Chương VI: Tu Sĩ
|
Thánh Công Ðồng Chung Vaticanô II
Hiến Chế Tín Lý Về Giáo Hội Lumen
Gentium
Bản dịch Việt Ngữ của Giáo Hoàng Học
Viện Piô X
Prepared for Internet by Vietnamese
Missionaries in Asia
Chương VI: Tu Sĩ
55*
43. Những lời khuyên Phúc Âm trong Giáo
Hội. Những lời khuyên Phúc Âm về đức khiết tịnh
để hiến mình cho Thiên Chúa, về đức nghèo khó và vâng lời, đều
đặt nền tảng trên lời nói cùng gương lành của Chúa, đã được các
Tông Ðồ và các Giáo Phụ, các tiến sĩ và các chủ chăn Giáo Hội
khuyên giữ. Các lời khuyên ấy là ân huệ thần linh mà Giáo Hội đã
nhận lãnh bởi Chúa mình và luôn gìn giữ nhờ ơn Người. Theo sự
hướng dẫn của Thánh Thần, chính giáo quyền ân cần giải thích các
lời khuyên của Phúc Âm, hướng dẫn cách thực hành, cùng thiết lập
những lối sống cố định dựa trên những lời khuyên ấy. Do đó, như
một cây đâm chồi nẩy lộc um tùm và kỳ diệu từ hạt giống Chúa
gieo vãi trong cánh đồng của Người, thì cũng có nhiều lối sống
khác nhau: đơn độc hay cộng đồng, và dòng tu khác nhau mà phần
sản nghiệp dồi dào đem lại lợi ích cho các chi thể của dòng cũng
như toàn Thân Thể Chúa Kitô
1. Thực vậy, các dòng ấy mang lại cho các chi thể
những trợ lực bền bỉ trong một đời sống vững vàng hơn, một học
thuyết vững chắc giúp đạt đến trọn lành, một mối hiệp thông
huynh đệ trong đạo binh Chúa Kitô, và một sự tự do được đức vâng
lời củng cố; thế nên, họ có thể an tâm chu toàn và trung thành
gìn giữ lời khấn cùng hoan hỷ tiến bước trên con đường đức ái
2.
Xét theo thể
chế của Giáo Hội do Chúa thiết lập và có phẩm trật, thì bậc sống
tu trì không ở giữa bậc giáo sĩ và giáo dân; thực vậy Thiên Chúa
kêu gọi một số Kitô hữu ở cả hai bậc giáo sĩ và giáo dân đến
hưởng lấy ân huệ đặc biệt trong đời sống Giáo Hội, và mỗi người
một cách góp phần vào sứ mệnh cứu độ của Giáo Hội
3.
56*
44. Bản tính và tầm quan trọng của bậc
tu trì. Người Kitô hữu tự buộc mình tuân giữ ba
lời khuyên của Phúc Âm qua lời khấn hay qua những ràng buộc
thánh khác tương tự như lời khấn dòng; nhờ đó họ hiến thân hoàn
toàn cho Thiên Chúa chí ái, để phụng sự và làm vinh danh Ngài
với một danh hiệu mới mẻ và đặc biệt. Nhờ phép Thánh Tẩy, họ đã
chết cho tội lỗi và được cung hiến cho Thiên Chúa; nhưng để có
thể thâu lượm dồi dào ơn ích của bí tích ấy, người Kitô hữu muốn
nhờ việc khấn giữ ba lời khuyên của Phúc Âm trong Giáo Hội,
thoát ly khỏi những ngăn trở có thể làm họ không nhiệt tâm yêu
mến và tôn thờ Thiên Chúa cách hoàn hảo; và họ tận hiến để phụng
sự Thiên Chúa cách thân tình hơn
4. Việc cung hiến đó càng trở nên hoàn hảo hơn khi
việc Chúa Kitô hiệp nhất với Giáo Hội, hiền thê của Người, bằng
mối dây bất khả phân ly càng được phản ảnh trong những mối dây
ràng buộc chắc chắn và vững bền hơn.
Những lời
khuyên của Phúc Âm đưa đến đức ái
5, và nhờ đức ái, những lời khuyên ấy kết hiệp các tu
sĩ cách đặc biệt với Giáo Hội và với mầu nhiệm Giáo Hội. Bởi đó,
đời sống thiêng liêng của họ cũng phải mưu cầu lợi ích cho toàn
thể Giáo Hội. Do đó, mỗi người tùy sức và ơn gọi của mình, bằng
kinh nguyện hay bằng hành động tích cực, có bổn phận làm cho
Nước Chúa Kitô ăn rễ sâu và vững mạnh trong các tâm hồn và bành
trướng trên khắp vũ trụ. Vì thế, Giáo Hội duy trì và nâng đỡ đặc
tính riêng biệt của các tu hội.
Việc khấn giữ
các lời khuyên của Phúc Âm thực là một dấu chỉ có thể và phải
lôi cuốn hữu hiệu tất cả mọi chi thể của Giáo Hội đến việc can
đảm chu toàn ơn gọi làm Kitô hữu. Thực vậy, dân Thiên Chúa không
đặt thành trì vĩnh viễn ở đời này, nhưng đi tìm một thành trì
mai sau. Bậc tu trì giải thoát người tu sĩ bớt những lo lắng
trần tục, cùng tỏ lộ cách hoàn hảo hơn cho mọi tín hữu thấy của
cải trên trời đã có ngay dưới trần gian này, và làm chứng rằng
ơn cứu chuộc của Chúa Kitô đã đem lại một đời sống mới và vĩnh
cửu, đồng thời tiên báo sự phục sinh tương lai và vinh quang của
Nước Trời. Hơn nữa, bậc sống tu trì bắt chước cách chính xác hơn
và thực hiện liên tục trong Giáo Hội nếp sống mà Con Thiên Chúa
đã nhận khi Người xuống thế để thi hành thánh ý Chúa Cha và cũng
là nếp sống mà Người đã đề ra cho các môn đệ theo Người. Sau
cùng, bậc sống ấy đặc biệt cho ta thấy Nước Thiên Chúa vượt trên
mọi sự trần thế và những đòi hỏi của Nước ấy cao cả biết bao; nó
cũng cho mọi người thấy quyền lực cao trọng tuyệt vời của Chúa
Kitô Vua và quyền năng vô cùng của Chúa Thánh Thần đang hoạt
động cách kỳ diệu trong Giáo Hội.
Vì thế, bậc
sống được thiết lập do việc tuyên khấn các lời khuyên của Phúc
Âm, tuy không liên quan đến cơ cấu phẩm trật của Giáo Hội, nhưng
dĩ nhiên cũng gắn chặt với đời sống và sự thánh thiện của Giáo
Hội.
57*
45. Quyền bính Giáo Hội và bậc tu trì.
Vì trong Giáo Hội, giáo phẩm có nhiệm vụ chăn dắt và dẫn đưa Dân
Chúa đến những đồng cỏ phì nhiêu (x. Ez 34,14), nên có nhiệm vụ
dùng các luật lệ mà hướng dẫn cách khôn ngoan việc thực hành
những lời khuyên của Phúc Âm, vì đó là phương thế đặc biệt để cổ
võ đức ái trọn hảo đối với Thiên Chúa và tha nhân
6. Ngoan ngoãn vâng theo sự thúc đẩy của Chúa Thánh
Thần, giáo phẩm đón nhận những luật dòng do những nam nữ sáng
lập viên lỗi lạc đề nghị, và chính thức phê chuẩn sau khi tu
chỉnh. Và do quyền hành của mình, giáo phẩm luôn có mặt để săn
sóc và bảo trợ những dòng tu được thiết lập khắp nơi nhằm xây
dựng Nhiệm Thể Chúa Kitô, để các dòng tu ấy phát triển và sinh
hoa kết quả theo tinh thần các đấng sáng lập.
Ðàng khác, để
đáp ứng cách hữu hiệu hơn nhu cầu của toàn thể đoàn chiên Chúa,
Ðức Giáo Hoàng, vì có quyền tối thượng trong toàn thể Giáo Hội
và để phục vụ ích chung, có thể tách bất kỳ dòng tu hay tu sĩ
nào khỏi quyền tài thẩm của các Ðấng Bản Quyền và chỉ đặt dưới
quyền duy nhất của ngài
7. Cũng thế, có thể có những dòng tu và những tu sĩ
được để lại hoặc giao phó cho thẩm quyền riêng của các Giáo Chủ.
Khi chu toàn phận vụ đối với Giáo Hội qua cách sống đặc biệt của
mình, các tu sĩ phải kính trọng và vâng lời các Giám Mục theo
giáo luật, vì phải tôn trọng quyền mục vụ của các ngài trong
Giáo Hội địa phương và vì cần phải có sự đồng tâm nhất trí trong
việc tông đồ
8.
Giáo Hội không
chỉ phê chuẩn việc khấn dòng để đưa đời tu lên địa vị bậc sống
theo giáo luật, nhưng qua việc cử hành phụng vụ, Giáo Hội còn
trình bày việc khấn dòng ấy như một bậc sống cung hiến cho Thiên
Chúa. Với quyền hành Chúa ban, chính Giáo Hội nhận lời tuyên
khấn của các tu sĩ; qua lời kinh công cộng, Giáo Hội xin Chúa
ban ân sủng và trợ giúp họ, phó thác họ cho Thiên Chúa, chúc
lành thiêng liêng cho họ, và kết hợp sự tận hiến của họ vào hy
lễ tạ ơn.
58*
46. Sự cao cả củaviệc tận hiến.
Các tu sĩ phải đem hết tâm lực làm cho Giáo Hội, qua con người
của họ, thực sự biểu dương Chúa Kitô ngày một hoàn hảo hơn cho
các tín hữu cũng như các lương dân: biểu dương Chúa Kitô đang
cầu nguyện trên núi, hoặc đang loan báo Nước Thiên Chúa cho dân
chúng, hoặc chữa lành những kẻ đau yếu tàn tật, hay hoán cải các
tội nhân trở lại đời sống phong phú, hoặc đang chúc phúc cho trẻ
em, ban ơn lành cho mọi người, và trong mọi sự luôn vâng phục
thánh ý Chúa Cha, Ðấng đã sai Người đến
9.
Sau cùng, mọi
tu sĩ nên biết rằng việc khấn giữ các lời khuyên Phúc Âm, tuy
bao gồm sự từ bỏ những của cải mà dĩ nhiên phải được quí trọng,
sẽ không làm ngăn trở việc phát triển đích thực nhân vị, trái
lại do bản chất của nó còn có lợi cho con người. Thực vậy, các
lời khuyên Phúc Âm, mà các tu sĩ đã tình nguyện chấp nhận theo
ơn gọi riêng của mình, góp phần không ít vào việc thanh luyện
tâm hồn và phát huy tự do thiêng liêng, và không ngừng khích lệ
sống bác ái nhiệt thành, nhất là có sức làm cho người Kitô hữu
ngày càng nên giống đời sống trinh khiết và khó nghèo mà Chúa
Kitô đã chọn và Ðức Trinh Nữ Maria, Mẹ Người, đã sống, như gương
lành của bao đấng sáng lập dòng đã chứng tỏ. Không ai được nghĩ
rằng, vì tận hiến như thế, các tu sĩ trở nên xa lạ với mọi người
và vô dụng đối với xã hội trần thế. Vì dù đôi khi không trực
tiếp phụ giúp người đồng thời với mình nhưng tu sĩ lại hiện diện
cùng họ cách sâu xa hơn trong lòng Chúa Kitô và cộng tác một
cách thiêng liêng với họ, để việc xây dựng xã hội trần thế luôn
đặt nền móng nơi Chúa và luôn hướng về Người hầu những người xây
dựng xã hội trần thế sẽ không luống công
10.
Vì thế, Thánh
Công Ðồng công nhận và khen ngợi nam nữ tu sĩ sống trong tu
viện, trường học, bệnh viện hoặc trong các xứ truyền giáo, đang
trang điểm Hiền Thê Chúa Kitô bằng tấm lòng khiêm hạ và kiên
trung trong sự tận hiến và quảng đại phục vụ mọi người dưới muôn
vàn hình thức.
59*
47. Khuyến khích sự kiên tâm và thăng
tiến. Vậy mỗi tu sĩ được gọi để tuyên khấn, hãy
chuyên tâm sống bền đỗ trong ơn thiên triệu Chúa đã gọi mình và
hãy mãi mãi tiến bộ để làm cho sự thánh thiện của Giáo Hội thêm
phong phú hơn và sự vinh hiển của Thiên Chúa Ba Ngôi duy nhất và
bất phân thêm cao cả hơn. Trong và nhờ Chúa Kitô, Chúa Ba Ngôi
là nguồn mạch và nguyên ủy mọi sự thánh thiện.
60*
Chú Thích:
(lưu ý:
những số ghi chú nhỏ hơn đã được đăng vào những số báo trước)
55* Việc chuẩn bị chủ đề để
soạn thảo cho chương này khá sôi nổi. Trong lược đồ đầu tiên,
tất cả chương VI đề cập đến tu sĩ. Khi lược đồ được làm lại và
đưa lên để Công Ðồng nghị trình trong kỳ họp thứ hai, chương nói
về tu sĩ lại được xen vào chương V bàn chung về lời kêu gọi nên
thánh trong Giáo Hội. Làm thế cũng gây nên nhiều bất tiện. Như
vậy, chúng ta thấy có hai khuynh hướng: khuynh hướng thứ nhất
đòi soạn thảo một chương đặc biệt về tu sĩ, khuynh hướng thứ hai
cương quyết cứ để xen chung vào chủ đề về lời kêu gọi nên thánh.
Sau nhiều cuộc bàn cãi, việc phân tách hai chương được chấp
thuận, như chúng ta thấy trong bản văn chung quyết. Vị trí của
chương này trong toàn thể Hiến Chế là do những quan sát thực
tiễn. Ðặt nó liền sau chương nói về lời kêu gọi nên thánh là để
bày tỏ giá trị và tầm quan trọng của đời tận hiến cho Giáo Hội
để thánh hoá và minh chứng. Kết cấu của chương này đơn giản: sau
khi mô tả nguồn gốc và sự tiến triển của các hình thức đời sống
tu trì (số 43), Công Ðồng phân tích bản tính đời sống tu trì (số
44), và sau đó xét đến vai trò của quyền bính Giáo Hội đối với
tu sĩ (số 45) và nhiệm vụ của đời sống tu trì trong việc phát
triển nhân phẩm của chính tu sĩ, hoặc trong đời sống Giáo Hội
(số 46); sau cùng là đôi lời khuyên nhủ vắn tắt kết thúc cho
chương này (số 47).
56* Số 43: Nhập đề.
Công Ðồng mô tả
nguồn gốc và sự tiến triển của các hình thức tu trì, một trật
cũng bày tỏ thánh ý Chúa và vai trò của quyền bính Giáo Hội. Ðời
sống tu trì là một hồng ân Chúa Cha ban cho Giáo Hội, Giáo Hội
phải trung thành gìn giữ và hướng dẫn. Do lời giảng dạy và gương
mẫu của Người, Chúa Kitô là nền tảng các lời khuyên Phúc Âm.
Công Ðồng còn minh định thêm rằng đời sống tu trì không nằm
trong hệ thống cơ cấu phẩm trật (giáo sĩ - giáo dân), nhưng
trong hệ thống cơ cấu đoàn sủng. Dầu các lời khuyên là do Chúa
ban, và đời sống tu trì thực hành những lời khuyên đó là thuộc
phạm vi đoàn sủng, Giáo Hội cũng phải thiết lập một hình thức
định chế để thực hành đời sống ấy.
57* Số 44: Bản tính của đời
sống tu trì.
Trước hết Công
Ðồng thừa nhận trong đời sống đó có một sự thánh hiến cho Thiên
Chúa để hoàn bị sự thánh hiến của bí tích Thánh Tẩy. Do lời khấn
hay việc dấn thân tương tự mà có việc dâng hiến, nhờ đó đời sống
của tu sĩ và cả thế giới được thần hóa nhiều hơn (x. số 31). Sự
thánh hiến này hoàn tất trong tình yêu trọn vẹn nhất: tình yêu
ưu tiên dành cho Thiên Chúa trong Chúa Kitô. Ðời sống tu trì
chính yếu cũng là phục vụ Giáo Hội, để làm cho việc tông đồ được
bành trướng. Nhưng vì là một sự thánh hiến nội tâm, nên việc
phục vụ trước hết là cộng tác vào việc mở mang nước Chúa bằng
thái độ nhiệt thành, bằng kinh nguyện và cũng có thể bằng hoạt
động. Bởi thế, việc phục vụ này không chỉ là một hình thức tông
đồ bên ngoài. Giá trị dấu hiệu của việc tuyên xưng các lời
khuyên Phúc Âm phát xuất từ sự thánh hiến nội tâm này: dấu hiệu
cánh chung của đời sau và của hạnh phúc trên Trời, giá trị của
sự cao trọng Nước Chúa. Ðể kết luận, Công Ðồng tuyên bố đời sống
tu trì không thể tách lìa khỏi đời sống và sự thánh thiện của
Giáo Hội. Như vậy chúng ta hiểu rằng, một đàng Giáo Hội cần được
sự đóng góp của đời sống tu trì nên phải cổ võ đến mức tối đa
cho đời sống ấy, đàng khác đời sống ấy nói lên sức mạnh của Giáo
Hội. Cứ theo những điểm vừa nói thì đời sống tu trì là một thực
tại sống động trong Giáo Hội.
58* Số 45: Giáo Hội và đời
sống tu trì.
Vai trò quyền
bính Giáo Hội nằm trong những điều quy định tổng quát: lập luật
để làm qui tắc hướng dẫn việc thực hành các lời khuyên, chuẩn y
các điều lệ, lưu ý đến sự trung thành và tăng triển các hội
dòng. Sau đó Công Ðồng đề cập đến những người nắm giữ quyền bính
này: Ðức Giáo Hoàng là Vị mà các hội dòng miễn trừ phải tùy
thuộc; các Giáo Chủ, các Giám Mục là những người mà mọi tu sĩ
phải kính trọng và tuân phục. Sự quả quyết Giáo Hội góp phần
trong phương diện phụng vụ và thiêng liêng vào việc tuyên khấn
cũng nói lên rằng những mối tương quan với quyền bính không chỉ
có tính cách pháp lý. Theo Hiến Chế, sự đóng góp vào phụng vụ
mặc ba hình thức: Giáo Hội dùng quyền bính chấp nhận các lời
khấn, dùng lời kinh công cộng xin Chúa ban ơn, kết hợp sự tận
hiến của người tuyên thệ vào hy lễ tạ ơn.
59*
Số 46 : Vai trò của đời sống tu trì.
Sau khi khuyên nhủ tu sĩ biết minh chứng Chúa
Kitô trong các hoạt động, Công Ðồng nhắc nhở cho họ biết đời
sống tu trì làm phát triển nhân cách con người vì là một sự tự
hiến, phát xuất từ hành động tự do của ý chí đi theo chiều hướng
của ơn gọi cá nhân; đời sống ấy còn định hướng nhân phẩm theo
như điều mà chương trình của Chúa muốn dung hợp, và như vậy làm
cho nhân phẩm được nẩy nở hoàn toàn. Công Ðồng đề cập ba khía
cạnh của việc nẩy nở đó: tự do thiêng liêng trong tâm hồn trong
sạch hoàn toàn, bác ái hăng say nhờ đó mà nhân phẩm con người
được phát triển đích thực, dung hợp với lối sống mà chính Chúa
Kitô đã theo, lối sống mà Mẹ Maria là gương mẫu hoàn hảo. Công
Ðồng cũng nhắc lại rằng đờisống tu trì còn cộng tác một cách
thiêng liêng vào công cuộc kiến tạo trần gian. Sự hiện diện tinh
thần của tu sĩ còn đích thực hơn cả sự hiện diện hữu hình bên
ngoài. Cố nhiên Công Ðồng không nói tu sĩ hiện diện nơi người
khác nhưng hiện diện trong trái tim Chúa Kitô. Do sự kiện cộng
tác thiêng liêng vào công cuộc kiến tạo trần gian, tu sĩ trở nên
hữu ích cho xã hội và cộng tác vào việc tái tạo một thế giới xây
dựng trên Chúa Kitô. Sau cùng Công Ðồng tuyên bố công nhận và
khen ngợi lối sống của tu sĩ.
60*
Số 47 : Kết luận.
Trong câu kết luận vắn tắt, Công Ðồng khuyên nhủ
tu sĩ kiên trì và thăng tiến trong ơn gọi để Giáo Hội được thánh
thiện và để làm vinh danh Thiên Chúa.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
THƯ GỬI NGƯỜI
ANH EM LINH-MỤC CỦA TÔI |
Kính cha,
Tôi mới được tin cho biết rằng sắp
đến ngày kỷ-niệm chẵn hai mươi lăm năm linh-mục của cha. Chỉ đối
với một người sống đời bình-thường thôi thì thời-gian hai mươi
lăm năm cũng đã là một đoạn đường dài đáng kể để tính sổ đời
rồi; huống chi đây lại là một chặng đời trong thiên-chức
linh-mục thì khỏi phải nói cũng dư lẽ là cha đã cảm-nghiệm được
biết bao cam-go, thử-thách để vượt thắng, để tiếp-tục đi tới
trên con đường thánh-ý đã vạch ra. Hai mươi lăm năm hồng-ân để
sống và làm việc trong một đời linh-mục quả là có quá nhiều điều
để vui mừng cũng như để duyệt lại cho chín-chắn hơn. Trong dịp
vui đáng kể như thế này, chắc-chắn là cha sẽ nhận được rất nhiều
lời chúc mừng, khen tặng và có thể còn cả những lời tán-dương
nũa vì thực ra cũng đáng lắm chứ, phải không? Riêng tôi thì lại
muốn lợi-dụng ý-nghĩa sâu-sắc của cái mốc điểm thời-gian này để
chia-sẻ chút suy nghĩ của mình; bởi vì không hiểu tại sao mà đã
từ lâu rồi, nội-tâm tôi vẫn có một nỗi thao-thức đến độ gần như
bất ổn với hai chữ "linh-mục" mà chưa một lần có dịp được
giãi-bày. Cho nên hôm nay trong tình gia-đình, thay vì gửi về
cha những lời mừng, lời chúc, lời khen tặng như của bất cứ người
thân, quen nào; tôi xin được chia-sẻ với cha chút cảm-nghĩ trong
tâm-tư mình về ơn gọi linh-mục của cha qua các sinh-hoạt mục-vụ
mà trong đó giáo-dân chúng tôi là đối-tượng cụ-thể nhất để cha
vừa có trách-nhiệm, vừa phải liên-đới trong nghĩa tình huynh-đệ
bằng sự tôn-trọng lẫn nhau. Tôi sẽ cố gắng giảm bớt càng nhiều
càng tốt tính-cách chủ-quan trong liên-hệ thân-tình để
khách-quan hơn với tâm-hồn một tín-hữu, một giáo-dân đã và đang
và vẫn có những mong đợi nơi cha, một linh-mục trong
thiên-niên-kỷ mới. Hy-vọng rằng trên căn-bản của niềm xác-tín và
với tinh-thần huynh-đệ, mình có thể nhân dịp này giúp nhau nhìn
lại đoạn đường đã qua trong ánh sáng của Đức-tin để biết đâu có
thể từ đấy mà ta tìm thêm ra được đôi điều khả-dĩ khai mở được
hết ý tình tri-ngộ của cái duyên may một thuở được mời gọi làm
môn-đệ, làm linh-mục giữa cộng-đồng dân Chúa và được sai đi để
đến giữa muôn dân.
Tôi phải nói trước và nhấn mạnh
rằng tôi tuyệt-đối thâm-tín về hiệu-năng của tác-vụ đặt tay đối
với cha trong ngày lễ phong chức chính là nguồn mạch thần-khí
tuyệt-đối và chuyên-nhất từ nơi Đức Ki-tô vẫn liên-tục để cha
được truyền-thụ. Thành ra, như nội-dung của bài hát "Linh-mục,
người là ai" đã viết, tôi thật tình thấy không ngoa hay sáo chút
nào cả khi tác-giả đã trả lời câu hỏi này bằng một chuỗi dài các
ý-niệm cụ-thể rằng
·
là ánh sáng trần-gian
·
là muối cho mặn đời
·
là hiện-thân Chúa ta, là
hồng-ân Chúa Cha
·
là chứng-nhân tình yêu; là
tôi tớ tốt lành, tín-trung, dịu-hiền
·
là người được sai đi đem
tin mừng, an-bình gieo khắp nơi
·
là người anh em suốt đời
hiến thân phục-vụ...vân vân...
nhưng trong đó tôi tâm-đắc nhất là
câu "người là một bài ca cho hiển-danh Chúa ta".
Như tôi vừa nói, những lời lẽ và
ý-niệm tác-giả kia dùng không phải là ngoa-ngôn, sáo-ngữ nên cha
cũng đừng bảo rằng tôi đang để cha "đi tầu bay giấy" nhé.
Thực-chất sứ-mạng của cha đang sống từng ngày là phải chú-tâm
hướng vào những ý-nghĩa ấy đấy. Ấy vậy mà có lẽ tôi lại là một
trong số không nhỏ những người, những giáo-dân luôn mang nặng
trong đầu nhiều bất ổn về thiên-chức linh-mục mà cha đang
thừa-hành. Thậm-chí đã có lắm khi bị mang tiếng, bị nhiều người
ngoan đạo kết tội là bổ-báng, là chống giáo-sĩ chỉ vì tôi đã
không cứ đời cha, cha lo; việc tôi, tôi tính; lại hay bạo gan,
bạo phổi ưu-tư và đặt vấn-đề về phong-cách mục-vụ của một số vị
đã liên-quan và ảnh-hưởng đến đời sống tâm-linh của các tín-hữu.
Chẳng hạn như mới đây, trong dịp
lễ giỗ tại một gia-đình trong họ, tôi được nhờ đứng ra cảm-ơn
quan-khách đến đự. Tôi đã không theo thói thường của giáo-dân
xưa nay, bao giờ cũng phải trình lạy cha trước hết và trên hết
mọi sự mà đã căn-cứ theo tuổi-tác để thưa với các cụ, các ông bà
đứng tuổi trước rồi mới thưa đến linh-mục chủ-tế vì thấy vị này
mới chỉ ở độ tuổi trung-niên. Thế là tôi bị một số các ông bà
ngoan đạo xầm-xì là bất-kính với cha, là làm những chuyện gở lạ,
ngược-ngạo. Nhưng mọi người đã chưng-hửng khi vị linh-mục này
tiếp lời liền để cảm ơn tôi đã thật tế-nhị giúp cho ông được
tư-nhiên hơn trong thế đứng của mình giữa mọi người vì với
tuổi-tác và theo đúng truyền-thống văn-hoá dân-tộc, ông cũng chỉ
là ở vào hàng con cháu của các cụ, đâu có lẽ nào nhảy tót (chữ
của ông dùng chứ không phải tôi) lên cao chót-vót như vậy. Ông
còn nói là chính cái thói quen tôn-sùng các vị tu-hành quá đáng
mà giáo-dân Việt-nam mình đã vô-tình làm hư-luống quá nhiều
giá-trị tinh-thần của thiên-chức linh-mục. Đấy là thái-độ
sùng-bái không phải kiểu chứ không phải là tôn-trọng.
Tôi hoàn-toàn đồng-ý với tội-trạng
vị linh-mục kia cáo-buộc giáo-dân một cách quá chính-xác như
vậy. Song nếu công-bằng hơn một chút, tâm-thành thêm một chút
thì cha có nghĩ là mình phải cưa đôi phần lỗi phải, chứ đổ hết
tội-vạ cho giáo-dân như vậy là hơi oan không? Bởi vì nếu
giáo-dân làm sai, làm lố thì cha phải chỉnh lại cho chính-xác,
phải giúp họ sửa đổi chứ lẽ đâu lại im-lặng và nhất là cứ để cho
mọi người coi mình như thánh như tướng vậy và như thế thì có
khác gì là thái-độ bằng lòng, thỏa-hiệp với những điều không ổn
đó. Lại nữa, đấy cũng không phải là giáo-huấn của Hội-Thánh, mà
chỉ do sự suy-nghĩ lệch-lạc mà ra thôi thì lại càng phải mau mắn
điều-chỉnh lại mới là phải lẽ chứ, phải không cha. Hội-Thánh
luôn kêu gọi con dân nhà Chúa phải canh-tân nếp sống đạo, lấy
tình bác-ái huynh-đệ đối-đãi nhau mà chúng ta cứ cố-thủ những
cái thói-tục lỗi thời, lỗi đạo như vậy mãi sao? Cụ-thể hơn, cha
sẽ cảm thấy sao khi nghe các ông bà cụ già khoảng bảy, tám mươi
tuổi hoặc kém hơn một chút cứ khúm-na khúm-núm với một điều cha
dạy con thế này, hai điều cha bảo con thế kia và mình thì
khơi-khơi xưng "tôi" với các vị ấy mà không cần giải-thích chữ
"cha" chỉ là một danh-xưng, một chức trong Giáo-Hội thì đâu
tuyệt-đối phải bắt theo khuôn phép và vai vế như cha con trong
ơn-nghĩa sinh-thành, phải đảo lộn niên-kỷ như thế. Nhất là đối
với truyền-thống văn-hoá Việt-Nam, chữ "Lễ" rất quan-trọng vì nó
là điều-kiện hàng đầu trong đường lối ứng-xử; đồng thời, sự
khiêm-tốn dễ cảm lòng người lại cũng cần vô-cùng trong đời sống
Đức-tin. Vả chăng “sự tôn-kính mà người dân Á-châu vốn dành cho
những người nắm quyền bính cần được hòa-hợp với sự ngay thẳng
trong sáng về phía những người có trách-nhiệm phục-vụ trong
Giáo-hội” (EA 43. Tuyên-bố kết-thúc Đại-hội lấn thứ 7
LHHĐGM.AC)
Giáo-dân chúng tôi sẽ chẳng bao
giờ nhìn nhận ra mình đã sai tín-lý nếu cha không phân-tích ra,
không mạnh dạn xác-định và chỉnh-đốn lại. Với thiên-chức
linh-mục của Đức Ki-tô, cha có phần trách-nhiệm nặng nề trong sự
thông chia với hàng Giám-mục về ba thẩm-quyền giáo-huấn,
quản-trị và thánh-hóa đã được trao ban, vậy cha nghĩ sao khi
người linh-mục cứ để cho một số giáo- dân mặc tình tự biên, tự
diễn những hình-thái tâm-linh ngụy-tín cũng như mặc tình chế-tác
các lối hành-xử sai tín-lý và giáo-lý mà không lên tiếng sửa đổi
hay uốn nắn lại? Là linh-mục, cha thường nhật có mặt bên cạnh
cuộc sinh-hoạt của giáo-dân hơn các vị Giám-mục, cho nên tôi
nghĩ cha không thể thiếu bổn-phận thi-hành thẩm-quyền giáo-huấn
của Hội-thánh trong thừa-tác-vụ mục-vụ của mình. Nếu cha không
là muối thì họ cứ ươn-lười giữ đạo kiểu cha truyền con nối, cứ
nghĩ rằng khoán trắng mọi sự cho cha là xong hết, vì cha đã nhận
chức thánh, đã thay mặt Chúa, nên cha nói sao thì sao đi. Miễn
là cha ban đủ các phép là được. Phần giáo-dân chúng tôi cứ
đều-đặn mỗi ngày đến nhà thờ "xem" cha làm lễ là đủ, chẳng bao
giờ tìm đọc Công-đồng, các tông-thư, tông-huấn làm gì vì như vậy
cũng đỡ mất thời-giờ cho cha phải giảng-giải và chúng tôi phải
nghe những điều mà xét ra bất lợi cho cả người nói lẫn người
nghe. Thế là cả cha và chúng tôi đều nhàn vì đứng bên ngoài dòng
sinh-hoạt luôn canh-tân và sám-hối để vươn lên của Hội-Thánh, để
thăng-tiến đời sống tâm-linh của mỗi người tin. Thật chẳng khác
gì mình là những kẻ giậm chân tại chỗ trong khi Hội-Thánh thì
không ngừng tác-vụ giáo-huấn: Bước vào thiên-niên-kỷ mới sẽ
khuyến-khích cộng-đoàn Ki-tô hữu mở rộng tầm nhìn đức tin về
những chân trời mới để loan-báo Nước Thiên-Chúa. Trong hoàn-cảnh
đặc-biệt này, cần phải trung-tín trở về với lời dạy của
Công-đồng Va-ti-ca-nô II, vốn mang lại một soi sáng mới mẻ về
dấn-thân truyền-giáo của Giáo-hội trước những yêu-sách hiện nay
của việc Phúc-âm-hoá...(Tông-thư Mầu-nhiệm Nhập-thể, số 2).
Chắc chắn cha đã nắm vững thế nào là "những yêu-sách của việc
Phúc-âm-hoá" mà Hội-thánh đòi hỏi hơn chúng tôi nhiều; song tôi
nghĩ nó cũng không ra ngoài cái mẫu-mực của Đức Ki-tô là sống
giữa trần-gian, làm mọi việc của trần-gian, trừ tội-lỗi, để
thánh-hoá trần-gian.
Có khi nào cha chợt thấy chạnh
lòng về cái não-trạng giáo-dân chúng tôi như vậy, có nhận ra sự
theo đạo ù-lì pha thêm chút mê-tín và sai-lạc của giáo-dân chúng
tôi khi cứ đều-đặn cúi đầu lạy cha không biết chán như vậy
không? Đúng là vô tình tín-hữu đã ru ngủ thiên-chức của cha bằng
lòng tôn-kính lệch-lạc, đã lắm phen đưa cha vào thế tự-cao,
tự-đại như thực sự thay quyền Thiên-Chúa và cha cũng vui vẻ ngủ
yên trong đó, đến độ có thể không nghe thấy lời Đức Thánh-Cha
đánh-thức: "Bởi thế, trong khi thiên-niên thứ hai gần hết,
Giáo-hội cũng cần phải hoàn-toàn nhận-thức được tội-lỗi của con
cái mình, nhớ lại tất cả những lúc, trải qua theo dòng lịch-sử,
họ đã xa rời tinh-thần của Chúa Ki-tô và Phúc-âm của Người; thay
vì hiến cho thế-giới một chứng-từ của đời sống được thúc-đẩy bởi
những giá-trị đức-tin, thì lại tìm thỏa-mãn bằng những cách
suy-tư cũng như bằng tác-hành dưới những hình-thức thực sự phản
chứng-tá và gây sương mù...(Tông-thư Ngàn Năm Thứ Ba đang
đến, số 33). Và cũng trong Tông-thư này, Đức Thánh-Cha đã
nhận-định về một thực-tại là: Vấn-đề được đặt ra là có bao
nhiêu Ki-tô hữu thực sự hiểu biết và thực-hành những nguyên-tắc
giáo-huấn của Giáo-hội về xã-hội...(số 36). Đấy mới là
nhận-định chung chung mà Đức Thánh-Cha còn đặt một câu hỏi
khiêm-tốn như vậy; còn riêng trong xứ-đạo của cha thì sao đây
trước vấn-đề như thế? Và cha có trách-nhiệm gì trong việc
chia-sẻ mối ưu-tư của vị Cha Chung đã đặt ra qua tác-vụ
thông-phần với thẩm-quyền giáo-huấn mà Đức Ki-tô đã trao ban cho
Hội-Thánh? Tôi cũng đang tự hỏi mình như thế về mức-độ hiểu biết
của bản-thân mình bấy lâu nay đây. Nhưng nếu chỉ hỏi không mà
thiếu đối-thoại hay chia-sẻ thì ích gì.
Viết đến đây, tôi nhớ đến những
dòng tâm-sự của một người bạn cũng rất nhiệt-thành trong những
thao-thức nội-tâm. Tôi thấy cũng nên chép lại ở đây để cha có
thêm đôi chút cảm-nghiệm về một thành-phần giáo-dân thật sự đi
sát với sự tiến-triển của Giáo-hội.
- Tôi thấy chúng ta cũng cần lên
tiếng gửi-gắm đôi điều đến những người trẻ đang nắm vai-trò
gọi là chăn dắt (pastorize) dân Chúa để họ biết khiêm-tốn cả từ
cung-cách xưng-hô với giáo-hữu của mình, trong đó có cả thái-độ
và lối hành-xử như họ vẫn thường quen đối-xử với giáo-dân hiện
nay. Một điều tôi thấy rất lạ là đối với các linh-mục được
đào-tạo từ A đến Z tại hải-ngoại là khi làm mục-vụ với dân
bản-xứ thì họ rất dân-chủ và cấp-tiến; nhưng với giáo-dân
Việt-Nam thì họ lại trở về thời-kỳ tiền Công-đồng, nghĩa là vẫn
thích người ta "xin phép lạy cha" và vâng-phục tuyệt-đối, không
được có ý-kiến lôi-thôi trái ý mình, muốn nói gì thì nói, không
cần đắn-đo. Trong cách ứng-xử với những người cộng-sự với mình
thì độc-tài, bảo-thủ và nhất là trong những dịp vui mừng như lễ
ngân-khánh chẳng hạn thì cứ để mặc sức cho cộng-đồng tín-hữu
thưa bẩm dài dòng văn-tự trong nhà thờ để xưng-tụng và
tán-dương công-đức mình nhiều hơn là nói về Chúa như lời
Thánh-vịnh “non nobis Domine, sed tuo nomini da gloriam”. Aáy
vậy nhưng khi hòa nhập với các sinh-hoạt trần-thế thì lại
chiều theo thị-hiếu của giáo-dân trong những thói-tục rườm-rà,
mặc tình muốn bày vẽ lẽ nào cũng được. Thậm chí lại thích hát cả
nhạc đời trong nhà thờ vào những dịp lễ Mothers' Day, Fathers'
Day hay Valentine Day...và kể cả những chuyện tiếu-lâm chẳng ăn
nhập gì với Lời Chúa mà chỉ cốt cho người nghe cười cho vui tai
thôi. Nhiều khi tôi đi lễ bị chia-trí quá sức nên rất bực mình,
nhưng biết làm sao. Còn mấy ông được đào-tạo ở Việt-Nam, khi còn
là chủng-sinh thì xem ra rất khiêm-tốn, nhưng khi đã lên chức
"cụ" rồi thì được giáo-dân kính-trọng quá mức nên bắt đầu
quan-liêu, ăn chơi và thích quan-hệ với người giầu rồi quên bẵng
đi giáo-dân nghèo khổ của mình. Ôi thôi nhiều thứ lắm, nhưng tôi
chỉ dám chia sẻ với người nhà thôi, chứ nói ra ngoài lỡ bị vạ
tuyệt-thông thì khốn.
Thực ra đây không phải là
tình-trạng chung, nhưng cũng không
phải là ít đâu, cha ạ; song vì như ca ông bà mình có nói là sự
thật mất lòng nên chẳng ai nỡ nói, dám nói và muốn nói vì cũng
dễ làm nản lòng nhau lắm đấy. Tuy nhiên, có một điều không thể
chối cãi được là theo kinh-nghiệm của tôi mỗi khi tiếp-xúc và
chia sẻ với những người - nhất là giới trẻ – đang nhạt-nhoà
lòng đạo để sống khô khan, nguội lạnh (không kể thành-phần đang
sống trái ngang trong hôn-nhân) về niềm tin thì thay vì trả lời
về chính mình, họ lại làm một thôi một hồi về nếp sống tục-hóa
của một số linh-mục; cứ như đấy là động-cơ đẩy họ xa đạo vậy.
Tôi biết đôi khi đó cũng là cái cớ để biện-minh, song cũng không
nên hoàn-toàn chối bỏ tầm ảnh-hưởng này. Tôi không phải chỉ quy
và đòi hỏi trách-nhiệm của cha thôi đâu vì tất cả chúng ta đều
được mời gọi cả mà; song le thừa-tác-vụ của cha vẫn là
chính-yếu.
Trước đà chuyển mình không ngừng
của xã-hội, Giáo-Hội cũng luôn luôn nỗ-lực canh-tân để giúp con
người dung-hoà được phần tâm-linh với nếp sống văn-minh vật-chất
đang trên đà phát-triển đến cao-độ. Dựa vào quan-điểm của
Hội-Thánh và bằng vào Lời Chúa đã dặn-dò lúc sai đi, tôi nghĩ
hành-trình rao giảng của cha không thể quá ngắn chỉ từ bục giảng
đi xuống cuối nhà thờ, rồi đi ra đến sân nói nói cười cười với
tín-hữu là đủ. Hoặc cũng có ra khỏi cổng nhà xứ, nhưng chỉ là đi
lòng-vòng trong họ đạo để mọi người chắp tay, cúi đầu lạy cha
như cái máy mà còn nhiệm-vụ phải đến với muôn dân nữa kìa. Mà để
có thể bước đi vững-vàng, mạnh dạn trên con đường phục-vụ này,
cha dư biết mỗi người chúng ta cần phải có bao nhiêu hành-trang
để đem theo ngoài số vốn cha đã học trong chủng-viện.
Một số bạn bè ngoài Công-giáo mình
bảo tôi rằng họ rất muốn gặp-gỡ, đối-thoại và lắm khi cũng cần
cộng-tác với những linh-mục Công-giáo để trong tình huynh-đệ,
nghĩa đồng-bào, cần phải cùng nhau phục-vụ xã-hội và đất nước
trong một số địa-hạt. Họ cũng rất thích lắng nghe và chia sẻ
những kinh-nghiệm tâm-linh từ những tín-lý khác nhau trên cùng
một căn-bản tư-tưởng Việt-Nam, nhưng tiếc một điều là cái điểm
chung để gặp-gỡ này lại không có. Tuy nhận-định này có tính-cách
"vơ đũa cả nắm" nhưng cũng không phải là vô-bằng vì như đã có
lần tôi được nghe một linh-mục tâm-sự rằng vì ông phải lo
trách-nhiệm mục-vụ mãi tận miền cao-nguyên hẻo-lánh xa-xôi nên
rất muốn lợi-dụng những dịp được gặp-gỡ anh em linh-mục để cùng
chia sẻ và học hỏi thêm về kinh-nghiệm mục-vụ; nhưng thật buồn
khi gặp nhau thì toàn nói những chuyện bâng-quơ, chẳng ăn nhập
gì đến đời sống nội-tâm. Có lẽ vì vậy mà đã có rất nhiều
linh-mục khi đứng trên tòa giảng thì toàn dùng các tình-tiết của
một cốt chuyện tiểu-thuyết hay một cuốn phim để làm nền cho bài
giảng. Cha đừng buồn khi tôi muốn nói thẳng rằng có rất nhiều
vị, sau khi "đỗ cụ" rồi thì thật cứ yên-trí rằng mình đã làm
"cha" thiên-hạ, không thấy có nhu-cầu phải học hỏi thêm nữa ngay
cả về thần-học, tín-lý, còn nói gì đến việc mở-mang thêm
kiến-thức về văn-hoá, học-thuật và lịch-sử của dân-tộc. Bởi thế
mới tạo cho những người anh em khác cái điều ngộ-nhận tai-hại
kia. Ở điểm này, tôi phải nhìn nhận là giáo-dân chúng tôi đã có
rất nhiều người sống đúng nghĩa của hai chữ dấn-thân. Họ
tín-trung với giáo-huấn của Hội-Thánh, rất chuyên-tâm sốt-sắng
trau-giồi đời sống nội-tâm và thể-hiện được ý-tình là môn-đệ của
Đức Ki-tô bằng tình-tự dân-tộc ngoài xã-hội. Đây không phải là
lý-luận riêng cá-nhân ai đâu, mà là Trong bản tuyên-bố kết-thúc
Đại-hội lần thứ 7 Liên-hiệp các Hội-đồng Giám-mục Á-châu họp tại
Samphran, Thái-Lan từ ngày 03 đến 13-01-2000, có ghi “…từ chiều
sâu của những âu lo và hy-vọng của châu Á, chúng tôi lắng
nghe tiếng gọi của Thánh Thần gửi đến các Giáo-hội địa-phương
tại châu Á. Đó là tiếng gọi đổi mới, đổi mới sứ-mạng yêu thương
và phục-vụ. Đó là tiếng gọi gửi đến các Giáo-hội địa-phương vốn
trung-thành với những giá-trị văn-hóa, tâm-linh và xã-hội của
châu Á và vì thế là những Giáo-hội mang dấu ấn văn-hóa
địa-phương thực sự…Đổi mới nhằm thi-hành sứ mạng yêu thương và
phục-vụ đòi hỏi một hiểu biết mới và điểm nhấn mới…Chúng ta cần
cảm-nhận và hành-động “cách toàn-diện”. Khi đối-diện với những
nhu-cầu của thế-kỷ 21, chúng ta đối-diện bằng con tim Á châu
trong sự liên-đới với người nghèo và người bị loại ra bên lề,
trong sự hiệp-nhất với mọi anh chị em Ki-tô hữu và bắt tay với
mọi người nam nữ tại châu Á thuộc nhiều niềm tin khác nhau…”
Cha đừng hiểu lầm là giáo-dân
chúng tôi thích các cha phải cấp-tiến. Không đâu, thưa cha.
Chúng tôi chỉ mong đợi ở cha hãy thực-sự gột bỏ cái tệ-trạng cha
chú chủ-quan xưa nay về những đặc-quyền, đặc-lợi của thế-gian;
có vậy mới làm sáng lên được ý-nghĩa cao-quý và giá-trị
siêu-nhiên của hai chữ linh-mục giữa cuộc sống. Chúng tôi mong
đợi cha hãy đi sát và đi kịp theo sự hướng-dẫn của Hội-Thánh để
kéo giáo-dân ra khỏi cái nếp xưa nay vẫn cứ chỉ tà-tà, đủng-đỉnh
sáng đi lễ, tối đi nhà thờ và chăm-chỉ đọc kinh tối sáng ngày
thường, rồi cha cũng quay mòng-mòng theo với lòng mến của
giáo-dân qua cảm-tính rồi những lời huấn-thị của vị cha chung sẽ
lọt tai ai.
Thật tình mà nói, trong tư-thế
giáo-dân, chúng tôi rất muốn và mong-mỏi được có dịp
thường-xuyên ngồi lại với linh-mục, không phải để ăn nhậu hay
nói chuyện phiếm, mà là để chia-sẻ những ưu-tư về tâm-linh; cũng
có khi là cùng nhau học hỏi hay tham-khảo một văn-thư của
Toà-Thánh hay đọc một tông-huấn của Đức Giáo-Hoàng. Chúng tôi
muốn được cùng linh-mục hoà mình vào trong một số sinh-hoạt của
cuộc sống như một cách-thế Phúc-âm-hoá môi-trường. Nhưng hình
như từ xưa đến nay ở Việt-Nam không có cái nề-nếp sinh-hoạt kiểu
như thế này. Cha mà nói với giáo-dân thì chỉ có giảng hoặc dạy
chứ không có cùng tìm hiểu, trao-đổi; còn giáo-dân thì chỉ có
vâng, dạ nghe lời cha dạy và thưa "Amen", phải vậy không cha?
Ngay dù cho giáo-dân có là cao tuổi đời và nhiều kiến-thức cũng
như kinh-nghiệm thì cũng phải cúi đầu vâng nghe ông cha non trẻ
hơn mình mọi mặt. Cha hài lòng hay hoảng-hốt khi nghe bà con
vâng-phục rằng lời cha là Lời Chúa, lắng nghe cha là lắng nghe
Chúa và khi nhận-định về những sai-sót của linh-mục tu-sĩ là có
tội? Nói phạm đến cha thì sẽ không được cha "ban" các phép cho.
Cha ạ, cha có nghĩ tương-quan giữa
linh-mục và giáo-dân cần phải được canh-tân như canh-tân đời
sống không? Cha có thấy ngoài những tác-vụ thiêng-liêng trong
phụng-vụ ra thì ngay trong công-tác mục-vụ, cha vẫn cần có thêm
những người bạn cùng chí-hướng mở-mang Nước Trời; cùng suy nghĩ
rồi cùng bắt tay thực-hành các huấn-thị của Giáo-Hội. Nhưng phải
là những huynh-đệ cùng bắt tay nhau chứ không phải những tay
chân để sai bảo, để chạy việc. Đức Ki-tô đã chẳng nói không gọi
chúng ta là tôi-tớ sao? “Hơn thế nữa, người dân Á-châu mong muốn
nhìn thấy các mục-tử của mình không chỉ như những nhà
quản-trị các hiệp-hội hoặc cung-ứng các dịch-vụ, nhưng “như
những người mà tâm-trí hướng về những gì thuộc Thần Khí”
(Tuyên-bố kết-thúc Đại-hội lần thứ 7 LHHĐGM.AC)
Chúng tôi mong linh-mục hoà mình
với xã-hội như một thái-độ dấn-thân nhưng không phải là đồng-hoá
với mọi thói-tục trần-thế; chẳng hạn như cũng chén chú chén anh
đến say mèm, hát nhạc tình rẻ tiền và kể chuyện tiếu-lâm thiếu
lành mạnh để cử-tọa vỗ tay tán-thưởng khen cha bình-dân. Chúng
ta chỉ hoà mình sống theo ý-hướng của Giáo-Hội trước những ưu-tư
cụ-thể như..."Chẳng hạn, chúng ta làm sao có thể giữ im lặng
về tình-trạng lạnh nhạt đạo-đức làm cho nhiều người hiện nay
sống như không có Thiên-Chúa, hay sống theo một lòng đạo mơ-hồ,
không có khả-năng nắm vững vấn-đề chân-lý...cũng như phải kể đến
tình-trạng lẫn-lộn trong lãnh-vực đạo-lý, ngay cả về những
giá-trị căn-bản trong việc tôn-trọng sự sống và gia-đình. Về mặt
này, ngay những ngưòi con nam nữ của Giáo-Hội nữa cũng cần phải
xét mình lại. Họ đã bị nhuốm phải bầu khí của phong-trào tục-hóa
(secularism) và khuynh-hướng đạo-lý tương-đối (ethical
relativism)...không chứng-tỏ được dung nhan chân thậât của
Thiên-Chúa...bởi đã không sống theo cuộc sống tôn-giáo, luân-lý
hay xã-hội của mình (Hiến-chế Gaudium et Spes, đoạn 19)
(Tông-thư Ngàn Năm Thứ Ba đang đến. Số 36).
Nói quanh đi quẩn lại cũng vẫn
trở về khởi-điểm cuộc
hành-trình đức-tin của chúng ta thôi, riêng với cha thì lại còn
mang nhiều giá-trị tâm-linh trong cuộc sống nữa. Cho nên có nói
gì thì cũng chỉ là mong cha một khi đã cầm đèn sáng trong tay
rồi thì nên chịu khó khêu cho sáng thêm, cho cao thêm, sao cho
chúng ta cùng nhìn thấy ngả đường trước mặt rõ hơn mà bước đi
với tâm-tình bình-an và đẹp lành mọi sự trong Đức Ki-tô. Ước gì
đoạn đường 25 của cha cũng sẽ là cái mốc điểm thời-gian chung
cho chúng ta cùng nhìn lại đời sống tâm-linh mình. “Chúng ta là
một Hội-thánh cần được thanh-tẩy. Chúng ta phải nhìn nhận
rằng bằng nhiều cách, ta đã sống không trọn ơn gọi thi-hành
sứ-mạng yêu thương và phục-vụ” (Tuyên-bố của Đại-hội LHHĐGM.AC).
Hy-vọng cha hiểu tâm-ý của tôi cũng như tâm-ý bao người khác
đều muốn được thấy âm-vang của tên gọi linh-mục của cha đúng là
một bài ca làm hiển-danh Chúa ta.
Phạm
Minh Tâm |
VỀ MỤC LỤC |
|
Vai Trò của Nhà Nước
(tiếp theo) |
HỌC HỎI VỀ HỌC
THUYẾT XÃ HỘI CỦA GIÁO HỘI (BÀI V)
V. Vai Trò của Nhà
Nước (178 – 201)
61. HTXH nêu lên
quyền lựa chọn thể chế chính trị ra sao?
Hiến chế Vui Mừng và Hy Vọng dạy rằng: “Có quyền
bính là do bởi Thiên Chúa an bài, nhưng việc định đoạt những thể
chế chính trị hay cắt cử người cầm quyền, vẫn là quyền tự do của
mọi công dân” (GS # 74).
“Về mặt luân lý, các thể chế chính trị có thể khác nhau, miễn
sao các thể chế này mang lại lợi ích chính đáng cho cộng đoàn đã
thừa nhận chúng. Các thể chế có bản chất trái ngược với luật tự
nhiên, với trật tự công cộng và các quyền căn bản của con người,
thì không thể đem lại công ích cho những quốc gia đang theo thể
chế đó” (GLCG # 1901).
Như vậy, nếu một thể chế nhà nước vừa không do người dân chọn
lựa lại vừa trái với luật tự nhiên, thì thế chế ấy không xứng
đáng để tồn tại.
62. Thông điệp nào
nêu rõ nguyên nhân và mối nguy hiểm của nhà nước độc tài?
Trong thông điệp Centesimus Annus, ĐGH Gioan Phaolô II đã
nói rất rõ và mạnh mẽ rằng: Trong thời hiện đại, chế độ độc tài
dưới chủ nghĩa Marxit- Lenin… duy trì quan điểm rằng họ không
mắc sai lầm và vì thế trở nên kêu căng thi hành quyền lực một
cách tuyệt đối…Nguyên nhân sâu xa của chế độ độc tài trong thời
hiện đại là vì họ khước từ sự nhìn nhận phẩm giá siêu việt của
con người như là hình ảnh của Thiên Chúa. Vì con người là chủ
thể của các quyền nên không một cá nhân nào, tập thể nào, giai
cấp nào, dân tộc hay quốc gia nào có quyền xâm phạm các quyền
này được… Đối với những nhà
nước hay đảng phái tự cho rằng mình có sứ mạng lịch sử dẫn đầu [mọi
người] đến sự hoàn thiện, và tự đặt mình lên trên các giá trị
khác, thì các nhà cầm quyền này cũng không chấp nhận các tiêu
chuẩn khách quan về sự thiện và sự ác vượt ra khỏi ý chí của họ.
Vì như các tiêu chuẩn này, trong những hoàn cảnh nhất định sẽ
xét xử các hành động của họ. Đó là lý do tại sao nhà nước độc
tài tìm mọi cách để tiêu diệt Giáo hội, hay ít nhất cũng làm cho
Giáo hội trở nên phục tùng và trở thành cộng cụ trong cơ cấu ý
thức hệ của nó (cf. Centesimus Annus, # 44–45).
63. Theo HTXH, chúng ta hiểu như
thế nào là dân chủ ?
Giáo hội đề
cao thể chế dân chủ là vì nó bảo đảm sự tham gia của người dân
vào việc lựa chọn thể chế chính trị, bảo đảm được việc điều hành
chính phủ và có thể thay đổi nó một cách bình yên khi phù hợp.
Nhưng Giáo hội không thể khuyến khích việc hình thành các tổ
chức nhằm chiếm đoạt quyền hành vì tư lợi cá nhân hay mục đích ý
thức hệ. Như thế, nền dân chủ thực thụ chỉ hiện diện trong một
quốc gia khi quốc gia ấy tôn trọng luật pháp và có những quan
niệm đúng đắn về nhân vị con người (cf. Centesimus Annus,
# 46).
Mặt khác, dân
chủ không thể bị thần tượng hóa đến mức như là sự thay thế cho
nền đạo lý hoặc như một thần dược cho sự vô luân. Thực ra, dân
chủ là một “hệ thống” và như là một phương tiện chứ nó không
phải là cùng đích. Giá trị luân lý của nó không mang tính tự
động, nhưng phụ thuộc vào sự tuân theo luật luân lý, mà như tất
cá các hình thức cư xử khác của con người là chủ thể. Nói cách
khác, luân lý dân chủ được quyết định bởi hậu quả luân lý mà nó
theo đuổi và phương tiện mà nó sử dụng (cf. Evangelium Vitae,
# 70).
64. Hậu quả của một nền dân chủ
không giá trị sẽ ra sao?
Một nền dân
chủ không giá trị là một nền dân chủ không dựa trên sự thật và
phẩm giá con người. Thực vậy, nếu không hướng đến sự thật trọn
hảo, thì các hoạt động chính trị, các tư tưởng và giáo điều dễ
dàng bị nhào nặn nhằm mục đích bảo vệ quyền lực. Như lịch sử đã
chứng minh, nền dân chủ không có giá trị sẽ dễ dàng biến thành
một chủ nghĩa độc tài biến dạng. Vì thế, mọi lãnh vực của cá
nhân, gia đình, xã hội, luân lý cần phải được đặt trên nền tảng
sự thật và mở lòng trong sự thật để hướng đến sự tự do chân thật
(cf. Veritatis Splendor, # 101).
65. Bằng chứng nào cho thấy một
nhà nước có dân chủ thật sự?
Thông điệp
Tin Mừng Sự Sống giúp cho ta thấy bằng chứng nền dân chủ của
một quốc gia có thật hay không: [Một quốc gia] “sẽ không có một
nền dân chủ thực sự nếu sự nhận thức về phẩm giá và quyền của
mỗi người không được nhìn nhận; và dĩ nhiên, ở nơi đó cũng sẽ
không có hòa bình nếu sự sống không được bảo vệ và ủng hộ” (Evangelium
Vitae, # 101). Rõ ràng, bất cứ ở nơi đâu chính quyền không
tôn trọng phẩm giá con người và không bảo vệ sự sống con người
thì ở nơi đấy không có nền dân chủ thực sự.
Br. Huynhquảng
|
VỀ MỤC LỤC |
|
ALEXANDRE SOLJENITSYNE, CHỨNG NHÂN CỦA LƯƠNG TRI
|
Các nền văn minh và các thể chế
chính trị rồi cũng qua đi với thời gian; nhưng nhân tính và
lương tri vẫn luôn tồn tại. Alexandre Soljenitsyne không phải
chỉ là một nhà văn hóa ý thức được chân lý vĩnh viễn đó, nhưng
còn hơn thế nũa, ông đã vươn mình lên trên các nhà tư tưởng
đương thời để đóng vai trò chứng nhân cho phẩm giá và tự do đích
thực của con người.
Trong cuốn “Quần đảo Goulag”,
Alexandre Soljenitsyne, một chứng nhân và cũng là tiếng nói của
lương tri trong thế kỷ 20, diễn tả phần vụ chứng nhân cho chân
lý để hoàn thành nhân tính qua câu nói ngắn gọn, nhưng dứt khoát
: “Cứ câm nín trước tội ác, cứ để nó thấm nhập vào thân thể
chúng ta, cứ như thế là chúng ta đang thực sự gieo rắc điều ác”.
Điều ác nguy hại không phải chỉ vì
nó là ác, nhưng điều ác tác hại khi nó được che đậy và biện
minh. Điều ác không phải chỉ đáng trách cứ lên quan đến kẻ gieo
rắc sự ác, nhưng còn do kẻ bao che nó. Năm 1974, trước khi bị
trục xuất khỏi quê hươngđể kéo lê 20 năm lưu đày trên đất khách,
Soljenitsyne đã gởi ra một thông điệp tối hậu không những cho
người Nga mà còn cho cả nhân loại: “Chìa khóa đơn giản và dễ tìm
nhất cho việc giải phóng mà cho đến nay chúng ta cố ý lờ đi
chính là đừng để cá nhân mình tham dự vào sự dối trá”.1
Chính vì là phát ngôn của tiếng
nói lương tri, tiếng nói không thuộc về một nên văn minh nào,
một thể chế chính trị nào, nên Soljenitsyne không chỉ dừng lại ở
khung Trời Đông cộng sản kinh hoàng để có thể câm nín trước tai
họa của Phương Tây vô hồn đang quên lãng chiều sâu tâm linh của
nhân tính. Năm 1978, khi vừa đến tỵ nạn tại Hoa Kỳ, Soljenitsyne
đã làm sửng sốt ngay cả những người ái mộ ông trong đại giảng
đường Đại học Harvard bằng những lời cảnh báo nặng nề dành cho
một xã hội duy vật, cá nhân chủ nghĩa, thiếu nền tảng và sức
mạnh đạo đức. Theo ông, Phương Tây ấy đang lẫn lộn tài vật với
Thiện hảo, tiền tài thay cho hòa hợp, hưởng thụ thay cho hạnh
phúc.
Alexandre Soljenitsyne không phải
chỉ là một đại văn hào của nước Nga, một cây bút sắc bén đã chặt
đứt rễ cây nuôi sống một chế độ phi nhân, nhưng hơn thế nữa, ông
còn là nhà tư tưởng tiên tri, phát ngôn cho Lời muôn thủa thắp
sáng ý nghĩa sâu kín của nhân tính. Nhà sử học chuyên khoa về
nước Nga và cũng là tổng thư ký của Hàn Lâm Viện Pháp quốc, nữ
văn sĩ Hélène Carrère d'Encausse, đã nhận định về nhà tư tưởng
ngoại hạng nầy khi hay tin ông tạ thế trong đêm tối chủ nhật 3
rạng sáng ngày thứ hai 4 tháng 8 năm nay rằng: “Điều đáng lưu ý
là, cùng với cung cách rất Nga, Alexandre Soljenitsyne là hiện
thân cho khía cạnh đạo đức con người đối diện với gông cùm của
một chế độ độc tài. Công trình sáng tác to lớn của ông, nguồi
cảm hứng thi ca của ông gần với văn hào Tolstoi, còn về chiều
sâu tư tưởng ông đứng ngang hàng với Dostoievski. Đối với ông,
chính con người mới là điều đáng được lưu ý, phẩm giá con người
trên tất cả”.2
Qua kinh nghiệm sống của từng cá
nhân và tập thể, cũng như người Nga, người Việt đồng cảm được sứ
điệp về nhân phẩm và tự do mà Soljenitsyne suốt đời tranh đấu và
rao giảng. Nhưng bao giờ chân lý và ước mơ đó trở thành hiện
thực trên quê hương Việt Nam?
Định
Hướng Số 53
1 A. Soljenitsyne, Les droits de
l'écrivain, Paris, Seuil, 1974, p.44
2 Cf. Le Figaro, ngày 4 tháng 8
năm 2008 |
VỀ MỤC LỤC |
|
NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA ĐẠO CÔNG GIÁO VỚI VĂN HOÁ VIỆT
|
Đạo Công giáo
du nhập vào nước ta từ đầu thế kỷ XVI. Các sử gia Công giáo lấy
mốc năm 1533 vì có ghi trong Khâm định sử thông giám cương mục.
Nhưng tư liệu này không chắc chắn vì ghi theo “ dã sử”. Hơn nữa,
giáo sĩ Inikhu nói ở sách này, cho đến nay vẫn không ai rõ tung
tích. Đồng thời cả trong phần “ cương” và “mục” của sách trên
cũng nói rằng, “ trước đã có lệnh cấm rồi”. Chứng tỏ tôn giáo
này có trước cả thời điểm 1533. Tuy nhiên, có thể khẳng định
chắc chắn, đạo Công giáo đã có nhiều đóng góp với văn hoá Việt.
1. Trước hết, đạo Công giáo là cầu
nối giao lưu giữa văn hoá Việt Nam và thế giới.
Đạo Công giáo
ra đời từ Tiểu á nhưng lại phát triển mạnh ở châu Âu nên khi vào
Việt Nam, nó cũng mang theo cả văn hoá, văn minh phương Tây vào
theo. Thông qua Công giáo, người dân Việt Nam được thưởng thức
những bản nhạc bất hủ của thế giới như Ave Maria, Holly
Night, Jingle bell hay các hoạ phẩm Bữa tiệc ly, Đức Mẹ đồng
trinh của các hoạ sĩ thiên tài L.Vinci, Raphael. Rồi những
kiến trúc nhà thờ độc đáo kiểu gotic, roman, basilique của
phương Tây cũng đã xuất hiện khắp nơi trên dải đất hình chữ S.
Trong số
những nhà truyền giáo buổi đầu, không ít người được đào tạo bài
bản trong các dòng tu, học viện phương Tây nên họ cũng là những
nhà khoa học tinh thông nhiều lĩnh vực. Alexandre de Rhodes (Đắc
Lộ) năm 1627 đã mang biếu Chúa Trịnh chiếc đồng hồ chạy bằng
bánh xe và cuốn Kỷ hà nguyên bản của nhà toán học Euclide, đồng
thời giảng giải cho Trịnh Tráng nghe. Giáo sĩ Badinoti ( người
ý) năm 1626 cũng được vời về phủ chúa để giảng về thiên văn, địa
lý và toán học. Các giáo sĩ Da Coxta, Langerloi đã mang vào Đàng
Trong phương pháp chữa bệnh theo lối Tây y nên được nhà chúa cho
mở nhà thương ( bệnh viện). Có hai giáo sĩ là J.B Sanna ( người
ý) và S.Piere (người Bồ) được phong ngự y dưới thời Minh
Vương. Các giáo sĩ cũng phổ biến kỹ thuật dệt vải mịn và khổ
rộng bằng khung dệt mang từ nước ngoài vào để sản xuất tại dòng
Mến Thánh giá Di Loan ( Quảng Trị) và sản phẩm đã được trưng bày
tại hội chợ Paris năm 1867. Kỹ thuật in ấn của ta trước đây là
bản khắc gỗ rất lâu công. Các giáo sĩ đã đưa kiểu in bằng con
chữ đúc đồng hay chì. Nhà in Vĩnh Trị thời Giám mục Jacques
Longer (1752-1831) đã sử dụng kỹ nghệ mới về nghề in. Người ta
cũng ghi nhận chính các giáo sĩ đã đưa giống cừu vào Phan Rang
để nuôi và linh mục Henry cũng là người đầu tiên đưa cây phi lao
về trồng ở xứ Hà úc ( Huế)…
Mặc dù sinh
trưởng ở phương Tây nhưng nhiều giáo sĩ lại rất coi trọng văn
hoá Việt. Linh mục Bunzomi, người đặt chân lên đất Đàng Trong
ngày 18-1-1615 nhận xét: “ Nhờ Khổng giáo, xã hội và gia đình
Việt Nam đã có một tổ chức rất cao, người dân Việt Nam có những
đức tính và phong tục rất đáng khâm phục”(1). Đắc Lộ thì khen cả
pháp luật nước ta lúc đó “ không rườm rà, lôi thôi”, các lương y
của Việt Nam thì “chẳng thua gì các bác sĩ của ta và hơn nữa
trong một vài môn, họ giỏi hơn nữa…họ luôn dùng ba ngón tay để
bắt mạch và thực ra họ rất thành thạo. Thuốc của họ không khó
uống và thứ đắt nhất cũng chẳng giá hơn 5 xu” (2). Khi in ấn các
tác phẩm của mình ra nước ngoài như Từ điển Việt- Bồ – La,
Hành trình truyền giáo, Lịch sử vương quốc Đàng Ngoài của Đắc Lộ
hay Truyện xứ Đông Kinh của Bunzomi, Từ điển Việt – La, La- Việt
của P.de Behaine và Tabert, Di tích lịch sử Quảng Bình, Lũy Thày
Đồng Hới của L. Cadiere…Thế giới phương Tây đã biết đến Việt
Nam và chắc không ít người cũng đã ngạc nhiên như Đắc Lộ: “Tôi
không biết vì sao đất nước rất xinh đẹp này lại không được biết
tới, vì sao các nhà địa lý châu Âu không biết tên gọi và gần như
không ghi trong bản đồ nào cả. Tuy họ chép đầy đủ tên các nước
trên thế giới” (3).
Chính các
giáo sĩ cũng đã giới thiệu cách làm kinh tế mới như rẻ mua, đắt
bán, cho vay lấy lãi vừa phải và nhiều ghi chép của họ còn là
bằng chứng về chủ quyền của nước ta ngày nay. Ví dụ, Giám mục
J.Louis Tabert viết trên tạp chí Journal of the Royal Asian
society of Bengal tháng 9-1837 như sau: “ Quần đảo Panacels mà
người Việt gọi là Cát Vàng hay Hoàng Sa gồm nhiều đảo chằng chịt
với những đảo nhỏ và bãi cát mà các nhà hàng hải khiếp sợ một
cách chính đáng do người Việt xứ Đàng Trong chiếm cứ…Năm 1816,
vua Gia Long cắm cờ trên quần đảo này”.
2- Công giáo với việc xây dựng chữ
Quốc ngữ
Chữ Quốc ngữ
là công trình tập thể của nhiều giáo sĩ nước ngoài với sự cộng
tác của người Việt. Dĩ nhiên mục đích của các nhà truyền giáo
lúc đầu là để truyền giáo được dễ dàng hơn nhưng nó lại phù hợp
với tiến trình phát triển và tinh thần độc lập, tự cường dân tộc
nên các chí sĩ của phong trào Đông kinh nghĩa thục coi đó là “
một trong sáu phương kế để mở mang dân trí”. Nhà nghiên cứu
Dương Quảng Hàm nhận xét: “Các giáo sĩ người Âu đặt ra chữ quốc
ngữ, chủ ý là có được một thứ chữ để viết tiếng ta cho tiện và
dùng cho việc truyền giáo cho dễ. Không ngờ rằng, vì thế lịch sử
xui khiến, chữ ấy nay đã thành văn tự phổ thông cho cả dân tộc
ta. Đành rằng, cũng như các công trình do người ta sáng tạo ra,
thứ chữ ấy cũng có vài khiếm khuyết điểm, nhưng ta nên nhận
rằng, ở trên hoàn cầu này không có thứ chữ nào tiện lợi và dễ
học bằng thứ chữ ấy”(4). Thành công của chiến dịch “diệt giặc
dốt” sau cách mạng tháng 8-1945 và cả việc học sinh, sinh viên
Việt Nam ngày nay dễ dàng học ngoại ngữ, tin học càng khẳng định
vai trò của chữ Quốc ngữ.
Cũng cần nói
rõ thêm là việc Hội Trí Tri cho dựng bia ghi công của Đắc Lộ
trước đền Bà Kiệu ( Hà Nội) năm 1941 và dịp sinh nhật lần thứ
400 của ông, tên Đắc Lộ đã được trả lại cho một đường phố ở
thành phố Hồ Chí Minh, rồi tấm bia trên sau một thời gian lưu
lạc ở bờ đê sông Hông và bị một người dân lấy về làm cầu ao đã
được Nhà nước đề nghị cho dựng lại ở Thư viện Quốc gia (tiếc
rằng đến hôm nay nó vẫn còn nằm trong kho ở công viên Thống
Nhất) không có nghĩa nói rằng chỉ Đắc Lộ là người duy nhất có
công trong việc sáng tạo ra chữ Quốc ngữ. Vậy mà một số người
như ông Bùi Kha cố tình vu cáo rằng Nhà nước Việt Nam đã “ tôn
vinh nhầm một tên gián điệp, đạo văn…”. Lý do như ông Bùi Kha
đưa ra là Đắc Lộ có qua Pháp gặp vua Pháp và Pina mới là có công
đầu với chữ quốc ngữ (5). Thật lạ, chẳng lẽ cứ qua Mỹ như ông
Bùi Kha là làm gián điệp cho Mỹ cả hay sao? Còn chuyện Pina thì
Đắc Lộ đã nói rõ trong cuốn Lịch sử vương quốc Đàng Ngoài khi in
bằng tiếng ý năm 1650, tiếng Pháp năm 1651 và tiếng Latinh năm
1652 rồi.
Liên quan đến
vai trò chữ Quốc ngữ, cũng có người cho rằng do thứ chữ này mà
đạo Công giáo đã làm đứt đoạn văn hoá dân tộc vì người dân phải
từ bỏ chữ Hán, chữ Nôm. Điều này cũng không chính xác. Bởi vì
chỉ sau khi chính quyền bảo hộ từ năm 1910, buộc dùng chữ Quốc
ngữ trong thi cử và giấy tờ hành chính thì chữ Hán , chữ Nôm mới
mất vị trí phổ thông. Nhưng trong nhiều chủng viện Công giáo,
các chủng sinh vẫn buộc phải học chữ Hán, chữ Nôm và rất nhiều
ấn phẩm Công giáo được ghi bằng thứ văn tự này như Majorica
(1591-1656) đã để lại 45 tác phẩm chữ Nôm với khoảng 1,2 triệu
chữ. Cuốn Thánh giáo kinh nguyện bằng chữ Nôm vẫn được in tại Hà
Nội năm 1929.
Chúng tôi
không tán thành việc đề cao quá mức sự kiện xuất hiện chữ Quốc
ngữ nhưng cũng không tán thành ý kiến cho rằng “ sở dĩ mấy con
rồng Đông Nam á trở thành rồng vì họ vẫn dùng chữ Hán đến ngày
nay” (6). Bởi văn tự không phải là nhân tố quyết định sự phát
triển của một đất nước. Thế nhưng chỉ một hiện tượng, nhiều giáo
sĩ có chủ trương latinh hoá tiếng bản xứ như ở Trung Quốc, Nhật
Bản, Triều Tiên nhưng chỉ có Việt Nam là thành công, đã chứng tỏ
tài năng của những người sáng lập chữ Quốc ngữ và kể cả sự nhanh
nhạy nhìn xa của dân tộc Việt Nam nữa.
3- Văn hoá Công giáo làm phong phú
văn hoá Việt
Tôn giáo là
một thành tố quan trọng của văn hoá và bản thân tôn giáo cũng là
văn hoá nên việc đạo Công giáo vào Việt Nam đã làm phong phú cho
văn hoá Việt không chỉ thêm một tôn giáo mới mà còn bổ sung rất
nhiều sắc thái mới khác nữa.
Công giáo là
một đề tài mới cho văn học nghệ thuật nên đã có nhiều tác phẩm
mới ra đời như Giáng sinh của các hoạ sĩ Nguyễn Gia Trí, Nguyễn
Văn Chung và của nhiều nhạc sĩ, nhà văn khác như Văn Cao, Phú
Quang, Chu Văn, Nguyễn Khải…Dòng văn học Công giáo cũng xuất
hiện rất sớm với Truyện thày Lazaro Phiền của Nguyễn Trọng Quản
in năm 1887- được coi là truyện vừa đầu tiên của văn học nước ta
lấy trạng thái tâm lý làm đối tượng miêu tả. Rất nhiều tác giả
người Công giáo cũng để lại dấu ấn của mình trên văn đàn như Hàn
Mặc Tử, Hồ Dzếnh, Nguyên Hồng, Bàng Bá Lân…Cả một kho tàng ca
dao, tục ngữ Công giáo cũng đã được lưu hành để phản ánh về
phong tục, tập quán của cộng đoàn này. Ví dụ các câu ghi kinh
nghiệm sản xuất:
- Lễ
Rosa (7-10) thì tra hạt bí
Lễ Các thánh
(1-11) thì đánh bí ra.
- Lễ
Các thánh gánh mạ đi gieo
Lễ Sinh nhật
(25-12) giật mạ đi cấy…
Tranh tượng,
thánh ca, kiến trúc, lễ hội Công giáo cũng làm thành một
“trường phái”riêng đóng góp vào vườn hoa rực rỡ sắc màu của văn
hoá Việt. Bây giờ lễ Valentin, Noel đâu còn phải là của riêng
người Công giáo mà đã là lễ hội chung của rất nhiều người Việt
nhất là giới trẻ. Báo chí Công giáo như tờ Nam Kỳ địa phận xuất
hiện ở Sài Gòn ngày 26-11-1908 là một trong những tờ báo bằng
chữ Quốc ngữ sớm nhất ở nước ta. Những nhà báo Công giáo như
Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của là những người đã đưa lối làm
báo “ nói viết như thường” từ phương Tây vào Việt Nam qua tờ Gia
định báo. Sang đầu thế kỷ XX, không giáo phận, dòng tu Công giáo
nào không có báo riêng. Có tờ rất nổi tiếng như tờ Vì Chúa của
linh mục L’Abbe Thích ở Cửa Tùng mà Phan Bội Châu thường cộng
tác. Các tờ báo Công giáo ở miền Nam trước 4-1975 như Sống đạo,
Đất nước, Đối diện, Chọn, Tin mừng hôm nay…cũng góp nhiều
tiếng nói cho cuộc đấu tranh chô công bằng, tự do và dân
chủ.
Cũng không
thể không nói đến những danh nhân văn hoá người Công giáo như
Trương Vĩnh Ký (1837-1898), Nguyễn Trường Tộ (1830- 1871), Đắc
Lộ (1593-1660), L.Cadiere (1869-1955), Hàn Mặc Tử (1912-1940)…và
chắc viết về mỗi người thì không thể nói hết trong vài trang
giấy được. Ngay cả các nhà nghiên cứu về Công giáo hiện nay,
không ai là không phải đọc các tác phẩm của các tác gia Công
giáo như Bùi Đức Sinh, Trần Tam Tỉnh, Kim Định, Thanh Lãng,
Hoàng Sĩ Quý, Đỗ Quang Chính…Cũng chính các tác gỉa này cùng với
đạo Công giáo đang là một kênh quan trọng để giới thiệu hình ảnh
đất nước con người Việt Nam ngày nay ra thế giới. Một chuyến đi
của Hồng y Crescenzio Sepe – Tổng trưởng Bộ Truyền giáo qua Việt
Nam cuối năm 2005 chắc chắn sẽ hữu ích hơn cả hàng trăm bài giới
thiệu về Việt Nam với bạn bè quốc tế.
4- Giáo lý Công giáo góp phần xây
dựng lối sống lành mạnh trong xã hội
Cũng như
nhiều tôn giáo khác, đạo Công giáo cũng luôn buộc các tín hữu
phải sống lành mạnh, hướng thiện. Giáo lý Công giáo không chỉ
cấm giáo dân làm điều ác mà cấm cả suy nghĩ không lành mạnh,
trong sáng như ước ao chiếm dụng của cải, vợ chồng của người
khác ( điều răn thứ 9). Có nghiã là ngăn chặn tội ác từ trong ý
nghĩ. Hôn nhân một vợ một chồng cũng là tiến bộ của xã hội và
của giáo lý Công giáo. Theo số liệu của Toà án nhân dân tối cao,
mỗi năm trước 1982 nước ta có trung bình 5672 vụ ly hôn. Năm
1991 tăng lên 22000 vụ, năm 1994 có 34376 vụ. Năm 1995 có 35684
vụ. Trong khi đó, ở làng Công giáo Trung Thành ( Hải Vân Hải
Hậu, Nam Định), nơi có 6000 giáo dân sinh sống mà suốt 5 năm
1990-1995 chỉ có 2 cặp ly thân. Đây là yếu tố hấp dẫn đối với
người ngoài Công giáo đến với tôn giáo này.
Đạo Công giáo
cũng cổ vũ cho các hoạt động bác ái, từ thiện nên các tấm gương
của các nữ tu ở các trại phong cùi, chăm sóc bệnh nhân HIV/AIDS,
chất độc màu da cam đã được xã hội tôn vinh như nữ tu Nguyễn Thị
Mậu 40 năm ở trại phong Di Linh ( Lâm Đồng) đã được phong anh
hùng lao động. Chị Nguyễn Thị Mai ( Quảng Bình) dũng cảm cứu
người trong trận lũ lịch sử ngày 26-4-2004 và hy sinh đã được
Nhà nước truy tặng danh hiệu liệt sĩ. Còn vợ chồng anh Tống
Phước Phúc ở Nha Trang đã giúp đỡ nhiều cô gái lỡ mang thai được
mẹ tròn con vuông và làm hẳn nghĩa trang cho hàng ngàn thai nhi
đã được Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết gửi thư khen…Nếu trước
đây, giáo hội cấm đoán giáo dân không được rượu chè, cờ bạc, dâm
dật thì ngày nay lại ra sức mời gọi mọi người ngăn chặn nạn
nghiện hút, sự đổ vỡ của gia đình cũng như phải chăm lo giáo dục
con cái. Chính điều này đã làm cho cuộc sống ở những vùng đông
giáo dân an bình, đỡ tội phạm hình sự hơn. Người Công giáo không
chỉ tích cực tham gia các hoạt động bác ái mà con số cũng không
nhỏ (Ví dụ Uỷ ban bác ái xã hội của HĐGMVN từ 2001-2007 đã trợ
giúp 24,5 tỷ đồng cho các chương trình từ thiện) mà còn chủ động
góp công của xây dựng quê hương như xã Quỳnh Thanh ( Nghệ An)
nơi có hơn 11.300 người Công giáo sinh sống thì 26,2% kinh phí
xây dựng cơ bản tại địa phương ( làm trường, đường, trạm y tế,
nhà máy nước…) là của các linh mục . Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng
trong cuộc hội kiến với Giáo hoàng Benedicto XVI tại Vatican
ngày 25-1-2007 đã nhận xét: “ ở Việt Nam, cộng đồng những người
Công giáo là một cộng đồng năng động, kính Chúa, yêu nước và có
những đóng góp tích cực trong việc xây dựng và phát triển đất
nước”.
Rõ ràng, đạo
Công giáo đã để lại nhiều dấu ấn trên văn hoá nước ta và đây là
điều người Công giáo Việt Nam có thể tự hào. Dĩ nhiên, không có
sự tác động nào đơn phương một chiều cả. Giống như lửa thiêu
cháy củi thì củi cháy lại làm cho ngọn lửa bốc cao hơn nên Công
giáo ảnh hưởng đến văn hoá Việt Nam thì văn hoá Việt Nam cũng
biến đổi tôn giáo này ngày càng gần gũi với văn hoá Việt. Đây là
một đề tài thú vị mà chúng tôi hy vọng có thể trình bày trong
một dịp khác.
---------------------
Chú thích:
* TS Đại học
Đông Đô
1- Nguyễn
Hồng- Lịch sử truyền giáo ở Việt Nam, tập 1, SG Hiện Tại, 1959.
2- A. Rhodes:
Hành trình truyền giáo, Tủ sách Đại kết 1994, tr.89
3- A.Rhodes:
Hành trình…sđ d, tr.143.
4- Việt Nam
văn học sử yếu, Sài Gòn 1960, tr.180
5- Bùi Kha:
Alexandre de Rhodes và những nhầm lẫn đáng tiếc, Tạp chí Huế xưa
và nay, số 7-8 năm 2004, tr.55.
6- Xem Nguyễn
Hưng: Sơ thảo thư mục Hán Nôm Công giáo VN, Lưu hành nội bộ năm
2000, tr.13
Tiến sĩ Phạm Huy Thông |
VỀ MỤC LỤC |
|
LỜI CẦU TRONG CƠN ĐAU
|
(Xin dâng lời
cầu và hiệp thông cùng tất cả các gia đình và cộng đoàn có thành
viên trong tai nạn thảm khốc tại Sherman, trên đường đi Ngày
Thánh Mẫu 2008)
Đoàn con hiền
thảo, dặm đường xa
Nô nức về nơi
tháp báu ngà
Lòng trĩu ưu tư,
tìm dẫn dắt
Hưởng nguồn
thiên phúc, Chúa bao la
Hung tin vụt
đến, nghẹn lời ca
Hiệp nhất muôn
tim, lệ thấm nhoà
Mẹ hẳn thấu tình
con thảo hiếu
Cúi đầu vâng ý
nhiệm mầu Cha.
Cõi lòng hiền
mẫu, Ma ri a
Cầu Chúa ủi an
lúc xế tà
Thống khổ cõi
trần còn rướm máu
Vết thương hằn
dấu trên mình da
Lòng con đến với
Mẹ thương yêu
Như những đoá
hoa thật mỹ miều
Diệu vợi đường
dài con vội vã
Cánh kia bay
bổng đến huyền siêu
Truân chuyên lữ
thứ, bước trần gian
Cõi sống vĩnh
hằng, phúc vượt ngàn
Kiên vững niềm
tin thờ kính Chúa
Bước đường thánh
giá chẳng từ nan
L.M. Tân Trần
|
VỀ MỤC LỤC |
|
MẸ VỀ TRỜI SAO CÒN
XUỐNG ĐỂ KHÓC?!
|
Ngày 15 tháng 8 hằng năm, Giáo Hội Công Giáo khắp hoàn vũ long
trọng mừng kính biến cố vô cùng trọng đại và vinh dự của Đức
Maria, đó là việc Mẹ được Thiên Chúa cho về trời cả hồn lẫn xác.
Trên nơi cao thẳm ấy, Mẹ được tôn phong làm Nữ Vương trời đất,
để cùng với Chúa Giêsu, Mẹ cầu bầu cho con cái Mẹ còn đang sống
giữa ba đào trần gian.
Qua vai trò Nữ Vương và với lòng yêu thương con cái, đôi lần xẩy
ra trong lịch sử Giáo Hội và nhân loại, Mẹ đã từ trời xuống lại
trần gian hiển lộ để thông báo, cảnh tỉnh, hoặc phù trợ con cái
loài người. Thí dụ, Mẹ đã hiện ra tại Lộ Đức để mặc khải cho
nhân loại biết về đặc ân cao cả mà Chúa đã ban cho Mẹ, đó là đặc
ân vô nhiễm nguyên tội. Hoặc như lần Mẹ hiện ra tại Fatima ban
cho nhân loại phương thức để biến đổi thế giới, cải thiện lòng
người hầu tránh những đại họa mà Thiên Chúa công thẳng muốn
giáng phạt loài người, đó là chủ thuyết Cộng Sản vô thần. Riêng
tại Việt Nam, trong thời kỳ bách hại, người Công Giáo Việt Nam
cũng được Mẹ thương hiện ra tại La Vang để an ủi, và khích lệ.
Gần đây nhiều người đã nô nức, chen lấn nhau mong được nhìn tận
mắt những giọt lệ trên gò má của Mẹ tại trước Vương Cung Thánh
Đường Saigòn, trên núi Tàpao, và tại Bạch Lâm. Nước mắt chảy ra
trên gò má Mẹ, nước mắt thắm lệ và hóa thành máu, chuỗi hạt trên
tay Mẹ lónh lánh như những hạt sương, và áo Mẹ tung bay trước
gió. Những sự kiện trên đã được quay thành phim và phổ biết khắp
năm châu trên các màn điện toán. Vậy, là những Kitô hữu, nhất
là những Kitô hữu có lòng yêu mến và sùng kính Mẹ, chúng ta phải
nhìn những biến cố này như thế nào?
Phải chăng đây là những biến cố được xây trên những cảm tình
bồng bột, và được thêu dệt thêm bằng ảo tưởng, ảo ảnh và áo
giác?! Hay phải chăng đây chỉ là những tác dụng của tâm lý quần
chúng? Hoặc có thể, đây là chỉ những dụng ý của kẻ thù Thiên
Chúa muốn nhân những cơ hội này làm lung lạc Đức Tin, dẫn niềm
tin chúng ta vào những suy tư tình cảm, mê tín để rồi khi những
cảm tình, lòng sốt sắng nhất thời qua đi, chúng ta lạc mất niềm
tin, hoặc giảm sút lòng yêu mến đối với Mẹ. Thật ra, không phải
đợi cho đến bây giờ mà ngay từ thời Chúa Giêsu, Ngài cũng đã
cảnh tỉnh con người như sau:
“Hãy coi chừng đừng để mình bị lừa gạt. Vì sẽ có nhiều người
nhân danh Thầy mà nói: “Chính ta là Đức Kitô” và lừa gạt nhiều
người. Các con sẽ nghe nói về chiến tranh và những lời đồn đãi
về chiến tranh, nhưng đừng xao xuyến. Vì những chuyện đó cần
phải xẩy ra trước, nhưng chưa phải là hết thời. Quốc gia này sẽ
dấy lên chống lại quốc gia khác và dân này sẽ đánh lại dân kia.
Sẽ có đói khổ, động đất khắp nơi. Mọi chuyện ấy là khởi điểm như
những đau đớn của việc chuyển bụng. Người ta sẽ nộp các con để
bị đánh đòn, và giết các con. Các con sẽ bị mọi dân tộc ghét bỏ
vì danh Thầy. Và bấy giờ họ sẽ vấp ngã, thù ghét và phản bội
nhau. Sẽ có nhiều tiên tri giả lừa gạt nhiều người. Vì sự dữ gia
tăng nên lòng mến của nhiều người sẽ nguội lạnh. Nhưng ai bền đỗ
đến cùng sẽ được cứu rỗi” (Mt 24:4-13).
Đức Tin dậy chúng ta rằng, sau khi Giáo Hội đã đóng sổ kho tàng
Mặc Khải bằng cuốn Khải Huyền của Thánh Gioan, thì mọi mặc khải
phổ quát đều được chấm dứt. Có nghĩa là những gì Thiên Chúa muốn
tỏ lộ và nói với con người nhân danh tình yêu và vì phần rỗi
nhân loại thì đã được Ngài thực hiện xong. Tuy nhiên, cũng vẫn
theo Thánh Kinh, qua lời dậy của Thánh Phaolô, thì những lần
hiển lộ đó đây với người này, người kia vẫn được Thiên Chúa dùng
như những tiếng nhắc nhở có liên quan đến phần rỗi của một số
người, hoặc chung cho nhiều người.
Thánh Phaolô đã trình bày về giáo lý này tương tự như những lời
tiên tri và cho rằng không nên từ chối, nhưng cũng không nên vội
vàng, hấp tấp, mà phải cẩn thận suy nghĩ, nghiệm xét. Từ đó,
Giáo Hội cho đây là những mặc khải tư, và không buộc tín hữu
phải tin theo nhưng để tùy lòng sốt sắng và sự đón nhận của mỗi
tâm hồn.
Năm 1917 tại Fatima, hoặc tại Lộ Đức hơn 150 năm trước, hay ngay
tại La Vang hơn 300 năm ngay trong thời gian những Kitô hữu Việt
Nam bị bách hại, những lần hiện ra đó Mẹ đã nhắn nhủ, khuyên
bảo, và ban muôn ơn lành cho những tâm hồn thiện tâm muốn đón
nghe sứ điệp của Mẹ. Những cảm tính thuộc lãnh vực tình cảm,
những gì có tính cách ồn ào, dị đoan hay mê tín đều không tồn
tại. Chính vì thế, những hiện tượng dồn dập gần đây xẩy ra tại
Sàigòn, Tàpao hay Bạch Lâm khiến chúng ta phải suy nghĩ. Tại sao
Mẹ lại khóc? Tại sao Mẹ đã về trời, đang vinh hiển cùng với
Thiên Chúa và muôn vàn thần thánh lại còn phải xuống trần gian
để khóc. Những giọt nước mắt, những giọt máu đang chảy ra từ
khóe mắt Mẹ mang ý nghĩa gì? Phải chăng những lời khuyên nhẹ
nhàng của Mẹ năm xưa tại Fatima đã không còn sức đánh động lòng
người, nên Mẹ đành phải khóc?
Trong truyện các Thánh kể rằng một hôm Thánh Lui nước Pháp được
vị quan trong triều cho biết một phép lạ đã xẩy ra, Thánh Thể
Chúa đang bay lơ lửng trên không sau khi một linh mục đọc lời
truyền phép. Vị vua đạo đức này đã trả lời, là nếu ai chưa tin
thì đi mà xem còn mình thì vẫn tin là Chúa Giêsu ở trong Phép
Thánh Thể. Nếu vua Thánh Lui sống ở vào thời đại của chúng ta,
có lẽ ngài cũng nói với chúng ta rằng nếu ai còn hồ nghi lòng
yêu thương và sự quan tâm của Đức Mẹ thì hãy đi mà nhìn xem
những hiện tượng ấy, còn phần mình, ngài vẫn luôn tin rằng Đức
Trinh Nữ Maria luôn luôn yêu thương và lo lắng cho mỗi người
chúng ta.
Thật vậy chính Đức Tin mới làm cho chúng ta tin nhận tấm bánh
sau khi truyền phép là Thánh Thể Chúa, chứ việc con mắt xác thịt
nhìn xem vẫn không thay thế được niềm tin. Trên khắp thế giới,
cứ mỗi 4 giây là có một thánh lễ được dâng lên, nhưng đã có bao
nhiêu lần trong các thánh lễ ấy Thánh Thể Chúa bay lơ lửng trên
không. Cũng thế, chính do lòng yêu mến, tin tưởng, và phó thác
cho Mẹ mới đem lại cho chúng ta sức mạnh cải thiện, gia tăng đức
ái, và hăng say sống chứng nhân cho Thiên Chúa theo lời Mẹ
khuyên chứ không phải việc chen lấn để được nhìn xem những giọt
nước mắt lăn trên gò má của các thánh tượng Mẹ.
Xưa trên đồi Gongotha, Mẹ đã âm thầm, can đảm đứng dưới chân
thập giá Chúa. Mẹ đã khóc thương Chúa vì bị nhân loại chối từ và
đóng đinh. Ngày nay, giữa những vong ân, bội nghĩa của con cái
loài người đối với Thiên Chúa. Và vì con người ngày càng xa lìa
tiếng mời gọi yêu thương của Chúa và Mẹ. Tiếng mời gọi sống bác
ái, yêu thương, và vâng giữ các huấn lệnh Chúa, nên không lạ gì
mà Mẹ phải khóc. Không riêng gì những người không tin Chúa,
người Công Giáo lúc này cũng đang phá thai, cũng đi theo lối
sống đồng tính và hôn nhân đồng tính, và cũng hăm hở chạy theo
những đam mê, dục vọng. Một số các linh mục, số giám mục, và nam
nữ tu sỹ đã bỏ quên không thực hiện những lời khấn hứa: vâng
phục, khiết tịnh, và khó nghèo. Nhiều vị còn để mình bị cuốn hút
bởi sức mạnh quyền lực, danh vọng, và vì thế, đời sống tận hiến
đã mất giá trị, và gương chứng nhân đã bị vỡ nát, khiến cho
người khác không thể nhìn thấy Chúa Giêsu qua họ.
Mẹ đã về trời cả hồn lẫn xác, đang vinh
hiển bên Con Chí Thánh, nhưng nay phải xuống trần để khóc quả là
những biến cố cần chúng ta phải suy nghĩ. Không phải bằng những
cảm tình nhất thời, nhưng bằng với ánh mắt Đức Tin để nhìn ra
đâu là những sứ điệp mà Mẹ muốn giử cho mỗi người. Người con
ngoan thì không làm mẹ mình phải khóc.
Trần Mỹ Duyệt, tiến sĩ tâm
lý |
VỀ MỤC LỤC |
|
TRUYỆN BÂY GIỜ MỚI VIẾT
|
Bây gìơ mới
viết, nhưng không phải là truyện cổ tích ngày xửa ngày xưa 100%
mà chỉ là ‘ngày xửa ngày xưa…đôi ta chung nón…’ mới đây thôi. Vì
thế cho nên… tên tuổi của những nhân vật trong truyện được đổi
để tránh phiền phức, nghi kỵ hoặc hiểu lầm...(nhỡ ra).
Truyện tháng 4 năm
1975
Hôm ấy là
ngày 27 tháng Tư, Sài Gòn đi từ ngột ngạt sang đến lo sợ. Chiến
tranh cứ từng giờ từng phút gần lại với thủ đô như con nước lũ
điên khùng không ai cản được. Đường ra Vũng Tầu đã bị cắt và
đường về Miền Tây cũng đã bị chặn. Tin tức xấu và những bình
luận bi quan được nghe bàn khắp nơi, từ những đuờng phố chính
ngập người tỵ nạn đến các con hẻm nhỏ vắng người. Phong và tôi
đến tìm thăm Tân, ở xứ Bùi Phát, trên đường Trương Minh Giảng.
Gia đình Tân đang xúm nhau làm giấy tờ để di tản đi Mỹ vì anh
của Tân làm sở Mỹ. Công ty Mỹ cho mỗi nhà mười người đi, nhưng
nhà Tân chỉ có chín và em trai của Tân lại vướng cô bạn gái nên
không chịu đi. Thế là dư hai chỗ. Vì phải quyết đinh và chuyển
giấy tờ cấp tốc nên Phong và tôi được ghi tên vào gia đình của
Tân và nằm chờ để được gọi ra phi trường Tân Sơn Nhất. Thật
không ngờ, nhưng tâm tư lúc ấy đang rối bời nên tôi chẳng thấy
vui tí nào, chỉ mong sao thoát ra khỏi SaiGon đang trong cơn
hoảng loạn tứ tán mà thôi.
Chẳng may
chiều hôm ấy, phi trường Tân Sơn Nhất bị pháo kích nặng nên việc
di tản của chúng tôi không thành. Chia tay nhau, Phong nói: ‘Mẹ
kiếp, đã vậy tụi mình ở lại làm chứng nhân cho những người vô
thần. Chết là cùng thôi’. Tôi im lặng và trong đầu thoáng hiện
ra những hình ảnh trong phim ‘Ánh Sáng Miền Nam’, ‘Chúng Tôi
Muốn Sống’… mà kinh hãi. Nhưng biết làm sao được… Thôi kệ,
chuyện gì phải đến sẽ đến…
Ngày 30 tháng
4, Sài Gòn thất thủ. Người chiến thắng thì vui mừng và ngạo
nghễ, còn kẻ chiến bại thì buồn tủi và căm phẫn.
Khoảng đầu
tháng Sáu sau đó, tôi trở lại Dalat tiếp tục học mặc dù tâm tư
vẫn còn rất nhiều giao động. Kinh nghiệm của các cha giáo người
nước Hungary, BaLan, và Trung Hoa Luc Địa trong học viện… cho
thấy đời sống tôn giáo không có gì sáng sủa trong những nước
cộng sản. Rất bất ổn, nhưng thấy các vị thầy ngoại quốc vẫn bình
tĩnh ở lại Việt Nam, rồi bạn bè từ Miền Trung và Miền Tây dần
dần trở lại trường nên tôi thấy bớt lo lắng. Có những đứa bạn
rất hăng say. Tôi nhớ trong một buổi họp lớp, Khanh - gốc Qui
Nhơn - đã chia sẻ: ‘Con chó sói mà ăn thịt chiên hoài rồi cũng
hiền lành ra thôi… Sợ gì…’.
Chẳng biết
Phong và Khanh tự nghĩ ra hay lấy những ý tưởng ‘anh hùng’ này ở
đâu. Chỉ biết tuổi trẻ có những hăng say của nó.
‘Mẹ kiếp, tụi mình ở lại làm chứng nhân cho những người vô thần.
Chết là cùng thôi’
‘
Con chó sói mà ăn thịt chiên hoài rồi cũng hiền lành ra thôi…Sợ
gì’
Ba mươi ba
năm sau, tác giả của câu nói số một giờ này thì đang làm linh
mục tuyên úy cho một xứ đạo lớn, không phải ở Việt Nam, mà ở bên
Đức. Có lần Phong gọi điện thoại tâm sự với tôi: ‘Mẹ kiếp tụi
Đức nó bỏ đạo nhiều lắm mày ạ. Nhiều nhà dòng và chủng viện giờ
này vắng tanh, chẳng còn ngoe nào tu cả …’
Phong ơi, bạn đang làm chứng nhân cho những người đang bỏ đạo,
chứ không phải cho những người vô thần như bạn dự tính. Bạn thấy
đàng nào dễ hơn’?
Còn tác giả
câu nói số hai thì cũng đang làm một linh mục giáo sư ở Việt Nam
sau hơn mười năm mang kiếp… Linh Mục… chui..
’Khanh ơi, đến giờ này thì con chiên
vẫn còn sống. Con chó sói có gặm mất của bạn miếng thịt ba chỉ
nào chưa? Và nó có hiền hơn tí nào không’?
Truyện năm 1978
Khoảng tháng
Mười năm 1975 thì toàn bộ giáo sư ngoại quốc của Giáo Hoàng Học
Viện, Dalat bị trục xuất về nước. Chúng tôi lại một lần nữa
hoang mang, nhưng vẫn bám trụ ở lại trường. Vừa lao động vừa
học. Đi phá rừng làm rẫy cách thành phố DaLat cả 10 cây số. Trời
lạnh và ăn uống rất kham khổ, nhưng vẫn kiên trì và vui bên
nhau. Đến khoảng giữa năm 1977 thì công an Dalat ra lệnh giải
tán toàn bộ nhà trường. Mỗi tu sĩ được cấp một tấm giấy ‘về nhà
làm ăn vĩnh viễn với gia đình’. Ngao ngán lắm, nhưng hành trang
trên đường ‘về thế gian’ của chúng tôi vẫn là những thùng sách
thần học. Tuổi đời vừa quá hai mươi, tương lai thì không thấy,
nhưng lòng thì vẫn hăng say: chứng nhân, chết là cùng.
Chạy chọt về
giúp xứ đạo Rạch Giá, sau thánh lễ một buổi sáng Chúa Nhật năm
1978, một anh bộ đội kéo tôi ra cuối nhà thờ bảo:
-
Tôi muốn nói truyện với ông một
tí.
‘Truyện gì
đây. Tôi đâu có phê bình nặng nề Ruồi Trâu hay Ngày Lễ Thánh như
cha phó Tuấn. Tôi đâu có làm trung gian vượt biên. Tôi đâu có
trốn công tác thủy lợi hay nói xấu cách mạng…’. Thấy tôi yên
lặng đi theo, anh bộ đội nói tiếp:
- Tôi hỏi ông
về đạo ấy mà.
Tôi nhẹ
người. Được. Tôi mới học xong Thần học đây. Anh muốn hỏi cỡ nào.
Ngồi xuống
ghế đá. Anh nói ngay:
-
Các ông cha ông thầy trong nhà thờ
cứ dậy bổn đạo về Chúa. Vậy ông chứng minh là có Chúa cho tôi
xem.
Như một học
sinh vớ được bài học tủ khi vào phòng thi, bài tủ ấy lại mới
được tôi soạn để dạy đám thiếu nhi hồi tuần trước, nên tôi thao
thao chứng minh cho anh bộ đội sự Hiện Hữu của Thượng Đế. Các lý
thuyết của Thánh Augustinô, của Thánh Tôma d’Aquin được tôi
lôi hết ra sân cho anh bộ đội xem.
-
Trên đời này, anh thấy có cái gì
tự mình mà có không? Đôi dép anh mang, cái áo anh mặc đều là do
những người thợ làm ra. Cơm gạo anh ăn cũng vậy… Và chính thân
xác của anh đây nữa. Anh đâu tự mình mà có. Cha mẹ sinh ra anh.
Rồi ông bà sinh ra cha mẹ anh… và cứ thế, cứ thế truy lên thì
…Phải có một Đấng Tự Hữu sinh ra muôn loài. Rồi anh thấy đó. Có
vật gì tự mình chuyển động được không? Con tàu chạy trên sông
trước mắt kia là do cái chân vịt quay và đẩy nước. Chân vịt quay
là do động cơ nổ. Động cơ nổ là do xăng và không khí được đốt
trong buống máy. Mặt trăng xoay quanh trái đất, và trái đất xoay
quanh mặt trời được là do đâu? Ai làm cho muôn vật sống và
chuyển động? Phải có Đấng tự mình có cái lực làm ra mọi chuyển
động chứ? Anh thấy không nào?
Anh bộ đội vu
vơ nhìn lên trời:
-
Con người ta bởi khỉ mà ra mà?
-
Chưa ai chứng minh được điều này
một cách khoa học anh ạ. Mà cho dù con người bởi khỉ mà ra đi
nữa thì cũng chẳng sao cả. Phải có Đấng dựng nên con khỉ chứ.
Con khỉ, con vượn, hay con đười ươi đâu tự mình mà có. Biết đâu
Chúa đã chẳng dựng nên con khỉ rồi một ngày cho nó đột biến
thành con người có linh hồn, có trí khôn…Điều quan trọng là có
sự can thiệp của Chúa trong các bước tạo dựng. Cho nên tôi chẳng
ngại nếu có ai bảo tổ tiên tôi là khỉ đột, miến là Chúa đã dựng
nên loài khỉ ấy…
Anh bộ đội
cũng đưa ra một mớ lý thuyết khoa học để chứng minh không có
Chúa. Tôi không nhớ hết chi tiết mình đã dùng để ‘bẻ lại’ thế
nào, chỉ nhớ là rất thuyết phục vì anh nghe tôi chăm chú, và tôi
nói thêm với anh: không thể chứng minh niềm tin bằng khoa học
hay toán học được.
Sau gần hai
giờ ‘tranh luận’, thấy anh bộ đội có vẻ hơi hơi ‘đuối lý’, nhưng
vẫn còn ‘cứng lòng’ nên tôi kể cho anh nghe truyện cá độ của
Pascal về Niềm Tin và sự Thiên Chúa Hiện Hữu: “Nếu không có Chúa
và ta không tin thì chả bên nào mất mát gì. Còn nếu không có
Chúa mà ta tin thì ta cũng chả thiệt thòi gì. Nếu có Chúa mà ta
tin thì là một điều vô cùng tốt đẹp. Còn nếu có Chúa mà ta không
tin thì là một mất mát to lớn”. Anh nghe tôi có vẻ thích thú.
Thực ra tôi
rất mến anh bộ đội và kính trọng sự thành tâm của anh. Còn anh
thì hình như cũng có cảm tình với tôi, nhưng cuối cùng thì
chúng tôi cũng chia tay nhau. Anh bộ đội bước ra khỏi cổng nhà
xứ, tay vẫn tiếp tục cầm đèn đi tìm chân lý. Còn tôi thì thấy
khô cổ và đói bụng, nhưng lòng thì khoan khoái y như vừa làm
xong bài Vạn Vật trúng tủ hồi thi Tú Tài II ở trường Chưởng Bình
Lễ, Long Xuyên ngày nào.
Cho đến khi
gặp cha phó Tuấn, Ngài bảo tôi: ‘Thầy nói gì mà hăng thế!!’. Tôi
chột dạ và thấy quê quê, rồi nghĩ lại: mình vừa bảo anh bộ đội
là không thể dùng toán học hay khoa học để chứng minh niềm tin
vậy mà mình lại muốn dùng triết lý để chứng minh sự Thiên Chúa
hiện hữu cho anh. Đúng là HUNG quá hóa thành HĂNG quên rằng niềm
tin tôn giáo chỉ có thể cảm nghiệm chứ không thể chứng minh. Một
nhà sư trên chùa Linh Sơn Da lat đã bảo tôi thế khi ông phải
tranh luận về Đạo Phật với những người ghét đạo. Thật rõ là tôi
‘hung hăng con bọ xít’.
Truyện năm ngoái.
Cha Vàng mới
từ Việt Nam qua Mỹ chơi. Bạn bè với nhau nhiều năm, nhất là
trong những ngày tháng khổ cực sau năm 1975, nên khi không có
‘người ngoài’ thì chúng tôi vẫn nói truyện với nhau… ‘như ngày
xưa’. Như ngày xưa có nghiã là chúng tôi gọi nhau ‘ông’ với
‘tôi’ hoặc dùng bất cứ đại danh từ nào thích hợp cho bạn bè chứ
không phải Cha-Con một cách long trọng. Hôm ấy rủ Ngài ra sân
hút thuốc, tôi mở đầu:
-
Hey cha Vàng ơi, cho tui hỏi
truyện chút được không?
-
Gì nữa đây. Nói truyện với ông
cũng phải ý tứ, không thì nguy hiểm lắm. Tui mới qua Mỹ chơi,
còn lọng cọng. Ông đừng làm khó dễ đưa tui lên báo chí nữa à
nha.
-
Cái này thì có thể là hơi khó,
nhưng không nguy hiểm gì đâu.
-
Rồi. Tới luôn để còn cà phê cà
pháo nữa.
-
Cha làm linh mục đã trên dưới 20
năm rồi. Chắc chắn cha đã giảng dậy lời Chúa và rửa tội cho rất
nhiều người, nhưng hỏi thật Cha là có ai vì cha, vì gương lành
gương sáng của cha, vì lời giảng dạy của cha mà trở lại đạo
chưa?
Cha Vàng câu
giờ:
-
Ông hỏi làm chi vậy? Ông muốn gài
độ tôi gì đây. Có chứ. Nhóc gì. Mấy bà mấy cô nghe tui giảng là
đi theo đầy hết. Hi hi hi!!! Giỡn chơi thôi chứ cũng có mấy ca,
nhưng tui không hẳn là tác giả chính. Đúng ra là do sự thân
thiện, sự giúp đỡ trước đó nhiều hơn là lời nói.
-
Cha nói đúng đấy. Của ăn và sự
giúp đỡ vật chất phải đi trước mới được. Hồi tôi ở trại tỵ nạn
Leamsing, Thái Lan và trại Galang, Indonesia cũng vậy, rất nhiều
người theo đạo Tin Lành vì được giúp đỡ về tinh thần và vật
chất. Tôi nghĩ mình là đạo gốc chứ thực ra ngày xưa ông cố tổ
của mình lúc đầu trở lại đạo chắc cũng không phải vì được nghe
giảng mà vào đạo đâu. Cho nên tôi đồng ý là những phương tiện
vật chất cũng đóng vai trò quan trọng. Cha Danh gì ở Hà Nội mới
sang đây chơi cũng đã nói: ‘Cứ trồng chuối, nếu cây mẹ không
được tốt, cây bố không được hoàn chỉnh thì cây con, cây cháu sẽ
ngon hơn’. Hơn nữa, đức tin là việc của Chúa làm chứ đâu phải
của con người…Vậy hỏi thêm cha câu nữa nghe.
Cha Vàng cắt
ngang:
-
Ông nói hỏi chút thôi mà sao hỏi
tới hoài vậy. Mấy thằng Bắc Kỳ như ông ăn gian thấy bà…
-
Thì một chút của người Bắc là vậy
đó. Giống như Nam Kỳ của cha vậy thôi: nói ăn ba hột mà ăn tới
ba chén cơm đầy dung. Còn nói nhậu lai rai ba sợi mà nhậu tới
ba lít. Rồi nói thủng thẳng mà bắt người ta đợi từ sáng tới
chiều, có khi… cho lèo luôn. Có ai vì cha mà bỏ Chúa, mà xa Nhà
Thờ không?
-
Chà, vụ này coi bộ căng ạ. Để tui
xét mình chớ… Theo tôi biết thì không đâu. Hoặc nếu có thì cũng
vì vô tình mà thôi. Ông biết rồi sống dưới chế độ cộng sản đâu
phải dễ. Họ không ưa đạo, nhưng họ cũng là những rào cản cho
mình giữ được nhiều thứ và tránh được nhiều gương xấu…Giáo dân
cũng vậy. Một ông cha trong chế độ cộng sản không phải làm dâu
100 họ mà là 105 họ đó ông…Muối đang mặn mà nhạt đi hoặc đèn
đang sáng mà tắt ngủm thì phiền lắm. Cho nên tu cũng khổ lắm ông
ạ.
Tôi hỏi cha
bạn những điều mà tôi đã hỏi chính tôi và đã hỏi nhiều lần.
Nghĩ lại thì
trong một phương diện nào đó, tôi thua xa thằng cháu, con nuôi
của anh chị tôi. Nó lấy vợ ngoại, vợ nó trở lại đạo, hai đứa con
của nó cũng được rửa tội ngon lành. Trên giấy tờ sổ sách, nó đưa
tới ba linh hồn về với Chúa rồi. Còn tôi…
Truyện hôm qua.
Tay Prak
người Ấn Độ nhiều tuổi nhất trong đám IT của tôi nên được nể
trọng nhiều nhưng đôi lúc hắn thật buồn cười. Kiến thức chuyên
môn thì hắn không mấy nắm vững, mà lại muốn tỏ ra mình
biết-hết-mọi-sự, nhất là những lãnh vực ngoài công việc. Có lần
hắn nhất định cãi là dân số Liên Xô đông thứ nhì sau Trung Quốc
cho đến khi Internet nói dân số Ấn Độ là 1.1 tỷ.
Trưa hôm qua
cả bọn đi ăn, Nakwon, người Đại Hàn hỏi: ‘Các ông có biết hôm
nay là ngày Phật Đản không?’ Dĩ nhiên tay Prak lên tiếng trước:
‘Biết chứ, sinh nhật thứ 5000 của Đức Phật đấy’. Rồi tiếp ‘Đức
Phật là người Ấn Độ, thuộc Hoàng Tộc, lấy vợ, sinh con rồi bỏ
Hoàng Cung đi giảng đạo, sau một thời gian Ngài biến mất’. Tôi
muốn nghe Prak kể tiếp vì thấy ngộ ngộ, nhưng vì con số quá sai
biệt nên phải cãi: ‘Không phải sinh nhật thứ 5000, mà 2550 gì đó
thôi’. Còn truyện Đức Phật gốc Ấn Độ hay Nepal, tôi không nhắc
đến vì có lẽ thời đó biên giới hai nước chưa rõ ràng. Tay Prak
như hãnh diện về Đạo Phật nên hỏi Nakwon:
-
Bên Đại Hàn có đạo nào không?
-
Có, đạo Phật, đạo Tin Lành, đạo
Công Giáo.
-
Đạo gì xa xưa thuộc dân tộc Đại
Hàn cơ?
-
Xa xưa thì có đạo thờ ông bà, và
trước đó có lẽ là những totem.
Biết nhiều mà
biết không sâu nên Prak ngô nghê hỏi lại cả đám
-
Totem là cái gì?
Nakwon giải
thích totem cho Prak xong thì Prak quay sang hỏi tôi:
-
Còn Việt Nam? Có đạo gì không?
-
Việt Nam có đạo Phật, đạo Công
Giáo, đạo Muslim, đạo Hòa Hảo, đạo Cao Đài… Gàn đây lại mới có
thêm đạo thờ Đô-La.
Nghe thấy đạo
thờ Đô-La, Prak lại ngây ngô hỏi ngay:
-
Vậy đạo Đô-La để cái gì trên bàn
thờ?
Cả bọn cười
ồ.
Ngồi vào bàn,
Madhavi (người Ấn phát âm không rõ tên tôi) hỏi tôi:
-
Tái, ông đến nhà thờ ngày Chúa
Nhật để làm gì?
Để kéo sự chư
ý của cả nhóm, tôi nói:
-
Để nhìn ngắm các người đẹp.
Và khi thấy
cả bàn đã chú ý, tôi nghiêm chỉnh:
-
Đùa thôi, chứ tôi đến nhà thờ để
tôn thờ Thiên Chúa là đấng tạo dựng mọi loài, trong đó có các
bạn và tôi. Cảm tạ Thiên Chúa về những điều Ngài đã ban như sự
sống, nhà xe, đồ ăn, bạn bè. Và cầu xin ơn bình an cho mình và
cho những người quen thân, cho Dipankar, cho Jeeva, và
Prakash…đây.
Vừa nói tôi
vừa nghĩ: không dễ có dịp mà nói về Chúa cho người Ấn nên phải
lợi dụng, tôi cũng nhớ lại ngày xưa đã từng HUNG HĂNG nên tôi
rất nhẹ nhàng.
Madhvi nói
tiếp:
-
Ông cũng cầu xin trước lúc ăn nữa
mà.
-
Ừ, không chỉ lúc ăn đâu, cả những
lúc tôi nhận tấm check lương từ Dipankar những ngày Thứ sáu,
những lúc Paul đưa cho tôi project khó, và những lúc vợ tôi cho
tôi hard time nữa…
Thấy Jeeva
mải ăn, tôi pha trò:
-
Jeeva, bạn muốn lên Thiên Đàng,
lên Niết Bàn, hay xuống… mà không nói gì cả vậy?
Jeeva vốn ít
nói, nhưng khi nói thì lại nói rất lớn:
-
Chỉ có đời sống hiện tại thôi.
Chết là hết.
Madhavi tiếp
ngay:
-
Có đạo hay không có đạo thì chết
cũng không phải là hết. Chắc chắn mỗi người có linh hồn và phải
đối diện với những gì mình đã làm khi còn sống.
Thấy Madhvi
theo Ấn Giáo và nói điều ấy cho cả nhóm hầu hết là Ấn Độ trong
bàn, tôi lợi dụng nói theo:
-
Tôi tin chắc như thế.
Cả bọn ăn
uống vui vẻ. Khi tản bộ sang tiệm Boboa để kiếm cà-phê, Jeeva
đến bên tôi hỏi:
-
Tái, ông có thương con cái ông
không? Chắc chắn chứ! Vậy tình yêu giữa ông với con ông và tình
yêu giữa Thượng Đế và ông thì cái nào hoàn chỉnh hơn.
Tôi biết câu
trả lời, nhưng lại làm như suy nghĩ:
-
Tình yêu của Thượng Đế với tôi
chắc chắn phải hoàn chỉnh hơn, vĩ đại hơn vì Ngài là Thượng Đế.
Còn tình cha con thì gần gũi thiết tha đấy, nhưng không hoàn
thiện vì cha có thể tức giận với con, cha có thể ghét con, từ
con… nhưng Thượng Đế thì không.
-
Nếu vậy thì làm gì có Hỏa Ngục.
Tôi nhận ra
Jeeva coi vậy mà không phải vây, nên chia sẻ:
-
Đạo Công Giáo dậy là có Hỏa Ngục,
tôi phải tin, nhưng có ai ở đó lại là truyện khác. Nói thật với
anh, tôi nghĩ Hỏa Ngục chỉ dành cho những người không muốn vào
Thiên Đàng mà thôi.
Và truyện hôm nay.
Cha Ngô Đình
Hòa dòng Chúa Cứu Thế từng là tuyên úy Sư Đoàn Nhảy Dù của Việt
Nam Cộng Hòa, đã đi tù cải tạo nhiều năm, hôm nay đã gần 80
tuổi, cha có mặt ở đây với chúng tôi như vị linh hướng.
- Chúng con
mời cha lên để chia sẻ kinh nghiệm
Cha Hòa bước
lên máy khuyếch âm, mỉm cười rồi từ từ kể như mẹ kể truyện cổ
tích cho các con:
-
Đây chỉ là kinh nghiệm nhỏ thôi.
Sau năm 1975, khi tôi đang ở trong tù thì có cô cháu của ông
nhiếp ảnh gia Nguyễn Ngọc Hạnh gởi cho tôi một quyển Kinh Thánh
nhỏ. Từ đó, hằng ngày tôi cứ lấy ra đọc. Có một anh Thiếu Tá
cảnh sát tù chung thấy tôi đọc Kinh Thánh thì cũng tò mò mượn
đọc. Đọc rồi anh hỏi tôi về nhiều thứ anh thắc mắc, tôi biết gì
thì trả lời vậy. Anh ta thích thú lắm, nhưng tôi cũng bảo anh
rằng tôi chỉ giúp anh được một tí thôi, quan trọng nhất là anh
cứ đọc và người soi sáng và giúp anh hiểu chính là Chúa vì đây
là Kinh Thánh chứ không phải sách truyện đời thường. Một thời
gian sau, anh xin được trở lại công giáo. Tôi rất vui, nhưng
cũng bắt anh đợi thêm một thời gian nữa cho chắc… Sau đó tôi rửa
tội cho anh. Bây giờ anh và cả gia đình đã sang Mỹ và mỗi tháng
anh vẫn gởi cho tôi một trăm đô-la và dặn ‘con gởi cho cha, cha
muốn làm gì thì làm. Cha làm lễ, đọc kinh cầu nguyện cho con hay
cha cho ai cũng được’.
Cha linh
hướng Ngô Đình Hòa có nhiều truyện đời rất sống động và đạo đức,
nhưng Ngài luôn kể với lòng khiêm tốn và chân thành như thế
đấy.
Đúng là Sống
Niềm Tin rồi Nói cho người khác về Niềm Tin mới dễ. Sống Đạo
thực sự rồi Nói cho người khác về Đạo mới có hiệu năng. ‘Hữu xạ
tự nhiên hương’ Đời hay Đạo vẫn đúng.
Rồi Ngài cũng
chỉ dùng lời dậy đã viết trong sách mà kết luận:
Nếu chúng ta theo Chúa mà không nói
hoặc không dám nói về Chúa thì ai nói đây.
Nghe vậy,
tôi nhớ một cha xứ nọ cũng đã giảng cho giáo dân quê mùa vùng
Cái Sắn quê mùa về nhiệm vụ giảng đạo vào nhứng thập niên 60 của
thiên kỷ trước rằng: “Bây giờ cha nói
bằng tiếng Latinh để anh chị em dễ hiểu và dễ nhớ rằng Quod
isti et istae, cur non nos? Si non nos, quis ergo? Si non nunc,
quando ergo? Si non hic, ubi ergo? “(1)
Lạy Chúa tôi,
cha xứ nói hay quá, nhưng chẳng ai hiểu gì.
Joseph Vũ 06/20/2008 |
VỀ MỤC LỤC |
|
HÃY ĐỨNG NGOÀI CUỘC (3)
|
Một bà mẹ
ngồi trên hành lang nói chuyện với những người láng giềng. Kim
Chi 4 tuổi đi vào nhà và đứa em trai Minh Quân chạy theo sau. Cu
bé đi chậm hơn để leo lên những bậc thang nên chị nó đã đi vào
phòng khi nó đến nơi. Cô bé cẩn thận đóng cữa lại khi em nó đến.
Cậu bé thét lên . Bà mẹ phóng lên cầu thang, mở cữa phòng, chộp
lấy cô bé và đánh nó.
“Con muốn gì
khi đối xử với em con như thế? Con có thể làm kẹt ngón tay nó.
Bây giờ con ở trong nầy cho tới khi con biết tử tế.”
Bà mẹ bế cu
bé Minh Quân lên, trở lại chỗ cũ, và đặt nó lên vế bà. Không bao
lâu nó leo xuống và tiếp tục trò chơi của nó. Trong khi đó những
tiếng khóc thầm được nghe thấy từ trong phòng. Nhiều phút trôi
qua. Cuối cùng bà mẹ đi vào phòng cô bé.
“Bây giờ con
có sẵn sàng để trở thành một đứa con gái ngoan chưa?”
Nó càng khóc
nhiều hơn. Bà mẹ bế cô bé lên, cô bé gục đầu vào vai mẹ. Bà mẹ
mang nó ra ngoài và ngồi xuống, đặt cô bé ngồi lên vế bà và
nói:
“Bây giờ con
là đứa con gái ngoan của mẹ. Mẹ biết con không còn bết nữa!”
Không phải
tất cả những trận chiến giữa con trẻ đều trên bình diện ngôn từ.
Cậu bé chiếm được quá nhiều chú ý. Cô bé dĩ nhiên là ganh tức về
sự xuống ngôi của nó. Sự ganh tị ngày càng tăng thêm và càng
ngày càng chồng chất thêm cao. Cô bé khát khao sự chú ý của mẹ
như một dấu hiệu của tình yêu. Nó khám phá ra rằng sau hình phạt
là tình yêu. Nếu bà mẹ thật sự nhìn thấy cái gì đã xảy ra thì lẽ
ra bà phải biết rằng cô bé rất cẩn thận đóng cữa mà không hề làm
kẹt ngón tay của em nó. Điều nầy cho thấy một ước muốn chú ý hơn
là hận thù. Nếu là hận thù thì cô bé đã làm nát ngón tay của em
nó rồi. Cô không có ý làm tổn thương em nó nhưng có chút liên
quan đến mẹ nó – muốn khiêu khích mẹ nó hơn là em nó và muốn có
tình yêu của mẹ nó sau khi bị la rầy. Và sơ đồ đã được thực hiện
một cách tuyệt vời.
Nếu những lần
tranh cãi dẫn đến sự đánh lộn với đứa trẻ hơn, bố mẹ có thể chắc
chắn rằng những đứa lớn muốn tạo một rối loạn hơn là làm hại em
nó. Và đây là chia xẻ của một bà mẹ ở tại trung tâm hướng dẫn về
giáo dục con trẻ.
Bà đi qua cữa
của phòng chơi vào chính lúc nhìn thấy cậu bé Vinh Thắng 4 tuổi
cầm chiếc xe đưa lên đầu cô em bé Liên 11 tháng tuổi. Cậu bé
Vinh Thắng xem ra đang sẵn sàng dùng chiếc xe đánh vào đầu em bé
nó. Cô bé bắt đầu hét. Lưu ý đến những cảnh cáo: phải tránh nhập
cuộc mà bà đã lãnh hội được ở trung tâm hướng dẫn về giáo dục
con trẻ, bà lấy can đảm nắm chặt bàn tay và tiếp tục đi qua cữa.
Tuy nhiên, bà nhìn qua khe cữa. Điều bà thấy đã làm bà ngạc
nhiên. Cậu bé nhìn cữa mà bà vừa đi qua và cùng lúc nó nhè nhẹ
hạ cái xe xuống trên đầu đứa em và xoa nhẹ đầu em với cái xe
trên tay.
Bây giờ bà mẹ
thật sự tin điều bà đã được nghe. Cả hai đứa trẻ đã cộng tác để
làm bà phải quan tâm. Dầu mới 11 tháng, cô bé cũng biết rằng nếu
có hét, bà mẹ sẽ chạy đến và cái gì sẽ xảy ra cho anh nó. Và cậu
bé cũng biết nếu nó làm cho em nó hét lên, bà mẹ sẽ chạy đến
ngay. Con trẻ đã hành động như một tổ hợp để làm bà mẹ vội vàng
chạy đến.
Như một qui
luật, khi đứa nầy đe dọa đứa khác với một vật nguy hiểm, bà mẹ
có thể yên lặng đến và cất nó đi. Điểm chính ở đây là làm điều
đó cách yên lặng mà không cần phải nói gì cả.
Ngồi vào bàn
ăn, cha mẹ không có cơ hội nói chuyện mà không bị con cái cắt
ngang câu chuyện. Gia đình gồm có Yến Nhi 4 tuổi và Minh Đức 6
tuổi, là những đứa con riêng của bà thuộc hôn nhân trước, Minh
Trí và Yến Thanh, 5 tuổi và 7 tuổi, những đứa con riêng của ông
bố. Yến Nhi đong đưa chân đụng vào chân của Minh Trí.
“Bố ơi, Yến
Nhi đá chân con” cu Trí càm ràm.
Bà mẹ xen
vào:
“Yến Nhi,
đừng đụng đậy chân nữa. Để ý cung cách của con.” Yến Nhi ngồi
yên ăn.
“Bố, Minh Đức
không để con lấy muối,” Yến Thanh lẩm bẩm.
“Đức, con
chuyển hũ muối sang,” bà mẹ ra lệnh. Cu Đức chuyển hũ muối
sang.
“Mẹ, Minh Trí
cứ thúc vào cùi chỏ con,” Minh Đức càm ràm.
Lần nầy ông
bố nặng giọng:
“Minh Trí để
cùi chỏ vào chỗ con.” Cu bé lui cùi chỏ về.
“Mẹ, Yến
Thanh lấy giấy của con” Yến Nhi khóc.
“Yến Thanh,
trả tờ giấy lau miệng cho Yến Nhi,” ông bố ra lệnh.
Lần lượt hết
đứa nầy đến đứa khác kiện cáo, chúng chọc phá nhau và nạn nhân
tức khắc kêu cầu công lý. Cuối cùng ông bố nổi cơn:
“Khi nào thì
các con không tranh chấp nhau nữa? Chúng ta không có được một
bữa ăn trong bình an sao? Bố chán và mỏi mệt lắm rồi. Bây giờ
đứa nào không giữ luật sẽ bị phạt.”
Bấy giờ, các
bé kết thúc bữa ăn mà không gây ra một bất ổn nào khác, nhưng
mọi người xem ra căng thẳng và không được vui.
Sự tranh chấp
của con cái khiến cha mẹ bận rộn. Cần lưu ý: mỗi đứa trẻ phàn
nàn với cha mẹ riêng nó và cha mẹ phía bên kia cố gắng sửa đổi
tình thế. Đứa trẻ phía nầy trêu chọc đứa trẻ phía kia vì đó là
cách bảo đảm nhất để tạo nên hành động của bố mẹ. Bố mẹ có
khuynh hướng xem con trẻ là bất an và cảm thấy cưỡng bách phải
gìn giữ một tiến trình công bình. Vì thế, mỗi đứa bây giờ cố
gắng kích động đứa trẻ phía bên kia để giữ bố mẹ mình bận rộn
với mình. Chúng làm việc cách khéo léo.
Trong một vài
gia đình, bố mẹ cố gắng bảo vệ con riêng của người bạn mình,
nhưng cũng có người bảo vệ con riêng của họ. Nhưng trong mỗi
trường hợp, con trẻ thường khích động bất cứ ai đáp trả cách hữu
hiệu nhất.
Vấn đề là con
trẻ chỉ ngưng chiến khi bị đe dọa trừng phạt cho thấy rằng mục
đích của chúng là gây sự chú ý. Nếu không, sự đe dọa như thế lẽ
ra đã dẫn đến sự lộn xộn hơn. Vì thế, mỗi đứa trẻ đều chịu thuần
phục sau khi đã thành công trong việc chiếm được sự chú ý của bố
mẹ. Điều nầy cũng cho thấy cuộc chiến là giá cho sự chú ý.
Cả hai bố mẹ
chỉ có thể giúp con cái họ khi họ ngưng sự chú ý quá đáng và để
cho con cái họ tự giải quyết vấn đề của chúng. Nếu thái độ của
con cái họ ở bàn ăn quấy rối sự an bình của gia đình, bố mẹ có
thể từ chối ăn uống với chúng cho tới khi nào chúng muốn có một
bữa ăn gia đình đầm ấm. Bao lâu có sự bất đồng nổi lên, cả 4 đứa
có thể được nói lý do và bị yêu cầu rời khỏi bàn ăn. Trong cách
thế đó, chúng mới có thể học sống chung với nhau ở bàn ăn. Trong
việc yêu cầu chúng rời khỏi bàn ăn, bố mẹ không nên đi vào xung
khắc, không nên dự vào cuộc tranh cãi, và phải tỏ ra cứng rắn.
Lm. Lê Văn Quảng, tiến sĩ tâm lý |
VỀ MỤC LỤC |
|
Lòng Chúa lỚn hơn lòng bẠn |
Tác Phẩm Chúa Vẫn Thương
Lm. MICAE-PHAOLÔ TRẦN MINH HUY pss
Phần một
BẠn thẾ nào Chúa yêu bẠn thẾ Ấy Tình
yêu đáp trẢ tình yêu
4
Lòng Chúa lỚn hơn lòng bẠn
Nếu lòng bạn kết án bạn,
Chúa không kết án bạn đâu. Lòng Chúa lớn hơn lòng bạn, và Chúa
không nhìn bạn như chính bạn nhìn bạn đâu. Chúa biết bạn quá bé
nhỏ, Chúa biết bạn yếu đuối, Chúa biết bạn bị giới hạn, và Chúa là
Chúa Trời của bạn, Chúa đưa tay ra cho bạn.
Bạn hãy thôi đừng hoảng
hốt nhìn chung quanh bạn như vậy. Chúa đó, bạn hãy nhìn đi. Chính
Chúa là Đấng Cứu Độ bạn, chính Chúa là Đá Tảng của bạn. Không có gì
lay chuyển được Chúa và Chúa muốn chăm sóc bạn. Bạn hãy trông cậy
vào Chúa.
Bạn quá nhỏ bé, nhưng Chúa
đang ở với bạn và điều đó làm thay đổi tất cả mọi sự. Bạn hãy đến
thật gần bên Chúa. Chính ở bên Chúa mà bạn tìm được những gì bạn
cần. Hãy lại gần bên Chúa, Chúa có tất cả những gì bạn cần, một cách
phong phú.
Mỗi người chỉ cần bước một
bước nhỏ để đến gần bên Chúa, một lạch suối phải băng qua, hay một
bước rất nhỏ, có lẽ chẳng đáng chi với một ít người. Thần Trí Chúa
có đây, chiều nay, để soi sáng cho bạn. Nếu bạn thật lòng muốn điều
đó. Hãy tìm và bạn sẽ được gặp. Hãy gõ và người ta sẽ mở cho bạn.
Chúa đang ở thật gần bạn,
đừng tìm Chúa ở đâu khác, Chúa đang ở thật gần bạn, Chúa ở ngay bên
cạnh bạn. Chúa sẽ dẫn bạn đi, nếu bạn thật lòng muốn. Chúa thực sự
có mặt đây, bạn đừng sợ. Bạn hãy ở gần Chúa, như người bạn thích ở
gần bạn mình. Bạn hãy ở trong Chúa như Chúa ở trong bạn.
Bạn hãy để Chúa làm nổi
lên những kho tàng Chúa đã đặt trong đáy lòng bạn. Hãy để Chúa làm
theo những đường lối của Chúa. Bạn hãy đến với Chúa như một đứa con,
một đứa con bé nhỏ. Bạn không biết đến ba phần tư những kho tàng
Chúa đặt trong đáy lòng bạn. Chúa không phải là Đấng Sáng Tạo nên
bạn sao? Chúa biết cái Chúa đặt trong bạn chứ: những phần nhỏ của
chính Chúa. Chúa muốn làm cho chúng sáng lên. Chúa muốn chúng sáng
tỏa ra chung quanh, để bạn được vui mừng.
Bạn thế nào hãy đến bên
Chúa như vậy,
và không cần
nói Chúa phải làm gì. Hãy cứ để mặc Chúa làm. Sau đó, bạn sẽ hiểu,
các vấn đề sẽ tự chúng rơi xuống, vì bạn sẽ được chiếu sáng bởi một
ngày mới. Bạn thế nào hãy đến với Chúa như vậy.
Hãy để các vấn đề của bạn
lại đó, Chúa là tất cả. Chúa là tất cả mọi sự cho bạn. Chúa nắm tất
cả mọi sự trong tay Chúa. Bạn hãy cất bước đến với Chúa. Bạn cứ co
quắp lại nơi chính mình bạn. Bạn biết Chúa hành động cho bạn, nhưng
bạn lại dẫm chân tại chỗ. Hãy nhảy lên trên các chướng ngại vật bằng
cách đến với Chúa. Không có con đường nào khác. Hãy trông vào Chúa,
bạn sẽ nhảy lên vui mừng.
Bạn muốn bước đi theo
Chúa, tốt lắm hỡi bạn. Chúa gọi bạn bước đi theo Chúa, nhưng chân
bạn không được cứ dán chặt xuống đất, bạn phải thực sự bước đi theo
Chúa. Bạn cần phải nhảy xuống nước nhưng phải tin tưởng, không một
chút nghi nan, nếu bạn không muốn chìm xuống.
Hãy tin vào Lời Chúa, hãy
đem Lời Chúa ra thực hành, không tìm để được thấy trước, bạn sẽ thấy
sau. Đó là bước đi theo Chúa. Chính Lời Chúa sẽ hướng dẫn bạn chứ
không phải là những ‘lời người ta nói.’ Cũng không phải là thói quen
hằng ngày, nhưng chính là Lời của Chúa. Đó cũng là đặc sủng vậy.
Bạn hãy đến theo Chúa, cho
dù đôi khi lòng bạn thấy lo âu. Bạn không phải là người đầu tiên như
các Tông Đồ, các môn đệ… Nhưng họ đã xác tín, họ đã tin. Chúa kêu
gọi mỗi người hãy theo Chúa như thế. Bạn hãy đến theo Chúa, bạn sẽ
thấy những điều kỳ diệu, và nhân danh Chúa bạn sẽ làm những điều kỳ
diệu.
Một số người muốn đi nhanh
hơn, một số khác lại muốn đi chậm hơn. Hãy để Chúa hành động, bạn
đừng sợ chi. Chính Chúa tạo nên và điều khiển nhịp độ diễn tiến.
Chính Chúa ban những đặc sủng cần thiết cho bạn. Bây giờ bạn chịu để
Chúa làm. Tốt lắm!
Bạn không có gì phải sợ
cả. Chúa sẽ làm mọi sự theo ý Chúa, bạn hãy sẵn sàng. Đó là tất cả
những gì Chúa đòi hỏi nơi bạn. Nếu bạn không nói về Chúa thì ai sẽ
nói về Chúa? Bạn phải bạo dạn, bạn không thể tưởng tượng được những
gì người khác đang chờ đợi ở bạn. Họ đang hư mất, họ đang đi tìm một
ánh sáng, một bàn tay, một nụ cười, một lợi ích cho họ. Thế gian
đang khát, khát khủng khiếp! Đừng để ánh sáng của bạn ở dưới đáy
thùng.
Nếu bạn hổ ngươi về Danh
Chúa, Chúa sẽ hổ ngươi về bạn. Hỡi bạn, Chúa xin bạn hãy vất bỏ sợ
hãi của bạn đi, Chúa không muốn nghe nói tới chúng nữa. Có nhiều
người sợ hãi và do dự. “Thiên Chúa không ban cho chúng ta một
Thần Khí nhát sợ, nhưng là một Thần Khí đầy sức mạnh, tình thương và
khôn ngoan… Hãy để Thiên Chúa dùng anh em như những viên đá
sống động mà xây nên Đền Thờ thiêng liêng. Này, Ta đặt tại Sion một
viên đá quý được lựa chọn làm Đá Góc Tường, kẻ nào tin vào đó sẽ
không phải thất vọng.”
Bạn không cảm thấy ước
muốn Chúa đặt nơi bạn sao? Ước muốn đến nơi ở của Chúa, ước muốn lại
gần Chúa hơn, ước muốn biết Chúa nhiều hơn, ước muốn mãnh liệt được
thuộc về Chúa, chính Chúa đã đặt ước muốn đó ở trong bạn.
Bạn có thể để ước muốn đó
bị bóp nghẹt đi. Bạn có thể làm cho ước muốn đó lớn lên. Bạn hãy vui
mừng trong ước muốn ấy, bất kể là gì đi nữa: sự yếu đuối của bạn,
những khó khăn của bạn, những giới hạn của bạn, những mối liên hệ
của bạn, cả những tội lỗi của bạn. Chính ước muốn đó là đáng kể đối
với Chúa. Chính ước muốn đó là quan trọng nhất, những gì còn lại,
Chúa chẳng bận tâm. Nếu bạn biết được ơn của Thiên Chúa, bạn hãy
nhận lấy tình yêu của Chúa.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
ĐÔI ĐIỀU VỀ CÀ PHÊ,
NƯỚC UỐNG
|
1- Câu hỏi được nêu ra là “vì sao uống nước
trà đậm thì mất ngủ”?
Chúng ta biết rằng trà cũng như cà phê có
chất caffeine.
Caffeine là một hóa chất hữu cơ thuộc nhóm
purines.
Tác dụng chính của caffeine là kích thích
hệ thần kinh trung ương, tăng sinh hoạt trí tuệ, làm ta tỉnh táo
nhất là khi con người mỏi mệt hoặc chán nản. Với giấc ngủ thì
ảnh hưởng tùy người: có người gặp khó khăn, có người không khi
uống cà phê.
Caffeine làm thư giãn cơ thịt trong thành
động mạch, tăng sức bóp của tim, tăng máu từ tim đưa ra, tăng
huyết áp.
Caffeine tăng dịch vị bao tử nên nhiều
người ưa uống cà phê sau khi ăn để dễ tiêu hóa thực phẩm.
Caffeine làm tăng sự dẻo dai của lực sĩ thể
thao, vì thế Ủy Ban Thế Vận kiểm soát coi họ có dùng quá nhiều
chất kích thích này.
Caffeine làm tăng sự bài tiết nước tiểu.
Sau khi uống, caffeine thấm nhập rất mau
vào khắp các bộ phận của cơ thể. Thời gian bán hủy là 3 giờ nên
caffeine không tích tụ trong cơ thể. Đa số caffeine được thải
khỏi cơ thể qua nước tiểu.
Mỗi người có đáp ứng khác nhau với
caffeine.
Do đó có người uống ba bốn ly trà hoặc cà
phê một lúc mà không cảm thấy thay đổi gì. Trong khi đó, người
không quen với caffeine, chỉ uống một ly trà hoặc cà phê là đã
thấy nóng nảy, hồi hộp, tim đập nhanh.
Một người đã quen dùng caffeine rối mà
ngưng tức thì, họ sẽ cảm thấy mệt mỏi, nhức đầu, buồn ngủ. Nếu
họ ngưng từ từ thì không bị các khó khăn này.
Liều lượng trung bình của caffeine là
200mg, tùy theo từng người.
Khi dùng tới số lượng trên 1000 mg thì
trong người thấy mất ngủ, bất an, tim đập nhanh, thở hổn hển,
buồn tiểu, ù tai, xót ruột.
Tử vong có thể xảy ra khi dùng tới trên 10
gram (80- 100 ly) caffeine.
Đã có nhiều nghiên cứu về tác dụng “tỉnh
ngủ” của caffeine.
Các nghiên cứu này đều tập trung vào hóa
chất adenosine do não bộ sản xuất khi ta không ngủ hoặc khi làm
việc. Cơ thể càng làm việc nhiều thì Adenosine sản xuất càng
cao.
Hóa chất này sẽ bám các thụ thể ức chế của
tế bào thần kinh, làm thần kinh giảm hoạt động và ta cảm thấy
buồn ngủ. Đây cũng là phản ứng tốt, vì nếu cứ kéo dài sự làm
việc thì cơ thể sẽ mau suy nhược. Giấc ngủ là cơ hội để cơ thể
nghỉ ngơi, bồi dưỡng sinh lực, sẵn sàng cho các hoạt động kế
tiếp.
Caffeine có cấu trúc tương tự như
adenosine. Chúng chiếm chỗ của adenosine nơi các thụ thể thần
kinh và kích thích hệ thần kinh. Hệ thần kinh hoạt động nhiều
hơn và một trong những hậu quả là ta thấy tỉnh táo, nhanh nhẹn
hơn. Vì thế các tài xế lái xe đường trường, những người làm việc
trí óc nhiều… đều uống cà phê để trở nên sáng suốt.
Caffeine cũng khiến cho cơ thể tăng sản
xuất adrenaline vì tưởng như có chuyện khẩn trương xẩy ra. Con
ngươi mở rộng, mạch máu giãn nở để đưa nhiều máu ra ngoại vi,
tim đập nhanh, hơi thở tăng để sẵn sàng đối phó.
Caffeine còn ảnh hưởng lên hóa chất
Dopamine, một chất gây cảm giác sảng khoái tương tự như heroine,
amphetamine. Caffeine kích thích não, sản xuất nhiều dopamine
hơn.
Nói chung, caffeine khiến cho cơ thể ở
trong tình trạng tỉnh táo.
Vậy thì tại sao nhiều người uống trà hoặc
cà phê mà vẫn ngủ như thường, Điểm này chưa có giải thích rõ
ràng, chính xác.
Tuy nhiên, như đã trình bầy ở trên, mỗi
người có mẫn cảm khác nhau với caffeine. Nhiều người uống cà
phê, nước trà như uống nước lã, mà họ vẫn ngủ say như chết.
Trong các trường hợp này, có thể là họ quen nhờn với tác dụng
của caffeine. Ngược lại, có người chỉ thử một ly trà nhỏ đã trằn
trọc suốt đêm, không ngủ được.
Caffeine kích thích tim mạch, cho nên khi
tiêu thụ, nhịp tim nhanh hơn, huyết áp hơi tăng, hơi thở hơi
nhanh. Các thay đổi này chỉ thoảng qua, sau khi caffeine bị loại
ra khỏi cơ thể trong vài ba giờ.
Cũng như theophylline, caffeine là chất lợi
tiểu nhẹ nhưng không ảnh hưởng nhiều lắm tới mức độ nước trong
cơ thể. Vì thế, nhiều người cứ uống cà phê vô là mót tiểu tiện.
Nhân đây, cũng xin nói thêm là mặc dù chất
caffeine trong cà phê, nước trà đã được nghiên cứu khá nhiều,
nhưng nhiều người vẫn có một vài ngộ nhận về hóa chất này.
Có nghiên cứu nói là cà phê có thể gây ra
ung thư, bệnh tim mạch, khuyết tật trẻ em…Nhưng điều này chưa
được các khoa học gia thống nhất đồng ý.
Theo Cơ quan Thực Dược Phẩm Hoa Kỳ cũng như
Cơ quan Y tế Thế giới, nếu dùng vừa phải, caffeine không có ảnh
hưởng xấu cho cơ thể. Vừa phải là khoảng 300 mg caffeine mỗi
ngày, tương đương với ba ly cà phê.
2- Ít nhất Tám ly nước mỗi ngày
Liên quan tới việc uống nước, một lời
khuyên thường được nêu ra là:
“Phải uống ít nhất 8 ly nước, mỗi ly 8 oz,
mỗi ngày. Rượu bia, cà phê không được gộp vào số lượng này”.
Quy luật này từ đâu mà ra. Liệu có phải
uống 8x8” mỗi ngày như lời khuyên. Nếu không thì uống bao nhiêu
là đúng.
Thực ra, chưa có trả lời chính xác về nguồn
gốc của quy luật bất thành văn 8x8” này.
Năm 2002, nhà sinh học Heinz Valtin của Đại
học Y khoa Darmouth, Lebanon, New Hampshire, đã cố gắng tìm kiếm
xuất xứ của 8x8” và chỉ thấy câu văn sau đây do nhà dinh dưỡng
có uy tín của Hoa Kỳ, bác sĩ Fredrick J. Stare viết vào năm
1974:
“Bao nhiêu nước mỗi ngày? Điều này được quy
định bới nhiều nguyên tắc sinh lý khác nhau, nhưng với một người
trưởng thành bình thường, khoảng từ 6 tới 8 ly trong 24 giờ và
số lượng này có thể từ cà phê, trà, nước có hơi, rượu bia vv.
Các loại trái cây và rau cũng là nguồn cung cấp nước rất tốt”.
Theo tiến sĩ Valtin, nội dung câu viết của
bác sĩ Stare có ba điều cần lưu ý:
-Chưa có bằng chứng khoa hoc nào hỗ trợ cho
ý kiến của bác sĩ Stare
-Bác sĩ Stare viết uống từ 6 tới 8 ly mỗi
ngày chứ không phải là 8 ly.
-Trà, cà phê và rượu được coi như bao gồm
trong số lượng 6-8 ly mỗi ngày.
-Số lượng nước tiêu thụ được quy định theo
các hoàn cảnh sinh lý của cơ thể mỗi người.
Theo các nhà dinh dưỡng, tuy không có dẫn
chứng khoa học hỗ trợ, nhưng quy luật 8x8” này được coi như một
hướng dẫn cho việc tiêu thụ nước và các chất lỏng khác. Và cũng
nhờ sự quá phổ biến của quy luật này mà mọi người lưu tâm tới
việc uống nước: đi chơi, đi làm cũng kè kè một chai chất lỏng
tinh khiết.
Thực ra, nhu cầu nước của cơ thể tùy thuộc
vào nhiều yếu tố như tình trạng cơ thể, khỏe mạnh hay yếu đuối,
sinh hoạt ra sao và sống ở địa phương nào.
Điều rõ ràng là nước rất cần cho cơ thể để
loại bỏ chất có hại ra ngoài, để chuyên chở chất dinh dưỡng nuôi
mô bào, để mang độ ẩm cho các bộ phận cơ thể. Nước chiếm 70%
trọng lượng toàn thân.
Số chất lỏng này không phải nằm cố định
trong người mà hao hụt đi mỗi ngày qua nước tiểu 1.5 lít cộng
thêm khoàng 1 lit qua phẩn, mồ hôi, hơi thở. Do đó cơ thể cần
được bổ sung số lượng chất lỏng thất thoát để duy trì sự sống.
Trong điều kiện sức khỏe bình thường, với
môi trường khí hậu ôn hòa, vận động làm việc vừa phải, Viện Y
khoa Hoa kỳ khuyên đàn ông nên tiêu thụ 3 lít chất lỏng mỗi ngày
còn phụ nữ cần khoảng 2.5 lít.
Chất lỏng nói chung bao gồm cả nước, nước
trái cây, các loại giải khát có caffeine, nước ngọt, bia rượu và
chất lỏng trong thực phẩm. Thực phẩm cung cấp tới 20% chất lỏng
vì nhiều loại có rất nhiều nước như dưa hấu, cà chua…
Điều cần để ý là không nên coi rượu bia,
nước uống có cà phê là nguồn cung cấp chất lỏng chính yếu.
Như vậy, mỗi ngày chúng ta tiêu thụ một
lượng chất lỏng để khỏi cảm thấy khát nước đồng thời loại ra
khoảng 1.5 lit nước tiểu trong là ta đã đáp đúng nhu cầu chất
lỏng của cơ thể.
Những trường hợp sau đây cần tiêu thụ thêm
chất lỏng:
-Vận động cơ thể, sống trong môi trường
khô, nóng đều làm toát nhiều mồ hôi hơn thường lệ. Vận động
nhiều giờ liên tục cần dùng thêm muối sodium vì mồ hôi toát ra
làm tiêu hao muối khoáng này của cơ thể.
-Bệnh hoạn với nóng sốt, ói mửa, nhiễm độc
đường tiểu tiện, sỏi thận, tiểu đường
-Có thai hoặc cho con bú sữa mẹ. Viện Y
Khoa Hoa Kỳ khuyên bà mẹ có thai nên uống 2.3 lít và khi cho con
bú cần 3.1 lít chất lỏng mỗi ngày.
Ngoài vai trò căn bản của chất lỏng như đã
nói, cũng có rất nhiều nghiên cứu kể ra những ích lợi khác của
nước như giảm cân, giảm ung thư. Tuy nhiên, các kết quả này chưa
được đa số các nhà nghiên cứu đống ý.
Nhiều loại nước trên thị trường quảng cáo
có thêm sinh tố khoáng chất. Dân chúng thấy hấp dẫn, cũng mua
dùng, nhưng trong lòng vẫn thắc mắc là liệu có ích lợi gì không.
Theo các nhà dinh dưỡng, việc pha thêm sinh
tố vào nước cũng chẳng giúp ích gì. Thực phẩm có đủ loại sinh tố
khoáng chất. Nếu ta ăn uống đầy đủ thì chẳng cần dùng thêm các
chất dinh dưỡng tý hon này. Ấy là chưa kể, các sinh tố hòa tan
trong mỡ như A, D, E, K không hòa tan trong nước. Hoặc nếu nước
uống đó lại có quá nhiều sinh tố, khoáng chất như kali, thì lại
có bất lợi.
Bác sĩ Nguyễn Ý Đức
Texas-Hoa Kỳ
|
VỀ MỤC LỤC |
CẬU ẤM VÀ CÔ CHIÊU
Chuyện
phiếm của Gã Siêu |
Trước khi bước vào
nền văn minh hiện đại, hầu như mọi dân mọi nước đều trải qua một
thời gian phát triển nông nghiệp lâu dài. Trong nền văn minh
nông nghiệp này, sức người là chủ yếu. Vì thế, người ta luôn
mong ước có được đông con nhiều cháu.
Trong dịp đầu xuân
năm mới bàn dân thiên hạ thường cầu chúc cho nhau :
- Đa tử, đa tôn, đa
phú qúi.
- Đông con, nhiều
cháu, sống lâu đến ba bốn đời.
Trong xã hội nông
nghiệp này, không con là điều bất hạnh. Và nhất là theo luân lý
Khổng Mạnh, thì không có con trai để nối dõi tông đường quả là
một tội “đại bất hiếu”.
Vì thế, những cặp
vợ chồng son sẻ, hay hiếm muộn đều phải làm đủ vành đủ chước để
có được…tí con. Nào là thuốc men và chữa chạy. Nào là van xin và
khấn vái. Do đó mới nảy sinh ra tục lệ cầu tự.
Dựa cuốn “Việt Nam
phong tục” của Phan Kế Bính và cuốn “Con người Việt Nam” của
Toan Ánh, gã xin điểm qua những nét chính yếu về tục lệ này.
Cầu tự là cầu xin
thần thánh ban cho mình một đứa con để lập tự về sau. Người ta
thường cầu tựï ở đình chùa hay đền miếu, chẳng hạn như đền Và ở
Sơn Tây thờ thần núi Tản Viên, đền Phủ Giầy ở Nam Định thờ công
chúa Liễu Hạnh…Tuy nhiên, có hai nơi được coi là “linh” hơn cả,
đó là chùa Hương ở Hà Tây thờ Phật Bà Quan Âm và đền Kiếp Bạc ở
Hải Dương thờ Hưng Đạo Vương.
Muốn đi cầu tự,
trước hết phải giữ mình cho thanh khiết, phải ăn chay niệm Phật
để lòng thành của mình động tới quỷ thần, phải tắm nước ngũ vị
để tẩy xóa mọi xú uế trần tục.
Riêng tại chùa
Hương, có một hang đá, thạch nhũ mọc lởm chởm hai bên, tục gọi
là núi Cô và núi Cậu. Những người cầu tự phải đem vàng hương,
oản quả vào lễ trong chùa, rồi sau đó đem quà bánh tới chỗ hang
thạch nhũ. Nếu muốn xin con trai, thì tới bên núi Cậu, coi hòn
nào mình thích, thì xoa tay vào đó và lâm râm :
- Cậu về ở với vợ
chồng nhà tôi nhé.
Còn nếu muốn xin
con gái, thì qua bên núi Cô và cũng làm y như vậy.
Những người đi cầu
tự, lúc trở về phải coi như mình đã có một em bé đi theo. Vì
thế, trong suốt cuộc hành trình trở về, họ phải làm những hành
động như người mẹ dắt con, phải mua quà bánh và đồ chơi, phải
trả hai xuất tiền lúc qua đò, phải có thêm cơm cho em bé lúc ăn…
Khi về tới cửa,
phải gọi người nhà ra đón cô hay đón cậu. Từ ngày hôm đó, đến
bữa ăn phải dọn thêm bát đũa. Thậm chí người ta còn sắm sẵn cả
chiếc nôi để chờ ngày đón nhận tin vui.
Nếu người vợ có
mang và sinh con, thì hàng năm phải đem con tới chùa để lễ Phật
mà tạ ơn.
Theo truyền khẩu,
thì những đứa con cầu tự rất khó nuôi và thường hay chết yểu khi
mới lên ba hoặc lên năm.
Đó không phải là
con do Thần, Thánh hay Phật ban cho, mà là con của lũ mẹ Ranh
đầu thai vào. Bởi vì khi người mẹ đi cầu tự, thì lũ mẹ Ranh cũng
có mặt ở chùa và xin cho con mình được đầu thai, nhưng chỉ sau
mấy năm, chúng lại bắt về, nên đứa trẻ bị chết yểu.
Còn nếu đúng là con
do Thần, Thánh hay Phật ban cho, thì nó sẽ ở với cha mẹ suốt đời
và cũng suốt đời cha mẹ phải chiều chuộng nó, cho dù nó đã khôn
lớn.
Vì thế, ba tiếng
“con cầu tự” thường được dùng để chỉ những đứa trẻ được cha mẹ
nuông chiều.
Từ quan niệm về
những đứa con cầu tự, gã xin bàn tới quan niệm về những cậu ấm
và cô chiêu, mà gã xin viết tắt là CACC, cũng tương tự như con
ông cháu cha, mà thiên hạ gọi tắt là COCC hồi trước năm 1975.
Vậy thế nào là cậu
ấm và cô chiêu ?
Theo “Việt Nam Tự
Điển” của Lê Văn Đức thì ấm có nghĩa là phúc đức do ông bà cha
mẹ để lại cho con cháu. Ấm cũng có nghĩa là chức tước do triều
đình ban cho con cháu các quan từ ngũ phẩm trở lên.
Còn theo “Hán Việt
Tân Từ Điển” của Nguyễn Quốc Hùng, thì ấm có nghĩa là được che
chở, hay được hưởng những đặc cân của triều đình vì cha ông là
những người có công với đất nước.
Cũng theo hai cuốn
tự điển trên thì chiêu là tiếng được dùng để gọi con của các vị
tiến sĩ từ đời Lê về sau.
Tóm lại, dựa vào
những định nghĩa trên thì cậu ấm và cô chiêu đích thực là con
ông cháu cha, tức là con cháu của nhà quan. Từ đó người ta đi
tới một định nghĩa tương đối rộng rãi hơn, cậu ấm và cô chiêu là
con cháu của những bậc “đại gia”, những người vừa có sẵn quyền
lại vừa có sẵn tiền trong tay.
Đặc tính của các
cậu ấm và cô chiêu, hay của các con ông cháu cha là họ thường
núp sau lưng và chạy theo cái bóng của cha mẹ. Họ lợi dụng tiền
bạc và quyền lực của cha mẹ để ngoi lên trong xã hội, chứ chẳng
bao giờ chịu phấn đấu và đứng thẳng trên đôi chân của mình.
Tuy nhiên, điều
đáng trách hơn cả, đó là họ lạm dụng tiền bạc và quyền lực của
cha mẹ để làm những điều xằng bậy khiến cho cả và thiên hạ phải
nhức nhối, phải lao đao và phải kinh hoàng.
Những người sống ở
vùng đồng bằng sông Cửu Long, không ít thì nhiều, cũng đã được
nghe nói tới những giai thoại về công tử Bạc Liêu với những kiểu
chơi…trội.
Công tử Bạc Liêu
tên thật là Trần Trinh Huy, biệt hiệu là Hắc Công Tử. Ngày kia,
Hắc Công Tử đã đốt tờ biên nhận cầm cố bộ lư, trị giá tới 100
đồng, chỉ để có được một tí ánh sáng, hầu soi tìm vật gì đó mà
người đẹp đánh rơi dưới gầm bàn, sau khi Bạch Công Tử, tức là
Phước Georges ở Mỹ Tho, đã đốt mấy tờ con công, tức là giấy bạc
năm đồng, mà tìm nhưng không tìm thấy.
Vào thời đó khoảng
năm 1920, một gịa lúa chỉ đáng giá 2 cắc bạc mà thôi. Như vậy,
một đồng được 5 gịa, 100 đồng được 500 gịa. Và theo thời giá hôm
nay, mỗi gịa là 47.000 đồng Việt Nam, vị chi tất cả là 23 tiệu
rưỡi, tương đương với gần 1.500 đô la Mỹ, chỉ vì người đẹp và
một tí ánh sáng.
Trong những ngày
gần đây tại Việt Nam, gã thấy nổi cộm lên hiện tượng CACC, tức
là hiện tượng cậu ấm và cô chiêu, được cánh báo chí đề cập tới
rất nhiều. Mẫu số chung của họ là lạm dụng quyền lực và tiền bạc
của cha mẹ để ngông nghênh, khiến cho xã hội như xất bất xang
bang và thất điên bát đảo.
Trước hết, họ lạm
dụng quyền lực của cha mẹ để quậy phá.
Báo Công An số ra
thứ bảy, ngày 24 tháng 9 năm 2005, có đăng một mẩu tin như sau :
“21 giờ ngày
27.8.2005, tại quán karaoke số 28 Yết Kiêu, chúng tôi chứng kiến
cảnh chiếc xe hơi BMW 325 BS 29V-9119 từ đường Nguyễn Thượng
Hiền ầm ầm phóng tới, lao lên cả vỉa hè. Từ trong xe một thanh
niên cao to bước ra, tiến thẳng vào quán túm tóc đánh đập một cô
gái rất xinh đẹp và luôn miệng chửi thề loạn xạ. Người dân kéo
đến can ngăn cũng bị gã kia chửi lại. Khi cảnh sát đến nơi thì
gã đã bỏ lên xe tiếp tục ầm ầm phóng đi. Không khó khăn lắm
chúng tôi dựng lại được “chân dung” của gã thanh niên ban nãy.
Hắn tên là VH, sinh năm 1976, con một vị quan chức bộ B…”
Một trường hợp khác
:
“HHN, con trai cưng
của giám đốc một ngành nội chính tỉnh Q, sau một chầu nhậu bí tỉ
ở nhà hàng cùng nhóm bạn lên sàn nhảy. Tại đây, N thẳng tay đập
phá tan hoang một thứ, chỉ vì nhân viên lễ tân đã “chào tao bé
quá”. Lực lượng công an có mặt, nhưng vì quá nể bố của N, đành
bất lực và ra sức khuyên bảo mà vẫn không xong.
Nghe nói những lần
sau, mẹ N yêu cầu phải có mấy chú cảnh sát kèm mỗi khi N đi
nhậu. Không những thế, nhóm bạn bè thường xuyên tụ tập ăn chơi
quậy phá với N cũng toàn là con cái những vị quan đương chức
đương quyền tỉnh Q, mà chủ các nhà hàng hạng sang ở đó đều biết
đến với biệt danh “phi đội uống rượu tây như voi uống philatốp”.
Cũng bài báo ấy đã
đề cập tới :
“Nhiều người dân
trên phố Nguyễn Thái Học hẳn còn nhớ một vụ việc cách đây không
lâu, vào khoảng 0 giờ một đêm mùa đông, có ba thanh niên tóc
xanh đỏ đi trên chiếc xe Toyota đời mới, biển số tỉnh, phóng
ngược chiều bạt mạng. Khi bị Cảnh sát cơ động đuổi theo yêu cầu
dừng xe, cả ba gã cùng xuống và đánh lại hai chiến sĩ cơ động.
Sau này nghe nói bọn chúng là con “quan”ở tỉnh B và sở dĩ có
hành vi càn quấy như thế là do đã…nhậu say.
Tiếp đến. họ lạm
dụng tiền bạc của cha mẹ.
Thực vậy, Nhưng
đồng tiền ấy, không phải do công sức lao động và mồ hôi nước mắt
của mình làm ra, nó được sánh ví nhu một quà tặng từ trên trời
rơi xuống, nên họ mặc sức vung vít.
Thứ nhất là lạm
dụng tiền bạc của cha mẹ cho việc ăn chơi xả láng của mình.
Trở lại với gã
thanh niên tên VH trong bài báo :
“Từ năm 2001 đến
nay hắn đã 5 lần đổi các loại xe hơi xịn đời mới nhất từ Lexux
đến BMW. Nhóm của H chơi với nhau cũng toàn con quan chức cao
cấp.
Có lần một kiều nữ
nọ đang du học ở nước ngoài về chơi, cả nhóm cùng nhau phóng xe
xuống Tuần Châu vung tiền như nước để lấy le. Bữa tiệc sinh nhật
của một thành viên trong nhóm, con quan chức tỉnh N, riêng số
rượu tây loại đắt tiền cũng hết 50 chai. Bữa tiệc đó với đồng
lương của một công chức bình thường thì phải hết bao nhiêu năm
mới đủ ?
Chuyện lấy tiền của
bố mẹ mua một lúc 9 chiếc xe @ chia cho cả nhóm cùng nhau phóng
xuống bãi biển Hạ Long để làm một bữa tiệc gây xôn xao dư luận,
chắc chắn cũng chỉ là một động tác “củng cố độ oai” mà con cái
quan chức cỡ bự mới làm được, chứ con nhà lao động bình thường
thì mua 9 chiếc xe @ bằng vàng mã cũng còn phải đắn đo”.
Báo Công An số ra
thứ ba, ngày 21 tháng 6 năm 2005 đã lên tiếng báo động : Học
chơi ngông, học đua đòi, học làm anh chị đã trở thành model của
những cậu ấm cô chiêu đương thời. Chơi cũng phải tạo “thương
hiệu” cho riêng mình, chơi phải làm sao cho người khác biết mặt
đặt tên, đó là thực trạng báo động trong một bộ phận học sinh,
sinh viên đã trở thành những tay chơi ngông có số má với suy
nghĩ : chơi cho biết, để không thua kém bạn bè. Học hành giỏi
thì ít người biết đến, nhưng chỉ với một vài lần chơi ngông,
vung tiền lấy le, tiếng tăm đã nổi như cồn.
Bên cạnh những cậu
ấm, thì các cô chiêu cũng chẳng kém cạnh mấy tí :
“Th ở quận Bình
Thạnh là một học sinh, mới học giữa lớp 11, thì theo bạn bè
bước vào con đường chơi bời. Cha mẹ có hoàn cảnh kinh tế khá giả
nên đã chu cấp cho Th rất nhiều tiền. Những lần thiết đãi bạn
bè của Th cũng làm cho các tay anh chị khác phải trố mắt. Th có
tiếng là dân chơi overnight và thay bồ như thay áo. Cuộc sống
phóng khoáng của một cô bé mới bước vào tuổi 18 đã làm cho khuôn
mặt cô già hẳn so với các bạn đồng trang lứa. Theo bè bạn đàn
đúm ăn chơi, nên Th đã bỏ học mà cha mẹ cô không hề hay biết. Cô
cặp bồ một lúc với 2 người đàn ông, trong đó một người là bạn
học và người kia là một tay đáng tuổi bố cô để bạn bè của cô
coi đó là “model” của dân chơi có số má. Các phòng lắc, vũ
trường, quán bar là điểm đến hàng đêm của một cô bé mà trước đó
ít lâu còn ngồi trên ghế nhà trường”.
Thứ hai là lạm dụng
tiền bạc của cha mẹ cho việc đốt đời mình bằng những viên thuốc
lắc.
Trong những ngày
gần đây tại Việt Nam hàng loạt các “động lắc” được công an hỏi
thăm từ Hà Nội đến Saigon và những thành phố lớn. Mỗi động lắc
qui tụ hàng trăm thanh niên thiếu nữ thuộc diện cậu ấm và cô
chiêu, khiến bàn dân thiên hạ phải ngán ngẩm. Báo Công An số ra
thứ năm ngày 23 tháng 6 năm 2005 đã viết :
“Đến các tụ điểm
được dân chơi tín nhiệm, điều dễ dàng nhận thấy là hầu hết các
thanh thiếu niên có mặt trong đó đều tiêu tiền như nước…L, chủ
xị một nhóm bốn cô gái thường có mặt tại quán bar GT Vũng Tàu
cho biết :
- Hầu như tối cuối
tuần nào tụi này cũng tới đây, ở nhà không làm gì buồn chán lắm.
Áo hai dây ngắn cũn
cỡn trên rốn, quần xẻ dọc xẻ ngang làm mấy tà, những cô gái này
đều đang là học sinh phổ thông trung học, nhưng hiểu biết về mấy
tụ điểm ăn chơi thì chẳng thua kém ai….
Ăn chơi trong bar,
vũ truờng thì cũng thú vị, nhưng không thể bằng “bay”riêng trong
mấy phòng karaoke, khách sạn được. Đó là kinh nghiệm của N, một
cô gái chơi thuốc lắc đến nỗi thần kinh bị ảnh hưởng nặng mà
chúng tôi gặp trong trung tâm cai nghiện. Theo lời N, đi bay
trong phòng riêng có thể ở lì vài ngày đến khi hết thuốc mới
chui ra, đám bạn cứ thế tha hồ nhảy múa, gào thét đến khi nào
hết sức thì lăn ra ngủ thiếp…”
Sau cùng là lạm
dụng tiền bạc của cha mẹ cho những kiểu chơi cuồng loạn gây kinh
hoàng cho người khác.
Báo Công An số ra
thứ ba, ngày 21 tháng 6 năm 2005 đã đăng tin :
“Cách đây chưa lâu,
trên đường Điện Biên Phủ, Quận Bình Thạnh, đã diễn ra một cuộc
đua xe hơi với những chiếc xe đắt tiền như BMW, Mercedes,
Lexus…của các quý tử, làm náo động cả con đường lúc 3 giờ sáng.
Các tay đua này đều là những đứa trẻ, con của các đại gia giàu
có ở đất Saigon, cũng như một số công tử từ tỉnh lẻ lên thành
phố tranh tài, khoe của.
Điều đáng nói là có
quý tử còn được cha mẹ dùng tiền khoác lên mình cái mác “học
sinh du học” vừa trở về. Trong số các tay đua bị bắt hôm đó nổi
trội hơn cả phải nói đến tay đua chủ chiếc Mercedes thể thao đắt
tiền nhất. Cường quê ở Gia Lai, do cuộc sống sung túc, được mẹ
là một người kinh doanh gỗ giàu có nuông chiều, thích gì mua sắm
đó, nên Cường sớm tập tành ăn chơi.
Dù đã được mẹ bỏ ra
gần 1.000 lượng vàng để mua cho cậu qúy tử một căn nhà mặt tiền
trên đường Nguyễn Thị Minh Khai, thành phố Hồ Chí Minh, nhưng
Cường vẫn chưa bằng lòng, luôn than vãn vì khoảng sân quá chặt
hẹp, không đủ chỗ cho bạn bè đến chơi đậu những chiếc xe đắt
tiền.
Theo báo An Ninh
Thế Giới, tháng 6 vừa qua, tòa án tỉnh Bình Dương đã mở phiên
tòa xét xử một vụ cá độ bóng đá có quy mô lớn. Trong vụ xét xử
này, có 23 can phạm, tất cả đều là những cậu ấm, con của các
doanh nghiệp địa phương. Nổi tiếng nhất trong đám là cậu LTN, có
biệt danh là công tử Cám.
Sở dĩ người ta gọi
LTN là công tử Cám, bởi vì cha cậu là chủ một xí nghiệp sản xuất
cám nuôi heo nổi tiếng ở đất Bình Dương. Công tử Cám cũng nổi
tiếng không kém cha mình, nhưng ở khía cạnh khác : Xài tiền, đá
gà và cá độ. Chính vì thế mà những người tham dự phiên tòa đã
dành cho cậu một sự chú ý đặc biệt. Đây là phiên tòa xét xử vụ
cá độ bóng đá diễn ra từ World Cup 2002 từng gây xôn xao dư
luận, khi số tiền tang vật lên tới hơn 400 triệu đồng. Đây chỉ
là số tiền thu được khi công an bắt quả tang với 23 tay máu me
cá độ mặt búng ra sữa. Trong số đó, công tử Cám tham gia cả thảy
4 trận với số tiền khai nhận là 34 triệu đồng.
Đối với công tử
Cám, cá độ bóng đá chỉ là một cuộc chơi trong những lúc ngẫu
hứng, còn thường ngày cậu ta mê đá gà như điếu đổ và đã mất
không biết bao nhiêu tiền cho thú chơi này. Công tử Cám nổi
tiếng với khoản sát gà.
Thấy con gà nào
chiến, dù giá hàng triệu, cậu cũng mua cho bằng được. Khi mới ti
toe vào nghề, cậu chỉ thua, tiền bao nhiêu cũng đem cúng cho
những tay chơi có máu mặt ở trường gà. Rút kinh nghiệm, sau
những trận thư hùng, con gà nào thắng, cậu đều mua lại. Không
những thế, cậu còn đi khắp nơi để săn lùng gà chiến bằng bất cứ
giá nào.
Cậu còn nuôi một sư
phụ gà để chuyên huấn luyện gà đá cho cậu. Nhưng sau khi thắng
độ, cậu thường đem số tiền thắng được bao dân chầu rìa một bữa
nhậu đập phá thả cửa tại những nhà hàng nổi tiếng nhất Bình
Dương.
Cùng hàng với công
tử Cám, còn có công tử Xe, một cậu ấm cũng “quậy” không kém. Gia
đình giàu có với hàng chục chiếc xe ben. Công tử Xe mới 20 tuổi
và đã tốt nghiệp lớp 12, nhưng vì ham chơi vô độ, cậu quăng tiền
như rác trong sới bạc.
Một trong những bà
mẹ của 23 cậu ấm, một phụ nữ lụa là nhưng vẫn không gột rửa hết
cái chất nông dân trên mình đã kể lại như sau :
Mười năm truớc nhà
bà nghèo lắm, chỉ giàu về đất. Đất có giá, chồng bà xắn ra bán.
Từ một gia đình nghèo bỗng lột xác trở thành một nhà giàu có.
Cậu con trai của bà vốn không phải là đứa trẻ ham chơi, khi nhà
còn nghèo nó vẫn chăm chỉ học hành, làm lụng vất vả suốt ngày.
Từ khi có tiền, chồng bà đèo bòng bồ nhí, bỏ bê tất cả. Con bà
bỏ học rồi thâu đêm suốt sáng chạy theo đám bạn bè giàu có chơi
bời lêu lổng. Tiền bạc vơi dần theo những cuộc chơi của chồng và
của con.
Càng viết, gã càng
cảm thấy bực bội và tức tối trước thói chơi ngông của các cậu ấm
và cô chiêu, nhưng đồng thời lại xót xa đau buồn truớc những
mảnh đời nghèo túng và nghiệt ngã. Gã rất đồng tình với nhận xét
của một bài báo :
“Việc muông chiều
con vô lối của một bộ phận nhỏ có chức có quyền từng gây hậu quả
khôn lường cho chính gia đình họ và tai họa cho xã hội. Để có
thể hạn chế tối đa điều này thì không phải ai cũng nhận ra.
Con đường trở thành
một người hoàn thiện, sống có ích cho xã hội và tự hào về chính
mình thì dài, nhưng con đường để đánh mất mình và gây ra nhiều
hệ lụy thì quá ngắn.
Khi con cái nhà
quan không được đáp ứng điều gì đó, hoặc do đua đòi, coi mình là
“bố” thiên hạ, chẳng may bị pháp luật sờ gáy, chính những ông bố
bà mẹ đó lại dựa vào quyền uy, quan hệ của mình để “cứu” con ra.
Trong truờng hợp vô
can như thế, biết bố mẹ mình thừa sức, dư tiền để lo lót mọi
chuyện, các “ông trời con” sẽ không ngại gì mà không quậy phá,
có khi còn nghiêm trọng hơn và “dã man” hơn!
Nếu làm một cuộc
điều tra bỏ túi, thì gã ghi nhận được như sau : phần lớn những
cậu ấm và cô chiêu này đều gặp phải những chuyện bất ổn trong
gia đình.
Thực vậy, rất có
thể gia đình họ đã bị đổ vỡ từ lâu: ông bố thì đèo bòng bồ nhí,
còn bà mẹ thì chạy theo kép nhỏ. Cuối cùng lôi nhau ra tòa ly dị
khiến họ cảm thấy bơ vơ như bị hụt hẫng.
Rất có thể gia đình
họ vẫn còn đó, nhưng cha mẹ lại quá bận rộn với chuyện bắt mánh
áp phe, quá bận rộn với chuyện tìm tiền kiếm bạc, nên không còn
thời giờ dành cho họ và họ cảm thấy như bị thiếu vắng tình
thương.
Cha mẹ sẵn sàng
cung cấp tiền bạc cho họ và còn cung cấp một cách thừa mứa. Thế
nhưng lại chẳng bao giờ trao ban cho một một sự quan tâm, một sự
chăm sóc, một sự an ủi hay khích lệ. Lúc bấy giờ, tiền bạc không
còn là một tên đầy tớ tốt giúp tiến lên những bậc thang xã hội,
mà đã trở thành một ông chủ hà khắc, giết chết tương lai và cuộc
đời của họ.
Vì sẵn tiền, họ đã
lao mình vào những ăn chơi trác táng làm băng hoại bản thân họ.
Vì sẵn tiền, họ đã lao mình vào những quậy phá, tạo nên những
bất ổn cho xã hội.
Nếu tương lai của
nhân loại phải đi ngang qua gia đình, thì trong lãnh vực cá
nhân, cuộc đời mình có sáng hơn cũng đều bởi gia đình. Kinh
nghiệm cho thấy : trong việc giáo dục, vai trò của gia đình thật
quan trọng vì gia đình chính là mái trường đầu tiên dạy cho
chúng ta những bài học làm người. Và trong mái trường đầu tiên
này cha mẹ là những thầy cô được tín nhiệm và yêu mến hơn cả.
Gã chẳng nhớ một
nhà kinh tế hay chính trị nào đó đã phát biểu về việc viện trợ
như sau :
- Hãy trao cho họ
chiếc cần câu, chứ đừng trao cho họ con cá. Bởi vì con cá ăn rồi
sẽ hết, nhưng với chiếc cần câu thì cá sẽ vẫn còn mãi.
Cùng một thể thức
ấy :
Đừng muông chiều
con cái, nhưng hãy dạy bảo chúng.
Đừng vội cho chúng
tiền bạc, mà quên mất tình yêu.
Đừng bao bọc chở
che chúng từ A đến Z, nhưng hãy tập cho chúng bước đi trên đôi
chân của mình với một nghề trong tay để kiếm sống.
Gã Siêu
gasieu@gmail.com
|
VỀ MỤC LỤC |
|
- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến,
bài vở..., xin gởi về địa chỉ
giaosivietnam@gmail.com
- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục
vụ của Giáo sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các
Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn
gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực
Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh
vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức
Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và
Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quy vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại
www.conggiaovietnam.net
Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị
Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã
sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác
nhau.
TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca
Phạm Quốc Sử
USA
|
|
*************
|
|