Tổ Chức Phẩm Trật Giáo Hội Và Ðặc Biệt Về Chức Giám Mục
|
Thánh Công Ðồng Chung Vaticanô II
Hiến Chế Tín Lý Về Giáo Hội - Lumen
Gentium
Bản dịch Việt Ngữ của Giáo Hoàng Học
Viện Piô X
Prepared for Internet by Vietnamese
Missionaries in Asia
Chương III
Tổ Chức Phẩm Trật Giáo Hội
Và Ðặc Biệt Về Chức Giám Mục
27. Nhiệm vụ cai quản.
Là đại diện và sứ giả Chúa Kitô, các Giám Mục điều khiển Giáo
Hội địa phương mà Chúa đã ủy thách cho
58, nhờ lời khuyên bảo, khuyến khích, gương lành, và
còn bằng uy thế cùng quyền bính thánh thiện nữa. Thực vậy, các
ngài chỉ dùng quyền bính để xây dựng đoàn chiên trong chân lý và
thánh thiện, và luôn tâm niệm rằng: kẻ cao trọng hãy nên như kẻ
rốt hết, người làm chủ hãy nên như tôi tớ (x. Lc 22,26-27).
Quyền bính các ngài đích thân thi hành nhân danh Chúa Kitô, là
quyền bính riêng biệt, thông thường và trực tiếp; nhưng việc thi
hành cuối cùng còn lệ thuộc vào quyền tối cao của Giáo Hội, và
có thể bị giới hạn phần nào vì lợi ích của Giáo Hội hay của các
tín hữu. Với quyền bính ấy, các Giám Mục có quyền thiêng liêng
và trước mặt Chúa có nhiệm vụ đặt ra các luật lệ cho những người
thuộc quyền, xét xử và qui định tất cả những gì liên hệ tới việc
thờ phượng và việc tông đồ.
Chính các Giám
Mục được trao phó trọn vẹn trách nhiệm mục vụ, tức là thường
xuyên và hàng ngày săn sóc con chiên mình. Không được coi các
ngài như những đại diện của Giáo Hoàng Roma, vì các ngài thi
hành quyền bính riêng của mình và thực sự là thủ lãnh của các
dân mà các ngài cai quản
59. Vì thế, quyền bính Giám Mục không bị quyền tối cao
và phổ quát làm giảm bớt, nhưng trái lại còn được nâng đỡ, củng
cố và bảo đảm
60, vì Chúa Thánh Thần hằng duy trì thể thức cai quản
do Chúa Kitô thiết lập trong Giáo Hội.
Ðược Chủ sai đi
cai quản gia đình mình, Giám Mục phải chiêm ngắm gương mẫu Chúa
Chiên Lành, Người đến để phục vụ chứ không phải để được phục vụ
(x. Mt 20,28; Mc 10,45) và hiến mạng sống mình vì con chiên (x.
Gio 10,11). Ðược chọn giữa loài người và đầy yếu hèn, ngài có
thể cảm thông nỗi đau khổ với những ai dốt nát và lầm lạc (x.
Dth 5,1-2). Giám Mục không nên từ chối lắng nghe những kẻ thuộc
quyền, nhưng hãy ân cần săn sóc họ như những người con đích
thực, và khuyên nhủ họ hăng hái cộng tác với mình. Vì phải trả
lẽ với Chúa về linh hồn con cái mình (x. Dth 13,17), Giám Mục
hãy cầu nguyện, rao giảng và làm mọi việc bác ái săn sóc họ và
cả những người chưa thuộc đoàn chiên duy nhất mà ngài cũng phải
coi như được trao phó cho mình trong Chúa. Như Tông Ðồ Phaolô,
Giám Mục mắc nợ tất cả mọi người, cho nên hãy hăng hái rao giảng
Phúc Âm cho mọi người, (x. Rm 1,14-15) và khuyến khích các tín
hữu làm việc tông đồ và truyền giáo. Còn tín hữu phải liên kết
với Giám Mục như Giáo Hội gắn bó với Chúa Giêsu Kitô, và như
Chúa Giêsu Kitô gắn bó với Chúa Cha, hầu nhờ sự hiệp nhất ấy tất
cả mọi sự đều hòa hợp
61 và trở nên phong phú cho vinh quang Thiên Chúa (x.
2Cor 4,15).
36*
28. Các linh mục trong mối tương quan
với Chúa Kitô, với các Giám Mục, với anh em Linh Mục và với dân
Chúa.
37* Ðược Chúa Cha thánh hóa và phái đến thế gian (x.
Gio 10,36), Chúa Kitô nhờ các Tông Ðồ, đã làm cho các Giám Mục,
những vị kế nghiệp các Tông Ðồ, có thể tham dự vào việc cung
hiến và vào sứ mạng của mình
62. Các Giám Mục lại giao nhiệm vụ thừa tác của mình
một cách hợp pháp cho nhiều phần tử trong Giáo Hội theo từng cấp
bậc. Như thế, thừa tác vụ do Thiên Chúa thiết lập trong Giáo Hội
được thi hành bởi những người có chức vụ khác nhau mà từ xưa
được gọi là Giám Mục, Linh Mục và Phó Tế
63. Linh Mục, dù không có quyền tư tế tối cao và tùy
thuộc Giám Mục khi thi hành quyền bính, cũng hiệp nhất với Giám
Mục trong tước vị Linh Mục
64. Nhờ bí tích Truyền Chức Thánh
65, linh mục được cung hiến theo hình ảnh Chúa Kitô,
thầy cả Thượng Phẩm vĩnh viễn (x. Dth 5,1-10; 7,24; 9,11-28), để
rao giảng Phúc Âm, chăn dắt tín hữu và cử hành việc thờ phượng
Thiên Chúa với tư cách tư tế đích thực của Tân Ước
66. Theo cấp bậc thừa tác của mình tham dự vào nhiệm
vụ Chúa Kitô, Ðấng trung gian duy nhất (x. 1Tm 2,5), các linh
mục loan báo lời Thiên Chúa cho mọi người. Nhưng các ngài thực
thi thánh vụ mình cách tuyệt hảo nhất là trong Thánh Lễ hoặc
cộng đồng tạ ơn, trong đó, các ngài thay thế Chúa Kitô
67 công bố mầu nhiệm của Chúa, kết hợp với ước nguyện
của tín hữu vào hy lễ của thủ lãnh và trong hy tế Thánh Lễ, hiện
tại hóa và áp dụng hy lễ duy nhất của Tân Ước
68, là của lễ tinh tuyền đã một lần tự dâng hiến lên
Chúa Cha (x. Dth 9,11-28), cho tới ngày Chúa trở lại (x. 1Cor
11,26). Linh mục chu toàn cách tuyệt hảo chức vụ giao hòa và an
ủi đối với các tín hữu thống hối và bệnh tật. Linh mục dâng lên
Chúa Cha các nhu cầu và lời khẩn nguyện của các tín hữu (x. Dth
5,1-3). Trong quyền hạn mình, linh mục thi hành nhiệm vụ Chúa
Kitô mục tử và thủ lãnh
69, tụ họp gia đình Thiên Chúa là cộng đoàn huynh đệ
có cùng một tâm hồn
70, và nhờ Chúa Kitô, trong Chúa Thánh Thần, dẫn đưa
cộng đoàn ấy về với Thiên Chúa Cha. Linh mục thờ lạy Thiên Chúa
trong tinh thần và trong chân lý giữa đoàn chiên (x. Gio 4,24).
Sau hết, vất vả truyền giáo và dạy dỗ (x. 1Tm 5,17), linh mục
tin những gì ngài đã đọc thấy và suy niệm trong lề luật Chúa,
dạy dỗ những gì mình tin và thực hành những điều mình dạy
71.
Là cộng sự viên
khôn ngoan, là phụ tá và là dụng cụ của hàng Giám Mục
72, linh mục được kêu gọi để phục vụ Dân Thiên Chúa.
Các ngài hợp với Giám Mục mình tạo thành linh mục đoàn duy nhất
với nhiều chức vụ khác nhau
73. Trong mỗi cộng đoàn tín hữu địa phương, linh mục,
là hiện thân của Giám Mục mà các ngài hằng liên kết với lòng tin
tưởng và quảng đại, lãnh nhận phần chức vụ cùng chia xẻ nỗi lo
lắng của Giám Mục và hằng ngày ân cần thi hành chức vụ ấy. Dưới
quyền Giám Mục, linh mục thánh hóa và dẫn dắt một phần đoàn
chiên Chúa trao phó cho mình, làm cho người ta thấy được Giáo
Hội phổ quát ngay tại địa phương mình, góp phần hữu hiệu vào
việc xây dựng toàn thân thể Chúa Kitô (x. Eph 4,12). Luôn mưu
cầu ích lợi cho con cái Thiên Chúa, linh mục phải hăng hái tham
gia công cuộc mục vụ của cả giáo phận, hơn nữa của toàn thể Giáo
Hội. Vì tham dự vào chức linh mục và vào sứ mệnh của Giám Mục,
linh mục phải thực sự xem ngài như cha mình và phải kính cẩn
vâng phục ngài. Phần Giám Mục cũng phải coi sóc các linh mục
cộng tác với mình như con cái và bạn hữu, như Chúa Kitô không
gọi môn đệ là tôi tớ, nhưng là bạn hữu (x. Gio 15,15). Do đó,
tất cả các linh mục triều cũng như dòng, bởi chức thánh và thừa
tác vụ, được nối kết vào Giám Mục Ðoàn và phục vụ cho lợi ích
của toàn thể Giáo Hội tùy theo ơn gọi và ân sủng riêng.
Một tình huynh
đệ thắm thiết nối kết tất cả các linh mục với nhau vì cùng tham
dự một chức thánh và một sứ mệnh chung. Tình huynh đệ đó phải
bộc lộ một cách tự phát tự nguyện qua sự tương trợ cả tinh thần
lẫn vật chất, trong phạm vi mục vụ cũng như trong phạm vi cá
nhân, trong các buổi hội họp, cũng như trong sự hiệp thông với
nhau qua đời sống, việc làm và tình bác ái.
Linh mục phải
săn sóc các tín hữu như những người cha trong Chúa Kitô, vì đã
sinh ra họ cách thiêng liêng nhờ phép Thánh Tẩy và giáo huấn (x.
1Cor 4,15 và 1P 1,23). Nêu gương cho đoàn chiên (1P 5,3), linh
mục phải làm sao hướng dẫn và phục vụ cộng đoàn địa phương của
mình, để họ xứng đáng mang danh hiệu Giáo Hội Thiên Chúa (x.
1Cor 1,2; 2Cor 1,1) là danh hiệu riêng biệt của toàn thể Dân
Thiên Chúa là Dân duy nhất. Linh mục hãy nhớ rằng mình phải tỏ
ra cho tín hữu và lương dân, cho người công giáo và ngoài công
giáo thấy gương mặt của một thừa tác vụ thực sự tư tế và mục vụ,
phải minh chứng cho mọi người thấy chân lý và sự sống. Như mục
tử tốt lành, linh mục còn phải đi tìm (x. Lc 15,4-7) những người
đã lãnh nhận phép Thánh Tẩy trong Giáo Hội công giáo nhưng đã
xao lãng không lãnh nhận các bí tích hay nhất là đã mất đức tin.
Ngày nay, vì
nhân loại ngày càng hiệp nhất về dân sự, kinh tế và xã hội, nên
các linh mục càng phải loại trừ mọi mầm mống chia rẽ, phải nối
kết cố gắng và khả năng mình dưới sự hướng dẫn của các Giám Mục
và Giáo Hoàng, để toàn thể nhân loại hiệp nhất trong gia đình
Thiên Chúa.
38*
29. Các phó tế. Ở bậc
thấp hơn của hàng giáo phẩm, có các phó tế, những người đã được
đặt tay "không phải để lãnh nhận chức vụ linh mục, nhưng là để
phục vụ"
74. Thực vậy, được ân sủng bí tích bồi bổ, các phó tế,
hiệp thông với Giám Mục và Linh Mục Ðoàn, phục vụ Dân Thiên Chúa
bằng việc phụng vụ, giảng dạy, và bác ái. Khi được những vị có
thẩm quyền chỉ định, các phó tế được cử hành trọng thể phép
Thánh Tẩy, giữ và trao Mình Thánh Chúa, nhân danh Giáo Hội chứng
kiến và chúc lành hôn phối, mang của ăn đàng cho kẻ hấp hối, đọc
Thánh Kinh cho tín hữu, giáo huấn và khuyên nhủ dân chúng, chủ
tọa việc phụng tự và kinh nguyện của tín hữu, cử hành các á bí
tích, chủ tọa lễ nghi tang chế và an táng. Ðược phong chức để lo
việc bác ái và việc quản trị, phó tế phải nhớ lời nhắn nhủ của
Thánh Polycarpô: "Hãy tỏ lòng nhân hậu, nhiệt thành, và hãy bước
theo chân lý của Chúa, Ðấng đã làm tôi tớ mọi người"
75.
Thực ra, trong
nhiều nơi, vì kỷ luật hiện hành của Giáo Hội La tinh có thể làm
trở ngại việc chu toàn những nhiệm vụ đó, những nhiệm vụ rất cần
thiết cho đời sống Giáo Hội, nên trong tương lai, chức phó tế có
thể được tái lập như một bậc riêng và vĩnh viễn thuộc phẩm trật.
Các nhóm Giám Mục địa phương, dưới những hình thức khác nhau,
với sự chấp thuận của chính Ðức Giáo Hoàng, có đủ thẩm quyền để
xét xem có nên bổ nhiệm các phó tế ấy và bổ nhiệm ở đâu, để họ
coi sóc các linh hồn. Với sự đồng ý của Ðức Giáo Hoàng, các Ngài
có thể phong chức phó tế cho những người đàn ông đứng tuổi, dù
đã kết hôn, cũng như cho các thanh niên có khả năng, nhưng các
thanh niên này phải giữ vững luật độc thân.
39*
Chú Thích:
(lưu ý:
những số ghi chú nhỏ hơn đã được đăng vào những số báo trước)
36* Số 27: Quyền cai quản.
Ðoạn này còn
được Sắc Lệnh về nhiệm vụ Giám Mục (số 16) bổ túc. Trong số đó,
Công Ðồng xác định chi tiết những bổn phận mục vụ của người tông
đồ, đặc biệt đối với linh mục, và cả với những tín hữu ly khai
cũng như những người chưa chịu phép Thánh Tẩy. Công Ðồng đã giữ
lại và lưu ý lời quả quyết này là: các Giám Mục là đại diện và
thừa phái của Chúa Kitô chứ không phải đại diện Giáo Hoàng, vì
lẽ các Ngài thi hành quyền năng riêng biệt của các Ngài, và việc
gọi các Ngài là thủ lãnh phần dân các Ngài hướng dẫn, quả là
điều xác đáng. Ở đây Công Ðồng cũng nhấn mạnh đến ý tưởng phục
vụ: quyền bính Giám Mục không để thống trị; ngoài ra còn kín đáo
ám chỉ tới trách nhiệm của Giám Mục đối với những người chưa
thuộc về đoàn chiên duy nhất. Giám Mục không chỉ bận tâm riêng
với tín hữu, nhưng có trách nhiệm đối với mọi người; ngay trong
giáo phận, Ngài phải là một vị thừa sai. Câu sau cùng nhắc nhở
cho tín hữu phải biết liên kết với Giám Mục của mình như Giáo
Hội đã liên kết với Chúa Kitô và Chúa Kitô với Chúa Cha.
37* Tiểu mục 4: Những cộng
tác viên của Giám Mục (các số 28-29).
Công Ðồng biên
soạn và khai triển đoạn này trong những cuộc bàn cãi vào tháng 9
năm 1964. Về linh mục, số 29 còn được bổ túc và minh định qua
Sắc Lệnh về nhiệm vụ Giám Mục (các số 28-35). Công Ðồng chưa có
thời giờ quảng diễn một khoa thần học về chức linh mục thừa tác,
nên tạm thời chỉ nói sơ qua khi bàn về chức Giám Mục. Sự liên
lạc giữa hai bên khiến Công Ðồng liệt kê được những quả quyết
chính yếu trong những số này để kết thúc cho một chương khá dài,
đòi nhiều công phu.
62 Xem T. Inhatiô tử đạo,
Ad Ephes. 6,1: x.b. Funk I, trg 218.
63 Xem CÐ Trentô, khóa 23,
De Sacr. ord., ch. 2: Dz 958 (1765) và đ. th. 6: Dz 966 (1776).
64 Xem Innocentiô I, Epist.
ad Decentium: PL 20, 554A; Mansi 3, 1029; Dz 98 (215): "Linh mục
tùy thuộc và hàng tư tế bậc thấp, nên không có quyền tư tế tối
cao". T. Cyprianô, Epist. 61, 3: x.b. Hartel, trg 696.
65 Xem CÐ Trentô, n.v.t.:
Dz 956-968 (1763-1778), và đặc biệt đ.th. 7: Dz 967 (1777). Piô
XII, Tông hiến Sacramentum Ordinis: Dz 2301 (3857-61). )
66 Xem Innocentiô I, n.v.t.
- T. Gregoriô Naz., Apol. II, 22: PG 35, 432 B. Dionysiô Giả,
Eccl. Hier., 1,2: PG 3,372 D.
67 Xem CÐ Trentô, khóa 22:
Dz 940 (1743). Piô XII, Tđ. Mediator Dei, 20-11-1947: AAS 39
(1947), trg 553; Dz 2300 (3850).
68 Xem CÐ Trentô, khóa 22:
Dz 938 (1739-40) - CÐ Vat. II, Hiến chế về Phụng Vụ Thánh
Sacrosancium Concilium số 7 và 47: AAS 56 (1964), trg 100-113.
69 Xem Piô XII, Tđ.
Mediator Dei, n.v.t., số 67.
70 Xem T. Cyprianô, Epist.
11,3: PL 4,242B; x.b. Hartel II, 2, trg 497.
71
Xem Pontificate Romanum, lễ truyền chức linh mục: lúc mặc áo lễ.
72
n.v.t.: kinh tiền tụng.
73
Xem T. Inhatiô Tử đạo, Philad. 4: x.b. Funk I, trg 266.
T. Corneliô I, trong T. Cyprianô, Epist. 48, 2: Hartel III, 2,
trg 610.
38* Số 28: Về Linh Mục.
Công Ðồng không
muốn đề cập đến những vấn đề thuộc khoa chú giải do Tân Ước đặt
ra, nhưng chỉ muốn xác định điều này: các linh mục, vì là những
thừa tác viên cộng tác với Giám Mục, nên được tham dự vào quyền
hành và sứ mệnh mà Chúa Kitô đã trao ban cho các Tông Ðồ.
- Tương quan
giữa linh mục Chúa Kitô: tùy theo mức độ thừa tác vụ, linh mục
tham dự vào nhiệm vụ Chúa Kitô là Vị Trung Gian duy nhất, nhiệm
vụ được thi hành trong việc tế tự và trong công hội: thừa tác vụ
của ngài là dâng Thánh Lễ, dẫn dắt đoàn chiên, dùng bí tích mà
thánh hóa, rao giảng Lời Chúa.
- Tương quan
giữa linh mục và Giám Mục: lặp lại hình thức linh mục đoàn ngày
xưa, nghĩa là các linh mục tập trung quanh Giám Mục để cùng lãnh
trách nhiệm chung là truyền bá Phúc Âm. Giám Mục phải sống tình
cha con, còn linh mục phải vâng lời và tuân phục. Chức tư tế của
linh mục tùy thuộc và tham dự vào chức tư tế của Giám Mục. Linh
mục cộng tác vào công cuộc truyền bá Phúc Âm có tính cách tập
đoàn.
- Tương quan
giữa linh mục với nhau: Công Ðồng mời gọi các linh mục cộng tác
với nhau về mặt thiêng liêng, mục vụ và cả trong những công việc
trần thế.
- Tương quan
giữa linh mục và tín hữu: linh mục quan tâm đến việc giúp đỡ các
tín hữu trong Giáo Hội địa phương, nhưng cũng không quên lo cho
những người còn ở ngoài Giáo Hội, và những Kitô hữu không còn
sống đạo.
Ðể kết luận,
Công Ðồng ước mong mọi linh mục phải nỗ lực duy trì và phát huy
sự hiệp nhất với nhau và với Giám Mục, vì Phúc Âm và thế giới
hôm nay đòi hỏi như thế.
74 Const. Eccl. Aegyptiacae
III, 2: x.b. Funk, Didascalia II, trg 103. - Statuta Eccl. Ant.
37-41: Mansi 3,954.
75 T. Polycarpô, Ad Phil.
5,2: x.b. Funk I, trg 300: "Chúa Kitô tự hạ được gọi là Ðấng Phó
Tế mọi người". Xem Didachê 15,1: n.v.t., trg 32. T. Inhatiô Tử
đạo, Trall. 2,3: n.v.t., trg 242. Const. Apostolorum, 8,28,4 :
x.b. Funk, Didascalia I, trg 530.
39* số 29: Về Phó Tế.
Bản văn công
phu được lặp lại hầu như hoàn toàn trong kỳ họp thứ III của Công
Ðồng, gồm hai phần:
- Nhiệm vụ của
phó tế: Công Ðồng dè dặt khi nói đến bí tích tính của chức phó
tế, vì còn một số người phân vân chưa quyết định, nên Công Ðồng
không muốn làm cản trở cho công cuộc tìm hiểu thêm. Ðặc điểm của
chức phó tế là phục vụ Giám Mục và linh mục đoàn. Phục vụ trong
ba lãnh vực: phụng vụ, rao giảng lời Chúa và thực thi bác ái.
- Tái lập phó
tế như một chức thường xuyên. Công Ðồng chỉ quả quyết là có thể
tái lập ở những nơi mà nhu cầu mục vụ đòi hỏi.
Việc tái lập
như thế có tính cách địa phương hơn là cho toàn thế giới, và do
quyết định của hội đồng Giám Mục địa phương với sự chấp thuận
của Giáo Hoàng. Về luật độc thân, phải phân biệt hai trường hợp:
người đứng tuổi có thể đã lập gia đình, còn các thanh niên phải
giữ luật độc thân. Bản phúc trình giải thích quyết định này như
sau: lược đồ không chủ trương đòi các phó tế phải có gia đình,
dù ở nơi nào cũng vậy, nhưng chỉ muốn dễ dãi đối với việc truyền
chức phó tế cho người có gia đình khi xét ra cần thiết hay hữu
ích.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
TÔN SƯ VÀ TRỌNG ĐẠO -
ĐỊNH HƯỚNG VÀ ĐỒNG HÀNH |
Quý độc giả Ephata và Giáo Sĩ Việt
Nam thân mến,
Những ngày này hàng triệu em học sinh
lớp 12 vừa mới thi xong kỳ thi Tú Tài. Ngày xửa ngày xưa, nước ta cứ
3 năm lại có một kỳ thi Hương, nếu đậu cao thì gọi là Cử Nhân, thấp
hơn thì gọi là Tú Tài. Rồi các Cử Nhân của các tỉnh lại tập họp về
kinh đô để dự kỳ thi Hội. Đậu thi Hội thì được gọi là Tiến Sĩ. Các
Tiến Sĩ lại được vào tận cung vua để thi tiếp kỳ thi Đình do chính
vua ra đề, ba người đứng đầu kỳ thi này sẽ được gọi là Trạng Nguyên,
Bảng Nhãn, Thám Hoa, vinh vang ghê lắm mà cũng phải giỏi ghê lắm mới
có thể lọt được vào đến đây.
Thời bao cấp theo chính thể CS, người
ta bỏ luôn cách gọi Tú Tài, Cử Nhân, cho là... tàn dư của phong
kiến, chỉ gọi là tốt nghiệp phổ thông. Thế rồi đến lúc nào chẳng
biết, hình như cũng chỉ năm mười năm nay, người ta dùng lại các tên
gọi cậu Tú, cô Cử, lại dùng lại các nghi thức ra trường, áo mũ xênh
xang. Lại có cả những trò chơi lớn cho thiếu nhi mô phỏng thi Đình
ngày xưa để tìm ra những chú bé cô bé Trạng Nguyên, trao giải của
các nhà tài trợ quảng cáo tưng bừng.
Thế
nhưng, bên dưới tất cả những lễ hội xum xuê, những thành tích lẫy
lừng, dần dần thực chất ngành Giáo Dục mới lộ ra. Cả xã hội bị báo
động lao xao, các nhà giáo tâm huyết lên tiếng, báo chí lập diễn đàn
online. Ông lớn này, bà cán bộ kia nhận chức với thật nhiều tuyên bố
và hứa hẹn, có lúc đã gây được niềm hy vọng nơi mọi người. Nhưng rồi
thì người ta chỉ “nói không” với một vài tiêu cực chứ không thấy nói
“có” được với những chuyển biến căn bản trong Giáo Dục. Coi như vô
ích ! Những cái làm được chỉ là chuyện vụn vặt phụ thuộc, trong khi
những cái đã và đang mất đi mới khủng khiếp !
Thật thương cho các bạn trẻ, rất trẻ,
hiện tại là lứa tuổi 9X, trải qua những năm học thật đẹp với trường
lớp, với thầy cô, với bè bạn, nhưng mức độ dung nạp, tích lũy, trang
bị vốn liếng sống làm người, lương tri để hành xử, tài năng để cống
hiến và tấm lòng để phục vụ cho đời thì lại bị thiếu trước hụt sau.
Tài chưa đủ để thi thố với thế giới mà Tâm thì không biết theo chuẩn
mực nào trong thiên hạ !?! Trách nhiệm này không chỉ do cha mẹ, thầy
cô, mà do chính những người hoạch định chính sách Giáo Dục của cả
nước đã gây “phá sản” lần hồi từ mấy chục năm qua.
Sau một thời gian dài trường học nào
cũng treo toàn là “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm
năm trồng người”
.
Thế rồi đến một thời điểm cách đây khoảng hơn 10 năm, bỗng nhiên
người ta thấy ví con người với cái cây, ví việc giáo dục với trồng
cây, nghe thì hay nhưng mà thực tế không ổn. Ừ nhỉ, con người quý
hơn cái cây nhiều, cây mà chăm sóc không tốt, bất quá nhổ đi, chặt
đi, đốn đi không uổng phí bao nhiêu, chứ con người mà không được dạy
dỗ cho tử tế thì nguy to !
Thế là người ta âm thầm họp bàn, lấy
quyết nghị, rồi lẳng lặng đến đầu năm học cho treo lên đồng loạt ở
các trường câu khẩu hiệu “Tôn sư trọng đạo” mà ngày xưa đã từng chửi
bới lên án là phong kiến với lại hủ nho. Cũng khá rồi đấy, xem ra có
thay đổi tư duy. Nhưng vẫn không ổn ! Nhiều người thức thời, kể cả
các bạn trẻ sinh viên lẫn mấy cô mấy cậu học sinh lớp 12 đều bật lên
một thắc mắc: Tôn sư nhưng biết lấy sư nào mà tôn đây ? Trọng đạo
nhưng biết lấy đạo nào mà trọng bây giờ ?
Những chuẩn mực đạo đức, những quy phạm
lương tâm trong xã hội hiện nay biết tìm ở đâu ? Trong khi đó, quyền
lực, danh vọng và lạc thú hưởng thụ, có thể gọi là một “tam giác
vàng” quá hấp dẫn, được đồng tiền bảo kê nên lại càng thu hút tâm
trí con người ta.
Các bạn trẻ thoạt đầu lòng sục sôi
nhiệt huyết cống hiến và lý tưởng phục vụ, nhưng sau một thời gian
ngắn phải đối diện với thực tế cuộc sống phũ phàng đến mức tàn nhẫn,
không ít bạn trẻ đã nhắm mắt cho trượt dài theo đưa đẩy của dòng
đời, tự an ủi mình đó là khôn ngoan, là thực tế, là “thời thế, thế
thời phải thế”, không thể “quân tử Tàu” mãi được !
May quá, dù sao, chúng ta cũng còn bắt
gặp được ở đây ở đó những tín hiệu vui. Chưa bao giờ chúng ta lại
thấy nẩy sinh như “trăm hoa đua nở” nhiều nhóm bạn trẻ đến như thế.
Hóa ra đến một lúc các mô hình Đoàn Đội Thanh Thiếu Niên CS không
còn đáp ứng được nỗi khao khát sống, khao khát được phục vụ, được
chia sẻ. Các bạn trẻ tự phát rủ nhau hình thành những đội nhóm, chỉ
mươi người, mấy chục là tối đa, họp bàn tranh cãi rất người lớn, rồi
đề ra được một chương trình hành động.
Chẳng cần chức tước, ban bệ, không cần
hô khẩu hiệu, không cần ra nghị quyết, cũng chẳng cần báo cáo thành
tích, phê và tự phê, chẳng màng đến bằng khen và huân chương vớ vẩn
gì. Đơn giản các bạn trẻ có cái Tâm trong sáng chỉ cần được gặp gỡ
nhau, được gặp gỡ những mảnh đời.
Mà
của đáng tội, một khi nước ta chọn đường lối phát triển theo kinh tế
thị trường theo kiểu Tư Bản Chủ Nghĩa nhưng lại theo định hướng
chính trị theo Chủ Nghĩa Xã Hội, thì chính cái cơ chế bạc nhạc, nửa
nạc nửa mỡ ấy, thay vì xóa bỏ “chế độ người bóc lột người” như vẫn
luôn nêu cao như khẩu hiệu đấu tranh, thì bây giờ lại đang đào sâu
hố cách biệt giàu nghèo trong xã hội, hình thành thêm một khối người
nghèo thành thị bên cạnh khối người nghèo nông thôn, vùng cao, vùng
sâu, vùng xa.
Vậy là những nhóm nhỏ bạn trẻ nhiệt
thành đầy thiện chí không bị... thất nghiệp ! Thường cứ vào Chúa
Nhật, đáng ra có thể đi chat chit, đi câu cá, đi ăn kem, uống
cà-phê, đi hát Karaoke, đi nhảy đầm, đi chơi games ở Diamond Plaza,
đi nhậu bù khú với nhau, hoặc ít nhất cũng là nằm tưng tửng ở nhà
nghe nhạc, xem phim, thế mà các bạn ấy lại rủ nhau, kéo nhau đến các
Mái Ấm, đến các trường Mầm Non dành cho trẻ mồ côi, đến các Nhà Tình
Thương, Nhà hưu Dưỡng nội ngoại thành, hoặc xa hơn, các bạn phóng
Honda đến các trại phong, các trường khuyết tật ở các tỉnh lân cận,
có khi còn lên đến tận vùng Tây Nguyên thăm những người anh em dân
tộc thiểu số khốn cùng..
Có lần giúp Tĩnh Tâm cho một Nhóm bạn
trẻ ở Vũng Tàu, chúng tôi có hỏi các bạn cần anh em nam nữ Tu Sĩ và
Linh Mục ở những mặt nào, các bạn không cần phải nghĩ ngợi lâu lắc
xa xôi gì, chỉ hội thảo sôi nổi một hồi rồi bạn “thủ lĩnh” ( leader
) mạnh dạn và thẳng thắn ngỏ ý: “Chúng con chỉ cần hai việc,đó là
các cha ĐỊNH HƯỚNG và ĐỒNG HÀNH với anh em chúng con!”
Vậy đó, nghe thì đơn giản, có hai việc
thôi ấy mà, ĐỊNH HƯỚNG và ĐỒNG HÀNH, nhưng là cả một trọng trách
Giáo Dục thế hệ trẻ hôm nay đang kỳ vọng vào người lớn, cha mẹ, thầy
cô, các vị Giám Mục. Linh Mục, các Tu Sĩ nam nữ.
Còn đối với các nhà lãnh đạo quốc gia
xem ra cao quá, xa quá, mà cũng hứa hẹn nhiều quá rồi, giới trẻ
chẳng màng đặt niềm hy vọng vào họ bao nhiêu nữa. Thế còn Hội Thánh
chúng ta thì sao ? Chúng ta có một đáp trả thích đáng về mặt Giáo
Dục cho các bạn trẻ hôm nay hay không ? Nếu chưa thì chí ít, xin
cũng đừng để họ phải thất vọng !
Đúng là phải “Tôn Sư – Trọng Đạo”.
Nhưng Sư nào đây ? Đạo nào đây ? Hãy ĐỊNH HƯỚNG cho các bạn trẻ trực
chỉ con đường mang tên Giêsu, vốn là vị “Sư” cần được tôn, và hãy
ĐỒNG HÀNH với họ trên chính con đường ấy – cái Đạo cần được trọng...
Lm. QUANG UY, DCCT,
Chúa Nhật
|
VỀ MỤC LỤC |
|
Học Hỏi về Học Thuyết Xã
Hội Công Giáo (tiếp theo) |
Bài 5
IV. Trật Tự Xã Hội (118
- 177)
41. Giáo huấn HTXH đề
cập đến trật tự xã hội như thế nào?
Điểm then chốt của giáo huấn về trật tự xã
hội được hiểu như sau: “Mỗi cá nhân con người chính là nền tảng,
nguyên nhân và cùng đích của mọi hình thức thể chế xã hội” (Mater
et Magistra # 219). Trong các lĩnh vực kinh tế và xã hội
cũng vậy, phẩm giá và ơn gọi của mỗi con người cũng như tất cả
phúc lợi xã hội cần được tôn trọng và phát triển. Vì con người
là nguồn gốc, trung tâm và mục đích của mọi hình thức đời sống
kinh tế xã hội. Vì vậy, nền tảng và mục đích của trật tự xã hội
chính là con người. Con người như là một chủ thể của tất cả các
quyền mà không ai có thể tước đoạt hay ban tặng, vì những quyền
này được gắn chặt với bản chất của mỗi cá nhân con người. “Không
một quyền lực loài người nào có thể bóp nghẹt sự nhận thức con
người là một nhân vị” (cf. World Day of Peace Message,
1988, # 1).
42. Dựa vào tính chất
nào để xây dựng nền tảng xã hội?
“Một xã hội dân sự được xem là ổn định,
trật tự, phúc lợi và tôn trọng phẩm giá con người, nếu xã hội đó
được xây dựng trên sự thật. Như Tông đồ Phaolô cổ vũ: “Bởi thế,
mỗi khi đã cởi bỏ sự gian dối, mỗi người trong anh em hãy nói sự
thật với người thân cận, vì chúng ta là phần thân thể của nhau”
(Eph 4:25). Điều này sẽ thành tựu khi mỗi người nhận thức đầy đủ
về quyền và bổn phận của họ và của người khác” (Pacem in
Terris, # 35).
43. Bằng cách nào để xây
dựng một xã hội hiệp nhất?
Để xây dựng một xã hội hiệp nhất, ĐGH Gioan
Phaolô II dạy rằng: “Trong tinh thần hiệp nhất và với khí cụ đối
thoại, chúng ta cần nhận thức rằng: tôn trọng nhân vị nhau; tôn
trọng những giá trị và văn hóa của người khác; tôn trọng quyền
tự trị và tự quyết của người khác; có tầm nhìn vượt ra khỏi
chính mình để hiểu và ủng hộ những phẩm chất tốt đẹp nơi những
người khác; góp phần của chính mình trong tính hiệp nhất xã hội
nhằm phát triển ý thức công bình; xây dựng một cấu trúc bảo đảm
rằng tính hiệp nhất xã hội và đối thoại là hai đặc tính bất biến
của thế giới loài người chúng ta” (World Day of Peace Message,
1986, # 5).
44. Chúng ta cần sống
tính hiệp nhất trong xã hội ra sao ?
Việc thực thi sự hiệp nhất trong mỗi xã hội
là có cơ sở nếu mỗi thành viên trong xã hội nhìn nhận nhau như
những nhân vị. Đối với những ai có sự ảnh hưởng của mình trên
những người khác, bởi vì họ có khả năng chia sẻ điều kiện vật
chất và dịch vụ công ích nhiều hơn, thì họ cũng có trách nhiệm
đối với những người nghèo yếu và sẵn sàng chia sẻ với người này
những khả năng mình đang có. Về phần những người nghèo yếu, vì
cùng mang một tinh thần hiệp nhất, họ không nên sống trong thái
độ thụ động; dù đang khi đòi hỏi những quyền cơ bản, họ cũng nên
thực thi những điều tốt đẹp vì mục đích chung. Đối với những
người thuộc nhóm trung bình, họ không nên chỉ lo cho bản thân
mình bằng một đời sống ích kỷ, nhưng cũng cần quan tâm những lợi
ích cho người khác nữa (cf. Sollicitudo Rei Socialis, #
39).
45. Làm thế nào để vượt
qua thành kiến cá nhân nhằm xây dựng một thế giới hiệp nhất?
Để vượt qua thành kiến cá nhân đang lan
rộng trong thế giới hôm nay, điều chúng ta cần lưu lý là phải có
một quyết tâm cụ thể thực hiện sự hiệp nhất và bác ái. Trước
hết, điều này bắt nguồn từ trong gia đình qua sự giúp đỡ lẫn
nhau giữa vợ chồng và các thế hệ tiếp sau. Với ý nghĩa này,
chúng ta gọi gia đình là cộng đoàn nơi việc làm và sự hiệp nhất
được thể hiện (cf. Centesimus Annus, # 49). Bên cận đó,
để tiến tới sự hiệp nhất, chúng ta không nên nhìn người khác,
dân tộc khác hay quốc gia khác như là những công cụ có khả năng
làm việc nhằm cho phép chúng ta khai thác và tận dụng với giá
thấp sau đó lại bỏ đi. Nhưng chúng ta cần nhìn họ như là người
anh em của chúng ta, người giúp đỡ chúng ta, người cùng chia sẻ
với chúng ta trong bàn tiệc cuộc đời một cách ngang bằng như
nhau mà mỗi người đều được Thiên Chúa mời gọi (cf.
Sollicitudo Rei Socialis, # 39).
Br. Huynhquảng
còn tiếp |
VỀ MỤC LỤC |
|
|
Lạy Chúa, chiều nay, con chỉ có
một mình. Những tiếng động trong nhà thờ lần lần tắt im. Những
người đi dự Chầu đã về hết.
Và con, con trở về nhà Xứ,
Con gặp những người đi dạo chơi
về.
Con đi qua những rạp hát chật ních
người ra vào.
Con thả bước dài theo các quán cà
phê đầy những người có vẻ buồn chán đang gượng gạo kéo dài cuộc
vui của ngày Chủ Nhật.
Con gặp thấy nhiều trẻ con đang
chơi trên các vỉa hè.
Những trẻ con, lạy Chúa, chúng là con trẻ của người ta,
chớ không bao giờ là của con.
Này con đây, lạy Chúa, con chỉ có
một mình,
Sự yên lặng làm con khó thở,
Sự cô quạnh đè nặng trên con.
Lạy Chúa, nay con được 34 tuổi,
Con có một thân thể như những
người khác
Với những bàn tay gân guốc để làm
việc,
Với một quả tim được dành để yêu
thương,
Nhưng con đã phó thác cho Chúa
hết.
Thật ra Chúa đang cần những thứ
đó.
Con đã phó dâng tất cả cho Chúa
rồi, nhưng lạy Chúa, dâng vậy thật đau khổ!
Thật đau khổ khi con phải dâng
thân xác cho Chúa, bởi vì thân xác đó nó muốn tự hiến cho một
người khác.
Thật đau khổ khi phải yêu tất cả
mọi người mà không được giữ riêng lại một người nào.
Thật đau khổ khi con bắt lấy một
bàn tay mà con không được giữ luôn.
Thật đau khổ khi con gây được một
mối tình mà rồi con phải trao mối tình đó cho Chúa.
Thật là đau khổ khi con không được
sống cho mình chút nào mà phải hòan toàn sống cho kẻ khác.
Thật là đau khổ khi con phải đi
với kẻ khác, mà không hề có một ai sẽ tới với con.
Thật là đau khổ để biết tội lỗi kẻ
khác trong khi con không được từ chối việc tiếp đón và nâng đỡ
họ.
Thật đau khổ khi con nhận biết
những thầm kím của người ta mà không được tiết lộ cho ai.
Thật đau khổ khi thấy cả đời con
phải lôi kéo kẻ khác mà không khi nào được ai thúc đẩy con, dầu
trong chốc lát.
Thật đau khổ khi con phải luôn ra
tay nâng đỡ những người yếu đuối mà con thì không bao giờ được
nương dựa vào một người nào.
Xin cho con được cao thượng đủ để
nâng đỡ thế gian.
Xin cho con trong sạch đủ để ôm ấp
thế gian mà không hề muốn giữ nó lại cho con.
Xin cho con được nên như một môi
trường gặp gỡ, nhưng là một môi trường tạm thời; để con nên như
con đường hướng đến với Chúa, chứ không phải là con đường cụt.
Lạy Chúa, chiều nay trong khi mọi
sự đều yên lặng và trong khi trái tim con cảm thấy đau đớn vì
khô quạnh.
Trong khi mọi người đang dày vò
hồn con và con cảm thấy con bất lực để làm cho họ được thỏa mãn.
Trong khi bao nhiêu khốn nạn và
tội lỗi của thế gian là cả một sức nặng đang đè trên vai con.
Thì con xin nói lại với Chúa là
con sẵn sàng hy sinh luôn; không phải nói với một giọng cười
diễu nhưng nói một cách chậm rãi, suy nghĩ và khiêm nhường.
Lạy Chúa, này con đang một mình
trước mặt Chúa, trong sự yên lặng của buổi chiều nay!
|
VỀ MỤC LỤC |
|
LINH MỤC LÀ NHỊP CẦU giữa CON
NGƯỜI và THIÊN CHÚA |
Kinh nghiệm thực tế cho thấy
con người sống bằng cơm bánh, nhờ có công ăn việc làm, có tiền
bạc. Khó có một cuộc sống xứng đáng, ấm no hạnh phúc, nếu thiếu
những yếu tố cần thiết đó. Nhưng con người không dừng lại ở đó,
vì nếu chỉ có như vậy, thì tầm thường quá! Mọi sự đều qua đi,
người giàu cũng như người nghèo rồi cũng chết.
Con người sinh ra làm người
để đi xa hơn, lên cao hơn. Con người sinh ra để tham gia thế
giới thần linh, vì được sáng tạo theo hình ảnh của Thiên Chúa và
giống Thiên Chúa. Con người chỉ hạnh phúc thật sự, khi đạt tới
mục đích cuối cùng đó. Thiên Chúa dựng nên con người có nam có
nữ, có xã hội tính, để con người cùng nhau sống hạnh phúc, cùng
nhau đạt tới mục đích của đời mình.
Nhưng trong thực tế, tội lỗi
đã làm cho con người bị mất gốc, và mất cả hướng đi. Con người
không còn biết mình bởi đâu và đi về đâu, nên chỉ loay hoay với
cuộc sống trần gian. Làm việc, rồi hưởng thụ; hưởng thụ rồi làm
việc. Một thiểu số may mắn làm ít hưởng nhiều, người nghèo thì
làm nhiều hưởng ít. Vì lý do đó, con người chưa thể hiện được
bản chất của mình, chưa làm người được cách trọn vẹn. Nhiều
người vẫn thấy thiếu một điều gì đó mà họ rất mong mỏi và rất
cần, dù không biết rõ đó là điều gì. Theo niềm tin kitô giáo,
thì đó là sự sống viên mãn, sự sống thần linh mà Chúa Giêsu mang
đến cho con người.
Chúa Giêsu đã làm người, chia
sẻ hoàn toàn kiếp sống con người, ngoại trừ tội lỗi. Người đã
chịu tất cả những nỗi đắng cay của cuộc đời, đã phải đối diện
với những kẻ thù hung ác nhất, đã chịu sỉ nhục, vu oan, chịu
những cực hình ghê gớm nhất. Người đã bị phản bội, bị từ khước,
bị bỏ rơi và chết nhục nhã như một người tử tội. Không ai có thể
tưởng tượng nỗi những đau khổ nội tâm của Chúa Giêsu khi Chúa
nhìn thấy sự dữ, thần dữ chế ngự lòng người, thấy cái ác thống
trị khắp nơi. Người đã lớn tiếng và rơi lệ, dâng lên cho Chúa
Cha những lời cầu xin và khẩn nguyện (x. Bài đọc II). Người đã
cầu khẩn cho nhân loại, vì đã được Chúa Cha đặt làm Thượng Tế,
làm nhịp cầu giữa thế giới thần linh và trần gian.
Người đã hiến mình làm của lễ
hy sinh vô tì tích dâng lên Thiên Chúa Cha, và đã được nhậm lời.
Thiên Chúa đã cho Người sống lại từ cõi chết, mang lại niềm hy
vọng cho loài người chúng ta. Quả thật Chúa Giêsu Phục Sinh mang
đến sự sống viên mãn cho nhân loại; đó chính là Thần Khí Phục
Sinh của Người, mà biểu tượng là Hơi Thở. Người đã hiện ra cho
các tông đồ và đã trao sứ vụ của Người cho các ông: như Cha đã
sai Thầy, Thầy sai các con! Người cũng đã ban Thánh Thần cho các
ông. Thật là kỳ diệu vì Chúa Thánh Thần vừa là một ngôi vị Thiên
Chúa, vừa là Tình Yêu của Thiên Chúa, là Sự Sống mà Chúa Giêsu
đã lãnh nhận trong sự Phục Sinh và ban lại cho chúng ta. Chúa
Thánh Thần cũng là ơn cứu độ, là ơn tha tội mà Chúa Giêsu đã ban
cho nhân loại trong Giáo hội và nhờ Giáo hội.
Các con thân mến, làm linh
mục là để thông phần vào sứ vụ tông đồ của Giáo hội, tiếp nối sứ
mạng của Chúa Giêsu, làm Nhịp Cầu giữa Trời và Đất, giữa Thiên
Chúa và con người. Đây là một sứ mạng rất tế nhị, khó khăn,
nhưng rất lý thú đối với những người được kêu gọi. Thiết lập
tương giao giữa Thiên Chúa với con người, giữa con người với
nhau là điều chính yếu của sứ mạng linh mục. Linh mục giúp cho
con người tìm lại được cội nguồn của mình là Thiên Chúa, giúp
cho con người định hướng lại cuộc đời.
Các con phải biết rõ cội
nguồn của mình, không ngừng tiếp xúc với cội nguồn là Thiên
Chúa, để có thể nói cho người khác biết về Thiên Chúa. Các con
cũng phải biết rõ về con người, thì mới có thể thuyết phục con
người. Linh mục phải là người có khả năng mở đường cho các mối
tương giao nhân loại. Gần gũi với Thiên Chúa, gần gũi với mọi
người, đó là một linh mục lý tưởng. Gần gũi với Thiên Chúa, với
Chúa Kitô Phục Sinh, các con sẽ được đầy tràn Thần Khí của Chúa,
sức mạnh của Chúa, tình yêu của Chúa, để lôi kéo con người đi
lên cùng Thiên Chúa. Gần gũi với con người, thân thiện với con
người, thấm đẫm tình người, các con mới thu hút được nhiều
người.
Nếu gần gũi với con người mà
các con xao lãng tiếp xúc với Thiên Chúa, thì sẽ là một đại hoạ,
vì các con sẽ nói những điều mình không biết, kết cuộc là một mớ
lý thuyết trừu tượng xa rời thực tế, kèm theo những ràng buộc về
luân lý, mà người đời không còn thấy ý nghĩa và không còn muốn
theo nữa. Lịch sử Giáo hội cho thấy những linh mục thánh thiện,
như cha sở họ Ars, cha thánh Gioan Bosco, càng gần Chúa bao
nhiêu, thì càng gần gũi với con người bấy nhiêu. Thế giới hôm
nay càng ngày càng bị tục hóa, rất cần tới những con người như
thế, những con người thực sự có khả năng làm nhịp cầu giữa Thần
linh và trần thế.
Cha hết lòng ước mong các con
sẽ là nhịp cầu an toàn giữa Thiên Chúa và Dân Người.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
|
Phúc Âm: Mt 7, 21-27
Đã bao năm tôi xây nhà
trên cát
Tôi
nghĩ rằng cát vẫn vững cho tôi
Đến
một ngày mưa giông gió, cát trôi
Mái
bị tốc, những vách nhà xiêu đổ!
Tôi
ân hận vì lâm vào cảnh khổ
Tôi
hoang mang không biết phải làm sao?
Bên
tai tôi bỗng có tiếng thì thào:
“Muốn chắc chắn, con xây nhà trên đá!”
Lời
Chúa nhủ theo đường Thập tự giá
Là
xây nhà trên khối đá hoa cương
Lời
Phúc âm Chúa để sẵn làm giường
Tôi
học hỏi và tuân theo lời Chúa!
Yêu
thương người, những cảnh đời nhầy nhụa
Đói
cho ăn, người đau khổ ủi an
Giữ
công bình, bác ái, chẳng tham lam
Kính
mến Chúa cho hết lòng, hết trí!
Ngôi
nhà này kiên cố và kỳ vĩ
Chúa
đứng làm một viên đá góc tường
Gieo
hân hoan và Công Lý, Tình thương
Trong nhà ấy suốt đời tôi đứng vững!
Kính
lậy Chúa! Con cố công xây dựng
Một
ngôi nhà trên khối đá hoa cương
Xin
cho con biết chuyển tải Tình thương
của
Chúa đến muôn người, muôn thụ tạo!
1-6-2008
Xuân
Vũ TRẦN ĐÌNH NGỌC |
VỀ MỤC LỤC |
|
SỰ BẤT HẠNH CỦA CON SÒ |
Những
mẩu chuyện chiêm niệm
trong tác phẩm NHƯ LỜI CẦU KINH
Lm. ANTHONY DE MELLO
Nhà văn Hương Vĩnh chuyển ngữ
40.- SỰ BẤT HẠNH CỦA CON
SÒ
Một con sò thấy
một hạt ngọc trai long ra, rơi xuống khe đá dưới đáy biển. Sau khi
cố gắng hết sức nó tìm cách nhặt hạt ngọc trai lên và để ngay bên
cạnh, trên một chiếc lá.
Con sò biết
người ta tìm kiếm ngọc trai, nên nghĩ bụng: "Hạt ngọc trai này sẽ
quyến rũ họ nên họ sẽ nhặt hạt ngọc trai và để mình yên thân."
Tuy nhiên, khi
một người thợ lặn kiếm ngọc trai xuất hiện, đôi mắt ông ta quen nhìn
vào các con sò, chứ không phải hạt ngọc trai nằm trên các tàu lá.
Vì vậy, người đó
chỉ nắm lấy con sò dù không có hạt ngọc trai và để hạt ngọc trai
thật lăn xuống khe đá.
***
Bạn biết
thật chính xác bạn cần nhìn ở đâu.
Đó là lý
do tại sao bạn thất bại trong việc tìm gặp Thiên Chúa.
41.- NHẬN DIỆN MẸ MÌNH
Một người đàn bà
vào ngân hàng, đưa một tấm chi phiếu cho người thâu ngân để đổi sang
tiền mặt cho bà.
Theo đúng chính
sách của ngân hàng, người thâu ngân hỏi bà giấy tờ chứng minh.
Người đàn bà há
hốc miệng kinh ngạc. Cuối cùng, bà mới kiềm chế được để nói: "Nhưng,
Danh (Jonathan) ơi, mẹ là mẹ con mà!"
***
Nếu bạn
thấy chuyện này buồn cười,
làm thế
nào mà bạn đã thất bại
không nhận
ra Đấng Cứu Thế?
42.- CON CHÓ ĐI TRÊN MẶT
NƯỚC
Một người dẫn
con chó săn mới mua đi săn thử. Ngay sau đó, ông ta bắn hạ một con
vịt rơi xuống hồ. Con chó liền đi trên mặt nước, nhặt con vịt lên và
mang về cho chủ.
Ông ta rất đỗi
ngạc nhiên! Ổng bắn hạ một con vịt khác. Lại một lần nữa, trong khi
ông ta dụi mắt nghi ngờ thì con chó đi trên mặt nước và mang con vịt
về.
Điều ông đã thấy
thật khó tin, ông liền kêu người hàng xóm cùng đi săn vào ngày hôm
sau. Lại một lần nữa, mỗi khi ông ta hay người hàng xóm bắn trúng
một con chim, con chó đều đi trên mặt nước và mang con chim về. Ông
không nói năng gì. Bạn ông cũng thế. Cuối cùng, không thể nén lâu
được nữa, ông ta buột miệng nói ra: "Bạn có nhận thấy điều gì lạ
thường nơi con chó đó không?"
Người hàng xóm
dụi cằm, nghĩ ngợi và cuối cùng nói: "Ừ nhỉ, để tôi suy nghĩ một
tí… Tôi biết rồi! Cái con khốn nạn đó không biết lội!”
***
Không phải
là cuộc sống dường như không có nhiều chuyện lạ.
Nhiều hơn
thế nữa: cuộc sống đầy sự nhiệm lạ
và bất cứ
ai thôi xem thường nó thì sẽ nhận thấy tức khắc.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
ISRAEL LIỆU CÓ
THỂ SỐNG CÒN ĐƯỢC KHÔNG? |
Israel là một nước rất nhỏ so với
diện tích thế giới, nhưng nó lại là mục tiêu tấn công của rất
nhiều kẻ thù. Một vài nước lại công khai đe dọa sẽ quét sạch
Israel khỏi mặt địa cầu. Tuy còn non trẻ, mới tái lập quốc được
50 năm, nhưng Israel cho đến giờ vẫn tồn tại, có thể nói, một
cách rất oai hùng.
Chúng ta thử tìm hiểu xem Israel còn
sống được bao lâu nữa theo như những lời ghi chép trong Kinh
Thánh?
________________________
Adolf Hitler đã hoành hành phá hoại phần
lớn Âu Châu từ cuối thập niên 1930 cho đến 1945, nhưng khi thăm
dò ý kiến dân Âu Châu xem nước nào trên thế giới hiện nay bị đe
dọa hòa bình thế giới nhiều nhất thì có tới 60 % người trả lời
nói là Israel.
Hiện nay vẫn còn rất nhiều nước, ngay cả
những nước đã từng bị Đức Quốc Xã chiếm đóng phá hoại cũng từ
chối, không chấp nhận Israel là một quốc gia hợp pháp. Chúng ta
có thể tìm thấy bằng cớ rất dễ dàng trên báo chí, nơi hội nghị,
những lời tuyên bố kêu gọi hủy diệt Israel bởi những nước Ả Rập
thù nghịch của Do Thái.
Tổng Thống Mahmound Ahmadinejad của Iran có
lẽ là người lớn tiếng nhất chống đối Israel. Hãy nghe ông tuyên
bố: “Israel phải bị quét sạch khỏi bản đồ thế giới”
(2005). “Chế độ / chủ nghĩa Zion là chủ nghĩa đầu tiên cần
phải hủy giệt….Israel như một cây khô đã mục nát, chỉ cần một
cơn bão là bị tiêu tan” (2006). “Hoa Kỳ và chế độ Zion
của Israel chẳng bao lâu nữa sẽ phải chết” (2007), và “những
cường quyền trên thế giới đã tạo ra con vi trùng dơ dáy là cái
chế độ Zion này, nó đang bám vào những quốc gia ở trong vùng như
một con hoang thú” (2008).
ISRAEL CÓ THỂ TỒN TẠI
ĐƯỢC SAU TRẬN CHIẾN NGUYÊN TỬ KHÔNG?
Ngày 14-12-2001, trong một bài nói truyện,
ông Hashemi Rafsanjana, lúc đó còn là tổng thống Iran, một vị
lãnh đạo Hồi Giáo được coi là ôn hòa, cũng đã công khai đe dọa
tấn công Israel bằng nguyên tử: “ Nếu một ngày nào đó thế
giới Hồi Giáo có trang bị khí giới hạch nhân như Israel hiện có
bây giờ….thì chỉ cần một trái bom nguyên tử là có thể quét sạch
mọi sự ở Israel. Tuy nhiên nếu bị đánh trả thì thế giới Hồi giáo
sẽ chỉ bị tổn thương thôi, không thể bị tận diệt được”.
Suzanne Fields, một nhà báo Hoa Kỳ, đã tóm
ý của Rafsanjani như sau: “Nếu có một cuộc chiến nguyên tử
qua lại giữa Iran và Israel thì Iran chỉ mất 15 triệu người, số
người hy sinh này quá nhỏ đối với cả tỷ người Hồi Giáo trên khắp
thế giới để đánh đổi 5 triệu người Do Thái Israel”. (“Confronting
the New Anti-Semitism,” The Washington Times, July 25, 2004).
Nói cách khác, ông ta tin rằng hy sinh 15
triệu người Hồi Giáo là một điều rất xứng đáng để đánh đổi và
quét sạch 5 triệu người Do Thái ở Israel khỏi mặt địa cầu. Lúc
đó Hồi Giáo còn cả tỷ người trên khắp thế giới, nhưng Do Thái
chỉ còn ít người sống sót ở những quốc gia khác. Lúc đó không
còn nước Israel nữa.
Thật chỉ những kẻ có máu lạnh mới dám nghĩ
và lý luận tính toán như vậy. Mà đúng ra chỉ một mình Israel là
nước không thể chịu đựng nổi một loại chiến tranh hạch nhân như
thế. Cuộc chiến như vậy dĩ nhiên cũng làm tổn thương Iran, nhưng
thế giới Ả Rập không thể bị hủy diệt hoàn toàn được. Trái lại
Israel thì không thể sống sót / tồn tại được.
Nếu một cuộc chiến như vậy xẩy ra, chỉ về
mặt địa dư, thì giữa Iran và Israel đã có một bất cân xứng quá
lớn: 80 so với 1. Đây là một yếu tố rất quan trọng: Diện tích
Israel thì quá nhỏ và ngắn so với một diện địa rộng mênh mông
của các nước Ả Rập; tổng cộng lại thì diện tích các nước Ả Rập
lớn hơn Israel 650 lần.
Nói cho cùng ra chỉ cần một hoặc hai trái
bom nguyên tử là Israel trở thành bình địa, không một sinh vật
nào có thể sống sót, tất cả đều bị hủy diệt cho đến cả nhiều thế
hệ về sau. Thật là một thảm họa vô lương không thể nào tưởng
tượng được đã xẩy ra trên thế giới, đánh vào một quốc gia đã
đóng góp cho thế giới biết bao nhiêu là công sức về văn hóa,
khoa học, kỹ thuật và nhân bản !
Đó là một tư tưởng kinh tởm mong muốn một
thế giới không có Israel. Tuy nhiên đó chính là điều mà nhiều
người trong số những kẻ thù của Israel dòng dã trong suốt chiều
dài lịch sử đã cố công nhắm tới để đạt cho được. Chúng ta hãy
nghe bài ca kêu nài cầu khẩn lên Thiên Chúa của nhạc trưởng
Asaph của vua David được viết ra từ 3000 năm về trước:
“Lạy Thiên Chúa! Xin
đừng yên lặng nữa,
“Xin hãy ra tay,
đừng làm thinh nữa, lạy Chúa!
“Vì kìa kẻ thù Chúa
đang gào thét,
“Những kẻ ghét thù
Chúa đang hung hăng,
“Chúng âm mưu bàn kế
hại dân Người…”
Chúng nói:“Nào, hãy đến, hãy trừ diệt
dân tộc chúng đi
Để cái tên Israel
chẳng còn ai nhớ đến” (Ca Vịnh 83: 1-4)
Kinh Thánh quả đã diễn tả đúng mục tiêu và
tình trạng của thế giới ngày nay.
Chỉ ít câu như vậy cũng đủ diễn tả bản chất
hung hãn và tàn bạo của kẻ thù đang bày binh bố trận chống lại
Israel. Đối chiếu với lịch sử hiện tại đang xẩy ra, những ca
vịnh này cho thấy những quốc gia láng giềng đều là kẻ thù của
Israel: “ Chúng âm mưu bàn kế với nhau để hãm hại
Người” (câu 5).
Sau trận chiến ở kinh đào Suez năm 1956,
một Liên Hiệp Cộng Hòa Thống Nhất Ả Rập giữa Ai Cập và Syria đã
được thành lập, nhưng cũng không tồn tại được bao lâu. Hiện nay
thì lại có một Liên Hiệp những nước Hồi Giáo thù nghịch đang bao
vây chung quanh Israel?
Câu 6 và 7 trong ca vịnh 83 cho biết tên cũ
xa xưa của những dân tộc láng giềng của Israel. Rõ ràng là
Israel luôn luôn bị quấy phá, hãm hại bởi những quốc gia láng
giềng.
NHỮNG ÁP
LỰC ĐÈ LÊN ISRAEL
Quốc gia Israel đang ngày
đêm phải cố gắng bảo tồn sự hiện diện của mình trước những quấy
phá bởi những lực lượng thù nghịch Ả Rập dưới muôn hình vạn dạng
khủng bố và gần đây thì liên tục lãnh những trái rocket và đại
pháo bắn vào miền Nam, bây giờ lại bắn đến tận thành phố duyên
hải Ashkelon nằm giữa Gaza Strip và Tel Aviv.
Nhóm khủng bố Hamas hiện
nay đang kiểm soát Gaza thì dĩ nhiên phải chịu trách nhiệm về
những trận mưa rocket bắn vào Israel. Đây là một phong trào
kháng chiến Hồi Giáo được thành lập năm 1987, rất “nổi danh” về
ôm bom tự sát. Chủ trương của Hamas đã nêu rõ ràng là: “Không có
giải pháp cho vấn đề Palestine trừ phi nó được giải quyết bởi
thánh chiến / Jihad” và “Israel sẽ hiện diện và sẽ tiếp tục hiện
diện cho đến khi Hồi Giáo sẽ tận diệt nó”. Rõ ràng là Hamas đã
thề nguyện tiêu diệt Israel cho bằng được.
Sử gia Anh Martin Gilbert
đã tóm lược những khó khăn mà Israel gặp phải từ ngày tái lập
quốc: “Cộng đồng Israel đã và đang phải đối diện với đủ thứ áp
lực chồng chất đến từ mọi quốc gia, một thứ áp lực liên tục và
nặng nề về di dân; đã phải chịu đựng năm cuộc chiến tranh; những
pha tấn công bất ngờ và tàn ác của kẻ thù khủng bố, và gần đây
nhất lại có trò ôm bom tự sát; luôn luôn bị mặc cảm cô lập ám
ảnh và nỗi khốn khổ của một quốc gia nhỏ bé, mỗi thế hệ đều có
người thân yêu ra đi vì chiến tranh, chết vì khủng bố tấn công”.
“ Israel là quốc gia duy
nhất không phải là chỉ trong ba thập niên đầu từ khi lập quốc đã
bị bao vây bởi những kẻ tử thù, mà còn là một quốc gia, mặc dù
chiến thắng oai hùng trận chiến năm 1967, nhưng vẫn phải chia
đất cho những dân tộc khác, cho chính kẻ thù của mình” (Israel:
A History, 1999, p.xxi).
Israel còn là một quốc gia
mà người dân vẫn còn bị ám ảnh bởi những quá khứ kinh hoàng của
những lò sát sinh với sáu triệu người Do Thái đã bị giết thảm
bởi Đức Quốc Xã. Nhân dân Do Thái của quốc gia này vẫn ngày đêm
phải chứng kiến đồng bào mình cả nam lẫn nữ cũng như con cháu họ
chưa được diễm phúc nhìn ánh sáng mặt trời đã phải ra đi không
trở lại cùng với biết bao tài năng và nguồn lực có thể cống hiến
cho quốc gia đất nước họ trở thành phồn vinh, dân tộc họ giàu
sang hạnh phúc.
Đâu có phải tại lỗi của họ
mà họ cũng phải chịu cảnh kỳ thị ghét bỏ tàn ác cùng cực nhất
của thế kỷ 20 này. Sáu triệu cây (the “Forest of Martyrs / Rừng
Tử Đạo”) đã được trồng lại trên những ngọn đồi ở Judea để đặc
biệt tưởng nhớ đến những nạn nhân của trại tập trung và lò sát
sinh. Nhưng sự thù nghịch của Nazi Đức Quốc Xã (1933-1945) thời
đệ III đế quốc (Đức) lại được tiếp nối bởi khối Ả Rập và Hồi
Giáo thù hận cũng ác độc kinh hồn không kém.
Barbara Tuchman, một sử gia
Hoa Kỳ cận đại đã viết: “ Ả Rập là một dân tộc có vẻ duyên dáng,
hấp dẫn, tính tình thân thiện và lịch thiệp đối với khách lạ,
con người có tư cách lại có tính khôi hài. Nhưng đứng trước
vấn đề Israel thì họ lại tỏ ra hoàn toàn ngờ vực nghi
kỵ. Hình thể quốc gia Israel không thấy hiện diện trên những bản
đồ của dân Ả Rập” (Practicing History, 1981, p.128).
Israel đã và đang phải
đương đầu với nhiều cuộc chiến để sống còn với những quốc gia Ả
Rập ở chung quanh kể từ ngày lập quốc từ năm 1948 đến nay. Ngày
nay quốc gia nhỏ bé này vẫn còn phải thường xuyên chống đỡ những
cuộc khủng bố rất tàn nhẫn do phong trào Hez-bollah ở Lebanon
và Hamas ở Gaza.
Tuy nhiên Israel vẫn tiếp
tục sống mạnh và phát triển vượt bực.
NHỮNG
LỢI ĐIỂM CỦA ISRAEL
Bàn về Israel thì không nên
chỉ có nói một phía. Barbara Tuchman đã nhận xét về lịch sử
Israel như sau: “Vì hàng ngày phải gánh chịu biết bao nhiêu là
bất ổn xáo trộn, Israel đã quyết tâm muôn người như một luôn
luôn tâm niệm điều duy nhất là SỐNG CÒN. Họ luôn luôn bị
truy nã theo đuổi mặc dù bị lưu đầy khắp bốn phương trời, nhưng
vẫn quyết tâm mong ngày trở về xum họp làm thành một quốc gia
độc lập góp mặt với thế giới, trên cùng một mảnh đất quê hương
của cha ông từ ngàn xưa, với cùng một danh xưng (mặc dù tên
Judah không còn được chính xác cho lắm), với cùng một tôn giáo,
cùng một ngôn ngữ mà họ đã có từ ba ngàn năm trước.
“Họ đã ý thức quyết tâm phải hoàn thành
mệnh sử. Họ biết rằng bây giờ là lúc không thể lẩn trốn mà phải
chịu đựng” (p.134) It is conscious of fulfilling destiny. It
knows it must not go under now, that it must endure. Thực
vậy, Thiên Chúa đã có một mục đích rất vĩ đại về một tân quốc
gia Israel là để hoàn thành / ứng nghiệm lời tiên tri trong Kinh
Thánh về những ngày tận cùng của thế giới.
Martin Gilbert đã nhận xét: “Mặc dù phải
đối diện với quá nhiều bất trắc và xáo trộn, Israel vẫn quyết
tâm giữ vững ý chí là phải thành công và hưng thịnh để bảo tồn
cuộc sống hàng ngày hùng tráng và đầy đủ, để đánh tan những chỉ
trích nhận xét đến từ cả bên ngoài lẫn bên trong cho rằng những
khó khăn đó là không thể giải quyết được” (tr. xiii).
Chính quyền Hoa Kỳ vẫn luôn luôn yểm trợ
Israel trong suốt 60 năm lịch sử lập quốc. Nguyên Bộ Trưởng Giáo
Dục Hoa Kỳ William Benett đã viết: “Chúng ta ủng hộ Israel bởi
vì Israel là ngọn hải đăng của Tự Do và Hy Vọng cho thế giới nói
chung, và còn có một ý nghĩa rất quan trọng đối với Trung
Đông…..Israel đã giữ vững niềm tin và lời hứa khi lập quốc vào
năm 1948, một lịch sử lập quốc giống Hoa Kỳ hơn bất cứ một quốc
gia nào khác trên thế giới” ( “Why I Stand With Israel”, Alan
Dershowitz, editor, What Israel Means to Me, 2006, tr. 39).
Thủ Tướng đầu tiên của Israel khi mới lập
quốc là David Ben-Gurion (1886-1973) đã gọi dân Israel là “dân
tộc đầy tài năng”. Nhưng thế nào là Tài Năng? Shulamit Aloni,
phát ngôn viên về nhân quyền của Israel, cựu nghị sĩ Israel
(Knesset) đã nói về cái Tài Năng đó như là một kho tàng về Luân
Lý, Kiến thức, Văn hóa, Nghệ thuật, Khoa hoc, Văn chương, Cởi
mở, Lắng nghe và Kính trọng tất cả mọi người nam cũng như nữ, cả
trẻ nít là những con người được sinh ra tự do và được cấu tạo
giống như hình ảnh của Thiên Chúa” (tr. 23).
NHỮNG KHÓ KHĂN TRỞ NGẠI
CỦA ISRAEL VỀ ĐỊA DƯ
Bennett đã đưa ra một khẳng định có giá trị
và khá chính xác “Chúng ta không thể không để ý đến vấn đề là
nếu Israel thua cuộc chiến khủng bố thì Israel sẽ không thể tồn
tại đươc” (tr.41).
Tuy nhiên không phải tất cả mọi kẻ thù đều
là những tên chuyên môn rình rập tấn công bất ngờ bằng quân sự.
Chỉ có vấn đề đất đai, vị trí và kích thước của Israel là tối ư
quan trọng mà các nhà lãnh đạo Israel đang ưu tư rất nhiều. Cả
về cái căn tính Do Thái cũng bị đe dọa ở ngay trong chính quốc
gia họ.
Israel Harel, sáng lập viên Hội Đồng của
Cộng Đồng Do Thái ở Judea cũng đã viết trên tờ Ha’aretz, một
tuần báo tiếng Do Thái rất đông độc giả nói về sự đe dọa đó:
“….Ở chính trong nội địa Israel cũng có một đám thiểu số khá
đông là dân Ả Rập, chừng 20% tổng số dân số, khoảng 30% những
người chỉ học tới lớp 1 tiểu học, cũng thù ghét giống Do Thái,
và đôi khi thù ghét ngay cả chính sự hiện hữu của Israel là quốc
gia của người Do Thái. Đám thiểu số này vẫn nhận mình là một
phần của dân tộc Palestine. Đa số dân Ả Rập hiện sinh sống
tại Israel vẫn xác nhận mình là giống Ả Rập, cùng với dân tộc
của họ đang chiến đấu một cuộc chiến khủng bố tàn bạo không hạn
chế chống lại Israel” (“The Image and Significance of
Contemporary Zionism,” Jewish Quarterly, Winter
2007, tr. 52).
David Ben-Gurion, một nhà ái quốc có lẽ vĩ
đại nhất của Israel hiện đại cũng nhấn mạnh đến cái căn tính Do
Thái ở trên phần đất tổ. Ông đã nói tại buổi họp của quốc hội
đảng Do Thái Zionism lần thứ XX ở Zurich, Thụy Sỹ năm 1937 là:
“ Không một người Do Thái nào có quyền chịu thua bỏ cuộc việc
thành lập một quốc gia Do Thái trên phần đất tổ của mình. Không
một cá nhân, một đoàn thể Do Thái nào, ngay cả toàn thể dân tộc
Do Thái hiện đang sống còn này cũng không có quyền nhân nhượng
bất cứ một phần đất nhỏ nào của đất tổ” (trích bởi Harel,
tr.56).
Tuy nhiên Mortimer Zuckerman, chủ bút báo
US News and World Report đã cho ta biết “Chính Yasser Arafat đã
tuyên bố rằng tất cả phần đất Palestine trong đó gồm tất cả
đất đai hiện Israel đang nắm giữ đều là ‘đất thánh’, tức là
gia sản của Hồi Giáo bất khả phân chia và không thể vất bỏ đí
được” (“Denial and Hope in the Mideast,” Oct.8,2007).
Vậy thì liệu chúng ta có thể nắm được hết ý
nghĩa của những sự tranh chấp đất đai này cùng với những hậu quả
có tính cách quyết định về lịch sử ở hiện tại và tương lai
không?
Nhà báo Melanie Phillips ở Luân Đôn đã viết
như sau: “Trước thời kỳ xẩy ra vụ lò sát sinh, thế giới đã quyết
định là dân Do Thái phải trở về quê cha đất tổ của mình ở
Palestine -gồm phần đất bây giờ thuộc Israel, Jordan,
West Bank và Gaza- bởi vì chủ quyền của họ trên những phần đất
này đã quá rõ ràng. Điều đó không phải chỉ dựa vào những lời
hứa đã ghi trong kinh thánh, mà vì nó đã là quốc gia của người
Do Thái cả hàng trăm năm rồi, nhiều thế kỷ trước khi có sự
hiện diện của Hồi Giáo” (The Jewish Chronicle, Nov.11,
2007).
Nhưng nhiều nhà quan sát Âu Châu lại muốn
quốc gia Israel vứt bỏ cái căn tính Do Thái của mình đi. Chẳng
hạn, theo như bà Melanie Phillips thì “Đa số dân chúng Anh không
còn tin rằng dân Do Thái có quyền đòi lại phần đất đó”. Theo cái
nhìn của bà thì những ai còn tin tưởng như vậy thì “cần phải
điều chỉnh lại” (ibid).
Nhưng người ta tự hỏi dù đã phải nhượng một
phần đất quê hương như vậy, liệu Israel có thể có được một nền
hòa bình thực sự với những nước láng giềng hay không?
NHƯỜNG ĐẤT VÌ HÒA BÌNH
Những nhà lập quốc đầu tiên của Israel như
David Ben-Gurion và Levi Eshkol tất cả đều bắt đầu từ quan niệm
đó. Một nhà tân trí thức Israel đã đưa ra tư tưởng là phải
chứng tỏ cam kết ước muốn làm bất cứ điều gì cần thiết để kiến
tạo hòa bình. Nhường đất vì Hòa Bình đã trở thành
một khẩu hiệu mới. Từ bỏ Gaza xem ra là một ý tưởng rất hay.
Nhưng khi một chính thể được thiết lập gọi là dân chủ ở Gaza thì
đồng thời lại đẻ ra phong trào kháng chiến Hamas, và bắt đầu từ
đó liên tục mưa pháo rockets vào dân Israel ở vùng biên giới
phía Nam của Israel.
Yossi Klein Halevi, một hội viên kỳ cựu của
trung tâm Shalem ở Jerusalem đã viết trên tờ Los Angeles Times
rằng phong trào (Intifada 1987-19920) Palestine Ả Rập ở Gaza,
West Bank nổi lên phản đối Israel chiếm đất của họ đã khiến “một
khối dân Israel cảm thấy mình đã làm quá đáng nên sẵn sàng chấp
nhận bất cứ nguy hiểm nào miễn là có được hòa bình”. Việc này
dẫn đến tình trạng là “đa số dân Israel nghĩ đến chuyện nhượng
bộ mà trước kia không bao giờ có ai dám nghĩ đến là rút lui ra
khỏi West Bank và Gaza đồng thời còn muốn phân chia cả Jerusalem
nữa” (“The End of the Guilty Israelis”, March 2, 2008).
Thế là vào cuối năm 2005 Israel rút lui ra
khỏi Gaza Strip đã chiếm được từ tay Ai Cập trong trận chiến 6
ngày năm 1967 và trao trả cho chính quyền Palestine. Nhưng vài
tháng sau đó, phong trào kháng chiến Hamas đã bất ngờ thắng
trong cuộc bầu cử để rồi bắt đầu một cuộc nội chiến chống lại
quân đội trước kia của phong trào giải phóng Palestine Fatah. Từ
đó những tỉnh ở phía Nam Israel gần đấy thường xuyên cứ bị pháo
kích từ phần đất mà Israel đã nhường trả lại cho Palestine.
Halevi mô tả Hamas là một nhóm khủng bố mà
chủ trương là kêu gọi tiêu diệt Israel và chiến đấu chống lại Do
Thái trên khắp thế giới, và những màn tấn công khủng bố chỉ
là những tác động nhỏ trong bước đầu tham vọng diệt chủng của họ
mà thôi…Gaza đã là trường hợp trắc nghiệm về cuộc lùi bước
của Israel, nhưng thử nghiệm đó đã mang lại một tai họa cho
Israel”.
Halevi cũng đưa ra nhận xét, “Nếu như dân
Gaza khi nhận được mảnh đất mới đã tự trị, tỏ ra có thiện chí
xây dựng hòa bình thì chắc chắn công luận Israel cũng sẵn sàng
yểm trợ những đàm phán cụ thể về việc rút lui khỏi West Bank”.
Nhưng khi trao trả Gaza thì lại được đáp ứng bằng những đạn lửa
từ đó nhả ra thì việc trao trả West Bank xem ra không còn là “củ
cà rốt” có hiệu quả trong việc tìm kiếm một nền hòa bình lâu dài
giữa hai dân tộc Israel và Palestine nữa.
Cũng phải nhận thức rằng “từ thời đại Kinh
Thánh cho đến năm 1948, West Bank gồm có thị trấn Jerusalem cũ
(trong đó có Bức Tường ở Hướng Tây) và Hebron (ở đó có mộ của
các tổ phụ kinh thánh cả nam lẫn nữ) đã là một phần lãnh thổ của
Israel” (Gush Emunim, “West Bank Versus Judea and Samaria,”
Jewish Literacy, 2001, p.343).
Xem vậy đủ biết Israel Do Thái đã làm chủ
biết bao nhiêu là đất đai. Họ đã nhận ra rằng West Bank một khi
đã nằm trong tay dân Palestine thì rất có thể sẽ trở thành bàn
đạp, căn cứ địa để phóng hỏa tiễn tấn công vào thị trấn
Jerusalem và những vùng phụ cận.
NHẬN ĐỊNH CỦA THỦ TƯỚNG
ANH TONY BLAIR
Mùa hè vừa qua, “Ủy Ban Hỗn Hợp 4 Bên” gồm
Liên Hiệp Âu Châu, Liên Hiệp Quốc, Hoa Kỳ và Nga Sô đã chỉ định
nguyên thủ tướng Anh Tony Blair làm đặc sứ ở Trung Đông. Ông
Blair đã phải mất rất nhiều thời giờ nghiên cứu vấn đề tại chỗ
mới có thể hiểu được những khó khăn trắc trở và bất trị ở trong
vùng một cách tường tận và sâu xa hơn.
Ông nói: “Bây giờ thì tôi hiểu rõ những khó
khăn ở đây nhiều hơn là khi tôi còn làm thủ tướng. Vì cơn ác
mộng kinh hoàng mà Israel đã phải chịu sau khi rút khỏi Gaza,
tôi rất ngần ngại đề nghị nhường West Bank cho Palestine”.
Công thức “Nhường-Đất-Vì-Hòa-Bình”
dùng làm căn bản cho những cuộc đàm phán hòa bình giữa Israel và
Ả Rập đã cho thấy là thất bại qua vụ Gaza. Bây giờ thì ông Blair
đã nhận thấy rằng yếu tố quyết định để có hòa bình là ở cái “đặc
tính của phần đất dành cho dân Palestine…….Sẽ không có được đặc
tính đó nếu phần đất đó không có một chính phủ để quản trị và
điều hành…..Và nếu có ai nói với anh khác đi là họ đã phỉnh gạt
anh rồi đấy” (trích bởi Mortimer Zuckerman, “The Elusive
Mid-East Peace, U.S. News and World Repart, Jan.17, 2008).
Một thủ tướng, nhất là thủ tướng nước Anh
khi nhận định về thế giới Ả Rập mà tuyên bố như vậy thì thật quả
là rất quan trọng.
ĐE DỌA TRẦM TRỌNG NHẤT
ĐỐI VỚI ISRAEL
Trong số những đe dọa hiện có do tổ chức
kháng chiến Hamas ở Gaza, Hezbollah ở Lebanon, dân Palestine và
cả Syria nữa thì đâu là mối lo ngại nhất đối với chính quyền
Israel?
Điều nguy hiểm nhất là Iran cương quyết chế
tạo khí giới nguyên tử và quyết tâm quét sạch Israel khỏi bản đồ
thế giới. Vào giữa tháng 2 vừa qua, thủ tướng Israel Ehud Olmert
đã gặp thủ tướng Đức Angela Merkel tại Berlin để đàm luận song
phương về chuyện nguyên tử của Iran. Theo tờ International
Herald Tribune thì ông Olmert đã nói là “Iran vẫn còn đang
tìm cách chế tạo khí giới hạch nhân và ông đã kêu gọi thế
giới hãy ngăn chặn Teheran đừng để họ tiếp tục chế tạo khí
giới nguyên tử nữa”. Ông còn cho hay: “Israel ‘biết chắc’
rằng dân Iran đã đang ‘lén lút’ chuẩn bị chương trình sản xuất
năng lượng nguyên tử ‘rất quan trọng’”(Feb.13, 2008).
Điều đó có vẻ phù hợp với bản tin do cơ
quan tình báo Mỹ đã đưa ra nhiều tháng trước đây: “Chúng tôi
tiên đoán khá chính xác là vào mùa thu 2003, Teheran đã gấp
rút hoàn thành chương trình chế tạo khí giới hạch nhân”.
Nhưng báo chí lại tỏ ra nghi ngờ về những bản tin như
vậy.
Mới đây Hội Đồng An Ninh LHQ đã thông qua
một quyết định phản đối Iran về việc chế tạo võ khí nguyên tử
với số phiếu 14-0, nhưng đối với những nhà quan sát chuyên
nghiệp và kinh nghiệm thì đó chỉ là một loại nhắc nhở / khiển
trách nhẹ mà thôi.
Theo báo The Wall Street Journal thì:
“Trong khi đó, Iran vẫn coi thường khuyến cáo của Hội Đồng An
Ninh LHQ là phải ngưng chương trình phát triển Uranium. Nên nhớ
là sản xuất đủ số lượng chất liệu uranium là một trong ba yếu tố
chính và cần thiết của bất cứ một chương trình chế tạo khí giới
nguyên tử nào. Ba yếu tố này đã được ghi ở phần chú thích ở cuối
bài nhận định của Cơ quan An Ninh quốc gia Hoa Kỳ (NIE) vào
tháng 12 và nói rằng Iran đã ngưng chương trình làm võ khí
nguyên tử vào mùa Thu năm 2003 rồi.
“Bản nhận định của Cơ quan An Ninh quốc gia
Hoa Kỳ cũng không đả động gì đến yếu tố thứ hai của chương trình
chế tạo khí giới nguyên tử của Iran là chương trình phóng hỏa
tiễn. Thay vào đó lại nói là Iran đã ngưng công tác nghiên cứu
khí giới trên không weaponization mà theo các chuyên viên thì
đây là phần ít quan trọng nhất trong chương trình chế tạo võ khí
nguyên tử”.(“Irresolution on Iran,” March 10, 2008).
Mặc dù tờ Nwesweek trong phần quan điểm cho
rằng Chủ nghĩa Phát xít Hồi Giáo không còn là mối đe dọa nguy
hiểm nữa, nhưng lại trích dẫn lời Tổng Thống Bush nói là: “Chính
quyền Iran đang cố gắng tiêu diệt Israel”. Đồng thời cũng
nhắc lại việc ông Tony Blair “so sánh Iran với sức mạnh Phát
Xít ở thập niên 1930”. (Newsweek-Nov.19, 2007).
Dĩ nhiên đe dọa của Iran đối với Israel sẽ
nặng nề hơn là Hoa Kỳ và Anh Quốc, bởi vì Iran ở gần Israel hơn
và vì Israel chính là đất hứa như đã nói trong Kinh Thánh.
CHIẾN TRANH SAU CÙNG
ĐANG SẮP SỬA TỚI SẼ GHÊ GỚM HƠN NHIỀU
Dĩ nhiên chúng ta cũng phải để ý đến những
lời trong kinh thánh để có một cái nhìn phổ quát về Israel. Thực
vậy, ta không thể bàn về lãnh thổ của Israel mà không để ý đến
lời Chúa phán. Ngay cả những người Do Thái không tin Chúa cũng
phải dựa vào Kinh Thánh để có những đòi hỏi lịch sử và địa dư.
Cả Kinh Thánh lẫn lịch sử trần thế đều cho
biết lãnh thổ Israel, đặc biệt là Jerusalem là một trong những
địa danh có nhiều tranh chấp nhất trên thế giới. Lịch sử cho
thấy chính Jerusalem đã bị quân đội xâm lăng tấn công hơn 20
lần. Nhưng không một cuộc xâm lăng nào đã thành công kể từ khi
quốc gia Israel được thiết lập năm 1948.
Kinh Thánh đã nói rõ ràng là lời tiên tri
về ngày tận thế sẽ ứng nghiệm khi dân Do Thái trở về tụ họp đầy
đủ trên quê hương đất tổ của họ.
Sách Zechariah cho biết Jerusalem sẽ là
trung tâm tranh chấp của thế giới ngay trước khi Chúa Kitô giáng
lâm trở lại lần thứ hai: “Đây, ngày Chúa đến, và thiên hạ sẽ
chia nhau chiến lợi phẩm ở trong ngươi. Bởi vì Ta sẽ tụ tập
tất cả các quốc gia lại để chiến đấu chống lại Jerusalem” (Zechariah
14: 1-2).
Những biến cố tiên tri này sẽ không thể xẩy
ra nếu chi họ / quốc gia Judah (bây giờ được gọi là Israel)
không được tái thiết lập trở lại cách phi thường trên Đất Thánh
đúng trước ngày Chúa Kitô đến cùng với những căng thẳng và xáo
trộn trên khắp thế giới. Vậy phải chăng khi quốc gia Israel được
tái tạo và hiện diện thì thế giới sẽ tràn ngập xáo trộn và điêu
linh? Và ngày đó cũng là ngày Chúa đến?
Jerusalem sẽ một lần nữa chứng kiến những
cảnh bạo động, xáo trộn kinh hoàng. Đọc tiếp câu 2 trong đoạn 14
Zachariah sẽ thấy: “ Thành sẽ bị chiếm, nhà phố sẽ bị cướp, đàn
bà sẽ bị hãm hiếp. Nửa thành sẽ bị bắt mang đi làm tù binh,
nhưng một nửa dân còn lại thì không bị bắt mang đi”.
Vậy ngay cả sau khi Israel tụ tập thành phố
lại hồi chiến tranh 1967, lời tiên tri trong Kinh Thánh cũng cho
chúng ta biết là Jerusalem sẽ lại một lần nữa lâm cảnh chiến
tranh khói lửa và phân chia. Miền đất này của thế giới được chỉ
định làm trung tâm điểm của các biến cố sẽ xẩy ra vào những ngày
cuối cùng của thời đại này –Thời của Amageddon và Chúa Kitô
giáng lâm trở lại lần thứ hai.
Chúa Giêsu Kitô sẽ thực sự trực tiếp can
thiệp vào cảnh điêu linh này: “Bấy giờ Chúa sẽ xuất hiện và
chiến đấu chống lại những quốc gia này….Và trong ngày đó Người
sẽ đứng trên núi Cây Dầu mặt quay về Jerusalem ở hướng đông…. Và
Chúa là Thiên Chúa của tôi sẽ đến cùng với tất cả các thánh”
(câu 3-5).
Sách Zechariah 14:12 và sách Khải Huyền 19:
17-18,21 đều mô tả ngày tận cùng của các đạo binh đang tụ tập
chung quanh Jerusalem để chiến đấu chống lại đấng Thiên Sai là
Đức Kitô lúc Người giáng lâm trở lại lần II. Điều này chứng tỏ
rõ ràng là Chúa Kito đã can thiệp không phải chỉ để cứu một mình
dân Israel, mà còn cứu toàn thể nhân loại khỏi bị diệt vong.
JERUSALEM SẼ LÀ THỦ ĐÔ
TƯƠNG LAI CỦA TOÀN THẾ GIỚI
Còn có những lời tiên tri khác cho chúng ta
biết là Jerusalem sẽ trở thành trung tâm Hòa Bình của thế giới,
của tất cả mọi quốc gia trên mặt đất này. Zechariah còn thêm:
“Vậy Chúa nói: ‘Ta sẽ trở lại Zion (ám chỉ Chúa Kitô giáng lâm
lần II) và sẽ ngự trị ở giữa Jerusalem. Jerusalem sẽ được gọi là
‘Thành Tín Nghĩa’, Núi của Chúa các cơ binh sẽ được gọi là ‘Núi
Thánh’” (Zechariah 8: 3. Có thể coi Jeremiah 3: 17).
Hồi xa xưa Thiên Chúa đã hứa: “Những ngày
đó chắc chắn sẽ đến, Chúa nói, Ta sẽ làm cho David đâm chồi nảy
lộc (ám chỉ đấng Thiên Sai là Đức Kitô) và Người sẽ ngự trị
xứng đáng là vua khôn ngoan, Người sẽ thực thi công lý và công
bình” (Jeremiah 23: 5).
Tất cả mọi quốc gia trên thế giới, dù xa
xôi hẻo lánh đến đâu cũng sẽ gửi đại diện đến Jerusalem để học
hỏi đường lối của Thiên Chúa rồi đem về xứ sở mình thông báo cho
toàn dân. Isaiah nói: “Sẽ xẩy ra vào những ngày sau này, núi nhà
Thiên Chúa sẽ được thiết lập vững bền trên các đỉnh đầu núi non
và sẽ được nâng lên cao hơn các đỉnh đồi; tất cả mọi quốc gia sẽ
đổ về với Người” (Isaiah 2: 2).
Chữ “núi” và “đồi” theo nghĩa tiên tri là
ám chỉ các chính phủ và quốc gia. Ở đây có nghĩa là chính phủ
của Chúa Giêsu Kitô được thiết lập tại Jerusalem và sẽ cai trị
toàn thể thế giới.
Isaiah tiếp tục mô tả một thế giới được
biến đổi nhờ hiểu biết về cách sống của Thiên Chúa: “Rất nhiều
dân tộc sẽ đến và nói ‘Nào, ta hãy lên núi của Chúa, nhà của
Thiên Chúa Jacob; Người sẽ dạy ta đường lối của Người và chúng
ta sẽ bước đi theo đường lối của Người’. Vì thánh chỉ được ban
ra từ Zion và lời Chúa được phán ra từ Jerusalem” (Isaiah 2: 3).
Dưới triều đại của Đức Kitô, hoàng đế của
hòa bình, mọi chinh chiến, võ khí, ngay cả những trung tâm huấn
luyện quân sự cũng bị hủy bỏ (câu 4) Hòa Bình Công Lý đến từ
Jerusalem sẽ ngự trị trên khắp thế giới cùng với mọi dân tộc.
Buồn thay, những lời tiên tri này đã chẳng
được ai để ý đến. Nơi miền đất thánh này vẫn còn đầy dẫy bạo
động, tha hóa, tham nhũng, độc tài, sát máu và khủng bố…Tuy
nhiên những lời tiên tri được nói trước cả hàng ngàn năm đã cho
thấy sẽ có một hòa bình an vui tràn lan trên Jerusalem. Chúa cơ
binh phán: “…..sẽ có những ông già bà lão ngồi trên hè phố
Jerusalem, tay cầm gậy vì tuổi hạc cao. Có cả con trẻ trai gái
vui đùa trên đường phố” (Zechariah 8: 4-5).
Kinh Thánh đã vẽ ra hình ảnh một tương lai
huy hoàng, cuộc sống an bình trên miền đất đầy xáo trộn và tranh
chấp dai dẳng triền miên này này. Tất cả cuối cùng sẽ được an
toàn, thoát khỏi mọi hiểm nguy khi Chúa Kitô quang lâm trở lại
thống trị thế giới. Jeremiah hứa: “Vào thời của Người, Judah
sẽ được cứu thoát và Israel sẽ được yên ổn, an cư lạc nghiệp”
(Jeremiah 23: 6).
Ước mong Chúa ban ngày ấy mau đến!
Pace Islands, Florida 31-5-2008
NTC
P
H Ụ C H Ú:
1- PHÂN BIỆT GIỮA NGƯỜI
DO THÁI VÀ NGƯỜI ISRAEL.
Ngày nay hầu như hết mọi người đều đồng hóa
cái tên Israel với tên Do Thái, Jews. Đa số cho rằng Do Thái hay
Israel cũng chỉ là một. Đó là một sai lầm.
Về kỹ thuật thì người Do Thái là con cháu
của hai chi họ Israel là Judah và Benjamin cộng với một phần
đáng kể thứ ba là chi họ tư tế Levi.
Còn 10 chi họ khác trong dòng họ Israel
nhưng không được nhiều người biết tới nên chẳng bao giờ được gọi
là Do Thái. Về phương diện lịch sử và chính trị, các chi họ ở
phương Bắc này đã tách biệt ra khỏi các chi họ ở Phương Nam tức
người Do Thái. Những người anh em của chi họ phương Bắc di
chuyển về phương Nam và lập thành vương quốc Judah, từ đó mới có
cái tên Do Thái / Jews.
Liên minh các chi họ phương Bắc tức vương
quốc / nhà Israel đã trở thành một quốc gia độc lập, tách ra
khỏi nhà Judah vào lúc tên Jew / Do Thái xuất hiện trong Kinh
Thánh. Thực ra, khi mà tiếng Jews / Do thái xuất hiện lần đầu
tiên trong kinh thánh thì cũng là lúc Israel có chiến tranh với
Do Thái (2Kings 16: 5-6.
Vậy thì tất cả những người Israel có phải
là Do Thái không? Thưa, không phải. Do Thái –những công dân và
con cháu của vương quốc Judah- thực sự cũng là người Israel,
nhưng không phải tất cả những người Israel đều là Do Thái. Bởi
vì tất cả 12 chi họ, trong đó có Do Thái, đều là con cháu của tổ
phụ Israel là Jacob, nên chúng ta có thể dùng tên Israel cho tất
cả các chi họ. Tuy nhiên, tên Do Thái / Jew chỉ chính xác đối
với nhưng người đã chiếm cứ phương Nam lập thành vương quốc
Judah và các con cháu của họ.
Chẳng may, ngày nay những người Do Thái
hiện sinh sống tại tân quốc gia Israel bây giờ lại thường được
gọi là dân Israel.
2- CHỦ NGHĨA CHỐNG DO
THÁI
BÂY GIỜ
QUAY RA CHỐNG QUỐC GIA ISRAEL
Thày cả chính Rabbi của Anh
quốc Sir Jonathan Sacks mới đây báo động thế giới là hiện nay có
một phong trào chống Do Thái kiểu mới. Trong một bài thuyết
trình ở Luân Đôn, ông đã tuyên bố: “Những người chống Do Thái
hiện đang tấn công cả tôn giáo lẫn dân tộc chúng ta.
Bây giờ họ quay ra chống quốc gia Do Thái”.
Nói một cách khác, đây là một biến thái của
một căn bệnh tinh thần rất ác độc đang sống lại để phá rối nhân
loại. Ông Sacks diễn nghĩa như sau: “Không giống như những
người trước, những tên kỳ thị, chống Do Thái kiểu mới đang nhắm
vào không phải là Do Thái giáo với tính cách tôn giáo, cũng
không phải nhắm vào người Do Thái như là một sắc dân, nhưng là
nhắm vào người Do Thái như là một quốc gia” (We Face a New Kind
of Hatred,” The Jewish Chronicle, Nov.16, 2007, p.30).
Một số người lại tin rằng dân Do Thái chỉ
là một nhóm chủng tộc không xứng đáng có một quốc gia cho riêng
họ. Nhắc lại lời của Amos Oz, một sử gia Israel, Sacks viết:
“Vào thập niên 1930, những người chống Do Thái tuyên bố ‘Do Thái
hãy trở về Palestine’. Ngày nay thì họ gào thét ‘Do Thái hãy cút
ra khỏi Palestine’….Họ không muốn chúng tôi ở đó, họ không muốn
chúng tôi ở đây; họ không muốn có chúng tôi” (ibid).
Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh
|
VỀ MỤC LỤC |
|
CỔ VÕ SỰ TỰ LẬP (1) |
Người Việt chúng ta có câu” Con
hư tại mẹ, cháu hư tại bà”. Các bà mẹ Việt Nam quá cưng con cháu
mình. Các bà hay chìu theo ý con cháu, làm hết mọi sự cho chúng, để
rồi khi lớn lên, chúng hoàn toàn hư thân, không biết làm một chuyện
gì nên thân. Hãy nhớ rằng: “Đừng bao giờ làm cho một đứa trẻ điều mà
tự nó có thể làm cho nó!” Phương châm nầy rất là quan trọng đến nỗi
nó cần được lập đi lập lại nhiều lần.
Cô bé Mỹ Lệ 5 tuổi là niềm tự hào
của mẹ nó. Cô bé xinh đẹp tuyệt vời và mẹ nó cho nó ăn mặïc rất xinh
xắn. Mỗi ngày bà tắm rửa, mặc quần áo, cột giày, chải tóc, và cột
tóc cho nó. Cô bé trông như một con búp bê, xinh đẹp, nhí nhảnh, dễ
thương, và hồn nhiên. Cô bé không biết cài nút, chưa biết mang tất,
mặc áo chưa biết phía nào là trước phía nào là sau, cũng như chưa
biết chiếc giày nào là bên chân mặt, chiếc giày nào là phía chân
trái.
Một đêm kia, trong cuộc họp nhóm
của các bà mẹ, có người nêu lên điểm nầy: “Chúng ta không nên làm
cho đứa trẻ điều mà tự nó có thể làm được.” Nghe thế, mẹ của Mỹ Lệ
xem ra khó chịu. “Tôi muốn làm mọi sự cho đứa con tôi. Tôi chỉ muốn
lo lắng cho nó. Nó là vinh dự của tôi,” bà nghĩ thế.
Nếu bà mẹ của Mỹ Lệ nhận thức ra
điều mà bà đang làm cho con bà, bà sẽ bị khủng hoảng. Thật vậy, tình
yêu mà bà dành cho con bà là yêu mình. Bà thấy bà như một người mẹ
mà đời sống bà hoàn toàn tận hiến cho sự lo lắng cho đứa con. Nhưng
thật ra không phải thế, bé Mỹ Lệ đang được huấn luyện để trở thành
một đứa bé vô dụng, lệ thuộc, thiếu tự tin, và vô tích sự. Cô bé có
thể cảm thấy rằng nó chỉ có một chỗ đứng khi mình được chú ý và mọi
sự được làm để phục vụ mình. Nên nó rất ít đóng góp bằng việc hành
động. Tất cả đều do má nó cống hiến, và đó cũng là ý muốn của nó. Nó
hoàn toàn thụ động.
Chỉ còn một năm nữa thì cô bé
phải đi học. Bấy giờ mẹ nó không ở đó để làm mọi sự cho nó và cô bé
sẽ phải chiến đấu. Sự can đảm có thể bị xóa mòn và sự vô dụng có thể
sẽ tăng thêm. Bấy giờ cô bé sẽ phải đối đầu với sự khủng hoảng mà nó
hoàn toàn không được chuẩn bị.
Khi chúng ta làm cho một đứa trẻ
điều mà nó có thể làm cho nó, chúng ta tỏ cho nó thấy rằng chúng ta
lớn hơn nó, như: tốt hơn, có khả năng hơn, khéo léo hơn, kinh nghiệm
hơn, và quan trọng hơn. Chúng ta tiếp tục tỏ sự trổi vượt hơn của
chúng ta và sự sút kém của nó. Bấy giờ chúng ta lại lấy làm ngạc
nhiên tại sao nó cảm thấy bất tài và thiếu sót.
Làm cho một đứa trẻ điều mà nó có
thể làm cho tự nó là cực kỳ thất sách vì tước đoạt nó khỏi cơ hội
chứng tỏ khả năng của nó. Điều đó cho thấy sự thiếu tin tưởng của
chúng ta vào khả năng, sự can đảm, và sự thích ứng của nó, lấy mất
đi cái cảm giác “tự cảm thấy an toàn” được căn cứ trên sự nhận thức
về khả năng riêng của nó để đối đầu và giải quyết những vấn đề rắc
rối, và không cho nó quyền phát triển cái cảm giác “tự cảm thấy đủ”,
để giữ mãi hình ảnh cũng như nhu cầu cần đến chúng ta. Như thế,
chúng ta tỏ cho thấy một sự thiếu kính trọng đối với đứa trẻ như là
một con người.
Bà mẹ, Bích Thủy 4 tuổi, và Bích
Vân 3 tuổi, đang mặc những bộ đồ để ra chơi tuyết. Đây là một niềm
vui thích cho các cô gái vì bà mẹ rất thích thú đắp những tượng bằng
tuyết với các con bà. Bích Thủy mặc toàn bộ gồm cả đôi giày tuyết,
không có vấn đề gì. Bích Vân kéo dài thời gian và tỏ vẻ không vừa
lòng. Cô bé chỉ đứng nhìn bộ quần áo tuyết của cô, không cố gắng mặc
vào. “Bích Vân, nào! Hãy mặc đồ đi.” Bà mẹ thúc đẩy trong khi buộc
chặt đôi giày tuyết của bà. Bích Vân ngậm ngón tay trong miệng và
không nhúc nhích. “Con ơi, tại sao lại cứ như vậy? Ngồi xuống và làm
như mẹ đã dạy. “Con không thể,” cô bé khóc thút thít. “Con mặc đi.
Thôi đến đây.” Bà mẹ không đủ kiên nhẫn nên mặc đồ cho cô bé trong
khi Bích Thủy nhìn thấy tất cả một cách thõa lòng.
Cô bé Bích Vân là đứa bé đã học
thấy rằng chính sự bất khả và vô tích sự mang lại sự chú ý và phục
vụ của bà mẹ, và cái khả năng của chị nó thêm vào sự thất vọng của
nó. Bích Thủy thích thú khi nhìn thấy cô bé vô dụng vì điều đó khiến
nó giữ vị thế ưu tú của nó được an toàn. Bà mẹ trong sự mất nhẫn nại
lại củng cố mục đích của cả hai. Bà mở lối cho sự lười biếng của cô
bé bằng cách làm cho nó điều mà tự nó có thể làm. Cô bé sẽ không có
cơ hội để phát triển sự tự lập bao lâu bà mẹ còn làm những điều như
thế cho cô bé.
Cô bé Bích Vân cần nhiều khích
lệ. Cô bé cần một quan niệm mới về chính nó và một phương pháp mới
để tìm ra chỗ đứng cho nó. Sự phục vụ mà má nó dành cho nó thật sự
không cần thiết. Có thể cần thời gian và sự kiên nhẫn để khuyến
khích nó. Vì bà mẹ đã dạy cho nó cách mặc bộ quần áo tuyết nên bà có
thể phớt lờ và coi như nó biết cách mặc. Bây giờ bà phải lùi bước để
cho cô bé có chỗ tự lo cho nó. Có thể là khôn ngoan hơn nếu để cho
nó có nhiều thời gian hơn để mặc quần áo của nó, bằng cách bảo nó
hãy bắt đầu sớm hơn và hãy khích lệ nó một cách kiên nhẫn, không vội
vàng. “Cưng ơi, con có thể làm được. Con là một đứa con gái đủ lớn
rồi.” Khi cô bé bảo rằng “Không thể”, bà mẹ chỉ cần nhấn mạnh rằng
“Con có thể làm được. Con cố gắng. Khi nào con làm xong, chạy ra đi
với mẹ.” Có thể là cô bé sẽ đóng kịch. Cô có thể khóc cách thảm
thương và không cố gắng thêm. Lần nầy, có thể cô bé không tham gia
với mẹ và Bích Thủy. Bà mẹ phải tránh cảm giác thương hại là cái làm
tăng thêm sự vô dụng của nó bằng cách trở vào để giúp nó mặc quần áo
và mang nó ra để cùng tham dự với bà và Bích thủy. Khi cô bé cảm
thấy rằng không có ai thương hại cho hoàn cảnh của nó, cô bé sẽ thay
đổi đầu óc và sẽ quyết định giải quyết vấn đề cho chính mình.
lm. le van
quang, tiến sĩ tâm lý
|
VỀ MỤC LỤC |
|
Cho đến cùng |
Tác phẩm: Cầu
Nguyện Cá Nhân: Bí quyết tình yêu và vui sống
Lm. Micae-Phaolô Trần
Minh Huy, pss.
Phần thứ ba:
Cẩm Nang Chỉ Đường
sáu
Cho đến cùng
Cầu nguyện cho đến cùng,
chính là yêu cho đến cùng. Bạn đã bước đi trên đường ánh sáng,
và cuối đường, Thiên Chúa đang chờ đợi bạn. Như một lữ hành
không mệt mỏi, bạn phải kiên trì cho đến cùng, nghĩa là cho đến
chết. Đừng bao giờ thôi nhìn vào mục tiêu vĩnh cửu và không
ngừng tìm sống một tình yêu ngày càng hoàn hảo, như thánh Phaolô
diễn tả trong bài ca ngợi bác ái của ngài (I Cor.13).
Tình yêu nhẫn nại
Những đức tính nào bạn
cần để đi cho đến cùng? Thưa hãy vất bỏ những gì làm bạn vướng
bận, rồi thay thế vào hành trang cái rất quan trọng, tiên quyết,
không thể thiếu nầy là Sự Nhẫn
Nại.
Nhiều người muốn thấy
mình đã đến đích, mà không chịu đi qua con đường dẫn đến đích.
Có những kẻ bắt đầu vào cuộc sống thiêng liêng quá nôn nóng,
muốn thấy mình ngày một ngày hai đã nên thánh thiện rồi! Thánh
Gioan Thánh Giá nói: “Trong số những kẻ ấy, một số đông vạch ra
những chương trình nên thánh lớn lao với những kế hoạch tuyệt
vời, nhưng vì thiếu khiêm tốn mà lại quá tự phụ, họ vấp ngã nặng
chẳng khác gì những bậc cao họ muốn trèo lên. Những người đó
không có lòng nhẫn nại chờ đợi thời giờ của Chúa, Đấng sẽ ban
cho họ nhân đức khi Ngài thấy là tốt.’’
Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng
Giêsu đã muốn đạt được vô địch thế giới về sự thánh thiện. Mẫu
gương anh hùng của cô bé là Jeanne d’Arc. Têrêxa đã mơ làm những
kỳ công cho Chúa và chết tử đạo, dường như có thể chinh phục
được sự thánh thiện bằng mũi gươm. Nhưng Ngài sớm hiểu được rằng
đó là lý tưởng sai lầm. Tuổi trẻ cần theo đuổi một mộng ước,
nhưng sớm muộn gì cũng phải khám phá ra những định luật của thực
tế. Tất cả chúng ta đều bắt đầu thử mở cửa Nước Trời bằng cách
cố hết sức đẩy, đẩy đến kiệt lực, trong khi những người biết lưu
tâm nhất khám phá thấy rằng một ngày kia cửa sẽ tự mở ra... khi
kéo nhẹ một cái. Ngay khi Têrêxa vượt qua được giai đoạn đó,
Ngài có thể làm một cuộc chạy vĩ đại tiến đến một hình thức
thánh thiện khôn tả.
Bạn cũng thế, bạn cũng
đã khởi đầu cuộc mạo hiểm tìm kiếm một sự thánh thiện mới mẻ: sự
thánh thiện của bạn. Bạn hãy trang bị cho mình sự nhẫn nại để
tiến hành một cuộc chạy có nền tảng. Hãy nhắm toàn thể cuộc sống
bạn, không phải chỉ trong một thời gian ngắn ngủi, mà là thời
gian dài lâu. Bạn hãy học cho biết bản thân đầy đủ để biết mỗi
ngày, cho đến khi bạn có thể đi thật xa... Sự quảng đại thôi
không đủ. Điều quan trọng là phải biết lượng sức để khỏi kiệt
lực: tạm thời chịu đựng bất toàn hơn là vội vượt lên sự thánh
thiện không đạt tới được. Tâm hồn cháy lửa tình yêu thì mềm mại,
dịu dàng, khiêm tốn và nhẫn nại. Như vậy rồi, bạn hãy tiến bước,
luôn luôn chạy tới trong cùng một hướng, không hề ngã lòng. Kẻ
nào không tiến tới là phải lùi lại.
Tình yêu là lưu tâm
Chờ đợi thời giờ của
Chúa là chân trời của tình yêu nhẫn nại. Thời giờ đó không phải
là duy nhất trong cuộc đời bạn. Nó tương hợp với mỗi giai đoạn
biến đổi mà Chúa cho thấy hoạt động của Ngài. Bây giờ tôi muốn
nói đến giai đoạn bạn có quyền ước ao và chuẩn bị: đi từ cầu
nguyện đến chiêm niệm. Cho đến lúc nầy, tôi mới chỉ cho bạn
những lối suy niệm, đôi khi hướng tới lời cầu nguyện sâu xa hơn.
Bây giờ đến lúc phải rõ rệt hơn. Vì tình yêu Chúa phải xâm chiếm
cuộc đời bạn, bạn được mời gọi cầu nguyện liên tục. Chúa nói với
các môn đệ: “Các con hãy cầu nguyện không ngừng’’ (Lc.18,1;
1Th.5,17). Các thánh mọi thời và mọi kiểu đều đã thực hành mệnh
lệnh đó.
“Các con hãy nên trọn
lành như Cha các con trên trời là Đấng trọn lành’’ (Mt.6,47).
Chính Chúa Giêsu dư biết mục tiêu tối hậu đó con người khó đạt
tới được. Nhưng Ngài thêm ngay rằng không gì là không thể đối
với Thiên Chúa. Vấn đề là thực hiện cái không thể với ân sủng
của Chúa. Vậy làm thế nào để nhận lãnh và sống ơn Chúa 100%? Câu
trả lời căn bản có tên là Chiêm niệm.
Khi bạn kiên trì lâu dài
trong việc cầu nguyện, bạn tìm được một sự chú ý có phẩm chất
làm cho bạn hiện diện với Chúa. Dần dần các suy nghĩ, các câu
nói được xóa đi khỏi trí bạn để nhường chỗ cho một hiện diện
thinh lặng. Sự hiện diện và gần gủi nầy luôn trở nên thinh lặng
hơn, như hai người yêu lặng lẽ ở bên nhau, không cần nói với
nhau một lời nào nữa, chỉ có ánh mắt và con tim lên tiếng nói.
Như thế, càng gần Chúa, ta càng hiểu sâu xa, con tim rộng mở và
hiến dâng...
Chiêm niệm không là gì
khác ngoài sự chú tâm tràn đầy tình yêu cho Thiên Chúa. Ngay khi
bạn bắt đầu sống chiêm niệm, bạn hãy bỏ rơi đi những câu nói,
những bản văn, những tình cảm. Chừng nào bạn có thể, hãy ở bình
an lặng lẽ, không làm gì, mà cũng chẳng nói năng gì. Hãy để cho
bạn được mang đi. Hãy để trí bạn thanh thản, khỏi mọi tư tưởng,
mọi lo âu, mọi hiểu biết. Bạn hãy bằng lòng với một sự chăm chú
đầy yêu thương cho Chúa. Bạn hãy tự nhủ đó là thời khắc đặc ân
cho công cuộc của ân sủng Chúa ở trong bạn. Bạn không biết thế
nào, nhưng Thánh Thần Chúa thực hiện một sức mạnh nhiệm mầu
trong linh hồn bạn. Ngài vẽ chân dung mới của bạn và khi hết
nguyện gẫm bạn được thay đổi ở một mức độ tình yêu cao hơn.
Để cho thời gian chiêm
niệm trải rộng như vết dầu loang ra dần và biến đổi tận căn đời
sống hằng ngày của bạn, bạn cần yêu mến Chúa trọn thời gian: Bạn
nhớ Chúa buổi tối khi đi ngủ, buổi sáng khi thức dậy, trong khi
di chuyển, trước khi làm việc, lúc ăn cơm... Kẻ nào yêu mến thật
sự thì lúc nào cũng nghĩ đến tình yêu, từ sáng đến tối, dù là
những lúc bất ngờ nhất: “Tôi ngủ, nhưng tim tôi vẫn thức’’
(Ct.5,2).
Tình yêu chịu đựng
tất cả
Không ai có thể đạt tới
tình trạng chiêm niệm ấy nếu không nhận được ơn Chúa. Điều duy
nhất mà Chúa xin bạn là chuẩn bị chính bản thân bạn. Không phải
chỉ bằng lời cầu nguyện càng lúc càng giản dị và sâu xa, mà còn
bằng một đời sống càng ngày càng được hiến dâng: “Không có tình
yêu nào lớn hơn là hiến mạng sống vì người mình yêu’’
(Jn.15:13). Nhưng làm sao hiến mạng sống bạn, nếu bạn không để
mất đi tính ích kỷ và kiêu ngạo của bạn? Chúa Giêsu năng nhắc
cho các môn đệ rằng họ cần từ bỏ nhiều thứ, ngay cả mọi sự, để
theo Ngài. Mất đi tất cả để được lại tất cả cách sung mãn.
Bạn không cần phải vào
sa mạc để sống nốt quảng đời còn lại của bạn đâu. Sa mạc có thể
có ngay trung tâm cuộc sống hằng ngày của bạn. Căn bản là tình
yêu kéo bạn đến với Chúa. Bạn hãy để chỗ tự do trong trái tim
bạn cho một ý muốn, một ảnh hưởng, một thỏa mãn duy nhất là của
Chúa mà thôi.
Muốn thế, trước hết bạn
hãy học không còn phàn nàn, nhưng phản ứng với bộ mặt vui vẻ
trong mọi hoàn cảnh vì tình yêu Chúa. “Không có gì ghê tởm cho
bằng những lời phàn nàn của kẻ chỉ mất chiếc khăn tay trước mặt
người phải mất tất cả, những lời phàn nàn của kẻ đau ngón tay
trước người sắp phải chết, những lời phàn của kẻ nhàm chán cuộc
sống tiện nghi bên cạnh người rách rưới... mà không một chút
phàn nàn.’’
Bạn hãy tập từ bỏ tiện
nghi, tính mê ăn... Mỗi khi bạn có thể, mà không bất tiện chi và
trong kín đáo, bạn hãy tự tước bỏ cái làm bạn thích thú. Bạn hãy
dâng sự hy sinh đó cho Chúa, để làm vui lòng Ngài. Bạn sẽ sớm
gặt hái được một niềm vui tồn tại lâu dài. Nếu bạn luôn tìm bắt
chước con đường nghèo hèn Chúa Giêsu đã chọn, một ngày kia bạn
sẽ tìm lại được tất cả những gì bạn đã từ bỏ. Thánh Phaolô chia
sẻ: “Thực ra tôi đã học cho biết tự lấy làm đủ trong mọi hoàn
cảnh. No hay đói, dư dật hay túng bấn, tôi đã tập quen đi cả.
Với Đấng ban sức mạnh cho tôi, tôi chịu được tất cả’’
(Ph.4,12-13).
Tình yêu hy vọng tất
cả
Chiêm niệm và hy sinh là
hai cánh cho tình yêu bay đi đến tận cùng đường của nó. Người
chiêm niệm là con người của khát vọng mà sách Khải Huyền nói tới
(x. Kh.22:17). Thay vì sợ chết, người kêu gọi nó, bởi vì nó là
bạn đường bắt buộc để đi đến sự sống vĩnh cửu. Tình yêu càng lớn
lên trong trái tim người, người càng để nó mang lấy thương tích
mà chỉ có một cách chữa là khơi sâu thêm vết thương. Như Maria
Madalena đổ dầu thơm vào chân Chúa Giêsu, người dám làm những sự
điên rồ vì Chúa. Sự trọng kính của con người không còn cản bước
người khi phải bộc lộ một tình yêu và hy vọng vượt quá lẽ
thường. Người sống mỗi ngày một hơn cái định nghĩa của sự thánh
thiện nầy: “Một trạng thái của con tim làm chúng ta nên khiêm
tốn và nhỏ bé trong tay Chúa, ý thức sự yếu đuối của mình và tin
tưởng đến táo bạo vào lòng tốt của Cha’’ (Thánh Têrêxa Hài Đồng
Giêsu).
Sự nghèo hèn và khao
khát của người càng khiến người van xin Chúa như ăn mày. Nhưng
sự van xin đó chứa đựng mọi hình thức của cầu nguyện: ca ngợi,
thờ lạy, tạ ơn. Nó hòa nhập với sự thinh lặng nội tâm. Vì sự
thinh lặng của một con người đã được thanh thoát cũng chính là
lời cầu nguyện. Bất cứ cử động nào của con tim đều như một tiếng
nói âm thầm và kín đáo ca ngợi Đấng Vô Hình.
Bất cứ bạn ước mong gì
nơi Chúa, bạn sẽ nhận được như bạn hy vọng. Nếu bạn chỉ có một
niềm hy vọng nhỏ bé, bạn sẽ nhận lãnh được ít. Nếu niềm hy vọng
của bạn lớn lao, bạn sẽ lãnh nhận được nhiều. Nếu niềm hy vọng
của bạn triển nở trong lời cầu nguyện và hy sinh liên tục, bạn
sẽ lãnh nhận được tất cả. “Trông cậy như thế, chúng ta sẽ không
phải thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng
chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta’’ (Rm.5:5).
Bạn hãy hy vọng sự thánh thiện của bạn. Bạn hãy hy vọng đời sống
vĩnh cửu. Bạn hãy hy vọng phần rỗi của anh chị em bạn. Bạn hãy
hy vọng Chúa Kitô trở lại trong vinh quang.
Niềm hy vọng kitô hữu
vượt quá mọi kỳ vọng nhân loại. Vì niềm hy vọng kitô giáo đặt
mọi sự nơi Mầu Nhiệm Phục Sinh, nó có thể đương đầu với mọi thử
thách thánh giá. Niềm hy vọng ấy sẽ cho bạn can đảm để đi cho
tới cùng sự hy sinh cao cả nhất. Bạn hãy nhớ lại lời Đức Thánh
Cha Gioan Phaolô II nói với Giới Trẻ Thế Giới ở Saint Jacques de
Compostelle: “Các bạn đừng sợ trở nên những vị thánh.’’
“Sứ điệp của tôi đơn
giản trong hai chữ thôi: Bình An và Hy Vọng! Bình An vì chiến
tranh đã dạy cho tôi rằng chỉ có hòa bình thật sự trong tâm hồn,
được chính Chúa Giêsu ban tặng. Hy Vọng là khả năng nhìn thấy vô
hình, khả năng đã cho Đức Maria sức mạnh đứng vững trước cái mà
mọi người gọi là Chấm Dứt: thật ra đó chỉ là mới Bắt Đầu! Can
đảm lên! Đời sống với Chúa Giêsu thật đáng giá! Hãy cho Ngài tất
cả... Không chậm trễ, không lấy lại, không nếu, không nhưng,
không trừ... Đó là hạnh phúc đích thật!’’
Thinh
lặng chiêm niệm
Bạn hãy làm
thinh đi
Chúa Giêsu
đang nói với bạn,
Nhưng Ngài
nói cách dịu dàng,
Ngài thủ
thỉ trong khi bạn lại la hét,
Nên bạn
chẳng nghe được Ngài.
Tuy nhiên
đã từ lâu,
Ngài cố
gắng làm cho bạn nghe được tiếng Ngài.
Nhưng Chúa
lịch sự và giản dị,
Ngài chờ
khi nào bạn thôi nói.
Để nói với
bạn, Ngài biết lắng nghe bạn.
Bây giờ đến
phiên bạn,
Bạn hãy thử
cố gắng lắng nghe Ngài.
Bạn hãy đi
vào sa mạc,
Hãy tạo nên
thinh lặng:
Chung quanh
bạn, và ở trong bạn.
Trong sa
mạc,
Không thể
nào mà không nghĩ đến Chúa.
Tình Yêu
thật lặng lẽ.
Nhưng có
những thinh lặng dồn nén,
Những tiếng
kêu bị chặn lại trong tim,
Những thinh lặng rộn ràng,
Những thinh lặng ích
kỷ.
Nhưng cũng có những thinh
lặng dâng hiến,
Những thinh lặng đón mời,
Những thinh lặng lắng nghe,
Những thinh lặng yêu
thương.
Vâng, lạy Chúa,
Con nín lặng và ngắm nhìn
Chúa.
Con nhìn Chúa và như vậy là
đủ cho con.
Hai cái nhìn gặp nhau là
thinh lặng,
Và lấy làm đủ cho nhau.
Bạn làm thinh và Chúa nín
lặng,
Bạn chiêm ngắm Chúa và Chúa
nhìn bạn,
Bạn yêu mến Chúa và Chúa
mến thương bạn.
Thời gian không còn tính
đếm nữa,
Không còn gì hiện hữu quanh
bạn,
Ngoài ra chỉ còn có Chúa.
Và Chúa nói với bạn,
Có lẽ chỉ qua một cái nhìn,
Một nụ cười trẻ thơ,
Sự nhỏ nhẹ của một người
không nhà,
Một cử chỉ tầm thường,
Hay là qua tạo vật.
Có những
thinh lặng rộn ràng,
Và có những
thinh lặng yêu thương,
Những thinh lặng lặng lẽ.
Tôi đói sự thinh lặng.
Nhưng thinh lặng nào?
Lạy Chúa,
Con cám ơn
Chúa về sự thinh lặng dưỡng nuôi con,
Sự thinh lặng con nhận lãnh
như quà tặng,
Và nó không ngừng nói với
con về Chúa,
Như miếng bánh thánh nầy,
Mà con thưởng thức từng
chút một,
Và nó đã làm con dịu cơn
đói.
Lạy Chúa,
Trong rộn ràng và tiếng
động của cuộc sống,
Con chìm đắm, con mất hút,
con đi xa,
Và linh hồn con mệt lả.
Nhưng Chúa nhẹ nhàng dẫn
dắt con
Đến điều chính yếu: Chúa ở
trong con.
Sự sung mãn để Chúa ở trong
con,
Để con chỉ hiện hữu bởi
Chúa.
Những chuyện vãn thành
tiếng động
Sẽ xóa đi dần khỏi ký ức
con.
Và thinh lặng đổ đầy cho
con:
Bây giờ, con xin Chúa hãy ở
lại. |
VỀ MỤC LỤC |
|
Sau Thiên Tai, Bão Lụt, Động Đất |
Con người
thường hay “lạc quan tếu” khi nghĩ rằng trái đất thuộc quyền
sở hữu của mình. Thực ra, họ chỉ ăn nhờ ở đậu trên đó mà
thôi, vì trái đất là của Thiên Nhiên, Tạo Hóa.
Tại mỗi nơi
loài người sống thì thiên tai đều có thể xảy ra. Đây là
những hoàn cảnh khẩn cấp gây ra do biến cố của môi trường
hoặc thời tiết khắc nghiệt. Thiên tai có thể là động đất,
cháy rừng, núi lửa, bão lụt, sóng thần, hạn hán, cơn giông,
sấm sét mà các khoa học gia cho đó là những sinh hoạt tự
nhiên của trái đất. Và những biến cố này cũng chứng tỏ cho
con người thấy rằng, Mẹ Thiên Nhiên luôn luôn có nhiều quyền
lực. Khi quyền lực này ra tay thì con người trở nên yếu
đuối, chịu trận, nếu không biết cách phòng tránh, tự vệ.
Hậu quả
của thiên tai là các đe dọa trầm trọng cho sức khỏe cơ thể,
cho sự hài hòa xã hội và cho nền kinh tế tại địa phương.
Sẽ có cả
ngàn tử vong, thương tích, nhiều loại bệnh truyền nhiễm xảy
ra. Thực phẩm nước uống trở thành hư hỏng, nguy hại. Nạn
nhân không nơi trú mưa tránh nắng và rất nhiều người rơi vào
tâm trạng bất an, trầm cảm.
Tử vong
trực tiếp do thiên tai đột ngột đa số là vì chấn thương thể
chất, chết đuối, sức ép. Ấy là chưa kể thiệt hại về mùa
màng, gia súc, chim muông, cầm thú. Mỗi thiên tai đều để lại
những vết sẹo lâu ngày mới xóa nhòa, hồi phục.
Điều đáng
ghi nhớ là tại các quốc gia đang phát triển, sự thiệt hại do
thiên tai nhiều gấp bội vì thiếu các cơ sở hạ tầng, nguồn hỗ
trợ, cứu giúp cũng như phương thức dự đoán, phòng tránh
thiên tai.
Năm 1500
BC, một cơn sóng thần đã hoàn toàn xóa bỏ nền văn minh Minoa
của Hy Lạp cổ xưa. Năm 1138, động đất ở Syria đưa tới
230,000 tử vong. Từ năm 1330-1351, dịch Tử Thần Đen (Black
Death) với vi khuẩn Yersinia Pestis đã lấy đi mạng sống của
75 triệu người trên thế giới, trong đó có gần 30 triệu từ Âu
châu, vì bệnh dịch hạch. Lũ lụt Hoàng Hà năm 1931 khiến cho
từ trên dưới 3,7 triệu tử vong vì chết đuối, bệnh tật, đói
khát và hạn hán. Sóng thần Nam Dương năm 2004 giết hại
225,000 người. Hurricane Katrina tại New Orleans năm 2005
tuy gây thiệt hại nhân mạng nhẹ (1,800 người) nhưng thiệt
hại vật chất quá lớn, cho tới thời điểm này vẫn chưa hồi
phục.
Mới đây,
ngày 2 tháng 5, 2008, bão lụt tại Myanmar đưa tới 78,000 tử
vong, 57,000 mất tích, số người bị thương chưa biết rõ và cả
2 triệu người cần giúp đỡ.
Liền sau đó
là động đất ở tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc ngày 12 tháng 5,
2008. Theo thông tin chính thức từ chính quyền Trung Quốc,
cho tới ngày 2 tháng 6, 2008, có trên 69,000 tử vong,
khoảng 400,000 thương tích, gần 20,000 người mất tích và
trên 15 triệu cư dân không nơi cư trú, phải di tản.
Với quyết
định 44/236, ngày 22 tháng 12 năm 1989, Đại Hội Đồng Liên
Hiệp Quốc đã chỉ định ngày thứ Tư của tuần lễ thứ hai mỗi
tháng 10 là ngày Quốc Tế Giảm Thiểu Thiên tai trong thời
gian 10 năm, 1990-1999.
Tới ngày 21
tháng 12 năm 2001, với quyết định số 56/165, Đại Hội Đồng
quyết định duy trì ngày này là ngày toàn cầu ý thức thiên
tai bao gồm phòng tránh, giảm thiểu thiệt hại, và chuẩn bị
sẵn sàng đối phó với thiên tai. Khi mọi người có hiểu biết
về thời gian thiên tai có thể xảy ra, biết phải làm gì trước
và sau thiên tai thì thiệt hại về nhân mạng và tài sản sẽ
bớt xuống rất nhiều.
Bài viết
giới hạn ở lãnh vực bệnh tật xảy ra sau thiên tai, nhất là
các bệnh truyền nhiễm.
Bệnh truyền nhiễm sau thiên tai
Có nhiều
loại bệnh có thể xuất hiện sau thiên tai. Nạn nhân bị thương
tích và dễ dàng nhiễm trùng. Nạn nhân không chạy thoát khỏi
hiện trường vì bệnh hoạn có nhiều nguy cơ bệnh nhiễm hơn.
Khi tập trung ở nơi tạm trú chen chúc, thiếu vệ sinh, bệnh
nhiễm cũng dễ dàng xảy ra.
1-
Bệnh truyền nhiễm do nguồn nước uống bị pha lẫn các vi sinh
vật gây bệnh như tiêu chẩy, dịch tả, kiết lỵ, viêm gan A,
bệnh leptospirosis.
Thường
thường, sau một thiên tai, hệ thống cung cấp nước sạch đều
bị phá hủy. Việc cung cấp nước an toàn cần thời gian để thực
hiện. Nạn nhân đành phải dùng bất cứ loại nước nào sẵn có,
mà nước này đa số đều bị ô nhiễm với đủ loại vi khuẩn đến từ
xú uế cống rãnh, phế thải công kỹ nghệ.
Các vi
khuẩn Vibrio Cholerae, E Coli là tác nhân chính của bệnh
dịch tả và tiêu chảy. Chúng đến từ phân của người và súc vật
tràn đầy trong nước lũ lụt.
Viêm gan A
và E lan truyền do đường phân-miệng vì thiếu nguồn nước an
toàn và kém vệ sinh cá nhân.
Viêm gan A
hầu như xảy ra thường xuyên (endemic) tại đa số các quốc gia
đang phát triển và rất nhiều trẻ em đều đã mắc bệnh và trở
nên miễn nhiễm với bệnh. Do đó, ở các nơi này số người bị
bệnh rất ít.
Ở các địa
phương có dịch viêm gan E, bệnh xảy ra sau mưa, lụt. Bệnh
không trầm trọng, tự hết nhưng với phụ nữ có thai thì tử
vong có thể lên tới 25%.
Leptospirosis là bệnh về da, niêm mạc miệng gây ra do tiếp
xúc trực tiếp với nước, đất, bùn chứa vi khuẩn leptospires.
Xuất xứ của các vi khuẩn này là từ nước tiểu động vật gậm
nhấm như chuột, sóc. Lũ lụt tạo cơ hội thuận tiện cho vi
khuẩn lan rộng. Bệnh bắt đầu với cơn sốt và có thể ảnh hưởng
tới gan, màng não, thận.
Ngoài ra,
khi cơ thể tiếp xúc trực tiếp với nước ô nhiễm, một số bệnh
khác cũng thường xảy ra như vết thương làm độc trên da, viêm
da, bệnh tai mũi họng, bệnh viêm mắt.
2-
Bệnh do côn trùng chuyển-tải (vector-borne diseases)
Côn trùng
chuyển-tải thường thấy nhất là muỗi.
Sau biến cố
thời tiết như giông tố, bão lụt, vùng nước ngưng đọng là môi
trường thích hợp cho côn trùng sinh sản và tăng rủi ro lây
truyền bệnh. Ban đầu, bão lụt đẩy vi sinh vật đi xa nhưng
sau đó, nước ổn định, nằm lại, chứa nhiều vi khuẩn.
Tại đây,
nạn nhân thiên tai cũng như nhân sự cấp cứu dễ dàng mắc các
bệnh Sốt rét định kỳ (malaria), sốt đập lưng (dengue), viêm
màng não, Sốt West Nile. Rủi ro mắc bịnh gia tăng nếu dân
chúng sống chen chúc chật hẹp và ăn ngủ ngoài trời, muỗi
đốt.
Sốt rét do
các ký sinh trùng nhóm Plasmodium xâm nhập hồng huyết cầu.
Bệnh do muỗi anopheles truyền sang người và thường thấy ở
các vùng có khí hậu nhiệt đới và bán nhiệt đới.
Bệnh sốt
đập lưng là bệnh virus truyền sang người do muỗi Aedes
aegypti với các triệu chứng như sốt, đau nhức xương khớp,
đau đầu, chẩy nước mắt. Bệnh ít gây chết người nhưng bệnh
nhân suy nhược rất nhiều và cần thời gian lâu để phục sức.
3-
Bệnh gây ra do quá đông dân chúng
Vì nhà ở bị
thiên tai phá hủy, dân chúng phải ăn ngủ trong các nơi tạm
trú chen chúc đông người. Thêm vào đó là các tiện nghi căn
bản nhà tắm cầu tiêu, bếp núc đều hết sức giới hạn, kém vệ
sinh. Theo sự quan sát của các nhà chuyên môn John T.
Wastsonm, Maire A. Connolly của Cơ Quan Y tế Thế Giới (WHO),
đây là những hoàn cảnh thuận lợi cho sự lây lan một số bệnh
truyền nhiễm như bệnh đường hô hấp, bệnh ban sởi, bệnh viêm
màng não.
Thiếu dinh
dưỡng là chuyện thường xảy ra trong thời gian đầu sau thiên
tai, đặc biệt đối với dân chúng tại các địa phương có sự
xung đột, bất ổn.
Theo các
nhà quan sát, sau bão lụt Nargis ở Myanmar, có cả nhiều chục
ngàn người đang phải đối mặt với đói khát vì không có thực
phẩm nước uống, nhất là mùa mưa sắp diễn ra trong những ngày
sắp tới. Thiếu dinh dưỡng đưa tới suy nhược cơ thể và nạn
nhân dễ dàng mắc bệnh truyền nhiễm.
4-
Các rủi ro vì nước lụt như chết đuối, giảm thân nhiệt nhất
là đối với trẻ em chìm mình trong nước quá lâu, tăng viêm
phổi vì tiếp xúc với nước lụt ô nhiễm và nước mưa giá lạnh
cũng là những điều cần được lưu ý.
5-
Bệnh do
gián đoạn các dịch vụ thông thường như cung cấp điện nước.
Nước uống
dễ dàng bị nhiễm vì hòa lẫn chất dơ, vi khuẩn đưa tới bệnh
tiêu hóa.
Không có
điện khiến cho việc cất giữ thực phẩm, vaccin gặp trở ngại.
Thực phẩm hư thối gây ra bệnh nhiễm như tiêu chẩy.
Thiếu điện
cũng khiến cho không khí tù hãm, tăng lây lan bệnh nhiễm
trùng tại khu tạm trú đông đúc người tị nạn.
6-
Ảnh hưởng tinh thần sau thiên tai
Sau mỗi
thiên tai, nạn nhân sống sót ở trong tâm trạng rất căng
thẳng, sợ hãi, lo âu. Họ sẽ có một số phản ứng như:
- Băn
khoăn, không hiểu nổi tại sao lại có chuyện bất hạnh này;
- Lo sợ cho
tương lai không biết sẽ như thế nào;
- Bối rối,
mất định hướng, không tập trung, quyết định được việc gì;
- Có những
cơn ác mộng, nhớ lại thảm cảnh đã qua;
- Thay đổi
tính tình, dễ tức giận, buồn rầu;
- Cảm thấy
trở nên bất lực, tuyệt vọng;
- Người mệt
mỏi suy nhược
- Nhức đầu,
đau mình, đau bụng
- Rối loạn
giấc ngủ,
- Ăn uống
bất thường, mất khẩu vị.
Giải quyết
các khó khăn tâm lý này là vấn đề lâu dài, đặc biệt là đối
với nạn nhân ít tuổi, tương lai còn dài.
Các
biện pháp phòng tránh
Để phòng
tránh các bệnh truyền nhiễm, những biện pháp như sau cần
được áp dụng:
1-
Trong vòng
48 giờ sau thiên tai cần có một toán đặc nhiệm tới tận nơi
để ước lượng tình hình thiệt hại, rủi ro y tế có thể xảy ra.
2-
Thiết lập một hệ thống báo động, khám phá dịch bệnh.
3-
Cung cấp nguồn nước sạch cho nạn nhân càng sớm càng tốt vì
nước là một nhu cầu cấp bách. Nước có thể được khử trùng
bằng hóa chất chlorine, ít tốn kém lại nhiều hiệu lực.
4-
Chăm sóc sức khỏe ban đầu. Nếu được cung cấp sớm, chăm sóc
sức khỏe ban đầu giúp khám phá ra bệnh rồi điều trị ngay như
vậy sẽ tránh được bệnh bộc phát, lây lan. Các bệnh dịch tả,
tiêu chẩy, nhiễm hô hấp, sốt rét có thể trở thành dịch nếu
không bị dập tắt ngay từ đầu.
5-
Hướng dẫn nạn nhân về giữ gìn vệ sinh cá nhân, an toàn thực
phẩm, sớm đi khám bệnh nếu thấy có dấu hiệu bệnh, dùng
thuốc đuổi muỗi.
6-
Theo dõi, phát hiện dịch bệnh để tránh lây lan.
7-
Chủng ngừa một số bệnh như bệnh sởi.
8-
Loại bỏ điều kiện thuận lợi cho sự sinh sản của sinh vật
chuyển-tải bệnh như muỗi tại các vùng nước ứ đọng; phát
thuốc đuổi muỗi, phát mùng tẩm thuốc.
Nhân viên
cứu trợ cũng cần lưu ý ở mấy điểm căn bản để tự bảo vệ:
- Coi xem
chủng ngừa phong đòn gánh (tetanus) có còn hiệu lực không.
Thường thường vaccin có hiệu lực bảo vệ khoảng 10 năm.
- Không
dùng nước tại nơi có thiên tai cho tới khi nhà chức trách
tuyên bố nước an toàn.
- Dự trữ
một số nước sạch để tắm rửa, nấu nướng.
- Lưu ý và
đề phòng nước bị nhiễm hóa chất thải từ các cơ sở nông, công
kỹ nghệ.
- Cẩn thận
khi dùng dụng cụ điện hoặc hóa chất.
- Vứt bỏ
thực phẩm, nước uống nghi bị nhiễm trùng, hư hao.
- Khám bác
sĩ ngay nếu bị côn trùng, súc vật cắn đốt.
Kết
luận
Các nhà
chuyên môn đều có cùng ý kiến là thi thể nạn nhân chết trực
tiếp vì thiên tai không là rủi ro đưa tới các bệnh truyền
nhiễm.
Trái lại,
bệnh gây ra do sự thiên cư, lánh nạn của dân chúng vào các
không gian chật hẹp, thiếu vệ sinh, thiếu dịch vụ y tế,
thiếu thực phẩm, nước uống an toàn. Chính các hoàn cảnh này
tạo điều kiện thuận lợi cho bệnh truyền nhiễm xảy ra và đôi
khi trở nên nguy hiểm chẳng thua gì chính thiên tai.
Tuy nhiên
tử thi có thể trở nên rủi ro lây lan trong một số trường hợp
như thiệt mạng vì các bệnh dịch hạch, dịch tả, thương hàn,
lao, nhưng bệnh không tồn tại lâu trong cơ thể sau khi chết.
Trong các trường hợp này, phân của nạn nhân chứa vi khuẩn
dịch tả sẽ nhiễm vào nguồn nước và gây ra lây lan bệnh đường
tiêu hóa. Thiên tai có thể góp phần lây lan các bệnh vừa kể,
với điều kiện là tác nhân gây bệnh đã có sẵn tại môi trường.
Sự thực này
là để nhắc nhở mọi người không nên vội vàng “hỏa thiêu, mồ
chôn tập thể” tử thi nạn nhân, vì hoang sợ gây bệnh.
Thân xác
tuy đã vô tri bất động, nhưng vẫn cần được thân nhân nhận
diện khâm liệm, chôn cất.
“Nghĩa
tử là nghĩa tận” mà.
Bác sĩ Nguyễn Ý-Đức
Texas -Hoa
Kỳ |
VỀ MỤC LỤC |
TIỀN…BẠC
Chuyện phiếm của Gã Siêu |
Chuyện rằng :
Có một nhà thám hiểm lênh đênh trên sóng
nước. Trong những ngày tháng cô đơn ấy, anh ta rất thèm được
liên hệ với thế giới bên ngoài. Thế nhưng, chỉ có một chú chim
nhỏ sáng nào cũng bay tới và đậu trên chiếc bè của anh ta. Rồi
một ngày kia, chú chim nhỏ ấy không còn bay tới nữa và anh ta
cảm thấy buồn bã như mất đi một người bạn thân thương nhất.
Từ câu chuyện này, gã mới “ngộ” ra rằng một
trong những nỗi đớn đau nhất mà con người thường gặp phải, đó là
sự cô đơn.
Cũng vì sợ nỗi cô đơn với những bước chân
âm thầm, vò võ đi sớm về khuya một mình, mà những cô gái bước
vào “tuổi băm” hằng mong ước có được một mảnh tình vắt vai.
Cũng vì sợ nỗi cô đơn với những đau yếu
bệnh tật, mà những cụ già gần đất xa trời cũng cố vớt vát cho
mình một chút tình trong cảnh hoàng hôn cuộc đời, bởi vì “con
nuôi cha không bằng bà nuôi ông”.
Kinh nghiệm cho thấy chúng ta không thể nào
sống cô độc lẻ loi như một hòn đảo giữa biển khơi, hay như một
pháo đài biệt lập. Trái lại, chúng ta sống là sống với người
khác trong một cộng đoàn hay trong một xã hội.
Trong cuộc sống chung này, chúng ta phải
nương tựa và cậy dựa vào nhau. Thực vậy, nơi chính bản thân,
chúng ta đã mang dấu ấn của biết bao nhiêu người góp phần xây
dựng. Suốt dọc cuộc đời, chúng ta cũng đã nhận lãnh biết bao
nhiêu nâng đỡ và trợ giúp của những người chung quanh. Thiếu
vắng người khác, e rằng chúng ta khó có thể sống và tồn tại.
Đã sống chung cùng nhau, thì đương nhiên là
phải trao đổi, phải có qua có lại, bởi vì chẳng ai dám vỗ ngực
tự hào rằng mình đầy đủ mọi sự, chẳng cần tới người khác. Sự
trao đổi ở đây được hiểu về phương diện tinh thần cũng như vật
chất. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của mục chuyện phiếm hôm nay,
gã chỉ bàn tới phương diện vật chất mà thôi.
Trước hết, gã xin cả tiếng lại dài hơi mà
thanh minh thanh nga rằng gã chẳng phải là một chuyên viên kinh
tế, cũng như chưa bao giờ “ngâm kíu” sâu xa về vấn đề này, nên
những điều được viết ra dưới đây, nếu có chi không đúng thì cũng
xin bàn dân thiên hạ…sửa giùm và bổ túc thêm.
Bây giờ, gã xin cài số de, lùi về thời đại
ban sơ. Lúc bấy giờ con người tụ họp thành những bộ lạc du mục,
nay đây mai đó. Họ sinh sống bằng cách săn thú và hái trái cây
trong rừng. Như vậy, họ trao đổi cho nhau những gì mình đã săn
hay đã hái được. Chẳng hạn tôi trao cho anh một con thỏ rừng,
thì anh sẽ đổi lại cho tôi một con gà rừng… Thế là vui vẻ, huề
cả làng.
Tới một lúc nào đó trong giòng lịch sử, con
người từ bỏ kiếp sống du mục, để định cư thành làng mạc, phát
triển về nghề nông và trồng tỉa. Lúc bấy giờ hiện vật được đem
ra trao đổi là lúa thóc và hoa trái, kết quả của biết bao nhiêu
lao công vất vả, cũng như của biết bao nhiêu giọt mồ hôi và nước
mắt đổ xuống trên ruộng đồng. Chẳng hạn tôi trao cho anh một
thúng lúa, thì anh sẽ đổi lại cho tôi một thúng khoai…
Cùng với thời gian, cuộc sống con người
không ngừng phát triển và người ta bỗng nghiệm ra rằng trao đổi
bằng hiện vật quả là bất tiện vì nó cồng kềnh, khó mang và khó
vác. Chẳng hạn khi phải đổi hai ba trăm thúng lúa lấy hay ba
trăm thúng khoai. Thật là nhiêu khê và phúc tạp. Vì thế, người
ta đã chọn những hiện vật quí hiếm làm phương tiện cho những
cuộc trao đổi ấy.
Những hiện vật quí hiếm này thường thay đổi
theo quan niệm của từng dân tộc. Chẳng hạn có những nơi người ta
dùng vỏ sò vỏ ốc làm đồ trang sức, vì thế người ta đã chọn vỏ sò
vỏ ốc làm phương tiện trao đổi và qui định cứ bao nhiêu chiếc vỏ
sò và vỏ ốc thì sẽ đổi được một thúng lúa. Tuy nhiên, hiện vật
quí hiếm được nhiều dân chọn lựa hơn cả đó là vàng và bạc.
Cuộc sống định cư đã dần dần kiện toàn cơ
cấu và tổ chức của xã hội. Các thể chế chính trị bắt đầu hình
thành. Trong thời gian đầu, hầu hết các dân tộc trên thế giới
đều theo chế độ quân chủ. Nhà vua là người đứng đầu và cai trị
dân chúng.
Khuôn mặt nhà nước cũng xuất hiện với đầy
đủ mọi quyền hành trong tay. Và thế là nhà nước nhảy vào lãnh
vực kinh tế và tài chánh để ấn định và kiểm soát việc trao đổi
cũng như buôn bán, bằng cách độc quyền phát hành tiền bạc, bởi
vì ai nắm giữ tiền bạc là nắm giữ uy quyền, khả dĩ ảnh hưởng và
chi phối được người khác. Chẳng thế mà kinh nghiệm cho thấy :
- Chữ tiền liền với chữ quyền.
Hay như người Pháp đã bảo :
- Kẻ không có tiền bạc giống như một con
chó sói không có răng.
Thuở ban đầu, tiền bạc thường được đúc bằng
kim loại như vàng, bạc, đồng hay một thứ hợp chất nào đó. Nhưng
rồi đồng tiền kim loại xem ra cũng bất tiện vì trọng lượng của
nó, mỗi khi phải trao đổi nhiều, hay mỗi khi phải buôn bán lớn
và thế là người ta bèn cho lưu hành tiền giấy, tiền “po-ly-me”
như chúng ta thấy hiện nay.
Trên đây mới chỉ là những nét chấm phá đại
cương về lai lịch và gốc gác của tiền bạc, chắc hẳn còn rất
nhiều thiếu sót, mong được bàn dân thiên hạ cảm thông vì sự hạn
hẹp của gã.
Tra cứu thêm một chút bằng cách mở tự điển
ra, gã thấy người ta đã định nghĩa như sau :
Tiền là vật được đúc bằng kim lọai hay in
trên giấy do nhà nước phát hành để dùng trong việc mua bán.
Còn bạc là một thứ kim loại sắc trắng, lấy
ở núi, thường được dùng để làm đồ trang sức cũng như thường được
dùng để đúc tiền. Vì thế, bạc cũng có nghĩa là tiền.
Và khi người ta ghép hai chữ tiền bạc lại
với nhau để cho mạnh nghĩa hơn, thì tiền bạc được dùng để chỉ
chung mọi thứ tiền.
Hẳn rằng ai trong chúng ta cũng đã hiểu
được giá trị của tiền bạc, bởi vì :
- Có tiền mua tiên cũng được.
Hay như một câu “ca dao thời đại mới” vốn
được cả và thiên hạ hiện nay loan truyền :
-
Tiền là tiên là phật,
Là sức bật của tuổi trẻ,
Là sức khỏe của tuổi già,
Là cái đà của danh vọng,
Là cái lọng để che thân,
Là cán cân của công lý.
Marcel Pagnol đã viết như sau :
“Tiền bạc vạn năng. Nó cho phép tất cả. Nó cho tất cả. Nếu tôi
muốn có được một ngôi nhà tiện nghi hay một chiếc răng giả, nếu
tôi muốn được khen tặng trên báo chí hay có được một người đàn
bà trên giường…tôi có thể được tất cả những thứ ấy không phải
bằng lời cầu khẩn, bằng thái độ siêng năng hay đạo đức. Chỉ cần
mở tủ ra và hỏi : “Bao nhiêu ?”
Một tác giả khác cũng đã viết trên báo Tuổi Trẻ Cười như sau :
-
Ông Tiền, ông Phật, ông Tiên,
Ba ông đứng lại, ông Tiền cao hơn.
Tiền nhiều : mặc kệ…vẫn hơn,
Dẫu cho nhân sự ngả nghiêng tứ bề.
Tiền nhiều chẳng ngán chẳng lo,
Phất tay một cái nhằm nhè gì ông.
Hẳn rằng ai trong chúng ta cũng cần đến tiền, bởi vì kinh nghiệm
cho thấy : đứng trước mọi công việc, thì vấn đề đầu tiên bao giờ
cũng vẫn là vấn đề…tiền đâu.
Hẳn rằng ai trong chúng ta cũng đều thích tiền. Đưa cho đứa bé
một tờ giấy bạc và một tờ giấy quảng cáo cho thuốc cao đơn hoàn
tán, cũng in hình người, cũng màu sắc rực rỡ chẳng khác chi tờ
giấy bạc, thế mà đứa bé vẫn cứ giơ tay ra chộp vội lấy tờ giấy
bạc.
Với các cụ già cũng thế, mỗi khi được ai cho tiền, xem ra mắt
các cụ sáng hơn và nụ cuời các cụ tươi hơn. Chẳng thế mà người
Trung Quốc đã nói :
-
Ngay cả thằng mù cũng thấy được tiền.
Hẳn rằng ai trong chúng ta cũng đều phải vất vả, bươn chải ngược
xuôi để tìm tiền kiếm bạc, đem về nuôi sống bản thân và gia
đình. Nhiều khi làm lụng đầu tắt mặt tối và vẫn thiếu hụt, giật
gấu vá vai, khiến gia đình lâm vào cảnh nheo nhóc và bất ổn.
Thế nhưng, tiền bạc vẫn mãi mãi vẫn là một con dao hai lưỡi,
biết sử dụng thì đem lại lợi ích, bằng không thì chỉ đem lại
những hậu quả thảm khốc, đúng như một câu danh ngôn đã bảo :
-
Tiền bạc là một tên đầy tớ tốt nhưng lại là một ông chủ hà khắc.
Thực vậy, nếu chúng ta tìm tiền kiếm bạc một cách quang minh
chính đại và tiêu dùng tiền bạc một cách hợp tình hợp lý, thì
tiền bạc giống như một tên đầy tớ trung thành giúp chúng ta
trong nhiều công việc.
Trái lại, nếu chúng ta quá quyến luyến với tiền bạc và nhất là
nếu chúng ta để cho nỗi đam mê tiền bạc chi phối, lúc bấy giờ
tiền bạc sẽ trở thành một ông chủ hà khắc, giết chết những tình
cảm tốt đẹp của chúng ta đối với những người chung quanh, bằng
những hành động bất công : nào hối lộ, nào trộm cắp, nào bóc lột
sức lao động của người khác…chúng ta sẵn sàng làm mọi việc, kể
cả đạp lên người khác, để vơ vét về cho đầy túi tham của mình,
nhưng làm sao nhét cho đầy, bởi vì lòng tham chính là một cái
túi không đáy.
Chính vì thế, các cụ ta ngày xưa đã có lý khi ghép chữ tiền vào
với chữ bạc. Chữ bạc ở đây không phải chỉ có nghĩa là tiền, mà
còn có nghĩa là mỏng, kém, ít, không có lòng, không biết ơn.
Chẳng hạn :
Bạc bẽo là cách ăn ở với người thân không ra gì.
Bạc nghĩa là kém nhân nghĩa, bội bạc, phản lại người làm ơn cho
mình.
Bạc tình là kém tình yêu, thiếu chung thủy, không đoái hoài tới
người yêu của mình nữa.
Và như vậy, tiền là một trong những nguyên nhân làm cho bạc tình
bạc nghĩa, hay nói cách khác làm mất đi tình nghĩa giữa chúng ta
với những người chung quanh. Điều này hẳn đã được chứng thực qua
kinh nghiệm thương đau của cuộc sống thường ngày với rất nhiều
những sự việc đầy cay đắng.
Trước hết là trong phạm vi gia đình.
Thứ nhất, tiền đã làm bạc mất tình nghĩa giữa cha mẹ và con cái.
Có một anh chàng ca sĩ nọ rất thành công với tiếng đàn tiếng hát
của mình. Anh ta kiếm được rất nhiều tiền và trở thành một “siêu
sao” trên bầu trời ca nhạc. Đi tới đâu anh ta cũng được những
người ái mộ vây quanh. Tiếng lành đồn xa, vọng về tới tận thôn
làng hẻo lánh nơi cha mẹ anh đang sống âm thầm trong cảnh nghèo
túng. Hai ông bà dành dụm được một chút tiền còm và quyết định
làm một chuyến lên thành phố để được chiêm ngắm đứa con mình đã
đứt ruột cưu mang và nuôi dưỡng.
Hai ông bà đứng chờ ngoài cổng rạp chờ gặp đứa con sau giờ trình
diễn. Khi đứa con đi ngang qua, hai ông bà giang rộng đôi vòng
tay và nói :
-
Ôi con tôi.
Thế nhưng anh ta đã lạnh lùng quay mặt đi và nói :
-
Ông bà mà là ba má của tôi sao ?
Anh ta không muốn cho mọi người biết được cái gốc gác “hai lúa”
của mình. Thế nhưng, nếu không có những hạt lúa mà cha mẹ anh ta
đã chắt chiu để gửi cho anh ta ăn học thì làm sao anh ta có được
như ngày nay.
Thứ hai, tiền đã làm bạc mất tình nghĩa giữa anh chị em ruột
thịt với nhau.
Nguyên Huy, trong mục “truyện ngắn 100 chữ” kể lại mẩu tâm sự
của một đứa cháu như sau :
Bà mất sớm. Mẹ cháu nuôi cậu học xong đại học mới lấy chồng. Cậu
thành đạt, giỏi giang. Mẹ cháu luôn tự hào về cậu.
Cậu đi nước ngoài về, quà cho đồng nghiệp, cho cấp trên thật ê
hề. Chỉ thiếu quà cho mẹ con cháu.
Cháu không cần quà, rụt rè sang xin cậu tiền học phí, sắp đến kỳ
thi rồi. Tháng qua mẹ ốm, cháu không dạy kèm được, lại phải tiêu
nhiều.
Cậu khó chịu :
-
Đến khổ với mẹ con mày. Cái thân cũng lo không xong, cứ ám tao
mãi thế này.
Cháu rơi nước mắt, nhớ lời ru xưa :
-
Tò vò mà nuôi con nhện…
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, nhiều người ở thành phố vì sợ nhà
nước giải tỏa, đã trở về miền quê. Nhiều người ở miền quê có
nhiều ruộng cũng vì sợ nhà nước tịch thu, sẵn sàng cho ruộng và
để những người thân ở thành phố sống trên phần đất của mình.
Sau một thời gian, tình hình trở nên lắng dịu và không thấy nhà
nước “đấu tố hạng phú nông” như ở ngoài Bắc. Thêm vào đó, ruộng
vườn lại có giá. Thế là người ta liền nói bóng nói gió, nói xa
nói gần cốt ý đòi lại phần đất đã lỡ cho. Tới nước này thì tình
nghĩa chẳng còn đẹp đẽ và đầm ấm như hôm nào.
Trong những năm gần đây nhà cửa và đất đai ở thành phố cũng như
ở ngoại ô tăng giá ào ào. Không phải tấc đất tấc vàng mà nhiều
khi còn hơn thế nữa. Một miếng đất nhỏ hay một căn nhà lụp xụp
ngày xưa chẳng đáng giá bao nhiêu, thế mà bỗng dưng trở thành
một gia tài to lớn.
Cũng chính vì thế, trên báo chí gã đã từng chứng kiến biết bao
nhiêu vụ án. Anh em đâm chém nhau chỉ vì miếng đất hay căn nhà.
Cha mẹ và con cái lôi nhau ra tòa cũng chỉ vì căn nhà hay miếng
đất. Miếng đất và căn nhà đã hủy diệt tình nghĩa gia đình.
Thứ ba, tiền đã làm bạc mất tình nghĩa vợ chồng.
Thực vậy, có tiền, anh chồng bắt đầu ăn chơi sa đọa, đèo bồng bồ
nhí. Có tiền chị vợ bắt đầu khinh bỉ anh chồng, coi anh chồng
chẳng còn tì “gờ ram” nào cả. Đó là những chuyện vốn thường xảy
ra như cơm bữa trong xã hội hiện nay. Gã xin đưa ra một trường
hợp điển hình được đăng tải trên báo “Phụ Nữ Chủ Nhật” :
Ngày anh Châu xách va li ra khỏi nhà, chị Loan uất ức nói trong
nước mắt :
-
Để coi ổng ngon đến cỡ nào, nhiêu đó rồi cũng ba bảy hai mươi
mốt ngày thôi.
Anh Châu và chị Loan ngày xưa học cùng lớp, lấy nhau được 15
năm, có hai mặt con. Vợ chồng đều là công chức. Cuộc sống thay
đổi làm con người cũng thay đổi theo. Từ ngày nghỉ làm công sở,
theo bạn bè đi nuôi tôm, anh Châu bắt đầu đổi khác.
Trúng tôm, anh Châu bồ bịch, ăn chơi xả láng. Khi mọi chuyện đến
tai chị Loan thì anh Châu đã sống như vợ chồng với một cô gái
bán bia ôm và họ sắp có con. Vợ chồng anh ra tòa ly dị, chia đôi
tài sản là căn nhà. Chị Loan dành phần nuôi con. Đễ giữ lại căn
nhà, chị Loan phải vay mượn đưa cho anh Châu phân nửa tiền trị
giá căn nhà.
Ly dị xong, anh Châu dọn đến sống với cô gái bán bia ôm. Một
thời gian sau, chị Loan xin được công việc làm khá hơn. Nếu việc
làm của chị thuận lợi bao nhiêu, thì anh Châu ngược lại. Số tiền
chia đôi căn nhà, anh Châu bung ra làm ăn lớn. Không may cho
anh, càng làm càng thua lỗ. Vốn liếng chẳng những không còn mà
nợ nần chồng chất. Nhà cũng chẳng có, vợ chồng con cái phải trú
tạm trong trại tôm giữa đồng không mông quạnh. Nhìn cuộc sống
thảm hại của anh bây giờ và cuộc sống khá giả của chị Loan ai
cũng xót và tiếc cho anh.
Anh Châu mặc cảm chẳng dám về thăm con, thậm chí ngày con thi
đậu vào trường chuyên anh cũng chẳng dám gọi điện thoại chúc
mừng, càng lúc anh càng thấy mình thấp kém so với vợ cũ và mối
quan hệ cha con ngày càng xa.
Lúc này chị Loan bắt đầu hả hê :
-
Quả báo nhãn tiền, gieo nhân nào, gặt quả ấy.
Mang tâm trạng của người chiến thắng trước sự thất bại của người
chồng cũ, gặp ai chị Loan cũng kể lể với giọng điệu như trả thù
được người đã gieo cho mình nhiều đau khổ trong quá khứ. Ngay cả
với con cái, lúc nào chị cũng chì chiết :
-
Ba chúng mày chắc sáng mắt ra rồi, vợ đẹp con ngoan không chịu,
đi theo cái đồ tào lao, giờ chẳng ra sao, thật đáng kiếp.
Chị đâu có biết rằng dù anh Châu có phụ rẫy chị đi chăng nữa,
anh cũng vẫn là ba của các cháu. Sự hả hê của chị làm cho các
con đau lòng.
Tiếp đến là trong phạm vị xã hội.
Thứ nhất, tiền đã làm bạc mất tình nghĩa thày trò.
Vì tiền, người ta sẵn sàng lừa thày. Một câu chuyện quá quen
thuộc mà nhiều người trong chúng ta đã biết, đó là câu chuyện
của Giuđa.
Giuđa là một người môn đệ được Đức Kitô tuyển chọn, yêu thương
và đặt vào trong nhóm 12 tông đồ, là những người thân cận với
Ngài. Thế nhưng, vì lòng đam mê tiền bạc, Giuđa đã bán Ngài bới
giá 30 đồng bạc, giá mua một tên nô lệ, để rồi Ngài đã bị đóng
đanh vào thập giá như một tên tội phạm.
Thứ hai, tiền đã làm bạc mất tình nghĩa bè bạn.
Vì tiền, người ta sẵn sàng phản bạn. Đúng thế, bạn bè một thời
đã đồng lao cộng khổ, đã nằm gai nếm mật để cùng nhau theo đuổi
một lý tưởng, một mục đích nào đó, thế nhưng chỉ vì những quyền
lợi riêng tư người ta sẵn sàng quay lưng chống lại nhau. Hay
chỉ vì chia chác không đều những lợi nhuận, người ta cũng sẵn
sàng đấm đá và cấu xé lẫn nhau.
Nhất là khi người bạn sa cơ thất thế, người ta bèn quay phắt
180o, biến bạn thành thù để tránh đi những liên lụy, như ca dao
đã diễn tả :
- Trong tay
có sẵn đồng tiền,
Dẫu lòng
đổi trắng thay đen khó gì.
Tiền bạc có
uy lực riêng của nó. Tuy nhiên, uy lực ấy không phải là vô song
và tuyệt đối như người ta vốn thường sánh ví :
Tiền bạc có
thể mua được một ngôi nhà, nhưng không mua được một mái ấm.
Tiền bạc có
thể mua được một chiếc giường êm ấm, nhưng không mua được giấc
ngủ ngon lành.
Tiền bạc có
thể mua được chiếc đồng hồ, nhưng không mua được thời gian.
Tiền bạc có
thể mua được sách vở, nhưng không mua được kiến thức.
Tiền bạc có
thể mua được địa vị, nhưng không mua được lòng tin phục.
Tiền bạc có
thể mua được thuốc men, nhưng không mua được sức khẻo.
Tiền bạc có
thể mua được tình dục, nhưng không mua được tình yêu….
Và để kết
luận, gã xin kể lại một mẩu chuyện như sau.
Anh kia cho
người bạn vay một số tiền. Tới hẹn, người bạn không có khả năng
chi trả, nên tìm cách lẩn trốn. Ngày nọ anh ta bỗng nhìn thấy
người bạn đang đi trên hè phố. Anh ta vội chạy tới, khiến người
bạn không thể lánh mặt. Anh ta nhìn người bạn và nói :
- Này bạn,
tôi thà mất tiền còn hơn là mất bạn.
Gã Siêu
gasieu@gmail.com
|
VỀ MỤC LỤC |
|
- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến,
bài vở..., xin gởi về địa chỉ
giaosivietnam@gmail.com
- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục
vụ của Giáo sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các
Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn
gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực
Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh
vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức
Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và
Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quy vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại
www.conggiaovietnam.net
Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị
Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã
sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác
nhau.
TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca
Phạm Quốc Sử
USA
|
|
*************
|
|