Ðặc Tính Cánh
Chung Của Giáo Hội Lữ Hành |
Thánh Công
Ðồng Chung Vaticanô II
Hiến Chế Tín Lý
Về Giáo Hội - Lumen Gentium
Bản dịch Việt
Ngữ của Giáo Hoàng Học Viện Piô X
Prepared for
Internet by Vietnamese Missionaries in Asia
Chương VII
Ðặc Tính Cánh
Chung Của Giáo Hội Lữ Hành
Và Sự Hiệp Nhất
Với Giáo Hội Trên Trời
61*
48. Ðặc tính
chung của ơn gọi chúng ta. Tất cả chúng ta được
mời gọi gia nhập Giáo Hội trong Chúa Kitô, và nhờ ân sủng Thiên
Chúa, chúng ta nên thánh trong Giáo Hội. Và Giáo Hội chỉ kết
thúc trong vinh quang trên trời, khi thời cải tạo mọi sự đến
(CvTđ 3,21) và khi toàn thể vũ trụ cùng với loài người được
thiết lập toàn vẹn trong Chúa Kitô, vì vũ trụ liên kết mật thiết
với con người và nhờ con người đạt được cùng đích của mình (x.
Eph 1,10; Col 1,20; 2P 3,10-13).
Thực vậy, Chúa Kitô, khi bị treo lên khỏi
đất, đã kéo mọi người đến với mình (x. Gio 12,32, bản Hy lạp).
Khi từ kẻ chết sống lại (x. Rm 6,9), Người đã sai Thánh Thần ban
sự sống đến với các môn đệ và nhờ Thánh Thần thiết lập thân thể
Người là Giáo Hội như bí tích phổ quát cứu rỗi. Nay đang ngự bên
hữu Chúa Cha, Người không ngừng tác động trong thế giới để dẫn
đưa mọi người về với Giáo Hội, và qua Giáo Hội, kết hợp họ với
Người khắng khít hơn; Người còn lấy chính Mình Máu Người nuôi
họ, cho họ tham dự vào cuộc sống vinh hiển của Người. Vì vậy, sự
cải tạo Chúa đã hứa và chúng đang mong đợi đã khởi sự nơi Chúa
Kitô, được xúc tiến khi Thánh Thần đến và nhờ Ngài được tiếp
diễn trong Giáo Hội. Nhờ đức tin trong Giáo Hội, chúng ta còn
hiểu được ý nghĩa cuộc sống ở trần thế, ngay khi chúng ta lo
hoàn tất công việc Chúa Cha trao phó ở đời này trong niềm hy
vọng hạnh phúc mai sau cũng như khi chúng ta lo phần rỗi của
mình (x. Ph 2,12).
Như thế thời đại cuối cùng đã đến với chúng
ta rồi vậy (x. 1Cor 10,11). Việc canh tân thế giới được thiết
lập một cách bất khả phục hồi và thực sự đã bắt đầu một cách nào
đó ngay từ bây giờ vì Giáo Hội đã được trang điểm bằng sự thánh
thiện đích thực, tuy chưa hoàn toàn. Dù vậy, cho tới khi có trời
mới và đất mới, nơi công lý ngự trị (x. 2P 3,13), Giáo Hội lữ
hành mang khuôn mặt chóng qua của đời này, qua các bí tích và
định chế là những điều thuộc thời đại này. Và Giáo Hội vẫn sống
giữa các thụ sinh tới nay còn rên siết và quằn quại trong cơn
đau đớn lúc sinh con, và mong đợi con cái Thiên Chúa xuất hiện
(x. Rm 8,19-22).
Bởi vậy, được nối kết với Chúa Kitô trong
Giáo Hội và được in dấu của Thánh Thần là "bảo chứng của cơ
nghiệp chúng ta" (Eph 1,14), chúng ta thực sự được gọi là con
Thiên Chúa và chúng ta là con Chúa thật (x. 1Gio 3,1); nhưng
chúng ta chưa được xuất hiện với Chúa Kitô trong vinh quang (x.
Col 3,4), trong đó chúng ta sẽ nên giống Thiên Chúa, vì trông
thấy Ngài như Ngài có thật (x. 1Gio 3,2). Vì thế, "đang khi
chúng ta còn ở trong thân xác này, là phải lưu đày xa Chúa"
(2Cor 5,6) và được hưởng hoa quả đầu mùa của Thánh Thần, chúng
ta âm thầm than vãn (x. Rm 8,23) và khao khát được ở với Chúa
Kitô (x. Ph 1,23). Chính đức ái đó thúc bách chúng ta sống cho
Người hơn nữa, vì Người đã chết và sống lại cho chúng ta (x.
2Cor 5,15). Do đó chúng ta gắng sức làm đẹp lòng Chúa trong mọi
việc (x. 2Cor 5,9) và mặc lấy binh giáp Thiên Chúa, hầu có thể
đứng vững trước những cạm bẩy của ma quỉ và kháng cự chúng trong
ngày gian truân (x. Eph 6,11-13). Ðàng khác, vì không biết ngày
và giờ, chúng ta phải theo lời Chúa dạy, luôn tỉnh thức, để khi
cuộc đời độc nhất của chúng ta ở trần gian chấm dứt (x. Dth
9,27), chúng ta xứng đáng vào dự tiệc cưới với Người và được
liệt vào số những người được chúc phúc (x. Mt 25,31-46), chứ
không như những tôi tớ khốn nạn và lười biếng (x. Mt 25,26) sẽ
bị đẩy vào lửa đời đời (x. Mt 25,41), vào chốn tối tăm, nơi
"khóc lóc và nghiến răng" (Mt 22, 13 và 25,30). Thật vậy, trước
khi ngự trị với Chúa Kitô vinh hiển, mọi người chúng ta đều phải
trình diện "trước tòa Chúa Kitô, để mọi người lãnh lấy những
thành quả đời mình đã làm trong thân xác hoặc lành hoặc dữ"
(2Cor 5,10). Và ngày tận thế "ai đã làm lành sẽ sống lại hầu
được sống, còn ai làm ác sẽ sống lại để chịu đoán phạt" (Gio
5,29; x. Mt 25,46). Bởi đó, tin rằng "những đau khổ hiện thời
chẳng thấm vào đâu với vinh quang sắp tới sẽ được giải bày cho
chúng ta" (Rm 8,16; x. 2Tm 2,11-12), chúng ta mạnh mẽ tin tưởng
trông đợi "niềm hy vọng hạnh phúc và ngày trở lại vinh quang của
Thiên Chúa cao cả và Ðấng cứu chuộc chúng ta là Chúa Giêsu Kitô"
(Tit 2,13). "Người sẽ cải tạo thân xác hèn mạt ta ra giống thân
xác sáng láng của Người" (Ph 3,21) và sẽ ngự đến "để được vinh
quang trong các Thánh của Người và được thán phục trong mọi
người đã tin" (2Th 1,10).
62*
49. Sự hiệp
thông giữa Giáo Hội trên trời và Giáo Hội lữ hành.
63* Bởi thế, cho tới khi Chúa ngự đến trong uy nghi,
có tất cả các Thiên Thần theo Người (x. Mt 25,31), và khi sự
chết đã bị hủy diệt, mọi vật đều qui phục Người (x. 1Cor
15,26-27), thì trong số các môn đệ Chúa, có những kẻ còn tiếp
tục cuộc hành trình nơi trần thế, có những kẻ đã hoàn tất cuộc
sống này và đang được tinh luyện và có những kẻ được hiển vinh
đang chiêm ngưỡng "rõ ràng chính Thiên Chúa duy nhất trong Ba
Ngôi như Ngài hằng có"
1. Nhưng hết thảy mọi người chúng ta, tùy cấp bậc và
cách thức khác nhau, đều hiệp thông trong cùng một đức mến Chúa
yêu người, cùng hát lên một bài ca chúc tụng vinh quang Thiên
Chúa chúng ta. Vì tất cả những ai thuộc về Chúa Kitô và nhận
lãnh Thánh Thần Người, đều họp thành một Giáo Hội duy nhất và
liên kết với nhau trong Người (x. Eph 4,16). Bởi vậy, sự hiệp
nhất giữa những người còn sống trên dương thế với các anh em đã
yên nghỉ trong an bình Chúa Kitô không hề bị gián đoạn. Nhưng
trái lại, Giáo Hội xưa nay luôn tin rằng sự hiệp nhất đó còn
vững mạnh hơn nhờ việc truyền thông cho nhau những của cải
thiêng liêng
2. Quả thực, nhờ kết hiệp mật thiết với Chúa Kitô hơn,
các người ở trên trời củng cố toàn thể Giáo Hội vững bền hơn
trong sự thánh thiện, làm cho việc thờ phượng mà hiện nay Giáo
Hội tại thế dâng lên Thiên Chúa, được cao cả hơn, và họ góp phần
phát triển Giáo Hội rộng rãi hơn bằng nhiều cách (x. 1Cor
12,12-27)
3. Ðược về quê trời và hiện diện trước nhan Chúa (x.
2Cor 5,8) nhờ Người, với Người và trong Người, các Thánh không
ngừng cầu bầu cho chúng ta bên Chúa Cha
4, bằng cách trình bày các công nghiệp đã lập được khi
còn ở dưới thế, nhờ Ðấng Trung Gian duy nhất giữa Thiên Chúa và
loài người là Chúa Giêsu Kitô (x. 1Tm 2,5), khi họ đã phục vụ
Chúa trong mọi sự, và hoàn tất nơi thân xác họ những gì còn
thiếu sót trong các đau khổ của Chúa Kitô, hầu mưu ích cho Thân
Thể Người là Giáo Hội (x. Col 1,24)
5. Do đó, với tình huynh đệ, các ngài lo lắng giúp đỡ
chúng ta rất nhiều vì chúng ta yếu hèn.
64*
50. Tương
quan giữa Giáo Hội lữ hành và Giáo Hội trên trời.
Nhận biết đúng đắn sự hiệp thông này trong toàn Nhiệm Thể Chúa
Giêsu Kitô, ngay từ buổi đầu của Kitô giáo, Giáo Hội lữ hành hết
lòng kính nhớ, dâng lời cầu cho những người đã chết
6, "vì cầu nguyện cho người chết để họ được giải thoát
khỏi tội lỗi là một ý nghĩ lành thánh" (2Mac 12,46). Ðối với các
tông đồ và những vị tử đạo của Chúa Kitô, là những chứng nhân
cao cả đã đổ máu vì đức tin và đức ái, Giáo Hội luôn tin rằng,
các ngài liên kết với chúng ta khắng khít hơn trong Chúa Kitô:
với lòng yêu mến đặc biệt, Giáo Hội tôn kính các ngài cùng Ðức
Trinh Nữ Maria và các Thánh Thiên Thần
7, và sốt sắng nài xin các ngài trợ giúp và cầu bầu
cho. Sau đó không bao lâu, thêm vào số các vị trên, Giáo Hội còn
tôn kính những người đã nhiệt thành noi gương khiết trinh và khó
nghèo của Chúa Kitô
8; và sau cùng, có những người vì đã thực hành cách
phi thường các nhân đức Kitô giáo
9 và được Chúa ban nhiều ân điển, nên được các tín hữu
thành tâm tôn kính và noi theo
10.
Quả thực, khi ngắm nhìn đời sống những
người đã trung thành bước theo Chúa Kitô, chúng ta khám phá ra
một lý do mới thúc đẩy chúng ta tìm kiếm Thành Thánh tương lai
(x. Dth 13,14 và 10,11), đồng thời chúng ta cũng biết con đường
chắc chắn giúp chúng ta đạt tới sự kết hiệp hoàn toàn với Chúa
Kitô, nghĩa là đạt tới sự thánh thiện, giữa bao thăng trầm trần
thế, tùy theo bậc sống và hoàn cảnh riêng của mỗi người
11. Qua cuộc sống của những người cùng mang một bản
tính nhân loại như chúng ta, nhưng đã được biến đổi nên giống
hình ảnh Chúa Kitô hơn (x. Cor 3,18), Thiên Chúa tỏ lộ rõ ràng
cho con người thấy dung nhan và sự hiện diện của Ngài. Chính
Ngài nói với chúng ta qua các vị ấy và ban cho chúng ta thấy dấu
chỉ Nước Ngài
12, và mãnh liệt lôi cuốn chúng ta tới Nước ấy nhờ số
chứng nhân đông đảo như mây trời (x. Dth 12,1) và nhờ chân lý
Phúc Âm được chứng thật như thế.
Tuy nhiên, chúng ta kính nhớ các Thánh trên
trời không chỉ vì gương lành các ngài mà thôi, nhưng đúng hơn để
sự hiệp nhất của toàn thể Giáo Hội trong Thánh Thần được bền
vững nhờ thực hành đức bác ái huynh đệ (x. Eph 4,1-6). Thực vậy,
cũng như mối hiệp thông giữa các Kitô hữu còn sống trên dương
thế đưa chúng ta tới gần Chúa Kitô hơn, thì sự liên kết với các
Thánh cũng hiệp nhất chúng ta với Người, là Ðầu và là Nguồn phát
sinh mọi ân sủng và sự sống của chính Dân Thiên Chúa
13. Do đó, điều hết sức thích đáng là chúng ta yêu mến
các bạn hữu và những người đồng thừa tự của Chúa Kitô, cũng là
anh em và ân nhân đặc biệt của chúng ta, cũng như chúng ta dâng
lời cảm tạ Thiên Chúa vì các ngài
14 và "thành khẩn van nài, chạy đến xin các ngài cầu
nguyện và trợ lực, giúp đỡ, hầu Chúa Cha ban cho nhiều ơn lành,
nhờ Chúa Giêsu Kitô, Con Chúa, Chúa chúng ta, Ðấng Cứu Chuộc và
Giải Thoát duy nhất của chúng ta"
15. Thực vậy, mọi bằng chứng đích thực biểu lộ tình
yêu chúng ta đối với các Thánh trên trời, từ bản chất, luôn qui
hướng và kết thúc nơi Chúa Kitô là "triều thiên của toàn thể các
Thánh"
16, và nhờ Người qui hướng và kết thúc nơi Thiên Chúa,
Ðấng đáng ca tụng và tôn vinh trong các Thánh
17.
Hơn nữa, sự hiệp nhất của chúng ta với Giáo
Hội trên trời được thực hiện cách hết sức cao cả, đặc biệt trong
Phụng Vụ, ở đó quyền năng Thánh Thần hoạt động trên chúng ta qua
các dấu chỉ bí tích, ở đó chúng ta cùng lớn tiếng ngợi khen
Thiên Chúa uy linh
18, và tất cả mọi người thuộc mọi chi tộc, ngôn ngữ,
dân tộc và quốc gia được cứu chuộc trong máu Chúa Kitô (x. Kh
5,9), hợp nhau trong một Giáo Hội duy nhất, đồng thanh chúc tụng
một Thiên Chúa Ba Ngôi. Bởi vậy, khi cử hành lễ hy tế tạ ơn,
chúng ta kết hợp rất mật thiết với việc thờ phượng của Giáo Hội
trên trời, vì hiệp cùng Giáo Hội, chúng ta kính nhớ trước hết
Ðức Maria vinh hiển, trọn đời Ðồng Trinh, sau là Thánh Giuse,
các Thánh Tông Ðồ và Tử Ðạo cùng toàn thể các Thánh
19.
65*
51. Hướng
dẫn mục vụ của Công Ðồng. Thánh Công Ðồng kính
cẩn đón nhận niềm tin cao trọng của tiền nhân chúng ta trong
việc hiệp thông sống động với các anh em được hiển vinh trên
trời hay còn phải tinh luyện sau khi chết, và lấy lại các sắc
lệnh của các thánh Công Ðồng Nicea II
20, Firenze
21 và Trentô
22. Ðồng thời, vì quan tâm đến mục vụ, Công Ðồng
khuyên nhủ tất cả những vị hữu trách hãy hết sức ngăn cản và sửa
dạy những ai lạm dụng, thái quá hay bất cập, và hãy tái lập mọi
sự để Thiên Chúa và Chúa Kitô được ngợi khen cách trọn hảo hơn.
Bởi vậy, các ngài hãy dạy cho tín hữu biết rằng, việc tôn kính
các Thánh đích thực không hệ tại nhiều ở những việc bề ngoài
bằng ở cường độ tình yêu tích cực của chúng ta. Tình yêu ấy giúp
chúng ta tìm thấy "một gương mẫu trong khi gặp gỡ các ngài, được
thông hiệp qua việc kết hợp với các ngài và được các ngài cầu
bầu trợ giúp"
23, để đem lại nhiều lợi ích cho Giáo Hội và cho chúng
ta. Ðàng khác, ước gì các ngài cũng hãy giúp các tín hữu hiểu
rằng mối liên lạc giữa chúng ta và các Thánh trên trời, hiểu
theo ánh trọn vẹn của đức tin, không hề làm suy giảm sự tôn thờ
dành riêng cho Thiên Chúa Cha nhờ Chúa Kitô trong Chúa Thánh
Thần, nhưng trái lại còn làm cho sự tôn thờ ấy thêm phong phú
hơn
24.
Vì tất cả chúng ta đều là con cái Thiên
Chúa và hợp thành một gia đình trong Chúa Kitô (x. Dth 3,6), nên
khi hiệp thông với nhau trong tình yêu qua lời đồng thanh ca
tụng Chúa Ba Ngôi chí thánh, chúng ta cùng đáp lại lời mời gọi
thân tình của Giáo Hội, và được tham dự, cảm mến trước phụng vụ
vinh hiển toàn hảo
25. Vì khi Chúa Kitô hiện đến và khi kẻ chết sống lại
trong vinh quang, ánh sáng Thiên Chúa sẽ chiếu soi Thành Thánh
trên trời và Con Chiên sẽ là đuốc sáng (x. Kh 21,23). Toàn thể
Giáo Hội các Thánh sẽ thờ lạy Thiên Chúa và "Con Chiên đã bị
giết" (Kh 5,12) trong hạnh phúc sung mãn của đức ái, và đồng
thanh ca tụng rằng: "Ngợi khen, danh dự, vinh hiển, quyền năng
muôn đời cho Ðấng ngự trên ngai và Con Chiên" (Kh 5,13-14)
66*.
Chú Thích:
(lưu ý:
những số ghi chú nhỏ hơn đã được đăng vào những số báo trước)
61*
Chương này được khai sinh theo ước muốn của Ðức Gioan XXIII.
Ðược Ủy ban Thần học soạn thảo lại, chương
này được mọi người công nhận là một phần của hiến chế mới (lược
đồ đệ trình bấy giờ chỉ có 4 chương). Nội dung của chương được
tổng hợp trong tựa đề. Công Ðồng nhấn mạnh tới hành động tôn
vinh Thiên Chúa của tất cả Thân Thể Chúa Kitô là Giáo Hội dưới
đất cũng như trên trời. Cơ cấu của chương như sau: số 48 nói lên
hai giá trị của Giáo Hội trong đó những thành phần dưới thế cùng
tồn tại với những thành phần cố định; các số 49 và 50 trình bày
những mối dây liên kết Kitô hữu còn ở trần gian với những người
đã lên trời hoặc ở trong luyện ngục: các Thánh trên trời cầu bầu
cho chúng ta là những kẻ lữ hành (số 49), mối tương quan giữa
các Ngài với chúng ta (số 50). Từ giáo lý này mà số 51 rút ra
những hậu kết có tính cách mục vụ.
62*
Số 48: Ðặc tính cánh chung của ơn gọi chúng ta.
Trong cuộc sống hiện tại, ơn gọi của chúng
ta là: được Chúa Kitô thánh hóa, chúng ta cùng với Người tiến về
sự thánh thiện viên mãn trong đời sống vĩnh cửu, khi chúng ta
được chiêm ngưỡng chính Thiên Chúa. Cuộc lữ hành đòi chúng ta
phải ý thức về mối liên hệ giữa đời sống hiện tại của chúng ta
với đời sống vĩnh cửu, để với lòng tin vững chắc vào Chúa Kitô
Cứu Thế và hy vọng một vinh quang mai hậu, chúng ta chịu đựng
những nghịch cảnh đời này, và chống lại ma quỉ. Ðời sống Kitô
giáo có sự liên tục giữa đời sống dưới thế và đời sống vĩnh cửu
trên trời. Có ý thức sống động được chân lý này, chúng ta mới
nghĩ đến những người đã về trời. Và điều đó làm chúng ta hiểu
sâu sắc hơn về chính mầu nhiệm Giáo Hội: là thực hiện sự hiệp
thông giữa mọi người trong Chúa Kitô, là sự hiện diện sống động
của các thực tại trên trời giữa dòng đời trần gian. Như thế, khi
tín hữu nhớ lại lời Chúa và các Tông Ðồ đã nói, có thể nhận ra
sự liên lạc mật thiết giữa các chân lý này và tầm quan trọng nền
tảng của chúng đối với đời sống Kitô giáo.
63*
Các số 49-50: Sự hiệp thông giữa Giáo Hội dưới đất và Giáo Hội
trên trời.
Ðây là nền tảng giáo lý của cả chương,
nghĩa là Giáo Hội dưới đất và Giáo Hội trên trời tạo thành một
Dân Chúa, một Thân Thể Chúa Kitô. Công Ðồng giải thích sự hiệp
nhất này vì dựa vào căn bản là những mối dây liên lạc sống động
giữa chúng ta, những người lữ hành trên dương thế, và những
người đã đạt tới quê trời. Trong số những hoạt động và những mối
liên quan ấy, điều đáng kể là việc các Thánh cầu bầu cho cả Giáo
Hội.
64*
Số 49: Nền tảng giáo lý và sự liên hệ giữa các Thánh trên trời
và Giáo Hội.
Nền tảng tín lý được trình bày rõ ràng và
chính xác để tránh những khuynh hướng cực đoan và để giúp cho
nhu cầu hiệp nhất được dễ dàng hơn. Công Ðồng dạy rằng, cho tới
khi Chúa lại đến trong vinh quang, một số người đã ở trên Nước
Trời, một số khác ở trong luyện ngục, một số khác nữa đang trên
đường tiến về đời sau, nhưng tất cả đều kết hiệp với Chúa Kitô
làm nên một Giáo Hội duy nhất. Công Ðồng cũng dạy rằng, các
Thánh trên trời lấy tình thương phù trợ đặc biệt cho những người
anh em khác, và củng cố cũng như làm làm đẹp Giáo Hội trần gian.
65*
Số 50: Sự liên hệ giữa Giáo Hội dưới đất và Giáo Hội trên trời.
Số này trình bày cách thức mà Giáo Hội lữ
hành phải có, để trong thực hành, tạo được sự hiệp thông đã nói
trong đoạn trước. Công Ðồng đưa ra những động lực chính yếu giúp
xây dựng và phát huy sự hiệp thông của chúng ta với Giáo Hội
trên trời. Những động lực đó như sau: những người đã về trời nêu
gương cho chúng ta một đời sống đạo chính thực; sự liên lạc với
họ sẽ đưa chúng ta tiến tới việc kết hợp khắng khít hơn với Chúa
Kitô; sự hiệp thông với họ làm cho việc phụng tự qui về Chúa
Kitô nơi Giáo Hội trần gian được sung mãn. Ở nhiều nơi, Hiến Chế
ám chỉ tới lịch sử Giáo Hội, để làm sáng tỏ hơn những nền tảng
thần học của giáo lý đã trình bày và cũng để cho sự trình bày
này được sống động hơn, tương xứng hơn với nhu cầu mục vụ.
Ðoạn nhất nói lên những cách thức hiệp
thông tổng quát với các người anh em không thuộc về Giáo Hội
trần gian: kính nhớ và vọng độ cách chung, tôn kính và nài xin
cầu bầu. Ðoạn hai nhấn mạnh tới gương mẫu các Thánh nêu ra cho
đời sống Kitô giáo chúng ta, hoặc dưới khía cạnh sư phạm hoặc
dưới khía cạnh minh giáo. Ðoạn ba chúng ta thấy việc tôn kính
các Thánh chính thực sẽ thúc giục chúng ta thực thi bác ái huynh
đệ và liên kết chúng ta với Chúa Kitô bền chặt hơn. Tình bác ái
huynh đệ nơi chúng ta là những khách lữ hành không bị suy giảm,
trái lại còn làm gia tăng đặc tính qui về Chúa Kitô của Kitô
giáo. Cũng vì lý do đó, sự liên lạc và hiệp thông với các Thánh
trên trời đã không làm cản trở nhưng còn giúp đỡ cách lạ lùng
cho tình yêu và sự kính thờ Ba Ngôi Thiên Chúa. Ðoạn bốn có xác
quyết căn bản như sau: việc tế tự phụng vụ của Giáo Hội thực
hiện tất cả những gì đã nói về sự liên hệ với các Thánh trên
trời.
66*
Số 51: Hậu kết mục vụ.
Một vài hậu kết có tính cách mục vụ theo
sau những nguyên tắc đã đề ra. Hậu kết đó bao gồm một số ý hướng
căn bản để việc tôn kính các Thánh được thực hiện trong tinh
thần đúng đắn và để có thể ngăn ngừa những hình thức thái quá
hay bất cập ở một vài nơi. Một đàng Công Ðồng chủ trương rõ ràng
giá trị việc tôn kính các Thánh không cốt tại gia tăng các hành
động bên ngoài, nhưng do cường độ tình yêu của chúng ta; đàng
khác Công Ðồng quả quyết việc tôn kính ấy không đi ngược với
tình yêu Thiên Chúa, với việc tôn thờ dành cho mình Ngài. Số này
chứa đựng nhiều điều có thể cổ võ cho việc hiệp thông với các
anh em ly khai, đặc biệt với anh em Ðông Phương, vì giáo lý
thuộc đức tin của chúng ta đây đối với họ hết sức quan trọng,
làm nên một di sản chung về đức tin và về sự kính nhớ.
Phần kết luận cho toàn chương (51, đoạn
hai) quả quyết rằng hiện đại hóa sự hiệp thông của tất cả những
người thuộc về Chúa Kitô là đã bắt đầu cuộc sống vinh quang, và
như vậy là ngay ở chốn lưu đày này đã thực hiện được cùng đích
của đời ta vì đã được tham dự và thưởng thức phụng vụ vinh hiển
trên trời. |
VỀ MỤC LỤC |
|
HỌC THUYẾT XÃ HỘI, BÀI VI.
KINH TẾ (202 – 250) |
66. HTXH đóng vai trò như thế nào
trong lĩnh vực kinh tế?
Giáo hội ban
tặng món quà HTXH cho con cái mình như là một lý tưởng định
hướng không thể thay thế được. Giáo huấn này nhìn nhận những giá
trị của thị trường và hoạt động kinh doanh, nhưng đồng thời nó
cũng chỉ ra những điểm nhằm hướng đến công ích. Giáo huấn này
cũng nhìn nhận tính hợp pháp về sự nổ lực của người lao động
nhằm đạt được sự tôn trọng phẩm giá của họ một cách đầy đủ và
tạo những môi trường rộng lớn hơn để họ tham gia vào các lãnh
vực thương mại công nghiệp. Như thế, trong khi hợp tác với người
khác và làm việc dưới sự hướng dẫn của người khác, họ thực sự
làm việc cho chính họ qua khả năng vận dụng trí thông minh và sự
tự do (cf. Centesimus Annus, n. 43).
67. HTXH nói gì về quyền làm chủ
của con người đối với các tạo vật trên mặt đất?
Trang đầu tiên
của sách Khởi Nguyên dạy rằng: “Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều,
cho đầy mặt đất, và thống trị mặt đất” (Kn 1:28). Như thế, khi
con người được Thiên Chúa ban tặng cho quyền làm chủ trên các
tạo vật, thì con người cũng được ban tặng khả năng hiểu biết,
sức lao động để có trách nhiệm làm chủ và hưởng dùng những tạo
vật được giao phó. Vậy nếu thế giới giới này được tạo thành nhằm
làm phương tiện để nuôi sống, phát triển cho mỗi con người thì
họ cũng có quyền kiếm tìm những gì cần thiết cho đời sống của họ
(cf. Populorum Progressio, # 22).
68. Con người nên có cái nhìn về
quyền sở hữu của cải theo cách nào?
Con người theo
quyền tự nhiên được sở hữu của cải. Điều này không chỉ là hợp
pháp nhưng còn là cần thiết cho mọi người (cf. Aquinas, Tổng
Luận Thần Học, II-II, 66, 2, c). Nhưng vấn đề đặt ra là mỗi
người có quyền sở hữu bao nhiêu của cải [thì vừa]? Về điểm này,
Giáo hội không ngần ngại chỉ rõ rằng: mỗi người không nên nhìn
của cải vật chất như là của riêng họ, nhưng thực ra trên bình
diện chung, họ nên sẵn sàng chia sẻ với những ai đang cần (cf.
Rerum Novarum, # 22)
Hơn nữa, chúng
ta cũng cần nhắc lại nơi đây đặc tính căn bản của HTXH của Giáo
hội: Từ khởi nguồn, của cải vật chất trong thế giới này chỉ là
phương tiện cho mọi người. Quyền sở hữu tài sản cá nhân là cần
thiết và hợp lý, nhưng nó không thể hủy bỏ nguyên tắc căn bản
này được. Thực ra, tài sản cá nhân chỉ là “vật thế chấp xã hội”.
Nghĩa là, tự bản chất tài sản có một chức năng xã hội được thiết
lập và hợp thức hóa bởi nguyên lý vận mệnh chung của tài sản
(cf. Sollicitudo Rei Socialis, # 42).
69. Lao động nói lên ý nghĩa hiệp
nhất giữa con người như thế nào?
Khi làm việc,
con người cam kết không chỉ làm việc cho chính bản thân nhưng
còn làm cho người khác và với người khác. Vì thế,
mỗi người cộng tác làm việc với người khác và mưu cầu lợi ích
cho họ. Quả thực, con người làm việc là để cung cấp những nhu
cầu cần thiết cho gia đình, cho cộng đồng, cho quốc gia và cuối
cùng là cho toàn thể loài người (cf. Laborem Exercens, #
10). Trong khi làm việc, con người cộng tác với những đồng
nghiệp, những người cung cấp vật liệu và cũng với những khách
hàng mua sản phẩm. Như thế, tính hiệp nhất được thể hiện rất rõ
khi tất cả cùng làm việc trong một hệ thống dây chuyền sản xuất
(cf. Centesimus Annus, # 43).
70. HTXH nói gì về hai hệ thống
kinh tế “chủ nghĩa cộng sản” và “chủ nghĩa tư bản”?
Giáo lý Công
giáo dạy rõ rằng: “Hội Thánh phi bác các ý thức hệ chuyên chế vô
thần đang hoạt động dưới hình thức “chủ nghĩa cộng sản” hoặc
“chủ nghĩa xã hội”. Mặt khác, Hội Thánh cũng phi bác chủ nghĩa
cá nhân và việc coi luật thị trường là qui luật tối thượng trên
sức lao động của con người trong, cách thực hành “chủ nghĩa tư
bản” (x. CA 10; 13;44). Điều hành kinh tế chỉ dựa trên kế hoạch
tập trung sẽ phá hủy tận gốc các mối liên hệ xã hội; điều hành
chỉ dựa theo qui luật thị trường sẽ vi phạm công bằng xã hội.
“Thị trường sẽ không thể thỏa mãn được những nhu cầu muôn mặt
của con người” (CA 34). Người tín hữu phải tác động vào thị
trường và các sáng kiến kinh tế, để có được một sự điều hành hợp
lý dựa trên một bậc thang giá trị đúng đắn và vì công ích” (GLCG
2425).
Br. Huynhquảng |
VỀ MỤC LỤC |
|
“MẸ ƠI,
ĐOÁI THƯƠNG XEM NƯỚC VIỆT NAM...”
|
Quý độc giả
Ephata và Giáo Sĩ Việt Nam thân mến,
“Mẹ ơi, đoái thương
xem nước Việt Nam,
Trời
u ám, chiến tranh điêu tàn,
Mẹ hãy giơ tay
ban phúc Bình An,
Cho Việt Nam
qua phút nguy nan”...
Trong dịp Lễ
kính Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp tháng 6 năm 2008 vừa qua, trước Linh
Ảnh Mẹ Hằng Cứu Giúp La Mã Bến Tre được rước về Đền Mẹ ở DCCT
Sài-gòn, giữa bài giảng hành hương, tôi có sáng kiến bất ngờ vào
phút chót, mời gọi các cha các thầy và hàng ngàn anh chị em Giáo
Dân có mặt cùng hát lên bài hát tuyệt vời này. Ngay khoảnh khắc
ấy, nhiều người có mặt đã giật mình cho là tôi bạo quá, liều
quá, sợ tôi sẽ bị “người ta” chụp mũ kết tội xách động, lại nghĩ
sẽ khó mà có người còn nhớ được bài hát cổ gần 40 năm để mà
hưởng ứng, để cùng hát lên.
Không ngờ, quả
thật không ngờ, bài hát chỉ vỏn vẹn có 4 câu ngắn ngủi ấy của cố
nhạc sĩ Hải Linh, đã được cộng đoàn cất lên vang dội khắp Đền
Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp Sài-gòn. Chỉ một số các bạn trẻ sinh sau
biến cố 1975 là hơi bị ngẩn ngơ, nhưng đến lượt hát thứ hai thì
cả họ nữa, cũng hòa được vào với các anh chị lớn, các cô bác
đứng tuổi, các cụ già da mồi tóc bạc.
Đến lần hát
thứ ba thì mọi người đã nước mắt giàn giụa, như thể nỗi đau lâu
nay phải kềm hãm, gửi sâu tận đáy những nỗi niềm cơ cực tủi
thân, bây giờ “được lời như cởi tấm lòng”, đã bật lên, đã òa vỡ,
đã ứa tràn thành những đợt sóng cầu nguyện dâng lên Mẹ. Vâng, cứ
ngỡ bài hát sẽ không còn hợp thời, đã lui vào quá khứ thương đau
của một Việt Nam tang tóc vì chiến tranh, điêu tàn vì ly tán
chia cách đôi miền Bắc Nam. Thế nhưng...
Đêm thắp nến
cầu nguyện thứ năm 28.8.2008 vừa qua, một lần nữa, tại Đền Đức
Mẹ Hằng Cứu Giúp Sài-gòn, tôi lại mời toàn thể Nhà Dòng cùng với
hơn 3.000 anh chị em Giáo Dân cất lên bài hát bất hủ này. Mọi
người lại khóc, tôi cũng vừa hát vừa nghẹn ngào.
Những ngày
này, “chiến tranh” lại đang bùng phát tại Thái Hà, Hà Nội, sau
biết bao ngày âm ỉ nơi đây cũng như ở hàng trăm nơi khác của quê
hương Việt Nam. Chiến tranh không có bom đạn nhưng tàn bạo không
kém vì người ta đã sử dụng hơi cay, dùi cui và roi điện để tấn
công và trấn áp những người dân vô tội chỉ muốn cầu nguyện như
là một phương cách để đòi thực thi Công Lý và Hòa Bình.
Mà trời ơi,
người ta tự hào là đang xây dựng trong Hòa Bình và đạt được
những thành tựu hy hữu, tốc độ tăng trưởng chóng mặt, thế nhưng
cái giá phải trả là tham nhũng từ trên xuống dưới, ô nhiễm từ
ngoài vào trong, còn lương tri con người thì bị thoái hóa trầm
trọng, đặc biệt thể hiện qua hai ngành cần phải có lương tâm hơn
hết là y tế và giáo dục.
Không còn
chiến tranh ngoài mặt trận nhưng lại có khủng bố và giết hại đối
với hàng triệu thai nhi bé bỏng mỗi năm. Không có người chết vì
bom rơi đạn lạc nhưng số người chết vì tai nạn giao thông, lao
động, và môi trường còn nhiều hơn gấp chục lần. Người ta xây
dựng được bao nhiêu là cao ốc văn phòng, chung cư và sân golf
nhưng lại tước đoạt vô vàn những mảnh ruộng, những khoảnh vườn,
những ngôi nhà và ao cá của người dân nghèo ngoại thành và nông
thôn.
Và trơ trẽn
nhất, ngang ngược nhất là những hành xử đối với lãnh vực tín
ngưỡng tôn giáo. Người ta ban hành những thứ luật để hợp pháp
hóa những chuyện vi hiến trắng trợn ngay trước đó rồi bảo mọi
người phải thượng tôn luật pháp. Bao nhiêu cơ sở đất đai sở hữu
của các tôn giáo bị trưng dụng cho chuyện công ích cuối cùng lại
xoay ra kinh doanh vũ trường, khách sạn, nhà hàng, thậm chí...
mãi dâm công khai ! Nhà Thờ biến thành kho hợp tác xã. Cung
Thánh thành piste nhảy đầm. Rồi “cứt trâu để lâu hóa bùn”, người
ta đem chia năm xẻ bảy, bán chuyền tay nhau lấy tiền bỏ túi tham
ô.
“Trời u ám,
chiến tranh điêu tàn” thật sự rồi ! Dân oan kéo nhau từ miền quê
rần rần lên thành phố, ra trung ương khiếu kiện đã bị trấn áp
như thể họ là một bọn phản động. Giáo Dân dựng lều túc trực ngày
đêm giữ đất bằng lời cầu nguyện thì bị vu khống là một bọn ăn
cướp. Mấy bà dân tộc Mường đánh cồng khua chiêng để thay cho
tiếng lương tâm đang bị bóp nghẹt thì lại bị lôi đi xềnh xệch,
dí roi điện, đấm thẳng vào mặt đến đổ máu.
Vậy mà tất cả
cái khối oan khiên ấy không đánh lại, không chửi lại, không xô
xát. Cứ kiên trì bất bạo động, cứ nhẫn nại cầu nguyện. Họ có
điên không chứ ? Người ta đang rình chờ mình hớ hênh, lọt vào
cái bẫy khiêu khích hèn hạ là y như rằng có cớ để xảy ra một thứ
“Thiên An Môn” như đã từng xảy ra cho các sinh viên bên Trung
Quốc ngày 4.6.1989, bảy tám trăm bị chết và bảy tám ngàn bị
thương. Thế mà đám đông quần chúng ở Việt Nam hôm nay lại “điên”
thật ! Họ cứ cất cao lời hát Kinh Hòa Bình với Đấng họ tin là
Thần Linh Thánh Ái.
Và bây giờ thì
từ Miền Nam, ngược qua Miền Trung, vọng ra Miền Bắc, tôi tin
chắc những người thiện chí, lòng đầy Bình An, sẽ lại có thêm một
lời khẩn nguyện thiết tha với Người Mẹ thiêng liêng của mình, để
hát chung với nhau trong nước mắt cậy trông và hy vọng:
“Mẹ ơi, đoái thương
xem nước Việt Nam,
Trời
u ám, chiến tranh điêu tàn,
Mẹ hãy giơ tay
ban phúc Bình An,
Cho Việt Nam
qua phút nguy nan”...
Lm. QUANG
UY, DCCT thứ bảy 30.8.2008 |
VỀ MỤC LỤC |
|
TRẢ LẠI NHÂN TÍNH CHO SỰ CHẾT: TRÁCH NHIỆM CỦA NGƯỜI THẦY THUỐC
|
Không ai biết
được trong giờ lâm chung, những giây phút cuối cùng của đời
người, con bệnh sẽ sợ hãi ghê gớm hay bằng an thanh thản sẵn
sàng ra đi? Nhưng hiển nhiên khi con người phải ra đi, giã
từ tất cả những gì thân yêu nhất của mình mà không bao giờ
trở lại, chắc chắn có những bịn rịn, luyến tiếc, đôi khi hốt
hoảng như mất mát một bảo vật mà biết chắc chắn mình chẳng
bao giờ có lại được. Sự an ủi vỗ về cảm thông với con bệnh
của người thầy thuốc bên cạnh bệnh nhân lúc đó thật quả là
vô giá và cần thiết.
Y KHOA TUYỆT HẢO CÓ THAY THẾ ĐƯỢC TÌNH CẢM KHÔNG?
Khoa học kỹ
thuật tân kỳ hiện đại đã cho phép người y sĩ không cần phải
ở bên cạnh bệnh nhân đang cơn hấp hối mà vẫn có thể điều
khiển, kiểm soát thời gian và tình trạng sống chết của con
bệnh. Hồi xưa, khi y khoa chưa đạt tới mức siêu đẳng như
ngày nay, người y sĩ là trung gian giữa những hiện tượng tự
nhiên như sống và chết. Ngày nay, họ trở thành trọng tài của
những kỹ thuật nhân tạo. Sự chết do đó đã được quan niệm
dưới những góc cạnh khác. Tử thần đã được y khoa hóa. Xã
hội, người y sĩ và bệnh nhân đã bắt đầu nhận thấy có một
giới hạn hay một khoảng cách giữa văn hóa và y đạo. Họ bắt
đầu tìm kiếm một phương thức mới về trách nhiệm của người y
sĩ đối với bệnh nhân trong khi hấp hối. Câu chuyện sau đây
cho thấy hậu quả của việc y học hóa tử thần và những khuyết
điểm của sự thay đổi ấy.
Bà M., 57 tuổi,
bị ung thư vú ở thời kỳ cuối cùng, đã phải nhập viện nhiều
lần vì tình trạng hô hấp bê bết. Bà ta chưa bao giờ chính
thức ký giấy từ chối trị liệu để được chết, nhưng không rõ
lý do tại sao bà lại từ chối nhập viện điều dưỡng để cho
người ta dễ dàng săn sóc bà. Trị liệu hóa học đã thất bại,
mà giải phẫu thì không thể được mặc dù gốc ung thư chưa chạy
đi nơi khác (metastases). Bà vẫn sinh hoạt hàng ngày bình
thường và không đau đớn nhiều. Tuy nhiên gia đình bà cảm
thấy không còn có thể tiếp tục chăm sóc và phụng dưỡng cho
bà được nữa, đã yêu cầu bác sĩ khuyên bà ký giấy “Đừng cứu
sống/Do not resuscitate-DNR)” nếu bị nguy kịch hôn mê. Bà
không hoàn toàn chấp nhận tình trạng hết thuốc chữa của bà.
Bà vẫn muốn được cứu sống để nhìn ngắm con cháu bà càng lâu
càng tốt.
Một hôm bà trở
bệnh bất tử. Gia đình bà đưa bà vào bệnh viện cấp cứu. Con
gái bà đã thảo luận với bác sĩ về tình trạng của bà và giấy
yêu cầu “Đừng Cứu Sống” đã được ký. Nhưng khi tình trạng hôn
mê của bà sáng sủa trở lại, bà nhất mực xin hủy bỏ giấy giao
kèo. Bac sĩ nói cho bà hiểu bệnh trạng của bà vô phương cứu
chữa, bà đang trong tình trạng coi như hấp hối. Chữa trị chỉ
là tạm bợ và vô ích. Bác sĩ không có bổn phận phải cứu sống
bà. Thế rồi tình trạng của bà M. tiếp tục khả quan, không có
dấu hiệu gì chứng tỏ tử thần gần kề. Chuyên viên y đạo cũng
đã được tham khảo ý kiến và cắt nghĩa cho bà hiểu rằng nếu
có tiếp tục chữa trị cho bà cũng không thể cứu sống bà được,
do đó mục đích của y khoa không còn ý nghĩa, vì vậy bác sĩ
không buộc phải thi hành ước nguyện của bà. Sau đó bà được
chuyển về phòng riêng và ngày hôm sau bà đã qua đời. Trong
lúc hấp hối, bà luôn luôn lẩm bẩm yêu cầu: “Tôi biết bác sĩ
không bắt buộc phải cứu sống tôi, nhưng làm ơn hãy để cho
tôi sống”.
NHỮNG VẤN NẠN
Câu chuyện bà
M. đặt ra rất nhiều thắc mắc nan giải liên quan đến ý niệm
về sự chết gần kề trong phạm vi y khoa. Người ta tự hỏi “Cái
gì đã xẩy ra lúc đó?” “Có điều gì sai quấy?” “Người
thầy thuốc có phải làm cái gì khác thường không?”
Phần chia sẻ
dưới đây chỉ là cố gắng giải đáp phần nào những vấn nạn ấy.
Hiểu rõ chuyện “y học hóa tử thần” trong y đạo là ta có thể
thấy cái chết của bà M. quá ư thê thảm và mất hết tình
người.
Y đạo là kim
chỉ nam giúp người y sĩ làm sáng tỏ và giải quyết những vấn
đề khó khăn của trường hợp bà M. Tuy nhiên, chính những khúc
mắc về cái chết của bà lại cho ta thấy rằng những quan niệm
y đạo như quyền được tự chết và những phương cách trị liệu
bằng thuốc và khoa học kỹ thuật tân kỳ hiện đại cũng chẳng
có thể giải quyết được những lý luận tranh cãi về giá trị
của sự sống; ngay cả những nguyên tắc y đạo cũng không bảo
đảm được phương cách trị liệu có tính nhân bản cho bệnh nhân
trong những giờ phút lâm chung. Sự Sống, Đau Khổ và Sự Chết
là những thắc mắc mà Dostoyevsky gọi là “Vấn Nạn
Muôn Thuở” mà con người không bao giờ có thể giải quyết
được một cách hoàn hảo. Có lẽ điều tốt nhất mà chúng ta có
thể làm được là cố gắng giải đáp những vấn nạn đó với hết ý
thiện, lòng trắc ẩn cảm thông và nhiệt tình nồng cháy của
lương tâm, chấp nhận may rủi trong sai lầm, luôn luôn cởi mở
sẵn sàng đón chờ những cảm nhận mới đến từ tâm tư khắc khoải
về sự sống và sự chết. Người y sĩ thường không mấy thỏa mãn
với những giải đáp với điều kiện rồi từ đó đi tìm những
nguyên tắc luật lệ dựa trên những chỉ dẫn có sẵn để tạo ra
những bó buộc y đạo đối với bệnh nhân. Trong những trường
hợp như vậy, người ta thường nại cớ “luật bắt buộc thế”
hay “luật cho phép làm”. Lúc đó thực ra người y sĩ đã
vượt qua cái bổn phận mà người ta gọi là “luật cho phép”.
Họ đã không phải chỉ dựa vào những chỉ dẫn của nhà thương mà
còn nại cớ nguyên tắc y đạo biểu làm. Họ quên, trong trường
hợp bà M., rằng chính họ đã vi phạm những nguyên tắc chỉ dẫn
có sẵn là “phải tôn trọng ước nguyện trị liệu của người
bệnh” trong những giờ phút cuối cùng của đời bà.
Y KHOA TÂN KỲ, Y ĐẠO VÀ LUẬT PHÁP VẪN CHƯA ĐỦ ĐỂ GIÚP NGƯỜI
BỆNH RA ĐI MỘT CÁCH AN LÀNH VỚI ĐẦY ĐỦ TÌNH NGƯỜI.
Bà M. đã được
chữa trị một cách tuyệt hảo mà y khoa hiện đại đã có thể
cung ứng hầu có thể đương đầu với tử thần. Đó là Kỹ
Thuật, Y Đạo và Luật Pháp. Tuy nhiên cả ba cái đó đều
thất bại, đã không thể giúp người bệnh chết một cách an lành
với đầy đủ nhân cách của một con người nhân bản. Đem phân
tích, chúng ta sẽ thấy những thiếu sót cơ bản:
Thứ nhất, sự
chết thường được coi như một SỰ KIỆN (an event) trong khi
thật sự nó là cả một TIẾN TRÌNH (progress) âm thầm và liên
tục lâu dài. Theo E.Kubler-Ross trong “On Death and Dying”
xuất bản năm 1969 thì chết là một tiến trình nămh động xẩy
ra một cách liên tục trong đời sống và có những giai đoạn rõ
ràng. Đời người là sự sống đang đi lên, đồng thời cũng là sự
chết đang đi xuống. Đa số những người săn sóc bệnh nhân
không là chứng nhân của những giây phút của sự chết chóc ấy,
nên họ không cảm nhận được giá trị của những tình cảm thắm
thiết mà bấp bênh mơ hồ trong tiến trình sự chết. Do đó nếu
không có sự giúp đỡ an ủi của người thầy thuốc, của gia
đình, xã hội và tôn giáo thì phương cách trị liệu chưa được
hoàn hảo. Gia đình bà M. đã mệt mỏi vì phải săn sóc bà quá
lâu. Riêng bà cũng đã mất sự thân mật, tình liên đới với
những người có trách nhiệm săn sóc bà vì họ phải làm việc
quá cực nhọc trong một hoàn cảnh quá bận rộn, không phải một
lần mà dòng dã năm này qua năm nọ. Do đó chẳng ai còn để ý
đến ước vọng chối từ hoặc muốn sống của bà. Chính những giai
đoạn trong tiến trình sự chết đó lại có thể giúp họ cùng với
bệnh nhân cảm nhận được bước đường dẫn đến sự chết một cách
hữu lý và đầy tình nhân ái. Cũng chẳng ai thèm tìm hiểu lý
do tại sao có lúc vì quá buồn nản, thất vọng, bà đã từ chối
sự chăm sóc của mọi người trong khi bà vẫn còn muốn sống.
Thứ đến, phương
pháp trị liệu hiên đại cho người bệnh trong cơn hấp hối nói
lên sư đáp ứng cố tình và có sắp đặt một cách máy móc của
người y sĩ mà không đếm xỉa đến mặt tình cảm. Khi được hỏi
cái gì làm cho người sắp chết sợ hãi nhất thì người y sĩ
thường trả lời là ĐAU ĐỚN. Theo thiển nghĩ và theo Pearlman
thì không phải là đau mà chính là sợ sẽ là gánh nặng cho gia
đình xã hội, sợ vì mất chức năng, sự tự lập và tình liên
đới. Ngoài ra bệnh nhân còn phải vật lộn với những lo lắng,
thắc mắc về tình cảm và cuộc sống tinh thần đời sau, sự thất
vọng và cuộc sống vô nghĩa của đời người trong những giây
phút cuối cùng điên loạn hoặc vật vờ vô tri giác. Những vấn
đề tâm lý xã hội này, kể cả sự đau đớn, có lẽ chẳng bao giờ
có thể giải quyết một cách thỏa đáng và hữu lý tận gốc rễ…
Chính tính cách
chủ quan về nhiều khía cạnh của sự chết đã tạo nên nền
sinh-y-học khách quan để rồi chính nó lại không muốn hay
không có thể đối đầu được với tử thần. Khi phân tích ý nghĩa
uẩn khúc đằng sau những câu như: “Đừng Cứu Sống” (Do Not
Resuscitate / DNR), “Chích cho một Mũi ân huệ” (Administer
an Injection), “Hãy Cắt Đứt Hệ Thống Trợ Sinh / Rút ống”
(Terminate Life Support), ta thấy rõ ràng là người y sĩ tiên
khởi chỉ nhằm vào ý nghĩ và hành động tức thời hơn là ý nghĩ
thầm kín trong câu nói hoặc những lý do thúc đẩy họ phải
đương đầu với tử thần. Ngay cả khi người y sĩ thực sự muốn ở
bên cạnh người bệnh để dìu họ đến gần sự chết một cách êm
đềm thì thường cũng có những lẫn lộn giữa những điểm căn bản
của y đạo, bởi vì chính những điều kiện và chỉ dẫn có sẵn
cũng không được rõ ràng như đã xẩy ra trong trường hợp bà M.
. Hơn nữa, hiển nhiên là sợ hãi, chán nản, mặc cảm tội lỗi,
bối rối pha lẫn với hy vọng yêu thương là những động lực
chính đi đến quyết định tự tạo ra cái gọi là y đạo của những
người can dự vào nội vụ, kể cà người thấy thuốc và vị cố
vấn. Dù vậy, những thúc đẩy và nhu cầu vô lý này cũng không
bao giờ được đề cập đến và bàn luận một cách công khai xay
dựng. Hính như thái độ “Tôi vô can, thờ ơ và duy luật lệ” đó
của người y sĩ đối với cái chết đã khiến họ dửng dưng không
muốn hiểu và cảm thông những nỗi niềm của người bệnh trong
cơn hấp hối.
Sau cùng, người
y sĩ trong trường hợp này, đã chia sẻ nghề nghiệp chuyên môn
của họ với bệnh nhân một cách lệch lạc. Họ nghĩ rằng họ chỉ
thi hành những chỉ dẫn có sẵn của nhà thương và y đạo, và
như vậy họ đã hoàn thành trách nhiệm luân lý của họ. Họ đã
không nhận biết rằng chăm sóc bệnh nhân trong cơn hấp hối là
bổn phận của người thầy thuốc, kỳ vọng của tình liên đới
người với người, giữa bệnh nhân và người y sĩ. Thực ra mà
nói, chính những chỉ dẫn có sẵn cũng có những thiếu sót như
ngôn ngữ mơ hồ, quan niệm lệch lạc, nhất là thiếu tính cách
uyển chuyển. Mỗi chỉ dẫn, mỗi câu nói có thể được hiểu một
cách khác nhau tùy người, ngay cả những người trong cùng một
gia đình như trường hợp bà M.. Sự tin tưởng vào những chỉ
dẫn, nguyên tắc và tài liệu một cách máy móc đã làm giảm mất
nhiệm vụ và cơ hội chữa lành con bệnh của người y sĩ. Trong
khi đó tử thần tự nó nói lên sự cấp bách của bệnh nhân là
đòi hỏi người thấy thuốc phải hành động. Dĩ nhiên ước vọng
khẩn thiết của người bệnh là muốn ông bác sĩ chú ý lắng nghe
những ao ước của họ, tôn trọng lời hứa và giúp đỡ ủi an họ.
Nếu những đòi hỏi này có thật trong đời sống con người thì
chắc nó cũng cấp thiết khi con người đang trong cơn hấp hối.
Có lẽ điều tuyệt hảo và dễ dàng nhất mà các bác sĩ có thể
làm cho bà M. là đơn thuần hiện diện bên cạnh bà với tư cách
người với người, biết cảm thông, thực tâm mong muốn chia sẻ
tiến trình của tử thần và những nỗi niềm đớn đau của bệnh
nhân và sự chết.
ĐÔI LỜI BÀN
Trường hợp bà
M. cho ta thấy nếu chỉ đơn thuần đem khoa học kỹ thuật đến
với bệnh nhân trong cơn hấp hối thì vô tình đã tạo ra một sự
cách biệt giữa con người và khoa học, bởi vì khoa học chỉ có
ý nghĩa thực sự khi nó phối hợp liên kết với con người. Phải
chăng khi người bệnh nói lên hoặc đòi hỏi “Quyền Được Chết /
Right to Die” là chính lúc họ đang phản đối chống lại loại
săn sóc trị liệu máy móc vô nhân tính ấy. Với nhãn quan đó,
ý của D.Humphry trong Final Exit, sách bán chạy phá kỷ lục,
và ý kiến của nhiều người cũng như của một số nhà lập pháp
có khuynh hướng nghiêng về phía đồng ý để bác sĩ giúp bệnh
nhân chết / tự tử (physician assisted suicide) thực ra không
nhất thiết là muốn người thầy thuốc trở thành những kẻ sát
nhân, mà điều thúc bách hơn cả là muốn người y sĩ và mọi
người / xã hội hiểu rằng, có những lúc tâm trạng cảnh huống
của người “đang chết” bê bết, tồi tệ, thảm thê hơn cả chính
sự chết. Con người là linh ư vạn vật, là một phần chi thể
của Chúa Kitô, có xác có hồn và trí khôn. Do đó bản tính của
những ước mơ, băn khoăn thắc mắc của người bệnh trong cơn
hấp hối cũng là hỗn hợp của cả xác lẫn hồn và đặc thù cá
biệt tùy theo từng người. Thời gian hấp hối có thể là lúc
kinh hoàng bấn loạn nhất của kiếp người, sự hiện diện của
người thầy thuốc bên cạnh bệnh nhân hiển nhiên sẽ là những
an ủi vỗ về, là bảo đảm chắc chắn cho những giá trị tuyệt
hảo thâm sâu cùng kín của người bệnh, và là người bạn chí
thân đáng tin cậy nhất có khả năng dẫn đưa người bệnh về bên
kia thế giới, cõi chết một cách an bình thư thái. Bệnh nhân
có thể muốn tìm cái chết, nhưng có lẽ chỉ với một ý nghĩa
tiêu cực nào đó. Họ chỉ không muốn phải liên tục bước qua
ngưỡng cửa tử thần đầy gian nan khốn khổ ấy. Những thành
công vượt bực trong phương pháp trị liệu của y khoa hiện đại
với mục đích giúp người bệnh hết kinh hãi tinh thần đớn đau
thể xác và giảm thiểu số người muốn tìm cái chết / tự tử hẳn
cũng chỉ muốn hướng đến những viễn tượng thâm sâu đó mà
thôi.
Chết là đi vào
thế giới mung lung vô định vượt khỏi tầm tay của con người,
cho nên người y sĩ sẽ cảm thấy thoải mái dễ chịu và tự tin
vào những hiểu biết và phương cách trị liệu của mình. Hỏi
những người bệnh đang hấp hối cảm tưởng về sự chết thì đa số
cho rằng họ linh cảm là sẽ đi vào thế giới kỳ lạ chưa ai
biết. Đi rồi sẽ chẳng bao giờ trở lại. Do đó thực sự chẳng
có ai biết thế giới bên kia của tử thần nó như thế nào.
Cũng chẳng ai
trong chúng ta có thể biết được con bệnh phải chuẩn bị những
hành trang gì trong những ngày cuối cùng của cuộc đời để sẵn
sàng cho cuộc hành trình đó. Chúng ta là những người có niềm
tin tôn giáo. Chúng ta tin vào Chúa / Phật. Chết là đi về
thế giới đời sau, thế giới vĩnh cửu: Sinh ký tử qui. Thế
giới đó là hiện thân và hậu quả của thế giới hữu hình phù du
mà chúng ta đang sống. Làm tốt, sống thiện thì được hưởng
lành. Sống độc làm ác thì phải chịu tội. Nhưng còn những
người không có niềm tin tôn giáo, không tin vào đời sau thì
sao? Thực vậy, không hiểu sao khi tử thần kề sát người bệnh
thì ông bác sĩ thường hay tê cứng, mất hết cảm xúc? Chính
lúc đó lại là lúc mà người bệnh cần có sự hiện diện của
người thầy thuốc như sự hiện diện của linh mục linh hướng.
Hình như là người y sĩ đã được huấn luyện hoặc tự tạo cho
mình một sự cách biệt tình cảm đối với bệnh nhân, bởi vì nếu
người y sĩ và bệnh nhân có những liên đới tình cảm với nhau
thì khi người bệnh hấp hối qua đời người y sĩ sẽ khó tránh
khỏi những xúc động hốt hoảng. Tuy nhiên đối với bệnh nhân
thì lại khác, nhất là khi người bệnh trong cơn đau đớn khủng
khiếp thì chính cái nhân tính con người tự nhiên của người y
sĩ lúc đó lại là những liều thuốc có quyền năng vô hạn.
Khi mà sự chết
không còn được coi như là một biến cố, một sự kiện có tính
cách máy móc kỹ thuật như rút ống thở, ngừng trợ sinh
(withdrawl of life support) hoặc chuyện thi hành ước nguyện
của bệnh nhân có tính cách pháp luật (living will) mà được
coi là một sự chuyển tiếp thần bí từ thế giới phù du sang
thế giới đích thực thì lúc đó thần chết sẽ có sức chuyển
thông trách nhiệm y đạo của người y sĩ đến cho người bệnh.
Hiện nay người ta đang cố gắng giải quyết sự chết bằng phàp
luật. Nhưng xét cho cùng lẽ lương tâm, chẳng có luật lệ
khách quan nào lại có thể ngăn cản người thày thuốc trách
nhiệm đến với người bệnh trong cơn hấp hối. Ý niệm đó đã
được Kierkegaard , ông tổ của thuyết hiện sinh, gọi là “sự
thật chủ quan”, trong đó người thầy thuốc và bệnh nhân gặp
nhau với tư cách là những người khốn khổ cảm thông nhau mà
không ai có thể chê trách hoặc làm tổn thương được; không có
phương cách trị liệu nào, y học nào có thể ngăn cản cấm đoán
nổi. Đó là sự tương phùng giữa con người với con người,
không phải tương phùng y học kỹ thuật. Đó là nhiệm vụ chính
của người thầy thuốc trong y khoa cổ điển. Hippocrates 400
năm trước Thiên Chúa, đã viết trong Aphorism: “Nghệ thuật
trị liệu gồm ba chủ điểm là Bệnh Tật, Người Y Sĩ và Bệnh
Nhân. Bệnh nhân và người thầy thuốc là những người bạn đồng
hành luôn luôn cùng nhau sát cánh chống lại bệnh tật”. Người
thầy thuốc là chứng nhân và sứ giả của thần chết. Thời của
Lương Y như Từ Mẫu trong Y Học Đông Phương.
Buồn thay, thời
của tình người với người không còn nữa. Chính cái tình người
đó mới là nhiệm vụ y đạo đích thực, ngàn đời và tối quan
trọng của người thầy thuốc đối với bệnh nhân trong cơn hấp
hối. Câu nói cuối cùng của bà M.: “Tôi biết bác sĩ không
buộc phải cứu tôi sống, nhưng làm ơn hãy để tôi sống”
rất đáng cho ta suy nghĩ. Sự sống là do Thiên Chúa ban cho
con người, không ai có quyền hủy bỏ nó, kể cả chính bản thân
mình.
“Lương Y như Từ
Mẫu”.
Pace Islands,
Florida
GÓP Ý CỦA MỘT ANH BẠN:
Tôi đưa bài
viết này cho một anh bạn đọc và xin ý kiến. Anh bạn này
người công giáo, đồng đạo với tôi, nhưng chắc chắn anh ngoan
đạo hơn tôi nhiều lắm. Anh rất kính trọng và nể vì các cha,
nhất là giám mục. Anh không có ý kiến nhiều về những vấn đề
chuyên môn y khoa, nhưng anh đặt nặng vấn đề tôn giáo, nhiệm
vụ của linh mục. Anh nói:
Những điều
tôi viết về bổn phận của người y sĩ đối với bệnh nhân lúc
hấp hối, ngoài việc chữa trị chuyên môn, xem ra cũng rất cần
thiết cho linh mục bên cạnh người bệnh lúc sắp lìa đời. Phải
chăng –anh thắc mắc- linh mục chỉ đến với người bệnh khi
được mời và để làm vài phép bí tích cần thiết rồi ra đi? Các
linh mục còn cần phải làm những gì đặc biệt khác hơn là
những công việc thường lệ đó, như người thầy thuốc chỉ biết
chữa cho bệnh nhân hết đau đớn thể xác?
Người y sĩ là “
Lương Y như Từ Mẫu” thì vị linh mục cũng phải là một “Chúa
Giêsu thứ hai / Alter Christus” sống với tâm lý, tâm tình,
tâm tư, tậm trạng, nỗi lo sợ buồn vui và những khắc khoải lo
lắng bấn loạn hãi hùng của người bệnh lúc lâm chung với lòng
trắc ẩn cảm thông như “Sống” và “Chết” với người bệnh để dẫn
đưa người bệnh đến gần Chúa hơn một cách êm đềm thanh thản
và chấp nhận….
Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh |
VỀ MỤC LỤC |
|
THẦN THÁNH HÓA GIỚI TU
HÀNH |
Bàn về những
khía cạnh dẫn đến trình trạng thiếu trưởng thành tâm linh mà
không nêu lên hiện tượng thần thánh hóa giới tu hành là một
thiếu sót. Chúng ta không biết nguyên nhân của hiện tượng này từ
đâu và do ai, phía tu hành hay phía giáo dân, nhưng hiện tượng
ấy là một điều mà tất cả những ai có một tầm nhìn trưởng thành
về Giáo Hội, và về đời sống tâm linh đều nhận thấy. Tuy nhiên,
đây lại là một đề tài hết sức nhậy cảm, và đã từng gây ra nhiều
tranh cãi, đôi khi gay gắt giữa hai phái hủng hộ và cải cách.
Một bên muốn giữ lại tất cả những gì là nề nếp, là tập tục, và
cảm tình qúy mến sẵn có dành cho giới tu hành, một bên muốn đặt
lại cái nhìn và lề thói cư xử để đem lại sự quân bình trong nếp
sống tâm linh của chính mình cũng như của Giáo Hội.
Trường hợp 1:
Tôi quen biết một người rất có lòng sùng mộ các vị chân tu. Bà
rất mực đạo hạnh và kính trọng các linh mục, tu sỹ nam nữ. Sự
kính trọng được coi là hơi quá mức và lắm lúc mù quáng. Một lần
bà nhờ tôi dàn xếp để được gặp và xưng tội với một giám mục. Bà
đã được toại nguyện, và bà đã tỏ ra hết sức sung sướng, đến độ
bà cho rằng nếu bà có chết đêm hôm đó, bà cũng sẵn sàng, vì theo
bà được xưng tội với một giám mục là một ước mơ quá lớn lao và
hầu như không thể trở thành hiện thực đối với bà.
Trong đời
sống bình thường, bà dành dụm, nhịn ăn, nhịn tiêu để rồi hầu như
tất cả số tiền già của bà mỗi tháng đều được chia đều cho các
hội bảo trợ ơn thiên triệu, hoặc xin lễ các dòng này, dòng khác.
Bà không để bất cứ một ai động chạm đến các vị tu hành mà bà vẫn
thường gọi là “các đấng”.
Trường hợp 2:
Một vị linh mục trước khi qua đời đã cho hội họp tất cả các con,
cháu thiêng liêng, những người mà vị linh mục đó đã giúp đỡ cách
này, cách khác trong đời sống tâm linh để trăn trối. Một trong
những điều được vị linh mục này nhắn nhủ các nghĩa tử của mình
là không được bao giờ đụng chạm đến bất cứ một linh mục nào, bất
cứ cách nào, nhưng phải tôn trọng tuyệt đối. Không được tố cáo,
và đưa các vị ra trước tòa án với bất cứ hình thức nào. Tóm lại,
linh mục là người bất khả xâm phạm.
Trường hợp 3:
Một hôm, trong một cuộc họp mặt gia đình, người em dâu tôi hỏi:
- Anh
có biết ông cha Đ.... ở tiểu bang Mississippi không?
- Nhiều
linh mục Việt Nam ở Hoa Kỳ làm sao anh biết hết nổi. Nói rồi tôi
hỏi lại cô em:
- Có
gì đặc biệt nơi vị linh mục ấy khiến em muốn hỏi anh không?
- Có
chứ! Rồi cô tiếp tục kể: Hồi năm ngoái tụi em về thăm bố mẹ em ở
Mississippi, vợ chồng em cãi nhau thiếu điều muốn đánh lộn vì
một ông cha. Anh ấy bảo là anh ấy thấy ông cha chửi thề và đánh
bạc, còn em thì em nói là không bao giờ có chuyện ấy, hoặc anh
ấy nhìn nhầm người. Nhưng anh ấy thì nói rõ là buổi tối hôm thứ
Bẩy anh và mấy người bạn ghé sòng bài, gặp ông cha ấy đang ngồi
đánh bài. Ông ta đánh rất hăng và khi được cũng như khi thua thì
ông ta chửi thề và văng tục hơn cả những người chung quanh. Sáng
Chúa Nhật hôm sau, lúc làm lễ và anh ấy nhìn kỹ mới rõ là ông là
người mà anh gặp trong sòng bài tối thứ Bẩy.
KÍNH TRỌNG VÀ
THẦN THÁNH HÓA
Ba trường hợp
vừa nêu trên chỉ là những thí dụ điển hình mà nhiều Kitô hữu đã
thường nghe và chứng kiến. Không những chỉ người Kitô hữu, mà
ngay cả nhiều vị chân tu cũng đã xác nhận. Một vị linh mục cao
niên và đã từng kinh nghiệm nhiều với các sinh hoạt mục vụ, đã
có lần tâm sự và cho biết. Vị này nói: “Tôi là một linh mục,
nhưng nếu tôi nói rõ hết những bê bối của nhiều vị, tôi sợ rằng
nhiều người sẽ bỏ đạo!”
Tuy vậy, đối
với phần đông tín hữu Việt Nam các linh mục vẫn là nhất: Thông
thái nhất. Giỏi giang nhất. Đạo đức nhất. Thánh thiện nhất. Nhất
đến độ không ai có quyền nhận xét, và phê bình. Cuồng tín hơn
nữa là tư tưởng cho rằng tất cả những gì đụng chạm đến các linh
mục, dù là những nhận xét và đóng góp tích cực, đều được coi là
một sự xúc phạm. Và vì xúc phạm đến “cha” cũng có nghĩa là xúc
phạm đến “Chúa”: “Chống cha là chống Chúa!”.
Một điều xem
như nghịch lý là cũng thuộc thành phần tu trì, nói đến “cha” thì
ai cũng bênh vực, nhưng nếu có ai phê bình mấy tu sỹ nam nữ
không thuộc thành phần linh mục thì coi như chuyện bình thường
và có thể chấp nhận. Quan niệm bình dân là vì hơn nhau cái “chức
thánh”.
- Kính
trọng:
Kính trọng là
hành động của con người hiểu biết trong tương quan xã hội, và
đạo đức xã hội. Đặc biệt, trong một nền văn hóa chịu ảnh hưởng
sâu đậm của Khổng Giáo. Những câu như: “Tiên học lễ, hậu học
văn”. Như “Quân, sự, phụ”. Hoặc như “Một chữ cũng là thầy. Nửa
chữ cũng là thầy”. Tất cả đã nói lên sự kính trọng được dành cho
những người có chức tước, bằng cấp, và địa vị trong xã hội. Và
điều này được mặc nhiên công nhận. Những câu xưng hô như cụ tú,
cụ cử, cụ nghè luôn luôn được nói lên với tâm tình mộ mến, và
với lòng kính trọng.
Điều này dễ
hiểu, vì trong hoàn cảnh xã hội của Việt Nam trước đây, cơ hội
được tiếp thu với chữ nghĩa, với học hỏi chỉ dành cho một số ít
may mắn. Nguyễn Du còn coi đây như một cơ duyên trời định, mà
theo một nghĩa nào đó, như tiền định được dành cho một thiểu số
ít ỏiù: “Bắt phong trần phải phong trần, cho thanh cao mới được
phần thanh cao”. Những người có chút kiến thức, khoa bảng, vì
thế, lại càng được nổi bật hơn nữa trong xã hội Việt Nam.
Riêng đối với
những Kitô hữu, khi nhìn các linh mục, những vị chân tu thì
ngoài những điều được nhắc đến về kiến thức, hiểu biết, lại còn
một điểm coi như rất mực quan trọng, đó là “chức thánh”. Thật
vậy, tuy không hiểu chức thánh là gì, hoặc tuy không thấu đáo về
chức thánh, nhưng hễ nói đến những ai có chức thánh thì phần
đông Kitô hữu Việt Nam liền đồng hóa họ với đạo đức, với thánh
thiện. Một linh mục kia đã có lần nói rằng người giáo dân đã
phong thánh cho các linh mục liền ngay sau khi họ được phong
chức.
Một con người
có thể coi như thần thánh. Một con người được nhìn với cái nhãn
hiệu thông thái, hiểu biết, và quyền uy như thế, nếu có được
thần thánh hóa cũng là điều dễ hiểu trong cái nhìn của nhiều
Kitô hữu Việt Nam. Nhưng chính vì thần thánh hóa như vậy, nên
mới nẩy sinh lối sống, và sự tương quan lệch lạc giữa các linh
mục với giáo dân, và giáo dân với thành phần có chức thánh.
-
Thần thánh hóa:
“Cha nói là
Chúa nói”.
“Cha bảo
vậy”.
“Cha là đại
diện của Chúa. Cha bảo sao thì phải nghe như vậy.”
Những câu nói
tương tự như trên hầu như những Kitô hữu nào trên 50 tuổi, cái
tuổi phần lớn chịu ảnh hưởng bởi nền giáo dục tôn giáo mang
nhiều ảnh hưởng “thần thánh hóa” các vị tu hành. Ở vào thời điểm
này, phần đông Kitô hữu không tìm đâu ra hình ảnh trung thực của
một vị linh mục, hơn là vị đó chính là đại diện của Đức Chúa
Trời. Mà vì là đại diện Chúa, nên quyền uy cũng ngang ngửa như
Đức Chúa Trời. Không ai được nói đụng tới. Không ai được phê
bình. Và không ai được góp ý kiến. Bởi vì cha biết tất cả. Cha
luôn luôn đúng. Và hơn thế, cha thay mặt Chúa.
Trong một dịp
dùng cơm tại tư gia Đức Giám Mục Mai Thanh Lương, họa sỹ và điêu
khắc gia Văn Nhân đã kể một câu truyện khiến mọi người cùng nghe
vui vẻ nhưng nghĩ lại mang rất nhiều ý nghĩa:
Đó là, khoảng
thập niên 40, tại làng An Nghĩa thuộc tỉnh Bùi Chu có một ông
trùm có máu cờ bạc. Thời đó cha Bảng làm chính xứ. Cha rất ghét
cờ bạc, nên một hôm được báo cho biết là ông trùm đang tổ chức
xóc đĩa tại nhà. Cha xứ liền gọi một ít thanh niên trong làng
đến tận nơi. Không may cho ông trùm bị cha bắt tại trận. Và thế
là cha ra lệnh nọc ông trùm ra đánh tới tấp khiến ông trùm phần
xấu hổ với con cháu, phần đau quá không chịu nổi đã kêu lên:
- Nếu cha cứ
tiếp tục đánh như vậy, tôi sẽ bỏ đạo.
- Gớm nhỉ!
Thế thì ông trùm đành đánh mất linh hồn à! Vậy cụ đánh để rút
linh hồn ông trùm ra trước nhá.
Vừa nói, cha
xứ vừa tiếp tục quất liên hồi. Đau quá, ông trùm lại nói:
- Xin cha tha
cho con. Con xin ăn năn chừa cải.
- Được! Để cụ
đánh để nhét linh hồn ông trùm vào đã.
...
Không biết là
ông trùm làng An Nghĩa có bỏ đánh bạc, có ăn năn chừa cải, và
cha xứ có nhét được linh hồn vào cho ông trùm không, nhưng đó là
một câu truyện cho thấy cái hậu quả của sự thần thánh hóa các
linh mục thời bấy giờ.
Ngày nay,
ngược lại, hình ảnh của các vị tu hành đã bị xóa nhòa nhiều,
không phải vì giáo dân đã mất đi sự kính trọng, nhưng là đã bớt
dần cái nhìn thần thánh hóa được dành cho thành phần tu hành.
Giáo Hội Hoa Kỳ đã phải chi ra hơn 2 tỷ Mỹ Kim để bồi thường
những thiệt hại do một số giám mục, linh mục trong vụ án lạm
dụng tình dục. Hồng Y Bernard Law đã mất chức Tổng Giám Mục
Boston vì bao che cho những vụ lạm dụng tình dục của các linh
mục thuộc quyền ngài. Gần đây Giáo Phận San Diego là giáo phận
thứ 5 trên toàn quốc Hoa Kỳ đã phải khai phá sản hòng tránh
những vụ kiện cũng liên quan đến những vụ lạm dụng tình dục của
các giáo sỹ trong địa phận. Riêng Giáo Phận Orange nơi có đông
tín hữu Việt Nam cũng đã phải chi ra 100 triệu để bồi thường
những xúc phạm về tình dục của hàng giáo sỹ. Nhưng rồi ngày 6
tháng 9 năm 2007, tòa án lại ra lệnh Giám Mục Tod Brown và Giám
Mục Hồi Hưu Norman McFarland ra trả lời tiếp về những cáo buộc
cũng liên quan đến những vụ xâm phạm tình dục của các giáo sỹ
trong giáo phận.
Ngoài ra,
hình ảnh của những linh mục, giám mục làm tay sai cho Cộng Sản
Ba Lan trước đây cũng đã được bạch hóa, đã cho thấy rằng quan
niệm thần thánh hóa giới tu hành là một quan niệm và lối sống
đạo không trưởng thành. Và điều này cũng nói lên rằng không phải
lúc nào “cha” cũng luôn luôn đúng. Và không phải hễ đã là “cha”
thì được miễn trừ tất cả, và nhất là không ai được phép động
tới.
CHỨC THÁNH VÀ
CON NGƯỜI
Không ai phủ
nhận thiên chức linh mục, và cũng không ai thắc mắc gì về sự cao
cả của thiên chức này. Nhưng điều thường gây ra những ngộ nhận
và rắc rối là sự hiểu biết lẫn lộn về sự cách biệt giữa chức
thánh và con người mang chức thánh.
- Chức
thánh:
Qua ánh sáng
đức tin, và do lòng thành kính đối với Chúa và Giáo Hội, phần
đông các tín hữu đều tin tưởng rằng, chức thánh là do Chúa và
đến từ Chúa. Người Kitô hữu Việt Nam có lẽ ít ai thắc mắc hoặc
muốn vặn hỏi về ý nghĩa thần học hoặc tu đức của chức thánh.
Ngược lại, ai cũng đều tin tưởng một cách chân thành rằng chức
thánh là do Chúa, và sự tuyển chọn đến từ Ngài.
Trong thời kỳ
Cựu Ước, thành phần tư tế thuộc dòng họ Aaron. Trong Tân Ước,
Chúa Giêsu đã thiết lập hàng ngũ tư tế mới. Ngài đã tuyển chọn
12 Tông Đồ, và qua các ngài, quyền năng của chức thánh được trao
ban cho các Giám Mục, và từ các Giám Mục đến các giáo sỹ và phó
tế. Phần đông Kitô hữu cũng tin những gì Chúa Giêsu đã phán với
các Tông Đồ về ơn gọi và thánh chức của các vị: “Thầy không gọi
các con là tôi tớ, vì tôi tớ không biết việc chủ mình làm. Nhưng
thầy đã gọi các con là bạn hữu, vì thầy đã tỏ cho các con mọi
việc thầy đã nghe nơi Cha Thầy. Chẳng phải các con chọn thầy,
nhưng thầy đã chọn các con, và sai các con đi để mang lại nhiều
hoa trái, và để những hoa trái ấy được tồn tại” (Jn 15:15-16).
Chức thánh
của Tân Ước mang rõ 3 nhiệm vụ:
- Rao giảng
và làm chứng nhân cho Tin Mừng: “Hãy đi khắp thế giới và rao
giảng Tin Mừng cho muôn dân” (Lc 16:15).
- Cử hành các
bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể như lệnh truyền mà Chúa Giêsu
đã truyền dậy các Tông Đồ trong bữa Tiệc Ly: “Các con hãy làm
việc này mà nhớ đến Ta” (Lc 22:19). Thánh Phaolô Tông Đồ còn
viết rõ về vai trò tư tế như sau: “Vì chưng mọi thượng tế được
chọn giữa loài người để lo việc Thiên Chúa thay cho con người,
tiến dâng lễ vật và hy lễ đền tội. Ngài có thể chạnh lòng thương
những kẻ u mê lầm lạc, vì chính ngài cũng lâm phải yếu đuối tứ
bề. Và vì yếu đuối, thì cũng phải như dân, ngài phải dâng lễ đền
tội cho mình. Và không ai được tự chọn cho mình vinh dư ấy,
nhưng phải được Thiên Chúa tuyển chọn như Ngài đã chọn Aaron”
(Hb 5:1-4).
Tóm lại,
những đặc quyền đi liền với thánh chức là: Rảo giảng và làm
chứng nhân cho Tin Mừng Cứu Độ. Ban các bí tích. Và nhất là cử
hành bí tích Thánh Thể, để nuôi dưỡng và củng cố đời sống tâm
linh của các tín hữu cũng như của chính mình trên hành trình đức
tin trần thế. Thiếu sót, hoặc lơ là trong những việc làm ấy,
linh mục hay giám mục đã bị coi như không làm trọn bổn phận và
sứ mạng được giao phó.
Thật vậy, khi
tuyển chọn các Tông Đồ, Chúa Giêsu không đòi hỏi các ông phải có
học lực và thông thái. Nhiều linh mục ngày nay tuy có những bằng
cấp chuyên môn về thần học, triết học, tu đức, thánh kinh, giáo
luật, hay giáo hội và các bằng cấp chuyên môn khác vẫn không
thay thế được 3 chức năng trên. Tất cả cũng chỉ để bổ khuyết và
làm cho ơn gọi, sứ mạng của mình thêm phong phú hơn mà thôi.
Trên thực tế, nhất là ngày nay, ít người hỏi và muốn biết xem
các linh mục có những bằng cấp gì. Nhưng điều mà người tín hữu
muốn thấy nơi các linh mục, các giáo sỹ là qua lời nói, việc
làm, và đời sống, họ có tìm gặp Đức Kitô không, như lời Đức
Gioan Phaolô II: “Ngày nay, nhân loại không cần những thầy dậy,
mà cần những chứng nhân”.
Bằng một cái
nhìn có tính cách xã hội, tổ chức và cấu trúc của Giáo Hội với
hàng tu sỹ, giáo sỹ, giám mục, hồng y, hay giáo hoàng, tất cả
những cái đó chỉ là hình thức, và nó phù hợp cho đời sống Giáo
Hội cơ chế. Bởi vì Giáo Hội, ngoài phần thiêng liêng, vẫn phải
tồn tại với thế giới hiện tại.
Trong ngày
Chung Thẩm, tất cả những kẻ bị phạt hay được thưởng đều được hỏi
chỉ có một câu hỏi, và có cùng một câu trả lời như nhau: “Ta đói
các ngưoi đã cho ăn. Ta khát các ngươi đã cho uống. Ta mình trần
các ngươi đã cho áo mặc. Ta đau ốm các ngươi đã thăm viếng. Ta
tù tội các ngươi đã thăm viếng an ủi” (x. Mt 25:31-46). Tuyệt
nhiên không thấy Chúa đề cập đến vai trò giáo hoàng, hồng y,
tổng giám mục, giám mục, linh mục, tu sỹ nam nữ, hay giáo dân.
Bởi vì, dưới con mắt Chúa, tất cả mọi người đều là anh em. Và
cũng chính vì thế, Chúa dậy mọi người khi cầu nguyện phải thưa
với ngài: “Lậy Cha chúng con ở trên trời” (Mt 6:9).
- Con
người lãnh nhận thánh chức:
Nhưng có lẽ
vì nghĩ rằng mình xứng đáng, hoặc ngộ nhận về vai trò ơn gọi của
mình nên đã có nhiều linh mục, kể cả giám mục đã lạm dụng thánh
chức với những mục đích riêng tư của mình. Trong lịch sử Giáo
Hội thời Trung Cổ đã cho thấy rất nhiều những thiếu sót này kể
cả một số giáo hoàng, hồng y, và giám mục.
Điều này dễ
hiểu, vì khi được tôn trọng và yêu kính quá, thường người ta dễ
sinh tự mãn và tự tôn. Thánh Tiến Sỹ Têrêsa d’Avilla đã nói về
điều mà nhiều người vẫn không muốn nghe về thành phần chức
thánh, đó là: “Nền hỏa ngục được xây bằng sọ các linh mục”. Phải
chăng đây cũng là lý do tại sao Thánh Têrêsa đã cải tổ dòng kín
Camêlô với chủ đích chuyên lo cầu nguyện cho các linh mục.
Thật ra,
không phải Thiên Chúa ngặt nghèo với thành phần giáo sỹ, những
người mang chức thánh, vì chẳng có ai tự cho mình xứng đáng với
chức thánh. Hơn nữa, sẽ chẳng ai dám chấp nhận làm chứng nhân
cho Ngài. Nhưng vì sự thánh thiện và sự cao trọng của thánh chức
đòi hỏi những ai được mời gọi phải hết sức thận trọng, và không
được lơ là, buông túng. Bởi lẽ mọi hành vi, ngôn ngữ, cử chỉ của
họ đều mang sắc thái đặc biệt, là làm chứng nhân và đại diện cho
Thiên Chúa. Vì vậy, nếu có ai trong họ coi thường, thì không
phải chỉ coi thường chính họ, coi thường niềm tin mà cộng đoàn
dân Chúa có đối với họ, mà là coi thường chính Thiên Chúa. Do
đó, hình phạt của họ cũng trở nên rất nặng nề. Câu truyện về
Thánh Phanxicô d’Assi đã cho thấy cái mỏng dòn, và cái thánh
thiện rất dễ lẫn lộn và khó lòng phân biệt.
Thánh
Phanxicô suốt đời chỉ dám nhận chức Phó Tế. Bởi vì đã có lần
trong lúc chuẩn bị lãnh chức linh mục, một thiên thần Chúa đã
hiện ra với thánh nhân đưa ra trước mặt thánh nhân một ly nước
trong vắt, và tinh sạch. Thiên thần bảo ngài nếu thấy mình trong
sạch, tinh tấn như vậy thì hãy bước lên. Vì ý thức được điều
Chúa muốn, nên Phanxicô đã không bao giờ dám lãnh chức linh
mục.
Tóm lại, chức
thánh không bảo đảm cho người lãnh nhận nó. Nó càng không phải
là cái bùa hộ mệnh cho những giới chức nào lạm dụng để được
người đời sùng mộ và trọng kính. Dân Chúa có thể tôn trọng và
dành sự kính trọng đặc biệt đối với những ai mang chức thánh,
nhưng thần thánh hóa họ, và lẫn lộn họ với Chúa là điều không
phù hợp với đức tin và đời sống trưởng thành của một Kitô hữu.
Người lãnh nhận chức thánh chưa hẳn là người thánh. Và sự tôn
trọng người có thánh chức không có nghĩa là thần thánh họ, và
đồng hóa họ với thánh thiện.
NGỘ NHẬN GIỮA
CHA VÀ CHÚA
Vì sự tôn
kính với sắc thái đặc biệt như vừa trình bày ở trên, nên hậu quả
đưa đến là, nhiều Kitô hữu vẫn lận lộn, hoặc không dám thẳng
thắn phân biệt giữa những vị có chức thánh và Thiên Chúa. Sự ngộ
nhận này đồng hóa không những người có chức thánh với sự thánh
thiện, mà hơn thế nữa, với chính Thiên Chúa. Câu nói: “Chống
cha, chống Chúa” được hiểu theo cái nhìn và tư tưởng đồng hóa
này.
- Cha
nói là Chúa nói:
Trở lại những
dẫn chứng điển hình vừa được nêu lên ở trên, tư tưởng đồng hóa
người lãnh nhận chức thánh với chính sự thánh thiện, và hơn nữa,
với chính Thiên Chúa đã đem lại những hậu quả tai hại, là hễ
những gì các giáo sỹ, tu sỹ nói đều là đúng và là do Chúa nói.
Nhưng thực tế lại không phải vậy.
Trường hợp 1:
Trong một buổi hồi tâm, cấm phòng, một linh mục đã khẳng định và
nhắc đi nhắc lại rằng, ngày Thứ Năm Tuần Thánh, trong Bữa Tiệc
Ly, Chúa Giêsu đã lập 3 Bí Tích: Bí Tích Thánh Hôn, Bí Tích
Thánh Chức và Bí Tích Thánh Thể. Mọi người đều hết sức bỡ ngỡ,
vì từ bé đã được học hỏi rằng, trong Bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu
thiết lập Bí Tích Thánh Thể, Bí Tích Truyền Chức . Chưa hề bao
giờ truyền thống Giáo Hội có thêm một Bí Tích trong ngày Thứ Năm
Tuần Thánh, mà Bí Tích ấy lại liên quan trực tiếp đến đời sống
hôn nhân gia đình, đó là Bí Tích Thánh Hôn.
Nhưng linh
mục ấy vẫn duy trì sự hiểu biết của mình bằng cách dẫn chứng
vụng về là trong Bí Tích Hôn Phối tình yêu của đôi trai gái, của
đôi vợ chồng trao nhau làm nên giá trị và nền tảng đời sống hôn
nhân. Và theo ông, tình yêu hôn nhân chính là phản ảnh của tình
yêu Thánh Thể, và Bí Tích Truyền Chức.
Người viết đã
có lần hỏi một Giám Mục về quan điểm thần học mới mẻ ấy, thì vị
Giám Mục chỉ cười mà không nói thêm gì.
Trường hợp 2:
Trong một ngày tĩnh tâm khác, cũng chính vị linh mục giảng
thuyết trên đã khẳng định rằng ông sẽ không cho bất cứ một người
nào được phép ngừa thai. Bởi vì, theo ông, cho phép ngừa thai
như vậy là làm giảm giá trị đời sống tu hành. Mọi người trong
hội trường nín thở, và không hiểu vị giảng thuyết muốn nói gì.
Nhưng ông đã giải thích như sau:
Khi được một
bà 60 tuổi hỏi mình có được phép ngừa thai không, ông đã trả lời
là không. Theo ông, nếu cho một người ngừa thai, thì phải cho
tất cả mọi người ngừa thai. Vì đã cho một người thì phải cho tất
cả. Và ông tiếp tục lý luận, trong cái tất cả ấy có cả tôi, và
những người khác trong thành phần tu hành. Như vậy, cho phép
ngừa thai là làm nhục và làm giảm giá trị đời sống tu trì.
Trường hợp 3:
Một linh mục trẻ rất thích nói, viết, và trình bày về sinh lý,
về hành động vợ chồng. Những bài nói truyện, những trưng dẫn của
linh mục trẻ này đã đi đến sống sượng, và nôm na hơn cả những
câu truyện phòng the được các tác giả khác trình bày ở những
sách báo khỏa thân hoặc khiêu dâm. Một vài giáo dân có uy tín và
hiểu biết đã kín đáo viết thư góp ý, và đã nhận được những lời
lẽ đáp trả, đại khái:
Các anh là
những người có con mắt phàm tục, tội lỗi nên nhìn gì cũng phàm
tục và tội lỗi. Tôi là người không có con mắt ấy, nên sinh lý,
và những hành động trai gái, vợ chồng tôi nhìn thấy toàn sự
thánh thiện.
Trường hợp 4:
Một linh mục dòng Tên, nổi tiếng về chương trình hướng dẫn và
thăng tiến đời sống gia đình, ông đã trình bày về sinh lý trong
một tác phẩm mà ông cho là đắc ý. Trong một đoạn viết về sinh
lý, ông đã ví người thiếu nữ khi khỏa thân trước mặt chồng, nàng
đẹp như “Đức Trinh Nữ”. Sự xúc phạm này đã được nhiều giáo sỹ,
và anh chị em giáo dân góp ý, nhưng độc giả vẫn thấy các tác
phẩm này được bày bán cùng với tác phẩm sau khi được hiệu đính
sau đó. .
Không biết
các nhà luân lý, thần học, giáo luật, và tu đức nghĩ gì về những
thí dụ trên. Nhưng nếu nói linh mục nói là Chúa nói, thì phải
hiểu là cả bốn trường hợp trên, Chúa đều nói và viết tầm
bậy.
Hoặc như
truờng hợp của linh mục Bảng nói đánh mà rút được linh hồn người
khác, và đánh mà nhét linh hồn người khác vào được cũng phải
hiểu là Chúa nói dóc. Chúa “nổ”. Hay như trường hợp linh mục
đến sòng bài, đánh bài và chửi thề rồi đổ thừa cho Chúa cũng bài
bạc, chửi thề là một xúc phạm quá lớn lao đến Thiên Chúa và sự
thánh thiện của Ngài.
Tóm lại, linh
mục, hoặc người có chức thánh có thể nói những điều tốt lành về
luân lý, đạo đức, và người Kitô hữu cần phải cung kính, lắng
nghe để ứng dụng vào đời sống tâm linh của mình. Ngoài ra, sự
hiểu biết giới hạn của một người, đòi chúng ta phải suy nghĩ và
cân nhắc về những gì các vị ấy nói, biết, và viết. Bởi vì các vị
cũng chỉ là con người.
- Chống
cha là chống Chúa:
Như vậy,
không đồng ý với các linh mục trên, hoặc nói một cách nôm na là
bất đồng, không chấp nhận những nhận xét và ý kiến ấy có thể gọi
là chống Chúa không? Ai dám tự nhận mình là Chúa trong những
trường hợp như thế. Đến như gọi nhau là “cha”, mà Chúa Giêsu còn
không bằng lòng nữa, hống hồ đồng hóa các linh mục với “Chúa”.
Chúa Giêsu đã nói: “Các con đừng gọi ai là cha ở dưới đất, vì
các con chỉ có một cha ở trên trời. Cũng đừng gọi ai là thầy, vì
chỉ có một thầy là Đức Kitô” (Mt 23:9).
Cũng vì sợ có
sự lầm lẫn ấy, Thánh Phaolô Tông Đồ và Thánh Barnaba Tông Đồ đã
phải kêu lên khi người ta tưởng mình là thần minh. Tông Đồ Công
Vụ đã nói về trường hợp này khi hai vị đang ở Lystra như sau:
“Lúc ở
Lystra, có một người què từ lúc mới sinh; anh ta phải đi bằng
nạng và suốt đời không tự mình bước đi được. Vào một hôm anh ta
ngồi nghe Phaolô giảng, và Phaolô đã nhìn thấy lòng tin nơi anh
để được chữa lành. Ngài gọi anh lớn tiếng “Hãy đứng dậy bằng đôi
chân của anh!”. Người què liền nhẩy lên và bắt đầu đi lại chung
quanh. Khi đám đông nhìn thấy những gì Phaolô đã làm, họ kêu lớn
tiếng bằng thổ âm Lycaonia, “Các thần minh đã đến với chúng ta
qua hình dạng con người!” Họ gọi Barnaba là Zeus, và Phaolô là
Hermes, vì ngài là phát ngôn viên. Ngay cả vị tư tế của đền thờ
Zeus ngoài thành cũng mang bò và vòng hoa ra cổng thành vì ông
muốn cùng với dân chúng dâng tiến lễ vật.
Khi các tông
đồ Barnaba và Phaolô nghe vậy, họ liền xé áo mình ra và chạy đến
giữa đám đông: “Anh em, tại sao anh em làm thế?” Các ngài la
lớn: “Chúng tôi cũng là những con người như anh em. Chúng tôi
đang mang đến cho anh em một tin vui mà sẽ chuyển đổi anh em
khỏi những hành động huyền hoặc đó đối với Thiên Chúa hằng sống,
Đấng tạo dựng đất trời, biển khơi và muôn loài trong đó” (Act
14:8-15).
Tóm lại,
những gì được trình bày trên chỉ nhằm dẫn đến một kết luận là
linh mục, hàng giáo sỹ, kể cả giám mục là những người được Chúa
ban cho chức thánh cao cả. Các ngài được tuyển chọn giữa loài
người. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là các ngài được miễn
trừ khỏi những yếu đuối và khuyết điểm của thân phận con người.
Do đó, việc thần thánh hóa các ngài là một điều không những
không giúp gì cho đời sống trưởng thành của người Kitô hữu. Hơn
thế nữa, hành động này còn làm cớ vấp ngã cho các vị tu hành,
bởi vì, sẽ có một lúc nào đó, họ tưởng họ là Thượng Đế. Họ có
quyền nói năng, hành động như Thượng Đế. Và vô tình hay hữu ý,
họ đã đánh mất đi ý nghĩa, và sự cao cả của ơn gọi của mình.
Người Kitô
hữu trưởng thành khi tiếp xúc với các giáo sỹ và linh mục:
Kính trọng
nhưng không thần thánh hóa.
Yêu mến nhưng
không bợ đỡ.
Hỗ trợ nhưng
không chống đối.
Phê bình
nhưng không chỉ trích.
(Kỳ sau:
Sống lệ thuộc vào giáo hội cơ chế
Tiến Sĩ Trần Mỹ Duyệt |
VỀ MỤC LỤC |
|
HÃY ĐỨNG NGOÀI CUỘC (4)
|
Cô bé Thanh
Nga 6 tuổi ngồi bên cạnh anh nó Thanh Quang 9 tuổi, đang xây
công trình trò chơi của nó. Thanh Mỹ 7 tuổi rưỡi giúp anh nó
làm. Mọi người đang im lặng và hăng hái, bỗng Thanh Nga giang
gót chân đụng vào anh nó Thanh Quang.
“Nga lấy chân
đi,” Thanh Quang la lớn khi em nó giũi chân đụng lần thứ hai.
“Cái gì?” Cô
bé Thanh Nga hỏi lại giả vờ như không biết gì.
Sau cùng, cô
bé lấy chân đi. Rồi cô bé lại giãn chân ra. Anh nó đánh vào chân
nó. Cô bé nhảy nhỏm, khóc, và chạy vào trong nhìn ra cữa sổ. Từ
cữa sổ nhìn quanh, cô bé nhìn thấy bà mẹ đang làm việc trong
vườn hồng. Lúc nầy, cô bé mới thét lên và khóc:
“Mẹ, anh
Quang đánh con.”
Bà mẹ ngưng
việc và đi vào nhà. Bà nhìn thấy vết đỏ trên chân của Thanh Nga,
yên ủi nó, và lập tức đi gặp anh nó.
“Quang, tại
sao con đánh em con?”
“Nó chọc con
trước” cậu bé bảo vệ mình.
“Em không
đánh. Anh đánh em, cô bé hét lên, em không làm gì cả.”
”Mầy cũng
đánh tao, cậu bé la lên, mầy đá tao nhiều lần.”
“Mẹ, con
không đá ảnh. Con chỉ giang chân mà thôi và chân đụng phải ảnh.
Con không đá ảnh.”
“Đừng có già
mồm” cậu bé nạt lại.
Bà mẹ can
thiệp: “Con phải biết xấu hổ. Bé Nga là đứa nhỏ nhất trong nhà
và con là đứa lớn nhất. Con nên là một mẫu gương tốt. Con thật
là ác khi con đánh một đứa nhỏ hơn con. Bây giờ con xin lỗi em
đi và đừng bao giờ đánh em nữa.”
Trong khi bà
mẹ quở trách cu Quang, cô bé Thanh Mỹ ngồi quan sát tất cả.
“Mẹ, con
không đánh em” Thanh Quang nói.
“Mẹ biết con
là đứa con trai tốt. Nhưng tại sao con thử mẹ như thế. Tại sao
con không cư xử tử tế với chính con. Hãy xin lỗi em con đi.”
Cô bé Nga
ngưng khóc và đứng nhìn anh nó với sự thích thú. Mặt cuối xuống,
liếc mắt nhìn, và nở nụ cười mỉa mai trên môi. Cậu bé Quang lầm
bầm: “Xin lỗi” mắt nhìn xuống sàn nhà.
Bà mẹ lưu ý:
“Bây giờ hãy chơi lịch sự với nhau. Tụi con nên yêu nhau vì là
anh em với nhau. Không được đánh nhau nữa nghe chưa!”
Bà mẹ rời
chúng nó. Cu Quang đi vào phòng nghiến răng giận dữ. Cô bé Nga
hỉnh mũi nói với anh:
“Mẹ nói anh
nên lịch sự với em vì em là đứa nhỏ nhất.”
“Cóc kìa!
Thôi đừng nói chuyện đó nữa. Đó là chuyện của tao và tao không
muốn mầy lẩn quẩn ở đây nữa.”
Cô bé quay
một vòng và rời khỏi anh nó.
“Đi mách đi
cô bé” cu Quang chọc tức cô bé.
Cô bé đi vào
bếp tìm mẹ:
“Mẹ, anh
Quang không cho con chơi với ảnh. Ảnh chọc tức con” cô bé càm
ràm.
Bà mẹ đi vào
phòng của cu Quang:
“Con ơi, sao
vậy? Tại sao con không cho em chơi với con?’
“Nó làm lộn
xộn tất cả đồ của con.”
“Quang, con
hư lắm. Con đi ngồi vào ghế ở trong bếp kia cho tới khi nào con
cảm thấy thích chơi với em con.”
Nói rồi, bà
mẹ chộp lấy cánh tay của bé Quang trong lúc cô em nhìn với sự
giận dữ. Bà mẹ đưa cậu bé vào bếp và đặt vào trong ghế. Cô bé
Nga hài lòng và trở lại với Thanh Mỹ:
“Chúng ta đi
ra ngoài chơi chị Mỹ.”
“Vâng, chúng
ta chạy ra chơi trong lều.”
Cả hai đều
phóng nhanh ra ngoài và rời khỏi đó.
Nhiều lần
chúng ta cảm thấy rằng chúng ta cần có mắt đằng sau đầu. Nếu
đuợc như vậy, trong trường hợp nầy, bà mẹ có thể đã có lợi là
nhìn thấy được điều trẻ con nói với bộ mặt của chúng. Cu Quang,
hai vai nặng gánh với trách nhiệm là đứa lớn nhất, có đủ thời
gian thích nghi với hai đứa em của nó. Tương quan giữa con trẻ
với nhau là tranh chấp. Bà mẹ trong cố gắng giải quyết những
trận chiến bằøng cách tách rời chúng ra và thuyết phục chúng hãy
yêu thương nhau, nhưng với cách đó bà chỉ làm cho vấn đề thêm
trầm trọng. Bà đứng về phía đứa nhỏ hơn bằng cách bảo vệ nó
chống lại đứa lớn. Sự bảo vệ thái quá của bà củng cố quan niệm
của cô bé về nó như một đứa sơ sinh, là đứa có thể đòi hỏi sự
quan tâm đặc biệt. Ở tuổi 6, cô bé có thể tự lo cho chính mình
và không cần phải bảo vệ cho nó nữa. Ngay dầu những đứa lớn hơn
thật sự nên trông chừng nó, nó hoàn toàn có thể tự bảo vệ được
chính mình. Trong việc làm cho bé Quang trở thành người bị cáo,
bà mẹ đã rơi vào bẩy của cô bé Nga để đè anh nó xuống và để nó
nổi lên. Cái trò lên lên xuống xuống nầy tùy thuộc vào cha mẹ
đứng về phía nào trong trận chiến giữa các con trẻ. Đứa trẻ thất
bại kết thân với đứa thành công hơn. Như vậy, không lâu sau khi
trận chiến được giải quyết, trận chiến khác đang được chuẩn bị.
Bất cứ khi nào cha mẹ còn đứng về một phía, đứa nầy là kẻ chiến
thắng, và đứa kia là kẻ chiến bại. Người ta có thể chắc chắùn
rằng người chiến thắng là người xếp đặt để thuyết phục được cha
mẹ về sự vô tội của nó, và thường là đứa khơi nguồn trận chiến.
Cố gắng chiếm được ưu thế và có cha mẹ đứng về phía mình làm cho
vấn đề càng dễ mang lại một trận chiến từ phía đối thủ. Sự nổi
loạn nằm đằng sau trận chiến. Với sự nổi loạn trong đầu, làm sao
những lời giáo huấn của chúng ta về sự yêu thương nhau có được
kết quả? Việc giáo huấn chỉ làm tăng sự khó khăn vì nó đòi hỏi
một điều nên làm mà người ta không thể đáp ứng nên chỉ làm tăng
thêm căng thẳng.
Nếu bà mẹ
nhìn cô bé Nga chỉ cần một giây, bà có thể nhìn thấy được tương
quan giữa những đứa con. Luôn có vẻ thỏa mãn trên nét mặt của
đứa con không bị quở trách. Đứa bị khiển trách không được ưu
đãi. Một lần nữa, cô bé cố ý tạo nên cuộc chiến để đẩy anh nó
đến chỗ rắc rối. Điều đó mang lại sự hồi hộp và càng củng cố vai
trò của cô bé. Sự kiện là cô bé chạy đi tìm cho ra mẹ nó đang ở
đâu trước khi khóc là một mấu chốt. Thanh Mỹ lợi dụng tình thế
để nhắc nhủ mọi người về việc nó tốt là dường nào để củng cố địa
vị của nó. Một lần nữa, bé Quang cảm thấy mình trong vai trò của
đứa con xấu. Vì nó đã bị kết án như vậy nên nó không thèm cố
gắng để có liên quan tốt đẹp với em nó. Khi bà mẹ can thiệp vào
sự tranh cãi của chúng, bà củng cố quan niệm về chính mình của
mỗi đứa trẻ, củng cố quan niệm sai lầm về giá trị của mỗi đứa,
và thay vì dạy cho chúng ngưng chiến, bà lại cho chúng thấy
chiến tranh thì có lợi biết bao.
Nếu bà mẹ
phớt lờ tình trạng đó đi và cho thấy sự tin tưởng vào khả năng
của cô bé có thể tự lo cho chính nó, và để điều đó cho chúng nó
tự giải quyết những khó khăn của chúng, cuộc chiến sẽ mất đi sự
hấp dẫn của nó. Cái khóc thét lên của cô bé là một chiến thuật,
không phải là kết quả của cuộc chiến. Nếu bà mẹ không bị ám ảnh
mỗi lần cô bé khóc, cô bé sẽ bỏ đi chiến thuật khóc la vô ích
đó.
Dĩ nhiên, nếu
bố và mẹ giao chiến, con cái sẽ bắt chước. Chúng thấy kỷ thuật
nầy được dùng bỡi người lớn như một phương tiện để giải quyết
những khó khăn và như vậy chúng cũng có thể dùng. Trong trường
hợp nầy, đánh nhau là phương tiện để giải quyết vấn đề, có thể
trở thành một giá trị của gia đình, cho dẫu một đứa nổi loạn có
thể di chuyển trong chiều hướng ngược lại và phát triển những
giá trị ngược lại với những giá trị của bố mẹ nó.
Luôn luôn có
sự tranh chấp quyền lực trong một cuộc đánh đấu nhau. Những
người bằng nhau không cần dùng những xung khắc như một phương
tiện để chiếm ưu thế. Họ có thể giải quyết sự khác biệt mà không
cần thắng bại. Nhưng khi cảm giác về vị thế của một người bị đe
dọa bỡi sự biến động của người kia, sự xung đột biến thành một
sự đọ sức. Sự thù nghịch được khơi dậy để tỏ cho thấy sự thiếu
chú trọng đến lịch sự và quan tâm, và người ta tìm cách phục hồi
tình trạng đã mất với giá phải trả của đối phương. Khi chúng ta
đứng về phía đứa bé sơ sinh, bảo vệ đứa trẻ nhất chống lại đứa
lớn nhất, chúng ta đứng lên bảo vệ cho đứa trẻ bị lạm dụng,
chúng ta củng cố cảm giác mặc cảm bé nhỏ vô dụng của nó và dạy
nó cách dùng sự bất lực và yếu kém của nó để chiếm sự quan tâm
đặc biệt, càng làm tăng thêm tình trạng không tốt đẹp mà chúng
ta muốn loại bỏ. Khi chúng ta để mặc cho chúng, chúng sẽ thiết
lập một tương quan bình đẳng và công bằng hơn chúng ta cung cấp
cho chúng. Chúng học bằng ảnh hưởng của thực tại để phát triển
sự ngoại giao, bình đẳng, công bằng, công chính, quan tâm, và sự
kính trọng lẫn nhau. Đây là những điều mà chúng ta muốn con cái
chúng ta học. Chúng ta cố gắng giúp chúng bằng cách đứng ngoài
cuộc để cho chúng có khoảng trống để phát triển.
Người ta có
thể có một cuộc thảo luận thân tình về sự tranh chấp mà không
phải dùng đến tay chân để đấm đá, và vạch ra với con trẻ những
cách thế giải quyết những khó khăn. Tuy nhiên, điều nầy không
thể làm được trong lúc trận chiến đang diễn ra, vì lúc đó lời
nói không làm được gì, mà chỉ trở thành khí giới cho trận chiến
đang tiến hành.
Lm. Lê văn Quảng,
tiến sĩ tâm lý |
VỀ MỤC LỤC |
|
KÍNH GỬI: QUÝ LINH MỤC CHÍNH XỨ, VÀ CÁC LINH MỤC CÔNG GIÁO VIỆT
NAM.
|
DÒNG CHÚA
CỨU THẾ VIỆT NAM
Sài Gòn, ngày 30
tháng 8 năm 2008
Kính gửi: Quý Linh Mục Chính xứ, và các Linh Mục Công Giáo
Việt Nam.
Trọng kính quý cha,
Trước làn sóng thông tin một chiều của các báo, đài Việt Nam,
Tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế chúng con nhận thấy cần phải lên tiếng về
một sự thật. Chúng con không có một phương tiện thông tin nào để
chia sẻ do đó, chúng con xin mượn lá thư này để thưa chuyện với
quý cha về vụ việc tại Thái Hà, Hà Nội.
Vào năm 1928, Đức Giám mục Francois Chaize, Giám quản Tông toà
Giáo phận Hà Nội, đứng tên mua giúp Dòng Chúa Cứu Thế một lô
đất, khu đất nằm trên quốc lộ 6, nay là phố Nguyễn Lương Bằng
với tổng diện tích 61.455m2. Sau đó, DCCT đã đứng
tên sở hữu là Les Pères Rédemptoristes (xem bằng khoán điền thổ
số 42, ngày 16/8/1944)
=>
http://www.conggiaovietnam.net/popup.php?file=article/1220187054.jpg.
Năm 1943, Nhà Dòng chuẩn bị xây dựng Nhà thờ trên khu đất mà
hiện nay Công Ty May Chiến Thắng đang chiếm dụng (đã có bản vẽ
và giấy phép xây dựng của Thành phố Hà Nội). Tuy nhiên, từ năm
1943-1946, xảy ra chiến tranh liên miên, và nhất là nạn đói
1945, việc xây dựng Nhà thờ đã không thể thực hiện được.
Ngày 22/5/1944, Đức Giám mục Francoise Chaize đã làm giấy nhượng
quyền sở hữu đất đai và toàn bộ bất động sản trên khu đất này
cho các linh mục Dòng Chúa Cứu Thế. Trên mảnh đất này, Nhà Dòng
đã xây dựng Tu viện, Học viện, Nhà đệ tử, Nhà nguyện và các cơ
sở khác
(xin xem sơ đồ đất đính kèm)
=>
http://www.conggiaovietnam.net/popup.php?file=article/1220187054.jpg ).
Trong khoảng từ năm 1961 – 1963, nhà nước bắt đầu chương trình
chiếm dụng mà không có bất cứ giấy tờ nào hợp pháp: đầu
tiên biến Tu viện thành trường học, sau thành bệnh viện (nay là
bệnh viện Đống Đa). Không có bất cứ một chính sách nào
cho phép trưng thu các cơ sở tôn giáo lúc đó. Nhưng
ngày 30/1/1961, Ủy Ban Hành Chính Hà Nội đã tự ra quyết định
76/QL-NĐ giao khu đất cho Xí Nghiệp Dệt Thảm Len Đống Đa (khu
vực đang tranh chấp hiện nay) mà DCCT không được biết.
Hiện tại, ngoài một số lớn nhà dân chiếm dụng trên phần đất Nhà
Dòng, còn có các cơ sở của nhà nước như Trạm 4, Hội Chữ Thập Đỏ,
Uỷ Ban Nhân Dân Phường Quang Trung cũ và mới, Kho Bạc Nhà Nước,
Trường Học…
Tất cả những cơ sở bị chiếm dụng trên không hề thuộc diện cải
tạo XHCN hay bất cứ chính sách nào thời điểm đó. Chúng
con xin khẳng định rằng Cha Giuse Vũ Ngọc Bích là người quản lý,
chưa bao giờ bán, cho, hiến, biếu tặng bất cứ cá nhân hay
tổ chức nào, và ngay chính Cha Giuse Vũ Ngọc Bích khi còn sống
cũng đã khẳng định điều này nhiều lần công khai trước mặt giáo
dân (có ghi âm).
Năm 1994, Xí Nghiệp Thảm Len được sát nhập vào Công ty Cổ Phần
May Chiến Thắng. Khu đất của chúng con bị tư nhân hoá.
Vì thế, ngày 8/8/1996, Cha Giuse Vũ Ngọc Bích làm đơn gửi tới
các cấp chính quyền phản đối việc tư nhân hoá này. Đơn thư đã
không được trả lời.
Những năm sau đó, Dòng Chúa Cứu Thế– Gx Thái Hà tiếp tục gửi đơn
khiếu nại tới các cấp chính quyền đề nghị chính quyền tôn trọng
quyền sở hữu và giao lại khu đất cho Nhà Dòng và Giáo xứ. Kể từ
đó tới nay, 12 năm đã trôi qua (8/8/1996 – 30/8/2008), nhưng
chưa bao giờ các cơ quan Nhà nước đã nghiêm túc thực hiện những
yêu cầu chính đáng, hợp pháp của DCCT – Gx Thái Hà.
Ngày 5/1/2008, nhận thấy Công ty Cổ Phần May Chiến Thắng vi phạm
trên khu đất đang tranh chấp: phá các cơ sở vật chất của Nhà
Dòng, làm đường, tiến hành xây dựng, giáo dân Giáo xứ Thái Hà ý
thức được đây là tài sản chung của Giáo Hội nên đã bảo vệ và
phản đối bằng cách dựng lều bạt, treo ảnh tượng và cầu nguyện
bên ngoài khu đất này.
Suốt tám tháng qua, kể từ ngày 5/1/2008, dù phải chứng kiến
không ít lần Công ty May Chiến Thắng, dưới sự bảo trợ của một số
cơ quan chính quyền địa phương, cố tình vi phạm pháp luật, nhưng
người giáo dân vẫn tuân thủ những qui định của luật pháp, không
manh động, giữ gìn ổn định trật tự trị an trong khu vực. Mỗi khi
Công ty May Chiến Thắng vi phạm pháp luật thì giáo xứ luôn báo
cáo các cấp chính quyền giải quyết. Về phần mình, giáo dân luôn
thể hiện một tinh thần tôn trọng luật pháp cao độ, yên tâm chờ
đợi một tin vui tốt lành thể hiện tinh thần tôn trọng tự do tín
ngưỡng, công bằng và sự thật của các cơ quan Nhà nước. Nhưng,
thiện chí và sự chờ đợi ấy đã không được đền đáp một cách thoả
đáng. Trái lại, liên tiếp các ngày 30/6/2008 và 2/7/2008, chính
quyền đã ra các Quyết định 2476/QD-UBND của UBND thành phố Hà
Nội và Công văn 4213/UBND/NNĐC thiếu cơ sở pháp lý, không tôn
trọng sự thật.
Đứng trước nguy cơ bị tước đoạt những quyền lợi chính đáng, đứng
trước thiện chí bị chà đạp và đứng trước việc sự thật không được
chính quyền nhìn nhận, người giáo dân đã phải cậy đến Chúa và
Đức Mẹ đi tìm công lý cho mình.
Ngày 14/8/2008, nhân ngày lễ Đức Maria Hồn Xác Lên Trời, giáo
dân đã cung nghinh tượng Mẹ vào ngự tại khu đất và đặt tượng
Mẹ chính tại nơi xưa kia Nhà Dòng và Giáo xứ đã cung hiến cho Mẹ.
Cuộc cung nghinh ấy đã không hề bị bất cứ cản trở nào từ phía
lực lượng bảo vệ tại Công ty May Chiến Thắng và từ phía các cán
bộ an ninh, không có bất cứ biên bản vi phạm nào được lập.
Ngày 15/8/2008, nhận thấy bức tường đối diện với tượng Mẹ có
nguy cơ sụp đổ do trận mưa kỷ lục tại các tỉnh Miền Bắc vừa qua,
có thể gây những tai nạn đáng tiếc cho người giáo dân tới cầu
nguyện, anh chị em giáo dân đã gỡ bỏ, tạo một lối đi thông
thoáng thuận tiện cho việc vào cầu nguyện. Chiều cùng ngày, dưới
sự chứng kiến của các vị lãnh đạo địa phương và các cán bộ an
ninh, các giáo dân trong Giáo xứ đã cung nghinh Thánh giá và một
tượng Mẹ lớn hơn vào khu đất, đặt trên một bể nước, và cũng
không có bất kỳ biên bản vi phạm pháp luật nào được lập.
Ngày 19/8/2008 các Linh mục tu sĩ DCCT - Gx Thái Hà đã gửi
Đơn Khiếu Nại, số 06/2008/DCCTHN, tới Chủ tịch nước, Thủ
tướng Chính phủ và các cơ quan hữu quan đề nghị trao lại
quyền sử dụng đất của Dòng Chúa Cứu Thế - Giáo xứ Thái Hà.
Ngày 19/8/2008 Đài Truyền hình Hà Nội, báo
Hà Nội mới, báo An Ninh Thủ Đô và báo Nhân Dân đã đưa tin xuyên
tạc sự thật về những gì xảy ra tại Thái Hà để có cớ giải tán
việc đòi lại công bằng của bà con giáo dân. Đài Truyền hình Hà
Nội và Đài Truyền Hình Việt Nam chiều tối ngày 19/8/2008 và
trước đó đã đưa tin kết án việc làm của bà con giáo dân, thậm
chí còn vu khống cho các linh mục tu sĩ chúng con. Chưa hết, báo
Sài Gòn Giải Phóng ngày 20/8/2008, trên trang 1 đăng bài “Không
chấp nhận hành động vi phạm pháp luật, kích động giáo dân”
của tác giả Nam Việt để một lần nữa kết án một cách bất công bà
con giáo dân và các linh mục tu sĩ tại Thái Hà.
Ngày 20/8/2008, Linh mục Giuse Cao Đình Trị, Phó Giám Tỉnh DCCT
Việt Nam đã gửi Đơn Khiếu Nại tới Thủ Tướng và các cơ
quan chức năng về việc đưa tin xuyên tạc sự thật của một số
báo, đài Việt Nam (linh mục Giám Tỉnh đi công tác).
Ngày 27/8/2008, chính quyền đã quyết định khởi tố vụ án gây rối
trật tự công cộng và phá hoại tài sản công cộng và đã gửi giấy
triệu tập cho một số giáo dân để điều tra.
Ngày 28/8/2008, không theo trình tự của luật pháp, Cơ Quan
Điều Tra Quận Đống Đa tiến hành bắt tạm giam một số giáo dân
ngay tại nhà của họ; lực lượng công an cơ động sử dụng sức mạnh
đàn áp, đánh đập gây đổ máu và bắt đi một số giáo dân.
Kính thưa quý cha,
Về phần mình, chúng con khẳng định rằng Dòng Chúa Cứu Thế
- Giáo xứ Thái Hà có đầy đủ bằng chứng pháp lý và lịch sử để
chứng minh khu đất đó thuộc quyền sử dụng của mình và đã sở hữu,
sử dụng từ khi chưa thành lập nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà.
Khu đất hiện đang tranh chấp là thuộc quyền sử dụng của
Dòng Chúa Cứu Thế - Giáo xứ Thái Hà, không có bất cứ văn bản
sang nhượng, chuyển quyền sử dụng, cho, biếu tặng bất cứ tổ chức
hoặc pháp nhân nào. Bởi theo Giáo luật, không có ai, với tư cách
cá nhân, được tự ý sang nhượng, chuyển đổi đất đai, tài sản Giáo
hội Công giáo.
Chúng con khẳng định kiên quyết yêu cầu việc trả lại sự
công bằng, công lý và lẽ phải với những tài sản của Dòng Chúa
Cứu Thế - Giáo xứ Thái Hà, Hà Nội, đúng với tinh thần hiến pháp,
luật pháp Việt Nam đã qui định, cũng như những luật lệ quốc tế
mà Việt nam đã cam kết và có nghĩa vụ tôn trọng (xem
Đơn Khiếu Nại, số 06/2008/DCCTHN của các Linh mục tu sĩ DCCT
tại Giáo xứ Thái Hà).
Chúng con kiên định đeo đuổi công lý và sự thật vì “sự thật sẽ
giải thoát chúng con” như Chúa Giêsu đã nói.
Kính thưa quý cha, trên đây là vắn tắt quá trình vụ việc tại
Thái Hà. Trong hoàn cảnh không có phương tiện để tự bảo vệ mình
và làm sáng tỏ công lý. Kính xin quý cha thương cầu nguyện và
nâng đỡ chúng con.
Chúng con chân thành cám ơn quý cha.
Văn phòng Tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam
Lm. Giuse Đinh Hữu Thoại, C.Ss.R
Thư ký Tỉnh |
VỀ MỤC LỤC |
|
CÓ THIÊN CHÚA !!!
|
Phố Đức Bà
bỗng dưng nổi tiếng khắp thế giới mà chẳng cần phải lăng-xê,
quảng cáo gì cả ! Và những người nghèo bao nhiêu năm tín thác
đời mình vào Thiên Chúa bỗng dưng cũng trở nổi tiếng với thế
giới cùng với Mẹ của mình. Người đời vẫn thường nói “trong cái
rủi có cái may”. Chẳng lẽ ở đời này người nghèo, người bị áp
bức, người bị đối xử bất công cứ mãi ở trong cái phận rủi của họ
sao ? Họ cũng có cơ hội để nói lên tiếng nói của mình dẫu mang
trong mình phận của một người nghèo, người thấp cổ bé họng.
Người tin cũng thế, bao nhiêu năm nay ấp ủ lòng tin của mình để
rồi nhân sự kiện bi đát, đắng cay bị chèn ép, bị đối xử bất công
ở Xứ Thái Hà - Phố Đức Bà thì người tin được bộc lộ lòng tin của
mình rõ nét hơn lúc nào hết : Có Thiên Chúa !
Vấn đề nào
cũng thế, cần bình tĩnh phân tích và suy xét, nhận định chứ
không nền nhìn nó một cách hời hợt bên ngoài rồi kết luận hồ đồ.
Đất đai ở Thái Hà cũng vậy, phải đưa ra chứng cứ rõ ràng thì mới
có thể nói được. Đàng này, mảnh đất này còn chủ quyền và chưa
bao rơi vào tình cảnh vắng chủ để rồi những kẻ tán tận lương tâm
nhảy vào “hôi của” được. Linh địa - đất Thánh - đất nhà thờ chứ
đâu phải là cái bánh cái trái cúng cô hồn để rồi “mạnh được -
yếu thua” ?
Phải nghe
những người trong cuộc nói chuyện thì mới hiểu được ý của họ thế
nào chứ đừng nghe qua nghe lại để rồi đánh tráo sự thật, bỏ mất
lương tâm. Giáo hội, mục tử, con chiên nói chung và cách riêng
anh em tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế không bao giờ tán tận lương tâm
để được một mảnh đất cỏn con như thế. Nên nhớ cho rằng bên dưới
vụ kiện mảnh đất đấy nó là tiếng nói đòi công lý, đòi công bằng
trên một đất nước mà bi đát hay phải khóc lên để mà nói rằng
chẳng còn chút gì là công lý, còn chút gì công bằng !
Giả như miếng
đất tranh chấp bị rơi vào tay những người tán tận lương tâm đi
chăng nữa thì lòng của mỗi anh em tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế vẫn
bình an như vại. Là giáo dân đã xác tín rằng : “Được lời lãi cả
và thế gian mà lỗ vốn mất linh hồn nào được ích gì ?” chứ huống
chi là những người đã tận hiến đời mình cho người nghèo, cho ơn
cứu độ chứa chan nơi Đức Kitô.
Nhờ sự kiện
miếng đất này mà lòng tin của những con người bị ức hiếp, bị
chèn ép về tôn giáo được nói lên tiếng nói, được nói lên lòng
tin của mình là CÓ THIÊN CHÚA HIỆN DIỆN trong THẾ GIAN ĐẦY SỰ
GIẢ TRÁ VÀ ĐẢO ĐIÊN này !
Còn nhớ, cách
đây không lâu, Đức Tổng Giuse Ngô Quang Kiệt đã mạnh dạn nói
rằng nếu phải đi tù thì Ngài sẽ đi tù thay cho dân của Ngài. Anh
em Dòng Chúa Cứu Thế ngày nay, trong tình cảnh hiện cũng có tâm
tư, cũng có thao thức như Đức Tổng là anh em tu sĩ linh mục sẽ
chấp nhận ngồi tù. Không phải ngồi tù vì miếng đất cỏn con như
thế nhưng ngồi tù để minh chứng cho lòng tin của mình vào Thiên
Chúa. Những người bị bắt, những người bị đánh đập trong những
ngày qua là những người tiên phong làm chứng rằng cuộc đời họ có
Thiên Chúa và họ hoàn toàn tin tưởng, phó thác vào vòng bàn tay
của Thiên Chúa.
Giờ đây, hơn
bao giờ hết, anh em tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế, giáo dân Thái Hà
nói riêng và giáo dân mọi miền đất nước đều vui vẻ, bình an cảm
nhận rằng :
“Chúa là
mục tử chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ
xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước
trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo
chính vì danh dự của Người. Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u con sợ
gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con
vững dạ an tâm. Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt
quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu con đầy tràn
chan chứa” (Tv 23,1-5).
Dẫu có đổ
máu, dẫu có tan thương đi chăng nữa nhưng miễn sao Thiên Chúa
được tôn vinh và vinh danh là được rồi. Phải chăng Chúa dùng
biến cố này để một lần nữa nói với con người, cách riêng những
người vô thần, những người sống theo chủ nghĩa vật chất rằng CÓ
THIÊN CHÚA. Máu của giáo dân đã đổ và thậm chí máu của linh mục,
tu sĩ sẽ phải đổ cho công lý, cho sự thật nhưng xét cho cùng
những đau khổ, những giọt máu phải đổ xuống thì chẳng có ý nào
khác rằng giáo dân, tu sĩ, linh mục luôn minh chứng cho đời rằng
CÓ THIÊN CHÚA trong đời của họ nên họ mới can đảm như thế !
Chẳng ai dại phải đổ máu vì miếng đất cỏn con, chẳng ai dại gì
mà phải chết cho một người mà người đó chẳng là gì trong đời họ.
Họ chết, họ tử đạo cho Đấng đã sinh ra, đã chết và đã sống lại
vì họ mà thôi.
Chỉ có những
con người vô lương tâm hay bán rẻ lương tâm của mình để giành
giật những thứ tài sản sẽ mất ngày mai dưới ba tấc đất của nắm
mồ điểm tô bằng những miếng đá hoa cương bóng bẩy thôi. Còn
chúng tôi, những kitô hữu, những tu sĩ, những linh mục Dòng Chúa
Cứu Thế luôn xác định rằng bên dưới ba tấc đất là sự hiện diện,
sự quan phòng của Thiên Chúa hằng sống. Chúng tôi không vì miếng
đất mà lại bán rẻ lương tâm Công Giáo của chúng tôi được giáo
huấn từ Thiên Chúa, từ Giáo Hội của Ngài. Chúng tôi sống cho một
lý tưởng cao đẹp, cho một niềm tin sắt son vào Chúa chứ không
bao giờ sống với cái lý tưởng tồi tệ là chỉ vun vén cho đầy túi
tham của mình như một số người chẳng hề tin có Thiên Chúa, tin
có đời sau.
Tiếc thay cho
những hành vi bất nhẫn của họ thôi. Chúng tôi vẫn tôn trọng thái
độ vô thần của những người không tin có Thiên Chúa nhưng xin
nhắc cho rằng phải cư xử sao cho có công bằng, công lý với những
người tin vào Chúa. Đừng đợi đến ngày phán xét nhưng ngay trong
đời tạm này Thiên Chúa sẽ có cách nhãn tiền trước những người
tán tận lương tâm. Hãy đợi đấy ! Bán rẻ lương tâm, bán rẻ đạo lý
của con người lẽ nào được bình chân như vại như những người cả
đời tín thác vào Thiên Chúa, vào Đấng luôn hứa ban bình an cho
chúng tôi.
Thật ra,
Thiên Chúa có mặt, Thiên Chúa hiện diện từ muôn đời muôn thuở
nhưng con người vì lý do này lý do khác, bằng cách này cách khác
cố tình chối bỏ Ngài nhưng làm sao có thể lấp liếm được sự hiện
hữu của Ngài. Không chấp nhận sự hiện hữu của Ngài cũng được -
với những người vô thần – nhưng xin đừng tán tận lương tâm để
chà đạp, để đàn áp những con người luôn tín thác, luôn xác tín
rằng đời họ LUÔN LUÔN CÓ CHÚA ở kề bên !
Lm. Anmai, C.Ss.R.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
QUAN HỆ
GIỮA NHO GIÁO VÀ CÔNG GIÁO Ở VIỆT NAM |
Nếu tính năm
sinh của người sáng lập ra Nho giáo và Công giáo thì Nho giáo
có trước Công giáo cả 5 thế kỷ. Còn nếu tính thời gian các tôn
giáo này có mặt ở Việt Nam thì Nho giáo đến trước những 14 thế
kỷ. Trong mối quan hệ giữa hai đạo này, nhiều người chỉ biết đó
là những tôn giáo đối chọi, loại trừ nhau mà chưa biết chúng
cũng có những mối quan hệ gần gũi, thân thiết với nhau. Dưới
đây, chúng tôi xin trình bày mối quan hệ của 2 tôn giáo này ở
nước ta.
Ai cũng biết,
Nho giáo do Khổng Tử (551-479 tr.CN) sáng lập và vào Việt Nam
từ thời quan thái thú Nhâm Diên và Tích Quang, khoảng năm 225.
Rõ nhất là với sự xuất hiện của Sĩ Nhiếp, người đã mở trường dạy
học ở Luy Lâu (Thuận Thành, Bắc Ninh) để truyền bá Nho học. Còn
đạo Công giáo do Đức Giê su sáng lập những năm đầu của thế kỷ
thứ I. Sử sách nước ta có ghi nhận là năm 1533 có giáo sĩ ngoại
quốc đến giảng đạo tại Ninh Cường, Trà Lũ ( thuộc tỉnh Nam Định
ngày nay). Nhưng trước khi vào việt Nam , 2 tôn giáo này đã có
những va chạm , căng thẳng ở Trung Quốc. Lúc đó, ở Trung Quốc có
giáo sĩ dòng Tên, dòng Phan xicô và dòng Đa minh đến truyền
giáo. Các giáo sĩ dòng Tên vốn thoáng hơn và cũng muốn để có
nhiều người theo đạo công giáo nên không buộc người theo đạo
công giáo phải từ bỏ những nghi lễ thờ cúng tổ tiên, thờ kính
Khổng Tử. Vua quan triều đình Bắc Kinh bấy giờ cũng rất kính nể
các giáo sĩ dòng Tên vì họ rất am hiểu nhiều lĩnh vực khoa học
và được vời vào triều giúp vua. Ngược lại các giáo sĩ dòng Đa
minh, dòng Phan xi cô lại bảo thủ hơn nên cực lực phản đối việc
làm của các giáo sĩ dòng Tên cho rằng làm như thế là rối đạo vì
việc thờ cúng tổ tiên hay Khổng Tử là một hành vi tôn giáo. Họ
cho người báo về Roma, Giáo hoàng Innocentê X đã ký một sắc
lệnh ngày 12-9-1645 cấm không cho người công giáo được tiến hành
các nghi lễ thờ cúng tổ tiên và Khổng tử vì như vậy là ngược với
giáo lý đạo công giáo. Ai bất tuân sẽ bị phạt vạ… Thấy thế, dòng
Tên cũng cho người về Roma thuyết trình cho rằng các nghi lễ thờ
cúng tổ tiên, thờ kính Khổng Tử hoàn toàn không mang tính tôn
giáo mà chỉ bày tỏ tình hiếu thảo của con cháu với ông bà hoặc
với các bậc danh nhân mà thôi. Vị Giáo hoàng mới là Alexandro
VII đã xem xét lời đề nghị của dòng Tên nên lại ký một sắc lệnh
ngược với tinh thần của sắc lệnh 12-9-1645 nhưng với điều kiện
là “trình bày đúng sự thật”. Thế là một cuộc tranh cãi về “nghi
lễ Trung Hoa” kéo dài hơn một thế kỷ, qua 10 đời Giáo hoàng và
bi kịch đã xảy ra. Ngày 8-4- 1705 khi vị đặc sứ của Toà thánh là
Giám mục (sau đó là Hồng y) M. de Tournon đén Trung Quốc và
truyền hạ tấm biển có ghi chữ “ Kính Thiên” do chính vua Khang
Hy thủ bút treo trên mặt tiền nhà thờ Bắc kinh và công bố Tông
hiến Ex illa die của Toà thánh ký ngày 20-11-1704 mà nội dung là
cấm dùng chữ Thiên hay thượng đế để chỉ Thiên chúa, cấm treo
trong nhà thờ chữ Kính Thiên, cấm cúng tế ông Khổng Tử, ông bà
cha mẹ, cấm đặt bài vị trong nhà riêng thì vua Khang Hy lập tức
ra lệnh trục xuất các giáo sĩ, triệt phá nhà thờ và cấm dân theo
đạo công giáo. Theo số liệu của giáo hội , lúc đó ở Trung Quốc
đã có 30 vạn tín hữu công giáo nhưng sau Tông hiến Ex illa die
thì 90% đã phải bỏ đạo.(1). Nhằm cứu vãn tình thế, Giám mục Bắc
kinh lúc đó là A. Mezzabarba đã ra một bản Thông cáo nới rộng 8
điểm ngày 4-11-1721 cho phép cúng tế ông Khổng tử, cho bái lạy,
đặt cỗ bàn, hoa trái trước xác người chết…nhưng bản Thông cáo
này đã bị Giáo hoàng Clêmente bác bỏ. Đến đời Giáo hoàng
Bêndicto XIV, lại thêm một Tông chiếu nữa bác bỏ nghi lễ Trung
Hoa vì cho rằng nó hoàn toàn ngược với giáo lý đạo công giáo.
Nhiều nhà nghiên cứu của Giáo hội công giáo cho rằng trong điều
rủi có điều may. Chính sự cấm đoán đạo công giáo ở Trung Quốc và
Nhật Bản lúc bấy giờ mà nhiều giáo sĩ đã phải chạy qua Việt Nam
để truyền giáo. Tuy nhiên, lúc đó cũng là giai đoạn bành trướng
của chủ nghĩa thực dân. Khẩu hiệu “ Hương liệu, hạt tiêu và các
linh hồn’ đã nói lên sự gắn kết giữa chế độ thực dân và đạo công
giáo . Cộng với sự khác biệt, đối lập về tín ngưỡng văn hoá, đạo
công giáo cũng vấp phải sự chống đối ở Việt Nam. Trong một chiếu
thư năm 1804, vua Gia Long viết:” Lại như đạo Gia tô mới xâm
nhập vào nước ta, đặt ra thuyết thiên đường, hoả ngục khiến cho
kẻ ngu phu, ngu phụ chạy vạy như điên, tiêm nhiễm thành quen mê
mà không biết” (2). Còn phong trào Văn Thân mà nhất là cuộc khởi
nghĩa năm Giáp Tuất 1874 do Trần Tấn, Đặng Như Mai, Trần Quang
Cán lãnh đạo đã đưa ra khẩu hiệu “ Bình Tây, sát tả” và ra lời
hịch kêu gọi như sau:
“Than ôi, đạo
dối Giê su đã xâm nhập vào nước ta, lời cầu nguyện của họ chỉ
tin vào Chúa trời và Thánh thần
Giáo lý
của họ dạy rằng trên trái đất này chẳng có vua, chẳng có cha mẹ.
Lập luận
của họ vừa vô lý vừa ngược đời
Tư cách
của họ đầy rẫy sự kiêu ngạo. Họ cướp đoạt đất đai phì nhiêu để
xây dựng nhà thờ cho đạo dối.
Về mặt đạo
lý họ tìm cách làm băng hoại nước ta để biến nước ta thành nước
công giáo. Họ làm nhục đạo lý Khổng Mạnh “(3).
Nhà Nho và
cũng là nhà thơ lớn của Việt Nam hồi thế kỷ XIX Nguyễn Đình
Chiểu đã từng thốt lên lời nguyền rất kiên quyết của Nho gia
với đạo công giáo: “Thà đui mà giữ đạo nhà, còn hơn có mắt ông
cha không thờ”.
Trong tình
hình lúc đó, dĩ nhiên các giáo sĩ đến nước ta truyền đạo cũng
không thể đi xa hơn lập trường của giáo hội công giáo bấy giờ.
Họ cũng lên án Nho giáo cho đó là tà đạo. Alexandre de Rhodes
tên Việt thường gọi là Đắc Lộ ( 1593-1660), một người rất có tư
tưởng tiến bộ trong hàng giáo sĩ ngoại quốc có mặt tại Việt Nam
bấy giờ. Ông có nhiều công lao trong việc xây dựng lên chữ quốc
ngữ. Mặc dù đến từ ngoại quốc nhưng ông không kỳ thị nước lạc
hậu mà lại luôn khen ngợi đất nước, con người Việt Nam. Ông viết
:” Có một điều rất thông dụng đó là sự trân trọng Hán học.
Không có người nào dù cao trí hay thấp kém mà không cho con cái
theo học bí mật của chữ từ khi nhỏ tuổi. Vì thế trong nước này,
người nào cũng biết vọc vạch một vài chữ và không ai là hoàn
toàn mù chữ”(4). Một giáo sĩ khác là F.Buzomi , người
Italia, đặt chân lên xứ Đàng Trong rất sớm, ngày 18-1-1615 cũng
có những nhận xét tốt về đất nước này, ônng viết:” Nhờ Khổng
giáo, xã hội và gia đình Việt Nam đã có một tổ chức rất cao,
người dân Việt Nam có những đức tính, phong tục rất đáng khâm
phục, nó đã giúp rất nhiều vào công cuộc truyền giáo”. F.Buzomi
viết tiếp:” Người Việt không nghiêng về văn chương, tính tình
không thâm hiểm như người Tàu. Họ không quá nghiêng về quân bị ,
tính tình không độc ác như người Nhật, dễ nghe, dễ tin và nhiều
mê tín nhưng người dân Việt dễ nhận ra lẽ phải, không kiêu căng
hay tự tin như người Tàu “(5). Có những người đã đặt ra
những câu hỏi rất tiến bộ là :” Tôi biết bởi đâu, đất nước này
rất đẹp lại
không được biết tới. Bởi đâu các nhà địa lý châu Âu không biết
đến tên gọi và gần như không ghi trong bản đồ nào cả, tuy họ
chép đầy đủ tên các nước trên thế giới” (6).
Trở lại quan
niệm của đạo công giáo với Nho giáo ở Việt Nam, mặc dù có những
tư tưởng tiến bộ như trên, nhưng do đứng trên lập trường của
Giáo hội bấy giờ, nên các giáo sĩ cũng đều cho Nho giáo cũng như
các tôn giáo khác ở Việt Nam lúc đó như Phật giáo, Lão giáo là
đạo dối, là tà đạo cả. Trong một cuốn sách viết bằng chữ quốc
ngữ sớm nhất “Phép giảng tám ngày”, in ở Roma năm 1651, A.
Rhodes viết:” Song le Đại minh vốn có thể phân ra ba đàng cả…
Đàng thứ nhất là đàng về kẻ hay chữ gọi là đạo Nho. Đàng thứ hai
là đàng kẻ thờ quỷ mà làm việc dối , gọi là Đạo. Đàng thứ ba là
đàng kẻ thờ Bụt gọi là đạo Bụt. Sự đàng sau bởi nước India mà
ra”(7). Các giáo sĩ cho rằng Khổng Tử là một triết gia đáng
kính nhưng có tôn kính thì cũng như tôn kính thày giáo mà thôi
cho nên có thẻ bỏ mũ nón, cúi đầu bái chào chứ không được thờ
lạy vì Khổng Tử không phải là một thánh nhân , theo logic của
các giáo sĩ thì nếu là thánh nhân đương nhiên phải biết Đức chúa
trời dựng lên trời đất muôn vật. A. Rhodes viết:” Người Đàng
Ngoài gọi ông là thánh nhân, nhưng vô lý và trái lẽ vì như chúng
tôi đã thuyết phục họ. Bởi vì theo tôi, nếu người được gọi là
thánh nhân thì Ngài phải biết Đức chúa trời dựng lên trời đất”
(8).
Trong một lá
Thư chung nói về ác việc dối trá của Giám mục Pierre Marie Đông
viết bằng chữ Nôm ở thế kỷ XVIII có ghi rõ: Những đối tượng
không được thờ cúng là ma quỷ ,những đấng sáng lập ra đạo khác
như Đức Khổng Tử, Đức Phật, ông bà ông vải ; cấm đến đền chùa,
đình làng có thờ thần, không được bày cỗ cúng với xác tín rằng
người chết về ăn của cúng; không được tin mồ mả đất cát, hướng
nhà, bói toán may rủi…Bên công giáo cũng lưu truyền một cuốn
sách có tên là “Hội đồng tứ giáo” viết bằng Hán Nôm nhưng được
dịch ra chữ quốc ngữ và tái bản nhiều lần, 15 lần ở nhà in Tân
Định trong khoảng những năm 1887-1915 và 12 lần in ở Thái Bình
năm 1953. Nội dung nói về cuộc tranh luận của đại diện 4 tôn
giáo lúc đó là Nho, Đạo. Phật và đạo Chúa tức Công giáo về ba
vấn đề lớn là con người ở đâu ra? Sống phải làm gì? và chết đi
về đâu? Đại diện Nho giáo dựa theo thuyết Thái cực cho rằng vạn
vật do âm dương tán tụ mà thành, sống ở đời phải tu theo ngũ
đức, nhân nghĩa lễ trí tín, phải giữ ngũ luân , quân thần, phụ
tử, phu phụ, huynh đệ, bằng hữu. Cò nếu sống là tụ thì chết sẽ
là tán tức chết là hết không đi về đâu cả .Đại diện công giáo là
hai linh mục trình bày vấn đề theo giáo lý của đạo cho rằng mọi
vật trên trái đất kể cả con người đều do Chúa dựng lên, người
công giáo phải giữ Thập giới (10 điều răn), phải giữ Thất quy (
7 phép Bí tích) và 4 điều sau hết là sự chết, sự phán xét, Thiên
đàng và Địa ngục. Sau đó đại diện công giáo lại đưa ra lập luận
sắc sảo theo lối tam đoạn luận để bác bỏ những giáo lý của các
tôn giáo khác trong đó có Nho giáo về những vấn đề nêu ra. Chẳng
hạn Nho giáo nói chết là hết vậy mà còn có câu “hồn khí quy vô
thiên”? Hay Nho giáo quan niệm là phúc đức do chính bản thân tu
luyện mà có vậy tại sao còn bảo “phúc phận tại thiên”?…Cuố cùng,
chỉ có lý lẽ của đạo công giáo là thuyết phục và đáng tin. Dĩ
nhiên, ngày nay ngay các nhà nghiên cứu công giáo cũng nghi ngờ
tính chân thực của tác phẩm này và cho rằng đó là loại sách minh
đạo có tính hư cấu và nhiều quan niệm rất sai lạc nhất là đối
chiếu với tinh thần công đồng Vaticanô 2 . Nhưng dù sao nó cũng
nói lên được mối quan hệ giữa công giáo và Nho giáo ngày ấy (9).
Như vậy có
thể thấy thái độ bài xích, phủ nhận của công giáo đối với Nho
giáo ở Việt Nam nhất là giai đoạn ban đầu mới du nhập . Đương
nhiên Nho giáo cũng chẳng thể mặn mà gì với công giáo. Song nếu
chỉ có thế thì chẳng có gì đáng nói. Giữa Nho giáo và Công giáo
ở Việt Nam còn có một quan hệ gắn bó thân thiết nữa.
Trước hết là
những nhận xét tích cực của các giáo sĩ công giáo về Nho giáo mà
chúng ta đã trích dẫn ở phần trên. Sau nữa, nếu tìm hiểu kỹ,
ngay một tên gọi của đạo công giáo rất hay dùng là Thiên chúa
giáo cũng có liên quan đến Nho giáo. Tại trung Quốc khi dịch từ
Deus là tiếng Latinh chỉ Đấng tạo thành vũ trụ, người ta không
biết dùng từ gì cho thích hợp nên gọi là Teou-se (không có
nghĩa, giống như ở Việt Nam có lúc dịch là Chúa Dêu). Ba từ khác
có nghĩa gần là Thiên Chủ, Thượng Đế và Thiên nhưng từ thứ hai
Thượng Đế thì Nho giáo đã dùng để chỉ Trời rồi còn chữ Thiên thì
chỉ mang nghĩa bầu trời xanh thôi nên các giáo sĩ đã chọn từ
Thiên Chủ. Từ này được du nhập vào Việt Nam. Hiện ở thư viện
Vatican còn lưu một bức thư viết năm 1630 do giáo dân viết gửi
Toà thánh có ghi :” Tự Thiên chủ giáng sinh chí kim nhất thiên
lục bát tam thập niên”(10). Năm 1584, khi giáo sĩ Ruggiori viết
cuốn giáo lý có nhân đề “Thiên chúa thực lục chính văn” , rồi
đến năm 1603, Ricci Mattheo cho phát hành cuốn “ Thiên chúa thực
nghĩa” thì danh từ Thiên chúa được chính thức thừa nhận. Một số
học giả giải thích rằng, chữ “chủ” mới bao hàm người đứng đầu,
người cai quản, còn chữ “chúa” có thêm cả nghĩa người được tôn
thờ nữa ví dụ ngày chủ nhật là ngày đầu tuần, còn ngày chúa nhật
là ngày của Chúa, ngày tôn thờ Chúa.
Ngày nay
người ta đã tìm thấy khá nhiều tài liệu qua các sách vở, thư từ
của các giáo sĩ công giáo, dù đến từ phương Tây nhưng lại khá am
tường về triết lý Khổng Mạnh. Đây là một điều rất đáng quan tâm.
Chẳng hạn Giám mục Hermosile, năm 1858 đã gửi một Thư chung cho
giáo dân địa phận Đông Đàng Ngoài, trong đó có viết:” Phép nhất
phu nhất phụ trong ba giềng mối quan hệ hất trong thiên hạ
quen gọi là tam cương là vua vuối kẻ bầy tôi, chồng vuối kẻ làm
vợ, cha vuối kẻ làm con, hệ luỵ giềng mối tháo thứ thì thiên hạ
loạn lạc, khổ sở cùng các giống tội lỗi khác, chẳng tệ nào
bằng…” Rồi dựa vào nguyên tắc xử thế “tu thân , tề gia, trị
quốc, bình thiên hạ” của Nho giáo, lá thư viết tiếp:” Suy
bấy nhiêu điều thì biết tỏ bậc phu phụ ca hệ là nhường nào,
dù kẻ làm vua muốn trị một nước, thì trước nên sửa sang cửa nhà
mà hệ vợ chồng sửa sang bậc mình cho phải phép, phải đạo vợ
chồng thì gia đình được bằng yên, con cái sẽ học nết cha mẹ,
trong nhà sẽ giữ việc hiếu, ra ngoài sẽ biết giữ điều hoà mục
thì biết lợi ích thiên hạ là dường nào”(11). Nhiều bản kinh bên
đạo công giáo cũng dùng bằng chữ Hán như “Kinh cầu đức Bà”
quen gọi là kinh “Phục dĩ chí tôn” là một áng Hán văn rất nổi
tiếng được nhiều nhà Nho ca ngợi. Điều lý thú là mặc dù các giáo
sĩ công giáo qua nhiều thế hệ đẫ cùng với một số người Việt Nam
hoàn thiện quá trình latinh hoá chữ Việt thành chữ quốc ngữ được
hiều nhà chí sĩ yêu nước cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX hết sức
cổ vũ, tán dương nhưng chính đạo công giáo cũng là nơi duy trì,
bảo tồn chữ Hán, chữ Nôm chứ không phải triệt phá những chữ
truyền thống này như có người nghĩ. Ngay cả khi Thống sứ Bắc Kỳ,
năm 1910 ra quy định bắt buộc các đơn từ phải dùng chữ quốc ngữ,
các kỳ thi cũng phải dùng chữ quốc ngữ thì Giám mục Pierre
Munaggori (tên Việt là Trung) ở Bùi Chu vẫn gửi một thư đề ngày
7-10-1910 kê những sách mà chủng sinh phải học gồm Ngũ thiên
tự, Tam thiên tự , Nhất thiên tự, Nam sử lược,Từ hàn, Cửu chương
và ghi thêm:” ấy là những sách Thày chỉ phải học, còn khi cậu
nào đã học đủ các sách ấy rồi, có muốn học sách khác thì mặc ý.
Cộng đến cuối kỳ thi khảo, thì cứ những sách Thày ghi trên này
mà ra bài thơ, phú, tuỳ bài văn sách, lại khi ấy cũng phải làm
một bản từ hàn nữa tuỳ nghi (12). Giám mục P.M Gendreau (tên
Việt là Đông) cũng đã cho xuất bản khoảng 40 tác phẩm bằng Hán
Nôm và chỉ thị cho các xứ phải tìm những thày đồ dạy cho học
sinh , còn các tiểu chủng viện phải học mỗi tuần một tiết chữ
Hán. Bên công giáo cũng để lại một kho tàng Hán Nôm đồ sộ với đủ
thể tài như Truyện, Thư từ, Từ điển, Câu đối, ca vè…Riêng linh
mục Majorica đã soạn tới 42 tác phẩm “ Các Thánh truyện” với
khoảng 1.200.000 chữ được viết trong khoảng 1632-1656 và hiện
vẫn còn lưu giữ ở Thư viện quốc gia Paris (Bibliotheque
Nationale de Paris). Viện nghiên cứu Tôn giáo vừa tổ chức cuộc
hội thảo khoa học “Tư liệu Hán Nôm viết về công giáo “ hồi cuối
tháng 5-2003 cũng đã khẳng định điều đó.
Một khía cạnh
khác là có rất nhiều người công giáo kể cả linh mục, giám mục
cũng đã xuất thân từ “cửa Khổng sân Trình”. Có thể kể ra những
tên tuổi như Nguyễn Trường Tộ (1830-1871). Mặc dù phải sống
trong hoàn cảnh rất phức tạp, triều đình nhà Nguyễn cấm đạo gắt
gao nhưng ông vẫn gửi lên triều đình 58 bản điều trần tâm huyết
những mong canh tân đất nước. Nhiều vấn đề ông nêu vẫn còn có
tính thời sự đến hôm nay như vấn đề chống tham nhũng, buôn lậu.
Cùng thời điểm này còn có các nhà cải cách như linh mục Đặng Đức
Tuấn (1806-1874) cũng dâng lên triều đình bản “Minh đạo bình Tây
sách”, rồi “ Hiến bình Tây sách”…Rồi sĩ phu Đinh Văn Điền ở Ninh
Bình cũng hiến kế “ Đặt doanh điền, đóng tàu thuỷ, khai mỏ
vàng,lập ra Ty bình chuẩn để lưu thông hàng hoá…” Một câu hỏi
được đặt ra, phải chăng vì là người công giáo nên dù là nhà nho,
những vị trên vẫn không bị ràng buộc bởi tư tưởng phong kiến bảo
thủ của vua quan nhà Nguyễn bấy giờ? Lịch sử cũng ghi nhận nhiều
tấm gương yêu nước của các linh mục, giáo dân nhưng vốn theo nho
học. Linh mục Đậu Quang Lĩnh (1867- 1919) ở Hà Tĩnh vốn thạo Hán
văn nên được Nhà chung giao cho việc dịch các tác phẩm của Lương
Khải Siêu và Khang Hữu Vi để giáo hội tham khảo. Khi tham gia
Duy tân hội của Phan Bội Châu, ông bị bắt và bị đày đi Côn Đảo 9
năm. Cai ngục hỏi ông: Sao đã là linh mục rồi mà còn đi làm
giặc? Ông khẳng khái trả lời bằng một câu đối:
Vì người da
trắng ư? Sống trên giảng đài, nơi pháp trường, khi ngọt, khi
cay,
khi sấm sét chỉ là phận công dân đều trách nhiệm.
Đều giống
da vàng cả! Vô số bậc nhân thân chí sĩ, bị đày, bị tù, bị đổ
máu, lẽ nào bọn chúng tôi không biểu đồng tâm.(13).
Điều rất đáng
ghi nhận là dù là giáo sĩ cao cấp như Giám mục Hồ Ngọc Cẩn
(1876-1948) nhưng văn phong, lối sống của họ vẫn giữ được cốt
cách của một nhà Nho. Vị Giám mục này đã từng ủng hộ cả dây
chuyền vàng cho chính phủ kháng chiến, được Hồ Chí Minh mời ra
làm cố vấn cho chính phủ. Giám mục Hồ Ngọc Cẩn đã viết cả trăm
tác phẩm trong đó có cuốn “Triết nhân tri kỷ” thấm đẫm triết
lý phương Đông. Tại đây có thể gặp rất nhiều câu quen thuộc
“ sinh ký tử quy”, “ Vô nguyên nhân bất thành công hiệu”…
Ngược lại ,
nhiều nhà Nho cũng đã có tìm hiểu về đạo công giáo và có nhiều
nhận định khá xác đáng. Nhà bác học Lê Quý Đôn (1726-1784) khi
đi sứ Trung Quốc năm 1760, ông đã có điều kiện tiếp xúc với
những giáo sĩ công giáo ở đây và viết khá kỹ về họ trong “ Vân
đài loại ngữ” với lòng khâm phục. Ông viết :” Năm Vạn Lịch thứ
30 (1602) đời vua Minh Thần Tông, có người nước đó tên là Lợi
Mã Đậu cùng với đồng bọn…năm sáu người từ Quảng Đông vào đất
Mân, lên Kim Lăng, tự xưng là người Âu La Ba, đường xa mười vạn
dặm, vượt biển chín năm mới tới nơi. Họ đưa cho xem thiên lý
kinh, đồng hồ báo thức, hồn thiên nghi, lượng thiên xích, câu cổ
pháp, phép tính thời gian, phép đo độ số, phép xem bóng mặt
trời, phép xem sao. Họ bàn về lý khí, lịch số rất tinh tường,
được các quan lớn ở tính tôn trọng gọi là Tây nho, là Tây thổ
thánh nhân. Do đó họ được tư giấy về Bắc Kinh để tiến cử lên
vua” (14). Ông nói về giáo lý của đạo công giáo khá chính
xác:” Nước Đại Tây dương về phía Tây Trung Quốc cách xa sáu vạn
dặm. Tên đất gọi là âu Hải quốc… nhân dân đều thờ Thiên chúa,
không ai biết ở Trung Quốc có đạo Hồi, đạo Thích, đạo Lão. Thiên
chúa là chúa tể trước tiên, sỉnh ra người, sinh ra vật. Họ làm
miếu để thờ chung” (15).
Một nhà Nho
yêu nước nổi tiếng giai đoạn cận hiện đại là Phan Bội Châu
(1867-1940) cũng có những quan niệm rất tiến bộ về công giáo so
với những nhà nho đương thời nhất là nhóm Văn Thân.Ông viết :”
Đồng bào công giáo đều là anh em ta cả… Mờy mươi năm nay ,
người Pháp nghiêm hình trọng phạt, có một thứ nào rộng rãi cho
người Datô đâu! Tiền sưu, tiền thuế bao nhiêu không hề bớt một
đồng nào cho người theo đạo công giáo cả” (16). Chính vì vậy ông
chủ trương kêu gọi lương giáo đoàn kết. Nhiều người công
giáo đã gia nhập tổ chức Duy tân hội của ông như Mai Lão Bạng,
Lê Khanh, các linh mục Nguyễn Tường, Đậu Quang Lĩnh, Nguyễn Thần
Đồng…Ông cũng khẳng định: “ Giáo dân nào không chịu giúp
người Pháp để làm hại nước Việt Nam mới là dân của Chúa Cứu
thế, mới là đồng bào của nước Việt Nam” (17). Khi chữ quốc ngữ
ra đời, nhiều học giả vốn là Nho gia lại hết sức ủng hộ việc
truyền bá thứ chữ này. Nhà nghiên cứu Dương Quảng Hàm đã nhận
xét:” Các giáo sĩ người Âu đã đặt ra chữ quốc ngữ, chủ ý là
có được một thứ chữ để viết tiếng ta cho tiện và dùng trong việc
truyền giáo cho dễ. Không ngờ rằng, vị thế lịch sử xui khiến,
chữ ấy nay đã thành thứ văn tự phổ thông của cả dân tộc Việt
Nam. Đành rằng, cũng như các công trình do người ta sáng tạo ra,
thứ chữ ấy cũng có vài khuyết điểm, nhưng ta nên nhận ngay rằng
ở trên hoàn cầu này không có thứ chữ nào tiện lợi và dễ học bằng
thứ chữ âý “ (18). Sự tiện lợi của chữ quốc ngữ đã được thực
tế chứng minh. Muốn đọc thông viết thạo chỉ cần vài tháng học
chữ. Còn nếu muốn học được tối thiểu 1200 chữ Hán để đọc được,
viết được phải mất một năm đèn sách. Chữ Nôm còn khó hơn nữa.
Vì vậy trong chiến dịch chống giặc dốt từ năm 1946 đến 1954 đã
có 10 triệu người được xoá nạn mù chữ. Cho nên dễ hiểu vì sao
các chí sĩ của nhóm Đông kinh nghĩa thục đã coi việc dùng chữ
quốc ngữ là một trong sáu kế sách để mở mang dân trí. Nhóm này
kêu gọi :” Gần đây mục sư người
Bồ Đào Nha chế ra chữ quốc ngữ, lấy 20 chữ cái châu Âu, phối hợp
với 6 âm, 11 vần đánh theo lối hoà thanh mà đạt tiếng ta rất là
giản dị nhanh chóng. Phàm người trong nước, đi học nên lấy chữ
quốc ngữ để ghi việc đời xưa, chép việc đời nay và thư từ thì
chuốt lời và đạt ý. Đó thật là bước đầu trong việc mở mang trí
khôn vậy “ (19).
Một người
cũng học sách thánh hiền và trở thành người cộng sản , và là
lãnh tụ của đảng cộng sản Việt Nam - Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng
đã có hàng trăm bài viết về đạo công giáo. Ông thấy rõ giá trị
nhân văn của đạo công giáo, đó là lòng bác ái cao cả và nguyện
xin làm người “học trò nhỏ” của các vĩ nhân thế giới trong đó có
Chúa Giê su. Ông cũng thấy được truyền thống yêu nước của người
theo đạo, biết chăm lo đến nhu cầu của các tín đồ để tập hợp ,
đoàn kết họ lại trong lực lượng cách mạng. Người viết:” Tín đồ
Phật giáo tin ở Phật; tín đồ Gia tô tin ở Đức Chúa trời; cũng
như chúng ta tin ở đạo Khổng. Đó là những vị chí tôn chúng ta
tin tưởng. Nhưng đối với dân, ta đừng có làm gì trái ý dân. Dân
muốn làm gì ta phải làm nấy” (20).
Sau cách mạng
tháng Tám năm 1945, Nho giáo không còn là ý thức hệ của tầng lớp
lãnh đạo nữa và Nhà nươc cũng chủ trương bình đẳng giữa các tôn
giáo. Về phía công giáo cũng có sự canh tân nhất là sau công
đồng Vaticanô 2, giá trị các tôn giáo khác, các nền văn hoá khác
đều được tôn trọng chứ không bị kết án loại trừ như trước đây.
Đồng thời giáo hội luôn cổ vũ cho tiến trình đối thoại với các
tôn giáo, các nền văn hoá. Đó là một quan điểm tiến bộ, phù hợp
với xu thế của thời đại. Tuy nhiên, việc nghiên cứu quan hệ giữa
Nho giáo và đạo công giáo ở Việt Nam cũng cho ta thêm một lý do
để hiểu vì sao cùng bị ảnh hưởng của Nho giáo như Trung Quốc,
Triều Tiên, Nhật Bản mà tại Việt Nam, tôn giáo này vẫn bám được
khá nhanh và phát triển mạnh trở thành nước có số tín đồ lớn ở
Đông Nam châu á chỉ sau Philippin và Đông Timor.
Hà Nội, ngày
10-8-2008
T.S Phạm Huy
Thông
Chú thích:
1-
Bùi Đức Sinh: Lịch sử Giáo hội, tập 2, NXB
Chân Lý, SG.1972, tr.135
2-
Đại nam thực lục chính biên, Nxb Sử học H.
1963, tr.168
3-
Dẫn theo Đỗ Quang Hưng: Lịch sử đạo Thiên
chúa ở VN, ĐHTH Hà Nội,1991, tr.56
4-
A.Rhodes : Lịch sử vương quốc Đàng Ngoài,
Tủ sách Đại kết 1994, tr.27
5-
Dẫn theo Nguyễn Hồng: Lịch sử truyền giáo ở
VN, tập 1, Hiện tại, SG 1959, tr.57
6-
A.Rhodes : Hành trình truyền giáo , Tủ sách
đại kết 1994, tr.62
7-
A.Rhodes: Phép giảng tám ngày, Tủ sách đại
kết 1993, tr.104-105
8-
A. Rhodes : Lịch sử vương quốc Đàng Ngoài,
sdd, tr.39
9-
Xem Nguyễn Hưng: Sơ thảo thư mục Hán Nôm
công giáo VN, Lưu hành nội bộ năm 2000, tr.184
10- Dẫn
theo Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo số 6-2001, tr.30
11- Những
thư chọn trong các thư chung, Nhà in Kẻ Sặt 1903, tập 2
12- Dẫn
theo Nguyễn Hưng, sdd, tr.213
13-
Thi tù tùng thoại, Nxb Tiếng Dân, Huế 1939
(bản dịch của Huỳnh Thúc Kháng)
14,15- Theo
Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo số 6-2001
16,17- Phan
Bội Châu: Việt Nam quốc sử, Nxb Văn Sử Địa, H.1958, tr.80 và 83
18- Việt Nam
văn học sử yếu, SG.1960, tr.180
19- Văn tuyển
văn học Vn 1858-1930, Nxb Giáo dục 1980, tr.180
20- Hồ Chí
Minh, toàn tập, tập IV, H.1985,tr.148.
Tiến sĩ Phạm Huy Thông
|
VỀ MỤC LỤC |
|
HiỆp nhẤt và nâng đỠ nhau |
Tác
Phẩm CHÚA VẪN
THƯƠNG
Lm. MICAE-PHAOLÔ TRẦN MINH HUY pss
5.
HiỆp nhẤt và nâng đỠ nhau
Hãy có sự đồng lòng trọn
vẹn. Hãy làm im đi những tị hiềm của bạn. Bạn hãy ngắm nhìn chiếc
hoa hồng, đừng dừng lại nơi chiếc gai. Bạn hãy nhìn cao hơn một chút
nữa, chiếc hoa hồng, bạn thấy nó đẹp làm sao! Bạn hãy yêu thương,
người này chậm chạp, người kia nhanh nhẹn, người này sôi nổi hăng
hái, người kia cứ thủng thỉnh mà đi. Hãy tôn trọng lẫn nhau. Hiệp
nhất trong khác biệt, phong phú trong đa dạng.
Chúa yêu bạn, và bạn thế
nào Chúa yêu bạn thế ấy. Bạn hãy trở lên giống như Chúa: Chúa yêu
những người năng nổ cũng như Chúa yêu những người thận trọng, Chúa
yêu tất cả mọi tín hữu, thuộc về tất cả mọi giáo hội, Chúa không hề
phân biệt, không hề ngăn cản. Chúa kêu gọi mọi người đến từ những
giáo hội khác nhau, thuộc về các giáo đoàn khác nhau, nhưng mọi
người hãy yêu thương nhau.
Bạn hãy vui luôn trong
niềm vui của Chúa. Hãy vui lên, sao cho mọi người thấy bạn sống hiền
hòa rộng rãi. Chúa đã đến gần, bạn đừng lo lắng gì cả. Trong mọi
hoàn cảnh, bạn cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn mà giải bày
trước mặt Chúa điều bạn thỉnh nguyện. Và Bình An của Thiên Chúa,
vượt lên trên mọi hiểu biết, sẽ giữ cho lòng trí bạn được kết hợp
với Chúa.
Chúa đang ở với bạn, bạn
đừng sợ gì hết, Chúa xin bạn sự bạo dạn. Tại sao bạn sợ Chúa? Bạn sợ
cái Chúa xin bạn sao? Có bao giờ Chúa để kẻ đến với Chúa trở về tay
không đâu? Chúa có phải là Thiên Chúa từ chối sự sống đâu! Một lần
nữa, Chúa yêu cầu bạn hãy coi trọng Lời Chúa. Chúa đến để ban sự
sống và Sự Sống Dồi Dào. Đó chính là cái mà Chúa muốn ban cho bạn,
trong bất cứ hoàn cảnh nào bạn phải trải qua.
Chính vì vậy mà Chúa bảo
bạn hãy vui mừng trước đi, và dám xin Chúa sự sống dồi dào, dưới mọi
hình thức. Chúa đã không bắt đầu làm cho rượu tuôn chảy trong tiệc
cưới đó sao? Chúa cũng có thể làm như vậy cho bạn. Ngay cả khi đó
không phải là chương trình ban đầu của Chúa, ngay cả khi Chúa không
lường trước yêu cầu mà bạn có thể xin Chúa chiều nay. Mẹ Chúa đã làm
cho chương trình của Chúa đi trước giờ, ở Cana. Bạn hãy có sự bạo
dạn đối với Chúa, trong bất cứ hoàn cảnh sống nào của bạn, của
những người thân của bạn, và của tất cả những ai chung quanh bạn.
Hỡi bạn, bạn đừng quên
rằng bạn đang ở trong nhà Chúa, như vậy bạn được đầy tràn Chúa. Bạn
đừng làm như thể bạn ở ngoài nhà của Cha. Bạn không cô đơn, Chúa
không bỏ mặc bạn đâu. Bàn tay của Chúa Cha ở trên bạn, không gì vượt
khỏi tay của Chúa Cha: những ước muốn, những nhu cầu, những nhu cầu
khẩn thiết của bạn. Hãy tin chắc vào Chúa Cha cũng như Chúa Giêsu
tin chắc vào Ngài. Bạn có thể ký thác mọi sự cho Ngài. Điều duy nhất
Chúa xin bạn là bạn hãy để cho Chúa làm.
Hãy nói với những đầu gối
rã rời và những người hoảng hốt rằng Chúa là Đá Tảng của họ, rằng
không một bão tố nào là quá mạnh đối với Chúa, và rằng tay Chúa che
chở mỗi người trong họ. Hãy tin và họ sẽ được cứu thoát. Nước Trời ở
giữa họ và những ai mạnh mẽ mới chiếm được.
Tất cả công việc của Chúa
đều tốt đẹp. Ngài ban ơn cho những ai cần đến, vào giờ thuận tiện.
Đừng nói: cái này ít tốt hơn cái kia, bởi vì mọi sự đều tốt vào đúng
thời của nó. Và bây giờ, với tất cả tấm lòng, bạn hãy lớn tiếng chúc
tụng Chúa.
Bạn hãy kiên nhẫn. Bạn hãy
xem người nông phu, ông kiên nhẫn chờ đợi đất trổ sinh hoa màu quí
giá, ông tin tưởng sẽ nhận được mưa thu cũng như mưa xuân. Bạn cũng
hãy kiên nhẫn, hãy vững lòng, vì ngày Quang Lâm của Chúa đã tới gần.
Vậy bạn đừng đánh mất lòng tin tưởng mạnh bạo của mình, nó sẽ đem
lại một phần thưởng lớn lao. Bạn cần phải kiên nhẫn thi hành ý Chúa,
và như vậy sẽ được hưởng những điều Chúa hứa. Tất cả mọi sự đều dẫn
tới lợi ích cho những ai yêu mến Chúa.
Bạn hãy đứng vững trong
con đường Chúa dành cho bạn, phần thưởng lớn lao của Chúa đang ở
cuối đường. Bạn hãy nhìn ra đàng xa, những điều bạn ao ước sâu xa
đang chờ bạn ở cuối đường. Hãy vứt bỏ mọi tư tưởng tiêu cực đến với
bạn, hãy kiên trì chiến đấu với sự yếu đuối của bạn. Hãy xin Chúa
Thánh Thần giúp bạn làm điều đó, hãy xin Ngài mỗi lúc cái bạn cần để
đứng vững. Hãy để cho Lời Chúa tác động, chính Lời Chúa sẽ dẫn bạn
đến chiến thắng.
Tại sao bạn nghi ngờ tình
yêu của Chúa? Chúa có thể rút ra điều lành từ trong tất cả những gì
xảy đến cho bạn. Bạn có muốn chấp nhận những gì Chúa muốn ban cho
bạn không? Hãy đưa Chúa cái đê, Chúa sẽ đổ đầy cho bạn, hãy đưa Chúa
cái ly, Chúa cũng sẽ đổ đầy cho bạn. Hãy đưa Chúa chính bản thân bạn
và bạn sẽ được đầy tràn.
Bạn nghi ngờ tình yêu của
Chúa đối với bạn? Bạn sợ những con đường Chúa đã dọn cho bạn? Chúa
đã chỉ cho bạn ngàn lẻ một lần rằng những con đường của Chúa là
những con đường tốt cho bạn. Bạn tiếc vì đã theo Chúa bằng cách tháo
lui khỏi những con đường Chúa cho bạn ư? Bạn hãy đến với Chúa, hãy
để Chúa làm. Bạn hãy theo con đường của Chúa, đừng lo lắng gì hết.
Đó chính là con đường Chúa
cho bạn. Bạn đừng có tranh cãi làm chi. Tất cả mọi sự đều dẫn tới
lợi ích cho những ai yêu mến Chúa. Chúa không muốn những phản ứng đó
của bạn đâu. Bạn hãy vứt bỏ chúng đi. Bạn hãy xin Chúa điều đó, nếu
bạn không làm được.
Bạn hãy theo Chúa, hãy ở
trong niềm vui. Chúa chăm sóc bạn trong từng mỗi bước chân bạn đi.
Tất cả mọi sự nằm ở trong tay Chúa, không có gì vượt khỏi tay Chúa.
Hãy để Chúa làm vì tình yêu Chúa cho bạn. Đó là những con đường tình
yêu, chứ không phải là những con đường đau khổ.
Vậy bạn hãy đến, hãy vui
mừng với Chúa. Bạn có thể múa nhảy, hãy điên dại với Chúa. Bạn đừng
bận tâm đến điều thiên hạ nói, chẳng quan trọng chi, hãy để họ nói,
còn bạn, bạn cứ theo Chúa.
“Theo con người nội
tâm, tôi vui thích luật Chúa, nhưng trong các chi thể của tôi, tôi
lại thấy một luật khác, luật này chống lại Luật của Lý Trí và giam
hãm tôi trong luật của tội - là luật vẫn nằm sẵn trong các chi thể
của tôi- Vô phúc cho tôi! Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải
chết này? Tạ ơn Thiên Chúa: Nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.”
Hỡi bạn, Chúa không đòi
bạn phải là vị anh hùng, đã biết bước đi trên những ngọn núi cao
chót vót, vượt qua những vực thẳm ghê sợ. Không, Chúa không xin bạn
những thứ đó. Chúa xin bạn hãy để Chúa hành động, nhờ ơn của Chúa.
Chúa xin bạn hãy biết rằng Chúa ở bên cạnh bạn. Chúa xin bạn phải
biết chờ đợi tất cả mọi sự từ nơi Chúa. Chúa luôn lặp lại cho bạn
điều đó.
Và Chúa sẽ làm tất cả mọi
sự, nếu bạn để cho Chúa làm, nếu bạn chờ đợi ở Chúa, trong tất cả
mọi hoàn cảnh của bạn, trong tất cả mọi trạng huống cuộc sống của
bạn, trong những gánh nặng của bạn, những vấn đề của bạn, những nghi
nan của bạn, những bất lực của bạn, những bấp bênh của bạn, những
đường hầm xem ra quá tối tăm cho bạn.
Bạn hãy để Chúa làm, bạn
hãy để ơn thánh Chúa hoạt động trong bạn. Bạn hãy để ơn thánh của
Chúa san đường bạt lối cho bạn. Không phải bởi sức riêng mà bạn theo
Chúa được đâu! Bạn hãy đón tiếp Chúa vào trong cuộc sống của bạn,
trong mỗi phần đời sống bạn, ngay cả khi bạn thấy chúng không đẹp,
ngay cả khi bạn thấy mình đáng ra phải được hơn như thế. Bạn hãy đón
tiếp Chúa vào đúng ở chỗ đó, chính ở đó mà Chúa muốn có mặt, chính ở
đó mà Chúa muốn được mời tới. Nhưng bạn lại hay bịt đường chắn lối,
vì bạn sợ Chúa, sợ sự phê phán của Chúa.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
ĐỂ GIẢM THIỂU CĂNG THẲNG
ĐỜI SỐNG |
Bác sĩ
Hans Sylye, người đã nghiên cứu rất nhiều về ảnh hưởng của
stress đối với sức khỏe, có một so sánh như sau:
“Khi gặp
một gã say rượu hùng hổ nhục mạ ta, nếu ta tỉnh bơ rảo bước bỏ
qua thì mọi sự không sao. Nhưng nếu ta bực tức đáp lời, một cuộc
đấu khẩu, thượng cẳng chân hạ cẳng tay sẽ xảy ra và ta có thể bị
gã đó đả thương, kèm theo một số rối loạn trong cơ thể do phản
ứng của ta gây ra. Nhịp tim sẽ nhanh hơn, huyết áp lên cao, hóa
chất trong cơ thể mất cân bằng, tất cả có khả năng đưa tới bệnh
tật”.
Hành động
của gã say rượu là một thứ stress. Stress kích thích/ khiêu
khích khách qua đường. Khách phản ứng lại với một số dấu hiệu.
Trong đời
sống hàng ngày, những “tai bay vạ gió” tương tự như chàng say
rượu là chuyện thường xảy ra cho mọi người.
Stress đã
là đề tài cho nhiều nghiên cứu khoa học từ cả thế kỷ nay.
Năm 1920,
nhà sinh học uy tín Hoa Kỳ Walter Cannon đã tả căng thẳng như là
một đáp ứng: “chống cự hoặc bỏ chạy”, để bảo toàn sinh
mệnh” - tả hay tẩu- (Fight or Flight). Bình thường thì phản ứng
này giúp ta vượt qua khó khăn bằng sự gia tăng vài hóa chất
trong cơ thể. Nhưng nếu stress xảy ra liên tục, hóa chất cao sẽ
đưa tới nhiều tác dụng không tốt
Rồi phải
đợi tới năm 1956, danh từ Stress mới được Y sĩ Gia Nã Đại gốc Áo
Hans H. Selye phổ biến trong quần chúng. Theo Selye, “Stress
là một phản ứng không đặc biệt của cơ thể trước một đòi hỏi nào
đó. Nó là một phần của đời sống con người”.
Nhà tâm lý
học Mc Grath lại coi “stress như một sự mất thăng bằng giữa đòi
hỏi và khả năng đáp ứng. Khi đáp ứng không thỏa đáng sẽ có hậu
quả không tốt”.
Một tác
giả khác, Richard Lazarus, cho “stress là một diễn tả chủ
quan từ tâm trí, nên nó xuất hiện tùy theo cách nhìn của con
người với sự việc”.
Nói một
cách giản dị thì stress là đáp ứng của ta trước một khó khăn.
Vì thế,
trước cùng một biến cố mà người này cho là căng thẳng thì người
khác lại cho là bình thường. Chẳng khác gì miếng bí-tết tốt với
người thiếu hồng cầu thì lại không tốt với người dị ứng với thịt
bò. Hoặc việc tranh luận với bà vợ về bát canh cua quá mặn không
có gì là stress. Nhựng sự tức giận, đập bàn đập ghế mới là
stress.
Vào một
thời điểm nào đó, chúng ta ai cũng có stress. Chẳng khác chi
việc nào có ai mà thoát được cảm lạnh, nhức đầu. Nhưng cảm lạnh,
nhức đầu không ở lại lâu. Còn stress có thể làm phiền ta cả
tuần, cả tháng. Có khi lâu hơn và có thể hủy hoại ta.
Thực vậy,
đối diện với stress, một số bộ phận của cơ thể sẽ có những phản
ứng khác nhau:
1-
Phản ứng tức thì
Trước một
khiêu khích, một đe dọa khó khăn, cơ thể sẽ động viên nhiều
nguồn tài nguyên về sức mạnh cũng như sự lanh lợi để đối phó.
- Tại hệ
thần kinh trung ương, sự phán xét suy nghĩ cũng như trí nhớ gia
tăng trong khi đó thì cảm giác về đau đớn giảm.
- Con
ngươi của mắt mở rộng để thu nhận nhiều ánh sáng, nhìn rõ ràng
hơn mọi sự vật xảy ra ở xung quanh.
- Hai lá
phổi tăng cường nhịp thở để thu lượm nhiều oxy cho nhu cầu của
các cơ quan và cơ bắp.
- Chất
glycogen dự trữ ở gan được chuyển thành glucose, chất béo dự trữ
được động viên để cung cấp năng lượng cho các đáp ứng của cơ
thể.
- Trái tim
tăng nhịp đập, bơm ra nhiều máu chứa dưỡng khí và glucose để
tiếp sức cho các cơ quan sinh tử. Huyết áp hơi tăng. Máu sẽ được
động viên nhiều hơn tới các bộ phận cần chiến đấu như cơ bắp và
giảm đi ở các bộ phận không có vai trò chiến đấu, như dạ dày,
ruột.
- Nang
thượng thận sẽ tiết ra adrenaline để đối phó với phản ứng
Đánh-hoặc-Chạy (fight-or-flight). Nếu đù sức thì ta chống cự tới
cùng. Nếu cảm thấy chỉ có 2 phần thắng, 8 phần thua thì tốt hơn
là “tẩu vi thượng sách”, để bảo toàn sức lực, tái phối trí lực
lượng.
- Lò sản
xuất hống huyết cầu là lá lách sẽ tung ra nhiều tế bào máu để
chuyên chở dưỡng khí và glucose cho các chiến sĩ đối đầu với
stress.
- Bộ phận
tiêu hóa như dạ dày, ruột tạm thời ngưng hoạt động để nhường máu
với các chất dinh dưỡng cho các bắp thịt.
Ngay cả
lông và tóc cũng tham dự cuộc tự vệ, biểu dương lực lượng bằng
cách “xù lông, dựng tóc”, khiến cho cơ thể coi bộ như to lớn
hơn, để hù đối phương, căng thẳng.
Trên đây
là những phản ứng cấp kỳ, rất cần thiết để bảo vệ cơ thể. Chúng
chấm dứt trong vòng vài ba phút, sau khi căng thẳng được giải
quyết ổn thỏa. Mọi sinh hoạt, tâm trạng của con người trở lại
bình thường như không có gì xảy ra. Đây cũng là lúc mà các đơn
vị đã đứng ra đối phó với căng thẳng ổn định lại cơ cấu và phục
hồi sinh lực.
2- Nếu
stress cứ liên tục tái diễn hoặc kéo dài sẽ đưa tới nhiều ảnh
hưởng bất lợi cho sức khỏe:
- Trí óc
sẽ bị tổn thương vì tác dụng của quá nhiều các loại hormon
glucocorticoid sản xuất từ nang thượng thận. Khả năng nhận xét
giảm, trí nhớ rối loạn, tính tình cau có, dễ giận dữ, tâm trạng
mệt mỏi, cơ thể suy nhược, có thể rơi vào vòng trầm cảm, lo
lắng, hay khóc, mất ngủ, giảm khả năng làm việc, lạm dụng rượu,
thuốc cấm.
- Huyết áp
và nhịp tim thường trực lên cao khiến cho tim mệt mỏi, tính đàn
hồi của mạch máu giảm đưa tới bệnh tim mạch.
- Dạ dày
không có đủ máu nuôi dưỡng, sự tiêu hóa bị rối loạn, niêm mạc
bao tử tổn thương, đưa tới loét bao tử, ăn không tiêu, giảm cân
- Hệ miễn
dịch suy yếu, sức đề kháng với các bệnh nhiễm giảm, dễ nhiễm
trùng, cảm cúm.
- Stress
cũng khiến cơ thể mập hơn vì chất béo được động viên để tăng
năng lượng. Chúng sẽ tập trung nhiều ở vùng bụng, vùng mông, mặc
dù các vùng khác vẫn mỏng manh.
Trong
trường hợp trầm trọng, nạn nhân của stress có thể rơi vào một
tâm bệnh gọi là Hội chứng Hậu Chấn Thương (Post Traumatic Stress
Syndrome). Bệnh nhân sẽ sống trong tâm trạng bất ổn, có những ác
mộng, những hồi tưởng lại kinh nghiệm đau thương trong quá khứ,
sức khỏe tổng quát suy giảm.
Theo bác
sĩ Pamela Peeke, Đại học Maryland, cơ thể con người không phải
sinh ra để chịu đựng những căng thẳng mãn tính, đầy đọa trong
những kỷ niệm xấu, những lo sợ và bực bội.
Mới đây,
bác sĩ Yinong Young-Xu và các cộng sự viên tại Đại học
Massachusett đã công bố kết quả nghiên cứu về ảnh hưởng của căng
thẳng, lo âu đối với trái tim. Họ đã quan sát 516 bệnh nhân với
động mạch vành bị thu hẹp vì cholesterol bám vào thành mạch máu,
khiến sự nuôi dưỡng tim suy giảm, có nhiều nguy cơ bị
cơn-đau-tim heart attack và tử vong.
Bệnh nhân
được yêu cầu trả lời các câu hỏi liên quan tới tâm trạng như là
có khó khăn về giấc ngủ, có cảm thấy lo sợ về bệnh tim, về đại
tiện, tiêu hóa thực phẩm… Sau hơn ba năm theo dõi, các tác giả
nhận thấy nhóm bệnh nhân ít lo âu hoặc giữ tâm trạng thư giãn
thì cơn-đau-tim hoặc tử vong giảm tới 65%, ít hơn là những bệnh
nhân luôn luôn lo âu, sợ hãi về căn bệnh của mình.
Từ kết quả
đó, bác sĩ Young-Xu khuyên là nên giới hạn stress và nếu có lo
âu, căng thẳng, nên đi điều trị để được sống trong khỏe mạnh.
Theo ông, nếu chúng ta giảm thiểu được những căng thẳng này thì
bệnh tật cũng bớt xảy ra mà bệnh cũ cũng bớt trầm trọng.
Kết quả
nghiên cứu đã được bác sĩ Young-Xu trình bày tại đại hội lần thứ
57 của Hội Tim Mạch Hoa Kỳ, họp tại Chicago ngày 29 tháng 4 năm
2008.
Cùng với ý
nghĩ này mà cụ Nguyễn Gia Thiều của chúng ta đã viết:
“Giết nhau
chẳng cái lưu cầu
Giết nhau
bằng cái u sầu, độc chưa”.
Để biết
xem mức độ stress của mình, xin làm trắc nghiệm sau đây:
1- Chúng ta có thường bực mình vì một chuyện nào đó bất chợt xảy
ra?
0= không
bao giờ; 1= hầu như không bao giờ; 2 = đôi khi; 3 = khá thông
thường; 4 = rất thông thường. ( )
2- Chúng ta có thường càm thấy là không kiểm soát được những sự
việc quan trọng trong đời sống của mình?
0 = không
bao giờ; 1= hầu như không bao giờ; 2= đôi khi; 3= khá thông
thường; 4= rất thông thường. ( )
3- Chúng ta có hay cảm thấy nóng nảy, căng thẳng?
0= không
bao giờ; 1= hầu như không bao giờ; 2= đôi khi; 3= khá thông
thường; 4= rất thông thường. ( ).
4- Chúng ta có thường cảm thấy tự tin là có thể giải quyết khó
khăn xảy ra cho mình? ( )
4= không
bao giờ; 3=hầu như không bao giờ; 2=đôi khi; 1=khá thông thường;
0= rất thông thường. ( )
5- Chúng ta có thường thấy là mọi việc đều xuôi sẻ với chúng ta?
4 = Không
bao giờ; 3= hầu như không bao giờ; 2= đôi khi; 1= khá thông
thường; 0=rất thông thường. ( )
6- Chúng ta có thường kiểm soát được những khiêu khích trong
cuộc sống?
4 = không
bao giờ; 3= hầu như không bao giờ; 2= đôi khi; khá thường; 0=rất
thường. ( ).
7- Chúng ta có thường thấy không giải quyết được tất cả mọi việc
mà ta phải làm?
0= không
bao giờ; 1= hầu như không bao giờ; 2= đôi khi; 3= khá thường; 4=
khá thường. ( )
8- Chúng ta có thường thấy luôn luôn có ưu thế trong mọi sự
việc?
4= Không
bao giờ; 3= hầu như không bao giờ; 2= đôi khi; 1= khá thông
thường; 0=rất thông thường. ( )
9- Chúng ta có thường giận dữ vì sự việc ngoài tầm kiểm soát của
mình?
0= không
bao giờ; 1= hầu như không bao giờ; 2= đôi khi; 3= khá thường; 4=
khá thường. ( )
10- Chúng ta có thường cảm thấy có những khó khăn chồng chất mà
ta không kiểm soát nổi?
0= không
bao giờ; 1= hầu như không bao giờ; 2= đôi khi; 3= khá thường; 4=
khá thường. ( )
Cộng lại
số điểm. So sánh với tiêu chuẩn thông thường dưới đây. Nhớ là
mức độ stress thay đổi tùy theo tuổi tác, giới tính, hoàn cảnh.
Tuổi từ
18- 29: 14.2
Tuồi
45-54: 12.6
Tuổi từ 65
trở lên: 12.
Nam
giới: 12.1
Nữ
giới: 13.7
Đơn
góa: 12.6
Có gia
đình hoặc sống chung: 12.4
Độc
thân hoặc chưa bao giờ lập gia đình: 14,1
Ly
dị: 14.7
Ly
thân: 16.6.
Để giảm
thiểu stress
Sống không
có stress là điều khó có thể thực hiện được. Làm sao để đối phó
với stress mới là điều cần thiết. Mỗi người có những phương cách
riêng để giải quyết khó khăn của mình.
Sau đây là
một vài gợi ý:
1- Sắp đặt
lại công việc hàng ngày, theo thứ tự ưu tiên, quan trọng.
2- Cân
bằng đời sống, chia thì giờ cho ăn uống, ngủ nghỉ, vận động cơ
thể, giải trí với gia đình bạn bè.
3- Áp dụng
các phương pháp đối phó với stress như thư giãn thiền định, hít
thở sâu, thoa bóp; tạm rời công việc để “xả xú báp” và “tái nạp
bình điện”; tâm sự khó khăn của mình với người đáng tin cậy để
nhờ góp ý.
4- Duy trì
một tâm trạng hài hước.
5- Đề cao
cảnh giác, nhận diện và chú ý tới các dấu hiệu báo động sự xuất
hiện của stress và sẵn sàng giải quyết..
6- Giải
quyết stress với các khả năng hiện có. Với những stress bướng
bỉnh, không giải quyết được thì để một bên, giải quyết sau.
Nên nhớ là
những cảm giác không vui như sợ hãi, lo âu, giận dữ tức bực là
từ phản ứng của ta mà ra chứ không phải từ stress. Nếu ta kiểm
soát được các phản ứng này là ta đã tạo được một tâm trạng bình
an, thoải mái trong đời sống.
Bác sĩ
Nguyễn Ý-Đức Texas-Hoa Kỳ.
|
VỀ MỤC LỤC |
TUỔI TÌNH YÊU
Chuyện
phiếm của Gã Siêu |
Sáng hôm nay, không
hiểu tại sao gã bỗng hứng chí, vừa nhâm nhi ly cà phê đen, vừa
ngâm khe khẽ trong miệng câu ca dao :
- Trăng bao nhiêu
tuổi trăng già,
Núi bao nhiêu
tuổi gọi là núi non ?
Thế rồi, gã lại
nghĩ vẩn nghĩ vơ và tự hỏi :
- Liệu tình yêu và
hôn nhân có tuổi tác gì hay không ?
Có một anh chồng và
một cha sở chết trong cùng một ngày, chết trong cùng một giờ,
chết trong cùng một phút và chết trong cùng một giây.
Cả hai đều đến
trình diện thánh Phêrô để được phỏng vấn, rồi từ đó mới biết
được tương lai hậu vận của mình : vào thiên đàng, xuống luyện
ngục hay hỏa ngục.
Thánh Phêrô bèn hỏi
anh chồng :
- Con có vợ được
bao nhiêu năm rồi ?
- Thưa đúng hai
mươi lăm năm. Chúng con vừa mới “hấp hôn”, mừng hai mươi lăm năm
tình lận đận.
Thánh Phêrô vui
mừng nói :
- Tốt lắm, con hãy
vào thiên đàng ngay đi.
Quay sang cha sở,
thánh Phêrô cũng hỏi :
- Còn con, con làm
linh mục được bao nhiêu năm rồi ?
Và cha sở cũng trả
lời :
- Thưa đúng hai
mươi lăm năm. Con vừa mới ăn mừng ngân khánh xong.
Thánh Phêrô liền
quyết định :
- Vậy con hãy chịu
khó xuống luyện ngục đền tội con hai mươi lăm năm.
Cha sở có vẻ bất
mãn ra mặt :
- Tại sao lại như
thế được ? Suốt đời, con đã làm biết bao nhiêu việc tốt lành,
nào là rửa tội, nào là cử hành các bí tích, nào là giảng giải,
nào là khuyên răn, nào là xây cất….Còn cái anh chồng kia ?
Không để cho cha sở
nói tiếp, thánh Phêrô liền trả lời :
- Còn cái anh chồng
kia ấy hả ? Anh ta đã đền tội mình ở trần gian những hai mươi
lăm năm rồi, còn con thì chưa có được một ngày nào cả.
Xem như thế, gã
thấy tình yêu, hôn nhân và cuộc sống gia đình cũng vất vả cực
nhọc, chứ chẳng phải lúc nào cũng tươi hồng và dễ ăn đâu nhé.
Bàn về mối liên hệ
giữa tình yêu và hôn nhân, gã nhận thấy có nhiều cách diễn tả,
nhưng tựu trung người ta thường chia ra làm ba thời kỳ : Trước
khi, liền ngay và lâu sau.
Thực vậy, với những
người thích màu sắc :
- Trước khi cưới là
một màu hồng rực rỡ, liền ngay sau khi cưới là một màu trắng
nhạt, còn lâu sau khi cưới là một màu xám ảm đạm.
Với những người
thích nghiên cứu về thời tiết :
- Trước khi cưới là
những ngày mùa xuân nắng ấm, liền sau khi cưới là những ngày hè
thu oi bức hay mưa dông, còn lâu sau khi cưới là những ngày dài
mùa đông lạnh giá.
Với những người
thích âm thanh :
- Trước khi cưới
anh nói thì em nghe và em nói thì anh nghe, liền sau khi cưới,
anh nói thì anh nghe và em nói thì em nghe, còn lâu sau khi
cưới, thì cả hai cùng nói, nhưng hàng xóm phải nghe.
Với những người có
tinh thần ăn uống :
- Trước khi cưới
thì nhìn nhau mà no, liền sau khi cưới thì nhìn nhau mà ngáp,
còn lâu sau khi cưới thì nồi niêu xoong chảo thỉnh thoảng lại
bay ra ngoài sân.
Với những người vốn
mang dòng máu ga lăng :
- Trước khi cưới
thì chiếc dù lệch hẳn về phía nàng và chàng sẵn sàng chịu ướt,
liền sau khi cưới thì chiếc dù nằm ở chính giữa và mỗi người
chịu ướt một nửa, còn lâu sau khi cưới thì chiếc dù lệch hẳn về
phía chàng và nàng đành cam chịu ướt.
Từ đó, người ta đi
tới một kết luận không mấy sáng sủa :
- Yêu nhau trong ba
ngày, ghét nhau trong ba tháng và chịu đựng nhau suốt ba mươi ba
năm.
Có kẻ còn bi quan
hơn khi phát biểu :
- Trong đời người
đàn ông có hai ngày vui lớn, thứ nhất đó là ngày lấy vợ và thứ
hai là ngày vợ chết. Như vậy hôn nhân phải chăng là nấm mồ chôn
vùi tình yêu ?
Đây cũng là điều dễ
hiểu bởi vì vào cái thuở ban đầu lưu luyến ấy, người ta đến với
nhau với tất cả vẻ đẹp của mình, từ cách ăn mặc chải chuốt làm
duyên, đến những lời lẽ từ tốn, tế nhị và đôi lúc pha cả sự
nhõng nhẽo.
Dù có một trăm chỗ
lệch, người ta cũng cố kê cho bằng. Để rồi dưới cái nhìn chủ
quan của tình yêu, thì củ ấu cũng tròn và trái bồ hòn cũng ngọt.
Thế nhưng, khi đã
bước vào hôn nhân, người ta phải chung sống với nhau như ván
đóng thuyền. Chính cuộc sống chung này làm cho người ta vỡ mộng,
có ở trong chăn mới biết chăn có rận, bởi vì người mình lấy
không giống với người mình mơ, như một câu danh ngôn đã diễn tả
:
- Cái gay của hôn
nhân là ở chỗ người ta chỉ yêu chiếc răng khểnh, yêu đôi má lúm
đồng tiền hay yêu mái tóc thề, thế mà lại phải cưới nguyên si cả
một con người.
Vì thế, bước vào
hôn nhân, không còn là lúc chúng ta nguyện cầu :
- Xin cho con lấy
được người con thương.
Nhưng phải là lúc
chúng ta nài van :
- Xin cho con
thương được người con lấy.
Hay như một câu
danh ngôn đã nói :
-Chết cho người
mình yêu thì dễ hơn là sống với người mình yêu.
Có một anh chồng
vừa mới qua đời, mon men đến trước cửa thiên đàng để hỏi thánh
Phêrô xem mình có tên trong danh sách Nước Trời hay không.
Với cặp kính lão
trên đôi mắt, thánh Phêrô bèn mở những cuốn sách thật to và
thật cũ, cẩn thận xem từng dòng, từng chữ, nhưng vẫn không thấy
tên anh chồng đâu cả. Thất vọng, thánh Phêrô bèn nói với anh
chồng :
- Rất tiếc ở đây
không có chỗ cho con.
Nhưng để vớt vát,
thánh Phêrô lên tiếng hỏi :
- Thế thì ở trần
gian, con đã làm được những gì ?
Anh chồng mừng rỡ
kêu lên :
- Thưa, con đã có
vợ ạ!
Thánh Phêrô vuốt
nhẹ chòm râu bạc, cặp mắt đăm chiêu như tơ tưởng về một dĩ vãng
xa xôi và nói :
- Thôi được, con
vào ngay đi. Ta rất thông cảm với con.
Thì ra thánh Phêrô
đã hiểu được và đã cảm thông những vất vả cực nhọc của anh chồng
trong kiếp sống gia đình và đã mở cửa Nước Trời đón nhận anh,
bởi vì chính thánh Phêrô cũng đã từng trải qua kiếp sống ấy :
- Đoạn trường ai có
qua cầu mới hay.
Mặc dù cuộc sống
hôn nhân và gia đình có nhiều nỗi truân chuyên, người ta vẫn cứ
thích sống cho tình yêu, chứ chẳng ai dại gì mà chết cho tình
yêu, thật đúng như ca dao đã diễn tả :
- Cái vòng tình ai
cong cong,
Kẻ
mong ra khỏi, người mong bước vào.
Cũng vì thích sống cho tình yêu, nên người ta mới bày đặt ra những lễ
hội để…ăn mừng tình yêu.
Khi đang yêu nhưng chưa bước
vào hôn nhân, người ta có lễ hội Valentine, vốn được gọi nôm na
là ngày tình yêu hay ngày tình nhân. Theo một bài viết trên báo
“Kiến thức ngày nay” số
342, thì thánh Valentinô chính là nguồn gốc
cho lễ hội tình yêu này.
Số là lúc bấy
giờ hoàng đế Clauđiô muốn có một quân đội hùng mạnh, nên đã ra
lệnh cho mọi anh đàn ông tới tuổi đều phải nhập ngũ. Thế nhưng,
có nhiều người không muốn rời xa vợ con và gia đình. Điều này
làm cho hoàng đế giận dữ. Ông quyết định cấm tiệt mọi cuộc kết
hôn, bởi vì nếu đàn ông không lập gia đình thì họ sẽ chẳng phản
đối việc tham gia quân đội.
Điều này xem ra
cũng giống như chính sách “tam khoan” của nhà nước Việt Nam thuở
nào :
- Thứ nhất, đó
là khoan hãy yêu.
- Thứ hai, đó
là nếu lỡ yêu, thì khoan hãy lấy.
- Thứ ba, đó là
nếu lỡ lấy, thì hãy khoan hãy có con.
Trong khi đó,
thánh nhân là một linh mục, chuyên làm lễ cưới cho những người
yêu nhau. Ngay cả sau khi hoàng đế ban hành lệnh cấm, thánh nhân
vẫn âm thầm và bí mật cử hành.
Đêm kia, thánh
nhân bị bắt quả tang đang khi làm lễ cưới. Đôi tân hôn nhanh
chân chạy thoát, còn thánh nhân thì bị tống ngục.
Trong thời gian
sống trong ngục, rất nhiều người trẻ đã đến thăm viếng thánh
nhân. Họ ném hoa và những bức thư ngắn qua cửa sổ cho thánh
nhân. Họ muốn thánh nhân biết rằng họ luôn tin tưởng vào tình
yêu.
Một trong những
người trẻ ấy lại là con gái của viên canh ngục. Được phép của
cha, cô bé vào thăm thánh nhân và cho rằng :
- Thánh nhân đã
hành động đúng, còn luật lệ của hoàng đế chỉ là điều hết sức phi
lý.
Trước khi bị
đem ra pháp trường, thánh nhân đã để lại cho cô bé bức thư cám
ơn của mình với hàng chữ :
- Gửi con tình
yêu từ Valentinô của con.
Lời nhắn này
được viết vào ngày thánh nhân phải chết, tức là 14 tháng 2 năm
269.
Phải chăng đó
chính là nguồn gốc việc gửi thiệp và tặng quà trong ngày lễ hội
này.
Ngày hội tình yêu hay ngày lễ tình nhân chính là thời gian được dành
riêng để mừng cho những cuộc tình, cũng như cho những người
đang sống trong những cuộc tình ấy.
Còn khi đang yêu và đã bước vào hôn nhân, người ta có rất nhiều ngày để
tưởng nhớ và…ăn mừng tình yêu của mình.
Gã xin liệt kê ra như sau :
- Năm năm là cưới gỗ.
- Mười năm là cưới thiếc.
- Mười lăm năm là cưới thủy tinh.
- Hai mươi năm là cưới sứ.
- Hai mươi lăm năm là cưới bạc.
- Ba mươi năm là cuới ngọc trai.
- Ba mươi lăm năm là cưới ngọc thạch.
- Bốn mươi năm là cưới hồng ngọc.
- Bốn mươi lăm năm là cuới lam ngọc.
- Năm mươi năm là cưới vàng.
- Năm mươi lăm năm là cưới ngọc bích.
- Sáu mươi năm là cưới kim cương.
Và có lẽ không mấy cặp sống thọ để kỷ niệm bảy mươi, hay tám mươi năm
cuộc tình. Và nếu còn sống, thì cũng khó mà khỏe mạnh cũng như
minh mẫn để ăn mừng cùng với bàn dân thiên hạ.
Vì thế, gã không thấy người ta đặt tên cho những cuộc tình sau sáu mươi
năm trời đằng đẵng vác thập giá của cuộc sống gia đình.
Có một bài viết dựa theo tài liệu nước ngoài, được đăng trên tuần báo
“Gia đình” số 39 ra ngày 26 tháng 9 năm 2005 bàn về những thăng
trầm của tình yêu trong hôn nhân, được biểu lộ qua tâm tình của
một người vợ với những cuộc…cãi nhau như sau :
Hôn nhân năm thứ nhất :
Chúng tôi say đắm, dính như keo.
Nhìn thấy những cặp vợ chồng khác cãi nhau và ném đồ, nhưng vẫn tiếp
tục sống với nhau, chúng tôi cảm thấy không thể nào hiểu được và
cho rằng những ngày cãi nhau đó sẽ không bao giờ xảy ra đối với
chúng tôi.
Hôn nhân năm thứ hai :
Chúng tôi bắt đầu cãi nhau. Khi cãi nhau, tôi đã ném hỏng chiếc đồng hồ
đắt tiền. Khóc trong vòng 40 phút. Sau đó, tôi gói ghém quần áo
về với…bu.
Tôi thầm nghĩ trong lòng :
- Ly hôn!
Tôi dứt khoát không muốn tiếp tục chung sống với một người cãi nhau với
mình.
Hàng ngày sau khi tan sở, anh ấy đều chạy đến cơ quan đón tôi, chủ động
nhận lỗi, để tôi quay về nhà với anh ấy. Mặt tôi lạnh như tiền,
không thèm để ý và cũng không cùng chồng tôi về nhà.
Cho tới nửa tháng sau, chồng tôi mua một bó hoa tươi thật lớn đến đón
tôi, chủ động đưa tôi đi siêu thị.
Tôi kể tội của chồng tôi những 10 phút. Sau đó phán một câu cảnh cáo :
- Lần sau mà như vậy, em tuyệt đối không tha thứ cho anh.
Chồng tôi lặng im, biểu thị sự đồng ý.
Hôn nhân năm thứ ba :
Khi cãi nhau, tôi ném vỡ mấy cái ly thủy tinh rẻ tiền. Khóc khoảng 30
phút. Sau đó đến nhà bạn ở mấy ngày. Chồng tôi gọi điện cho tôi
mấy lần tôi mới về nhà.
Mấy chiếc ly vợ ở trên mặt đất đã được dọn sạch sẽ, nhưng tôi vẫn không
để ý đến anh ấy.
Khi ăn cơm tối, tôi nằm lỳ ở trong phòng, không ra. Chồng tôi gõ cửa
bên ngoài và nói :
- Thịt vịt hầm đã nấu xong, em mau ra ăn cho nóng.
Chồng tôi gõ cửa đến lần thứ hai, tôi mới chịu ra ăn cơm cùng anh ấy.
Anh ấy nói với tôi :
- Anh đã sai và bằng lòng sửa chữa.
Đồng thời còn hỏi :
- Liệu có thể tha thứ cho anh không ?
Tôi im lặng.
Hôn nhân năm thứ tư :
Khi cãi nhau, tôi làm vỡ giò hoa lan nhỏ mà mình tự tay chăm bón. Khóc
khoảng 20 phút. Sau đó, xuống lầu đi dạo đến hết ngày.
Khi về nhà, thấy chồng tôi ngồi ở ghế sofa xem tivi như không hề có
chuyện gì xảy ra. Phòng khách vẫn bề bộn. Lá hoa lan và mảnh vỡ
của chậu hoa ngổn ngang một đống trên sàn. Tôi chủ động quét dọn
sạch sẽ.
Chồng tôi làm cơm tối xong, ngồi ăn một mình. Tôi tự xới cho mình một
bát, ngồi xuống đối diện với chồng và lý luận với anh ấy là ai
đúng ai sai.
Chồng tôi chẳng tỏ một thái độ nào cả.
Hôn nhân năm thứ năm :
Khi cãi nhau, tôi chỉ lấy cái gối tựa lưng ở ghế sofa mà ném xuống
đất. Khóc khoảng 10 phút. Sau đó, từ phòng khách lao thẳng vào
phòng ngủ.
Buổi tối không có người làm cơm. Chồng tôi đứng hút thuốc ở trên lan
can. Tôi chủ động từ trong phòng ngủ bước ra, nhặt cái gối lên,
làm bữa tối với những món mình thích.
Sau khi ăn, lên giường đi ngủ. Chồng tôi đi ra ngoài ăn cơm tiệm.
Khi anh ấy quay về, tôi chủ động nói chuyện với anh ấy, cãi lý với anh
ấy.
Chồng tôi đã nói một câu sắc như dao :
- Anh không sai.
Hôn nhân năm thứ sáu :
Khi cãi nhau, tôi không ném đồ linh tinh nữa. Chỉ khóc khoảng 5 phút.
Ngồi đờ người trong phòng khách, có chăng chỉ là thay đổi tư thế
ngồi mà thôi.
Chồng tôi đến nhà bạn ở mấy ngày không về. Tôi điện thoại cho anh ấy,
cầu xin anh ấy về nhà.
Tôi chủ động làm một bữa tối mà chồng tôi thích, lấy cơm cho anh, nói
với anh ấy rằng :
- Tôi đã sai và muốn sửa chữa.
Đồng thời tôi hỏi anh ấy :
- Liệu có thể tha thứ cho tôi không ?
Chồng tôi không nói gì.
Hôn nhân năm thứ bảy :
Khi cãi nhau, tôi không khóc. Hơn nữa, ban sáng cãi nhau thì ban chiều
tôi đã nhận khuyết điểm của tôi. Tôi chủ động đi xem bóng đá với
anh ấy.
Chồng tôi đã kể tội tôi trong vòng 10 phút.
Sau cùng, phán một câu cảnh cáo :
- Lần sau em mà như thế nữa, anh tuyệt đối không tha thứ cho em đâu.
Tôi im lặng, biểu lộ sự đồng ý.
Theo gã hiểu thì phải là thánh, mới được lên thiên đàng. Và những người
ở trên thiên đàng, tất cả đều phải là những vị thánh.
Có một anh chồng kia chẳng may qua đời. Anh ta cũng đến trước mặt thánh
Phêrô để hỏi xem mình có được vào thiên đàng hay không.
Thánh Phêrô bèn mang sổ các thánh nam nữ ra sưu tra. Dò tới dò lui cũng
chẳng thấy tên anh ta ở đâu.
Mệt mỏi và mờ cả mắt, thánh Phêrô không ngừng lẩm bẩm :
- Thánh ẩn tu, không có.
- Thánh hiển tu, cũng không có.
- Thánh đồng trinh, dứt khoát là không có.
- Thánh tiến sĩ, lại càng không có nốt.
- Thôi đành bó tay….Chào thua.
Thế nhưng, trước khi đưa tiễn anh ta, thánh Phêrô cũng lên tiếng hỏi
một câu như để an ủi và khích lệ kẻ bại trận :
- Vậy trong những năm sống ở trần gian, con đã làm được những gì ?
Anh chồng cau mặt suy nghĩ. Nghĩ mãi nghĩ hoài mà cũng chẳng thấy mình
làm được một việc lành phúc đức nào cả.
Qúa thất vọng, anh ta bèn nói bừa :
- Thưa, con đã có vợ và là một thằng chồng cũng…tạm tạm, trên trung
bình một tí ạ.
Đôi mắt bỗng sáng rực như đèn ô tô, thánh Phêrô vỗ đùi đánh đét một
phát và nói lớn :
- Trời ơi! Sao con không nói ngay để ta tìm con trong danh sách các
thánh…tử đạo.
Bông hồng nào mà chẳng có gai.
Cuộc đời nào mà chẳng có những đắng cay của nó.
Và cuộc tình nào mà chẳng có những gian nan thử thách.
Giống như ngày tháng trôi qua. Có những lúc trời quang mây tạnh. Nhưng
cũng có những lúc sấm chớp mưa giông.
Giống như mặt đại dương. Có những lúc biển lặng như tờ. Nhưng cũng có
những lúc sóng gió gào thét.
Điều cần thiết là phải biết cùng nhau chèo chống để đưa con thuyền cặp
tới bến bờ hạnh phúc.
Điều cần thiết là phải biết chấp nhận những hy sinh cho nhau và vì
nhau.
Hy sinh và tình yêu luôn tỷ lệ thuận với nhau.
Hy sinh sẽ làm cho tình yêu thêm nồng thắm. Và tình yêu nồng thắm sẽ
giúp chúng ta dễ dàng chấp nhận những hy sinh to lớn hơn.
Chính những hy sinh này sẽ làm cho tình yêu không bao giờ bị tàn phai
với thời gian.
Gã Siêu
gasieu@gmail.com |
VỀ MỤC LỤC |
|
- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến,
bài vở..., xin gởi về địa chỉ
giaosivietnam@gmail.com
- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục
vụ của Giáo sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các
Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn
gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực
Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh
vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức
Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và
Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quy vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại
www.conggiaovietnam.net
Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị
Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã
sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác
nhau.
TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca
Phạm Quốc Sử
USA
|
|
*************
|
|