Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam

 

 

 

ĐỰƠC CHỌN GIỮA LOÀI NGƯỜI
VÀ CHO LOÀI NGƯỜI  (x. Dt, 5.1)

 

GIÁO SĨ:

Xuất phát từ giáo dân, hiện diện vì giáo dân và cậy dựa vào giáo dân

 

ĐỂ CÙNG LÀM VINH DANH THIÊN CHÚA

 

www.conggiaovietnam.net                          giaosivietnam@gmail.com

Đặc San Điện Tử    Giáo Sĩ Việt Nam    Số 72, Chúa Nhật 27.07.2008


MỤC LỤC 

Hiến Chế Tín Lý Về Giáo Hội - Lumen Gentium (tiếp theo)                                    Vatican 2

BÀI GIẢNG CỦA ĐỨC THÁNH CHA BIỂN ĐỨC XVI TRONG THÁNH LỄ BẾ MẠC ĐẠI HỘI GIỚI TRẺ THẾ GIỚI KỲ XXIII TẠI SYDNEY, ÚC CHÂU                                                        Chuyển ngữ: Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh

Sydney Ơi!                                                                   Nhà Văn Bút Xuân TRẦN ĐÌNH NGỌC

DƯ ÂM ĐẠI HỘI THÁNH THỂ QUỐC TẾ THỨ 49 TẠI QUEBEC, CANADA                         Nhà Văn Hương Vĩnh

Lối mòn                                                                                                         Phạm Minh-Tâm

“ĐỜI ĐỔI RỒI MÀ EM MÃI NGỦ IM !”                                                  Lm. Vĩnh Sang, DCCT

HÃY ĐỨNG NGOÀI CUỘC (1)                                                                    Lm. Lê Văn Quảng

ĐỨNG NGOÀI NHƯNG VẪN Ở TRONG                                             GIOAN LÊ QUANG VINH

Công ích là gì? (Học thuyết Xã Hội của Giáo Hội - tiếp theo)                      Br. Huynhquảng

Hãy vẤt bỎ buỒn phiỀn - Hãy ca ngỢi và nhẢy mỪng   Lm. MICAE-PHAOLÔ TRẦN MINH HUY pss

Bệnh Gai Cột Sống                                                                                Bác sĩ Nguyễn Ý Đức

SỰ KHỦNG BỐ ÊM DỊU                                                                Chuyện phiếm của Gã Siêu


Hiến Chế Tín Lý Về Giáo Hội - Lumen Gentium (tiếp theo)   Vatican 2

Thánh Công Ðồng Chung Vaticanô II

Hiến Chế Tín Lý Về Giáo Hội - Lumen Gentium

 

Bản dịch Việt Ngữ của Giáo Hoàng Học Viện Piô X

Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia


Chương IV Giáo Dân 40* 

36. Ðịa vị vương giả. Chúa Kitô đã vâng lời cho đến chết, và vì thế Người được Chúa Cha tôn vinh (x. Ph 2,8-9), và đã vào trong vinh quang nước Người. Mọi vật đều suy phục Người, cho đến khi Người cùng với mọi tạo vật suy phục Chúa Cha, để Thiên Chúa nên tất cả mọi sự (x. 1Cor 15,27-28). Người cũng thông ban cho các môn đệ quyền bính đó để họ được hưởng sự tự do vương giả, và chiến thắng ách thống trị của tội lỗi nơi họ, bằng một đời sống từ bỏ và thánh thiện (x. Rm 6,12), hơn nữa để, khi phụng sự Chúa Kitô nơi tha nhân, họ khiêm nhường và kiên nhẫn dẫn đưa anh em mình đến cùng Ðức Vua, Ðấng mà phụng sự Người là thống trị. Thực thế, Chúa cũng muốn nhờ cả giáo dân để mở rộng nước Người, nước của chân lý và sự sống, của ân sủng và thánh thiện, của công lý, tình yêu và hòa bình 4; trong nước này, chính tạo vật cũng được hưởng tự do rạng ngời của con cái Thiên Chúa (x. Rm 8,21). Lời Chúa hứa thật trọng đại và lệnh Người truyền cho các môn đệ thật lớn lao: "Thực vậy, tất cả mọi sự đều thuộc về anh em, còn anh em thuộc về Chúa Kitô và Chúa Kitô thuộc về Thiên Chúa" (1Cor 3,23).

Vì thế, tín hữu phải nhận biết bản tính sâu xa của tạo vật, giá trị của chúng, và cùng đích của chúng là ca tụng Thiên Chúa; đồng thời phải giúp nhau sống đời thánh thiện, nhờ những việc trần thế, để thế gian thấm nhuần tinh thần Chúa Kitô và đạt đến cùng đích một cách hữu hiệu hơn trong công lý, bác ái và hòa bình. Giáo dân giữ lấy vai trò chính yếu trong khi chu toàn nhiệm vụ phổ quát đó. Nhờ khả năng chuyên môn trong những việc trần thế, nhờ các hoạt động của họ, những hoạt động được ân sủng Chúa Kitô nâng lên bậc siêu nhiên, giáo dân hãy đem toàn lực hợp tác để nhờ lao công con người, kỹ thuật và văn hóa nhân loại khai thác những của cải được tạo dựng hầu mưu ích cho mọi người và phân chia cân xứng hơn giữa họ theo ý định của Ðấng Tạo Hóa và sự soi sáng của Ngôi Lời Ngài; và tùy cách thức riêng của chúng, chúng giúp phát triển toàn diện sự tự do của con người và sự tự do của Kitô hữu. Như thế, nhờ các phần tử của Giáo Hội, Chúa Kitô sẽ đem ánh sáng cứu độ của Người chiếu soi toàn thể nhân loại mỗi ngày một hơn.

Ðàng khác, khi các thể chế và cảnh sống của thế giới gây nên dịp tội, giáo dân phải góp sức làm cho các thể chế và cảnh sống đó trở nên lành mạnh, để chúng phù hợp với các tiêu chuẩn của đức công bình, và giúp phát huy việc luyện tập các nhân đức hơn là ngăn trở chúng. Hành động như thế, giáo dân sẽ làm cho những giá trị luân lý thấm nhập vào văn hóa và các công trình của loài người. Và nhờ vậy, cánh đồng thế giới mới được chuẩn bị kỹ càng hơn để đón nhận hạt giống Lời Thiên Chúa, và nhiều cửa được mở rộng thêm hơn cho Giáo Hội để sứ điệp hòa bình thấm nhập vào thế gian.

Chính công cuộc cứu độ đòi hỏi tín hữu phải lưu tâm phân biệt đâu là quyền lợi và nghĩa vụ của họ với tư cách một phần tử của Giáo Hội, đâu là quyền lợi và nghĩa vụ với tư cách một phần tử trong xã hội loài người. Họ phải cố gắng hòa hợp cả hai loại nghĩa vụ và bổn phận đó với nhau, và hãy nhớ rằng trong mọi lãnh vực trần thế, lương tâm Kitô giáo phải luôn hướng dẫn họ, vì không một hoạt động nào của con người, dù thuộc phạm vi trần thế, có thể vượt khỏi quyền thống trị của Thiên Chúa. Vì thế, trong thời đại chúng ta, hơn bao giờ hết, người tín hữu cũng phải làm sáng tỏ sự phân biệt và hòa hợp các nghĩa vụ và bổn phận này trong phương thức hành động của họ, để sứ mệnh của Giáo Hội có thể đáp ứng những hoàn cảnh đặc biệt của thế giới ngày nay cách trọn vẹn hơn. Thực vậy, nếu phải công nhận rằng xã hội trần gian, vì lo lắng việc trần thế cách hợp pháp nên có quyền điều hành theo những qui tắc riêng biệt, thì cũng phải loại bỏ cách chính đáng tà thuyến chủ trương xây dựng xã hội bất cần đạo lý, và chủ trương chống lại hay hủy diệt tự do tín ngưỡng của người công dân 5. 47*

37. Tương quan với hàng giáo phẩm. Như mọi Kitô hữu khác, giáo dân cũng có quyền được các chủ chăn có chức thánh ban phát dồi dào ơn trợ lực chứa đựng trong kho tàng thiêng liêng của Giáo Hội, đặc biệt là Lời Thiên Chúa và các bí tích 6. Như con cái Thiên Chúa và như anh em trong Chúa Kitô, họ cũng sẽ trình bày với các vị ấy những nhu cầu và khát vọng của mình một cách tự do và tín cẩn. Nhờ sự hiểu biết, khả năng chuyên môn và uy tín của họ, họ có thể và đôi khi còn có bổn phận phải bày tỏ cảm nghĩ mình về những việc liên quan đến lợi ích của Giáo Hội 7. Họ nên thực hiện điều đó, nếu cần, nhờ vào các cơ quan đã được Giáo Hội thiết lập nhằm mục đích ấy; và họ hãy luôn chân thành, can đảm và khôn ngoan, kính trọng và yêu mến những người thay mặt Chúa Kitô vì nhiệm vụ thánh của các ngài.

Như mọi tín hữu khác, với tinh thần vâng lời của người Kitô hữu, giáo dân cũng hãy mau mắn chấp nhận những điều mà các chủ chăn có nhiệm vụ thánh đại diện Chúa Kitô, đã quyết định với tư cách những thầy dạy và những nhà lãnh đạo trong Giáo Hội; làm như thế, họ đã theo gương Chúa Kitô, Ðấng đã vâng lời cho đến chết, để mở đường hạnh phúc của sự tự do con cái Thiên Chúa cho tất cả mọi người. Giáo dân đừng quên dùng lời cầu nguyện phó dâng cho Thiên Chúa các vị lãnh đạo của mình, để các ngài hoan hỷ mà không than vãn thi hành nhiệm vụ chăm sóc linh hồn chúng ta, nhiệm vụ mà các ngài sẽ phải trả lẽ (x. Dth 13,17).

Phần các chủ chăn có chức thánh, các ngài phải nhìn nhận và nâng cao phẩm giá và trách nhiệm của giáo dân trong Giáo Hội, các ngài nên sẵn sàng chấp nhận những ý kiến khôn ngoan của họ, tin cẩn giao phó cho họ những công tác để họ phục vụ Giáo Hội, cho họ tự do và quyền hạn để hành động; hơn nữa, các ngài cũng nên khuyến khích họ tự đảm lấy trách nhiệm. Với tình cha con, các ngài hãy cẩn thận xem xét, trong Chúa Kitô, những kế hoạch, thỉnh cầu và khát vọng của họ 8. Ðàng khác, các chủ chăn phải nhìn nhận và tôn trọng sự tự do chính đáng của mọi người trong lãnh vực trần thế.

Họ hy vọng rằng, sự liên lạc mật thiết giữa giáo dân và chủ chăn sẽ đem lại rất nhiều lợi ích cho Giáo Hội: thực vậy, nhờ sự liên lạc đó, giáo dân ý thức trách nhiệm mình một cách vững vàng hơn; lòng hăng say của họ được phát triển, và họ góp sức dễ dàng hơn vào công việc của các chủ chăn. Phần các chủ chăn, nhờ sự trợ lực kinh nghiệm của giáo dân, các ngài có thể phán đoán minh bạch và đúng đắn hơn về những vấn đề thiêng liêng cũng như trần thế; như vậy, toàn thể Giáo Hội được vững mạnh nhờ tất cả mọi chi thể, sẽ chu toàn hữu hiệu hơn sứ mệnh mình đối với sự sống của thế gian. 48*

38. Giáo dân, linh hồn của thế giới. Trước mặt nhân loại, mỗi giáo dân phải là chứng nhân của sự phục sinh và sự sống của Chúa Giêsu, đồng thời là dấu hiệu của Thiên Chúa hằng sống. Tất cả và mỗi người góp phần nuôi dưỡng thế giới bằng những hoa trái thiêng liêng (x. Gal 5,22) và truyền bá cho thế gian tinh thần của những người nghèo khó, hiền lành và hiếu hòa, những người mà Phúc Âm Chúa đã tuyên bố là có phúc (x. Mt 5,3-9). Tóm lại, "người Kitô hữu hãy làm cho thế giới sống như linh hồn làm cho thân xác sống" 9. 49*

 


Chú Thích:

(lưu ý: những số ghi chú nhỏ hơn đã được đăng vào những số báo trước)

47* Số 36: Vương giả. Tham dự vào chức vị vương giả của Chúa Kitô: ở đây bàn về sự kiện giáo dân thánh hóa thế gian, vì họ đem sở trường tham gia vào công cuộc tìm kiếm và xây dựng trần thế: vai trò đó làm họ thích hợp với việc tán trợ công cuộc chuẩn bị cho Phúc Âm (x. số 16) qua những giá trị nhân bản.

48* Số 37 đưa ra nguyên tắc tốt đẹp giữa giáo dân và hàng giáo phẩm. Giáo dân phải theo tinh thần Kitô giáo mà trọng kính tuân phục giáo phẩm, và giáo phẩm cũng phải biết thẳng thắn tiếp nhận giáo dân, biết lấy tinh thần kính trọng và bác ái mà lắng nghe họ, biết thừa nhận và đề cao địa vị và trách nhiệm của họ trong Giáo Hội. Giáo Hội cũng phải tôn trọng sự tự do chính đáng của họ trong nước trần gian.

49* Ðể kết luận, số 38 quả quyết mỗi giáo dân tùy theo cảnh huống của mình phải là chứng nhân của Phục Sinh và là dấu hiệu của Thiên Chúa hằng sống.

 

VỀ MỤC LỤC

BÀI GIẢNG CỦA ĐỨC THÁNH CHA BIỂN ĐỨC XVI

TRONG THÁNH LỄ BẾ MẠC ĐẠI HỘI GIỚI TRẺ THẾ GIỚI KỲ XXIII

TẠI SYDNEY, ÚC CHÂU

 

Chuyển ngữ: Bs Nguyễn Tiến Cảnh

 

Các bạn thân mến,

 

Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Chúa Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em” (Acts 1: 8). Chúng ta đã thấy lời hứa đó được ứng nghiệm. Vào ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, trong bài đọc I, chúng ta thấy Chúa đã sống lại, lên trời, ngồi bên hữu Đức Chúa Cha và Ngài gửi Chúa thánh Thần xuống cho các môn đệ đang tụ họp ở trong Phòng. Nhờ sức mạnh Chúa Thánh Thần, thánh Phêrô và các tông đồ đã mạnh bạo ra đi  cùng khắp thế giới để rao truyền Tin Mừng Phúc Âm. Ngày nay Giáo Hội, trong mọi thời đại và bằng mọi ngôn ngữ vẫn đang tiếp tục tuyên xưng những việc làm kỳ diệu của Thiên Chúa trên khắp thế giới và kêu gọi mọi quốc gia, mọi dân tộc hãy TIN TƯỞNG, CẬY TRÔNG / HY VỌNG và sống CUỘC SỐNG MỚI trong Đức Kitô.

 

Trong những ngày này, tôi đến miền đất Úc Châu huy hoàng này là với tư cách người kế vị Thánh Phêrô.  Tôi đến để làm phép thêm sức cho một số bạn trẻ nam và nữ và khuyến khích các bạn mở rộng tâm hồn đón nhận sức mạnh Thánh Linh của Chúa Kitô và những  ân tặng dồi dào của Người. Tôi cầu Chúa để đại hội vĩ đại này sẽ hiệp nhất tất cả các bạn trẻ đến “từ mọi quốc gia trên khắp mặt đất này” (Acts 2: 5) trong một ‘Phòng Tiệc Ly Mới’. Chớ gì lửa tình yêu Thiên Chúa đổ xuống tràn đầy tâm hồn các bạn, kết hợp chặt chẽ các bạn hơn bao giờ hết với Thiên Chúa và Giáo Hội của Ngài, rồi sai các bạn, một thế hệ mới của các thánh tông đồ, ra đi để đem thế giới về với Chúa Kitô. “Các bạn sẽ nhận được sức mạnh Chúa Thánh Thần khi Người ngự xuống trên các bạn”. Bốn tiếng CHÚA ĐÃ SỐNG LẠI hẳn phải có một ý nghĩa đặc biệt đối với một số bạn trẻ chốc nữa sẽ được chịu phép thêm sức, sẽ được in dấu ân sủng của Chúa Thánh Linh trong thánh lễ hôm nay. Nhưng  nó cũng nói cho mỗi người chúng ta, tất cả những ai đã được ơn Thánh Linh nhờ phép hòa giải và cuộc sống mới nhờ phép Thanh Tẩy, những ai đã hân hoan đón nhận Người vào lòng mình như là đấng phù trợ và hướng dẫn qua phép Thêm Sức để rồi mỗi ngày họ lớn lên trong ân sủng của Người nhờ bí tích Thánh Thể. Khi tham dự thánh lễ, Chúa Thánh Linh lại một lần nữa hiện xuống –nhờ những lời nguyện trọng thể của Giáo Hội- đã biến đổi không phải chỉ những tặng vật như bánh và rượu của chúng ta thành mình và máu Chúa, mà còn biến đổi chính cuộc sống của chúng ta, biến chúng ta trở nên “một thân xác và một tinh thần trong Chúa Kitô”.

 

Nhưng “Sức Mạnh” của Chúa Thánh Linh là cái gì? Đó là sức mạnh của đời sống Thiên Chúa.  Nó cũng là sức mạnh của cùng một Thánh Linh đã bay lượn trên nước vào buổi bình minh tạo thiên lập địa, sức mạnh đã làm Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết vào buổi ban mai của một ngày mới. Đó chính là sức mạnh chỉ cho chúng ta và thế giới thấy nước Chúa đang trị đến. Trong bài phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu tuyên phán thời đại mới đã bắt đầu và Chúa Thánh Linh sẽ đổ tràn đầy ân sủng xuống cho nhân loại (Lk 4: 21). Còn chính Người, nhờ phép Chúa Thánh Thần đã được sinh ra bởi Đức trinh nữ Maria và đến giữa chúng ta, mang cho chúng ta Thần Linh Chúa. Như là nguồn suối của đời sống mới của chúng ta trong Chúa Kitô, Thần Linh Chúa, trong một phương cách rất thực, cũng là linh hồn của Giáo hội, là tình yêu gắn bó chúng ta với Thiên Chúa và chúng ta với nhau, là ánh sáng mở mắt chúng ta cho chúng ta nhìn chung quanh chúng ta để nhận biết những kỳ diệu của ân sủng Thiên Chúa.

 

Ở đây, nơi Úc Châu này, miền đất phương Nam vĩ đại của Thánh Linh Chúa, , tất cả mỗi người chúng ta đều đang có một  kinh nghiệm không thể quên được về sự hiện diện và sức mạnh của Thánh Linh  biểu hiện qua vẻ hoàng tráng của thiên nhiên.  Mắt chúng ta đã nhìn biết thế giới quanh ta nó thế nào, để chàng thi sĩ phải thốt nên lời:

 

“Ôi! vẻ mỹ miều huy hoàng vĩ đại…

                                          của Thiên Chúa”,

“Chan chứa vinh quang…

                          tình yêu Ngài sáng tạo”.

 

Ở đây, ngay tại đại hội giới trẻ vĩ đại này, những người Ki Tô hữu đến từ khắp nơi trên thế giới cũng cho ta thấy một sự thực sống động về quyền năng của Thánh Linh Chúa hiện diện trong đời sống của Giáo Hội. Chúng ta đang nhìn thấy Giáo Hội đích thực của nó: Là Cơ thể của Chúa Kitô, một cộng đồng tình yêu sống động, bao gồm tất cả mọi người của mọi sắc tộc, mọi quốc gia và mọi ngôn ngữ, ở mọi không gian và thời gian, tất cả đều đồng nhất phát sinh ra từ một niềm tin chung Chúa Phục Sinh. Quyền năng của Thần Linh Chúa không bao giờ ngừng đổ trên Giáo Hội một cách sống động. Nhờ ân sủng của các phép bí tích của Giáo Hội, quyền năng đó chảy dài và chìm sâu  trong chúng ta như giòng sông chảy ngầm dưới đất để nuôi dưỡng tâm hồn chúng ta và luôn luôn kéo chúng ta đến gần mạch sống thực của chúng ta là Chúa Kitô. Thánh Ignatius thành Antioch chịu chết tử đạo ờ Roma vào đầu thế kỷ II đã diễn tả cho chúng ta về quyền năng của Thánh Linh Chúa ngự trị nơi chúng ta bằng một hình ảnh sáng chói và sống động. Ngài tả Thánh Linh Chúa như một nguồn suối nước hằng sống bắt nguồn từ nơi trái tim ngài và thì thầm nhắn gọi: “ Hãy đến, hãy đến, con hãy đến cùng Cha” (Ad Rom., 6: 1-9).

 

Tuy nhiên, quyền năng này, tức ân sủng của Chúa Thánh Linh, không phải là cái gì mà chúng ta có quyền có hoặc có thể tạo ra được, mà chỉ có thể nhận được như là một tặng vật thuần túy mà thôi. Tình yêu Chúa chỉ có thể phát sinh ra sức mạnh khi nó có thể biến cải chúng ta từ trong nội tại thâm tâm chúng ta mà thôi. Chúng ta phải để nó phá vỡ, thoát ra khỏi lớp vỏ cứng ngắc của thái độ dửng dưng, tinh thần uể oải và thói ùa theo trào lưu thời đại ngày nay một cách mù quáng. Lúc đó chúng ta mới có thể để nó đốt cháy trí tưởng tượng của chúng ta và uốn nắn ước vọng thầm kín sâu xa nhất của chúng ta được. Ví thế cầu nguyện là tối quan trọng: Cầu nguyện hàng ngày, cầu nguyện thầm lặng riêng trong lòng chúng ta và trước Thánh Thể Chúa, và bằng lời kinh phụng vụ trong lòng Giáo Hội. Cầu nguyện là hoàn toàn tiếp nhận ân sủng Chúa, là yêu thương biểu hiện qua hành động, là hiệp thông với Chúa Thánh Thần đang ngự trị trong lòng chúng ta, dẫn dắt chúng ta –nhờ Chúa Kitô trong Giáo Hội- để đến cùng Thiên Chúa Cha chúng ta ở trên trời. Nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần, Chúa Giêsu luôn luôn hiện diện trong lòng chúng ta, lặng lẽ chờ đợi chúng ta ở với Người, nghe tiếng người kêu gọi, ẩn náu trong tình yêu Chúa và tiếp nhận “quyền năng Chúa từ trời cao”, hầu giúp chúng ta trở nên muối và ánh sáng cho trần gian.

 

Khi Chúa phục sinh, Chúa đã nói với các môn đệ của người: “Các con sẽ là chứng nhân của cha…..cho đến tận thế” (Acts 1: 8). Nơi đây, tại  Australia, chúng ta hãy cảm tạ Chúa vì ân sủng niềm Tin Chúa ban xuống cho chúng ta giống như một kho tàng được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác trong sự hiệp thông với Giáo Hội. Nơi đây, tại Oceania / Châu Đại Dương, chúng ta hãy cảm tạ Chúa một cách đặc biệt vì những nhà truyền giáo anh hùng, những linh mục và tu sĩ, những bậc ông bà cha mẹ Công giáo, những thầy giáo, giáo lý viên là những người đã thiết lập Giáo Hội ở những miền đất này, họ là những chứng nhân của Chúa như Á thánh Mary MacKillop, thánh Pherô Chanel, Á thánh Peter To Rot và biết bao nhiêu thánh nhân khác. Sức mạnh ơn Chúa Thánh Thần được biểu hiện bằng cuộc sống của họ hiện vẫn còn sinh động qua những việc thiện mà các ngài đã để lại trong xã hội do các ngài đã dày công uốn nắn và trao lại cho các bạn.

 

Các bạn trẻ thân mến,  tôi xin hỏi các bạn một câu hỏi. Các bạn sẽ để lại cái gì cho thế hệ mai sau của các bạn?  Các bạn có thiết lập cuộc sống của các bạn trên một nền tảng vững chắc không, có tạo dựng được cái gì có tính bền vững không? Các bạn có sống một cuộc sống mở rộng lối cho Chúa Thánh Thần đến ngự trị giữa một thế giới mà người ta đang muốn quên Chúa hoặc cả chối từ Chúa nhân danh loại tự do được tạo thành một cách sai lạc?  Các bạn đang dùng thế nào cái ân tặng Chúa ban, loại “sức mạnh” mà Chúa Thánh Thần đã được chuẩn bị để truyền ban cho bạn? Bạn có di tặng vật nào để lại cho giới trẻ kế tiếp các bạn không? Bạn có làm được điều gì khác biệt không? Sức mạnh của Chúa Thánh Thần không phải chỉ để soi sáng và ủi an chúng ta, mà còn chỉ cho chúng ta biết về tương lai, về nước Chúa trị đến. Một viễn tượng huy hoàng biết mấy về nhân loại đã được cứu rỗi và canh tân mà chúng ta đang thấy trong thời đại mới đã đựoc hứa hẹn trong Tin Mừng Phúc Âm ngày nay ! Thánh Luca cho chúng ta biết là Chúa Giêsu Kito chính là đấng đến để hoàn thành tất cả những lời Thiên Chúa hứa, đấng thiên sai có đầy đủ ơn Chúa Thánh Thần để ban những ân tặng đó cho nhân loại. Ơn Chúa Thánh Thần của Chúa Kitô đổ tràn xuống cho nhân loại là một lời hứa hy vọng và giải thoát khỏi tất cả mọi sự đang làm hao mòn chúng ta.  Nó làm cho người mù đựợc thấy, kẻ bị áp bức được tự do và tạo hiệp nhất giữa những khác biệt (Lk 4: 18-19; Is 61: 1-2). Sức mạnh này có thể tạo thành một thế giới mới: Nó có thể “canh tân bộ mặt trái đất” (Ps 104: 30) !

 

Được tăng sức mạnh bởi Chúa Thánh Linh và đi tới một viễn tượng phong phú niềm tin, một tân thế hệ Kitô hữu đang được kêu gọi để thiết lập một thế giới trong đó tặng vật đời sống Thiên Chúa được hoanh nghênh, kính trọng và ấp ủ -không bị chối bỏ, bị tiêu hủy hay sợ hãi như là một đe dọa. Một thời đại mới trong đó tình yêu không tham lam ích kỷ nhưng là tinh tuyền, tin tưởng và tự do thực, cởi mở với mọi người, kính trọng nhân phẩm và đi tìm điều thiện, niềm vui và vẻ đẹp lan toả. Một thời đại mới trong đó hy vọng  giải thoát chúng ta khỏi mọi nông cạn tối tăm, vô cảm thờ ơ và tự ty làm cho tâm hồn chúng ta trở nên u tối và đầu độc tình thân hữu. Các bạn trẻ thân mến, Thiên Chúa đang yêu cầu các bạn trở thành những ngôn sứ của thờ đại mới, sứ giả của tình yêu Chúa, lôi kéo mọi người về với Thiên Chúa Cha và xây dựng một tương lai hy vọng cho toàn thể nhân loại.

 

Thế giới đang cần phải đổi mới ! Trong khá nhiều xã hội của chúng ta hai thái cực luôn luôn đi sóng đôi là vật chất thì phồn vinh nhưng tâm hồn thì hoang vắng: nội tâm trống rỗng, một sự sợ hãi mơ hồ không tên, một cảm quan âm thầm thất vọng.  Có bao nhiêu đồng nghiệp của chúng ta đã xây những hầm nước bể và rỗng không có nước (Jer 2:13) khi đi tìm kiếm ý nghĩa một cách vô vọng, cái ý nghĩa sau cùng này chỉ có tình yêu mới có thể giải quyết được? Đây chính là tặng vật giải phóng vĩ đại mà Tin Mừng Phúc Âm mang lại: Nó nói lên nhân phẩm của chúng ta khi con người (cả nam lẫn nữ) được tạo dựng nên giống như hình ảnh Thiên Chúa. Nó nói lên sự kêu gọi cao cả của nhân loại phải được kiện toàn trong tình yêu. Nó khám phá ra sự thật về con người và sự thật về đời sống.

 

Giáo Hội cũng cần phải đổi mới! Giáo Hội cần niềm tin, lý tưởng và sự quảng đại của các bạn để Giáo Hội có thể tươi trẻ mãi trong thần linh Chúa (Lumen Gentium, 4). Trong bài đọc II lễ hôm nay, thánh Phaolo nhắc nhở mỗi người chúng ta và mỗi một Kito hữu  khi nhận tặng ân Chúa là để xây dựng Cơ Thể Chúa Kitô. Giáo Hội đặc biệt cần những tặng ân của giới trẻ, của tất cả mọi bạn trẻ. Giáo Hội cần phát triển lớn mạnh trong quyền năng của Chúa thánh linh, đấng ban sự vui mừng cho các bạn trẻ và linh hứng cho các bạn để các bạn hân hoan vui mừng phụng sự Thiên Chúa.  Các bạn hãy mở rộng tâm hồn để đón nhận sức mạnh quyền năng đó. Tôi mời gọi một cách đặc biệt đến những bạn mà Chúa đang  kêu gọi theo đuổi thiên chức linh mục và đời sống tận hiến. Đừng sợ phải nói “Vâng” với Chúa Giêsu, đừng sợ tìm kiếm niềm vui khi thi hành ước nguyện của mình, hiến thân mình trọn vẹn cho mục đích thánh và dùng tất cả tài năng của các bạn để phụng sự tha nhân!

 

Lát nữa, chúng ta sẽ cử hành bí tích thêm sức. Thánh Linh Chúa sẽ ngự xuống trên những người lãnh nhận bí tích. Họ sẽ được “in ấn”  ân tặng Thánh Linh Chúa và rồi được gửi đi để làm chứng nhân cho Chúa Kitô. Tiếp nhận “in ấn” Thánh Linh Chúa thì có ý nghĩa gì?

 

Nghĩa là sẽ trở thành con người mới với ấn dấu không thể xóa bỏ hoặc thay đổi được. Đối với những ai đã nhận được ân tặng này thì tất cả mọi sự sẽ đổi mới, không có gì còn như cũ nữa! Được chịu phép “Thanh tẩy / Phép Rửa” trong Chúa Thánh Linh (1Cor 12: 13) có nghĩa là được lửa tình yêu Thiên Chúa đốt cháy trong lòng. Được “Uống” Thánh Linh Chúa nghĩa là được nhắc nhở về sự huy hoàng diễm lệ của kế hoạch Chúa đã làm cho chúng ta và thế giới để rồi đến lựơt chúng ta, chúng ta sẽ trở thành nguồn suối nhắc nhở những người khác. Được “in ấn” Thánh Linh Chúa có nghĩa là không còn sợ hãi phải đứng lên vì Chúa Kitô để làm cho sự thật của Tin Mừng Phúc Âm thấm nhuần theo cách chúng ta nhìn, chúng ta suy nghĩ và hành động khi chúng ta chung phần đóng góp vào sự vinh quang khải hoàn của văn minh tình yêu.

 

Khi chúng ta cầu nguyện cho những người chịu phép thêm sức thì chúng ta hãy cầu xin để quyền năng sức mạnh Chúa Thánh Linh làm sống lại ân sủng của chính phép bí tích thêm sức của chúng ta. Chớ gì quyền năng Chúa đổ chảy tràn đầy ân tặng xuống cho tất cả mọi người có mặt nơi đây, tại thánh phố Sydney này, trên mảnh đất Úc Châu này và cho tất cả dân chúng Úc.  Ước mong mỗi người chúng ta cũng được đổi mới với ơn khôn ngoan và hiểu biết, ơn xét đoán ngay thẳng và lòng can đảm, ơn  thông minh và sự kính trọng, ơn kỳ diệu và lòng kính sợ Thiên Chúa!

 

Chớ gì Đại Hội Giới trẻ thế giới kỳ XXIII này, nhờ sự cầu bầu của Mẹ Maria, Mẹ Giáo Hội,  trở thành một phòng Tiệc Ly mới, từ đó tất cả chúng ta được hâm nóng bởi lửa tình yêu Chúa Thánh Linh, tiến bước ra đi để tuyên xưng Chúa Kito Phục Sinh và kéo mọi người về với Chúa. Amen.

 

Pace Island, Florida 20-8-2008

NTC.

VỀ MỤC LỤC

Sydney Ơi!

 

Cảm tác khi nhìn bức ảnh Đức Giáo Hoàng Benedicto XVI cùng đoàn người trẻ Việt Nam tại Ngày Giới Trẻ CG toàn cầu ở Sydney 15-20 July 2008.

 

Sydney ơi! Mắt tôi rưng rưng lệ!

Khi tôi nhìn hình ảnh của Sydney

Người ở đâu mà nhiều đến thế đi?

Mọi nơi chốn, người Việt Nam tràn khắp!

 

Đức Giáo hoàng vẻ hân hoan sắc mặt

Ngài là một hình ảnh vị Cha chung

Ngài kế quyền vị “Thánh Đá” oai hùng *

Để cai quản giáo dân trên mặt đất!

 

Những tâm hồn ngây thơ và chân thật!

Những thanh nam, thanh nữ mới vào đời

Hành trang là Tin, Cậy, Mến, Yêu người

Họ quyết lòng xây một trần gian mới!

 

Một trần gian như mọi người mong đợi

Một trần gian của Bác ái, Công bình

Một trần gian ưu ái ánh Bình Minh

Tràn Nâng đỡ và Bình An của Chúa!

  

Đã từ lâu thế giới này ngập ngụa!

Những dối gạt, hiếp đáp với dã man

Xin Chúa thương ban xuống sự Ăn Năn

Kẻ độc ác trở về đường lương hảo!

  

Sydney ơi! Tôi hết lòng kính cẩn

Cái tinh thần của Tuổi Trẻ Sydney

Hăng hái làm những việc Chúa sai đi!

Phúc Âm hoá thế giới ta yêu quí!

 

Đường của Chúa là con đường Nhân Vị

Hãy Vị Tha, hãy Bác ái, Yêu người!

Hãy làm cho xứ sở mãi đẹp tươi

Mọi người sống một cuộc đời đáng sống!

 

Nhà Văn Bút Xuân TRẦN ĐÌNH NGỌC

*Thánh Phêrô (Pierre: Đá)    

VỀ MỤC LỤC
DƯ ÂM ĐẠI HỘI THÁNH THỂ QUỐC TẾ THỨ 49 TẠI QUEBEC, CANADA

 

HƯƠNG VĨNH

I.- ĐẠI HỘI THÁNH THỂ QUỐC TẾ  THỨ 49  

1.- Canada Thánh Thể

Đại hội Thánh Thể Quốc tế (ĐHTT) lần thứ 49 với chủ đề “Bí tích Thánh Thể là món quà Thiên Chúa ban để cho thế gian được sống”, được tổ chức tại Thành Phố Québec, tỉnh bang Québec (Canada), từ ngày 15-22/6/2008, nhằm tuyên xưng và đào sâu đức tin vào Chúa Giêsu Thánh Thể qua các buổi cử hành thánh lễ, tôn kính thờ lạy Thánh Thể trong 8 nhà nguyện thuộc khu vực Thành Phố Québec, học hỏi giáo lý về Thánh Thể, cũng như lắng nghe các chứng từ về Thánh Thể.

Năm 2008 cũng là năm kỷ niệm 400 trăm năm thành lập Thành Phố Québec. Canada vẫn được tiếng là “Canada Thánh Thể”, với lòng mộ mến Thánh Thể đặc biệt.  

Năm 1910, Canada đã được vinh dự tổ chức ÐHTT quốc tế lần đầu tiên, ở ngoài Âu Châu: đó là ÐHTT quốc tế lần thứ 21 tại Montréal. Trên bình diện quốc gia, cho tới năm 1965, tại Canada đã có tới 152 ÐHTT: cấp quốc gia (1), cấp tỉnh (1), cấp giáo phận (30), cấp vùng (99), cấp giáo xứ (21). Ngay tại Québec đã có ÐHTT quốc gia năm 1938, và 95 Ðại hội Thánh Thể khác nữa. 

2.- Thành quả Đại Hội Thánh Thể Quốc Tế tại Québec

Theo hảng thông tấn Zenit ngày 3-7-2008, trong cuộc họp báo hôm trước đó (ngày 2-7-2008), Đức Hồng Y Marc Ouellet, Tổng Giám Mục Québec, đã tổng kết thành quả Đại Hội Thánh Thể Quốc Tế Québec và ngài cho biết Đại Hội Thánh Thể Quốc Tế đã ghi đậm nét trong lịch sử Québec.

Đã có gần 12.000 người chính thức ghi danh tham dự, trong đó có 55 Tổng Giám Mục, 218 Giám Mục, gần 1300 Linh Mục, 160 Phó Tế, 180 chủng sinh, 1300 nữ tu và 150 tu huynh. 

Các phái đoàn tham dự thuộc 70 quốc gia trong đó có 22 nước Âu châu, 19 nước Phi châu, 10 nước Á châu và 3 nước Đại dương châu.

Các gia đình của tổng giáo phận Québéc đã tiếp rước 5000 khách hành hương và 1000 gia đình đã tham dự Đại Hội Thánh Thể như là nhân viên thiện nguyện.

Đã có 12.500 người tham dự tất cả mọi sinh hoạt của đại hội, 68% đến từ khắp nơi trên toàn quốc Canada, 5000 thuộc tỉnh bang Québec và 1500 thuộc tổng giáo phận Québec.

Mỗi ngày đã có 20.000 người thăm viếng thành phố triển lãm. Đã có 20.000 người tham dự cuộc kiệu Thánh Thể và trong Thánh lễ bế mạc, số người tham dự lên tới 60.000 dưới cơn mưa tầm tã và bài giảng của Đức Thánh Cha Bênêđitô XVI được trực tiếp loan  truyền qua hệ thống vệ tinh đến ĐHTT.

Trong Đại Hội Thánh Thể được tổ chức lần đầu tiên năm 1881 chỉ có 300 tham dự viên, đa số là các vị giám đốc các phong trào Thánh Thể Âu châu. Trong 125 năm sau đó, các Đại Hội Thánh Thể đã thay đổi nhiều, và số người tham dự xê xích giữa 12 tới 15 ngàn. Trong các Đại Hội Thánh Thể Quốc Tế mới đây số tín hữu tham dự có khi lên tới hàng trăm ngàn. 

3.- Những chứng từ trong thời gian Đại Hộ

Điều quan trọng là những chứng từ trong thời gian Đại Hội đã có một dư âm sâu xa.  

Tuần San “The B.C. Catholic, Quyển LXXVIII, số 25 ngày 23-6-2008 của Tổng Giáo Phận Vancouver B.C. Canada, đã thuật lại hai chứng từ quan trọng của một linh mục là cha Nicolas Buttet và của một giáo dân là giáo sư Jean Vanier. Hai chứng từ nầy được hai phóng viên đài CNN ghi nhận.  

Ngoài ra, cần nhắc tới chứng từ của bà Nguyễn Thị Thu Hồng, người em gái út của ĐHY Tôi Tớ Chúa F.X. Nguyễn Văn Thuận, đối với Bí Tích Thánh Thể. 

II.- LINH MỤC NICOLAS BUTTET 

1.- Tiểu sử linh mục Nicolas Buttet

 Cha Nicolas Buttet là vị sáng lập Eucharistein Fraternity (Huynh Đoàn Thánh Thể). Cha sinh năm 1961 ở Thuỵ Sĩ. Cha vốn là một luật sư tập sự và là cựu thành viên Quốc Hội Quận Hạt Valais. 

Cha đã tham gia Hội Đồng Giáo Hoàng về Công Lý và Hoà Bình ở Roma và năm 1992, cha đã lui về sống ẩn dật tại tu viện Notre-Dame du Scex, Valais.

Khi trở lại đời thường năm 1997, cha đã sáng lập Huynh Đoàn Thánh Thể  (Eucharistein Fraternity) ở Saint-Maurice-d'Agone, toạ lạc số 97 St. Maurice Thuỵ Sĩ. Đó là một trong nhiều tân cộng đoàn được phát sinh sau Công Đồng Vatican II.

Cộng đoàn nầy hiện có ba nhà: một nhà ở Epinassey trong thuở đất của Đan Viện Saint-Maurice, một nhà ở Bourguillon (Fribourg) và ngôi nhà thứ ba ở Pháp, tại làng La Martre, trên một thuở đất 115 mẫu tây được Đức Giám Mục Fréjus-Toulon hiến tặng.

Vào ngày 22/06/2003, Đức Cha Dominique Rey, giám mục giáo phận đã chính thức nhìn nhận Huynh Đoàn, được thành lập như một hiệp hội công của các tín hữu. Cũng vào ngày 22/06/2003, cha Nicolas được thụ phong linh mục và thầy Jean Python là một cộng sự viên thân cận được thụ phong phó tế.

Cộng đoàn là nơi tu hội của chừng 20 nam nữ tu sĩ, những thỉnh sinh và tập sinh. Họ sống đời tận hiến theo đường lối giản dị của Phúc Âm và hoàn toàn phó thác cho Chúa theo cảm hứng của Thánh Phan-xi-cô thành Assisi. Đời sống cộng đoàn đặt căn bản trên Chúa Kitô Thánh Thể, được cử hành trong hy tế của Thánh Lễ và được phụng thờ trong Bí Tích Thánh Thể.

Tu Hội cũng mời gọi những người trẻ đến chia sẻ kinh nghiệm trong vòng một năm nhằm suy tu, cầu nguyện và phục vụ theo chuyên môn riêng của họ. Họ cũng đón tiếp nhiều người thuộc giới trẻ nghiện rượu và nghiện ma tuý hay đang vật lộn với chứng suy thoái tinh thần trong một thời gian đổi mới cá nhân.

Ngoài việc phục vụ trong tư cách điều hợp viên của Tu Hội, cha Nicolas còn hướng dẫn Nhóm Dorothée và Thánh Nicolas de Flue mà cha là một diễn giả thường xuyên.

Thêm vào đó, năm 2004, cha còn ở trong lực lượng nòng cốt thành lập Viện Đại Học Philanthropos – một trung tâm nghiên cứu về nhân chủng học. Giáo sư của Viện không được trả thù lao nhưng được đánh giá cao bởi những đại học uy tín nhất ở Âu châu.

Cha Buttet cũng tham gia vào việc thành lập Ecophilos Foundation là một cơ quan của Viện Đại Học trên, nhằm mục đích xem xét một cách trung thực về con người khi hoạt động.

Cha đã xuất bản ba quyển sách về Thánh Thể: Yêu mến và làm cho người ta biết tình yêu (Aimer et faire connnaitre l’amour –  Nhà xuất bản Emmanuel). Đốt cháy dưới mặt trời của Chúa (Brulé au soleil de Dieu – Nhà xuất bản Cerf) và Thánh Thể ở nơi học đường các thánh (L’Eucharistie à l’école des saints – Nhà xuất bản Emmanuel).

2.- Chứng từ của cha Nicolas Buttet

Theo phóng viên Laura Ieraci của đài CNN, ghi nhận từ Thành Phố Québec, cuộc đời của cha Nicolas Buttet thật rạng rỡ. Trước kia cha là một nghị viên trẻ tuổi nhất của Nghị Viện Thuỵ Sĩ và là một người ở trong địa vị sẽ định hướng tương lai của đất nước Thuỵ Sĩ. Nhưng rồi cha đã buông bỏ tất cả.

Vào năm 1988, những vấn nạn xã hội và sự khổ đau của nhân loại mà cha phải chạm trán khi còn là một nhà làm luật đã đòi hỏi cha phải tìm kiếm những giải pháp đích thực là những giải pháp mà cha không thể cung ứng như là một chính trị gia.

Hành trình tìm kiếm của cha đã đưa dẫn cha tới việc khám phá Thánh Thể như là suối nguồn của chữa trị và hoán cải. Giờ đây cha là một linh mục, dâng hiến đời mình cho việc tôn thờ Thánh Thể và phục vụ kẻ khác.

Với 47 tuổi đời, cuối cùng cha Buttet đã sáng lập Huynh Đoàn Thánh Thể, chuyên lo việc tôn thờ Thánh Thể. Cha đã thuật lại câu chuyện đời mình hôm 17-6-2008, trong buổi họp khoáng đại của Đại Hội Thánh Thể Quốc Tế lần thứ 49.

Theo cha, chủ đề của Đại Hội “Bí tích Thánh Thể là món quà Thiên Chúa ban để cho thế gian được sống” không chỉ đơn thuần là một khẩu hiệu mà còn hơn thế nữa. Cha đã tuyên bố trước một cử toạ nhiều ngàn người: “Thánh Thể là một thực tại!

Cha nói: “Chúng ta không luôn luôn phản chiếu Chúa Giêsu cho người khác, nhưng một khi chúng ta nhận ra Chúa Giêsu Kitô trong hình bánh, điều đó cho phép chúng ta nhận ra Chúa Giêsu trong anh em chị em chúng ta” cho dù trong những thành phần biến dạng nhất của xã hội loài người. Sự nhận chân như vậy sẽ đòi buộc các tín hữu phục vụ và tự hiến mỗi ngày như là quà tặng.

Cha thuật lại việc hoán cải và chữa trị của cha trong một hành trình xuyên suốt 15 năm, đưa dẫn cha đến việc lãnh chức linh mục năm 2003.

Chặng đầu tiên mà cha dừng chân sau khi rời bỏ chính trường là thành phố Turin, nước Ý mà ở đó cha đã làm thiện nguyện viên cho một cơ quan có tên gọi là “Ngôi Nhà Bé Nhỏ của Chúa Quan Phòng” – một bệnh xá chuyên lo săn sóc những người tàn tật về thể lý.

Sau khi trải qua một hành trình vất vả từ Thuỵ Sĩ, cha được một tu sĩ mời làm nhân viên của bệnh xá để săn sóc những người đến xin chửa trị về đêm. Cha đã vui vẻ nhận lời và khi chứng kiến một thời gian lâu dài rất nhiều người cần được tắm rửa, nên cha đã phụ giúp tắm rửa những cơ thể khập khiểng tàn tật và cha trở nên mệt mỏi rã rời trong công việc.

Khi xong việc, Cha vào nhà nguyện để cầu nguyện trước Thánh Thể. Cha cho biết chính ở đó, lần đầu tiên cha đã bắt đầu hiểu được sự hiện diện đích thực của Chúa Kitô trong Thánh Thể. Cha nhận ra rằng bánh Thánh Thể và những tấm thân mảnh khảnh, nằm liệt giường mà cha vừa tắm rửa cũng chính là thân thể Chúa Kitô.

Về sau cha đã làm thiện nguyện cho các “Thừa Sai Bác Ái” ở Calcutta, Ấn Độ, rồi cha đã trải qua năm năm sống ẩn dật trong một tu viện ở Thuỵ Sĩ. Một sự nhận thức sáng suốt đã đưa cha tới việc thành lập “Huynh Đoàn Thánh Thể (Eucharistein Fraternity). “Eucharistein là tiếng Hy-lạp có nghĩa là tạ ơn hay một sự cảm tạ hướng đến Thiên Chúa.

Cha cho biết nhiều người tìm được sức mạnh trong Thánh Thể để tiếp tục vượt qua những hoàn cảnh khó khăn. Cha thuật lại kinh nghiệm của cha đối với một cộng đoàn nhỏ bé ở vùng quê bên Trung quốc mà ở đó cha đã dâng Thánh lễ sau một chuồng trâu để chính quyền không để ý tới. Cha nói: “Người ta có thể thấy sự đói khát về Thánh Thể trong đôi mắt họ.

Cha Buttet đã thuật lại nhiều câu chuyện về những người trẻ đã chứng nghiệm sự hoán cải và chửa trị trước Thánh Thể. Nhiều người đã đến với tu viện của cha bên bờ tuyệt vọng, với chứng nghiện ngập trầm trọng hay những vết thương sâu đậm về tâm lý và tâm linh.

Sự loã lồ của Chúa Kitô là câu giải đáp cho những vụ tai tiếng của trần gian. Cha nói với các tham dự viên Đại Hội Thánh Thể như sau: “Chúa Kitô loã lồ trong máng cỏ, loã lồ trên cây thập giá và loã lồ trên bàn thờ nữa.

Cha nói thêm: “Để ra một ít thời giờ trước Mình Thánh Chúa cho phép người ta học hỏi trực tiếp từ Chúa Giêsu. Cách thức của Chúa Giêsu trở thành Thiên Chúa trong Thánh Thể tỏ rõ cho chúng ta cách thức làm người của Ngài.” 

III.- GIÁO SƯ JEAN VANIER

1.- Tiểu sử giáo sư Jean Vanier

Cũng giống như phụ thân theo đuổi binh nghiệp, lúc lên 13 tuổi, trong thời Đệ Nhị Thế Chiến, giáo sư Jean Vanier theo học trường Cao Đẳng Hải Quân Hoàng Gia ở Dartmouth. Ông trở thành sĩ quan hải quân trên tàu chiến Vanguard của Anh quốc, rồi một ít năm sau, ông được thuyên chuyển sang hàng không mẫu hạm duy nhất của Canada là Magnificent.

Lúc bấy giờ giáo sư ở lứa tuổi đôi mươi và đã sinh sống qua nhiều quốc gia trong đó có nước Pháp và nước Anh. Vào năm 1950, ông từ chức khỏi ngành Hải Quân Hoàng Gia của Canada. Trong vòng 6 năm sau đó, ông trở nên một thành viên rồi giám đốc của cộng đoàn giáo dân ở gần kinh thành ánh sáng Paris là “Nước Sống” (“L’eau vive”).

Kế đó, giáo sư trải qua một năm ở Đan Viện Bellefontaine, một năm ở một trang trại và hai năm ở Fatima. Năm 1962, ông đạt được cấp bằng tiến sĩ triết lý và dạy học một thời gian ngắn ở Toronto.

Năm 1964, linh mục nổi tiếng là cha Thomas Philippe, dòng Đa-minh, khuyến khích giáo sư định cư ở Trosly, kế cận Paris, ở đó cha là linh hướng của một trung tâm dành cho những người khuyết tật.

Từ khi rời bỏ hải quân, giáo sư Jean Vanier đã suy tư rất nhiều và đã du lịch nhiều nơi. Giáo sư đã nhận thấy chính xác là phải thành lập một cộng đoàn giáo dân để sống và phục vụ những người nghèo bị xã hội bỏ rơi. Do đó ông đã mua một căn nhà hoang phế, đặt tên là “Cộng Đoàn Arche” và được khánh thành ngày 5-8-1964.

Khởi đầu từ cộng đoàn đầu tiên nầy, những cộng đoàn khác đã phát sinh ở Úc châu, Bỉ, Burkina Faso, Canada, Ivory Coast, Đan-mạch, Tây-ban-nha, Hoa-kỳ, Pháp, Haiti, Honduras, Ấn-độ, Ái-nhĩ-lan, Ý, Anh và Thuỵ-sĩ. Hiện nay có 103 cộng đoàn trên thế giới.

Năm 1968, tiếp theo một cuộc tĩnh tâm mà giáo sư rao giảng ở Merylake, tỉnh bang Ontario, đã phát sinh cộng đoàn “Đức Tin và Chia Sẻ” (“Faith and Sharing”), một cộng đoàn mà ở đó người ta gặp gỡ nhau trong một ngày mỗi tháng để cầu nguyện và ở đó mọi người được chào đón.

Năm 1971, cùng với chị Marie Héleine Matthieu, giáo sư Jean Vanier thành lập cộng đoàn “Đức Tin và Ánh Sáng” (“Faith and Light”), một phong trào qui tụ những người khuyết tật, cha mẹ họ và thân bằng quyến thuộc để có những thời gian chia sẻ, phụng vụ và cầu nguyện. Những cộng đoàn đó gặp gỡ nhau một hay hai lần mỗi tháng. Hiện nay có trên một ngàn cộng đoàn như thế trên thế giới.

Cho đến năm 1981, giáo sư Jean Vanier chịu trách nhiệm đối với cộng đoàn “Arche” ở Trosly-Breuil. Năm 1981, giáo sư đã nghỉ phép một năm và hết trách nhiệm đó. Ông tiếp tục định cư Trosly-Breuil, sinh sống và chia sẻ đời mình với những người khác ở trong một nhà của cộng đoàn. Giáo sư tiếp tục thăm viếng các cộng đoàn khắp trên thế giới và cũng thuyết trình nữa.

2.- Chứng từ của giáo sư Jean Vanier

Phóng viên của đài CNN là Deborah Gyapong đã ghi nhận chứng từ của giáo sư Jean Vanier từ Thành Phố Québec.

Vị sáng lập những cộng đoàn dành cho những người khuyết tật tâm thần cho biết những người nghèo và hạng cùng đinh đang kêu gào để được yêu thương và được quan hệ tình cảm.

Giáo sư Jean Vanier, vị sáng lập những cộng đoàn “Arche” trên thế giới và là tác giả của nhiều cuốn sách về lòng mẫn cảm và sự mỏng dòn của con người, đã phát biểu trong Đại Hội Thánh Thể Quốc Tế ở Thành Phố Québec hôm 16-6-2008 là Kitô hữu được mời gọi nên giống Chúa Kitô, với con tim mở rộng cho hết mọi người nghèo và bất hạnh.

Giáo sư cho biết mở rộng lòng ra để có quan hệ tình cảm với những người ngoài lề xã hội thì thật khủng khiếp, bởi vì làm như thế sẽ đập phá bức tường ngăn cách con người với nhau và lấp đầy lỗ trống phân cách người giàu và kẻ nghèo.

Giáo sư nói: “Trong thế giới chan chứa nhiều độ lượng, nhưng phải có sự quan hệ tình cảm và lòng yêu thương.” Giáo sư còn nói thêm: “Để nên giống Chúa Giêsu, chúng ta phải rửa chân cho nhau.”

Giáo sư là một trong nhiều chứng tá giáo dân đã ngõ lời trước một cử toạ gồm những khách hành hương đến từ hơn 70 quốc gia khác nhau như sau: “Bằng nhiều cách khác nhau, Giáo Hội đã đánh mất người nghèo, bởi vì thiếu ơn gọi.

Giáo sư nói: “Chính phủ đã lấp đầy kẽ hở phân cách giàu nghèo, điều đó không đến nỗi tệ, nhưng điều mà người nghèo cần hơn bất cứ điều gì hết là có người nói với họ là tôi yêu anh, yêu chị.

Theo giáo sư: “Sự hiện diện của Chúa Giêsu là ở trong người nghèo và khi đón tiếp niềm nở người nghèo là người ta đón tiếp Chúa Giêsu.

Giáo sư cho biết thêm: “Trở nên giống Chúa Giêsu sẽ làm cho người ta nhu mì khiêm tốn, mẫn cảm và dấn thân và điều đó không phải thường tình cũng không đơn giản.

Giáo sư thối thúc những người hiện diện là nên bước ra khỏi “phe cánh” của mình khi tham gia phụng vụ và phải đón tiếp niềm nở những người nghèo, những người đui mù và những kẻ bị gạt ra ngoài lề xã hội.

Giáo sư nói: “Sứ vụ của Chúa Giêsu là sai mỗi người đi phục vụ người nghèo, để rồi qua mầu nhiệm Thánh Thể, họ biết là họ được yêu thương.

Giáo sư Jean Vanier cũng tỏ bày niềm hy vọng là hết mọi Kitô hữu được thánh tẩy sẽ có thể phân biệt minh bạch mầu nhiệm Chúa Giêu trong Thánh Thể “để tất cả họ có thể nên một ngõ hầu thế giới tin tưởng.” 

IV.- ĐỨC CỐ HỒNG Y NGUYỄN VĂN THUẬN

Trước khi trình bày phần chia sẻ của bà Nguyễn Thị Thu Hồng, người em gái út của ĐHY Tôi Tớ Chúa F.X. Nguyễn Văn Thuận, thiết tưởng rất hữu ích khi ôn lại chứng từ về Thánh Thể của Đức cố Hồng Y, qua hai tác phẩm của ngài là “Đường Hy Vọng” và “Năm Chiếc Bánh và Hai Con Cá”. Chính lòng sùng kính đối với Thánh Thể đã ảnh hưởng sâu xa đến đời sống lao tù của ngài.

1.- “Đường Hy Vọng”

Trong đề mục 15: “THÁNH LỄ”, Đức cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận đã nhấn mạnh hai điểm sau đây về Thánh Thể, phát sinh từ cuộc sống lao tù của ngài:

 -  Dù thiếu tất cả, dù mất tất cả, nhưng còn Thánh Thể là còn tất cả vì con có Chúa thiên đàng dưới đất. (Đoạn 363)

 -  Dù cô đơn nơi đèo heo hút gió, dù tăm tối trong ngục tù, con hãy hướng về các bàn thờ trên thế giới, nơi Chúa Giêsu đang tế lễ; con dâng và rước lễ thiêng liêng. An ủi và can đảm sẽ tràn ngập lòng con. (Đoạn 364)

2.- “Năm Chiếc Bánh và Hai Con Cá”

Qua tác phẩm trên đây, trong đề mục 4 “CHIẾC BÁNH THỨ TƯ: SỨC MẠNH ĐỘC NHẤT CỦA TÔI: PHÉP THÁNH THỂ”, người ta thấy Đức cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận đã sống trọn vẹn Bí Tích Thánh Thể như thế nào trong cuộc sống lao tù 13 năm của ngài, trong đó có 9 năm biệt giam.

Ngài cho biết: nhiều người đã hỏi ngài: “Làm sao cha kiếm ra rượu lễ, bánh lễ?”

Đây là câu trả lời: hôm sau lúc bị bắt, tôi được phép viết về nhà để xin đồ cần dùng…Hàng chữ đầu tiên tôi viết: “Xin gởi cho tôi ít rượu thuốc trị bệnh đường ruột”. Bên ngoài, giáo dân hiểu ngay. Hôm sau, ông trưởng ban chấp pháp cầm đến một ve nhỏ bên ngoài có dán giấy đề chữ: “thuốc trị bệnh đường ruột” (tức rượu nho) và bánh lễ thì xé nhỏ bỏ trong một cái lọ chống ẩm.

Và ngài bày tỏ cảm tưởng: không bao giờ tôi vui bằng hôm đó: từ đây mỗi ngày với ba giọt rượu và một giọt nước trong lòng bàn tay, tôi dâng thánh lễ.

Tuy nhiên cách dâng lễ mỗi nơi một khác. Ngài đã thuật lại như sau:

Dưới hầm tàu thuỷ chở tôi ra miền Bắc, ban đêm tôi ngồi giữa mấy bạn tù, bàn thờ là túi cói đựng đồ

Lúc ở trại Vĩnh Quang, tôi phải dâng lễ trong góc cửa ban sáng, lúc người ta đi tắm, sau giờ thể dục.

Lúc đã quen với thời khoá biểu của trại, tôi dâng lễ ban đêm, vì tù nhân được chia thành từng đội 50 người, ngủ chung trên một láng gỗ…Chúng tôi đã tự thu xếp để năm anh em Công giáo nằm quanh tôi. Đến 9 giờ rưỡi đêm, nghe tiếng kẻng là tắt đèn và mọi người phải nằm trong mùng muỗi cá nhân; tôi ngồi cúi sát xuống để dâng lễ thuộc lòng. Tôi đưa tay dưới mùng để chuyển Mình Thánh cho anh em chịu lễ. Chúng tôi nhặt giấy nylon bọc bao thuốc hút để làm những túi nhỏ đựng Mình Thánh.

……

Mỗi tuần, sáng thứ sáu, có một buổi học tập, tất cả 250 anh em phải tham dự. Đến lúc xả hơi, các bạn Công giáo thừa dịp đó mang các túi nylon đựng Mình Thánh đến chia cho bốn đội kia, mỗi người thay nhau mang trong túi áo một ngày.

Ai cũng biết có Chúa Giêsu Thánh Thể đang ở giữa trại tù với họ. Chính Ngài an ủi, xoa dịu những khổ đau thể xác và tinh thần; chính Ngài thêm can đảm chịu đựng cho họ. Ban đêm, họ thay phiên nhau làm giờ thánh. Sự hiện diện thinh lặng của Phép Thánh Thể biến đổi họ cách lạ lùng.

……

Không có gì cưỡng lại được tình yêu Chúa Giêsu. Đêm tối của ngục tù trở thánh ánh sáng, hạt giống đã đâm chồi dưới đất đang lúc dông tố phong ba. Những ơn trọng nầy do Chúa Giêsu Thánh Thể, chứ không phải do sức loài người.

Trong 9 năm biệt giam, ngài dâng lễ một mình lúc 3 giờ chiều, giờ Chúa Giêsu hấp hối trên Thánh giá.

……

Để kết luận, ĐHY viết:

Các bạn trẻ thân mến,

Mời các bạn nghe lời Đức Thánh Cha (Gioan Phaolô II):

Chúa Giêsu sống giữa chúng ta, trong phép Thánh Thể, giữa những sự bất trắc, những hoang mang trong cuộc đời mỗi ngày, các bạn hãy noi gương hai môn đệ trên đường về Emmau…Hãy cầu xin Chúa Giêsu, để dọc các nẻo đường về bao nhiêu xóm nhỏ Emmau của thời đại ta, Ngài ở lại với các bạn. Ngài phải là sức mạnh của các bạn, là trung tâm của các bạn, là hy vọng trường cửu của các bạn.” (Gioan Phaolô II, Sứ điệp NQTGT XII, số 7)

Lời kêu gọi trên đây của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trong quá khứ chắc vẫn còn âm vang trong Ngày Quốc Tế Giới Trẻ XXIII đang diễn ra ở Sydney, Úc châu, từ ngày 15-20/7/2008 do Đức Thánh Cha đương kim là Bênêđitô XVI chủ toạ. 

V.- CHIA SẺ CỦA BÀ ELIZABETH NGUYỄN THỊ THU HỒNG 

Trên VietCatholic News (Thứ Sáu 20/06/2008 09:28), Anthony Lê đã trình bày phần chia sẻ của người em gái út của Đức cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận là bà Nguyễn thị Thu Hồng tại Đại Hội Thánh Thể Thế Giới thứ 49 như sau, căn cứ theo tin tức trên Zenit. org:   

Rất nhiều người đã đọc về đức tin của Đức Cố Hồng Y Phanxicô Nguyễn Văn Thuận ở nơi Phép Thánh Thể qua những bài viết tự truyện của ngài. Thế nhưng lần này tại Đại Hội Thánh Thể Quốc Tế, các tham dự viên lại biết được một khía cạnh khác về ngài. 

Bà Elizabeth Nguyễn Thị Thu Hồng, em gái của Đức Cố Hồng Y, chính là một trong những thuyết trình viên tại Đại Hội Thánh Thể Thế Giới lần thứ 49, diễn ra tại thành phố Quebec ở Canada. 

Bà đã dịch sang tiếng Anh và tiếng Pháp những bài viết của Anh mình và những lá thư mà Đức Cố Hồng Y đã viết cho gia đình trong suốt 13 năm tù đày tại Việt Nam. Ngài bị bắt vào ngày 15 tháng 8 năm 1975, 9 trong 13 năm tù, ngài hoàn toàn bị biệt giam. 

Bà Elizabeth nói:  

"Qua những bài viết của anh tôi, cụ thể nhất là qua những lá thư mà anh tôi viết từ trong ngục tù, một điều rõ ràng nổi trội lên đó là: cuộc đời của anh tôi được cắm rễ rất sâu vào sự kết hiệp tuyệt vời với Thiên Chúa hằng sống qua Phép Thánh Thể, và đó cũng chính là sức mạnh duy nhất của anh tôi. Đối với anh tôi, đó cũng chính là một lời nguyện hay nhất, và là cách tốt nhất để tạ ơn và ca tụng danh Thiên Chúa." 

Em gái của Đức Cố Hồng Y quả quyết rằng:  

"Chính đức tin không hề lay chuyển vào Phép Thánh Thể mới luôn là động lực hướng dẫn cuộc đời anh tôi, và đó mới chính là sức mạnh và của ăn trong cuộc hành trình dài nơi tù ngục. Anh tôi luôn kết thúc những lá thư bí mật đó gởi cho cha-mẹ của mình bằng những dòng chữ như: Mẹ và Cha kính yêu, đừng để cho con tim của Mẹ-Cha phải trĩu nặng đi vì nổi buồn. Mỗi ngày con sống kết hiệp với cả Giáo Hội hoàn vũ và với sự Hy Tế của Chúa Kitô. Mẹ-Cha hãy cầu nguyện cho con để con có được sự can đảm và sức mạnh để mãi tín trung với Giáo Hội và Phúc Âm, và để con thực thi ý định của Thiên Chúa." 

Lòng Sốt Mến

Bà Elizabeth cho biết lời chứng thực của Anh trai Bà:

"Chỉ ra cho tất cả chúng ta rằng: Chúa Kitô đã hiến sự hy tế của Ngài với lòng nhiệt thành sốt mến cao độ, và Ngài đã vâng phục Chúa Cha ngay trong chính giờ phút chịu nạn và bị đóng đinh, và thậm chí cho tới độ phải chết đi một cách nhục nhã trên cây thập giá, để mang lại cho Chúa Cha một nhân loại được cứu rỗi và một tạo vật được thanh tẩy.

Trong tù ngục, với Phép Thánh Thể đang ngự giữa, những tù nhân Kitô Giáo và không phải Kitô Giáo đã từ từ nhận biết được ơn huệ để hiểu rằng mỗi một giờ phút hiện tại nơi cuộc sống của họ trong những điều kiện dã man nhất, họ vẫn có thể kết hiệp với sự hy tế cao cả của Chúa Giêsu, và tự nâng họ lên như là một hành động của việc long trọng tôn kính dành cho Thiên Chúa là Cha. Mỗi ngày cùng với họ, Đức cố Hồng Y Thuận luôn tự nhắc nhở chính mình và khuyến khích mọi người cầu nguyện rằng: Lạy Chúa, hãy cho chúng con có thể dâng hiến lên sự hy tế nơi Phép Thánh Thể với tình yêu, để chúng con chấp nhận mang lấy thánh giá, và để được đóng đinh vào đó nhằm tuyên xưng về danh Chúa, và để phục vụ cho tất cả anh-chị-em của chúng con." 

Và Bà Elizabeth kết luận rằng:

"Tôi muốn kết thúc những dòng suy niệm này với những ý nghĩ dịu dàng được thâu lại trong ngày lễ Kinh Mân Côi vào ngày 7 tháng 10 năm 1976 ở tù ngục Phú Khánh, trong thời gian mà anh trai tôi bị biệt giam, đó là: 'Con vui mừng ở đây, trong xà liêm này, nơi mà những ngọn nấm trắng đang mọc lên trên tấm chiếu ngủ của con, bởi vì Ngài cũng có mặt ở đây với con, bởi vì Ngài muốn con sống ở đây với Ngài. Trong cuộc đời con đã nói rất nhiều rồi. Giờ đây con không nói nữa. Đến lượt Ngài hãy nói chuyện với con, hỡi Chúa Giêsu, con đang lắng nghe Ngài nói đây.' 

Cứ mỗi lần tôi đọc những lời này, tôi không thể nào có thể tưởng tượng được anh trai của tôi, đang ngồi trong ổ ngục tù đen tối, phải đối diện với sự trống vắng hoàn toàn, thế nhưng lại nhẹ nhàng mĩm cười như là anh ấy vẫn thường như vậy, thậm chí trong suốt những ngày cuối đời của anh, anh đã nắm giữ thật chặt và đầy yêu thương túi áo của anh là nơi mà Thiên Chúa của nước thiêng đàng đang ngự trị. 

Nguyện cho người cựu tù nhân này – người đã cảm nghiệm được sự hài hòa, tình yêu, và cuộc sống của nước thiêng đàng đến mức độ trọn vẹn nhất nơi sự hiu quạnh của ổ ngục tù, tiếp tục hướng dẫn tất cả chúng ta để chúng ta có thể trở nên giống với các môn đệ của làng Emmau xưa kia – những người lớn tiếng thốt lên rằng, 'Lạy Thiên Chúa, xin hãy ở lại với chúng con và dưỡng nuôi chúng con bằng chính mình Ngài.'"   

THAY LỜI KẾT: THÁNH LỄ NỐI DÀI

Trong một Đại Hội Thánh Thể Quốc Tế cách đây trên hai thập niên, một chứng nhân đã đưa ra quan điểm phê phán khá nặng nề về Thánh Thể của một tín hữu Tin Lành như sau: “Nếu những tín hữu Công giáo tin có Chúa Giêsu ngự trong Thánh Thể thì hằng ngày họ sẽ tuôn đến để thờ lạy Ngài và không còn cảnh tượng hoang vắng như đang xảy ra hiện nay trong rất nhiều thánh đường ở Âu châu và Mỹ châu.”

Thoạt mới nghe qua chứng từ đó, người ta không khỏi bàng hoàng khi thấy các tín hữu Công giáo có thái độ thờ ơ và thiếu tin kính đối với Thánh Thể. Nhưng khi đi vào đời sống của những chứng nhân Thánh Thể trên đây như cha Nicolas Buttet, giáo sư Jean Vanier, Đức cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận và vô số những chứng nhân thầm lặng khác, người ta mới lãnh hội được chiều sâu đích thực của đời sống Thánh Thể nơi các tín hữu.

Đời sống Kitô hữu phải múc lấy nguồn mạch thiêng liêng từ nơi Thánh Thể mỗi ngày hay mỗi tuần để rồi trở về với cuộc sống đời thường, ngõ hẫu sống một “Thánh Lễ nối dài”.  

Trong chiều hướng đó, Giáo Hội bắt buộc các tín hữu phải tham dự Thánh Lễ ít nhất vào mỗi Chúa nhật để Thánh Thể luôn được hiện thực và tiếp nối trong cuộc sống thường nhật ngõ hầu “đời ta là một thánh lễ nối dài” trong những thuận cảnh cũng như nghịch cảnh, nhằm gặp gỡ Chúa Giêsu khắp mọi nẻo đường trần thế, như được trình bày qua “tâm tình chia sẻ” dưới đây của một bạn trẻ từ “Ðại Hội Giới Trẻ 117 tại NewYork” trước đây: 

Lạy Chúa Giêsu!

Xin cho con một tâm hồn theo hình ảnh tấm Bánh Thánh

Một tâm hồn trong trắng,

cố tránh cả những ô uế nhỏ mọn để luôn xứng đáng với Chúa.

Một tâm hồn khiêm hạ,

Tìm chiếm chổ nhỏ bé, nhưng luôn luôn muốn bày tỏ một tình yêu lớn lao,

Một tâm hồn đơn sơ,

Không biết đến phức tạp của ích kỷ và tìm hiến dâng mà không đòi lại.

Một tâm hồn lặng lẽ,

Hạnh phúc khi thấy sự quãng đại của mình không được người khác biết đến.

Một tâm hồn nghèo khó,

Chỉ làm giàu cho chính mình nhờ chiếm được chính Chúa.

Một tâm hồn hướng về tha nhân,

quan tâm đến những nhu cầu và ước muốn của họ.

Một tâm hồn luôn kết hiệp với Chúa

và múc lấy nguồn sống từ nơi Chúa.                 

(Vancouver B.C. Canada 19-7-2008)

VỀ MỤC LỤC
LỐI MÒN
 

Trong Thánh-lễ Chúa-nhật thứ V Mùa Chay, các tín-hữu Công-giáo đã được nghe một câu chuyện do thánh-sử Gio-an thuật lại về cái chết và sự sống lại của La-da-rô với một số lời đối-thoại sống-động giữa Thầy trò Chúa Giê-su. Câu chuyện này đáng lẽ phải được Ki-tô hữu đọc và suy trong sự liên-hệ đến cái nhìn tâm-linh của chính mình nhưng nó chỉ đựợc đa-số người tin ghi nhận đây là một phép lạ trong số những phép lạ Chúa Giê-su đã làm mà thôi. Đi kèm theo phép lạ này là thái-độ biểu-hiện niềm tin của những cá-nhân vây quanh. Mở đầu là Tô-ma rất cảm-khái nói với anh em mình “Cả chúng ta nữa, chúng ta cùng đi để cùng chết với Thầy” (Ga 11, 16) khi các môn-đệ lo ngại can ngăn nếu Chúa trở lại Giu-đê sẽ gặp nguy-hiểm vì bị chống đối. Tiếp đến là cô Mác-ta tuyên xưng những lời thật trơn-tru, trôi chảy “Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây em con đã không chết. Nhưng bây giờ con biết bất cứ điều gì Thấy xin cùng Thiên-Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy...Con biết em con sẽ sống lại, khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết...Con tin Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên-Chúa, Đấng phải đến thế-gian” (Ga 11, 1-27). Rồi đến một vài người trong đám đông đang có mặt băn-khoăn “Ông ta đã mở mắt cho người mù lại không thể làm cho anh ấy khỏi chết ư?”(Ga 11, 37)...Và rồi, khi niềm tin đó đuợc thúc đẩy phải chứng thực bằng việc làm, bằng hành-động cụ-thể trước mắt mọi người cho dù do chính Chúa Giê-su nói thì ngay tức khắc, Mác-ta đã quên những điều vừa nói mạnh-mẽ về niềm tin của mình để hoàn-toàn trở về với bản-chất con người mà vội-vàng lên tiếng “Thưa Thầy, nặng mùi rồi vì em con ở trong mộ đã đuợc bốn ngày” ...Vậy là, những lời chân-lý của Đức Ki-tô đã bị bỏ rơi, bị đẩy lui  bởi  những hiểu biết thường tình, những kinh-nghiệm quen thuộc của tâm-lý thông thường kiểu xưa thế nào nay vẫn vậy, không thay đổi và cũng không tiến-thủ; cho dù Chúa đang đứng trước mặt và phán truyền thì cũng vẫn bị trí khôn loài người nghi ngại không cần suy nghĩ. Đó là chuyện đã xẩy ra cách đây gần hai ngàn năm khi Chúa Giê-su chưa biểu tỏ đủ quyền-năng là một Thiên-Chúa hằng sống với tin mừng Phục-sinh và cũng chưa được người đời tôn-vinh nữa.

 

Ngày nay, cái nhóm người vây quanh Đức Ki-tô thuở ấy đã được nhân lên gấp triệu triệu lần sau hai thiên-niên-kỷ, đầy đủ cả những Tô-ma, Mác-ta...Và không những cũng vẫn với một niềm tin kiểu trước sau như một ấy mà xem ra còn lỉnh-kỉnh hơn nhiều. Nhất là với những Tô-ma, Mác-ta Việt-Nam, chẳng hạn.

 

Kể từ ngày đầu Tin Mừng của Chúa được loan báo trên đất nước Việt-Nam vào khoảng giữa thề-kỷ 16 đến nay tính ra cũng đã gần năm trăm năm. Dọc theo chiều dài của hành-trình đức tin này, Giáo-hội Công-giáo Việt-Nam đã trải biết bao nhiêu là thăng trầm, biến-động và gian-nan dưới ảnh-hưởng của thời-thế, của từng giai-đoạn lịch-sử, từng hoàn-cảnh cho nên nếp sống đạo của tuyệt-đại đa-số giáo dân thường là thụ-động theo kiểu vâng lời tối mặt  với tâm-trạng hình như chỉ cần tìm trong đạo một hy-vọng cho phần hồn đời sau. Kịp đến khi Hàng Giáo-phẩm Việt-Nam đuợc chính-thức thành-lập ngày 24-11-1960 để thực sự trở thành một Giáo-hội điạ-phương trưởng-thành và phát-triển với cơ-cấu giáo-phận chính-toà thay vì hiệu-toà như trước và cũng vừa kịp lúc Giáo-hội hoàn-vũ chuyển mình qua Công-đồng Vatican II để thích-ứng với một số vấn-đề mới mẻ của Giáo-hội trong thế-giới hôm nay thì Giáo-hội Việt-Nam vẫn không chủ-động bắt kịp đà tiến để cập-nhật với những bước đổi mới của thời đại hậu Công-đồng này, vẫn lặng-lẽ lê chân trên một lối mòn xưa cũ. Thực ra, lối mòn tự nó không đi ngược với thời-gian và càng không cản bước chân ai cả. Bất cứ một con đường mòn nào cũng đều có giá-trị khai-phá của những người khởi đầu đã can-đảm chấp-nhận thử-thách để có những bước mở đuờng. Cái tệ-hại là ở nơi những người bước sau chỉ biết dẵm lên lối cũ sẵn có mà không bỏ thêm công sức vào, không đóng góp khả-năng và kiến-thức để mở rộng hay chỉnh-trang, uốn nắn thêm cho phù-hợp và cập-nhật với một thế giới luôn biến-động và thay đổi không ngừng.

 

Con đuờng lữ-hành đức tin của người Công-giáo Việt-Nam cho đến nay không những vẫn còn lòng-vòng uốn khúc trên một lối mòn muôn năm cũ mà lại còn thêm nhiều rác rưởi vương vãi đó đây. Công-đồng Vatican II đã khởi-xướng nhiều đổi mới gần nửa thế-kỷ rồi mà nhiều giáo-sĩ, tu-sĩ vẫn giống như mắc bệnh di-truyền bất-trị cái thói tục phách lối và chuyên-chế đối với giáo dân, làm mục-vụ mà giống như người cai-trị và giáo hữu là những kẻ bị-trị. Sự bất quân-bình trong tương-quan giữa giáo-sĩ và giáo dân Việt-Nam hiện nay chẳng qua chính là cái di-sản lệch-lạc thoát-thai từ một quá-khứ bị đô-hộ mà tất cả hai phía đã lẫn lộn giữa cái thánh-thiêng và cái trần-tục. Lệch-lạc và lẫn-lộn là vì buổi đầu sơ-khai, đạo đưọc rao giảng từ những vị thừa sai ngoại-quốc. Do ngôn-ngữ bất-đồng và do cái nhìn sợ hãi, e-dè và vâng phục sẵn có của một người dân thuộc-điạ với những người thực-dân cai-trị ngoài đời như thế nào thì đến khi là giáo dân họ cũng lại nhìn những nhà truyền-giáo Tây-phương như vậy và cộng thêm vào đấy sự kính-trọng với chức thánh thiêng-liêng nữa. Vì vậy, giữa giáo-sĩ và giáo dân đã thiếu vắng tương-quan huynh-đệ. Từ cái nhìn sai lệch trong hoàn-cảnh sơ-khởi này mà người giáo dân vô-hình-trung tạo cho giới tu-sĩ và giáo-sĩ một quyền-lực đáng uý-kỵ rồi lâu ngày dài tháng cứ tiếp nối ăn sâu mãi thành một não-trạng mà cả hai phía đều khó thay, khó đổi hay đúng hơn là không chịu thay đổi. Thành ra cho dù hoàn-cảnh sống đang ởø giữa thế-kỷ 21, người ta vẫn có nhiều lý-do để lập lại lối sống đạo từ thời xưa cũ thay vì đem đạo áp-dụng trong cuộc sống hiện-tại.

 

Phía giáo dân thì phần lớn xưa nay theo đạo như giữ một thói quen, như theo một  công-thức tự-động có những nút bấm đơn giản của một cái máy. Bây giờ phải học hỏi, phải tìm hiểu và nhất là phải thực-hành giáo-lý của đạo vào đời sống thì thật là phiền phức. Còn đa-số các tu-sĩ, giáo-sĩ vẫn an-nhiên tự-tại trong cái nếp ăn theo từ thời bị đô-hộ để làm cha thiên-hạ thay vì là phục-vụ thiên-hạ. Tác-phong này vừa sai lạc với nhiệm-vụ một thừa-tác-viên của Chúa, lại vừa như cố níu lấy tính-chất thực-dân, phong-kiến.

 

Nhìn vào đời sống đức tin của tín-hữu trong Giáo-hội Việt-Nam xem ra lại còn nhiều khuôn sáo mầu-mè của một não-trạng chai cứng và cố-chấp còn hơn cả bà Mác-ta nữa. Người ta có thể rất nhậy bén với bất cứ những gì nằm trong giới-hạn của con người nhưng lại rất xa-lạ với mọi dấu chỉ về thực-tại tâm-linh giữa trần-thế.

 

Lời Chúa là nền-tảng của niềm tin luôn luôn ở nơi miệng lưỡi con người, nhưng khi cần phải thực-hiện những điều miệng lưỡi đó thì lại đuợc lọc qua những thói quen hẹp-hòi và lối suy nghĩ  giới-hạn bị lệ-thuộc nơi bản-năng của con người nhiều hơn. Những xứ đạo, những xóm giáo, những tổ-chức này hay hội-đoàn nọ cứ nhẩn-nha diễn đi diễn lại một số sinh-hoạt lỉnh-kỉnh, rườm-rà và vô bổ của hàng trăm năm trước như một cái khung rêu khép kín mà không có một chút cửa ngõ nào cho ánh thái-dương có thể chiếu đến cách lành-mạnh và sáng-sủa hơn.

 

Nếu chịu khó lưu-tâm một chút để nhận-định thì người ta rất dễ nhận ra rằng phần lớn giáo dân Việt-Nam - cho dù ở trong nước hay tại khắp nơi ở hải-ngoại - vẫn chung nhau một mẫu-số theo đạo bất-biến. Mẫu-số chung này là không thực sự sống đạo theo những điều-kiện và hoàn-cảnh của cuộc sống hiện-tại để cập-nhật với những chuyển-biến của xã-hội đương-đại mà cứ khư-khư giữ các thói quen, tập-tục cũ rồi cho đấy mới là giữ đạo. Còn lại thì cứ dửng dưng theo cách nhìn mọi sự bằng thái-độ thờ-ơ, thụ-động và bàng-quan. Mỗi ngày ký-thác thêm vào chương-mục Nước Trời một giờ đi lễ vào buổi sáng sớm hay chiều tối kèm theo ít lời kinh đã thuộc lòng chẳng hạn. Cuối tuần đi  làm việc đền tạ, đi tập hát ca-đoàn, đi họp các hội Dòng Ba, hội tán-trợ Đạo-binh Đức Mẹ vân vân...là đủ tư-cách ước hẹn với Chúa một cuộc trùng-phùng trên Thiên-quốc. Những việc còn lại coi như không phải thuộc đấng bậc mình với trăm ngàn lý-do rất chính-đáng. Bởi vì sống đạo thì phải hành, phải nhúng tay vào ngay từ những khía-cạnh thực-tế nhất của cuộc sống đức tin; phải quan-tâm đến anh em, đến người khác. Như vậy là lại phải đem Lời Chúa ra suy-nghĩ, tra-vấn lương-tâm mình và thực-hành bằng những việc làm thiết-thực, cụ-thể; phải thực sự dấn-thân và chấp-nhận các thử-thách cũng như  phiền-phức mà chắc-chắn là còn phải thiệt-thòi nữa.

 

Sống bác-ái, yêu thương ư? Thì tôi có ghét ai đâu; nhưng nếu phải giúp người này người nọ thì thực không có giờ để nghĩ đến vì việc nhà nhiều quá và cũng đâu đã có dư để sẻ cho ai; vả lại người nghèo nhiều quá lo sao cho xuể và chính tôi cũng phải làm mới có chứ ai cho?

 

Công-bằng xã-hội ư? Việc to lớn như vậy đã có cơ-chế xã-hội gánh vác, mình làm sao đuợc...

 

Lên tiếng về các trường-hợp bị đàn-áp, bất công ư? Mình chỉ là người dân thường, uy-tín gì và tài cán gì mà làm? Coi chừng lại liên quan đến chính-trị mà tôi thì không làm chính-trị; không có giờ đi làm những việc bao-đồng rồi lại ách giữa đàng đem quàng vào cổ thôi.

 

Trách-nhiệm liên-đới với anh em về cả tội lẫn phúc-lộc ư?...Thây kệ, hồn ai nấy giữ, nói làm gì cho mất lòng, mất thời giờ và mất cả bạn bè.

 

Các giới chức trong đạo có hành-vi sai trái, có cung cách ngang ngược nên gương mù gương xấu ư? Thôi, hãy cầu nguyện cho các “ngài”, bởi vì dù sao cũng là con người với những yếu đuối. Hãy để Chúa lo-liệu còn mình thì chỉ nên vâng theo thôi, nói làm gì mang tội chết. Ấy là chưa kể sau khi góp ý còn có nguy-cơ bị thù ghét, bị đem lên toà giảng rêu rao cho mọi người ghép tội là chống cha, chống Chúa...

 

Ngày 27 tháng 2 năm 2000, Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô đệ nhị đã minh-định “Công-đồng Vatican II đã cho chúng ta nhiều tặng thưởng quý giá từ 35 năm qua và còn tiếp tục dẫn đưa chúng ta trong nhiều năm nữa. Công việc của Giáo Hội bây giờ là học hỏi những điều đã đề ra trong những văn kiện của Công Đồng và đem ra thực hành có hiệu quả...”Giáo-hội Việt-Nam đã đáp lại lời khuyên bảo của người đứng đầu Hội-thánh Chúa bằng lý-do chẳng “lô-gích” như sau: “Giáo hội Việt Nam, trong thời gian trước đây, từ năm 1965 đến 1975, do hoàn cảnh chiến tranh của đất nước, chưa có dịp học hỏi kỹ lưỡng các văn kiện của Công đồng, trừ một vài giáo phận ở miền Nam Việt Nam. Chỉ trong các thành phố và đô thị lớn, giáo dân mới có dịp học hỏi về Công đồng này ít nhiều, còn lại hầu như chẳûng mấy khi nghe nói đến, nhất là ở miền Bắc Việt Nam. Sau khi thống nhất đất nước năm 1975, dân tộc ta lại gặp nhiều khó khăn, vì thế các bài học đổi mới, hợp nhất của Công đồng hầu như ít được nhắc đến như những định hướng cơ bản cho Giáo hội Việt Nam. (Giáo Hội Công Giáo Việt Nam - Niên giám 2004). Trước 1975 thì tại vì chiến-tranh, còn sau 1975 thì lại gặp nhiều khó-khăn, thế thì chẳng biết đến đời nào mới đuợc đây trong khi từ Bắc chí Nam vẫn rầm-rộ xây cất và mở-mang về mặt cơ-sở vật-chất và những sinh-hoạt nặng tính trình-diễn kiểu thế-tục.

 

Vì bước mãi trên lối mòn như thế mà thay vì giáo dân Việt-Nam đúng ra phải được các mục-tử nhắc cho đôi chút về Sắc-lệnh Tông-đồ Giáo Dân thì lại chỉ đuợc “dạy dỗ” dằn mặt bằng giọng điệu tự-cao tự-đại như một ông quản-nhiệm đã viết “...linh-mục là người đuợc Chúa chọn, đuợc thánh-hiến để thay mặt Ngài mà tế lễ Thiên Chúa thay cho toàn dân và kéo ân sủng của Ngài xuống trên người giáo dân, các ngài có ba nhiệm vụ phải thi hành, đó là cai quản, dạy dỗ và thánh hoá cộng đoàn dân Chúa...Cho nên đừng đòi lật đổ hay bãi nhiệm các ngài...Linh mục là “con ngươi” trong mắt của Thiên Chúa canh chừng phần rỗi đời đời của chúng ta, chúng ta phải hết sức cám ơn Chúa qua các ngài”. Bằng vào cách định-nghĩa và giảng giải như vậy thì thật tình chẳng ai có thể hình-dung nổi con người đích-thực và nhiệm-vụ thiết yếu của một linh-mục ra sao và còn có vẻ phất-phơ, mờ ảo như hồn ma bóng quế vật-vờ nữa. Có lẽ vì tự lý-luận kiểu “vơ vào” như vậy mà tại hải-ngoại này, các cộng-đoàn giáo-dân Việt-Nam lại có chức “quản nhiệm” đặt thêm vào cạnh chữ “Tuyên-uý” và dần dần chữ “tuyên-uý” bị rơi đi để chỉ còn lại cái chức “linh mục quản nhiệm” nằm ngoài Giáo-luật

 

Ba thừa-tác-vụ Đức Giê-su trao ban đã đuợc một quản-nhiệm hiểu và diễn-đạt như thế thì giáo dân làm sao dám tin vào lời Công-đồng xác-nhận giá-trị và thế đứng của họ trong Sắc Lệnh Tông Đồ Giáo Dân là những người có phần riêng biệt và cần thiết trong sứ mệnh của Giáo-hội (quorum partes in missione Ecclesiae proprias et omnino necessarias ) hoặc Giáo dân có  bổn phận và quyền làm tông-đồ do chính việc kết hợp với Chúa Ki-tô là Đầu. Họ đuợc chính Chúa chỉ định làm việc tông đồ, vì phép Rửa Tội sát nhập họ vào Nhiệm Thể Chúa Ki-tô, phép Thêm Sức làm cho họ nên mạnh mẽ nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần. Họ đuợc thánh hiến vào chức vụ tư tế, vuơng giả và dân tộc thánh (Laici officium et ius ad apostolatum obtinent ex ipsa sua cum Christo Capite unione. Per Baptismum enim corpori Christi mystico inserti, per Confirmationem virtute Spiritus Sancti roborati, ad apostolatum ab ipso Domino deputantur. In regale sacerdotium et gentem sanctam consecrantur). 

 

Biết đến bao giờ những đoá hoa tin yêu này mới đưọc triển nở trên con đường lữ-hành đức tin của Việt-Nam cho lối mòn uốn khúc khởi sắc thành quan-lộ thẳng băng.

Tác giả:  Phạm Minh-Tâm

VỀ MỤC LỤC
“ĐỜI ĐỔI RỒI MÀ EM MÃI NGỦ IM !”

 

Sáng nay, thứ bảy 12 tháng 7, báo Tuổi Trẻ đã loan đi một thông tin đáng buồn, tin về vụ việc Công ty TNHH Nhà Máy Tàu Biển Hyundai Vinashin đã chuyển hơn 60 tấn chất thải độc hại từ một ụ tàu của công ty, đến định chôn lấp trong vườn một khu dân cư thuộc thôn Phú Thọ 3, xã Ninh Diêm, huyện Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa. Ở ụ tàu này đã có khoảng 200 tấn chất thải.

Bài báo có tựa đề “Chôn trộm 60 tấn chất thải nguy hại: Hyundai Vinashin bị bắt quả tang !” đăng nơi trang 5, chuyên mục Thời Sự, nội dung cho biết đơn vị trách nhiệm về môi trường tỉnh Khánh Hòa đã công khai xác nhận đây là chất thải nguy hại. Theo tác giả phóng viên Phan Sông Ngân, “khi chất thải nguy hại trên các xe vừa đổ xuống, nhiều người chứng kiến đã phải rùng mình. Từ đống chất thải hỗn độn, đen đen và nhầy nhụa bốc lên một mùi vị nồng nặc rất khó chịu”.

Cũng trong bài báo này, tác giả nhắc lại một vụ việc khác: “Cho đến nay, Hyundai Vinashin vẫn chưa giải quyết được món nợ chất thải xỉ đồng đang làm ô nhiễm môi trường thì lại xảy ra vụ việc tày trời này”. Chúng ta nhớ lại những bài báo trước đây về Hyundai Vinashin đã sử dụng chất xỉ đồng rất độc hại để gia công “lau tàu”, chất liệu này tự bản thân nó phá hoại môi trường sống, gây ô nhiễm không khí và chất thải từ nó sẽ tàn phá đất đai và nguồn nước ngầm ! Vụ việc này cho đến nay vẫn “được ngâm tôm”, im hơi lặng tiếng một cách khó hiểu !

Người đọc bài báo này không khỏi rùng mình về “tội ác”  “tày trời”  do công ty nói trên gây ra, nhưng đó lại chỉ là một trong rất nhiều vụ việc do rất nhiều doanh nghiệp đã biến đất nước chúng ta thành một bãi rác khổng lồ ( hai chữ “rất” dùng ở đây không hề có tính cường điệu ), có những doanh nghiệp của người nước ngoài, có những doanh nghiệp của cả người trong nước.

Hầu như tất cả các con sông trên đất nước chúng ta đang oằn mình dãy chết, trên thân xác ấy chỉ còn là một vệt nước đen đúa, hôi thối kinh tởm. Hãy đi một vòng Hà Nội, đến xem “con sông Tô Lịch” của đất Hà Thành một thời đã từng đi vào thơ văn lịch lãm, hãy đi một vòng Sài-gòn, và hãy tìm cho ra còn con sông nào không bốc mùi hôi thối, còn con sông nào không chở trên mình dòng nước đầy rác rưởi không ? Thế đấy, thân phận chúng ta như thế đấy. Nhưng mà, ai đã gây ra nông nỗi này ?

Hãy đọc tiếp và chung nỗi đau với tác giả Phan Sông Ngân: “Sở Tài Nguyên Môi Trường tỉnh Khánh Hòa đã ký văn bản chỉ đạo khá nhẹ nhàng… còn việc xử lý hành vi định “chôn trộm” chất thải nguy hại thì các cơ quan chức năng của tỉnh chỉ trả lời...”‘chờ xem xét” !

Mấy hôm nay, người anh em phụ trách xây dựng trong nhà chúng tôi ra vào xem ra mệt mỏi, hỏi ra mới biết ngài đang bị “các cơ quan chức năng” hành hạ ! Hết đơn vị này đến đơn vị khác lần lượt đến thực hiện đòn hiểm theo phép... “xa luân chiến”.

Như trong bài trước, tôi đã có dịp chia sẻ về công trình chúng tôi đang xây dựng, tại công trình này, đòn “xa luân chiến” được thực hiện như sau: Nước thải từ công trường, công trình đang trong thời kỳ đào đất và làm đáy móng, nước bơm ra từ công trường là nước mưa và cũng chỉ là nước mặt của khu vực móng ( rất ít ), chỉ hôm nào có mưa thì sáng hôm sau đơn vị thi công mới bơm ra để khô đáy móng, cán bộ môi trường đến kiểm tra và kết luận nước thải độc hại ! Lập biên bản ! Thế là một phen “cãi nhau” xùi bọt mép ! Bước xuống mặt móng, múc nước lên xem, trẻ con cũng biết đó chỉ là nước mưa nhưng cán bộ lại cứ nằng nặc yêu cầu “đem đi kiểm nghiệm !”

Nước thải ra chưa qua xử lý ! Thế nào là xử lý nước thải do mưa ? Yêu cầu phải qua ba hố ga trước khi ra cống thành phố, lại một phen “cãi nhau” xùi bọt mép ! Cuối cùng người Nhà Thờ buộc phải “ân cần” dẫn cán bộ đi xem đường thoát nước ở đây đã qua tới… năm hố ga trước khi ra cống thành phố !

Xe đang đào đất bị chận lại, giấy phép xử lý chất thải rắn độc hại ? Trước mắt mọi người toàn đất là đất, chất thải rắn độc hại là cái gì ? Nhà Thờ đã ký hợp đồng với đơn vị thi công, Nhà Thờ đâu còn biết giấy phép nào nữa ? Luật đánh vào chủ đầu tư ! Chủ đầu tư là Nhà Thờ đã mất tới… ba năm để có giấy phép xây dựng, trong quá trình xin phép, bao nhiêu giấy phép con đã phải xin, “thỏa thuận” qui hoạch kiến trúc, “thỏa thuận” giao thông công chánh, “thỏa thuận” phòng cháy chữa cháy, “thỏa thuận” không tranh chấp... Khi khởi công, nào là giấy “thỏa thuận” biện pháp thi công, giấy “thỏa thuận” giao thông vận tải để chuyên chở vật liệu, …toàn là giấy thỏa thuận nhưng thực chất là giấy phép phải xin, hễ có người xin thì có kẻ hành !

Đơn vị thi công được chúng tôi mời tới để hỏi về cái giấy phép xử lý chất thải rắn độc hại, ông giám đốc công ty cũng cười trả lời: “Dạ, con không biết” ! Nhưng ông trấn an chúng tôi: “Thôi cứ để con lo !” Thế là, y như rằng, hôm sau xe đất vào làm việc vô tư, không có vấn đề chi cả !

Báo Tuổi Trẻ số ra ngày thứ tư 9.7.2008, có đăng bài “Thủ tục hành chính tiếp tục… hành dân”, bài số 2 “Nằm mơ mới thấy… đúng qui trình !”, tác giả Nguyễn Triều – Phúc Huy có đưa tin về ngôi chùa Diệu Pháp quận Bình Thạnh, xin phép xây dựng một năm rồi vẫn chưa có giấy phép. Kính thưa các thầy, xin các thầy bền tâm chờ đợi và vững lòng kiên trì đi lên đi xuống các cửa quan, Nhà Thờ ba năm chẵn mới được giấy phép ! Ba năm trôi qua, lạm phát đã đưa giá thành công trình lên gấp đôi, sự thiệt thòi của người dân không ai thèm quan tâm tới.

Cũng trong trang báo Tuổi Trẻ này, ông Nguyễn Tấn Bền, Giám đốc Sở Xây Dựng thành phố đã nhìn nhận: “Thủ tục xin cấp phép xây dựng hiện nay quá chi li, nên cán bộ thụ lý hồ sơ dễ lợi dụng để gây khó cho người dân”, hèn gì người cán bộ nào cũng… bụng phệ và đi xe xịn ! Dế ( điện thoại di động ) đều thuộc loại hàng hiệu !

Hàng trăm tấn chất độc hại thật sự thì được xuê xoa qua chuyện, vài khối đất rất nguyên tuyền lại được xăm soi kỹ lưỡng hơn cả nghiên cứu vi trùng. Dân thành phố này biết một điều rất thật là: nhà cán bộ xây không phép cả chục tầng lầu không có vấn đề, chỉ cần xe ba gác chở một đống cát vào ngõ hẻm nhà phó thường dân, lập tức có cán bộ đến hạch hỏi giấy phép sửa chữa !

Tin Mừng có chỗ đứng nào trong một xã hội như vậy nhỉ ? Vai trò Ngôn Sứ sẽ thể hiện ra sao trong một cộng đồng như vậy ? Hỡi các Ngôn Sứ Thừa Tác và những Ngôn Sứ Cộng Đồng ? Không chỉ trong lãnh vực xây dựng nhưng bao nhiêu tiếng than thở của người dân trong mọi lãnh vực, bao giờ chúng ta mới can đảm mạnh dạn lên tiếng bênh vực ? Tôi có quen với một nhà thơ Linh Mục, khi ngài góp ý xin sửa đổi một vài việc trong Giáo Phận mà không được Đấng Bản Quyền chấp thuận, ngài đã cảm thán mà làm một bài thơ vỏn vẹn chỉ có hai dòng chua chát:

“Ôi…( tên Giáo Phận ) Em vô cùng tội nghiệp,

Đời đổi rồi mà em mãi ngủ im !”

Vậy thì, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng cam chịu ngủ im mãi thế này hay sao ?

Lm. VĨNH SANG, DCCT, thứ bảy 12.7.2008

VỀ MỤC LỤC
HÃY ĐỨNG NGOÀI CUỘC (1)
 

Mỗi lần có dịp ghé thăm người chị của tôi, chỉ cần ở một tiếng đồng hồ thì cũng đủ cảm thấy nhức đầu, vì các cháu thay phiên nhau đến tâu thưa đủ mọi thứ kiện cáo. Hình như hòa bình xem ra không thể có trong thế giới con trẻ vì trẻ con yêu chiến tranh hơn hòa bình. 

Hầu hết cha mẹ đều cảm thấy một sự quan tâm sâu xa về trận chiến không kết thúc giữa những con cái trong gia đình. Bố mẹ yêu mỗi đứa trẻ, mất nhiều năng lực để giải quyết những trận chiến và để dạy con cái biết sống hòa hợp với nhau. Nhiều đứa trẻ thích gây lộn với nhau và rồi bắt đầu biết quí mến và lo lắng cho nhau khi chúng khôn lớn dần. Những đứa khác tiếp tục hận thù và không bao giờ chịu làm hòa với anh chị em mình. Không có sự thuyết phục nào xem ra làm dịu bớt sự xung khắc đó. Hầu hết bố mẹ đã cố gắng tìm mọi cách thế để chận đứng những xung đột đó, nhưng chúng vẫn cứ tiếp tục. Xung đột giữa anh chị em là rất thông thường đến độ điều đó được coi là bình thường đối với con trẻ. Nó không bình thường chỉ vì nó xảy ra quá nhiều. Nhưng thật ra con trẻ không nên đánh nhau. Có những gia đình, con trẻ không xung đột nhau. Khi chúng đánh nhau, có cái gì đó sai trong tương quan với nhau. Không ai cảm thấy tốt khi đánh nhau. Vì thế, nếu con cái tiếp tục đánh nhau, điều đó cho thấy rằng chúng chắc chắn cảm thấy có sự thỏa mãn nếu không thỏa mãn trong việc đánh nhau thì cũng thỏa mãn trong kết quả của việc đánh nhau. 

Sự lượng định giá trị cho thấy rằng chúng ta nhận ra hành vi như là cùng đích. Ở đây chúng ta không thể thỏa mãn với sự cắt nghĩa thông thường cho việc tranh chấp hay xung đột là cái được gây ra bỡi bản tính hay động lực hiếu chiến. Từ cái nhìn của chúng ta, chúng ta cần hiểu hành vi của một đứa trẻ trong hoàn cảnh xảy ra và mục đích mà nó muốn phục vụ.

 

Kim Thùy 8 tuổi và Đức Minh 5 tuổi đang xem tivi trong khi bà mẹ đang làm bữa ăn tối. Đức Minh xích lại gần chị nó. Chị nó dời chỗ xa hơn. Cậu bé đặt chân lên chân chị nó. Chị nó hất chân nó ra. Cậu bé ngã người dựa vào chị nó. “Không được dựa,” chị nó nói cách âm thầm chán nản nhưng vẫn chăm chú vào cốt truyện. Cậu bé cũng vẫn coi tivi nhưng không chăm chú như chị nó và bắt đầu lấy ngón tay vẽ theo đường nét của chiếc áo chị nó. Chị nó lấy tay hất tay nó. Cậu bé cười khúc khích. Cậu bé lại đưa ngón tay đi lên và lên tới tận tai chị nó. Chị nó chụp lấy tay nó và nhe răng cắn vào tay nó. Cậu bé thét lên và khóc. Mẹ nó chạy vào phòng, hỏi: “Cái gì vậy?” Bà nhanh chóng nhìn thấy cậu bé khóc và ôm lấy cánh tay lăn lộn vì quá đau. Bà vội vàng chạy tới bế nó lên và ôm nó vào lòng. Nó giơ cánh tay nó ra. Dấu răng còn rất rõ. Bà mẹ gọi: “Kim Thùy!” “Vâng, nó cứ trêu chọc con.” “Mẹ không cần biết nó đã làm gì. Con không được phép làm như thế đối với em con.”

 

Mục đích của cuộc chiến đó là gì? Và đâu là kết quả?

 

Cậu bé muốn mẹ bảo vệ nó. Vì thế, nó hành động trong cách thế để tạo nên một tình huống nó có thể đạt được điều nó muốn. Chị nó cảm thấy bị xúc phạm vì bà mẹ bảo vệ đứa em và muốn dùng sự can thiệp để làm tăng cảm giác đó. Vì thế, cô bé làm điều mà bà mẹ ghét nhất trong khi biết rằng bà mẹ sẽ bảo vệ em nó và sẽ tặng cho cô bé những điều không tốt đẹp. Vì cậu em chọc giận, dĩ nhiên cô bé đau khổ trước nhất vì cậu em, sau đó càng thêm đau khổ vì bà mẹ đã đứng về phía em nó để chống lại nó. Để cô bé khỏi cảm thấy hận thù, bà mẹ không nên đứng về phía cậu bé và nên biết rằng chính nó là người đã gây ra rối loạn.

 

Vậy bà mẹ nên làm gì? Trước nhất bà mẹ không nên làm theo phản ứng tự nhiên là chạy tới mắng la gào thét. Đó là đòi hỏi phải làm của bất cứ người mẹ nào, nhưng phải dừng lại và suy nghĩ một chút. Tiếng thét khiến người mẹ chú ý một cách thảm thương. Nó ám chỉ rằng có cái gì sai một cách bạo động. Tuy nhiên, đó chỉ là tiếng rùng rợn và rồi đến tiếng khóc. Ô, tivi không nổ, nhà không sập, không có âm thanh nào khác ngoại trừ tiếng khóc. Điều đó chắc chắn là một trận chiến và cậu bé đã bị đau. Đúng vậy, đó là một cuộc đánh nhau. Tôi phải ở ngoài cuộc.

 

Để một bà mẹ có thể làm được hành động nầy, bà cần có kinh nghiệm quá khứ trong việc giữ bà khỏi những tranh chấp. Vì thế, chúng ta có thể nói rằng bà đã làm theo động lực tự nhiên – vội vàng chạy đi xem cái gì xảy ra. Bây giờ bà phải học: không được làm theo động lực thúc đẩy đầu tiên, hốt hoảng và vội vã chạy đến khi nghe tiếng la hét của đứa bé. Sau khi đã khám phá chính cuộc chiến đã gây nên tiếng gào thét, bà nên rút lui vào nhà bếp, tiếp tục công việc chuẩn bị thức ăn của bà mà không cần nói một lời nào. Sau đó, nếu cậu bé không muốn bị cắn, nó phải ngưng việc trêu chọc chị nó. Hành động của bà đặt trách nhiệm cho sự tương quan giữa chúng. Chúng ta không có quyền xếp đặt những tương quan giữa con cái chúng ta. Chúng ta có thể ảnh hưởng những hành động tương quan giữa chúng bằng điều mà chúng ta làm. Nếu chúng ta hành động trong cách thế đó như để loại bỏ những hậu quả của cuộc chiến, chúng ta làm phát sinh một mẫu mực mới trong quan hệ giữa chúng. Nhưng để làm được điều đó, bà mẹ phải học để nhận biết được mục đích đằng sau hành động đó.

 

lm. levanquang, tiến sĩ tâm lý

 
VỀ MỤC LỤC
ĐỨNG NGOÀI NHƯNG VẪN Ở TRONG

 

Tôi cảm thấy bất ngờ khi đọc bài viết “Hãy Đứng Ngoài Cuộc” của Cha Lê Văn Quảng, một bất ngờ thú vị (xem http://www.conggiaovietnam.net/index.php?m=home&v=detail&ia=5045) Thật ra lúc đầu có thể người ta chỉ nghĩ tác giả viết về cách dạy con trong một gia đình nhỏ, nhưng đọc tiếp thì sẽ thấy tác giả quả là thâm thuý. Làm cha mẹ, chọn lựa đứng ngoài cuộc không mặc nhiên coi mình như người ngoài, mà là thái độ vừa của lòng bao dung vừa của sự nghiêm minh. Bất cứ một động thái mang tính bênh vực hay lên án đứa con này hay đứa con khác cũng chỉ gây thêm bất hoà giữa con cái và ngay cả giữa cha mẹ và con cái. Trong một gia đình lớn hơn, không chỉ thái độ bao dung và công minh, mà cả những hiểu biết thâm sâu về từng con người và từng nhóm người trong cộng đồng mới làm cho công cuộc giáo dục đạt kết quả trọn hảo.

 

Bài viết của Cha Quảng vẫn còn gợi mở cho người đọc những suy tư khác. Khi hai đứa con trong gia đình tranh chấp, kiện cáo, và như tác giả nhận định “trẻ con yêu chiến tranh hơn hoà bình”, thì tôi ngờ rằng đây là thủ pháp văn chương của tác giả. Trẻ con thì chẳng yêu chiến tranh đâu, và dù có tranh chấp, cái tranh chấp của trẻ con cũng mang dấu vết bình an. Khi Thánh Phaolô viết về những chia rẽ trong cộng đồng tín hữu Côrintô ở 4 chương đầu của thư thứ nhất gửi Côrintô, thì rõ ràng Thánh Phaolô dạy cho tín hữu biết yêu thương nhau như Thầy Chí Thánh đã yêu. Trong một luận án tiến sĩ Thần Học Thánh Kinh tại đại học Saint Paul, Gia-nã-đại, Lê Quang Phúc đặt vấn đề có thực là giáo đoàn đầu tiên có chia rẽ, hay đây chỉ là thủ pháp văn chương mà Thánh Phaolô, nhà truyền giáo cũng là một văn hào, đã dùng để nhấn mạnh cho đức yêu thương. Có lẽ trong cái nhìn này mà tôi nhận thấy con cái trong nhà không chia rẽ, không yêu thích chiến tranh và hoàn toàn không muốn bước lệch ra khỏi mối tương quan lý tưởng mà cha mẹ mong mỏi ở chúng. Nếu có xích mích, âu cũng là thói thường, xích mích để loại trừ bất công.

           

Vậy tại sao có nhiều hiện tượng khiến cha mẹ phải lên tiếng? Khi cha mẹ đi làm, con cái lắm lúc phải giao cho đầy tớ, (hay gia nhân, hay người giúp việc, có khi còn gọi là quản gia, gọi gì cũng được). Nhưng trong nhiều gia đình, quản gia hay đầy tớ không những không làm tròn trách nhiệm mà còn tự coi mình là chủ nhân của ngôi nhà. Sự soái đoạt này hẳn nhiên cần đến hậu thuẫn của những đứa con trong nhà. Một đứa con ngoan, có học và có hiếu thì không bao giờ đứng về phía đầy tớ phản chủ. Do đó, tên đầy tớ láu cá chắc chắn phải làm hai chuyện. Một là tìm đứa con vừa bất hiếu vừa hám lợi để lợi dụng nó. Hai là phải dụ dỗ lôi kéo những đứa con còn chút lương tri, và lợi dụng đứa con như con bài tráo đen bôi đỏ. Và lịch sử chứng minh những đứa con chạy theo người ngoài để phản cha hại mẹ xuất hiện đầy dẫy trong lịch sử và người ta có khi gọi chúng mỉa mai là “yêu gia đình” hay thẳng thắn gọi là “làm mọi quân dữ”.

           

Làm cha mẹ, trước hết là thực hiện sứ mạng yêu thương để gia đình thực sự là hình ảnh sống động của Thiên Chúa Ba Ngôi. Nhưng làm cha mẹ còn là một khoa học và là một nghệ thuật. Do đó mà cha mẹ ngày ngay phải là những nhà quản lý tài ba. Bài học của Bill Gates mới đây cho người ta thấy rằng là nhà quản trị, không những chỉ là công minh mà còn là biết đứng ngoài cuộc đúng lúc. Cái hấp dẫn nơi Bill Gates chính là ở chỗ đứng ngoài cuộc nhưng không từ bỏ vai trò lãnh đạo, điều mà toàn thế giới có thể nhận thấy dễ dàng. Đứng ngoài để nhìn rõ mà phán định. Cha mẹ nhiều khi bị dụ dỗ bởi những đứa con u u minh minh, cần lù (cù lần), lẩm cẩm,  ô hợp, hay đơn thuần là những file bí ẩn đến nỗi cha mẹ không tìm ra từ khoá mà mở chúng ra để hiểu và dạy dỗ. Khi dùng những từ ngữ này, tôi không dám lên án những đứa con, vì là con trẻ, chúng có thể hành động sai trái. Nhưng những thái độ ấy có thể uốn nắn nếu cha mẹ sáng suốt và nghiêm minh.

           

Là một đứa con trong gia đình Hội Thánh, con rất mong các vị lãnh đạo Giáo Hội, mà con luôn muốn khiêm cung gọi là Cha với lòng kính trọng vì hiều rằng Cha là hình ảnh của người Cha duy nhất trên Trời, mong các vị luôn có thái độ nhân từ mà cứng rắn, cảm thông mà công bằng, yêu thương mà biết phân định rạch ròi, không thiên vị theo cái nhìn của người cao niên lắm khi hơi bị mù màu.

 

GIOAN LÊ QUANG VINH (Sàigòn)

 
VỀ MỤC LỤC
Công ích là gì? 

 

Học Hỏi về Học Thuyết Xã Hội Công Giáo (tiếp theo)

Bài 5 

IV. Trật Tự Xã Hội (118 - 177) 

51. Công ích là gì? 

Công ích là “toàn bộ những điều kiện của đời sống xã hội cho phép những tập thể hay những phần tử riêng rẽ có thể đạt tới sự hoàn hảo riêng một cách đầy đủ và dễ dàng hơn” (GS #26). Công ích liên quan đến đời sống của mọi người. Vì thế, công ích đòi hỏi sự cẩn trọng ở mỗi cá nhân và đặc biệt đối với những ai đang nắm quyền hành.  

52. Ba yếu tố căn bản của công ích là gì? 

Cống ích có ba yếu tố căn bản sau: “Trước hết, công ích phải tôn trọng con người với tư cách là người. Nhân danh công ích, chính quyền có bổn phận tôn trọng các quyền căn bản và bất khả nhượng của con người. Xã hội phải giúp các thành viên thực hiện ơn gọi của mình. Đặc biệt, công ích cho phép con người thực thi các quyền tự do tự nhiên không thể thiếu để phát triển ơn gọi làm người, như quyền hành động theo qui tắc ngay thẳng của lương tâm mình, quyền bảo vệ đời tư và quyền được tự do chính đáng, cả trong phạm phi tôn giáo nữa” (GLCG #1907).

Thứ hai, “công ích phải đạt đến sự an lạc xã hội và sự phát triển của chính tập thể. Mọi bổn phận xã hội đều quy về sự phát triển. Nhân danh công ích, nhà cầm quyền có nhiệm vụ làm trọng tài giữa các quyền lợi riêng tư khác nhau; phải giúp mỗi người có được những gì cần thiết để sống đúng với phẩm giá con người: lương thực, áo quần, sức khỏe, việc làm, giáo dục và văn hóa, thông tin đầy đủ, quyền xây dựng một gia đình, v.v…” (GLCG # 1908).

Thứ ba, “công ích còn phải kiến tạo hòa bình, bảo tồn một trật tự đúng đắn được lâu bền và ổn định. Điều này giả thiết rằng quyền bính phải bảo đảm an ninh cho xã hội và cho các thành viên của xã hội bằng những phương thế liêm chính. Công ích đặt nền tảng cho quyền tự vệ chính đáng của cá nhân và tập thể (GLCG # 1909). 

53. Chính quyền cần cân nhắc và áp dụng nguyên tắc công ích thế nào? 

Khi áp dụng nguyên tắc công ích trên bình diện quốc gia, chính quyền cần lưu ý những điểm sau: Tạo công ăn việc làm cho càng nhiều người càng tốt; quan tâm đến những nhóm ít đặc quyền, duy trì sự cân bằng giữa đồng lương và giá cả; tạo điều kiện dễ dàng cho càng nhiều người tiếp cận với tài sản và các dịch vụ càng tốt để họ có một đời sống khá hơn; … cuối cùng, đảm bảo thúc đẩy cho sự tồn tại của con người không chỉ bằng cách phục vụ cho thế hệ hôm nay, nhưng còn quan tâm đến các thế hệ tương lai nữa (cf. Mater et Magistra, # 79).

Như thế, “quyền bính chỉ được hành xử hợp pháp khi mưu cầu công ích cho tập thể liên hệ và đạt tới mục đích ấy bằng các phương thế mà luân lý cho phép. Nếu các nhà lãnh đạo đưa ra những luật pháp bất công hay sử dụng những biện pháp trái luân lý, lương tâm không buộc phải tuân theo. Trong trường hợp này, quyền bính không còn là quyền bính nữa mà thoái hóa thành áp bức.” (GLCG # 1903). 

54. Để duy trì nguyên tắc công ích, chánh quyền nên làm gì? 

Nhất thiết chánh quyền cần phải hiểu đúng ý nghĩa của công ích. Tức là “toàn bộ những điều kiện của đời sống xã hội cho phép những tập thể hay những phần tử riêng rẽ có thể đạt tới sự hoàn hảo riêng một cách đầy đủ và dễ dàng hơn” (GS #26). Như thế, nhà nước cần tôn trọng và đối xử từng cá nhân là một nhân vị; khuyến khích họ tham gia vào các công việc của tập thể. Kết quả là nhiều mối liên hệ giữa người với người phát triển và gắn bó; những phúc lợi chung sẽ sẵn sàng hơn cho mọi người tiếp cận. 

55. “Tội xã hội” là tội gì? 

Khi nói đến “tội xã hội” nghĩa là trước hết chúng ta nhận thức rằng, bởi đặc tính hiệp nhất nơi loài người - vừa bí ẩn và không hiểu thấu nhưng cũng rất thực và cụ thể, nên tội của mỗi cá nhân cách này hay cách khác cũng có ảnh hưởng đến người khác. Thứ hai, có những tội tự trong bản chất cấu thành nó xúc phạm trực tiếp đến người xung quanh. Chính xác hơn, theo ngôn ngữ Phúc Âm, nó xúc phạm đến anh chị em mình. Những tội này xúc phạm đến Thiên Chúa là vì chúng xúc phạm đến những người chung quanh. Những tội này gọi là “tội xã hội” (cf. Reconciliatio et Paenitentia, # 16). Theo Giáo Lý Công Giáo: “Tội làm cho con người trở thành đồng lõa với nhau, và để dục vọng, bạo lực, bất công thống trị. Tội lỗi tạo nên những tình trạng xã hội và những định chế nghịch lại với lòng nhân hậu của Thiên Chúa. Các “tổ chức tội ác” vừa biểu lộ và vừa là hậu quả của các tội cá nhân. Chúng xúi giục các nạn nhân cùng  phạm tội. Hiểu nghĩa loại suy, có thể gọi chúng là “tội xã hội”, “tội tập thể” (GLCG 1869).

Br. Huynhquảng

VỀ MỤC LỤC

Hãy vẤt bỎ buỒn phiỀn - Hãy ca ngỢi và nhẢy mỪng

Tác Phẩm Chúa Vẫn Thương

Lm. MICAE-PHAOLÔ TRẦN MINH HUY pss

Phần một

BẠn thẾ nào Chúa yêu bẠn thẾ Ấy 

Tình yêu đáp trẢ tình yêu

2

Hãy vẤt bỎ buỒn phiỀn - Hãy ca ngỢi và nhẢy mỪng  

Chúa xin bạn hãy vứt bỏ cái bộ khoác buồn bã, không bằng lòng, cay đắng, lo âu và mặc cảm tội lỗi khỏi bạn. Chúa xin bạn hãy vứt bỏ tất cả những bộ khoác đó đi. Chúa xin bạn hãy trao cho Chúa những bộ khoác đó. Hôm nay, không có một buồn phiền nào, không có một cảm giác xấu nào, không có một gánh nặng nào, mà Chúa không thể lột bỏ đi cho bạn. 

Hãy để Chúa mặc cho bạn chiếc áo trắng tinh. Chúa xin bạn, hãy để Chúa mặc cho bạn. Chúa yêu bạn, Chúa sẽ cho bạn một chiếc áo khác, còn tốt hơn, còn mịn màng hơn là cái áo bạn đang có đó. Bạn hãy nhận lấy niềm vui của Chúa, bình an của Chúa, sung mãn của Chúa. Bạn hãy nhận lấy chỗ của bạn, hãy chiếm lấy nó. Bạn hãy nhận lấy tự do của Chúa làm của riêng bạn. 

Hãy nghe lời Chúa, hỡi bạn yêu dấu, bạn đã bắt đầu bước đi, đã bắt đầu đứng vững. Nhưng rồi, bạn đã muốn ngồi xuống, bạn sợ! Hãy nghe Chúa, chính Chúa là Cha của bạn, Chúa  muốn củng cố và nâng dậy những đầu gối rã rời. Hãy đón nhận Chúa. Sự vững tin của bạn đâu rồi? Bạn để bị lấy mất những gì Chúa đã đặt, đã để trong tâm hồn bạn sao? 

Bạn đã nói rằng Chúa là Vua và là Sức Mạnh của bạn, vậy hãy hết lòng coi Chúa là Vua và là Sức Mạnh của bạn, bạn không có gì phải sợ cả, bạn hãy thực sự tín nhiệm vào Chúa. 

Hỡi các bạn, khi các bạn nhìn thấy những gì Chúa đặt để nơi mỗi người, khi các bạn mở mắt ra, và khi Thánh Thần của Chúa mở mắt các bạn ra, người này biết quan tâm đến người kia, các bạn sẽ ở trong niềm vui, các bạn sẽ nhảy lên vì hoan lạc, bởi vì đó là những điều kỳ diệu Chúa đã đặt để trong mỗi người. Nhưng các bạn chỉ thấy quá ít. Chính vì vậy, món quà Chúa muốn ban tặng cho các bạn là các bạn được Thánh Thần mở rộng mắt các bạn ra, người này biết quan tâm đến người kia. 

Hỡi bạn, hãy nhận lấy Bình An của Chúa, hãy để Bình An của Chúa tràn ngập tâm hồn bạn. Bạn hãy nhận lấy Bình An của Chúa, cho bạn và cho thế giới. Bạn hãy để Thánh Thần dẫn bạn đi, dù trên những con đường bạn chưa biết, cả trên những con đường bạn đã không chọn lựa. Bạn hãy để Thánh Thần của Chúa dẫn bạn đi. 

Hãy ca ngợi Chúa, hãy tiếp tục ca ngợi Chúa, ngay cả khi, và nhất là khi mọi sự xem ra như bị ùn tắc, khi mọi cánh cửa xem ra như đóng chặt, khi bạn vẫn còn trong lối cũ thường ngày của bạn, khi mọi sự không được suông sẻ. Bạn hãy tin vào Chúa, lời ca ngợi của bạn có thể giật tung lên hết, như một qủa bom, như những hỏa tiển, bạn hãy tin vào Chúa. 

Chúa xin bạn đừng mang gánh nặng của bạn, nhưng hãy trao cho Ngài. Chúa xin bạn hãy trao cho Chúa sự ưng thuận của bạn. Chính Chúa sẽ làm tất cả những gì còn lại. Chúa muốn mở tung các cánh cửa của bạn để ban cho bạn đời sống mới. Chúa hiện diện đó là để cho bạn. Chúa ở sau cánh cửa này và Chúa gõ một cách nhẹ nhàng… 

Bạn tìm kiếm gì hỡi bạn? Bạn vùng vẫy mà không có Chúa. Bạn tìm đạt cho được một mục đích, tìm nắm lấy cuộc sống bạn trong đôi tay bạn. Bạn hãy để Chúa làm, Chúa sẽ ban cho bạn sự sống, không phải chỉ ở trên trời, mà ngay tại trần gian này, một cách cụ thể, bất cứ ở đâu bạn có mặt, giữa lòng những khát vọng sâu xa của bạn. Bạn đừng tìm cách đạt cho được cuộc sống bạn, do chính bạn. 

Chúa đã giao ước với người Chúa tuyển chọn. Hãy để Thánh Thần của Chúa làm công việc của Ngài nơi bạn. Bạn đừng có lo âu! Phải, thật chính là công việc của Chúa mà Chúa muốn thực hiện nơi bạn. Công việc của Chúa Thánh Thần. Bạn hãy lắng nghe và đón nhận công việc của Chúa Thánh Thần nơi bạn. Công việc của Chúa, chứ không phải công việc của bạn.

Bóng mây sẽ che phủ bạn. Nhưng Thánh Thần sẽ đến trên bạn. Chính Chúa sẽ làm những gì còn lại. Bạn không phải chiến đấu, chính Chúa sẽ chiến đấu. Bạn hãy tiếp tục ca ngợi Chúa, chính Chúa sẽ làm mọi sự trong bạn, bạn chẳng làm được cái gì đáng kể đâu. Bạn hãy ca ngợi Chúa. Bạn hãy mở rộng lòng bạn ra như cánh hoa dưới ánh mặt trời. 

Hãy nhảy mừng lên các bạn hỡi! Hãy nhảy mừng lên hỡi những người công chính, vì các bạn đang ở trong lửa, trong niềm vui. Hãy quay về với Chúa, hãy nhảy mừng lên hỡi các bạn. Hãy lặn ngụp trong lò lửa Trái Tim Chúa, hãy sà vào trong vòng tay của Chúa. Chúa là Cha của các bạn và Chúa sẽ không bỏ các bạn đâu. 

Niềm vui của Chúa là sống trọn vẹn thân phận Người Bạn. Chúa vén bức màn phủ kín trên tư tưởng của bạn, bức màn làm tối tăm tư tưởng của bạn. Hãy để Chúa lôi kéo bạn tự trong đáy thâm tâm bạn. 

Hãy tín nhiệm vào Chúa, bất cứ bạn đang ở đâu. Chúa không khiển trách bạn chi hết. Chính bạn tự khiển trách mình về nhiều chuyện quá! Hằng núi chuyện! Tại sao bạn không chấp nhận rằng bạn thế nào thì Chúa yêu bạn thế ấy? Hôm nay, chiều nay, ngày mai, không hơn cũng chẳng kém đi, nhưng như chính bạn ngày hôm nay. 

Chúa có mặt đó dường như vô hình, nhưng Chúa đang dẫn dắt. Hãy tín nhiệm vào Chúa trong mọi sự. Chính Chúa đang ở gần bạn đây. Chúa rút ra được điều tốt từ trong mọi sự, ngay cả khi bạn bị lầm. Bạn hãy học cảm ơn Chúa, thấy Chúa khắp nơi trong những chi tiết nhỏ mọn nhất. Chúa muốn nói và nói lại cho bạn biết rằng Chúa yêu cả những sự chậm chạp của bạn. Chúa yêu cả những khó khăn của bạn, ngay cả những nóng giận của bạn.

Chúa không vất bỏ bạn đâu. Bạn thế nào Chúa yêu bạn thế ấy. Bạn hãy học trút bỏ gánh nặng của bạn vào đôi tay Chúa và bạn sẽ biết được sự Bình An. Bạn hãy ở trong niềm vui, hãy nhận lấy niềm vui của Chúa. Cửa lồng đã mở, những con chim được giải thoát. 

Hãy để cho tình yêu của Chúa mang bạn đi. Hãy để cuộc sống bạn trong tay Chúa. Hãy để Chúa hành động trong cuộc đời bạn, đừng quá nguyên tắc bạn ạ, Chúa ít nguyên tắc hơn bạn. 

Hãy để Chúa hành động, bạn sẽ thấy hoàn toàn khác. Hãy để Chúa giúp bạn khám phá ra sự sống của bạn. Sự Sống của Chúa trong bạn. Chúa không phải là một khung cảnh sống, Chúa là chính Sự Sống. 

Hỡi bạn, bạn còn buồn đó. Bạn còn có những tấm màn buồn che phủ. Hãy để Chúa vén những bức màn đó đi cho bạn. Chúa đến vén những bức màn đó đi cho từng người. Hãy đón nhận niềm vui của Chúa, cho dù nó như còn xa bạn. Hãy để cho niềm vui của Chúa tràn ngập lấy bạn, chính giờ đây Chúa muốn ban nó cho bạn. 

Bạn nói rằng Chúa là Chúa sự sống, và bạn nói đúng. Chúa là Chúa Sự Sống, Chúa là Chúa của cuộc sống bạn, dù bạn đang ở tuổi nào, Chúa muốn dạy cho bạn biết sống. 

Chúa có một đường lối khác nhau cho mỗi người, để dạy cho bạn biết sống, để làm cho bạn biết cuộc sống của bạn, một cách cá nhân, một cách riêng tư. Hãy biết lắng nghe, hãy biết nhìn, hãy biết biện phân những gì Chúa muốn dạy bạn. Chúa là Chúa Sự Sống. Bạn quá khôn với Chúa, hãy dại khờ một chút với Chúa, đừng giới hạn sự sống của Chúa. 

Bạn đừng để niềm vui của Chúa bị héo hắt, và Chúa sẽ hành động. Hỡi bạn, Chúa đang gọi bạn. Chúa đang gọi bạn đến với Chúa. Bạn hãy bỏ xuống đi: những gói ôm, những vấn đề của bạn, những nỗi lo âu to lớn của bạn. Bạn hãy đến với Chúa nhiều, nhiều, thật nhiều nữa đi. 

Chúa không thể làm bạn thất vọng đâu. Nhưng bạn phải làm cái bước đi tới đó. Hãy đến sà vào trong đôi cánh tay của Chúa. Chúa có một niềm vui bao la để cho bạn. Những gói ôm của bạn sẽ tung ra và những lo âu của bạn sẽ biến đi. Bạn sẽ ngỡ ngàng khi thấy bạn ở trong một cảnh trí mới mẻ nào đó. Hãy đến với Chúa, ngày hôm nay Chúa vẫn còn gọi bạn, hãy đến. Chúa đợi bạn từ rất lâu rồi. 

Hỡi bạn, Chúa không khiển trách bạn chi hết. Chúa mời bạn hãy đi xa hơn nữa, đến tận nguồn, trong thinh lặng và một cách cá nhân. Bạn thật sự muốn điều đó chiều nay chứ? Chúa biết rằng bạn yêu Chúa, Chúa biết rằng bạn trung thành, bạn đang kiếm tìm Chúa. Và một lần nữa, Chúa không khiển trách bạn điều chi. 

Chúa mời bạn đi xa hơn nữa với Chúa. Chúa mở cho bạn một cánh cửa, nếu bạn muốn! Chúa dẫn bạn đi xa hơn, ngay từ chiều nay. Chính Chúa đồng hành với bạn, nếu bạn muốn.

 

VỀ MỤC LỤC
Bệnh Gai Cột Sống

 

Gai cột sống là bệnh trong đó có sự phát triển không mong muốn của xương hoặc sụn đã bị thoái hóa.

Gai thường có ở xung quanh khớp xương và đĩa liên sống. Nhiều người than phiền bị gai cột sống và cho là gai gây ra đau lưng, đau cổ.

Thực ra, gai là do sự hóa già của xương và sụn và bản thân gai không gây đau. Đa số người trên 60 tuổi thường có những chồi xương này mà không biết và chỉ tình cờ tìm ra khi chụp hình X-quang cơ thể trong khi chẩn đoán một bệnh nào khác.

Tuy nhiên, 42% những trường hợp gai này một lúc nào đó có thể đưa tới đau cổ, lưng, lan ra tứ chi, yếu bàn tay bàn chân.

Chữ Gai cũng không chính xác vì chồi xương trơn tru, dài vài mi li mét và là phần nhô ra của xương.

Ôn lại về cột sống

Xương sống trẻ sơ sinh có 33 đốt: 7 đốt cổ, 12 đốt ngực, 5 đốt thắt lưng, 5 đốt hông và 4 đốt cụt.

Tới khi trưởng thành, các đốt hông và cụt dính lại với nhau, chỉ còn lại hai xương cùng và xương cụt. Vì thế cột sống người trưởng thành có 26 xương.  

Cột sống nâng đỡ sức nặng các phần ở bên trên của cơ thể là đầu, mình, hai tay.

Cột sống chạy từ đáy hộp sọ xuống tới cuối lưng, bao bọc và bảo vệ dây cột sống (spinal cord). Dây cột sống gồm có các tế bào thần kinh, các bó sợi thần kinh kết nối tất cả các bộ phận của cơ thể với não bộ. Từ cột sống, phát xuất 32 đôi dây thần kinh tủy sống. 

Xương sống ăn khớp với hộp xương sọ, xương sườn, đai hông và là nơi bám của các cơ lưng.

Cột sống không đứng ngay thẳng mà có nhiều đoạn hơi cong để chịu sức nặng cơ thể hữu hiệu hơn trong các thế đứng khác nhau.

 Các đốt xương sống được dây chằng và hơn 400 cơ bắp nho nhỏ neo giằng hỗ trợ.

Dây chằng (ligament) là một băng mô liên kết xơ cứng, mầu trắng, nối hai xương với nhau ở vùng khớp. Các dây này không đàn hồi nhưng có thể uốn cong, giữ cho khớp mạnh hơn và giới hạn sự chuyển động của khớp về một phía nào đó.  

Nằm giữa các đốt xương là một cấu trúc dẹp (đĩa liên sống) cấu tạo bằng chất collagen rất bền chắc dùng làm chất đệm cho đốt xương, chống đỡ với sức mạnh va chạm. Khi mới sanh, nước chiếm 80% thành phần cấu tạo đĩa và đĩa mềm sốp. Tới tuổi gia tăng, nước trong đĩa khô dần. Vì đĩa không có mạch máu nuôi dưỡng, cho nên khi bị tổn thương thì không tự lành được.  

Nguyên nhân

Có ít nhất 3 nguyên nhân để giải thích sự hiện diện của gai cột sống:

1- Gai xương có thể là kết quả của việc xương tự tu bổ sau khi liên tục bị chấn thương như sức ép, va chạm, cọ xát. Thí dụ những người làm nghề khuân vác nặng, người quá kí tăng áp lực lên xương khớp, người có dáng đi đứng không ngay ngắn khiến cột sống xiêu vẹo.

2- Khi đĩa liên sống hư hao, xẹp xuống, dây chằng giữa các đốt sống sẽ chùng giãn, khớp chuyển động nhiều hơn

- Phản ứng tự nhiên của cơ thể với sự chùng giãn này là làm cho dây chằng dầy lên để có sức giữ vững cột sống.

- Lâu ngày, calci sẽ tụ lại trên dây chằng và tạo ra các gai hoặc chồi xương.

- Dây chằng ở trong ống cột sống cũng có thể dày lên, ống thu hẹp, ép vào dây thần kinh và gây ra các dấu hiệu bệnh.

3- Gai là một diễn tiến của sự hóa già. Đĩa sụn và xương bị thoái hóa, hao mòn, mặt xương khớp gồ ghề và gai mọc ra. Đó là bệnh viêm xương khớp, thường thấy ở người tuổi cao.

Nói chung, các yếu tố như Di truyền, kém dinh dưỡng, nếp sống không lành mạnh, dáng điệu đứng ngồi xấu, chấn thương liên tục (do thể thao, tai nạn xe cộ) là những rủi ro đưa tới sự thoái hóa xương khớp và tạo gai nhanh hơn.

Bệnh thường thấy ở người cao tuổi khi cột sống bắt đầu thoái hóa với tuổi già và thường có nhiều ở nam giới hơn là nữ giới. Tuy nhiên nữ giới ở tuổi mãn kinh cũng hay bị gai cột sống.

Dấu hiệu

Đa số bệnh gai cột sống không gây ra dấu hiệu triệu chứng gì.

Tuy nhiên khi gai cọ xát với xương khác hoặc các phần mềm ở xung quanh như dây chằng, rễ dây thần kinh thì bệnh nhân mới thấy đau.

Đau thường xuất hiện ở cổ, thắt lưng, đặc biệt là khi bệnh nhân đứng hoặc đi. 

Đau lan xuống vai với nhức đầu khi gai ở cột sống cổ, lan xuống lưng, chân khi gai ở cột sống lưng.

Cơn đau tăng khi cử động, giảm khi nghỉ do đó sẽ đưa tới giới hạn cử động ở các phần này.

Khi dây thần kinh bị chèn ép, bệnh nhân cảm thấy đau ở tay và chân, cơ bắp yếu. Nếu ống tủy bị quá thu hẹp, bệnh nhân sẽ có rối loạn đại tiểu tiện, mất cảm giác.

Ngoài gai cột sống, các dấu hiệu vừa kể cũng thấy trong bệnh tiểu đường, rối loạn tuần hoàn ở tứ chi, u, viêm hoặc nhiễm trùng cột sống. Một số dấu hiệu của gai cột sống cũng tương tự như ở các bệnh viêm thấp khớp, chấn thương lưng, đứt đĩa liên sống.

Cần phân biệt Gai cột sống với Thoái hóa cột sống, đau thần kinh tọa, thoát vị đĩa đệm. Sự phân biệt căn cứ vào dấu hiệu và y sử của mỗi trường hợp.

Chụp hình X-quang là phương thức rõ ràng để phân biệt gai cột sống với các bệnh vừa kể.

- Trong bệnh gai cột sống, chồi nhô ra từ xương sẽ hiện rõ rệt trên phim X-quang.

- Trong thoái hóa cột sống và thoái vị đĩa đệm, trên phim X-quang sẽ thấy có thay đổi về cấu trúc và vị trí của đốt sống và khớp như đĩa đệm xẹp hoặc lòi ra, khoảng cách liên sống hẹp lại, đốt sống hao mòn.

- Đau thần kinh tọa được chẩn đoán qua dấu hiệu triệu chứng của bệnh  như đau từ mông chạy dọc xuống phía sau của chân, đau khi cử động, duỗi chân.

Biến chứng

Bình thường gai cột sống xuất hiện nhiều hơn ở cạnh hoặc phía trước cột sống cho nên gai không cọ sát với rễ dây thần kinh hoặc với tủy sống ở phía sau, do đó gai ít gây ra các biến chứng nguy hiểm.

Tuy nhiên, một số trường hợp hiếm có thể xảy ra là gai gẫy, mảnh gẫy chạy vào giữa khớp xương, gây khó khăn cho sự co ruỗi khớp hoặc khi gai đè vào rễ dây thân kinh và gây ra mất cảm giác ở tay chân.

Điều trị

Nếu gai không gây đau, không cần điều trị.

Bệnh nhân tìm tới bác sĩ khi các cơn đau và các khó khăn khi cử động khiến cho họ phải giới hạn các hoạt động bình thường và ảnh hưởng tới nếp sống.

Khi gai gây đau thì sự điều trị tập trung ở nguyên nhân gây ra gai, dấu hiệu bệnh hoặc sự hiện diện của gai.

- Với nguyên nhân, việc giảm cân để giảm sức nặng lên xương khớp là điều cần làm.

- Điều trị dấu hiệu đau gồm có nghỉ ngơi khi sưng viêm, chườm nước đá, uống thuốc chống viêm không có steroid như paracetamol, ibuprofen.

Trong trường hợp đau nhiều, bác sĩ có thể chích thuốc steroid tại chỗ để giảm viêm và đau của cơ bắp.

Thuốc viên steroid là thuốc chống viêm rất mạnh và rất công hiệu để trị viêm. Tuy nhiên, thuốc có nhiều tác dụng không muốn nếu dùng không đúng cách và không có chỉ định của bác sĩ. Dùng lâu, steroid có thể đưa tới mục xương, cao huyết áp, giữ nước trong cơ thể.

Xin lưu ý là, hiện nay tại Việt Nam, có nhiều thuốc chống đau nhập cảng hoặc sản xuất tại chỗ gọi là đông dược mà lại có pha thêm steroid. Tác dụng chống viêm sẽ mau hơn nhưng tác dụng phụ có hại cũng rất nhiều. Bộ y tế Việt Nam đã nhiều lần báo động dân chúng về vấn đề này. 

- Gai cột sống có thể được cắt bỏ với vi phẫu thuật rất chính xác. Nhưng sau khi cắt, gai có thể mọc trở lại.

Cắt bỏ chỉ được chỉ định khi gai chèn ép vào hệ thần kinh, gây ra các dấu hiệu như tê chân tay, rối loạn đại tiểu tiện, đau lan tới tứ chi và ảnh hưởng xấu tới sinh hoạt thường nhật

Châm cứu có thể làm giảm đau một phần nào ở phần mềm nhưng không có tác dụng vào tình trạng viêm sưng cũng như khi gai tác động lên rễ dây thần kinh não tủy.

 Vật lý trị liệu, thoa bóp, luyện tập xương khớp, thực hành yoga cũng giúp giảm ảnh hưởng của gai.

Kết luận

Một trong nhiều nguyên nhân chính gây ra gai cột sống là thoái hóa viêm xương khớp.

Ta có thể tránh viêm xương khớp bằng cách thường xuyên vận động cơ thể để xương khớp, cơ bắp bền mạnh hơn; giảm cân nếu mập phì; tránh các chấn thương lên xương khớp và ăn uống đầy đủ chất dinh dưỡng mà cơ thể cần.

Bác sĩ Nguyễn Ý-Đức  Texas- Hoa Kỳ

VỀ MỤC LỤC
SỰ KHỦNG BỐ ÊM DỊU Chuyện phiếm của Gã Siêu

 

Trước ngưỡng cửa ngàn năm thứ ba, ai nấy đều hy vọng sẽ được sống những năm tháng an bình và thịnh vượng. Tuy nhiên, mơ ước thì rất nhiều mà lại chẳng được bao nhiêu. Ngàn năm thứ ba được khởi đầu bằng sự việc bọn khủng bố cướp máy bay, rồi đâm thẳng vào Trung tâm Thương mại Thế giới, khiến cho mọi người đều bàng hoàng khiếp hãi.

Rồi từ đó cho đến nay, nạn khủng bố vẫn liên tục được phát triển từ bắc xuống nam, từ đông sang tây và bọn khủng bố dường như có mặt ở mọi nơi và trong mọi lúc. Không ngày nào mà báo chí không đề cập tới nạn khủng bố. Nào là ôm bom tự sát. Nào là đặt bom ở xe để cho nổ tung, thậm chí còn cài bom cả vào đế giày…Và trong thánh bảy vừa qua, những vụ đánh bom ở Luân Đôn, một lần nữa lại làm cho cả thế giới bị rúng động, bị co giật  như lên cơn kinh phong.

Vậy thế nào là khủng bố ? Gã xin trả lời một cách vắn tắt : Khủng bố là làm cho người khác sợ hãi. Còn phương thế tạo nên sự sợ hãi thường là những hành động tàn bạo và dã man. Người ta có thể khủng bố lẫn nhau về phương diện thể xác như bắt bớ, đánh đập và tạo nên những cái chết thương đau. Nhưng người ta cũng có thể khủng bố lẫn nhau về phương diện tinh thần như tạo nên những căng thẳng, những buồn tủi, những tuyệt vọng.

Gã không phải là một chuyên viên về chính chị chính em, nên chả dám xớ rớ bàn tới những chuyện liên quan đến nền an ninh thế giới hay đến sự hòa bình của nhân loại. Những vấn đề này quá ư là to lớn,  nên bị coi như ở ngoài vòng…phủ sóng. Gã chỉ xin nói tới một phạm vi rất nhỏ bé, rất hạn hẹp, đó là phạm vi gia đình và giới hạn sự khủng bố trong mối liên hệ giữa vợ chồng với nhau mà thôi.

Ngày xưa khi học về sự cháy, tên khoa học gọi là hiện tượng “oxy-hóa”,  gã thấy người ta phân biệt hai sự cháy, đó là sự cháy bùng và sự cháy ngầm. Cháy bùng là cháy có phát ra ngọn lửa như chúng ta thường thấy ở trong bếp. Còn cháy ngầm là cháy không phát ra ngọn lửa, như chúng ta thường thấy nơi sự rỉ sét của các thứ  kim loại. Cũng vậy, trong mối tương quan giữa vợ chồng với nhau, gã xin tạm chia sự khủng bố thành hai loại, đó là sự khủng bố tàn bạo và sự khủng bố êm dịu.

Tác giả Mai Thắng trong một bài báo đã đưa ra nhận xét như thế này :

- Thông thường khi yêu nhau, người ta vẫn làm những điều tốt đẹp nhất cho người mình yêu. Thế nhưng, một số người lại cho rằng yêu có nghĩa là chiếm hữu một cách ích kỷ. Sự khủng bố êm ái này diễn ra mà đôi khi ngay cả người trong cuộc cũng không hay biết. 

Trước hết, anh chồng khủng bố chị vợ như thế nào ? 

Như chúng ta đã biết người chồng vốn được gọi là phái mạnh, phái khỏe. Vì thế, sự khủng bố của họ thường nghiêng về tàn bạo hơn là êm dịu.

Thực vậy, vào cái thuở ban đầu khi mới quen nhau, mới thương nhau, anh ta lịch sự, ga lăng và hào hoa bao nhiêu, thì bây giờ lại khó khăn, bẳn gắt bấy nhiêu. Mở miệng ra là chửi bới cộc cằn. Hơi một chút là hành động cách hùng hổ. Xét về sự đấm đá thì không ai bằng. Thiết tưởng những sự khủng bố như thế đều xuất phát từ cái đầu óc gia trưởng, độc tài và độc đoán.

Thứ nhất là trong việc làm.

Ngày xưa, anh ta chiều chuộng nâng niu theo kiểu :

- Cưng như cưng trứng, hứng như hứng hoa.

Còn bây giờ thì thường xuyên cho nồi niêu xoong chảo bay ra ngoài sân, rồi thượng cẳng chân hạ cẳng tay với nhau. Đáng lẽ ra anh ta phải dùng bàn tay để xây dựng, thì nay lại dùng để phá đổ. Có những anh chồng đã hành động một cách hết sức tàn bạo và dã man, đánh đập chị vợ không biết nương tay, bắt chị vợ phải hầu hạ cung phụng mình như một ông hoàng theo kiểu “chồng chúa vợ tôi”, chẳng thèm đụng ngón tay lay thử bất cứ công việc gì trong gia đình.

Một cô giáo đã tâm sự như sau :

- Thực là mệt mỏi. Mỗi khi đi làm về còn phải ghé qua chợ mua thức ăn, ghé qua truờng đón thằng nhỏ. Thế mà về đến nhà, ông chồng lúc thì đang vểnh râu ngồi xem tivi, lúc thì đang lướt như múa trên bàn phím. Ông ấy có đến ba bằng đại học, uyên bác lắm chứ  có phải thường đâu. Đông tây kim cổ cái gì cũng biết, chỉ mỗi chuyện vợ con sống chết ra sao là không biết mà thôi. Có lần tôi bận, gọi điện nhờ đón con, thì ông ấy hỏi con học ở trường nào, làm tôi cười ra nước mắt…(Gia Đình 32)

Thứ hai là trong lời nói.

Ngày xưa, lời nói của anh ta sao nó ngọt như đường cát mát như đường phèn, sao nó êm dịu và nhẹ nhàng đến thế. Còn bây giờ mới chua chát, gắt gỏng làm sao.

Trước kia thì :

- Anh anh, em em.

Còn bây giờ thì :

- Mày mày, tao tao.

Thậm chí còn :

- Cái con mẹ mày, cái con mụ nọ, cái con chết bầm kia…

Rồi anh ta lại dành cho chị vợ tất cả những món cao lương mỹ vị bằng những tiếng chửi bới tục tĩu, lôi cả bố mẹ, ông bà và tổ tiên không biết bao nhiêu đời ra mà riếc  móc. Anh ta cứ nghĩ rằng :

- Càng nói to, càng gắt gỏng thì chân lý và phần thắng sẽ thuộc về mình.

Rất nhiều khi anh ta đã dùng chiến thuật “cả vú lấp miệng em”. Gã thấy có những anh chồng rất sai, rất trái và rất ngang, còn hơn cả cua bò, thế mà mỗi khi phát ngôn đều la mắng, gắt gỏng để phủ đầu và lấp liếm những sai lỗi của mình.

Trong đời sống vợ chồng, về phương diện lời nói người ta đã diễn tả bằng một kinh nghiệm chua chát  như sau :

- Những ngày trước hôn nhân thì chị nói anh nghe. Liền sau hôn nhân thì anh nói chị nghe. Còn sau đó cả hai người cùng nói và hàng xóm phải nghe.

Gã cũng thấy có những anh chồng luôn kê tủ đứng, chê bai chị vợ truớc mặt bàn dân thiên hạ.

Bữa tiệc mừng tân gia chưa kết thúc, thì anh đã vào bếp gọi chị ra nói lớn tiếng :

- Anh đã nhắc em không biết bao nhiêu lần, khi nấu ăn em phải hết sức chú ý trong việc gia giảm và  mắm muối. Món nào em nấu cũng mặn chát như thế thì ai mà nuốt cho nổi. Hôm nay anh mời sếp và các đồng nghiệp trong công ty đến mà em nấu nướng kiểu này thì mất hết cả thể diện của anh.

Không biết bao nhiêu lần anh chê bai chị truớc mặt người khác như thế. Anh không quan tâm tới việc người khác nghĩ gì về vợ mình, cứ không vừa ý là anh giận sôi lên, rồi không tiếc lời quát tháo. Nếu có ai góp ý “vợ chồng đóng cửa bảo nhau” thì anh gạt phắt đi :

- Tôi có nói oan, nói sai cho cô ấy đâu mà phải giữ ý giữ tứ, tôi cứ nói trước mặt mọi người cho cô ấy cảm thấy xấu hổ để lần sau còn nhớ mà sửa đổi. Vợ với chả con, vụng về hết chỗ nói, đã thế lại còn ngang ngạnh không chịu sửa đổi, hễ tôi nói là gân cổ lên cãi. (Gia Đình 29).

Thứ ba là trong tư tưởng.

Anh ta cho ý kiến của mình luôn là đúng, là phải, còn ý kiến của chị vợ luôn là sai, là trái. Nhiều khi anh ta lên tiếng khinh bỉ và coi thường chị vợ :

- Ôi giời, đàn bà con gái biết chi mà nói.

Bao giờ anh ta cũng lấy cái “lý đoán” của mình mà áp đảo chị vợ và buộc chị vợ phải nhắm mắt vâng theo răm rắp, đúng với cốt cách “phong kiến” ngày xưa :

- Phu xướng, phụ tùy. Chồng đã phán, thì vợ phải chấp hành nghiêm chỉnh.

Sự khủng bố về mặt tư tưởng thường diễn một cách từ từ và âm thầm theo kiểu mưa dầm thấm đất. Phải chăng đây cũng là kiểu khủng bố êm dịu duy nhất của người chồng ?

Bất ngờ gặp lại chị, tôi thấy chị thay đổi hẳn từ cách ăn mặc, tóc tai đến tính tình. Những bộ quần áo sinh động được thay thế bằng quần tây, áo sơ mi đóng khuôn. Biệt danh “tóc ngắn nhí nhảnh” mà lớp yêu mến đặt cho chị dường như không còn thích hợp bởi mái tóc dài duỗi thẳng đuốt. Chị thở dài phân bua :

- Ông xã của mình bắt buộc như thế, cảm thấy không thoải mái nhưng biết làm sao bây giờ.

Qua trò chuyện, tôi thấy chị thay đổi cả thói quen chủ động trong mọi vấn đề, chẳng hạn như việc gọi thức ăn cho mình khi vào quán hay việc mặc đồ gì khi đi chơi…tất cả đều do anh ấy. Chị cuời gượng :

- Quen rồi, anh ấy quyết định mọi thứ, mình chỉ việc làm theo.

Và có lẽ chị không phải là trường hợp cá biệt “đánh mất bản sắc” của mình. Vì người yêu, sẵn sàng làm mọi sự, kể cả thay đổi bản thân không đúng với cá tính của mình, miễn là vừa lòng người mình yêu.

Nếu như có người đã viết hai câu thơ :

- Đừng nhìn em như thế,

  Cháy lòng em còn gì.

Thì qua những kiểu khủng bố như trên, tác giả Đình Bôn đã có lý khi thốt lên :

- Đừng hành nhau như thế,

  Chết đời em còn gì. (Gia Đình 29). 

Tiếp đến, chị vợ khủng bố anh chồng như thế nào ? 

Như chúng ta cũng đã biết, người vợ vốn được coi là phái đẹp, phái yếu. Vì thế sự khủng bố của họ thường nghiêng về êm dịu hơn là tàn bạo.

Nói thế, không phải là không có những bà vợ mang khuynh hướng bạo lực đâu nhé, tuy rằng rất ít và rất hiếm.

Anh hàng xóm của tôi đã tốt nghiệp đại học và là truởng ban biên tập thời sự của một tờ báo lớn. Tôi đã từng chứng kiến tận mắt nhiều lần vợ anh mắng anh là đồ ngu, đồ đần độn và khiếp quá có lần vợ anh cầm cả cán chổi vụt thật mạnh xuống giường. Nhát vụt ấy là lời cảnh cáo anh, chả khác gì cách dạy con của các cụ ngày xưa. Anh vẫn ngồi như tượng, mặt tím vì giận vợ và xấu hổ với hàng xóm, vì họ đều là đồng nghiệp…(Gia Đình 29).

Do chân yếu tay mềm, nên vũ khí người vợ dùng để khủng bố ông chồng thường là lời nói.

Thực vậy, tìm được một bà, một cô vừa niềm nở và tươi tắn, lại vừa kín miệng và thận trọng trong lời nói là một điều rất khó, bởi vì phần đông các bà các cô đều mắc phải cái tật thích nói dài, nói dẻo, nói dai, nói day, nói dứt và lắm khi còn nói xiên , nói xỏ.

Có những chị vợ thường xuyên cạu cọ với chồng với con. Chúng ta thử tưởng tượng ra một anh chồng làm công chức. Ở sở thì bị bề trên đè nén, bề ngang ganh tị và bề dưới bướng bỉnh. Về nhà chỉ thầm mong tìm thấy một khuôn mặt tươi tắn và một lời nói dịu dàng của chị vợ, cùng với những nụ cười vô tư của con cái để quên đi hết nỗi sầu buồn chất chứa trong lòng mà hăng hái tiếp tục cuộc chiến đấu vì cơm áo gạo tiền. Thế nhưng, bất cứ lúc nào hễ thấy mặt anh chồng, chị vợ lại cằn nhằn :

- Sao anh thua người ta thế này, sao anh thua người ta thế nọ…Người ta thì kiếm tiền như nước, đem về cho vợ cho con, còn anh sao vô tài bất tướng quá vậy.

Ngay cả những lúc thân mật, chị vợ cũng luôn rót vào tai chồng những lời chua như chanh và cay như ớt. Ngồi vào bàn ăn, thì mặt mày làm thành một đống. Như vậy, làm sao người chồng có thể chịu đựng cho nổi.

Nhất là mỗi khi có chuyện xích mích, bất đồng trong gia đình hay chẳng may anh chồng lỡ sai lỗi điều chi, thi chị vợ xả ga nói cho bằng thích : nói dài, nói dẻo, nói dai, nói day, nói dứt, nói xỏ, nói xiên…xoáy vào tận lục phủ ngũ tạng, xoáy vào tận tâm can tì phế của anh chồng. Lải nhải ngày cũng như đêm.

Bị khủng bố tới nước này, anh chồng thường có hai cách giải quyết. Một là lẳng lặng bỏ nhà ra đi dăm bảy tiếng đồng hồ hay vài ba ngày để xả…”stress”. Hai là tức nước vỡ bờ, thượng cẳng chân, hạ cẳng tay, nện cho chị ta một trận để mà câm cái miệng lại.  Cả hai cách giải quyết đều bất ổn cho cá nhân cũng như cho gia đình.

Đúng vậy, những lời nói theo kiểu “dài-dẻo-dai-day-dứt” như trên thường không đem lại kết quả như lòng mong ước, trái lại lắm lúc còn như đổ thêm dầu vào lửa làm cho bùng nổ…chiến tranh giữa các vì sao. Bởi đó, rút ra từ những kinh nghiệm quí giá, phần lớn các chị vợ đã tâm niệm rằng :

- Mật ngọt chết ruồi. Người ta bắt được nhiều ruồi chỉ bằng một giọt mật, còn hơn là bằng cả một thùng dấm chua.

Và thế là các chị ấy bèn thay đổi chiến thuật, dùng những lời nói ngọt ngào như đường như mật mà rót vào tai các anh chồng. Một khi đã khoái cái lỗ nhĩ, các anh chồng chỉ còn biết gật đầu vâng theo mà thôi. Đây chính là một sự khủng bố êm dịu mà kết quả được diễn tả là trên cả tuyệt vời.

Gã xin đưa ra một vài chứng từ được góp nhặt trên tuần báo “Gia Đình”, qua đó cho thấy với chiến thuật khủng bố êm dịu, các chị vợ đã chiến thắng một cách khốc liệt, còn những anh chồng đã phải ngậm đắng nuốt cay, chịu thua một cách te tua thảm hại.

Chứng từ thứ nhất là của hai người đang…cặp bồ với nhau.

Trong tiệc cưới ở nhà hàng nọ, chúng tôi cảm thấy thương và buồn cười cho anh bạn trẻ ngồi chung bàn. Cô bạn gái của anh ta cứ luôn miệng nững nịu, bắt anh ta phải làm việc này việc nọ để phục vụ cho cô. Từ việc lấy đôi đũa ra khỏi bao giấy, đến việc lột tôm cho vào đĩa thức ăn, ngay cả cầm chiếc khăn lên lau mặt cô cũng nhờ người yêu xé hộ. Chứng kiến từ đầu đến cuối cảnh tượng ấy, một anh chàng độc thân bèn chép miệng thở dài ngán ngẩm :

- Hết ham có người yêu.

Chứng từ thứ hai là của một cặp vợ chồng cưới nhau hơi bị…mới.

Họ vừa mới kết hôn và cũng vừa mới qua tuần trăng mật tại Đà Lạt. Chi tiết nhỏ này cũng nói lên khá nhiều về tình trạng “kinh tế rủng rỉnh” của họ. Ấy thế mà có một cuộc chiến ngầm đang diễn ra mà kẻ bại trận lại chính là…“anh yêu”.

Nàng mới tậu được một chiếc váy lửng đồ hiệu, nhưng vòng cạp hơi bị chặt vì cái eo của nàng dạo này hơi bị phát triển. Và thế là :

- Anh ơi, anh đưa em đi sửa lại cái cạp váy nhé ?

Anh miễn cưỡng :

- Ừ, thôi nào đi.

Chuyện vặt này thế là cho qua. Lại đến việc khác. Một ngày đẹp trời, nàng bảo anh đưa nàng đến cái “shop” chuyên về đồ lót phụ nữ. Anh ngần ngừ. Đàn ông đến đó ngượng chết đi được. La liệt những “quang treo” và “lá nho”. Khiếp. Nhưng chẳng để cho anh trình bày lý do ngại ngùng, “em yêu” liền đưa ngay giải pháp :

- Thì anh dựng xe bên đường và đứng đợi em.

Cuộc chờ ấy dài bằng cả thế kỷ.

Nàng biết anh có tài rán trứng. Và thế là hôm hai vợ chồng về quê ngoại, nàng bèn khoe với mẹ rằng con rể của mẹ làm bếp rất giỏi. Tiến thoái lưỡng nan, anh đành phải ngoan ngoãn hì hục dưới bếp, chiến đấu với lửa rơm.

Ngoài ra, anh còn bị quật ngã bởi một độc chiêu khác nữa, đó là nàng luôn đóng vai hải quan, khám túi áo, khám túi quần, khám ví da. Có nghĩa là anh bị quản lý một cách chặt chẽ, không còn có một quĩ đen quĩ đỏ nào cả. Thậm chí trên điện thoại di động, anh cũng phải luôn xóa sạch những tin  nhắn lạc lõng à ơi. Nếu không thì chết. Bạn bè chê anh là hèn, nhưng anh bèn lớn tiếng thanh minh thanh nga :

- Tớ nể vợ chứ đâu có sợ vợ. Nể vợ khác với sợ khác chứ. Tớ không phải là loại  đàn ông mềm yếu.

Chứng từ thứ ba là của đôi vợ chồng cưới nhau hơi bị…cũ.

Từ trên lầu đi xuống, chị õng ẹo :

- Alô, anh đến đón em và đi mua sắm một tí nhé…Bận hả…Vậy em đi xe ôm. Khổ ghê. Có chuyện mới nhờ. Vậy mà…

Chỉ cần nghe cái điệp khúc “khổ ghê” bằng giọng giận dỗi của chị là anh lại phải “đau khổ” thi hành mệnh lệnh của chị, dù đang bận bịu đến mấy đi nữa. Anh than thở :

- Nếu không, cô ấy sẽ đưa ra những biện pháp làm cho mình đứng ngồi không yên.

Công việc tại văn phòng khiến anh khó có thể rời khỏi nơi làm việc trong giờ hành chánh, nhưng anh phải năn nỉ sếp, hoặc tranh thủ lúc giải lao để đáp ứng nhu cầu của chị. Mà những việc đột xuất của chị lại rất thường xuyên và hay rơi vào giờ hành chánh. Thế mới khổ cho anh.

Có lẽ vì lý do trên, mặc dù gắn bó với công ty đã ba năm, mà chưa bao giờ anh được khen thưởng. Thậm chí đôi lúc anh còn bị khiển trách, không phải vì khả năng làm việc, mà vì hay vắng mặt trong giờ hành chánh  ở cơ quan.

Sự việc trên làm gã nhớ tới một bài thơ của Bắc Tiếu với tựa đề là “Khéo” :

- Vợ tui là khéo nhất nhà,

  Rất hay sai vặt, nhưng mà sai hay.

  Anh ơi, giúp em cái này,

  Mang giùm cái đấy vào đây anh à.

  Cái này thì giúp mang ra,

  Mang vào cái đấy, mang ra cái này.

  Vào ra, giúp hộ tối ngày,

  Cái tai vẫn khoái, cái tay vẫy đều.

  Vợ tui đúng thật là siêu,

  Sai mà sai khéo, sai yêu, sai tình.

Từ kinh nghiệm xương máu, nằm gai nếm mật, những anh chồng thâm niên phục vụ cho chị vợ đã phải cúi đầu tự thú…trước bình minh  :

- Khi một người đàn bà yêu thương chúng tôi, thì tình yêu của người ấy đã quật ngã chúng tôi, khiến chúng tôi như bị tước đoạt hết tất cả và như bị đánh bại một cách thê thảm.

Trước sự khủng bố êm dịu của các bà vợ, gã xin mượn tạm bài thơ “Chồng ngoan” của Minh Thu thay cho lời kết :

Hầu con từ thuở còn thơ,

Hầu vợ đến thuở bạc phơ mái đầu.

Muốn cho vợ khỏi càu nhàu,

Bếp dọn sạch bếp, nhà lau sạch nhà.

Sinh nhật phải nhớ tặng quà,

Nấu ăn ngày tám tháng ba khỏi bàn.

Vợ ngủ thì phải buông màn,

Ngày hè quạt mát, đông sang đắp mền.

Vợ giận thì phải cười duyên,

Vợ vui mới được huyên thuyên hát hò.

Đêm nằm vợ ngáy ó o,

“Mình cứ thoải mái ngáy cho vui nhà”.

Đi chợ vợ thích ăn quà,

“Mình xơi cho đã về nhà đỡ cơm”.

Chở vợ thì lái cho ngon,

Mắt luôn nhìn thẳng chớ dòm ngó ngang.

Đi đâu báo cáo đàng hoàng,

Vợ khen : “ chồng tớ rất ngoan”…thì mừng.

Gã Siêu   gasieu@gmail.com

VỀ MỤC LỤC

- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến, bài vở..., xin gởi về địa chỉ

giaosivietnam@gmail.com

- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:

Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục vụ của Giáo sĩ;  Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh vực; Mỗi  Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)

- Quy vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại

www.conggiaovietnam.net

Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị

Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác nhau.

TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam

Lm. Luca Phạm Quốc Sử  USA

 

 

Duoc chon giua loai nguoi va cho loai nguoi; GIAO SI: Xuat phat tu giao dan, hien dien vi giao dan va cay dua vao giao dan, de cung lam VINH DANH THIEN CHUA

*************