. Tuy nhiên dân bản rất sợ bệnh cùi. Vì chưa
hiểu biết những phương thuốc mới có thể chữa trị được bệnh cùi,
nên dân bản thường tẩy chay, cách ly người bệnh.
Chị Đẹp bị nghi là mắc bệnh cùi.
Vì da dẻ chị sần sùi, mọng nước coi rất ghê sợ. Chính chị cũng
nghĩ mình bị cùi nên thường nhúng tay vào nước thật nóng mong
giết được vi trùng cùi. Giết vi trùng đâu chẳng thấy, chỉ thấy
da tay càng đỏ lên coi càng dễ sợ hơn.
Sợ bị lây, dân làng bắt chị lên
đỉnh đồi dựng một căn lều ở riêng. Chị trùm chăn suốt ngày.
Chẳng dám ra khỏi nhà và chẳng dám gặp ai. Tuy nhiên dân làng
vẫn sợ nên có ý định đem chị nhốt vào một hang đá. Quá sợ hãi,
anh chồng chị tâm sự với người có đạo.
Biết tin, chúng tôi quyết định đem
chị vào trại phong Quả Cảm xét nghiệm. Không phải bệnh cùi. Chỉ
là bệnh ngoài da. Chúng tôi chuyển chị đến Bệnh viện da liễu Hà
nội. Nhưng bệnh viện không nhận vì chị đã quá yếu. Chỉ còn chờ
chết thôi.
Các chị một Tu hội xin đem về
chữa trị. Phải làm giấy cam kết chịu mọi trách nhiệm. Vừa chữa
trị vừa cầu nguyện. Tại Tu hội, chị Đẹp cảm thấy hạnh phúc vì
được sống chung với các chị Tu hội, được các chị chăm sóc và
nhất là được các chị bày tỏ lòng yêu mến. Chưa bao giờ có ai dám
đến gần chị. Chưa bao giờ có ai dám vuốt ve chị. Chưa bao giờ có
ai lau rửa, giặt giũ cho chị như thế.
Biết các chị tin Chúa, chị Đẹp
cũng xin tin. Chị chẳng có gì để mất mà lại được quá nhiều. Các
chị dạy chị một lời cầu nguyện duy nhất : “Lạy Chúa con tin
Chúa, lạy Chúa xin cứu con”. Chị Đẹp đọc suốt ngày đêm không
ngừng nghỉ. Và Chúa đã cứu chị. Chị khỏi bệnh như một phép lạ.
Tỉnh táo, chị trở về nhà tiếp tục uống thuốc và cầu nguyện. Các
chị Tu hội vẫn đi lại thăm viếng. Sau một năm điều trị, giờ đây
da dẻ chị trở lại bình thường. Sức khoẻ chị trở lại bình thường.
Cuộc sống chị trở lại bình thường. Nhưng tâm hồn chị đã biến
đổi. Cảm nghiệm được ơn Chúa rõ ràng trong cuộc đời, chị hết
lòng tin yêu Chúa. Cảm nghiệm được ơn phục sinh, chị hết lòng tạ
ơn Chúa. Cảm nghiệm được tình thương của người có đạo, chị hết
lòng gắn bó và yêu mến đạo. Chị kể cho dân làng nghe tất cả
những gì chị đã thấy, đã sống. Và chị kết luận : “Cái Chúa nó
tốt, nó mạnh lắm vớ”. Cả làng đều công nhận lời chị là đúng. Bà
mẹ chồng ngỏ ý : “Cái Đẹp nó đã sướng rồi, phải cho tôi sướng
với. Tôi muốn đi lễ tạ ơn cái Chúa”.
Hạt giống yêu thương thật mãnh
liệt. Cảm nghiệm về tình yêu giống như cảm nghiệm về một ngọn
lửa. Nó bừng lên. Nó thôi thúc. Nó lan toả. Nó thâm sâu vào mọi
ngõ ngách u ẩn nhất của cõi lòng. Khi đã bén rễ, chẳng có gì có
thể ngăn cản cây yêu thương lớn lên, sinh hoa kết quả.
Từ những cảm nghiệm trên, tôi hiểu
rằng truyền giáo phải là trồng Hội Thánh vào một địa phương.
Trước khi trồng Hội Thánh, phải trồng Phúc Aâm. Không phải một
thứ Phúc Aâm áp đặt, phô trương, cơ chế. Nhưng là Phúc Aâm thực
sự : Phúc Aâm khiêm nhường, Phúc Aâm phục vụ, Phúc Aâm đoàn kết,
Phúc Aâm yêu thương. Những hạt giống Phúc Aâm loại này có thể
bén rễ mọc lên ở bất cứ vùng đất nào dù sỏi đá gai góc đến đâu.
Và khi đã mọc sẽ phát triển thành cây cổ thụ cành lá xum xuê cho
chim trời tới làm tổ.
TGM. Jos Ngô Quang
Kiệt |
VỀ MỤC LỤC |
|
LỜI XIN LỖI MUỘN MÀNG
|
Em,
Hôm nay tôi
đi vào hồi ức của em về những ngày khó khăn ở Đàlạt cách đây gần
30 năm. Em viết: “…sau cái ngày lịch sử ấy, người ta cho
ba của em đi học miễn phí ròng rã hơn 7 năm trời.. nhưng rồi
không biết vì sao ông ‘bỏ học’ mà đến bây giờ mẹ em và anh em
tụi em cũng không biết ông ở đâu” Thế là mẹ em, với hai
bàn tay trắng, phải một mình nuôi nấng 4 đứa con đang lớn lên
như thổi. Cũng vì vậy mà “suốt 3 năm ròng rã, gần như Chủ
Nhật tuần nào em cũng được ‘dạo chơi’ ở núi Bà. Buổi sáng sớm,
em và đám bạn trong xóm rủ nhau đi. Sau khi ‘dạo’ một vòng xem
thử cây nào ‘đẹp’ thì cắt khúc chừng 2 thước, đóng đinh 2 đầu
rồi kéo về nhà. Em hiểu làm như vậy là có lỗi với dân Dalat mình
lắm nhưng ... mỗi chuyến đi ‘chơi’ là bằng hai ngày bôn ba của
mẹ nên em cũng nhắm mắt làm liều… Bao nhiêu năm qua rồi, giờ đây
khi đọc những dòng này, xin thầy hiểu cho và xem như đây là lời
xin lỗi của em.”
Đọc những lời
nói thật như đùa của em mà nước mắt tôi cứ lưng tròng. Một thiếu
niên mất cha mà đến giờ này vẫn chưa hiểu nguyên do. Một em mồ
côi vì thương mẹ nên chặt một vài cây trên núi để sống qua ngày.
Thế mà gần 30 năm sau em không nói lên một lời than trách, nhưng
chỉ nói lên lời xin lỗi với người dân Dalat...
Sáng hôm nay,
tôi xót xa đọc một mẫu tin nhỏ trên tờ Tuổi Trẻ:
“Ngày 8
tháng 10, tỉnh Lâm Đồng đã chính thức đưa ra đề án có tên “Bảo
vệ và phát triển lâm nghiệp đến năm 2020” tại một hội nghị của
tỉnh ủy. Theo đề án, Lâm Đồng sẽ khai thác theo phương thức chặt
trắng 52.000 ha rừng thông tự nhiên, trong đó có 14.966 ha thành
thục ( 60 – 70 năm tuổi )”.
Em có nghe
không? Chặt
trắng 52.000 ha rừng!
Một cách thản nhiên! Và với danh nghĩa là ‘bảo vệ và phát triển
lâm nghiệp”!!! Khi
nghe em xin lỗi vì một vài cây thông nhỏ mình đã chặt năm xưa,
tôi bỗng thấy thế hệ của chúng tôi cần phải xin lỗi các em rất
nhiều... Không phải chỉ là chặt trắng 52.000 ha trong số rừng ít
ỏi còn lại của Dalat, mà đã chặt trắng bao nhiêu giá trị trong
tâm hồn của các em trong suốt bao nhiêu năm ròng.
Chúng tôi đã
làm được gì cho thế hệ các em? Bạn bè chúng tôi, lứa tuổi cha
chú của các em, ở hai miền Nam Bắc, đã ngã xuống mấy triệu
người... có nơi nói là hai triệu, có nơi nói là ba... Con số sai
biệt một triệu mạng người Việt Nam sao không ai tổng kết? Trên
thương trường, khi tính toán hàng triệu đô la, chỉ cần sai biệt
100 là ai cũng thấy ngay, nhưng sao sai biệt một triệu mạng
người anh em Việt Nam thì chúng tôi lại coi nhẹ đến thế?.. Chúng
tôi, những người đang còn sống đây, chúng tôi đã làm được gì cho
các em? Và cho những em thiếu niên dưới 20 tuổi ngày hôm nay?
Chúng tôi mau quên quá, chúng tôi quên rằng chính nhân danh thế
hệ tương lai, nghĩa là các em, mà người Việt phải bắn vào người
Việt trong mấy chục năm trời, và hằng triệu người đã nằm xuống
từ Bắc chí Nam... Chúng tôi chỉ nhớ tới vinh quang, chúng tôi
chỉ nhớ tới hận thù, để rồi dựa trên đó mà trở thành ích kỷ,
gian manh, trục lợi, hưởng thụ, ươn hèn và vô tâm.
Tôi còn nhớ
những năm đầu tiên cầm lại viên phấn ở mái trường Xã Hội Chủ
Nghĩa, chúng tôi đã học tập rất kỹ để quán triệt rằng mình phải
là kỹ sư tâm hồn hầu đào tạo ra ‘con người mới xã hội chủ
nghĩa’. Chúng tôi thảo luận với nhau: chính bản thân chúng tôi
không phải là con người xã hội chủ nghĩa thì làm sao đào tạo ra
được con người mới xã hội chủ nghĩa? Thế nhưng các đảng viên,
với những lý luận mà đến bây giờ tôi vẫn chưa hiểu được, đã cho
thấy rằng dù không phải là người mới xã hội chủ nghĩa chúng tôi
vẫn có khả năng đào tạo các em thành con người xã hội chủ nghĩa.
Giờ này nhìn
lại, tôi tự hỏi vì sao trong 12 năm trời, tôi lại có thể ngoan
ngoãn đến thế? Có lẽ bấy giờ tôi là một giáo viên lưu dung, nên
răm rắp nghe theo lời giáo huấn mà không cần ai thuyết phục! Vào
thời điểm đó, tôi sợ hãi lắm, tôi hèn hạ lắm! Chỉ cần sai một
câu so với sách giáo khoa, thì cũng có thể bị xem là ‘thiếu quán
triệt’, thậm chí là ‘phản động’. Vì sợ hãi, nên tôi ca ngợi
những điều mà người ta kể mình nghe, và nói lại cho các em như
là xác tín của chính mình. Nhưng đằng sau những lời đầy nhiệt
tình của tôi, là sự ươn hèn và dối trá.
Tôi dạy cho
các em: ‘mình vì mọi người’, mà mỗi tháng rình rập để nhận tiêu
chuẩn 300g thịt nhiều nạc hơn người khác, cũng như đối xử bần
tiện với đồng nghiệp để giành giựt ba thước vải thô hay một vỏ
xe đạp; tôi dạy cho em ‘phải căm ghét kẻ thù’ mà trong lòng thì
chỉ muốn dạy yêu thương; và vì những lời dối trá đó, nên dù em
không căm thù ai, thì em chỉ tin tưởng ở căm thù hơn là tin
tưởng vào tình yêu giữa người và người.
Những lời tôi
nói thuở ấy thì chắc chắn các em đã quên gần hết rồi, nhưng cái
ươn hèn và đối trá thể hiện qua cách sống của tôi, giờ đây đã
trở thành điều đương nhiên nơi các em. Thay vì đào tạo ‘con
người mới xã hội chủ nghĩa’ như tôi rêu rao, giờ đây các em trở
nên những con người thoải mái sống trong bầu không khí dối trá
của một xã hội vô tâm, và uốn mình theo môi trường một cách ươn
hèn để làm sao mình có lợi nhất…
Tôi đã góp
phần tạo ra một thế hệ hoàn toàn vô cảm, vì những từ như ‘tổ
quốc, tự do, trách nhiệm, lương tâm, tình người, vì dân, vì
nước’… chỉ còn là những sáo ngữ rỗng tuếch. Và đau lòng nhất, ấy
là các em không thấy đó là điều mất mát lớn nhất của một con
người. Các em cho rằng sự thật và lòng dũng cảm không bao giờ có
thật trên đời. Tôi và nhiều đồng nghiệp của mình đã lừa dối các
em.
Thế hệ chúng
tôi đọc những lời xin lỗi của em về một khúc cây rừng để đổi lấy
chén cơm, chúng tôi biết lấy gì để xin lỗi thế hệ các em vì
những tàn phá mà chúng tôi đã gây ra đối với vật chất và tinh
thần của các em trong 30 năm qua?
Nhưng dù
chúng tôi không biết xin lỗi và nhiều khi không buồn xin lỗi,
thì tôi tin rằng các em đã tha thứ cho chúng tôi. Thế hệ đàn em
luôn quảng đại đối với đàn anh, và sẽ tiếp tục tha thứ. Hy vọng
với tấm lòng tha thứ của các em đối với chúng tôi, các em sẽ trở
thành những người biết trồng lại những chồi non đầy hy vọng trên
những cánh rừng Việt Nam và trong tâm khảm của thế hệ con cháu
của các em.
Tôi chắp tay
nguyện cầu cho các em xóa bỏ những bài học dối trá của chúng
tôi, để thế hệ ngày mai sẽ là một thế hệ không còn mất mát như
các em, mà là một thế hệ biết giá trị của mình, một thế hệ sống
hiên ngang, không chấp nhận dối trá và đối xử với nhau trong một
bầu không khí của sự thật. Tôi nguyện cầu để đừng ai tiếp tục
tưới vào những chồi non hôm nay chất độc của hận thù hầu mai này
con em Việt Nam còn có được một rừng ‘người’, những con người
sống với nhau đầy lòng trắc ẩn..
Cho tôi một
lần bắt chước em để nói lên lời sám hối:
Khi đọc những dòng này, xin em
hiểu cho và xem như đây là lời xin lỗi muộn màng của tôi.
Gs. Trần Duy Nhiên |
VỀ MỤC LỤC |
|
ĐỨC BÀ, NỮ VƯƠNG HÒA BÌNH
|
Quý độc giả
Ephata và Giáo Sĩ Việt Nam thân mến,
Năm 2004, sau
khi nói chuyện ở Đại Hội Giáo Lý tại Los Angeles, chúng tôi được
các bạn cũ trong Nhóm Mai Khôi lái xe từ San Jose, ngang qua
Santa Clara, hướng lên phía Bắc thăm thủ phủ San Francisco của
bang California. Cái gì cũng lạ, cũng đẹp. Japanese Garden xanh
mát cỏ cây. Golden Gate đỏ chói trong sương mù. Các phố xá dốc
cao vời vợi, cứ lên rồi lại xuống. Các gian nhà trồng từng bồn
hoa rực rỡ ngay mặt tiền. Các cửa tiệm bán hàng lưu niệm tấp nập
khách du lịch...
Thế nhưng để lại ấn
tượng độc đáo và sâu sắc nhất đối với chúng tôi lại là pho tượng
Đức Bà Nữ Vương Hòa Bình ( Our Lady Queen of Peace ) tại thành
phố Santa Clara.
Hôm nay, ngồi
viết bài này cho những ngày cuối tháng Mai Khôi của Mẹ, chúng
tôi gỡ khung ảnh trên tường xuống, scan lại và in vào trang báo
bức ảnh Đức Bà Nữ Vương Hòa Bình tuyệt vời ấy. Anh bạn Quốc Đồng
ở San Jose đã chụp bức ảnh này, tự in ở nhà, tặng chúng tôi làm
quà kỷ niệm chuyến đi. Chắc anh không ngờ đối với tôi, bức ảnh
này còn quý hơn là một kỷ niệm. Bức ảnh đã cho chúng tôi một cảm
thức thấm thía đến bồi hồi mỗi khi nhớ lại, nhìn lại và sống lại
kỷ niệm ấy !
Nhìn bức ảnh, ít ai có thể hình dung pho tượng đã được ghép bởi
hàng chục vạn mảnh thép trắng bạc nho nhỏ, không bao giờ hoen rỉ
( stainless steel ) cắt ra từ các máy bay Mỹ từng tham chiến tại
Việt Nam trong suốt thời gian 10 năm từ 1965 đến 1975.
Đó là những
Skyhawk, F-100 Thunderbird, F-105 Thunderchief, F-4 Phantom,
F-111 Aardvark... một thời ngang dọc trên bầu trời Việt Nam, bom
đạn cày xới tang thương mọi nẻo đường quê ngoài Bắc trong Nam.
Thế mà khi tàn cuộc chiến, cũng vừa hết hạn sử dụng, chúng được
đưa về đậu đầy những nhà kho khổng lồ, hoặc phơi xác ngoài trời
với mưa với nắng, y như một bãi tha ma các chiến đấu cơ.
Đây là sáng
kiến độc đáo và là tác phẩm tuyệt hảo của điêu khắc gia lừng
danh thế giới Charles C. Parks. Cao hơn 11m, nặng gần 3,3 tấn,
pho tượng vươn lên giữa bầu trời xanh, với vòng tay mở ra ân
cần, ánh mắt buồn da diết và một trái tim lộ ra bên ngoài đầy
những vết thương xót xa. Vâng, Mẹ đang muốn nói với mọi người,
nói với từng người một lời mời gọi bao dung, tha thứ, quên đi
quá khứ chiến tranh để sống chung một tương lai hòa bình.
Tìm tài liệu trên
Google, tôi còn biết thêm rằng, từ khởi sự cho đến khi hoàn
thành, Hội Thánh ở Santa Clara đã đón nhận được lời cầu nguyện
từ 500.000 tràng chuỗi Mai Khôi của mọi người hiệp thông gửi
đến. Ắt hẳn, nửa triệu lời cầu nguyện ấy, 2 triệu rưởi Kinh Lạy
Cha và Kinh Sáng Danh, 25 triệu Kinh Kính Mừng ấy không được
dùng để cắt, để hàn, để gò, để dựng nên pho tượng tuyệt tác ấy,
nhưng là để nhờ Mẹ mà bay cao lên, bắn tung đi khắp nơi thành
triệu triệu bức thông điệp cho hòa bình.
Trong những ngày
này, ở Tòa Khâm Sứ, ở Linh Địa Đức Bà của Thái Hà không còn tập
trung hàng mấy ngàn người cầm nến sáng mà cầu nguyện nữa. Nhà
cầm quyền tráo trở đã chuyển những mảnh đất đang định chia năm
xẻ bảy mà tư túi ở đó thành ra những công viên. Của đáng tội,
mấy cái công viên này làm vội quá đâm ra luộm thuộm lem nhem,
nhếch nhác quá thể.
Có lẽ đây chỉ là
bước đệm chăng, chờ cho người dân mất cảnh giác, quên cầu nguyện
là lại đâu vào đấy. Mùi tiền và vị bạc tham nhũng vẫn quyến rũ
ghê gớm, nên nếu có cần phải dối trá, lập lờ đánh lận con đen
thì người đời cũng đều dám làm chẳng gớm tay !
Thế nhưng, đâu phải cứ
thế là tắt lịm đi những tràng chuỗi Mai Khôi, những lời hát Kinh
Hòa Bình ? Không cầu nguyện được ở Tòa Khâm Sứ thì bà con Giáo
Dân tập họp ngay quảng trường trước mặt Nhà Thờ Lớn Hà Nội.
Không hát Thánh Ca được ở Linh Địa Đức Bà thì anh chị em Thái Hà
kéo nhau về Đền Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp.
Mà chẳng phải
chỉ ở thủ đô, bây giờ người ta cầu nguyện ở mọi nơi, mọi chỗ
trên quê hương Việt Nam đã hết chiến tranh từ lâu mà vẫn chưa có
hòa bình; cầu nguyện cả ở bên ngoài quê hương, nơi người dân
Việt ly hương đang sống trong hòa bình mà ruột gan vẫn cứ cồn
cào như mấy mươi năm trước phải sống trong loạn lạc binh đao....
Mới đây, qua
Internet, chúng tôi xem được một bức ảnh thật cảm động: một đoàn
dân oan từ đâu dưới Miền Tây, dắt díu nhau toàn đàn bà, trẻ con
và cụ già, cơm đùm cơm nắm, đeo biểu ngữ đi biểu tình khiếu kiện
các quan chức tham nhũng.
Không rõ có ai
trong đoàn là người Công Giáo hay không mà khi ngang qua quảng
trường trước Bưu Điện Trung Tâm và Nhà Thờ Chính Tòa Sài-gòn, họ
đứng lại, bảo nhau thành kính quỳ xuống cầu nguyện khá lâu dưới
chân tượng Đức Bà Nữ Vương Hòa Bình, một “Our Lady Queen of
Peace” của Việt Nam.
Mẹ ơi, biết
đâu đấy, sẽ có ngày một nhà điêu khắc Việt Nam nào đấy làm nên
một pho tượng Mẹ rất đặc biệt, đặc biệt ở chỗ hình dáng Mẹ được
kết, được bó lại từ những dây kẽm gai, những hàng rào chông sắt
nhọn hoắt, những bình xịt hơi cay và dùi cui, roi điện, và pho
tượng sẽ được đặt tên là... Đức Bà Nữ Vương Công Lý ( Our Lady
Queen of Justice ).
Thật là con đã
khéo tưởng tượng phải không Mẹ ? Thực tế có lẽ chẳng cần cường
điệu đến thế, pho tượng ấy có vĩ đại sừng sững, có tuyệt tác bất
hủ đến đâu thì cũng vẫn chỉ là pho tượng. Trong khi vẫn đang có,
vẫn luôn có hàng triệu con người thật, tâm hồn thật, hướng về Mẹ
mà cầu nguyện...
Giáo Xứ Thái
Hà ở Hà Nội vừa tạm lắng xuống. Giáo Xứ An Bằng ở Huế lại bắt
đầu sôi sục...
“Thánh Maria
Đức Mẹ Chúa Trời, Nữ Vương của Hòa Bình, Nữ Vương của Công Lý,
xin cầu cho chúng con là những kẻ tội nghiệp...”
Lm. QUANG UY,
thứ bảy kính Đức Mẹ, 25.10.2008
|
VỀ MỤC LỤC |
|
BI HÀI CHUYỆN CHỈ ĐẠO !
|
Sáng nay,
trước khi làm việc tôi vào mạng để xem tin tức chút. Qủa thật là
xem tin xong thì tức ! Không phải tức theo kiểu bực dọc nhưng
tức đây là tức cười. Đọc xong mẫu tin mà tôi cảm thấy tức cười
làm sao đó, cười đến độ gây sốc cho vài người xung quanh. Họ hỏi
sao hôm nay tôi cười to thế thì tôi mới chỉ cho họ xem dòng tít
trên vnexpress.net : Đồng
Nai sẽ xin chỉ đạo của Thủ tướng về vụ Vedan. Sau 2 ngày nghiên
cứu văn bản "thúc" tạm đóng cửa Vedan của Bộ Tài nguyên Môi
trường, UBND tỉnh Đồng Nai cho biết, trong tuần này, sẽ báo cáo
xin ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng.
Không cười
sao được khi mà một vị nguyên thủ quốc gia ngày ngày ngồi trong
phòng lạnh, cơm bưng nước rót, đi đâu cũng có người bảo vệ và
thậm chí nói hơi quá là “trải thảm đỏ” lại chỉ đạo về chuyện môi
trường sống của hàng vạn con người quanh khu vực sông Thị Vải.
Bộ Tài nguyên Môi trường đã thẩm định thực tế về sự tác hại của
công ty Vedan như thế nào nên mới thúc đóng cửa nhà máy như vậy.
“Vụ án” Vedan đợi thanh tra, đợi kiểm nghiệm thì đã quá muộn cho
số phận của những con người kém may mắn sống trong sự ô nhiễm
môi trường hơn chục năm qua !
Mới đây thôi,
quyết định của Thủ Tướng Chính Phủ về hai mảnh đất 42 Nhà Chung
và 178 Thái Hà đã gây không ít xôn xao cho dư luận trong và
ngoài nước. Không biết là Thủ Tướng có nhìn thấy sự tráo trở lập
lờ đánh lận con đen của cấp dưới về chữ ký của Cha già Bích, về
nguồn gốc thật sự của 2 mảnh đất thiêng đó hay không mà lại đi
ký quyết định làm công viên trên 2 mảnh đất ấy. Về lý cũng lợn
cợn, về tình cũng chẳng kém mất lòng dân.
Về lý : Đất
đang còn trong tình trạng tranh chấp, đang trong tình trạng
khiếu kiện thì không một cá nhân, một tập thể nào được sử dụng
phần đất ấy. Ấy vậy mà, 2 mảnh đất thiêng đang còn trong vòng
đàm phán đã được Pháp Lý Nhà Nước Việt Nam bảo hộ bằng cách đưa
ra “quyết định thu hồi” một cách hết sức nhanh chóng và bất cập.
Chỉ có ai còn lương tâm mới hiểu chuyện lấy đất như vậy nó đúng
hay sai mà thôi.
Về tình : Đất
đấy không phải là của riêng ai, đất ấy để cho những người Công
Giáo sử dụng trong việc phụng thờ Chúa, trong việc của Giáo Hội
vậy mà người ta lấy đi trong khi người Công giáo còn khiếu nại.
Dẫu rằng người Công giáo chiếm một phần khá khiêm tốn trong xã
hội nhưng người nhưng không ai phủ nhận vai trò cũng như đóng
góp to lớn của người Công giáo trong nhiều lãnh vực của xã hội.
Nếu như xử lý có tình thì nên chăng trả 2 mảnh đất ấy cho người
Công giáo để họ phụng thờ Chúa cho phải đạo và cộng tác vào
nhiều việc tốt lành cho xã hội.
Có lẽ Thủ
Tướng chưa hề đặt chân đến 2 mảnh đất và cũng chưa hề phỏng vấn
những người Công giáo đích thực để tìm hiểu nguyện vọng của họ.
Đàng này, Nhà Nước phỏng vấn những người Công giáo cốt cán” thôi
thì làm sao nghe được nguyện vọng thật của giáo hữu.
Muốn quyết
định vấn đề gì có tình có lý thì xin Thủ Tướng hãy mặc đồ thường
dân, xuống địa bàn cùng ăn cùng ở với dân sẽ thấy thực tế khác
với những bản báo cáo bóng bẩy và hoành tráng được chau chuốt kỹ
càng trước khi đến tay của Ngài. Nếu Ngài chỉ quyết định dựa
trên những bản báo cáo mà không xuống hiện trường thì sẽ để lại
những hậu quả khôn lường.
Kính thưa
Ngài Thủ Tướng ! Tôi cũng hiểu phần nào trách nhiệm cũng như
gánh nặng quá lớn trên vai của những người có trách nhiệm và đặc
biệt là những người có trọng trách qúa nặng nề như ông. Chữ ký
của ông có giá trị đến độ quyết định phận số của một hay của rất
nhiều người. Nhất là trong thời điểm nhạy cảm của giá đất, giá
nhà tăng vọt và môi trường đang bị đe doạ cách trầm trọng. Nếu
như Ngài quyết định sai lầm, thiếu cân nhắc một chút thì để lại
trong lòng dân một sự uất hận không thể nào xoá nhoà được.
Cũng thấy
thương cho Ngài vì những áp lực đè nén trên đôi vai để rồi có
quá nhiều quyết định đã để lại không ít sự phẫn uất trong lòng
những người dân thấp cổ bé họng. Có thể là bề ngoài không ai
biết những quyết định đó do ai, vì ai nhưng thật sự trong đáy
lòng của Ngài Thủ Tướng chắc chỉ có mình Ngài biết rõ thôi.
Chẳng lẽ một vị nguyên thủ quốc gia mà không còn tiếng nói của
Lương Tâm ? Nếu vị đứng đầu một đất nước, lãnh đạo đất nước mà
mất Lương Tâm thì quần chúng nhân dân làm gì mà bằng yên và hạnh
phúc được ?
Không chỉ có
một mình Ngài Thủ Tướng mới căng não, mới bị sức ép trước một
quyết định. Ai ở trong cương vị lãnh đạo cũng thế thôi. Chỉ cần
một quyết định đôi khi hợp tình mà không hợp lý và đôi khi hợp
lý mà không hợp tình sẽ để lại những hậu quả khôn lường. Là con
người, làm bất cứ việc gì, quyết định bất cứ chuyện gì cũng cần
có chút tình và chút lý trong đó mới có thể mang hạnh phúc đến
cho con người được.
Thời gian sẽ
qua đi, mọi việc sẽ qua đi nhưng người ta sẽ không bao giờ quên
được những quyết định làm tổn thương con người. Nhất là những
quyết định cực kỳ quan trọng mang lại lợi nhuận cho một nhóm nhỏ
và mang lại thiệt hại to lớn cho nhiều người như quyết định của
ông về số phận mảnh đất thiêng 42 Nhà Chung và 178 Nguyễn Lương
Bằng vừa qua.
Thời gian sẽ
qua đi, con người sẽ qua đi nhưng 2 mảnh đất thiêng 42 Nhà Chung
và 178 Nguyễn Lương bằng vẫn còn đó để minh chứng cho những hành
động thiếu tôn trọng và thiếu đối thoại chân thành với người
Công giáo nói chung và với những vị lãnh đạo Công giáo nói
riêng. Thế hệ chúng tôi rồi cũng qua đi nhưng con cháu vẫn mãi
mãi “ghi ơn” Thủ Tướng Chính Phủ về việc thu hồi 2 mảnh đất
thiêng làm công viên của ông.
Lm. Anmai, C.Ss.R. |
VỀ MỤC LỤC |
|
ĐIỀU GÌ XẨY RA KHI TA CHẾT
|
Hồi nhỏ chúng ta
thích đọc truyện ma quỉ, thần thoại hay kiếm hiệp thường thấy
nói người chết sống lại. Vợ con đã làm lễ phát tang, than khóc ỉ
ôi, có khi một hai ngày rồi bất thần người chết mở mắt, ngồi
dậy, ăn uống và nói truyện bình thường, lại còn kể những cảnh
thần tiên hoặc ác quỉ ghê gớm mà họ đã sống, đã thấy sau khi
chết. Chuyện đó có thật hay không thì chưa ai thực sự kiểm chứng
được. Nay đời sống văn minh tiến bộ hơn, người ta nghi ngờ những
cậu chuyện như vậy, coi là giả tưởng, chỉ là những câu chuyện
người ta kể lại. Có thể đúng như người chết kể lại. Có thể do
người chết chưa chết, tâm trí vẫn còn hoạt động và quay trở lại
những hình ảnh, những suy tư lúc còn sống rồi biến hóa câu
chuyện thành thần tiên quỉ dữ..Người ta đặt vấn đề: Người “chết”
đã chết thực sự chưa? Câu chuyện người “chết” kể lại có thực sự
đúng như họ thấy không?
Chết thì từ ngàn
xưa vẫn là những vấn nạn nan giải. Con người sinh ra, sống, rồi
chết. Sinh Ký Tử Qui là lẽ tự nhiên. Một đời sống mới nối tiếp
theo sau sự chết.
Bác sĩ Sam Parnia,
trong cuốn sách của ông nhan đề “Điều gì xẩy ra khi ta chết /
What happens When We die” không bàn về đời sau như Thiên
Đàng, Hỏa ngục, nhưng đặt vấn đề một người gọi là “chết” có thực
sự chết chưa để tìm hiểu, nghiên cứu. Từ đó mới có thể có những
định nghĩa chết khác nhau một cách chính xác. Rồi vấn đề được
đặt ra: Khi đã chết, trí khôn, nhận thức con người có chết cùng
với não bộ và thân xác không? Khi chết, nhận thức và thần trí
con người có lìa khỏi thân xác không? Nếu có thì nó có những suy
tư cảm nghiệm gì sau đó?
THẾ NÀO LÀ CHẾT?
Có rất nhiều định
nghĩa CHẾT: Chết hiểu theo y học, luật học, sinh học và văn hóa,
tôn giáo, đạo đức….Ở đây, chúng tôi chỉ nói về cái chết theo
quan niệm y học.
Lúc còn nhỏ khi học
giáo lý, các cha thường định nghĩa chết là lúc linh hồn lìa khỏi
xác. Nhưng xác định lúc nào linh hồn lìa khỏi xác thì quả là rất
khó mà biết. Do đó chẳng có thể xác quyết chắc chắn lúc nào một
người gọi là chết. Định nghĩa CHẾT quả là một vấn đề. Theo y học
thì chết là lúc Tim Ngừng Đập và
Phổi Ngừng Thở. Nhưng ngày nay nhờ khoa cấp cứu hồi
sinh (CPR) phát triển và tiến bộ, khi tim vừa ngừng đập nếu
người ta dùng máy kích tim (defibrillation) ngay lập tức thì tim
đôi khi có thể hoạt động trở lại. Do đó định nghĩa như ở trên có
vẻ không còn được chính xác cho lắm.. Ngay cả khi những nguyên
do hoặc cơ quan như tim và phổi là những cơ phận cần thiết cho
sự sống chết như ta hiểu cũng không còn giá trị khít khao nữa.
Mạng sống con người vẫn có thể tồn tại nhờ những kỹ thuật trợ
sinh (Life support) phối hợp với cách ghép cơ quan và trợ tim
nhân tạo (organ transplants and artificial pacemakers).
Vì vậy, ngày nay
người ta định nghĩa “lúc chết” là lúc bác sĩ điều trị đưa
tay cắt máy trợ sinh, rút ống thở dưỡng khí của bệnh nhân khiến
óc bệnh nhân hết hoạt động trước sự chứng kiến của bác sĩ khám
nghiệm. Lúc đó gọi là “Óc Chết” hay “Chết Sinh Học”. Lúc này óc
của bệnh nhân không còn sinh động điện nữa và người bệnh coi như
chết ở tình trạng thực vật. Khi óc không còn sinh động điện và
ngưng hoạt động là lúc con người không còn nhận thức nữa
(consciousness). Tuy nhiên tình trạng mất nhận thức đó
(unconsciousness) phải là vĩnh viễn (permanent), không là tạm
thời (transient) như khi chúng ta ngủ rất say nhất là lúc bị hôn
mê (coma), bởi vì trong những trường hợp như vầy, não động đồ
(EEGs) vẫn cho ta thấy một sự khác biệt rất rõ ràng. Do đó xác
định lúc chết rất quan trọng trong trường hợp cần lấy cơ quan để
ghép cho người khác. Cơ quan phải được lấy ngay lập tức và nhanh
hết sức có thể lúc người bệnh vừa mới chết tức thì.
Khả năng óc lấy lại
được sinh động -ở Hoa Kỳ- là một điều kiện cần thiết về mặt pháp
lý, chứng tỏ một người vẫn còn sống. “…một khi óc đã được xác
định là chết….thì việc cắt đứt trợ sinh rút ống dưỡng khí sẽ
không bị liên đới tội hình sự hoặc dân sự” (Trường hợp Dority v.
Tối Cao Pháp viện San Bernadino County, 139 Cal.Rptr.288,291
(1983).
Nhưng có người
tranh luận cho rằng phần vỏ não (neo-cortex) của óc mới là quan
trọng, vì nó ảnh hưởng đến ý thức (consciousness) con người cho
nên chỉ có sinh động điện (electrical activity) của não mới có
thể xác định được một người chết hay không. Lý lẽ nào cũng có lý
cả nên sau cùng tiêu chuẩn chết có thể chấp nhận được là khi nạn
nhận mất khả năng ý thức vĩnh viễn và bất khả hồi được chứng tỏ
là vỏ não đã chết thực sự (death of celebral cortex). Tất cả hy
vọng phục hồi tư tưởng và nhân tính vô phương cứu chữa với
những kỹ thuật y khoa tân kỳ hiện đại đang có. Tuy nhiên hiện
nay ở nhiều nơi người ta chấp nhận một định nghĩa CHẾT có tính
cách bảo thủ hơn: Chết là khi toàn thể bộ óc đã ngừng
sinh động điện và bất khả hồi (irreversible cessation of
electrical activity) chứ không chỉ riêng của vỏ não (neocortex)
như trước kia. (Uniform Determination Of Death Act in USA)
Với tiêu chuẩn về
toàn thể bộ não, xác quyết óc chết cũng vẫn còn lôi thôi, bởi vì
Não Động Đồ (EEGs) vẫn có thể khám phá ra những kích động của
não giống như thiệt hoặc một số thuốc hay lượng đường trong máu
xuống quá thấp, dưỡng khí thiếu hay nhiệt độ trong người quá
thấp cũng có thể khiến óc tạm thời ngừng sinh động. Vì vậy các
nhà thương thường có những nguyên tắc chỉ dẫn để xác định óc
chết dựa vào não động đồ bất thường tùy theo trường hợp.
Cũng vì lúc nào gọi
là chết thực vẫn còn chưa được xác quyết và công nhận nên những
vấn đề về tôn giáo, xã hội, y học hay luật học….vẫn còn phải đặt
thành vấn đề. Chừng nào vấn đề vẫn chưa được giải quyết và công
nhận thì những luật lệ, nguyên tắc mà tôn giáo, xã hội, nhà nước
đưa ra vẫn còn là những gì chưa được ổn?
NHỮNG NGHIÊN CỨU CỦA BÁC SĨ SAM PARNIA VÀ NHÓM CHUYÊN VIÊN
Bác sĩ Sam Parnia
là một trong những chuyên viên hàng đầu đặc trách nghiên cứu Sự
Chết theo phương pháp khoa học thuộc Trung tâm Y Khoa Weil
Cornell ở Nữu Ước. Tháng trước ông và các đồng nghiệp của ông
đã tuyên bố tại Trung Tâm Dự Án Nghiên Cứu Ý Thức Con Người
(Human Consciousness) những công việc đầu tiên họ đang
làm: Ba (3) năm nghiên cứu tìm tòi về sinh học của những
“kinh nghiệm lúc hồn lìa khỏi xác”. Cuộc nghiên cứu được
gọi là Sự Tỉnh Táo khi Hồi Sinh / AWARE (AWAreness
during REsustitation) và nghiên cứu trên 1,500 người được
cứu sống sau khi tim ngừng đập thuộc 25 Trung Tâm Y Tế lớn ở Âu
Châu, Canada và Hoa Kỳ. Báo Time có tường thuật việc này và nói
với Bác sĩ Parnia về xuất xứ của dự án, những nghi ngờ cũng như
những khác biệt giữa trí khôn và bộ óc con người.
Phương pháp kiểm chứng những điều mà một người “Gần Chết”
cho biết.
Theo nguyên tắc,
khi tim ngừng đập thì máu sẽ không chạy lên được óc. Lúc đó chỉ
cần
10 giây đồng hồ là
óc sẽ ngưng hoạt động. Nhưng kinh nghiệm cho biết cỡ 10%-20 %
người khi tim đã ngừng đập lại có thể được cứu sống, và chừng
vài phút hoặc hơn giờ đồng hồ sau họ cho biết là họ vẫn tỉnh
táo. Vậy thì vấn đề ở đây là những điều người đó cho biết có
thật hay không hay chỉ là một loại ảo tưởng? Để kiểm chứng, một
cách duy nhất là để những hình ảnh chỉ có thể trông thấy được
khi nhìn từ trên trần nhà xuống mà thôi để xem họ nói có đúng
hay không, bởi vì họ nói họ có thể nhìn thấy tất cả mọi sự từ
trên trần nhà. Vậy nếu chúng ta thử nghiệm một loạt cỡ 200 hay
300 người có tình trạng chết như vậy và nếu họ có thể được cứu
sống trở lại và nói cho chúng ta biết chúng ta đang làm gì và họ
trông thấy đúng những hình ảnh mà ta đã sắp đặt thì có thể kết
luận là họ còn tỉnh táo mặc dù óc họ không còn hoạt động nữa.
Dự
án nghiên cứu này có cho kết quả phù hợp với quan niệm về chết ở
một xã hội bình thường hay không?
Người dân trong xã
hội bình thường quan niệm Chết là trong khoảnh khắc: Hoặc
là chết hoặc là sống, không thể vừa sống vừa chết. Nhưng định
nghĩa chết mà chúng ta công nhận là tim ngừng đập, phổi ngừng
thở và kết quả là óc hết sinh động. Khi bác sĩ chiếu một tia
sáng vào đồng tử con mắt, bình thường mắt sẽ có phản xạ, bởi vì
phản xạ mắt là biểu hiện sinh động của tế bào óc, cơ quan giúp
chúng ta sống, nếu không có phản xạ là óc đã hết sinh động và
người đó đã chết. Lúc đó bác sĩ có thể chứng nhận là bệnh nhân
đã chết với sự chứng kiến của y tá. Nhưng đó là năm mươi năm
trước đây, vì lúc đó với tình trạng này bệnh nhân không có thể
sống lại được.
Làm
sao khoa học kỹ thuật hiện đại có thể thuyết phục được quan niệm
“chết là trong khoảnh khắc”?
Ngày nay với khoa
học kỹ thuật tân kỳ hiện đại người ta có thể làm cho người chết
sống lại. Có những loại thuốc kỳ thần đã được phát minh, nhưng
không biết nó sẽ được tung ra thị trường hay không, có đặc tính
làm chậm lại tiến trình suy thoái của tế bào óc bị tổn thương và
làm bệnh nhân chết chậm lại. Cứ tưởng tượng bạn tiến trước 10
năm, người ta đưa cho bạn một bệnh nhân mà tim vừa mới ngừng đập
cùng với loại thuốc thần diệu ấy thì cái gì sẽ xẩy ra. Thuốc đó
sẽ làm cho mọi sự chậm lại, và nếu là bây giờ thì sẽ chậm hơn
một tiếng, nhưng 10 năm nữa nó có thể kéo dài đến hơn 2 ngày.
Như vậy cứ cái đà phát triển này, y khoa hiện đại càng ngày càng
tiến xa hơn nữa thì một ngày nào đó chúng ta sẽ có không biết
bao nhiêu là vấn nạn về luân lý, đạo đức, luật lệ và tôn giáo.
Nhưng thử hỏi cái
gì sẽ xẩy ra cho con người lúc bấy giờ? Điều gì thực sự sẽ xẩy
ra? Ta biết rằng khi luồng máu không lưu thông đủ thì các tế
bào sẽ phản ứng loạn xạ để tự bảo vệ hầu sinh tồn. Nhưng chỉ
trong vòng chừng 5 phút là chúng bắt đầu bị tổn thương và biến
thái. Sau chừng một giờ, sự tổn thương sẽ rất lớn và nếu ta có
cố gắng kích động tim và bơm máu trở lại thì bệnh nhân cũng
không thể sống được, bởi vì các tế bào đã biến đổi quá nhiều
rồi. Cứ đà đó, các tế bào vẫn cứ tiếp tục biến đổi và chỉ trong
vòng vài ngày là toàn thể xác bệnh nhân bắt đầu phân hóa thối
rữa. Vậy thì chết không phải là trong khoảnh khắc. Nó là cả một
tiến trình thay đổi bắt đầu từ lúc tim ngừng đập đi đến cao điểm
là toàn thể thân xác, tất cả mọi tế bào bị hủy hoại và phân hóa
thành thối rữa. Sau cùng, còn một điều nữa là trí khôn / linh
hồn con người thì sao? Cái gì sẽ xẩy ra cho trí khôn và ý thức
con người trong khi chết? Phải chăng nó cũng ngưng hoạt động
ngay lập tức khi tim vừa mới ngừng đập? Phải chăng nó cũng ngừng
hoạt động trong vòng 2 giây hoặc 2 phút đồng hồ đầu tiên ?
Chúng ta cũng nên nhớ là các tế bào vẫn liên tục thay đổi trong
thời gian đó. Phải chăng nó ngừng sau 10 phút, một nửa giờ hay
một giờ? Đến đây thực sự chúng ta không ai biết.
Điều đầu tiên người chết sống lại nói với bạn là cái gì?
Đây là những điều
bác sĩ Parnia biết được do chính người “chết” sống lại kể với
ông. “Họ làm tôi sáng mắt bừng tỉnh –Bác sĩ Parnia kể-
và cảm thấy mình thấp hèn nhỏ bé lại, bởi vì nghe họ kể mới thấy
họ là những con người thành thật, nói sự thật chứ không phải kể
ra để gây chú ý hay có tham vọng nổi danh gì. Rất nhiều
trường hợp họ không nói cho bất cứ ai biết những điều đó bởi vì
họ không muốn người ta sẽ nghĩ sai lầm về họ”. Bác sĩ Parnia
đã phỏng vấn hơn 500 trường hợp khác nhau từ hơn 10 năm nay.
Tất cả những điều họ kể đều tương tự như nhau và được họ diễn tả
đúng như đã xẩy ra. Bác sĩ Parnia đã tìm cách nói chuyện được
với các bác sĩ và các y tá đã có mặt khi những người chết sống
lại và chính tai họ được nghe những điều người chết nói lại mà
họ không thể cắt nghĩa được là tại sao. Một số những dữ kiện này
đã được bác sĩ Parnia ghi lại trong sách của ông nhan đề What
Happens When We Die. Bởi vì ông muốn mọi người nhìn vấn đề ở cả
hai khía cạnh, không phải chỉ bên phía bệnh nhân mà còn cả bên
phía bác sĩ nữa, để thấy rằng bệnh nhân họ cảm nhận thế nào khi
họ được các bác sĩ cứu họ sống lại và kể cho các bác sĩ những
điều đã xẩy ra với họ. Bác sĩ Parnia đã nói chuyện với một bác
sĩ chuyên khoa tim mạch, ông này nói rằng ông không có kể lại
câu chuyện này cho bất cứ ai bởi vì ông không biết cắt nghĩa làm
sao một bệnh nhân chết sống lai mà có thể kể lại rất chi tiết
những điều ông đã nói và làm. Chuyện này đã làm ông quá sợ hãi
khiến ông quyết định không muốn nhắc đến nó nữa.
Tại
sao ta lại nghĩ là có những phản đối chống lại dự án nghiên cứu
này?
Bởi vì chúng ta cố
gắng vượt qua giới hạn của khoa học, đang cố gắng chống lại
những ức đoán và quan niệm cố định từ ngàn xưa. Rất nhiều người
vẫn giữ cái ý định cố hữu là “khi ta chết là ta chết”. Chỉ có
vậy thôi. “Chết là trong khoảnh khắc”. Hoặc chết hoặc sống.
Không có vừa sống vừa chết. Tất cả những ý tưởng đó chẳng có một
giá trị khoa học gì cả, nhưng đó lại là một quan niệm xã hội.
Nếu chúng ta nhìn lại cuối thế kỷ XIX, các nhà vật lý học lúc
bấy giờ làm việc dựa vào luật chuyển động Newton, và họ giải đáp
tất cả các hiện tượng trong vũ trụ này theo luật Newton. Nhìn
vào thế giới quanh ta lúc bấy giờ thì luật vật lý của Newton
hoàn toàn đầy đủ, nó có thể giải thích tất cả mọi sự mà ta gặp.
Nhưng ngày nay, khi chúng ta nhìn vào những vật chuyển động
thực nhỏ -nhỏ hơn cả những nguyên tử- thì luật Newton’s không
còn giá trị áp dụng được nữa. Do đó cần phải có một khoa vật lý
học mới. Sau cùng chúng ta buộc phải đi tới khoa vật lý học
quantum. Luật này đã gây ra rất nhiều tranh cãi mà ngay cả chính
nhà bác học Einstein cũng không thể ngờ được.
Bây giờ chúng ta
nhìn vào trí óc, ý thức và bộ não. Nếu cứ cho rằng trí óc và bộ
não là một như nhau thì cũng được đi đối với đa số các trường
hợp, bởi vì có đến 99% trường hợp, chúng ta không thể tách biệt
được trí óc khỏi bộ não. Chúng làm việc và hoạt động cùng một
lúc rất khít khao. Nhưng lại còn những trường hợp đặc biệt, dù
là rất hiếm đi nữa, như khi bộ não ngưng hoạt động thì chúng ta
thấy rằng lý luận cho rằng trí khôn và bộ não là một không còn
đứng vững được nữa như ta thấy những kinh nghiệm dẫn chứng ở
trên. Vậy thì cần phải có một nền khoa học mới tương tự như khoa
vật lý quantum vậy. Máy Gia Tốc Siêu Nguyên Tử của Trung Tâm
Nghiên Cứu Nguyên Tử của Âu Châu (CERN)
có thể đưa ta trở về cội nguồn. Nó có thể đưa chúng ta ngược trở
lại lúc khởi đầu, chính những giây phút đầu tiên sau Big Bang.
Với nghiên cứu của chúng ta, lần đầu tiên, chúng ta dùng những
kỹ thuật và phương tiện khả dĩ có thể kiểm chứng được chuyện
này.
ĐÔI LỜI KẾT:
Sự sống đã là một
kỳ công do Thiên Chúa tạo ra, nhưng Chết cũng là một huyền bí
còn mung lung mờ tối. Để có thể thấy được những gì xẩy ra ở
những giây phút cuối cùng của đời ta lúc chết, chúng ta còn cần
phải tiếp tục nghiên cứu tìm tòi thêm nữa. Có hay không một cái
gì còn tiếp diễn sau đó…….và mãi mãi…?
Hãy nhớ rằng: Đời
là vô thường, giả trá. Sinh ký tử qui.
Fleming Island,
Florida 19-10-2008
Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh
|
VỀ MỤC LỤC |
|
ĐỪNG XEN VÀO
CHUYỆN NGƯỜI KHÁC (1)
|
Người Việt Nam ta có câu: “Chuyện người thì sáng, chuyện mình
thì quáng.” Chuyện của người khác thì rất sáng suốt, còn chuyện
mình thì mù tịt, không biết làm sao giải quyết. Làm cố vấn cho
người nầy, người kia thì rất giỏi, nhưng chuyện trong nhà con
cái bê tha thì không biết đường nào hướng dẫn.
Quốc huy vừa khóc vừa chạy vào nhà bếp: “Mẹ, Ba đánh con” nó nói
với mắt đầy lệ. Bà mẹ bỏ chuyện đang làm, ôm đứa con, và an ủi
nó: “Sao thế?” “Ba bảo con là vô lễ, cứng đầu nên ba đánh con.”
”Được rồi, cưng ơi, có mẹ lo rồi. Đừng khóc nữa.” Không lâu đứa
bé nín thinh, bà mẹ đi vào ga ra, ở đó ông bố đang làm việc. Một
sự cải vã giữa bố mẹ xảy ra, trong đó bà mẹ nói rõ ràng rằng bà
không tin vào sự trừng phạt kiểu đó. Ông bố cũng nói rõ ràng
không kém rằng cậu bé cũng là con của ông ta nữa, và rằng khi
ông ta bảo nó dẹp chiếc xe đạp, ông ta không mong nó vô lễ. Cậu
bé đứng đó không chịu làm.
Sự liên hệ cá nhân giữa hai người tùy thuộc hai người có liên
quan. Sự liên hệ của cậu bé với cha nó thì thuộc về hai người,
và bà mẹ không cần phải can thiệp vào để điều khiển liên hệ đó.
Tốt nhất khi cu bé chạy vào mách mẹ về ông bố, bà mẹ có thể nói:
“Cưng ơi, nếu con không muốn ba đánh con. Con có thể nghĩ ra
cách để tránh ăn đòn.” Khi sự xung khắc lắng dịu, bà mẹ có thể
thảo luận với cậu bé để giúp nó thấy cách thế một người có thể
tránh được mà không phải bị ăn đòn. Bà mẹ không thể đứng về phía
nó nếu bà muốn là một nhà giáo dục. Và khi mọi sự trở lại bình
thường, cậu bé hoàn toàn hạnh phúc với sự quan hệ trong cuộc
sống thường ngày, và cả ba phần tử trong gia đình hiện tại cùng
cộng tác với nhau một cách tốt đẹp. Bây giờ, chúng ta hãy thử
phân tích mẫu chuyện mà chúng ta vừa mô tả trên đây.
Cậu bé Quốc Huy khôn khéo trong việc điều động để mẹ nó dấy mình
vào chuyện của nó. Bà mẹ rõ ràng là một phần tử chủ động trong
gia đình. Bà và đứa con đã liên minh trong việc cố gắng khuất
phục ông bố. Cậu bé khôn khéo dùng điểm bất đồng giữa bố mẹ cho
mục đích của nó. Nó biết rằng bà mẹ luôn là kẻ chiến thắng sẽ
bảo vệ nó, sẽ giúp nó đánh bại được đòi hỏi của bố nó. Trong lúc
cậu bé khéo điều khiển bố mẹ cho mục đích nầy, sự phát triển của
nó không quân bình. Nó tìm sự bảo vệ từ những tình cảnh đối
ngược hơn là từ sự khéo léo giải quyết vấn đề. Không nhận ra
được mánh lớ hoặc sự tai hại đối với quan niệm về chính nó, bà
mẹ rơi vào bẩy của đứa trẻ. Ông bố nhất quyết không chấp nhận sự
nhượng bộ của bà mẹ, tiếp tục phết đít cậu bé bất cứ khi nào cậu
bé chọc giận ông. Bà mẹ nhất định kiểm soát toàn thể môi trường
sống của đứa con bà và áp lực ông bố phù hợp với hệ thống của
bà, nên quở trách ông bố. Cậu bé chiến thắng trong mọi chiều
hướng. Đứa con và bà mẹ cộng tác để giữ ông bố ở trong tình
trạng không được ưa thích, còn ông bố và cậu bé cộng tác trong
việc làm cho bà mẹ nhập cuộc. Bà mẹ và ông bố cộng tác trong
việc cố gắng tỏ cho thấy ai là kẻ có quyền hay ai là chủ nhà.
Nhưng đây không phải là gia đình đang sống cách hài hòa. Cậu bé
cũng không được dạy dỗ để kính trọng những người khác, đặc biệt
là bố nó. Dĩ nhiên, nó không thích bị đánh. Nhưng nó muốn chấp
nhận điều đó để lấy được cảm tình và thuyết phục được mẹ nó. Bà
mẹ cảm thấy như bà đang chịu hình phạt thể lý đó. Bà không thích
cậu bé bị đánh như vậy. Vì thế, bà dùng cơ hội đó để áp đặt
những kiểm soát lên chồng bà. Bà mẹ nên chú ý công việc riêng
của bà và nên ngưng ngay việc cố gắng kiểm soát mọi sự. Bà có
quyền theo niềm tin riêng của bà bằng cách không đánh con bà,
nhưng không có quyền bảo chồng bà phải theo cách thế của bà.
Điều khiển sự liên hệ giữa chồng và con thì thuộc về họ chứ
không phải là công việc của bà.
Đây là điểm khó hiểu đối với tất cả chúng ta. Chúng ta không bị
đòi hỏi để thấy một đứa trẻ được đối xử một cách tốt đẹp sao?
Vâng, chúng ta bị đòi hỏi trong một cách thế nào đó. Nhưng thế
nào là đối xử cách thích hợp? Để có câu hỏi đó, nó đòi hỏi một
uy quyền, nhưng trong một gia đình dân chủ, chúng ta không có uy
quyền như thế. Thêm vào đó, vì chúng ta công nhận sự sáng tạo
của đứa trẻ và quyền làm những quyết định của nó, chúng ta có
thể thấy rằng mỗi đứa trẻ trong cách thế riêng của nó, nó chủ
động nhiều trong cách đối xử mà nó nhận được. Vì thế, bổn phận
của chúng ta là hiểu thấu toàn thể tình cảnh, mục đích của đứa
trẻ, và tương quan hành động của những mối liên hệ. Với sự hiểu
biết đó, chúng ta phải huấn luyện đứa trẻ biết chấp nhận tôn ty
trật tự và dạy nó biết cộng tác với những nhu cầu của hoàn cảnh.
Chỉ có cách duy nhất đó, chúng ta mới có thể làm cho hành vi của
nó thăng tiến một cách tốt đẹp.
Dĩ nhiên khi hai bố mẹ có những cá tính khác biệt, những tư
tưởng của họ cũng khác biệt về nhiều vấn đề. Nếu họ có thể đồng
ý với nhau về cách thế giáo dục con cái thì xem ra tốt đẹp hơn,
nhưng việc đó thật ra không cần thiết. Đứa trẻ quyết định về
điều nó sẽ chấp nhận hay sẽ từ chối trong môi trường của nó, và
ngay cả khi bố mẹ đồng ý với nhau về nguyên tắc chung, họ cũng
đối xử với mỗi đứa trẻ một cách khác biệt. Đây là lý do tại sao
đứa trẻ không cảm thấy khó hiểu với sự đối xử khác nhau mà nó
nhận được từ bố mẹ, ông bà, hay bà con thân nhân. Nó thường biết
rất rõ phương cách làm thế nào để có được những mối lợi lớn cho
mình từ mỗi liên hệ khác nhau.
Hơn nữa, chúng ta cũng nhận thấy có một sự liên hệ hỗ tương đặc
biệt giữa sự tin tưởng vào khả năng của bà mẹ có thể đối phó với
đứa trẻ và sự hận thù của bà về cách đối xử mà đứa trẻ nhận được
từ người khác. Bà càng cảm thấy ít có khả năng để ứng phó với
những vấn đề của con bà, bà càng tin tưởng về cách thế những
người khác xử sự đối với con bà. Khi bà cảm thấy có hiệu quả
trong việc kích động con mình có những hành vi thích hợp, bà ít
nhiều ý thức về cách thế những người khác xử dụng. Họ trở thành
một phần của toàn thể tình cảnh và bà phải khôn khéo cộng tác.
Lm. Lê văn Quảng, tiến sĩ Tâm lý |
VỀ MỤC LỤC |
|
LINH MỤC - QUÀ TẶNG
HAY GÁNH NẶNG |
Không ai muốn
trở thành gánh nặng, vì gánh nặng luôn đồng nghĩa với vất vả,
mệt mỏi và cả những thao thức băn khoăn. Hai người dù yêu nhau
tha thiết, ngay cả khi đã là vợ chồng, thì lúc này hoặc nơi nọ
họ vẫn có thể trở thánh gánh nặng cho nhau. Lẽ thường tình là
vậy, vì đó là quy luật đời sống. Ai cũng muốn nhận được quà
tặng, nhưng đôi khi, lại tự biến thành gánh nặng của chính mình
rồi chất lên vai kẻ khác mà không tự biết. Trong một gia đình,
con cái thường là những quà tặng tuyệt vời của Thiên Chúa dành
cho các bậc cha mẹ, và cha mẹ luôn là các ân phúc quý báu dành
cho những người con. Tuy nhiên, vẫn không hiếm những trường hợp
các thành viên trong nhà đã trở thành gánh nặng của nhau, và vì
vẫn là những con người, nên gia đình giáo hội của Chúa cũng
không có biệt lệ.
Những điều
này, các đấng bậc trách nhiệm của Giáo hội đã nhiều lần chỉ rõ .
Những con cừu Panurge:
Công đồng
Vatican II đã mang lại nhiều sức sống mới cho Giáo hội, rất tích
cực và sinh động, cách riêng về phía người giáo dân. Trong giáo
xứ, người giáo dân cộng tác với cha xứ trong hầu hết mọi sinh
hoạt. Từ tổ chức điều hành đến huấn luyện giáo dục và phụng vụ,
họ đều có mặt trong Hội đồng giáo xứ, Ban hành giáo, Giáo lý
viên, Ca đoàn…… Trong các hội đoàn như Legio, giới Hiền mẫu,
giới Gia trưởng ….người giáo dân giúp đỡ nhau, nâng cao trình độ
cho nhau, cùng nhau làm nhiều việc mục vụ trong xứ : thăm viếng
an ủi người cô đơn đau ốm, gặp gỡ người ngoại, nâng đỡ kẻ khô
khan rối rắm, giúp đỡ người nhập cư …
Một số giáo
dân khác còn tham gia những công việc, mà trước đây, chỉ có hàng
giáo sĩ mới có khả năng như : chú giải Thánh kinh, dạy Triết và
Thần học, nghiên cứu tôn giáo, cộng tác vào việc đào tạo chủng
sinh, tu sĩ ….
Sau Công đồng
chung VAT II, ai cũng thấy đã có nhiều nỗ lực và những đổi thay
rất đáng kể trong gia đình Giáo hội, tuy nhiên, so với những đòi
hỏi và kêu gọi của Công đồng VAT II thì vẫn còn đó một khoảng
cách không nhỏ, khoảng cách ấy đã biến người giáo dân và giáo sĩ
thành những gánh nặng. Gánh nặng của chính mình và gánh nặng cho
người khác.
Thực thế,
ngay ở những trang đầu của bộ Thánh Kinh, lời của Thánh
Giêrênimô đã được trích dẫn như một điều cần phải được nhấn
mạnh : “Không biết
Thánh kinh, là không biết Chúa Giêsu”.
Dù vậy, thực tế đã chỉ ra rằng, người tín hữu Công giáo là người
ít đọc Thánh kinh nhất so với các hệ phái cùng tôn thờ Chúa
Giêsu. Ít đọc đến mức, thậm chí có nhiều giáo dân đã không biết
cách tìm đúng địa chỉ các câu hoặc các chương của bộ Kinh
thánh.
Mặt khác nữa,
phần lớn các giáo dân cảm thấy không có nhu cầu cần phải đọc
Thánh kinh, đa số đều tự hài lòng và lấy làm an tâm thoả mãn vì
đã có những câu lời Chúa, đang khi các câu lời Chúa chỉ là những
mảnh vụn và thật rời rạc so với toàn bộ Kinh thánh. Một hiểu
biết vụn vặt và rời rạc về Đấng mà mình tôn thờ như thế, quả
thật, hiểu biết ấy không có gì đáng để tự hào. Chính vì thế,
nhận thức và đời sống tín lý của số đông này rất hời hợt. Các
kiến thức về đạo chủ yếu được nuôi dưỡng bằng các bài giảng của
linh mục ngày Chủ nhật, mà mức tiếp thu thường vốn rất hạn chế,
chưa kể nhiều trường hợp vị linh mục bận rộn đến mức, không đủ
thời gian để soạn bài giảng cho súc tích và gần gũi với thực tế
cuộc sống.
Vì đời sống
đức tin hoàn toàn phụ thuộc vào linh mục như thế, nên người
giáo dân mất
dần khả năng suy tư độc lập và
từ đó, ý thức mỗi ngày một bị bào mòn để biến thành các con cừu
Panurge, những gánh nặng của chính mình. Họ không còn là những
cộng tác viên Nuoc
Troi như Chúa muốn và Công đồng mời gọi, nhưng đã
tự biến mình thành những gia nhân cua Cha xu, chỉ
có nhiệm vụ : đóng tiền, cầu nguyện và vâng lời tối mặt, đang
khi trong cộng đồng Dân Chúa, mọi giáo dân đều có chung chiều
kích là tư tế, vương giả và
ngôn sứ của một dân riêng
được tuyển chọn, và nguời giáo
dân cũng là các linh mục
phổ quát như Công đồng đã xác nhận.
Tuy nhiên, tư
tế, ngôn sứ và vương đế hoặc linh mục phổ quát sẽ chỉ là các
thuật ngữ khô cứng trên mặt giấy, chẳng liên quan gì đến đời
sống đức tin của tôi, nếu tôi thiếu nhu cầu và cảm thấy rằng
không cần học biết, vì tôi thấy mình đã quá đủ.
Không
biết
Thánh kinh, là không biết Chúa Giêsu.
Những lời ấy của Thánh Giêrônimô thời nào cũng đúng, vì thế, xác
quyết của Ngài phải là thao thức của tất cả những ai muốn được
kết hợp thực sự với Đấng cứu độ của mình.
Các quan linh mục
Mỗi Linh mục
đều là một quà tặng tuyệt vời của Thiên Chúa dành cho phần rỗi
mọi người. Lý tưởng dâng hiến và phục vụ của đời tu, tự nó đã đủ
cao đẹp để ai cũng phải ngưỡng mộ và biết ơn. Tuy nhiên, người
linh mục dù được trao 7 chức thánh, nhưng các ngài vẫn bị hạn
chế về nhiều mặt và vẫn có đủ các tham sân si của phận người, vì
thế, khi lý tưởng đẹp đẽ ban đầu nhạt dần theo màu áo thời gian,
người linh mục dễ biến thành các công chức cao cấp, những ông
quan linh mục, rồi trở thành gánh nặng của chính mình hồi nào
không hay.
Có thứ gánh
nặng dễ biết, có nhiều trường hợp tự biến thành gánh nặng rất
khó nhận ra.
Sẽ biến thành
gánh nặng, khi nghĩ rằng, đậu
linh mục là đã tới
được bến rồi,
để từ đó, xem nhẹ hoặc bỏ quên nhu cầu đào tạo, tự đào tạo, giáo
dục và tự giáo dục. Trong các tài liệu thường huấn và tĩnh tâm
hàng năm của các linh mục, Đức Giám mục Bùi Tuần luôn đề cao và
nhắc nhở nhu cầu tự giáo dục luôn là đòi hỏi hàng đầu, và phải
được xếp vào ưu tiên trước hết .
Sẽ là gánh
nặng, khi xử dụng quyền bính để coi
dân riêng của
Chúa là dân đen
của mình. Ở nhiều nơi, cha
xứ chỉ cần người giáo dân biết ngoan ngoãn vâng lời, và càng
biết ít về tín lý và thần học thì càng dễ chăn dắt. Có vị còn
nuôi dưỡng quyền bính và sự sợ hãi đối với mình, bằng cách rao
giảng một Thiên Chúa
đáng sợ và sẵn sàng trừng phạt, thay
vì một Thiên Chúa tình thương và người Cha vô cùng tốt lành nhân
hậu. Vì thế, chuyện có nhiều gia nhân của cha xứ, thay vì là
những cộng tác viên Nước Trời để cùng nhau xây dựng trời mới đất
mới là điều phổ biến và dễ hiểu.
Sẽ là gánh
nặng, khi xử dụng quyền bính để đặt nặng chuyện xây dựng các cơ
sở vật chất, mà coi nhẹ chuyện xây dựng đền thờ sống động là
những con người. Không ít linh mục đã muốn để lại dấu ấn cá nhân
mình, khi xây dựng các nhà thờ thật hoành tráng để ganh đua với
các xứ khác, đang khi cũng nhà thờ ấy và những cung thánh ấy
còn đang là niềm mơ ước của rất và rất nhiều nơi khác nghèo hơn.
Đã có nhiều trường hợp những người giúp đỡ từ nước ngoài,
khi về thăm, họ đã rất ngạc nhiên về những hoành tráng và sự
sang trọng quá mức, của các nhà thờ và nơi thờ tự ở đây đã làm
họ hết sức ngỡ ngàng, vì chính họ ở bên ấy cũng không có được
như vậy .
Sẽ là gánh
nặng, khi người giáo dân nghèo luôn trở thành những kẻ vô danh,
dù thường gặp mặt, nhưng người chủ chiên vẫn chẳng cần biết đến
tên của họ, song Ngài lại quan tâm đặc biệt đến những kẻ giầu có
với những khoản dâng cúng to lớn và quà cáp hậu hĩ giá trị .
Đặc biệt, khi
không còn giữ được đức khiết tịnh là 1 trong 3 lời khấn của
đời tu , lúc ấy, Ngài sẽ trở thành gánh nặng đau khổ không thể
nói hết bằng lời. Vì lời nào cũng là thừa, và nói lời nào cũng
vẫn là sẽ thiếu, nên tốt nhất là im lặng không nói, kẻo lại bị
vạ miệng hoặc kết án là xét
đoán thì sẽ
bị đoán xét .
Trong một lần
gặp mặt và chia sẻ với giáo dân, Đức Hồng Y Tổng Giám mục của
chúng ta đã tâm sự đại ý rằng : “Một trong các đau khổ và nhức
đầu nhất của tôi là phải làm việc về những vấn đề lôi thôi có
liên quan đến linh mục.”.
Được nghe
những tâm sự ấy của người cha chung, chúng ta hiểu được rằng,
gánh nặng mà Ngài đã phải mang chẳng hề là nhẹ nhàng đơn giản .
****
Dù không có
dịp đi nơi này nơi khác, nhưng ai cũng có thể thấy rõ những thực
trạng trên của cộng đoàn Dân Chúa. Dĩ nhiên các thực trạng kia
không phải là tất cả, vì vẫn còn đó, rất nhiều những vị chủ chăn
luôn tận tuỵ và hết lòng với đoàn chiên của mình, các vị ấy vẫn
đang ngày đêm âm thầm phục vụ và hiến dâng trong thinh lặng
chẳng mong được ai hay biết.
Cũng đang có
rất nhiều các giáo dân, họ ý thức rất rõ chiều kích
cộng
tác viên Nước trời của họ,
họ đang tích cực hoạt động trong những điểm nóng mà nhiều người
e ngại, những vết thưong và ung nhọt của xã hội như HIV & Ma
tuý, giúp ngăn ngừa phá thai, mãi dâm. Gần đây việc thu góp và
chôn cất các hài nhi bị bỏ rơi rồi quy tập thành những nghĩa
trang ở nhiều vùng miền trên cả nước, những việc ấy đã đánh động
lương tâm xã hội rất lớn … Những đóng góp của họ, có thể là rất
nhỏ bé và thật khiêm tốn so với nhiều công trình vĩ đại lẫy lừng
khác. Nhưng thật ra, chẳng có việc nào là nhỏ bé hoặc là vĩ đại
trước Đấng Sáng tạo, vì Ngài luôn nhìn vào cõi lòng mỗi người để
lượng giá, hai đồng xu nhỏ bé của bà goá không lớn hơn hết mọi
đồng bạc dâng cúng đó sao ?
Những việc ấy
đích thực là những món quà tặng vô cùng quý gia. Những quà tặng
này của cả chủ chiên lẫn con chiên vẫn đang hiện diện đó đây,
nhiều lắm.
Cần phải nói
về gánh nặng để tôn vinh quà tặng, vì nhờ thế gánh nặng sẽ bớt
đi ít nhiều. Một que diêm của ánh sáng cũng lui đi phần nào bóng
tối, thay vì cứ ngồi đó mà thở than nguyền rủa hoặc kết án.
Lạy Chúa !
Con bất toàn,
giáo xứ của con bất toàn, Giáo hội và cả thế giới mà con đang
sống cũng đẩy rãy bất toàn, vì chỉ duy nhất có Chúa là Đấng toàn
hảo.
Xin nhắc nhở
con luôn ý thức sâu sắc về điều ấy, để từ đó, con sẽ trông cậy
thiết tha vào Đấng toàn thiện, toàn năng là Thiên Chúa và cũng
là Cha của con. Nhờ thế, con sẽ tỉnh thức hơn, để nhìn rõ vị trí
và chỗ đứng của con mà Chúa đã đặt để con vào, nhờ vậy, con sẽ
hoàn thành bổn phận mà Chúa đã trao cho con.
Từ xa xưa,
con vốn là quà tặng, nhưng khi này khi khác nhiều lần, con đã
trở thành gánh nặng cho không ít người.
Xin cho con
một tia sáng, nhỏ thôi, từ trời cao rọi xuống, tia sáng ấy sẽ
giúp con kịp thời nhận ra và đủ sức mạnh để điều chỉnh mình, vì
khi con thay đổi cuộc đời xung quanh con cũng sẽ đổi thay.
Xuân Thái |
VỀ MỤC LỤC |
|
NGÔN NGỮ CỦA BÀN TAY
|
Tối hôm ấy,
sau khi đóng cửa tiệm, trên đường về tôi ghé chợ thực phẩm mua
rau, cá, thịt... và các thứ linh tinh, định sẽ nấu ăn trong
khoảng một tuần.
Cho xe vào
garage và thu dọn những thứ mình vừa mua đem vô nhà, tôi thấy
cái túi nylon nho nhỏ có hình những vòng tròn màu đỏ (ký hiệu
của chợ "Target") nằm dưới sàn xe ngay bên hông chân ghế trước.
Nghĩ rằng ông xã mua thuốc dán "Salonpas" ở chợ Target cho mình.
Vì mấy hôm nay cánh tay trái tôi bị đau đau, nên "quơ" luôn đem
vô và lấy ra một miếng để dán.
Ơ kìa... sao
chẳng có thuốc dán "Salonpas" hay "WellPatch" như ông xã thường
mua?! Eo ơi, hộp "e.p.t. Pregnancy Test" để thử xem có mang thai
không?!!! Ngạc nhiên nhưng tôi lập tức hiểu ra...
***********
… Sự việc
thoáng xảy ra lúc xế trưa... Tiệm vắng khách, tôi thả bộ ngoài
hàng hiên trước sân vừa cho gân cốt vận động, vừa hít thở khí
trời. Tôi thấy một cô bé dáng dấp á Đông: hớt hải và xăm xăm từ
phía chợ Target đi qua phía tiệm tôi (vì cùng chung khu thương
mại và chợ Target). Cô bé càng đến gần, tôi càng đoán chắc cô là
người Việt nên nói:
- Trông cháu
vội và có vẻ lo lắng là biết không phải đến tiệm cô làm tóc hay
làm tay rồi!
Một tay cô
đưa lên ngực để nén xúc động, còn tay kia cầm cái túi nylon nho
nhỏ (có những vòng tròn đỏ) chắc mới mua ở chợ Target, mừng rỡ
nói:
- Thấy tiệm
"Hair & Nail" cháu đoán của người Việt mình thì đúng ngay! Vì má
cháu cũng có cái tiệm nhưng chỉ làm "nail" thôi.
Tôi buột
miệng khen:
- Cháu nói
tiếng Việt quá giỏi!
- Cháu học
hết lớp Ba bên Việt Nam mới qua đây mà cô! Cô ơi... cô...
Cô gái ngại
nói tiếp. Nhớ dáng vẻ xăm xăm hớt hải khi nãy của cô, tôi động
viên:
- Việc chi
cháu cứ nói. Hễ giúp được, cô sẵn sàng.
- Thật hả cô?
Không giấu gì cô, cháu phải tới ngay tiệm ăn... để kịp giờ làm.
Cháu mới xin được việc làm ở đấy hồi tuần trước và đã đi trễ hết
một lần, trễ nữa cháu lo bị đuổi. Cháu và bạn cháu vừa đi học ra
thì bạn chở cháu ghé chợ Target, còn bạn cháu lo đi đổ xăng để
sẽ trở lại đón cháu đưa tới chỗ làm. Nhưng, bạn cháu vừa gọi,
nói là chạy nhanh bị cảnh sát giữ, chờ lập biên bản mới được thả
cho đi. Cô ơi, giúp đưa cháu tới chỗ làm, kẻo trễ mất!
Tôi đang rảnh
và nơi cháu làm cũng khá gần đây, đương nhiên tôi giúp. Tuy
nhiên tôi nói:
- Lần sau nếu
gặp chuyện như thế này, cháu nên nhờ ba má, anh chị hoặc người
thân quen. Nhờ người lạ cho dù là người Việt cũng không mấy an
toàn đâu.
Cô cười
nghịch:
- Không an
toàn cho cháu và cả cho cô nữa chớ gì? Chắc cô cũng lo lên xe
rủi bị cháu la làng rằng cô bắt cóc...
Thôi thì cô
đã trót bỏ quên, mình sớm trả lại cho cô vậy! Tôi "quơ" vội túi
xách đựng giấy tờ của mình và cầm luôn "của nợ" này, lao ra xe.
Trên đường phóng tới tiệm cô làm, tôi rối bời trong dạ vì lo cho
cô và cho cả má cô nếu biết con gái mình... Đến tiệm cô làm,
nhìn sâu vào trong không thấy cô, lúc này tôi mới thật sự lúng
túng, chẳng biết hỏi han thế nào để được gặp vì đâu đã biết tên
cô! Lúc đưa cô đi, tôi chỉ mới hỏi thêm: "Cháu trông nhỏ lắm!
Học được tới lớp mười chưa đã vội lo đi làm sớm vậy?" thì cô
buồn buồn cho biết: "Không đi làm, cháu không có tiền tiêu. Hơn
nữa cháu sắp mười bảy tuổi và đang học lớp mười một". Tôi
cũng định hỏi han này nọ nhưng điện thoại di động của cô reo.
Quãng đường chỉ có mấy phút xe, nên đưa cô đến chỗ làm mà cô với
ai đấy bên kia đầu điện thoại chưa dứt cãi nhau bằng tiếng
Anh...
Tôi đành chọn
chiếc bàn ngồi vào, gọi tạm một món để trong khi chờ đợi hoặc
đang lúc mình ăn hy vọng sẽ được gặp cô. Còn không, chắc tôi
cũng có dịp chuyện trò với mấy người tiếp bàn, dò tin về cô vậy.
Thế rồi, cũng
chẳng thấy cô bước ra! Nhưng cô tiếp bàn mang thức ăn cho tôi là
một cô Mỹ khá vui tánh và cũng ở lứa tuổi học trò. Tôi tả dáng
người, liền được cô Mỹ reo tên cô lên, cho biết cô bị nôn mửa,
chủ cho về sớm và bạn trai đã đến đón. Tôi nghe mà rụng rời!
Chắc cô có thai và đang sống với bạn trai?! Có thể cả hai học
chung trường chung lớp?! Hồi xế trưa nghe cô nói "bạn cháu", tôi
đinh ninh là "bạn gái" nên đâu có ngờ!... Cô Mỹ thấy vẻ mất bình
tĩnh của tôi, hỏi có làm sao không? Tôi vờ chẳng nghe để khỏi
phải trả lời. Tôi cũng không dám đưa cái túi nylon có hộp
"e.p.t. Pregnancy Test" để nhờ trao lại, vì cảm nhận bao nỗi lo
ngại... Hỏi xin số điện thoại của cô, cô Mỹ không chịu cho, bù
lại cô ta ghi số điện thoại của tôi với lời hứa: sẽ lập tức gọi
báo cô hay có người hồi xế chiều giúp chở cô đến tiệm muốn gặp
gấp. Cô Mỹ quả y lời. Trên đường về nhà, điện thoại di động của
tôi vụt reo. Cô muốn tôi chỉ đường để bạn đưa đến lấy.
Trời đêm
lạnh, cô mặc phong phanh mà không chịu vào nhà, chỉ đứng ngoài
cửa chờ lấy lại cái túi, vì bạn ngồi trên xe đợi. Tôi xin số
phone cô không cho. Trao lại cái túi, tôi đi theo tiễn cô ra xe
để được dặn đôi điều:
- Về thử nếu
thấy mang bầu cháu nhớ: đừng có giết người. Cháu có dự tính gì
hãy nói cho mẹ cháu biết, còn không thì cho cô biết để cô giúp
cháu.
Cô dạ dạ,
không giấu được xúc động, vừa quẹt nước mắt vừa chui vô chiếc xe
cộc cạch của cậu bạn. Cậu bạn mặt mũi non choẹt, khẽ chào tôi
rồi phóng xe đi. Cậu có vẻ như người Lào, và hởi ơi cả hai cùng
"con nít"! Tôi đứng như trời trồng ở ngoài sân, hướng lòng lên
CáC ĐấNG MìNH YÊU, thống thiết cầu xin cho cô gọi mình và cho
mình sáng suốt để khuyên bảo được cô chịu nghe.
Hơn một giờ
sau cô gọi, khóc:
- Cô ơi cháu
bị... bị có bầu rồi!
Mừng được cô
gọi, tôi an ủi:
- Bình tĩnh
đi cháu! Cháu đã báo cho má cháu biết chưa?
- Chưa, và
không bao giờ cháu báo. Tại má cháu mà cháu ra nông nỗi này!
Cháu thù hận bả.
Tôi nhỏ nhẹ:
- Coi kìa!
Đừng có vậy! Cháu đã học tới lớp mười một. Con gái càng lớn lẽ
ra càng biết thương và thông cảm với mẹ mình hơn chứ! Đây nhé,
cháu nghe cô đọc bài thơ của một em nữ sinh mới lớp mười, tức
dưới cháu một lớp. Em vốn là học trò của cô, vì bên Việt Nam cô
đi dạy. Bài thơ em làm để tặng mẹ mình: bày tỏ lòng yêu mẹ, đặc
biệt bàn tay mẹ. Em viết:
"Mẹ ơi
trên cõi đời này,
Con yêu
quý nhất bàn tay mẹ hiền.
Chính bàn
tay mẹ tay tiên,
Bồng con
suốt mấy năm liền mẹ ơi!
Chở che
những lúc trở trời,
Lo cơm áo
ấm đồ chơi đồ dùng..."
- Đủ rồi cô
ơi, cháu không thích nghe nữa đâu!
Ngắt lời tôi cô nói như vậy. Rồi cô nói tiếp với giọng cứng rắn,
không còn khóc nữa:
- Vì càng
nghe cháu càng thêm hận bàn tay của má cháu! Cô biết không? Tại
đôi bàn tay của má cháu quăng đồ đuổi cháu đi nên đời cháu mới
phải như thế này! Bàn tay mẹ người ta thì cho con tình yêu
thương chớ đâu như bàn tay của má cháu! Cháu mà làm được thơ
cháu sẽ làm bài thơ tả nỗi thù hận bàn tay má cháu.
Mừng vì được
cô bực dọc nói ra như thế, tôi hỏi:
- Cháu có thể
cho cô biêt tại sao má cháu quăng đồ đuổi cháu đi?
- Tại má cháu
không có hiểu cháu. Cái tánh của cháu học hành thì phải có vui
chơi giải trí, mà ba má ngày nào cũng ôm cái tiệm làm đến tối
mịt mới về. Khi về tới nhà thì má hay chửi cháu, bảo cháu không
biết dọn dẹp ngăn nắp. Vì cháu là chị cả, hai thằng em cháu lớn
rồi, chúng nó bướng như gì và suốt ngày bày biện, cháu dọn đâu
có xuể. Sự việc xảy ra cách nay hơn hai tháng, tụi bạn rủ đi xem
phim, cháu xin, cả ba má cháu đều không cho. Cháu đi đại vì sẵn
lúc bực hai thằng em cãi nhau ném lung tung đồ đạc nên cháu
không muốn ở nhà làm đầy tớ dọn dẹp không công cho chúng. Đi về
hơi khuya, vừa bước vô cửa, ba la mắng cháu, còn má quăng đồ
đuổi đi, bảo cháu bồ bịch với thằng nào rồi mê nó, được nó rủ là
nghe, không còn coi lời cha mẹ ra chi nữa! Má đuổi thì cháu đi,
và nghi là cháu mê trai thì cháu đến nhà thằng bạn này ở cho vừa
bụng bả, chớ cháu đâu có yêu thương gì nó và nó cũng vậy. Tụi
cháu chỉ là bạn cùng học, cùng vui chơi cả nhóm với nhau thôi.
Tôi nén tiếng
thở dài:
- Thế ba má
không đi kiếm cháu về à?
- Có chớ! Sau
lúc cháu lao đi, ổng bả lao theo. Sắp đuổi kịp thì cháu ra giữa
đường nói là đứng cho xe cán nếu tiếp tục đi theo, hoặc cắn lưỡi
tự tử nếu gọi cảnh sát. Cho nên ổng bả phải đi về, và kể từ đấy
hễ thấy số phone ổng bả gọi, cháu không trả lời. ổng bả đến
trường, cháu nói đến quấy rầy bêu xấu cháu với thầy cô bè bạn:
cháu sẽ tự tử chết. Cho nên cũng không còn thấy ổng bả đến
trường tìm cháu nữa. Mà cháu muốn như vậy. Đã đuổi cháu đi thì
coi như hết. Nhất là không chỉ chửi đuổi bằng miệng, còn bằng
đôi tay tàn nhẫn quăng ném quần áo cháu ra sân. Từ nay đường
cháu cháu đi, đời cháu cháu lo. Cháu có bầu thì cháu phá thai vì
đứa bé đâu đã thành người. Còn hơn để nuôi nó lớn, thế nào cũng
có lúc cháu sẽ làm như má cháu là quăng đồ đuổi nó đi, cho nó
lại thù hận cháu nữa sao?!
Tôi hỏi:
- Cháu đang
dùng phone nào nói chuyện với cô vậy?
- Cô lo cháu
dùng phone nhà bạn bị má bạn nghe lén chớ gì? Không có đâu, má
của bạn cháu tốt lắm, thương cháu như con gái vì bà bị chồng bỏ
và chỉ có mình bạn cháu là con; vả lại bà là người Lào đâu có
hiểu tiếng Việt. Nhưng cháu đang dùng "cell phone" của cháu. Cô
ơi, thử thấy có bầu, bạn cháu bảo sớm lo phá thai, kẻo má nó
biết được thì chết. Cháu cũng nghĩ như vậy. Nhưng cháu thấy khổ
trong lòng lắm, nên trùm mền nằm khóc và gọi cho cô. Chớ cháu
không dám nói với má bạn cháu, vì cháu biết bà không thông cảm
đâu! Bà đuổi cháu đi ngay lập tức đấy! Bà bảo đang lúc cháu còn
giận má cháu quá như vậy, nên bà phải mở vòng tay, vì nhà có dư
phòng. Bà giao hẹn với cháu không được lạng quạng với con bà;
phòng ai người nấy ở. Cháu tưởng hứa với bà thì giữ được, nhưng
đâu có ngờ! Nhất là những lúc nhớ lại cảnh má cháu miệng chửi
cháu mê trai, tay quăng đồ cháu đuổi đi chẳng "care" gì đến
cháu, nên cháu cũng chẳng "care" gì thân xác cháu nữa!
Tôi lại hỏi:
- Thế cái
"cell phone" của cháu ai mua và ai trả tiền hằng tháng vậy?
Cô xẳng giọng
với tôi:
- Sao cô cứ
việc cái phone hỏi cháu hoài vậy?
Nhưng cô lại
lập tức giải thích:
- Thì má cháu
mua má cháu trả tiền. Má mua cho hồi cháu sinh nhật mười sáu
tuổi.
Tôi cười để
cháu hiểu tôi chẳng có trách chi cháu hết:
- Nghe cô nói
đây. Tại cháu đổ lỗi má cháu không hiểu cháu, không "care" chi
cho cháu, và cháu thù hận bàn tay của má cháu, nên cô mới hỏi về
cái phone tay của cháu để muốn cháu nhìn lại vấn đề hơn. Má cháu
hiểu rằng cháu rất cần cái phone tay và luôn "care" cho nhu cầu
này của cháu đấy! Cho nên bàn tay má cháu đang bị cháu thù hận
đó, cũng chính là bàn tay tháng tháng ký chi phiếu thanh toán
hóa đơn tiền cái phone tay cho cháu dùng. Do đó việc cháu trách
má không hiểu cháu, theo cô chính cháu mới là không hiểu má
mình! Tất nhiên cô không đồng ý việc má mắng mỏ rằng cháu mê
trai và quăng đồ đuổi cháu đi; nhưng cô thông cảm hành động má
cháu lúc đó vì cô đã có lâm cảnh ấy! Hồi con gái cô còn học lớp
mười, lớp mười một cũng có theo bè theo bạn đi xem phim đến hai
ba giờ sáng mới về. Suốt ngày cô ôm cái tiệm làm đã mệt, về nhà
khuya lơ khuya lắc còn bắc ghế ngồi ngủ gục tại cửa chờ con.
Thấy con về, mừng quá sức nhưng cũng giận điên lên, nên đã quăng
đồ đuổi đi vì nghĩ làm như vậy con sợ, không dám đi chơi khuya
nữa. Nhưng, cái may của cô là con biết sợ và không dám hận mẹ,
từ đó hết đi chơi đêm, chú tâm học hành.
Cô hỏi với
giọng khó chịu:
- ý cô muốn
chửi xéo là má cháu vô phúc nên có đứa con như cháu chớ gì?
- Đấy là cháu
nói chớ cô không dám có ý đó. Do được cháu quý mến, tâm sự với
cô, thì cô cũng tâm sự để cháu hiểu đời làm mẹ: cô cũng đã xử sự
thật đáng trách với con mình chớ chẳng tài giỏi chi hết!
Giọng cô đổi
sang nũng nịu:
- Nói chuyện
với cô, cháu thấy bị nhức đầu! Sao cô không để cháu được sống
yên với nỗi hận má cháu?!
Tôi cười:
- Cô nói thêm
điều này nữa cho cháu được nhức đầu luôn một lần trong đêm nay
để rồi thôi nhé! Bàn tay má cháu chỉ có quăng đồ đuổi cháu đi mà
cháu hận má đến vậy! Thử hỏi nếu bàn tay cháu giết con của cháu
thì nó sẽ hận cháu đến đâu? Cháu đừng tưởng khi còn là bào thai
thì đâu đã thành người. Cô nói cho cháu biết: bắt đầu thụ thai
tức là có sự sống thì cũng có luôn linh hồn của con người rồi,
nên cũng biết thế nào là yêu thương, cám ơn, kêu cứu... Nếu cháu
không tin thì hôm nào cô sẽ chứng minh. Thôi, cô xin phép. Cháu
ngủ mai đi học. Cô cũng ngủ mai đi làm. Cô mong được cháu gọi
luôn để cô cháu mình cùng tâm sự.
Cháu "dạ"
cách nhỏ nhẹ và cũng nhỏ nhẹ nói "Cháu cám ơn cô".
Sáng sớm hôm
sau đang lúc tôi nấu bếp để chuẩn bị đi làm thì cô gọi, cho
biết:
- Má cháu vừa
gọi, và lần này cháu chịu nghe điện thoại vì mỗi sáng má thường
hay gọi. Má khóc, kêu cháu về, muốn gì má cũng chiều, lầm lỡ gì
má cũng tha. Má năn nỉ cháu cho má đến để cám ơn và tiền nong
sòng phẳng với má của bạn cháu, vì má dò biết bà nghèo, một mình
nuôi con, hơn hai tháng nay còn nuôi thêm cháu tốn kém. Cháu để
mặc má nói má khóc, cháu chỉ nghe, không trả lời.
- Cháu không
trả lời, má tưởng cháu đồng ý, má sẽ đến đấy!
Nghe tôi nói
thế, cô kêu hoảng:
- Vậy sao
cô?! Cháu phải gọi má!
Cô cúp phone.
Tôi trở lại với việc nấu bếp trong niềm vui khôn tả! Nhưng vui
quá thành... đãng trí: lấy muối nêm canh mà bỏ nhầm vô nồi chè!
Tối hôm đó
không thấy cô gọi. Tối hôm sau cô mới gọi:
- Cháu nói
chuyện với má cả thảy năm lần, với ba hai lần. Hồi sáng ba má
đến trường gặp cháu cho tiền, bảo đừng đi làm, để sức mà học nên
cháu đã xin nghỉ làm. Mới lúc nãy ba má vừa đến gặp má bạn cháu
đưa tiền, bà không nhận, bảo thương cháu như con gái. Cô ơi,
cháu bây giờ rất muốn về với gia đình và tiếp tục học hành cho
đến nơi đến chốn mà kẹt cái bầu! Cháu đâu biết làm sao phá nó!
Lại đâu dám nói với ai, chỉ nói với cô nhưng ý cô đã vậy chắc
cháu chỉ còn cách lao ra đường cho xe cán. Cháu thấy cô thương
cháu nhưng sao việc này cô không giúp?!
Tôi hỏi cô có
tin ở tôn giáo nào không? Cô nói đâu có đi đạo nào mà tin.
Nhưng, cô thấy mến đạo Phật vì nhà cậu bạn có thờ ông Phật ngồi
chắp tay hiền lành nên má cậu hiền lành, không mắng chửi cậu bao
giờ. Tôi cho biết tôi đạo Chúa nên đề nghị trưa mai tan trường
sẽ đón, hai cô cháu đi ăn rồi sẽ đưa nhau đến nhà thờ để trong
khung cảnh tĩnh lặng, thiêng liêng của chốn giáo đường - nơi tôi
hết lòng kính yêu - tôi mới giải thích lý do...
Nhà thờ Saint
John Vianney vắng vẻ chẳng có ai. Tôi đưa cô đến chỗ tượng Đức
Mẹ bế Chúa Hài Nhi, cô buộc miệng nói:
- Cháu hiểu
rồi! Đạo Chúa của cô thờ bà mẹ bế con nên cô không chịu giúp
cháu phá cái bầu!
Không ngờ cô
có ý nghĩ như vậy, lại thấy cũng lý thú nên tôi chẳng nói chi,
tiếp tục đưa cô đến trước tượng Chúa chịu nạn. Tôi quỳ bái Chúa
rồi rủ cô cùng ngồi vào băng ghế và lấy trong túi xách hai điện
thư với đầy đủ các ảnh có màu đã nhận được. Tôi nhắc:
- Cháu nhớ
hôm nọ cô nói đứa bé dù còn là bào thai cũng đã là con người nên
biết tỏ tình yêu thương, cám ơn, kêu cứu... thì hôm nay cô muốn
chứng tỏ cho cháu thấy.
Trước hết,
tôi đưa cô xem bức điện thư kể chuyện bác sĩ Bruner ở tiểu bang
Tennessee hồi tháng 9-1999 đã mổ cứu bé Samuel đang còn là bào
thai trong bụng mẹ mới được 21 tuần nhưng bị tật bẩm sinh ở cột
sống. Lúc dao mổ của bác sĩ cắt màng bào thai ra thì bé thò bàn
tay bé xíu ra nắm lấy ngón tay vị bác sĩ chữa trị cho mình.
Nhiếp ảnh viên Michael Clancy của tờ USA Today đã chụp được tấm
ảnh thật cảm động này... Cô xem, rồi ứa nước mắt:
- Bàn tay bé
xíu của bé thấy thương quá! Tội nghiệp bé muốn sống nên thò
nguyên bàn tay bé xíu ra nắm lấy ngón tay to lớn của bác sĩ để
tỏ lòng cám ơn cứu mạng cho bé!
Tôi đưa cô
xem tiếp một điện thư khác về việc "Ăn Thai Nhi" ở bên Trung
Quốc. Vừa nhác thấy mấy tấm ảnh một thai nhi đỏ hỏn mới hơn 5
tháng tuổi bị đặt nằm trong thau rồi trên thớt... theo tiến
trình của việc "làm thịt" để hầm thuốc bắc... Cô kinh hoàng thét
lên:
- Trời ơi,
sao lại làm thịt đứa con nít mà ăn?... Chẳng lẽ có thật vậy sao
cô?... Không! Cháu không tin! Không ai nhẫn tâm ăn thịt đứa con
nít hết! Cái này họ xạo mà cô tin được sao?!
Tôi nói:
- Thì cô đâu
hẳn đã tin, và cho dù họ xạo cũng có lý nữa! Vì khi người mẹ dám
nhẫn tâm phá thai để giết con mình, thì sao lại không có người
dám ăn thịt thai nhi chứ ?! Họ coi đấy như là thịt, ăn vô cho
bổ.
Cô hiểu ra,
gật gật. Tôi khẽ bảo:
- Mấy ảnh đó
thoạt trông kinh hãi thật. Nhưng, bình tâm mà xem thì sẽ thấy
thương cảm nhất là tấm ảnh này.
Đôi mắt cô
chờ đợi. Tôi cầm lên tấm ảnh chụp về giai đoạn cuối cùng của
tiến trình trên là lúc sắp dọn ra ăn. Thai nhi sau khi đã chưng
cách thủy với thuốc bắc trong cái tô suốt 8 giờ thì chín rục:
đầu bé, đùi bé biến dạng vì xương thịt vỡ ra. Nhưng, một cánh
tay của bé vẫn còn nguyên vẹn và bàn tay đưa lên khỏi mặt nước
như cầu cứu... Cô lại ứa nước mắt:
- Bàn tay bé
xíu của bé giơ lên cầu cứu thấy thương quá! Nhưng, bé cầu cứu
với khoảng không cô ơi!
- Vâng, chính
khoảng không ấy mới mãnh liệt mời gọi mỗi người chúng ta hãy mở
lòng cứu các thai nhi kẻo sẽ ân hận lắm! Chẳng những người mẹ
phá thai sẽ ân hận đã đành, mà người thấy chuyện biết việc lại
làm ngơ cũng sẽ ân hận nữa!
Cô lập tức
nói theo:
- Thôi cháu
hiểu rồi! Cháu sẽ không bao giờ còn có ý định phá thai nữa đâu.
Cám ơn cô đã cho cháu xem mấy tấm ảnh thai nhi để cháu biết
thương, và biết tránh kẻo phải ân hận sau này nếu bây giờ mình
phá thai. Cũng cám ơn cô đưa cháu vô đây để giải thích chuyện
này, nhờ đó cháu có niềm tin: hễ mình mở lòng giữ cái bào thai
là Chúa giúp, vì trên Thánh Giá có Chúa Giêsu đang dang rộng hai
cánh tay ra kìa!
Mừng khi nghe
cô nói thế, tôi hỏi:
- Cháu cũng
biết Chúa Giêsu là ĐấNG Mở LòNG ư?
- Cháu biết
chớ cô! Nhờ Chúa Giêsu nên mỗi năm có lễ Giáng Sinh để cháu được
tặng quà và cho quà...
* *
*
Quý
bạn đọc kính yêu! Cho tôi được thưa thốt điều này, kẻo thấy
chuyện biết việc mà im hơi lặng tiếng thì ân hận suốt đời. Hiện
nay ở Việt Nam có nhiều nhóm tu sĩ lo việc "nuôi mẹ giữ con" để
giúp các cô gái lỡ lầm, dở duyên... ngày càng nhiều, số bé sinh
ra cũng càng nhiều nhưng phần đông là khuyết tật (do người ta
dùng đủ mọi cách để phá thai nhưng không được) nên không gia
đình nào nhận nuôi. Các nhóm tu sĩ lại nhận nuôi các trẻ em này,
đồng thời rất cần chúng ta mở đôi bàn tay ra... Ngoài ra, có
nhóm tu sĩ còn thu nhặt xác thai nhi bị quăng vô thùng rác ở các
bệnh viện đem về chôn cất, nên cũng rất cần chúng ta mở đôi bàn
tay giúp cho từng cái om nhỏ đựng xác... như Nhóm Anh Hài ở Huế
hiện mỗi ngày chôn từ 10 đến 15 xác thai nhi... Xin ghi ra đây
địa chỉ vị tu sĩ hiện lo việc bác ái này:
Linh mục
Đôminicô Trương Văn Tập
Tòa Giám Mục
Huế
69 Phan Đình
Phùng, Huế, Việt Nam
ĐT:
(011) 849-1412-5882 (gọi từ Mỹ)
E-mail:
domtap@pmail.vnn.vn
California
1/4/2005
(Trích NS. Trái Tim Đức Mẹ, số 329, tháng
5-2005, trang 62-65)
Hoàng Thị Đáo Tiệp
|
VỀ MỤC LỤC |
|
SỐng thân mẬt vỚi Chúa |
Tác
Phẩm CHÚA VẪN
THƯƠNG
Lm. MICAE-PHAOLÔ TRẦN MINH HUY pss
Phần hai
BẠn cỘng tác
vào Chương trình CỨu ĐỘ
cỦa Thiên Chúa
1.
SỐng thân mẬt vỚi Chúa
Bạn hãy lắng nghe Chúa và
hãy nói với Chúa!
Bạn hãy lắng nghe, hãy hồi
tâm, hãy đón nhận, và hãy đem ra thực hành. Thật khó mà lắng nghe
Chúa khi đầu óc bạn đầy tiếng động, Chúa biết lắm. Cần phải có thinh
lặng, có sa mạc. Người ta sợ khô khan và trống rỗng!
Nhưng nếu bạn trung thành,
kiên trì… Chúa sẽ cho bạn nghe được tiếng Chúa, tim bạn sẽ cháy lên
và sức nóng nội tâm ấy sẽ mang lại cho bạn bình an và phong phú. Bấy
giờ bạn sẽ nếm được Chúa ngọt ngào và ách của Ngài êm ái dường nào!
Bạn càng gia tăng những lúc tìm gặp Chúa, lắng nghe Chúa thì bạn
càng nghe rõ lời đáp trả của Chúa, và Thánh Thần Chúa càng tác động,
càng khơi gợi cho bạn biết Chúa xin bạn nói gì, làm gì và bấy giờ
chắc chắn những gì bạn nói, bạn làm sẽ sinh hoa kết quả.
Sứ mệnh của bạn không phải
là chỉ cố đưa Chúa vào con người, mà còn làm cho con người dễ đón
nhận Chúa, ngõ hầu Chúa thánh hóa con người cho vinh danh Chúa. Bạn
hãy nhìn Chúa, nói với Chúa, lắng nghe Chúa. Chúa là Chân Lý, là Sự
Sống, là Ánh Sáng. Ai thông hiệp cùng Chúa là thông hiệp cùng Chân
Lý. Ai đón nhận Chúa là đón nhận Sự Sống. Ai theo Chúa là tiến bước
trên đường Ánh Sáng.
Hãy bộc phát nói với Chúa
những gì bạn quan tâm, Chúa sẽ rộng rãi lưu tâm đến sáng kiến của
bạn. Bạn đừng tưởng rằng Chúa có thể dửng dưng với những gì liên
quan tới bạn. Điều chính yếu là bạn không quên Chúa, thưa chuyện
cùng Chúa với tất cả tình yêu và lòng tín nhiệm. Chúa nói với thâm
sâu cõi lòng bạn. Bạn không cần phải phân biệt rõ ràng ngay những gì
Chúa nói với bạn. Cái quan trọng là tư tưởng của bạn thấm nhập tư
tưởng của Chúa. Và sau đó bạn sẽ có thể diễn tả ra bằng ngôn ngữ của
bạn.
Đáng trách thay những
người chẳng nghe Chúa bao giờ và khô khan đến thảm hại! Chớ gì họ
đến cùng Chúa với tâm hồn trẻ thơ! Lạy Cha, con cảm ơn Cha đã
giấu những điều ấy với những kẻ kiêu căng, nhưng lại tỏ cho những
người bé nhỏ và khiêm nhượng. Hỡi ai cảm thấy mình bé nhỏ, hãy
đến cùng Chúa mà uống!
Bạn hãy lắng nghe Chúa
nhiều hơn. Chính Chúa mới có thể cho bạn ánh sáng mà bạn rất cần.
Chính trong ánh sáng của Chúa mà trí khôn bạn thêm vững mạnh, tư
tưởng bạn được sáng tỏ và bạn sẽ tìm thấy giải pháp cho những vấn đề
đã được đặt ra.
Chúa muốn dùng bạn mỗi lúc
một nhiều hơn. Muốn thế, bạn hãy không ngừng tập trung ý chí bạn vào
Chúa, hãy tước bỏ chính mình bạn, hãy mang tâm trạng rằng bạn chỉ có
Chúa là mục đích và lẽ sống đời bạn.
Bạn hãy kêu xin Chúa trợ
giúp, một cách nhẹ nhàng, êm ả, yêu thương. Bạn đừng tưởng rằng Chúa
không bén nhạy với những tình cảm tế nhị đâu nhé! Phải, bạn yêu mến
Chúa, nhưng bạn hãy chứng tỏ tình yêu ấy cho Chúa nhiều hơn nữa.
Bạn hãy kể cho Chúa ngày
sống của bạn. Dĩ nhiên Chúa đã biết rồi, nhưng Chúa thích nghe bạn
thuật lại với Chúa, như bà mẹ thích đứa con ở trường về kể lại. Bạn
hãy trình bày với Chúa những ước muốn của bạn, những dự tính của
bạn, những buồn chán của bạn, những khó khăn của bạn. Chúa không đủ
khả năng giúp bạn vượt lên chúng hay sao?
Hãy thưa với Chúa về Giáo
Hội của Chúa, về các Giám mục, các Linh mục, các Xứ Truyền Giáo, các
Tu sĩ, các Ơn Gọi, các bệnh nhân, các người tội lỗi, những người
nghèo, những người lao động… Phải chăng nơi những người lao động
nặng gánh vất vả và ưu tư ấy, Chúa lại không gặp được lòng quảng đại
sâu xa đáp lại Lời Mời Gọi của Chúa, nếu họ không gặp phản chứng nơi
những người loan báo danh Chúa?
Bạn hãy nói với Chúa về
tất cả những ai đang phải đau khổ, trong tâm trí, trong thân xác,
trong con tim, trong nhân phẩm. Bạn hãy nói với Chúa về tất cả những
người vừa chết hay biết mình sắp chết mà lo âu sợ hãi hoặc ngược lại
tỉnh táo đón nhận.
Bạn hãy nói với Chúa về
Nước Chúa, về sự tăng trưởng của Nước Chúa trong thế giới, trong các
tâm hồn. Bạn có những vấn nạn nào đặt ra cho Chúa không? Bạn đừng
ngại, Chúa là chìa khóa của mọi vấn đề. Chúa sẽ không cho bạn câu
trả lời ngay lập tức, nhưng nếu vấn nạn của bạn xuất phát từ một
trái tim yêu thương, thì câu trả lời sẽ đến trong những ngày kế
tiếp, hoặc bởi sự can thiệp của Thánh Thần, hoặc bởi các biến cố.
Bạn có ước vọng gì cho
bạn, cho người khác, cho cả Chúa nữa không? Bạn đừng sợ xin Chúa
nhiều. Làm như thế là bạn hối thúc được nhân loại thấm nhập Chúa và
tăng cao mức độ tình yêu và sự hiện diện của Chúa trong lòng con
người.
Như đối với Maria Mađalêna
sáng Phục Sinh, Thánh Tâm Chúa không ngừng gọi đích danh bạn và Chúa
chờ đợi câu trả lời của bạn. Chúa gọi thầm tên bạn và đợi tiếng “này
con đây” của bạn, chứng tỏ bạn lưu tâm và sẵn sàng.
Chúa còn nhiều điều muốn
nói cho bạn hiểu, nhưng bạn chỉ biết được có một phần nhỏ ở trên
trần gian này thôi. Muốn thấu hiểu được các Chân lý đó, bạn cần phải
đến gặp Chúa nhiều hơn nữa. Nếu bạn tỏ ra dễ dạy hơn, Chúa sẽ nói
với bạn nhiều hơn.
Tỏ ra dễ dạy, trước hết là
khiêm tốn, tự coi mình dốt nát có nhiều điều phải học. Khi sẵn sàng
đến dưới chân Chúa và nhất là kề Thánh Tâm Chúa, bạn sẽ hiểu được
tất cả mà chẳng cần công thức nào hết. Đó là chăm chú đến những hoạt
động của ơn thánh, những dấu hiệu của Thánh Linh, những gợi hứng
không thể nói hết được của tư tưởng Chúa.
Bạn hãy tiếp tục chuyện
trò với Chúa sau cuộc gặp gỡ ở nhà thờ. Hãy nghĩ rằng Chúa ở bên
bạn, trong bạn và hoàn tất những gì bạn phải làm. Thỉnh thoảng hãy
hướng cái nhìn yêu thương về Chúa. Cái đó không làm vướng bận hoạt
động hay việc tông đồ của bạn. Chính trong mức độ Chúa ở trong tâm
trí bạn mà bạn nhìn anh chị em bạn bằng con mắt của Chúa và yêu
thương họ bằng Trái Tim của Chúa.
Chớ gì cuộc sống bạn là
một cuộc đàm đạo không ngừng với Chúa. Bây giờ người ta nói rất
nhiều tới đối thoại. Tại sao không đối thoại với Chúa? Bạn hãy nói
với Chúa một cách đơn sơ, đừng bận tâm đến từ ngữ, cú pháp. Chúa
nhìn đến những gì bạn muốn diễn tả nhiều hơn là chữ bạn dùng để nói.
Chúa là Lời Thầm Lặng. Nếu
bạn thực sự để ý, bạn sẽ nhận ra tiếng Chúa qua những cái rất khiêm
tốn, cũng như những cái rất vĩ đại trong thiên nhiên, qua những con
người rất khác biệt, cũng như những hoàn cảnh rất quen thuộc thường
ngày. Đó là vấn đề Đức Tin và Tình Yêu. Bạn hãy xin Chúa cho những
anh chị em đã chưa hề có hoặc đã mất đi đức tin và tình yêu ấy.
Bạn hãy gọi đến Chúa
như Ánh Sáng chiếu soi trí khôn bạn, như lửa nung nấu trái tim
bạn, như Sức Mạnh tăng cường nghị lực bạn. Bạn hãy gọi đến Chúa như
người bạn muốn chia sẻ cuộc sống với bạn, như Cứu Chúa muốn thanh
tẩy hồn bạn khỏi ích kỷ, như Thiên Chúa muốn bạn kết hợp với Ngài
ngay tại trần gian này.
Bạn hãy gọi đến Chúa, yêu
mến Chúa, để Chúa chiếm ngự bạn trong tất cả những giới hạn và khốn
cùng của bạn. Bấy giờ, bạn sẽ tự nhiên nghĩ đến Chúa, đến tha nhân
hơn là nghĩ đến bạn, bạn sẽ sống cho Chúa, cho tha nhân hơn là sống
cho bạn, bạn sẽ hiệp thông với Chúa và với tha nhân. Như thế, bạn sẽ
giúp Chúa làm nhiều hơn cái gạch nối giữa Cha trên trời và các anh
chị em của Chúa nơi trần thế.
Bạn hãy nói với Chúa
trước khi nói về Chúa.
Bạn hãy nói với Chúa bằng tất cả đơn sơ và thân thuộc, và với tất cả
nụ cười nữa. Những kẻ nói về Chúa mà không phải chính Chúa nói qua
họ thì hỏi họ nói chi được về Chúa? Người ta có những ý tưởng sai
lạc về Chúa, ngay cả trong số các kitô hữu. Huống chi những kẻ không
tin vào Chúa.
Chúa muốn là người bạn của
mọi người, nhưng quá ít kẻ cư xử với Chúa như là một Người Bạn. Họ
xét đoán và kết án Chúa mà không hề biết Chúa. Chúa bị xóa đi khỏi
chân trời của họ, nhưng Chúa vẫn có đó, vẫn ban cho họ đầy tràn đủ
thứ ơn lành mà họ chẳng ngờ tới.
Chỉ những ai có thinh lặng
nội tâm mới nghe được tiếng Chúa. Thinh lặng khỏi những con quỷ nội
tại có tên là kiêu ngạo, là bản năng quyền lực, là óc thống trị, ưa
lấn áp, nhục dục làm mờ tối trí khôn và làm chai cứng con tim. Thinh
lặng khỏi những mối bận tâm thứ yếu, những lo âu quá độ, những xét
đoán táo bạo hoặc vội vàng nông nổi.
Nhưng như vậy thôi chưa
đủ. Bạn còn phải ước muốn tư tưởng của Chúa tràn ngập trí khôn, với
trọn vẹn ý chí gìn giữ và thực hành Lời Chúa. Lời Chúa là hạt giống
Chân Lý, Ánh Sáng và Hạnh Phúc. Kẻ nào đón nhận và cảm nếm sâu xa
Lời Chúa sẽ hiểu được tất cả giá trị và sẽ sẵn sàng hy sinh mọi thứ
phụ tùy xem ra cần thiết.
Bạn hãy ở trong Chúa và
hãy đón nhận Chúa!
Chúa hoàn tất công trình
Bình An và Yêu Thương của Chúa trong Giáo Hội, ngang qua những tâm
hồn biết chiêm ngắm và mềm mỏng với hoạt động của Chúa.
Chiêm ngắm là nghĩ đến
Chúa bằng cách yêu mến Ngài, đối thoại cùng Thiên Chúa Ba Ngôi bằng
con mắt, trái tim và ước muốn.
Nhìn ngắm Chúa với sự sẵn
sàng, lòng biết ơn và tình yêu mến. Ngài thấy tất cả các linh hồn
liên kết với Ngài. Ngài cũng thấy cả sự khốn cùng của họ nữa. Chúa
yêu mến họ. Bạn hãy để Chúa yêu mến bạn.
Nhìn ngắm Chúa Giêsu trong
các mầu nhiệm của Chúa. Chúa thấy hết sự khốn cùng, nghèo khó, bất
hạnh của bạn. Yêu mến Chúa Giêsu với hết linh hồn, trái tim và sức
lực của bạn, kết hợp với Mẹ Maria, các Thiên Thần và các Thánh.
Nhìn ngắm tất cả những gì
Chúa Thánh Thần hoàn thành, ban phát và tha thứ. Tất cả những gì
Ngài thánh hóa, linh ứng, soi sáng, sưởi ấm, tăng sức, hiệp nhất và
làm cho nên phong phú. Tỏ cho Ngài sự khốn cùng của bạn. Nài xin
Ngài cất đi những chướng ngại cho việc thực hiện chương trình của
Chúa. Bạn hãy để cho Ngài sưởi ấm và chiếm hữu bạn; hãy kêu xin Ngài
ơn nguyện gẫm sâu xa. Hiến dâng chính mình bạn để Ngài đổ đầy cho.
Việc đầu tiên là bạn hãy
tha thiết xin Chúa lột bỏ khỏi bạn tất cả những gì cản trở bạn lắng
nghe Chúa, tiếp đón Chúa, đón nhận Chúa, thực hành Lời Chúa. Chúa
đang nói trong bạn, nhưng bạn phải biết lắng tai mới nghe được. Bạn
chỉ có thể lắng nghe Chúa khi tình yêu của bạn thanh thoát và mang
đặc tính tình yêu hiến dâng của Chúa.
Việc thứ hai là bạn hãy
trung thành đặc biệt dành cho Chúa những thời gian cao điểm trong
nội tâm bạn, ở đó Chúa luôn hiện diện, luôn hoạt động và không ngừng
yêu mến.
Việc thứ ba là bạn hãy
mỉm cười với Chúa nhiều hơn: Chúa yêu người cho và tự hiến với
nụ cười. Bạn hãy mỉm cười với Chúa, mỉm cười với mọi người, mỉm cười
trước tất cả mọi sự. Trong nụ cười có sự tinh tế hàm ý của một tình
yêu hiến dâng đích thực nhiều hơn bạn tưởng nhiều và bạn càng cho đi
nụ cười thì đổi lại Chúa sẽ cho bạn chính mình Chúa.
Bạn không phải sống một
mình trước mặt Chúa đâu, mà bạn sống trong Chúa. Chúa hiệp nhất bạn
với Chúa Ba Ngôi, với Đức Mẹ, với các Thánh và với mọi thành phần
của nhiệm thể Chúa. Bạn không bao giờ cô đơn cả, đời sống căn bản là
cộng đồng.
Bạn hãy suy nghĩ, cầu
nguyện, hành động ở trong Chúa. Chúa ở trong bạn và bạn ở trong
Chúa. Chúa luôn đứng ở cửa linh hồn bạn mà gõ. Nếu bạn nghe tiếng
Chúa và mở cửa cho Chúa, Chúa sẽ vào và cùng ăn tối với bạn. Bạn
đừng lo đến món ăn. Mỗi lần Chúa mang tới phần lớn nhất, và niềm vui
của Chúa là thấy bạn ăn ngon lành đến đỗi đem Chúa cho anh chị em
bạn nữa. Bạn hãy nghĩ đến họ bằng cách nghĩ đến Chúa. Bạn hãy tập
trung họ lại trong lời cầu nguyện của bạn, bằng cách dâng mình bạn
cho Chúa. Bạn hãy đón nhận họ bằng cách để Chúa đón nhận bạn.
Bạn hãy sống với Chúa như
với Người Bạn không bao giờ lìa xa, bạn đừng lìa xa Chúa khỏi ý chí,
con tim và trí khôn của bạn. Bạn hãy chú ý đến sự hiện diện của
Chúa, cái nhìn của Chúa, Tình Yêu của Chúa và Lời của Chúa.
Bạn biết rõ là Chúa ở gần
bạn, ở trong bạn và trong tha nhân. Nhưng biết là một chuyện và thấy
lại là một chuyện khác. Bạn hãy năng xin Chúa ơn ấy. Chúa không từ
chối lời cầu nguyện khiêm tốn và bền bỉ của bạn đâu.
Bạn biết rõ rằng Chúa
không rời mắt khỏi bạn. Phải chi bạn thấy được cái nhìn chứa chan
lòng tốt, dịu dàng, ước ao, luôn hào hiệp, khích lệ, sẵn sàng nâng
đỡ giúp giùm bạn. Cái nhìn ấy, bạn cần gặp gỡ trong đức tin, ước ao
trong đức cậy và tha thiết trong đức mến.
Chúa là tình yêu hơn bạn
biết nhiều lắm. Bạn hãy thờ lạy và tín nhiệm. Những bất ngờ Chúa
dành cho bạn còn đẹp đẽ hơn bạn có thể tưởng tượng vô vàn. Thời gian
sau cái chết là chiến thắng của tình yêu trên mọi giới hạn con
người. Ngay từ bây giờ, bạn hãy xin Chúa ơn được nhận thức những
tinh tế của tình yêu bao la của Chúa đối với bạn.
Bạn biết rõ Chúa là Thần
Trí và là Sự Sống đang nói trong bạn. Nhưng ích chi để nói và diễn
tả sự phong phú của Thiên Chúa, nếu bạn không mở rộng lòng lắng
nghe, đón nhận và tiêu hóa.
Thời gian bạn để hồn bạn
nối chặt với Thánh Thể đem lại hiệu quả gấp ngàn lần các công việc
bạn đeo đuổi ở ngoài Chúa. Chính từ bên trong mà Chúa dẫn dắt thế
giới, nhờ các linh hồn lắng nghe và đáp lại Chúa. Họ làm cho Chúa
hết sức vui mừng, nhưng họ còn quá ít. Nhiệm vụ kitô hóa thế giới
thì bao la mà số thợ lại quá ít!
Cuộc sống bạn sẽ đơn giản
hơn nhưng lại phong phú hơn tùy cái chỗ bạn dành cho Chúa trong trí
khôn và trong trái tim bạn. Bạn ưng Chúa đến, tăng trưởng và chiếm
ngự lòng bạn, nhưng ước muốn ấy vẫn còn là “gió thổi mây bay”!
Bạn hãy nhớ rằng bạn không
là gì cả và tự bạn, bạn không thể làm được chút chi để tăng thêm
thân mật với Chúa đang hiện diện trong bạn. Bạn cần khiêm tốn hiệp
với Đức Mẹ mà xin Chúa điều đó. Bạn đừng bỏ mất cơ hội nào để kết
hiệp với Chúa. Bạn hãy tín nhiệm lặn hụp trong Chúa và để Chúa hành
động qua bạn. Chúa muốn người ta cảm nhận được rằng sự sống Chúa
trào lên trong bạn, tình yêu Chúa đốt nóng trái tim bạn và ánh sáng
Chúa soi sáng trí khôn bạn.
Cái nhìn của Chúa trên bạn
là đích thực, trong sáng và sâu xa. Bạn đừng trốn chạy, nhưng hãy
tìm kiếm nó. Nó sẽ khám phá ra tất cả những gì bạn còn dính bén và
tìm mình. Nó sẽ tôi luyện bạn quên mình nhiều hơn nữa cho tha nhân.
Bạn hãy ước muốn Chúa và
sống trong Chúa. Bạn sẽ sống nhờ Chúa, làm việc cho Chúa và những
năm cuối đời bạn sẽ phục vụ hiệu quả cho Giáo Hội.
Bạn hãy nghĩ đến
Chúa.
Bạn hãy năng nghĩ đến điều
Chúa vui thích: tâm hồn trẻ thơ, sự trong trắng nơi trái tim và cái
nhìn của chúng, những hi sinh quảng đại, sự hiến dâng đơn sơ và toàn
vẹn của chúng. Chúa được triển nở trong nhiều tâm hồn trẻ thơ, nơi
không có mây mù nguy hại, nơi những nhà giáo dục biết uốn nắn, hướng
dẫn, khích lệ chúng đến với Chúa.
Cái làm Chúa vui thích là
linh mục trung thành với Thánh Linh và với Mẹ Chúa, cảm nhận được và
hành động trong sự hiện diện của Chúa. Cái làm Chúa vui thích là
trong mọi môi truờng, những tâm hồn đơn sơ không để bị kiêu ngạo xâm
chiếm, không nghĩ đến và chăm lo bản thân mình hơn tha nhân, nghĩa
là tự nhiên biết quên mình sống phục vụ tình yêu.
Bạn hãy yêu Chúa như Chúa
muốn và sao cho người ta cảm nhận được điều đó. Yêu tha nhân hay
quên bỏ mình bạn để tập trung vào Chúa cũng phải được như thế.
Bạn đừng quên Chúa, chớ gì
bạn biết được Chúa hay bị lãng quên dường nào, ngay cả những người
bạn thiết nghĩa của Chúa, và cả chính bạn nữa! Bạn hãy năng xin Chúa
ơn không quên Chúa. Sự không bao giờ quên Chúa đem lại bao nhiêu
phong phú cho một linh hồn và cho những linh hồn tùy thuộc vào linh
hồn ấy.
Bạn đừng quên sự hiện diện
của Chúa bên bạn, trong bạn, trong tha nhân và trong Thánh Thể. Việc
bạn nhớ sự hiện diện của Chúa sẽ biến đổi tất cả những gì bạn làm, ý
tưởng, lời nói, hành động, những hy sinh, những đau khổ, những niềm
vui của bạn.
Bạn đừng quên những ước
vọng của Chúa về vinh quang Chúa Cha, về sự tiến triển của Nước Trời
trong tâm hồn con người, về sự thánh hóa Giáo Hội, về sự thực hiện ý
muốn của Chúa Cha trên bạn và chỗ của bạn trong lịch sử nhân loại.
Chúa dẫn dắt bạn, hãy bằng
an, nhưng bạn đừng quên Chúa. Chúa sẽ biến đổi tất cả mọi sự khi bạn
kêu xin Chúa giúp bạn. Khi bạn mời Chúa kết hợp với bạn thì tất cả
những gì bạn hoàn tất hay tất cả những gì bạn phải chịu đựng sẽ có
được một giá trị đặc biệt, giá trị thần linh. Vậy bạn hãy tận dụng
nó, bởi vì nó sẽ mang lại cho cuộc sống bạn chiều kích vĩnh cửu.
Bạn hãy chia sẻ mọi sự với
Chúa. Hãy đem Chúa vào trong tất cả những gì bạn làm. Hãy năng xin
Chúa giúp đỡ và cố vấn. Bạn sẽ được gấp bội niềm vui nội tâm, vì
Chúa là nguồn suối của niềm vui sống động. Sự hiệp thông với tình
yêu của Chúa vượt quá tất cả những khổ nhọc và biến chúng thành
những niềm vui kiến tạo bình an.
Bạn hãy luôn tìm làm vui
lòng Chúa, chớ chi đó là chiều hướng căn bản của con tim và ý chí
của bạn. Chúa nhạy cảm với những sự tế nhị nhỏ bé và những chú tâm
trung thành hơn người ta tưởng nhiều lắm.
Nếu bạn biết được Chúa yêu
thương bạn đến độ nào thì bạn sẽ không bao giờ sợ Chúa. Bạn sẽ lao
mình vào vòng tay Chúa. Bạn sẽ sống phó thác và tín nhiệm vào lòng
dịu dàng bao la của Chúa, và nhất là bạn sẽ không quên Chúa, ngay cả
giữa những công việc bận rộn nhất của bạn, và chính ở trong Chúa mà
bạn hoàn thành được tất cả mọi sự.
Để nghe được tiếng Chúa,
bạn phải có một tinh thần phù hợp là thẳng thắn và mở tâm hồn bạn ra
với Chúa, mãnh liệt ước muốn lắng nghe Chúa, với ý chí hoàn tất
những hy sinh mà Thánh Thần Chúa có thể gợi ra cho bạn. Cương quyết
loại khỏi trí bạn những gì không phải là Chúa. Đẩy xa những mối bận
tâm vô ích hoặc không thuận lợi.
Khiêm tốn tự nhủ bạn không
là gì hết và tự bạn, bạn không thể làm được một cái gì. Sưởi ấm trái
tim Chúa bằng cách quảng đại ném vào đó những cành củi hy sinh và
năng kêu xin Thánh Thần giúp đỡ. Rồi hãy thờ lạy Chúa trong thinh
lặng. An bình ngồi dưới chân Chúa, lắng nghe Chúa gọi tên bạn.
Chính trong những cuộc
chuyện vãn “câm lặng và thân mật” ấy với Chúa mà bạn được gặp Chúa
nhiều hơn. Hãy tin tưởng. Mỗi tâm hồn có một hình thức chuyện vãn
riêng tư với Chúa. Chúa không bao giờ bỏ bạn cô đơn, tại sao bạn
không cố gắng hơn một chút để tìm kiếm Chúa? Chính nhờ việc bạn mật
thiết liên kết với Chúa mà lời cầu nguyện, các hoạt động, các đau
khổ của bạn mang lại kết quả, vì chính lời cầu nguyện của Chúa thốt
lên trong lòng bạn.
Bạn hãy sống tình
yêu kết hợp với Chúa
Bạn hãy năng gọi đến Chúa
để bạn thực hiện trọn vẹn những gì Chúa chờ đợi ở bạn. Hãy đến để
bạn giúp các linh hồn thực hiện kế hoạch tình yêu của Chúa trên họ
như Chúa muốn. Hãy đến để bạn yêu Chúa như Chúa muốn. Chúa chờ đợi ở
bạn kinh cầu tình yêu này :
Chúa Giêsu - Tình yêu của
con, con yêu mến Chúa.
Chúa Giêsu - Lò lửa của
con, con yêu mến Chúa.
Chúa Giêsu - Sức Mạnh của
con, con yêu mến Chúa.
Chúa Giêsu - Ánh Sáng của
con, con yêu mến Chúa.
Chúa Giêsu - Sung Mãn của
con, con yêu mến Chúa.
Chúa Giêsu - Hiến Tế của
con, con yêu mến Chúa.
Chúa Giêsu - Lời Nguyện
của con, con yêu mến Chúa.
Chúa Giêsu - Mọi Sự của
con, con yêu mến Chúa.
Khi bạn yêu mến Chúa cách
sâu xa, trong bạn sẽ phát ra khúc xạ của Chúa giúp bạn dễ dàng đem
Chúa cho kẻ đến gần bạn. Những tương quan của bạn với Chúa là đáng
kể. Tại sao bạn quá bận tâm đến những cái sẽ qua đi hơn Chúa là Đấng
mãi mãi tồn tại?
Bạn hãy sống bởi Chúa,
sống với Chúa và sống cho Chúa. Hãy nuôi dưỡng bạn bằng tư tưởng của
Chúa, là diễn tả của Thánh Thần, là ánh sáng, sức mạnh và sự sống.
Hãy nuôi dưỡng bạn bằng ý chí của Chúa, đem ý chí bạn vào ý chí của
Chúa để làm vinh danh Chúa Cha và hữu ích cho Giáo Hội.
Chúa không là người Bạn
Đường tuyệt vời cho bạn sao? Bạn hãy xin ý kiến Chúa, lời khuyên, sự
giúp đỡ. Yêu là sống cho người mình yêu. Bạn không sống cho Chúa thì
cho ai? Bạn hãy hành động, làm việc, cầu nguyện, hít thở, ăn uống,
nghỉ ngơi cho Chúa. Hãy không ngừng thanh luyện ý hướng của bạn.
Đừng làm cái gì bạn không thể làm cho Chúa. Đòi hỏi đó là bằng chứng
tình yêu. Bạn biết rõ, sự hy sinh phải trả giá, nhưng bạn được lại
gấp trăm những gì bạn đã hy sinh cho Chúa.
Bạn hãy có trong trí bạn
những ý tưởng yêu thương, trong mắt bạn tỏa chiếu lòng tốt và trên
môi bạn những lời nói bác ái, trong tim bạn những tình cảm thân hữu
và trong ý chí bạn những ý muốn lương hảo. Chớ gì cuộc sống bạn thấm
đượm tình yêu và cái chết của bạn tỏa hương tình yêu. Chỉ có thế mới
đáng kể.
Bạn hãy đến với Chúa và
ngắm nhìn. Hãy đọc và múc cạn trong cái nhìn của Chúa. Hãy lặn ngụp
và giữ lấy chỗ của bạn trong Trái Tim Chúa. Hãy lại gần và châm lửa
trong ý chí của Chúa. Chúa là Lửa, là Tình Yêu.
Yêu thương đơn giản như
vậy, nhưng lại ít người biết được bí quyết này, ngay cả những người
sống đời hiến dâng. Đâu có quên mình, ở đó mới có tình yêu đích
thực. Rất lắm lần người ta yêu bản thân mình qua những người họ
tưởng rằng họ yêu.
Bạn hãy đặt mình dưới ảnh
hưởng của Thánh Linh. Ngài sẽ làm cho bạn nóng cháy lên. Nếu bạn là
lò lửa mến thì bạn sẽ cứu được biết bao nhiêu linh hồn. Việc Chúa
lớn lên trong các linh hồn tùy thuộc mức độ sức nóng tình yêu của họ
đối với Chúa và đối với tha nhân.
Bạn hãy cho Chúa một tình
yêu có phẩm chất: Tâm hồn càng khiêm tốn, tình yêu càng tinh tuyền.
Tâm hồn càng có tinh thần hy sinh thì tình yêu càng chân thật. Tâm
hồn càng thông hiệp với Thánh Linh, tình yêu càng mạnh mẽ.
Yêu là nghĩ đến Chúa, là
ngắm nhìn Chúa, là lắng nghe Chúa, là kết hợp với Chúa, là chia sẻ
mọi sự với Chúa. Cuộc sống bạn là một chuỗi chọn lựa không ngừng
giúp bạn từ bỏ chính mình vì lợi ích cho tha nhân. Tình yêu này càng
lớn lên trong tâm hồn, thì tâm hồn càng vươn tới tầm vóc nhân loại.
Nhưng khi tâm hồn từ chối tham dự vào tình yêu ấy thì nó sẽ làm chậm
lại việc thánh hóa thế giới.
Ai cố gắng yêu với Trái
Tim Chúa sẽ nhìn thấy mọi người, mọi sự với cái nhìn của Chúa. Bạn
không nhận thấy rằng, bạn càng trung thành với việc nguyện gẫm thì
nó không hề làm cho bạn mệt đó sao? Và nếu có gì phải chịu đựng thì
bạn cũng sẽ chịu được dễ dàng.
Chúa không chỉ là mối dây,
mà còn là nơi gặp gỡ và hiệp thông. Nơi Chúa, bạn gặp được Chúa Cha
và Chúa Thánh Thần. Nơi Chúa, bạn gặp được Mẹ Maria, Thiên Thần giữ
mình, tất cả các Thánh, mọi tâm hồn hiến dâng, mọi kitô hữu, mọi
người thiện chí, những người đau khổ, những bệnh nhân, những người
lâm chung, các linh hồn luyện tội, mọi người quen và không quen, tất
cả thế giới và nhất là bạn gặp được bí quyết tình yêu hiến dâng
trọn vẹn.
Chúa biết bạn yếu đuối và
dòn mỏng. Bạn hãy tìm kết hợp với Chúa nhiều hơn. Kết hợp với Lời
cầu nguyện của Chúa, Lễ Vật của Chúa. Bạn hãy kết hợp với Chúa để
làm những gì bạn phải làm, bạn sẽ thấy mọi sự tốt đẹp hơn, dễ dàng
hơn. Bạn hãy kết hợp với Chúa để trở nên tốt, niềm nở, thông cảm,
cởi mở với mọi người. Và Chúa sẽ chuyển thông cái gì là của Chúa vào
các mối liên hệ của bạn.
Chúng ta hãy cùng nhau,
như cành cùng với thân cây, như chi thể cùng với toàn thân. Chúng ta
hãy cùng nhau cầu nguyện. Làm việc, nói năng, trở nên tốt, yêu
thương, hiến dâng, đau khổ, chết và một ngày kia được vui sướng nhìn
thấy Chúa cùng Mẹ Maria.
Tình yêu của Chúa rất tế
nhị, dịu dàng, chăm chú, bao dung, mạnh mẽ nhưng cũng rất đòi hỏi.
Chúa yêu bạn trước và tất cả những gì là bạn đều do Chúa ban cho
bạn. Vì tế nhị, Chúa không nhắc luôn, nhưng Chúa chờ đợi bạn ý thức
lấy, cảm ơn Chúa và tự rút ra những lợi ích. Hãy đến tựa đầu vào vai
Chúa, bạn sẽ hiểu hơn Chúa dịu ngọt dường nào!
Không có một cái gì liên
quan đến bạn mà thoát khỏi sự chú ý của Chúa. Chúa biết hơn bạn
những hoàn cảnh giảm khinh và những lý do biện minh cho lầm lỗi, sai
trái, tội lỗi của bạn. Tình yêu của Chúa mạnh mẽ để nâng đỡ bạn. Để
vực bạn lên và đỡ nâng hướng dẫn bạn, khi bạn kêu đến Chúa. Tình yêu
của Chúa cũng rất yêu sách vì Chúa yêu bạn và muốn hiến mình Chúa
cho bạn nhiều hơn, nhưng Chúa chỉ làm được điều đó khi bạn trung
thành đáp lại những mời gọi của ơn thánh Chúa và những thúc đẩy của
Thánh Linh.
Chúa yêu bạn còn vì anh
chị em của bạn, Chúa muốn đến với họ qua bạn, Chúa muốn bạn phản ánh
Chúa, mạc khải Chúa, diễn tả Chúa cho họ, nhưng Chúa chỉ làm được
điều đó khi bạn rộng mở cho Chúa mọi cánh cửa tâm hồn bạn và quảng
đại đáp lại lời mời gọi của Chúa.
Vì tình yêu, bạn hãy
đơn giản hóa mọi sự, vui mừng cũng như đau khổ.
Chúa muốn bạn mỗi ngày
dành 15 phút sống tình yêu tinh tuyền, tích cực. Kết hợp với Chúa,
bạn sẽ tập tành tiến tới. Bạn hãy bắt đầu một phút, rồi hai phút,
rồi ba phút. Nếu bạn kiên trì với tác động của Thánh Linh, không mấy
chốc bạn sẽ đạt tới mười lăm phút, và rồi sẽ nhiều hơn nữa. Bấy giờ,
bạn sẽ thấy mọi sự được đặt đúng chỗ của chúng và bạn sẽ nếm trước
những gì Chúa dành cho bạn, khi giờ của bạn điểm.
Tình yêu của bạn phải lớn
hơn những công việc bề bộn, nặng nhọc của bạn, lớn hơn những lo âu
của bạn, lớn hơn những đau khổ của bạn. Cái có giá trị trước mặt
Chúa không phải tình yêu bạn cảm thấy, mà phải là tình yêu bạn chứng
tỏ cho Chúa.
Suốt ngày sống, bạn hãy
hướng về Chúa những phút thờ phượng lặng lẽ, hãy năng xin Chúa làm
lớn lên trong bạn ước muốn Chúa, cảm nếm Chúa, niềm vui của Chúa. Đó
là lời cầu nguyện Chúa muốn đón nhận. Nhưng bạn hãy nhẫn nại, đừng
tìm đi nhanh hơn ơn thánh của Chúa.
Nước Trời phải được xây
dựng từ bên trong và Chúa cần những tâm hồn quảng đại trong những
cuộc chiến nội tâm cho anh chị em hơn là những người truyền bá và
chạy lo công việc, kể cả phục vụ Giáo Hội Chúa. Cái quan trọng là
lửa tình yêu lớn lên trong các tâm hồn, hơn là những việc trọng đại
bên ngoài, những tổ chức rầm rộ nhưng trống rỗng hay ít sự hiện diện
và hoạt động của Chúa.
Đừng chấp nhận sự đồng
điệu trong tình yêu. Hãy tìm và bạn sẽ gặp những cách mới để bộc lộ
tình yêu của bạn cho Chúa. Dĩ nhiên cần phải có những điểm cố định
trong đời sống thiêng liêng, nhưng với danh nghĩa chứng tá và gìn
giữ, chứ không phải là chướng ngại vật và “cây to che rừng.”
Bạn hãy để Chúa dẫn dắt
bạn. Đừng lo lắng về tương lai. Bạn thiếu cái gì trong quá khứ ư?
Bạn sẽ không thiếu gì hết vì Chúa sẽ luôn luôn có mặt và kẻ nào
không thiếu Chúa thì chẳng thiếu gì cả. Sự hiện diện dịu dàng của
Chúa luôn ở bên bạn, ngay cả trong những giờ đen tối và khó khăn
nhất của đời bạn. Và những con đường hầm sẽ tỏa ra ánh sáng.
Ai năng đến bên Chúa sẽ
múc được nguồn nghị lực mới. Chính Chúa sẽ đem lại canh tân thực sự
trong các tâm hồn, các gia đình, toàn xã hội. Thế giới sẽ được sức
sống nhờ đời sống chiêm niệm đích thực. Đời sống chiêm niệm không
phải là cuộc sống xuất thần, mà chính là cuộc sống có Chúa và tựa
vào Chúa, cuộc sống kết hợp với tư tưởng và hoạt động của Chúa.
Chính sự nối kết sinh tử này với Chúa mà toàn thế giới nhận được ân
sủng và thần tính Chúa.
Mỗi ngày khi rước lễ, bạn
hãy đọc lời nguyện Chúa ưa thích này: "Lạy Chúa Giêsu, xin làm
lớn lên trong con lòng khao khát Chúa, khao khát có Chúa, khao khát
được thuộc về Chúa và càng ngày càng lớn lên trong Chúa".
Bạn đừng ngạc nhiên khi
chưa được nhận lời nhanh chóng, một cách có thể nhìn thấy hay cảm
nhận được. Bạn hãy tiếp tục với lòng nhẫn nại. Việc đó sẽ đến từ từ,
đòi phải có thời gian và những thanh luyện thực hiện ngày qua ngày.
Giá trị của một đời sống chính là tình yêu của đời sống đó, nó sẽ
biến đổi tất cả những gì nó đụng tới, cho dù có phải chịu những lúc
đen tối, như mặt trời có thể bị mây che nhưng nó vẫn tiếp tục chiếu
sáng và tỏa sáng chan hòa sau đám mây. Tình yêu chiếu sáng, tình yêu
sưởi ấm, tình yêu chúc lành, tình yêu đem lại vui mừng.
Mỗi người đều có những khả
năng bất tận cho tình yêu. Dưới ơn thúc đẩy của Thánh Linh, tình yêu
này có thể được thánh hóa và phô diễn bằng những hành động quảng đại
phi thường đến hy sinh chính bản thân. Và Chúa sẵn sàng giúp nó phát
triển dễ dàng, nhưng Chúa sẽ không làm được nếu không có bạn cộng
tác. Bạn biết rõ rằng tự bạn, bạn không là gì hết và bạn chẳng có
thể làm được gì, nhưng một ngày kia bạn sẽ kinh ngạc khi thấy những
gì bạn và Chúa sẽ làm chung với nhau.
Bạn hãy tìm kiếm Chúa ở
trong bạn và một cách tự do quảng đại đặt mình dưới sự chiếm giữ
thần linh của Chúa. Bạn tiếc là đã không liên lỉ ý thức sự hiện diện
của Chúa, nhưng cái quan trọng là Chúa có đó khẳng định tình yêu của
bạn. Hãy cho Chúa bằng chứng tình yêu của bạn bằng những hy sinh nhỏ
nhặt, những khổ đau chịu đựng trong hiệp thông với đau khổ của Chúa,
những lần dừng lại ngắn ngủi và thường xuyên giữa công việc hay học
hành của bạn, và bạn sẽ thấy dần dần lớn lên trong bạn một trạng
thái trung thành và sẵn sàng với tất cả những gì Chúa sẽ xin bạn.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
VẤN ĐỀ TÂM BỆNH Ở
NGƯỜI CAO TUỔI
|
Trong xã hội Hoa Kỳ, nơi mà
tuổi trẻ được coi trọng, tuổi cao đồng thời lại mang tâm bệnh có
thể là cản trở để có nếp sống tốt lành và có ích hơn. Lý do là
xã hội, cơ chế chính quyền và mỗi cá nhân đều vô tình hoặc cố ý
có sự đối xử cách biệt và kỳ thị với người già mang thêm tâm
bệnh.
Cao tuổi là những người từ
60-65 tuổi trở lên.
Tâm bệnh là những rối loạn
về tâm trạng, hành vi, về sự suy nghĩ cũng như nhận thức của
người bệnh.
Bệnh xảy ra ở bất cứ ai,
không kể tuổi tác, giai tầng xã hội, giống tính và phái tính. Di
truyền dòng họ, khó khăn khi còn là bào thai, chấn thương tâm
lý, mất thăng bằng hóa chất tại não bộ, bệnh của cơ thể…là những
yếu tố có thể gây ra bệnh.
Người bệnh thường cảm thấy
thay đổi đột nhiên trong hành vi, tâm trạng với lo âu, căng
thẳng, xa lánh bạn bè thân nhân, không thích thú với các sinh
hoạt thường lệ, rối loạn ăn uống ngủ nghỉ, có ý nghĩ tiêu cực
như tự tử hoặc bạo hành với người khác. Một số người có những
hoang tưởng, ảo giác đối với sự việc và đối với mọi người ở
chung quanh.
Tâm bệnh là một trong nhiều
bệnh hiện nay còn bị hiểu nhầm nhiều nhất.
Kết quả nghiên cứu cho hay,
số người cao tuổi bị tâm bệnh ngày một gia tăng đồng thời sự kỳ
thị đối với họ cũng nhiều hơn.
Theo một vài ước định, tới
năm 2030 sẽ có khoảng 15 triệu người già mắc tâm bệnh tại Hoa
Kỳ. Như vậy, một phần tư số người cao tuổi sẽ mắc một loại bệnh
tinh thần nào đó, kề cả sa sút trí tuệ. Một phần ba số người sa
sút trí tuệ cũng có dấu hiệu rối loạn tinh thần và trầm cảm.
Người cao tuổi có thêm tâm
bệnh thường không được chăm sóc, điều trị chu đáo cả về dược
phẩm cững như tâm lý trị liệu. Một trong nhiều lý do là những
dịch vụ y tế mà người già cần đến, đều không được cung cấp đầy
đủ. Theo kết quả của một số nghiên cứu, chỉ có 3% người cao tuổi
nhận được sự trị liệu tại Trung Tâm Ngoại chẩn Tâm bệnh và chỉ
có 30% người cao tuổi sống trong cộng đồng nhận được sự chăm sóc
tại Trung tâm Tâm bệnh.
Ngoài sự không nhận được
đầy đủ trị liệu, chăm sóc, người cao tuổi mang tâm bệnh còn gặp
phải sự đối xử khác biệt và kỳ thị.
Có ba loại đồi xử khác biệt
và kỳ thị: tự bản thân người bệnh, từ công chúng và từ thể chế.
a. Tự bản thân
người bệnh.
Người già mang tâm bệnh rất
sợ hãi đi tìm kiếm trị liệu hoặc nhận là mình mang tâm bệnh vì
nhiều lý do.
Họ e ngại là nếu tự nhận có
tâm bệnh, họ sẽ mất bảo hiểm sức khỏe và sự chăm sóc, mất trợ
cấp tài chánh, sẽ bị phụ thuộc, trở nên bối rối, tự xa lánh mọi
người hoặc bị coi là bất khiển dụng.
Họ cũng sợ bị đưa vào các
nơi tập trung, xa xã hội, rồi bị rơi vào quên lãng.
b. Từ quần chúng
Công chúng thường đồng hóa
người cao tuổi mang tâm bệnh với sự lão suy.
Người già vẫn bị coi như
khờ dại, không chịu thay đổi, cứng đầu và đòi hỏi quá nhiều.
Người già mang tâm bệnh lại
còn bị xã hội cô lập nhiều hơn vì cho là bệnh không chữa trị
được hoặc người bệnh không xứng đáng nhận sự điều trị.
Một thì dụ: trầm cảm xẩy ra
ở người cao tuổi được hiểu lầm như một hiện tượng tự nhiên của
sự lão hóa. Do đó, trầm cảm bị cho là không trị được và không
cần trị.
c. Từ thể chế
quốc gia
Những giả định về người già
nhiều khi cũng đưa đến đối xử cách biệt đối với họ, nhất là
trong các chính sách chung của chính phủ. Chẳng hạn như giới hạn
việc lái xe hơi, giảm chi phí chăm sóc sức khỏe tinh thần đối
với người già mang tâm bệnh.
Hậu quả của đối xử khác
biệt và kỳ thị đối với người già mang tâm bệnh là:
- Họ sẽ có nếp sống không
thoải mái.
- Mối liên hệ trong gia
đình trở thành lỏng lẻo, xa cách.
- Họ không đóng góp được gì
cho xã hội.
- Họ thiếu tin tưởng ở hệ
thống chăm sóc sức khỏe của chính quyền.
Trên bình diện xã hội, kỳ
thị đưa tới các hậu quả như:
- Công chúng sẽ không thấu
hiểu sự khó khăn của người già mang tâm bệnh.
- Có ít nhà chuyên môn để
chăm sóc người già mang tâm bệnh.
- Tự động phân cách người
già mang tâm bệnh.
- Không có chính sách quốc
gia đối với người già mang tâm bệnh.
Sự đối xử cách biệt và kỳ
thị với người cao tuổi mang tâm bệnh vẫn còn tồn tại và cần phải
loại bỏ.
Theo ý kiến chung, loại bỏ
thành kiến gặp một số trở ngại như là:
- Người cao tuổi và gia
đình của họ không hiểu rõ về tâm bệnh, cho tâm bệnh là chuyện
đương nhiên ở người già, không cần chữa và cũng không chữa được;
hoặc cho tâm bệnh là xấu nên dấu diếm; hoặc không biết nơi cung
cấp điều trị, chăm sóc.
- Chính quyền không quan
tâm và dành ngân khoản để chăm sóc người già mang tâm bệnh
- Các chuyên gia y tế có
hành động đối xử khác biệt với người già mang tâm bệnh, coi nhẹ
những khó khăn của họ
- Các cơ sở cung cấp dịch
vụ y tế cho người già mang tâm bệnh không ý thức được hậu quả
của tâm bệnh đối với người già, coi bệnh như là chuyện đương
nhiên của tuối cao.
Sau đây là một số đề nghị
để loại bỏ sự đối xử khác biệt và kỳ thị với người cao tuổi.
1- Hướng dẫn, khích lệ người cao
tuổi mang tâm bệnh.
Cần đặt trọng tâm vào việc
nhận diện, tìm tới những người cao tuổi mang tâm bệnh để giúp họ
có thêm hiểu biết về bệnh, về sự có thể chữa hết bệnh và có thể
sống đời sống bình thường như mọi người.
Khi có hiểu biết như vậy,
họ sẽ không còn e ngại bị cô lập, coi thường.
Ðể thực hiện việc hướng dẫn
này, cần sự góp sức của nhiều người trong cộng đồng, đặc biệt là
các tổ chức tranh đấu bảo vệ quyền lợi người cao tuổi mang tâm
bệnh, cơ quan dân sự, các tổ chức tôn giáo.
Cần phải cho mọi người nhận
thức được rằng:
a.
Tâm bệnh của người già có thể điều trị được và họ có thể sống
đời sống khỏe mạnh, có ích như mọi người.
b.
Người già với tâm bệnh cần
phấn đấu một cách dũng cảm để vượt qua sự sợ hãi bệnh hoạn, sự
tự cô lập và sự thiếu phương tiện sinh sống.
c.
Người già với tâm bệnh phải tự giúp mình rồi vươn ra, giúp đỡ
người khác. Giúp đỡ người khác sẽ tăng niềm vui cho mình, tăng
niềm tự tin và tự trọng của mình.
đ-
Người già với tâm bệnh cần phải và được sống với gia đình mà
không sợ bị cô lập, bỏ rơi trong viện tâm thần.
Cần tận dụng tất cả các
phương tiện khác nhau để đạt tới sự hướng dẫn này, như truyền
thông đại chúng, cung cấp tài liệu hướng dẫn cho các tổ chức
thường tiếp xúc với người cao tuổi, viết thư cho người cao
tuổi...
Cũng cần để ý tiếp xúc với
các nhóm dân chúng có văn hóa, phong tục tập quán khác nhau, các
nhóm thiểu số trong cộng đồng để có sự đối xử công bằng, không
phân biệt kỳ thị.
2. Hướng dẫn
quần chúng về tâm bệnh và sự hóa già
Có ba đối tượng cần tập
trung hướng dẫn: người tuổi cao, thân nhân của họ và quần chúng
nói chung.
a-
Đối với người cao tuổi
Kinh nghiệm cho hay, người
tuổi cao thường ít tiếp nhận và tìm kiếm dịch vụ y tế, vì nhiều
lý do. Chẳng hạn:
- cho là mình già rồi,
trước sau cũng chết, cần gì chữa trị.
- kể bệnh ra người ta cho
là mình bị “điên” thì xấu hổ lắm.
- không biết có sẵn các
dịch vụ điều trị.
- vì trở ngại ngôn ngữ,
“tiếng tây, tiếng u”, ù ù cạc cạc không hiểu.
Cần phải nâng cao tinh thần
họ, cho họ hay rằng:
- một sức khỏe tinh thần
hay thể chất tốt mang lại niềm vui cho tuổi già.
- xã hội đã có sẵn các dịch
vụ y tế hữu hiệu dành cho họ.
- có sức khỏe tốt họ sẽ
sống độc lập, không phụ thuộc vào ai và
- không còn e ngại khi mang
tâm bệnh mà bị đối xử khác biệt.
Cần lưu ý rằng, một số
người cao tuổi vẫn còn đóng góp trí tuệ, lao động cho xã hội.
Khi mắc tâm bệnh, họ không bị kỳ thị trong việc làm, không bị xa
thải. Trị liệu và bệnh tình của họ không được tiết lộ cho chủ
nhân, nếu họ không đồng ý.
Tại Hoa Kỳ, luật Americans
with Disability Act đã được ban hành, áp dụng để bảo vệ nhân
viên khi chẳng may bị bệnh tật mà vẫn còn khả năng và muốn tiếp
tục công việc.
b-
Đối với thân nhân, con cái người cao tuổi
Cần khích lệ con cái để ý
nhiều hơn tới sức khỏe của cha mẹ, tìm kiếm các dịch vụ y tế xã
hội cho cha mẹ ngõ hầu giúp cha mẹ an hưởng tuổi già với niềm
vui gần con cháu.
Thân nhân, con cái cần lằng
nghe một cách thành thật các khó khăn của người bệnh và an ủi,
hỗ trợ. Họ cũng cần có kế hoạch sẵn sàng để đối phó với trường
hợp bệnh nhân trở nên trầm trọng. Giúp bệnh nhân ghi rõ các loại
thuốc và cách dùng, tên địa chỉ điện thoại các sĩ đang điều trị
cho bệnh nhân để khi cần, có sẵn. Đây là một việc làm với nhiều
căng thẳng.
Ngoài ra, thân nhân bạn bè
có thể tìm kiếm hỗ trợ từ các tổ chức ngoài đời.
c-
Đối với quần chúng
Hướng dẫn quần chúng:
- duy trì sự khỏe mạnh về
thể chất, linh lợi về tinh thần
- sống tích cực trong tuổi
già, và
- gạt bỏ mọi ý nghĩ tiêu
cực về sự hóa già.
Nói chung, cần cho mọi
người hay:
- ai cũng đều xứng đáng
sống lành mạnh.
- một tinh thần minh mẫn
trong một cơ thể khỏe mạnh mang niềm vui cho tuổi già.
- xã hội có sẵn các dịch vụ
y tế cho mọi người.
- khi có bệnh cần tìm kiếm
giúp đỡ, chữa trị.
- các bệnh đều chữa được.
- không bao giờ quá già để
sống lành mạnh...
Các hướng dẫn cần ngắn gọn
dễ hiểu.
Cần sử dụng mọi phương tiện
để đạt được mục tiêu mong muốn là người già mang tâm bệnh có thể
điều trị và có thể sống bình thường như mọi người bình thường
khác.
Kết luận
Các nhà chuyên môn đều có
cùng nhận định là mọi cố gắng loại bỏ đối xử khác biệt và kỳ thị
với người già mang tâm bệnh là công việc khó khăn và cần thời
gian lâu dài, nhưng phải bắt tay vào việc ngay.
Nếu trì hoãn, thì một thế
hệ người cao tuổi khác sẽ rơi vào tình trạng không ý thức được
nhu cầu của mình, không tiếp nhận, tìm kiếm được giúp đỡ và sẽ
không sống đời sống có ích như họ mong muốn.
Bác sĩ Nguyễn Ý- Ðức
Texas-Hoa Kỳ
(Tài liệu tham khảo: Center
for Mental Health Service- USA)
www.nguyenyduc.com
|
VỀ MỤC LỤC |
CHIẾC PHONG BÌ
Chuyện phiếm của Gã siêu |
Cách đây khá lâu, trên bán
nguyệt san châm biếm và trào phúng, mang tên là “Tuổi Trẻ Cười”,
gã đọc được một chùm thơ viết về…chiếc phong bì.
Gã rất lấy làm tâm đắc với
những tác giả của chùm thơ ấy, nên đã vỗ đùi đánh đét một phát
và tự thưởng cho mình một điếu thuốc lào, rồi sau đó lưu vào hộc
tài liệu.
Hôm nay, gã xin dựa vào chùm
thơ ấy để tán hươu tán vượn, cũng như tán rộng tán dài về đề tài
này. Vậy phong bì là cái chi chi ?
Theo “Việt Nam Tự Điển” của
Lê Văn Đức, thì phong là gói lại, gắn lại, chẳng hạn như niêm
phong. Bì là cái bị, cái bao. Còn bao là bọc bên ngoài, che chở,
vật chứa đựng. Vì thế, người ta cũng thường dùng chữ phong đi
liền với chữ bì và chữ bao.
Phong bao là bao thư đựng
tiền hay gói tiền dùng để trả công hay đền ơn. Còn phong bì là
bao thư, cái bao hình chữ nhật dùng để đựng thư.
Trước hết xin bàn về chiếc
phong bao.
Theo Toan Ánh trong “Tín
ngưỡng Việt Nam”, thì bước sang một năm mới, mỗi người đều tăng
thêm được một tuổi. Đó là điều đáng mừng. Đối với người già là
tăng tuổi thọ, đối với các em bé là thêm tuổi để thêm lớn.
Theo tục lệ thì sáng mồng một
tết, sau khi đã làm lễ kính tổ tiên xong, con cháu thường quây
quần chúc tuổi ông bà một năm bình an và mạnh khỏe. Ông bà cũng
chúc lại cho con cháu những điều tốt đẹp nhất.
Trong lúc chúc tết, con cháu
thường dâng cho ông bà một món quà tết như bánh trái hay một món
tiền. Tiền này được gọi là tiền mở hàng, đem lại may mắn cho ông
bà.
Đồng thời, ông bà cũng mở
hàng lại cho con cháu. Tiền mở hàng của ông bà cho con cháu được
gọi là tiền mừng tuổi. Dù giàu hay nghèo, ông bà cũng mừng tuổi
lại cho con cháu. Giàu thì nhiều tiền, nghèo thì tượng trưng một
vài đồng để cho con cháu được may mắn suốt năm.
Bạn bè gặp nhau trong ngày
tết cũng hay mở hàng cho nhau để lấy…hên. Tiền mở hàng này
thường được cất kỹ, ít khi lấy ra tiêu, chỉ trừ những trường hợp
bất đắc dĩ mà thôi.
Tiền mở hàng hay tiền mừng
tuổi được đựng trong những chiếc phong bao màu hồng. Riêng phong
bao đựng tiền mừng tuổi, thì bao giờ cũng phải có tiền lẻ, để
tiền đó sẽ sinh sôi nảy nở thêm nhiều.
Ngày tết, các bác và các cô,
các chú và các dì cũng thường mừng tuổi cho các cháu. Và khi tới
chúc tết nhà một người bạn có trẻ nhỏ người ta cũng mừng tuổi
cho các em. Hay khi một người bạn tới nhà mình chúc tết, có em
nhỏ đi theo, chủ nhà cũng phải mừng tuổi cho em, để em được khỏe
mạnh chóng lớn, học hành thông minh, chăm chỉ và ngoan ngoãn.
Tại miền Nam, người ta dùng
hai chữ “lì xì” để chỉ tiền mừng tuổi, như món quà tết dành cho
các em nhỏ. Hai chữ này xuất phát từ tiếng Quảng Đông bên Tàu.
Ngoài ra, người ta cũng dùng
hai chữ “lì xì” để chỉ tiền thưởng, chẳng hạn lì xì cho bồi bếp…
Đối với các em nhỏ, một trong
những niềm vui của ngày tết chính là được nhận tiền lì xì, tiền
mừng tuổi. Chúng lo đếm từng đồng và kiểm điểm xem ai cho hậu
hĩnh nhất. Chúng khoe với bạn bè rằng mình đã được bấy nhiêu để
xem đứa nào nhiều đứa nào ít. Nhưng rồi cuối cùng đều gửi lại
cho mẹ, như mọi con đường đều dẫn về Rôma vậy.
Như thế, lãnh vực chuyên môn
của phong bao là để đựng tiền.
Tiếp đến xin bàn về chiếc
phong bì.
Công dụng đầu tiên của phong
bì, như trên đã định nghĩa, là để đựng những cánh thư người ta
gửi cho nhau.
Ngày xưa, khi những phương
tiện hiện đại như “meo” và “chat” chưa có, thậm chí điện thoại
cũng còn rất hiếm ngay cả tại thành phố, thì phương tiện duy
nhất để liên hệ với nhau chính là thư từ qua đường bưu điện.
Con cái trước khi lên đường
đi học hay đi làm nơi xa, thế nào cũng được ba má căn dặn kỹ
càng :
- Con nhớ viết thư về cho
thầy mẹ nhé.
Đặc biệt là đối với những
người đang yêu. Những cánh thư tình lâm ly bi đát đã nối kết họ
lại với nhau, dù đang phải xa cách ngàn trùng tận những chân
trời góc biển khác nhau.
Người ta nắn nót từng viết
từng chữ. Người ta trải dài tâm tư trên những trang giấy. Người
ta kể cho nhau đủ mọi thứ chuyện, từ chuyện trên trời đến chuyện
dưới đất, từ chuyện mưa đến chuyện nắng, từ chuyện trong nhà đến
chuyện ngoài ngõ. Thậm chí người ta còn chọn cả màu mực mà người
yêu mình vốn thích để mà viết.
Bức thư được viết xong, người
ta trịnh trọng bỏ vào trong phong bì. Hồi đó chưa có loại giấy
thơm như bây giờ, nên có người còn cẩn thận xức thêm một chút
nước hoa cho yêu thương tỏa ngát hương thơm.
Sau đó niêm phong lại bằng
cách…lè lưỡi liếm, bởi vì các phong bì đều đã được phết keo
sẵn.
Người cẩn thận viết tên và
địa chỉ người nhận. Nguyên hai chữ khởi đầu cũng đã nhiêu khê và
rắc rối. Nào là kính gửi, nào là thân gửi, nào là mến gửi, nào
là thương về, nào là trao về…
Địa chỉ phải đúng, bằng không
cánh thư sẽ bị phiêu diêu miền cực lạc. Và đôi khi cũng đã xảy
ra những chuyện cười chảy nước mắt. Chẳng hạn thư viết cho bố
thì lại đề lộn địa chỉ của bồ, còn thư cho bồ thì lại đề lộn địa
chỉ của bố. Thật chéo cẳng ngỗng.
Sau đó người ta cũng lại…lè
lưỡi liếm để dán com tem hay con cò trên chiếc phong bì, rồi
trao phó số mạng nó cho ông bưu điện. Phải có đủ tem đủ cò thì
ông bưu điện mới chuyển, bằng không thì sẽ bị trả về cho khổ
chủ. Còn nếu chuyển thì người nhận sẽ bị nộp thêm tiền phạt. Đôi
khi vì lý do kỹ thuật, thư bị thất lạc thì quả là buồn tê tái.
Một khi cánh thư đã được gửi
đi, người ta ngong ngóng trông chờ sự trả lời, sự hồi âm của
người mình yêu. Có khi trông đứng trông ngồi, trông dài cả cổ.
Việc nhận thư ở thôn quê cũng
hay gặp phải rắc rối. Thư về tới bưu điện xã thì nằm ì ở đó vì
chẳng có nhân viên phụ trách để mang đi phân phát. Vì thế, để
không bị phiền trách, mang tiếng là hững hờ và lạnh nhạt, người
ta phải nhờ tới một người trung gian để nhận thư và chuyển thư
cho mình.
Bác nhân viên phụ trách phát
thư được coi như sứ giả mang tin vui. Nhất là vào thời buổi khó
khăn, khi nhận được thư hay giấy báo lãnh tiền hay quà của thân
nhân từ nước ngoài gửi về, người ta cũng thường “bồi dưỡng “ cho
bác ta một số tiền, gọi là để cám ơn, nhưng cũng muốn nói lên
rằng :
- Xin bác hãy nhớ, đừng cố
tình quên hay ngâm tôm giấy báo cho những lần khác.
Theo sự sưu tầm, người ta
được biết : Juliette Drouet đã viết cho Victor Hugo những mười
bảy ngàn lá thư tình và văn hào cũng đã trả lời bằng ấy bức thư
tình cho người yêu. Điều này cũng dễ hiểu vì họ là những nghệ
sĩ.
Thế nhưng, Himmler, một con
người lạnh lùng và sắt đá, một con hùm xám của Đức Quốc Xã, tác
giả của những lò sát sinh, trước khi chết cũng đã để lại ba trăm
bức thư tình với những lời lẽ cực kỳ bay bướm và lãng mạn.
Gã xin kể lại một vụ tỏ tình
bằng thư rất thơ mộng, rất chất lượng và cũng rất đạt kết quả
mong muốn :
Chamfleuri, một tiểu thuyết
gia người Pháp, đã tỏ tình một cách rất tuyệt vời bằng cách viết
cho người yêu một bức thư ngắn :
- Kẻ không vợ không chồng thì
như kéo một lưỡi, chẳng làm được gì cả. Trái lại, kéo hai lưỡi
thì dùng được ngay. Nếu em tin điều đó, thì anh nguyện đem trót
cả tình cảm chân thành và tấm lòng hy sinh tận tụy của mình để
cùng em cắt tấm vải cuộc đời.
Và người yêu của ông đã gửi
cho ông một chiếc kéo hai lưỡi thật mới và thật sắc. Ít lâu sau,
đám cưới của họ được cử hành và suốt đời họ đã sống hạnh phúc
bên nhau.
Vì thế, tác giả Huỳnh Đường
trong chùm thơ về chiếc phong bì đã viết :
- Tội đâu ở cái phong bì,
Mà sao các bác cứ đì mãi
em!
Một khi em được dán tem,
Cũng là cầu nối tâm tình
gần xa.
Rất tiếc hiện giờ thói quen
viết thư đang dần dà bị mai một và chìm dần vào quên lãng. Ngay
như chính gã cũng vậy, hơi một tí là điện thoại, động một tẹo là
“email”, vừa mau chóng, vừa bảo đảm an toàn. Vì thế, rất ngại
phải lôi giấy bút ra. Và ngồi nắn nót viết một bức thư thì quả
là một…công trình lớn.
Cũng chính vì sự mai một của
việc viết thư mà chiếc phong bì cũng bị biến dạng để rồi được
dùng vào những công việc khác.
Trước hết, phong bì
được dùng vào việc báo tin vui cũng như loan tin buồn.
Ngày nay, việc in ấn hết sức
dễ dàng, và không quá mắc mỏ, nên khi có người qua đời, người ta
liền gửi thiệp tang, khi tổ chức ăn giỗ người ta cũng in và gửi
thiệp mời. Tất cả đều được đặt trong chiếc phong bì.
Còn khi bước vào cao điểm của
mùa cưới, mỗi ngày nhận được vài ba cái thiệp hồng cũng chỉ là
chuyện bình thường. Phong bì đựng thiệp cưới được in ra càng
ngày càng đẹp, phong phú về mẫu mã, trang nhã về màu sắc, phảng
phất về hương thơm.
Thế nhưng, sống trong cuộc
đời cái triết lý “ông có chân giò, bà thò chai rượu”, “banh ít
đi, bánh qui lại” vẫn là cái triết lý thực tiễn nhất. Họ có nhã
ý mời mình, thì mình cũng phải biết điều. Vì thế, khi đi tham dự
phải nhớ mang theo phong bì.
Tiếp đến, phong bì được
dùng vào việc đựng tiền mừng.
Để cho tiện việc và dễ nhớ,
người ta dùng chính chiếc phong bì thiên hạ gửi mời hay báo tin
để đựng tiền phúng điếu cho nhà hiếu hay đựng tiền mừng cho đôi
bạn trẻ :
- Em mừng một chút tiệc hoa,
Một chút việc hiếu cũng là
thường thôi.
Nhiều người cứ đến mùa cưới
thì lo buồn rầu rĩ. Thực vậy, trong lúc cô dâu chú rể và bàn dân
thiên hạ mừng rỡ hân hoan, thì mình lại băn khoăn bối rối, bởi
vì nguyên cái chuyện tìm đâu cho ra tiền để nhét vào các phong
bì, cũng đủ toát cả mồ hôi hột, đứt luôn cả một tháng lương.
Thảo nào mà người ta hay dùng trà “móc câu” đi liền với tấm
thiệp để mời dự đám cưới!!!
Ấy là chưa nói tới chuyện bị
hành hạ trong những tiệc cưới : Cái tai bị hành hạ bởi những âm
thanh nhức nhối, cái bao tử bị hành hạ bởi những thức ăn khó
tiêu cũng như bởi bia bọt, còn bản thân bị hành hạ vì bị chờ :
có tiệc cưới nào mà lại được khai mạc đúng giờ đâu, còn phải đợi
cho đủ mặt khách khứa, nhất là những khách sộp và những khách
thuộc vào hàng “víp” nữa.
Và như thế, thay vì được dùng
để gói ghém tâm tư và tình cảm thì bây giờ phong bì đã được
chuyển hệ để mà gói ghém tiền bạc.
Sau cùng, phong bì được
dùng vào việc đựng tiền lo lót, cũng như chạy chọt một cách trực
tiếp hay gián tiếp.
Cái dịch vụ gói ghém tiền bạc
của phong bì xem ra ngày càng được phát triển, ăn nên làm ra,
bởi vì trên cõi đời này, số người nắm giữ quyền hành nhưng lòng
tham lại không đáy, chẳng bao giờ khan hiếm cả :
- Chỉ vì sâu mọt lên đời,
Chực ăn của đút nên lôi em
vào.
Tiếp cận quan thấp quan
cao,
Chạy chọt cửa nào họ cũng
cậy em.
Vì em họ mắc tiếng oan.
(Huỳnh Đường, Hà Nội).
Phàm muốn làm bất cứ sự gì,
thì vấn đề đầu tiên bao giờ cũng vẫn phải là vấn đề tiền đâu. Đó
là qui luật bất di bất dịch của muôn đời.
Còn bây giờ, hễ động tới các
quan, các sếp, các víp , thì lập tức phải cần tới phong bì. Đó
là cái lệ làng không thể bỏ qua. Chính vì thế, phong bì được lên
ngôi, ngước mặt nhìn trời và vênh vang với đời :
- Phong bì lên mặt ra oai,
Viếng mừng quà biếu tất ai
cũng cần.
Mừng sếp sinh nhật bản
thân,
Lót tay lãnh đạo cúng tuần
mẹ cha.
Mừng cai cưới cháu, dựng
nhà,
Rồi còn mừng thọ cụ bà, cụ
ông.
Mới nghe tưởng thế đã xong,
Chết vì cơ hội lộn xòng mới
nguy.
(Nguyễn Thanh Sơn, TP.
HCM).
Nói đúng
ra cái thế lực của phong bì cũng chính là cái thế lực của đồng
tiền. Nếu nén bạc đâm toạc tờ giấy, nếu đồng “tiền là tiên là
phật, là sức bật của tuổi trẻ, là sức khỏe của tuổi già,
là cái đà của danh vọng, là cái lọng để che thân, là cán cân của
công lý…thì phong bì cũng có cái uy phong lẫm liệt và toàn năng
như thế :
- Chuyện đâu có chuyện lạ đời :
Muốn mau xong việc, phải…lòi phong bao.
Từ việc thấp đến việc cao,
Chuyện lớn chuyện nhỏ…chuyện nào cũng “chi”.
Thế nhưng nó lắm quyền uy, nhiệm mầu.
Muốn không chờ đợi thêm lâu,
Ê mông, mỏi gối, nhức đầu…vẩn vơ,
Hãy nhanh tay lót…bao thơ.
Bằng không chờ đến bao giờ mới xong!
Tốn tiền nhưng đỡ tốn công,
Đã lâu thành lệ mất rồi,
Lệ đâu có lệ lạ đời,
Ai đặt ra lệ, để rồi…trách ai?
(Lê Anh
Vũ, Bà Rịa-Vũng Tàu).
Nếu như đồng tiền rất có duyên với các quan, các sếp
và các víp :
- Hạt tiêu nó bé nó cay,
Đồng tiền nó bé nó hay cửa quyền.
Phong bì cũng vậy, luôn làm cho các quan, các sếp,
các víp được hài lòng và bản thân mau chóng đạt được những kết
quả mong muốn, đôi khi còn hơn cả mong muốn nữa :
- Đã mang cái kiếp phong bì,
Nơi nào tớ đến, việc gì chả xong.
Nhưng mà chẳng đến tay không,
Trong lòng tớ chứa tiền nong đàng hoàng.
Việc cần là tớ…lên đàng,
Bụng này càng nặng, việc càng chạy mau.
Đã quen lệ, thành phong trào,
Khó khăn ? Có tớ cỡ nào cũng…qua.
Chạy trường, chạy việc…dễ mà,
Chạy chức, chạy tội…có là khó chi.
Chữ rằng bánh ít, bánh qui,
Có đi có lại thế thì mới…vui.
(Lê Anh
Vũ, Bà Rịa-Vũng Tàu).
Điều quan trọng là chất lượng chứa trong cái phong
bì. Chất lượng càng cao và càng nhiều thì cửa nào cũng lọt, khó
khăn nào cũng qua.
- Phong bao con sếp cầm mở ra,
Mở ra chỉ thấy những đô la.
Mới hỏi : Mẹ ơi sao tiêu được ?
Mẹ rằng : tiền ấy để cho ta.
(Đỗ Hải
Lễ, Hà Nội).
Bình thường, trong những phiên họp do chính quyền ở
Việt Nam tổ chức, những người tham dự đều có chế độ bồi dưỡng
như tiền xe cộ, tiền ăn uống…Vì thế mới xảy ra cái nạn người họp
thì ít mà báo cáo lại thật nhiều, cũng giống như làm thì láo,
báo cáo thì hay… để rồi chia chác với nhau số tiền bồi dưỡng
thặng dư ấy. Do đó, thiên hạ rất siêng năng tổ chức hội họp, vì
càng họp thì càng có ăn.
Có lẽ để chấn chỉnh tệ nạn này, nhà nước mới bày ra
cái trò phát phong bì cho những người tham dự, vừa gọn nhẹ, vừa
bảo đảm, vừa đỡ vất vả, lại vừa lòng khách đến, vui lòng khách
đi :
- Đầu giờ đến họp khá đông,
Giữa giờ trống chỗ…nhiều ông ra về,
Hóa ra đã vịn “phong bì”,
Ngồi chai đít, biết nghe gì nữa đâu ?
Ngáp dài liếc mắt, bấm nhau.
Phong bì đã nhận, mau mau cùng chuồn.
Đi họp cốt để có…”nguồn”,
Nội dung lõm bõm, có đầu, mất đuôi.
Họp mà như thể đi chơi.
(Lê Hồng Thiện, Hưng Yên).
Tuy nhiên, thân phận và số kiếp của phong bì cũng
lên voi xuống chó, cũng ba chìm bảy nổi và chín cái lênh đênh.
Khi cần đến, người ta o bế, vuốt ve. Khi xong việc, người ta
không ngần ngại ném vào sọt rác :
- (Phong bì),
Một khi đã “rút ruột” rồi,
Ném vô sọt rác, thân tôi bọt bèo.
Lần sau có “việc” lại điều,
Tớ mang “hành lý: ngao nghêu…lên đàng.
(Lê Anh Vũ, Bà Rịa-Vũng Tàu).
Thu nhập của các quan chức thường được chia làm hai
phần. Phần chính thức và phần không chính thức. Phần trong luồng
và phần ngoài luồng. Phần chính thức trong luồng được gọi là
lương. Còn phần không chính thức ngoài luồng được gọi là lậu,
hay bổng. Vì thế, người ta mới nói : lương lậu, hay lương bổng.
Lương thì ba cọc ba đồng, chẳng được bao nhiêu. Còn
lậu hay bổng thì âm thầm và kín đáo những lắm lúc lài nhiều vô
số kể. Nhờ đó, các quan mới dư tiền bạc để mà tậu đất, xây nhà
và sắm xe hơi đời mới. Quan thì liên tục phát triển, còn dân thì
liên tục tóp teo lại. Bao lâu còn tham nhũng, còn hối lộ thì đất
nước khó có thể vươn vai biến thành rồng.
Để kết luận gã
xin kể lại một mẩu chuyện nho nhỏ trong sách “Cổ học tinh hoa”.
Có một ông quan
vừa mới nhận chức tại một huyện xa xôi. Ban đêm, một người bạn
đến thăm và đút cho ông ta một số tiền lớn. Ông quan thanh liêm
nhất định không nhận, nhưng người bạn liền nói :
- Trời thì tối,
chẳng có ai biết được đâu mà sợ.
Ông quan trả
lời :
- Trời biết,
đất biết, anh biết và tôi biết, sao lại nói chẳng có ai biết
được đâu ?
Người xưa đã bảo :
- Tham thực thì cực thân.
Nghĩa là ăn nhiều thì chỉ làm khổ cho cái thân mà
thôi. Có lẽ câu này cũng đúng cho việc ăn hối lộ, ăn phong bì
bởi vì những thứ của ăn này rất dễ dàng dẫn các quan vào nhà đá,
nằm thở dài mà…đếm lịch.
Gã Siêu
gasieu@gmail.com
|
VỀ MỤC LỤC |
|
- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến,
bài vở..., xin gởi về địa chỉ
giaosivietnam@gmail.com
- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục
vụ của Giáo sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các
Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn
gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực
Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh
vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức
Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và
Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quy vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại
www.conggiaovietnam.net
Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị
Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã
sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác
nhau.
TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca
Phạm Quốc Sử
USA
|
|
*************
|
|