Dân Thiên Chúa |
Thánh Công Ðồng Chung Vaticanô II
Hiến Chế Tín Lý Về Giáo Hội - Lumen
Gentium
Bản dịch Việt Ngữ của Giáo Hoàng Học
Viện Piô X
Prepared for Internet by Vietnamese
Missionaries in Asia
Chương II
Dân Thiên Chúa
9*
2. Giao Ước mới và Dân Tộc mới.
Chắc chắn trong mọi thời đại và mọi dân tộc, bất cứ người nào
kính sợ Thiên Chúa và thực hành đức công chính đều được Ngài
đoái thương (x. CvTđ 10,35). Tuy nhiên, Thiên Chúa không muốn
thánh hóa và cứu rỗi loài người cách riêng rẽ, thiếu liên kết,
nhưng Ngài muốn qui tụ họ thành một dân tộc để họ nhận biết
chính Ngài trong chân lý, và phụng sự Ngài trong thánh thiện. Vì
thế, Ngài đã chọn dân Israel là dân Ngài, đã thiết lập với họ
một giao ước, giáo huấn họ dần dần bằng cách tỏ chính mình và ý
định mình qua lịch sử dân ấy, và Ngài đã thánh hóa họ để dành
riêng cho mình. Tuy nhiên, tất cả những điều ấy chỉ là chuẩn bị
và hình bóng của giao ước mới và hoàn hảo, sẽ được ký kết trong
Chúa Kitô, và là chuẩn bị cho mạc khải trọn vẹn hơn do chính
Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể mang đến. Thiên Chúa phán: "Này đây
sẽ tới ngày Ta ký giao ước mới với nhà Israel và nhà Giuđa... Ta
sẽ ban luật Ta trong lòng chúng, và khắc ghi luật ấy vào trái
tim chúng, và Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, và chúng sẽ trở
thành dân Ta... Tất cả mọi người từ nhỏ chí lớn đều sẽ nhận biết
Ta. Ðó là Lời Chúa phán" (Gier 31,31-34). Chúa Kitô đã thiết lập
minh ước mới ấy, đó là giao ước mới trong máu Người (x. 1Cor
11,25), Người triệu tập dân chúng từ dân Israel và từ các dân
ngoại, họp thành một khối duy nhất trong Thánh Thần chứ không
theo xác thịt, để làm họ nên dân tộc mới của Thiên Chúa. Thực
vậy, những ai tin kính Chúa Kitô đều được tái sinh không phải
bởi mầm mống hay hư nát, nhưng do mầm mống bất diệt nhờ lời
Thiên Chúa hằng sống (x. 1P 1,23), không phải bởi xác thịt nhưng
bởi nước và Thánh Thần (x. Gio 3,5-6), và cuối cùng trở thành
một "dòng giống được tuyển chọn, thành hàng tư tế vương giả, dân
tộc thánh, dân tộc đã được Thiên Chúa thu phục, trước kia không
phải là một dân, mà nay là dân của Thiên Chúa" (1P 2,9-10).
Dân thiên sai
này có vị thủ lãnh là Chúa Kitô, "Ðấng đã bị nộp vì tội lỗi ta
và phục sinh cho ta nên công chính" (Rm 4,25), và bây giờ Người
được một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu, và đang hiển trị
trên trời. Ðịa vị dân này là được vinh dự và tự do làm Con Thiên
Chúa, và Thánh Thần ngự trong tâm hồn họ như trong đền thờ. Luật
của họ là giới răn mới: phải thương yêu nhau như chính Chúa Kitô
đã yêu thương chúng ta (x. Gio 13,34). Sau cùng, cứu cánh của
họ, tức là phát triển thêm Nước Thiên Chúa, đã được Ngài khai
nguyên trên trần gian, cho tới khi được Ngài hoàn tất trong ngày
tận thế, ngày mà Chúa Kitô, sự sống của chúng ta, hiện đến (x.
Col 3,4), ngày mà "chính tạo vật cũng được giải phóng khỏi ách
nô lệ hư nát, lại được tự do trong vinh quang con cái Thiên
Chúa" (Rm 8,21). Vì thế, dân tộc thiên sai ấy, tuy hiện nay chưa
bao gồm toàn thể nhân loại và đôi khi tỏ ra như một đàn chiên
nhỏ, nhưng lại là một mầm mống vững chắc nhất của hiệp nhất, hy
vọng và cứu rỗi cho toàn thể nhân loại. Dân tộc thiên sai ấy
được Chúa Kitô thiết lập để thông dự vào sự sống, bác ái và chân
lý, được Người xử dụng như khí cụ cứu rỗi cho mọi người, và được
sai đi khắp thế giới như ánh sáng trần gian và muối đất (x. Mt
5,13-16).
Cũng như dân
Israel theo xác thịt, khi đang lữ hành trong sa mạc, đã được gọi
là Giáo Hội của Thiên Chúa (x. 2Esd 13,1; Ds 20,4; Dnl 23,1tt),
dân Israel mới tiến bước trong thời đại này đang tìm về thành
thánh tương lai bất diệt (x. Dth 13,14) cũng được gọi là Giáo
Hội Chúa Kitô (x. Mt 16,18). Thực vậy, chính Người đã lấy máu
mình mà chuộc lấy Giáo Hội đó (x. CvTđ 20,28), Người đổ tràn
Thánh Thần và ban các phương thế thích hợp để kết hiệp thành một
xã hội hữu hình. Thiên Chúa triệu tập tất cả những người tin
kính và mong đợi Chúa Kitô, Ðấng ban ơn cứu độ và hiệp nhất,
nguyên lý của sự hòa bình; Ngài thiết lập họ thành Giáo Hội để
Giáo Hội trở nên bí tích hữu hình của sự hiệp nhất cứu độ ấy cho
toàn thể và cho mỗi người
1. Với bổn phận phải lan rộng khắp thế giới, Giáo Hội
đi sâu vào lịch sử nhân loại. Tuy nhiên Giáo Hội đồng thời cũng
vượt thời gian và biên giới các dân tộc. Tiến bước giữa cơn cám
dỗ và đau thương, Giáo Hội vững mạnh nhờ ơn Thiên Chúa mà Chúa
Giêsu đã hứa ban, hầu Giáo Hội vẫn hoàn toàn trung tín, sống như
một Hiền Thê xứng đáng của Chúa mình, dầu xác thịt yếu hèn, và
không ngừng tự đổi mới dưới tác động của Chúa Thánh Thần cho đến
ngày, nhờ thánh giá, đạt đến ánh sáng không hề tắt.
10*
10. Chức tư tế cộng đồng.
11* Chúa Kitô, Linh Mục Thượng Phẩm được chọn nơi loài
người (x. Dth 5,1-5), để biến dân tộc mới thành một "vương quốc,
thành những tư tế cho Thiên Chúa, Cha Người" (Kh 1,6; x.
5,9-10). Thực vậy, những người đã lãnh phép Thánh Tẩy, nhờ được
tái sinh và xức dầu của Thánh Thần, được cung hiến để trở thành
chỗ ở thiêng liêng và nhận chức tư tế thánh, hầu qua mọi hoạt
động của con người Kitô hữu, dâng của lễ thiêng liêng và rao
truyền những kỳ công của Ðấng đã gọi họ từ bóng tối đến ánh sáng
kỳ diệu của Ngài (x. 1P 2,4-10). Vì thế, tất cả các môn đệ của
Chúa Kitô, trong khi kiên tâm cầu nguyện và cùng nhau ca tụng
Thiên Chúa (x. CvTđ 2,42-47), họ phải dâng mình làm của lễ sống
động, thánh thiện, đẹp lòng Thiên Chúa (x. Rm 12,1), phải làm
chứng về Chúa Kitô trên khắp mặt đất và trình bày niềm hy vọng
về cuộc sống vĩnh cửu mà họ ôm ấp cho những ai đang khao khát.
(x. 1P 3,15).
Chức tư tế cộng
đồng của các tín hữu và chức tư tế thừa tác hay phẩm trật, tuy
khác nhau không chỉ về cấp bậc mà còn về bản chất, song cả hai
bổ túc cho nhau. Thực vậy, cả hai đều tham dự vào chức linh mục
duy nhất của Chúa Kitô theo cách thức riêng của mình
2. Tư tế thừa tác, nhờ có quyền do chức thánh, đào tạo
và cai quản dân tộc tư tế, đóng vai trò Chúa Kitô cử hành hy tế
tạ ơn và dâng của lễ ấy lên Thiên Chúa nhân danh toàn thể dân
chúng. Phần tín hữu, nhờ chức tư tế vương giả, cộng tác dâng
thánh lễ
3, và thi hành chức vụ đó trong việc lãnh nhận các bí
tích, khi cầu nguyện và tạ ơn, bằng đời sống chứng tá thánh
thiện, bằng sự từ bỏ và bác ái tích cực.
12*
11. Hành sử chức tư tế cộng đồng trong
các bí tích.
13* Ðặc tính thánh thiện và có tổ chức của cộng đoàn
tư tế được thể hiện trong hành động nhờ các bí tích và các nhân
đức. Các tín hữu tháp nhập vào Giáo Hội bởi phép Thánh Tẩy, và
nhờ ấn tích, họ được đề cử thi hành việc phụng thờ Kitô giáo và,
được tái sinh làm con Thiên Chúa, họ có bổn phận tuyên xưng
trước mặt mọi người đức tin mà họ nhận lãnh từ Thiên Chúa qua
Giáo Hội
4. Nhờ ơn bí tích Thêm Sức, họ gắn bó với Giáo Hội
cách hoàn hảo hơn và được dư đầy sức mạnh đặc biệt của Chúa
Thánh Thần, do đó họ càng có bổn phận khẩn thiết hơn phải loan
truyền và bảo vệ đức tin bằng lời nói và việc làm như những
chứng nhân đích thực của Chúa Kitô
5. Khi tham dự thánh lễ, nguồn mạch và chóp đỉnh của
đời sống Kitô giáo, họ dâng lên Thiên Chúa Lễ Vật thần linh và
cùng với Lễ Vật ấy họ tự dâng chính mình họ
6. Khi dâng lễ cũng như khi hiệp lễ, không phải cách
lộn xộn, nhưng mỗi người một cách góp phần vào việc cử hành
phụng vụ. Hơn nữa, được bổ dưỡng bởi Mình Thánh Chúa Kitô trong
thánh lễ, họ biểu lộ cách cụ thể sự hiệp nhất của Dân Thiên
Chúa, sự hiệp nhất ấy được diễn tả đầy đủ và thực hiện cách kỳ
diệu trong bí tích cực trọng này.
Những ai đến
nhận lãnh bí tích Cáo Giải đều được Thiên Chúa nhân từ tha thứ
những xúc phạm đến Ngài. Ðồng thời họ được giao hòa cùng Giáo
Hội mà tội lỗi họ đã làm tổn thương. Nhưng Giáo Hội hằng nỗ lực
lấy đức ái, gương lành và kinh nguyện, để hoán cải họ. Bằng phép
Xức Dầu Thánh và lời cầu nguyện của các linh mục, toàn thể Giáo
Hội phó thác các bệnh nhân cho Chúa Kitô đau khổ và hiển vinh để
Người an ủi và cứu rỗi họ (x. Giac 5,14-16); hơn nữa, Giáo Hội
còn thúc giục họ sẵn sàng kết hợp với Chúa Kitô chịu đau khổ và
chịu chết (x. Rm 8,17; Col 1,24; 2Tm 2,11-12; 1P 4,13) để mưu
ích cho Dân Thiên Chúa. Còn những người trong các tín hữu có hân
hạnh lãnh nhận chức Thánh, được đặt lên nhân danh Chúa Kitô để
chăn dắt Giáo Hội bằng ân sủng và Lời Thiên Chúa. Sau cùng, nhờ
sức thiêng của bí tích Hôn Phối, các đôi vợ chồng Kitô giáo biểu
hiện và tham dự mầu nhiệm hiệp nhất và tình yêu phong phú giữa
Chúa Kitô và Giáo Hội (x. Eph 5,32); họ giúp nhau nên thánh
trong đời sống hôn nhân, trong việc đón nhận và giáo dục con
cái; cũng vì đó, họ được những ơn riêng cho đấng bậc mình trong
Dân Chúa
7. Từ sự kết hợp ấy phát sinh ra gia đình, nơi các
công dân mới của xã hội loài người được sinh ra, và nhờ ân sủng
của Chúa Thánh Thần trong bí tích Thánh Tẩy, họ trở nên con cái
Thiên Chúa, hầu Dân Chúa tồn tại mãi trong dòng lịch sử. Trong
gia đình như một Giáo Hội nhỏ, ước gì cha mẹ là những người đầu
tiên dùng gương lành và lời nói mà truyền dạy đức tin cho con
cái, cũng như phải lo chăm sóc đến ơn gọi riêng của từng đứa
con, và phải đặc biệt chăm sóc đến ơn kêu gọi làm linh mục.
Ðược ban cho
những phương tiện cứu rỗi dồi dào như thế, mọi Kitô hữu, dù ở
địa vị nào, bậc sống nào, đều được Chúa kêu gọi đạt tới sự trọn
lành thánh thiện như Chúa Cha trọn lành, tùy theo con đường của
mỗi người.
14*
12. Cảm thức của đức tin và đoàn sủng
trong Dân Thiên Chúa. Dân Thánh Thiên Chúa cũng
tham dự vào chức vụ tiên tri của Chúa Kitô bằng cách phổ biến
chứng tá sống động về Người, nhất là qua đời sống đức tin và đức
ái; và dâng lên Thiên Chúa của lễ ca tụng, hoa trái của những
miệng lưỡi ngợi khen thánh Danh Người (x. Dth 13,15). Toàn thể
tín hữu, được Chúa Thánh Thần xức dầu (x. 1Gio 2,20 và 27),
không thể sai lầm trong đức tin. Họ biểu lộ đặc tính ấy nhờ cảm
thức siêu nhiên về đức tin của toàn thể dân Chúa, khi "từ các
giám mục cho đến người giáo dân rốt hết"
8 đều đồng ý về những điều liên quan đến đức tin và
phong hóa. Thực vậy, nhờ cảm thức về đức tin được Thánh Thần
chân lý khơi dậy và duy trì, dưới sự hướng dẫn và giáo huấn thần
linh của Giáo Hội mà họ trung thành tuân theo, Dân Thiên Chúa
nhận lãnh không phải lời nói của loài người nữa, mà thực sự là
lời của Thiên Chúa (x. 1Th 2,13; họ gắn bó hoàn toàn "với đức
tin chỉ một lần được ban bố cho các thánh" (Gđa 3), họ tiến sâu
hơn trong đức tin nhờ phán đoán đứng đắn, và sống đức tin cách
hoàn hảo hơn.
Hơn nữa, cũng
chính Thánh Thần ấy, không chỉ thánh hóa và hướng dẫn Dân Thiên
Chúa bằng các bí tích, các chức vụ, và trang điểm họ bằng các
nhân đức, nhưng Ngài còn ban phát các ân sủng đặc biệt cho mọi
cấp bậc các tín hữu "phân chia ân huệ cho mỗi người theo ý Ngài"
(1Cor 12,11), khiến người lãnh nhận các ân sủng ấy có đủ khả
năng và sẵn lòng đảm nhận các công việc và nhiệm vụ khác nhau
mưu ích cho việc canh tân, xây dựng và phát triển Giáo Hội như
lời chép rằng: "Thánh Thần hiển hiện trong mỗi người hầu mang
lại lợi ích" (1Cor 12,7). Phải lãnh nhận những đoàn sủng này, từ
các ơn chói lọi nhất đến các ơn thường mà nhiều người lãnh được,
với lòng tri ân và yên ủi vì các ơn đó mang ích lợi và phù hợp
với nhu cầu của Giáo Hội. Nhưng không nên liều lĩnh kêu nài
những ơn đặc biệt, và cũng đừng vì đó mà tự đắc mong rằng việc
tông đồ sinh kết quả. Những vị thủ lãnh trong Giáo Hội có thẩm
quyền phán quyết về tính cách chân chính và sự xử dụng hợp lý
các ơn lạ ấy; các ngài có nhiệm vụ đặc biệt phải khảo sát tất
cả, không phải để dập tắt Thánh Thần, nhưng để giữ lại những
điều thiện hảo (x. 1Th 5,12 và 19-21).
15*
13. Tính cách phổ quát nơi Dân duy nhất
của Thiên Chúa.
16* Mọi người được mời gọi gia nhập Dân Tộc mới của
Thiên Chúa. Vì thế, Dân mới này, một dân duy nhất và hằng hiệp
nhất, có bổn phận phải lan rộng khắp thế giới trải qua mọi thế
hệ, hầu hoàn tất kế hoạch của Thánh Ý Thiên Chúa, Ðấng từ nguyên
thủy đã tạo dựng một bản tính nhân loại duy nhất, và quyết định
sau này tập họp tất cả con cái Ngài tản mát đó đây thành một dân
tộc độc nhất (x. Gio 11,52). Chính vì mục đích ấy mà Thiên Chúa
đã sai Con Ngài xuống, Ðấng mà Ngài đã đặt làm thừa kế vũ trụ
(x. Dth 1,2), hầu trở nên Thầy, Vua và Tư Tế cho mọi người, và
nên Thủ Lãnh của dân tộc mới và phổ quát của con cái Thiên Chúa.
Sau cùng, cũng vì mục đích đó mà Thiên Chúa đã sai Thánh Thần
của Con Ngài, là Chúa và là Ðấng ban sự sống. Ðối với toàn Giáo
Hội, với tất cả cũng như với mỗi tín hữu, Thánh Thần là nguyên
lý qui tụ và hiệp nhất, trong giáo lý của các Tông Ðồ, trong sự
hiệp thông, bẻ bánh và kinh nguyện (x. CvTđ 2,42, bản Hy lạp).
Như thế, Dân
duy nhất của Thiên Chúa hiện diện nơi mọi dân nước trần gian.
Tuy dân của Nước Ngài là công dân của các nước, song thực ra,
đặc tính của Nước ấy không thuộc về thế gian nhưng thuộc về
Trời. Quả thực, mọi tín hữu rải rác trên khắp hoàn cầu đều hiệp
thông trong Thánh Thần với tất cả các tín hữu khác, và vì thế
"kẻ ở Rôma biết rằng người Ấn Ðộ là chi thể mình"
9. Nhưng vì Nước Chúa Kitô không thuộc về thế gian này
(x. Gio 18,36), nên Giáo Hội, tức Dân Thiên Chúa, hợp thành Nước
ấy, không loại bỏ bất cứ một phần di sản trần thế nào của các
dân tộc; trái lại, Giáo Hội chăm sóc và thu dụng tất cả những gì
tốt lành nơi gia sản, nơi nguồn lực và phong hóa của các dân
tộc, và khi thu dụng, Giáo Hội tinh luyện, kiện toàn và làm
chúng nên cao thượng. Thực vậy, Giáo Hội nhớ rằng mình phải kết
hợp với Vua ấy là Ðấng đã lãnh nhận các dân nước làm gia nghiệp
mình (x. Tv 2,8), và các dân nước mang đến Thành Ðô Người của lễ
và tặng vật (x. Tv 71 (72),10; Is 60,4-7; Kh 21,24). Ðặc tính
phổ quát này, tư trang của Dân Thiên Chúa, là một ân huệ do
chính Thiên Chúa ban, nhờ đó Giáo Hội Công Giáo luôn nỗ lực cách
hữu hiệu qui tụ toàn thể nhân loại cùng những gì tốt lành nơi họ
dưới một Thủ Lãnh là Chúa Kitô, trong sự hiệp nhất với Chúa
Thánh Thần
10.
Nhờ đặc tính
công giáo ấy, mỗi phần tử mang những ân huệ riêng của mình đến
cho các phần tử khác và cho toàn Giáo Hội, do đó toàn thể và mỗi
phần tử tăng triển nhờ hiệp thông với nhau và nhờ nỗ lực tiến
đến viên mãn trong sự hiệp nhất. Vì thế, Dân Thiên Chúa tạo
thành không những do các dân nước qui tụ lại nhưng còn do các
chức vụ khác nhau trong nội bộ nữa. Thực vậy, giữa các phần tử
trong dân, có nhiều sự khác biệt: hoặc do chức vụ, như những
người thi hành thừa tác vụ thánh để mưu lợi ích cho anh em mình,
hoặc do hoàn cảnh và nếp sống, như những người sống trong bậc tu
trì, cố gắng nên thánh bằng con đường khắc khổ hơn và nêu gương
khích lệ anh em. Cũng vì thế, ngay trong sự hiệp thông của Giáo
Hội cũng có sự hiện diện hợp pháp của những Giáo Hội địa phương,
thừa hưởng những truyền thống riêng, mà vẫn không phương hại đến
quyền tối thượng của Tòa Thánh Phêrô, Tòa Thánh này, thủ lãnh
toàn thể cộng đoàn đức ái
11, bảo vệ các dị biệt hợp pháp không phương hại, trái
lại còn sinh ích cho sự hiệp nhất đó. Cũng vì thế các thành phần
khác nhau của Giáo Hội liên kết với nhau bằng mối dây hiệp thông
mật thiết về của cải thiêng liêng, về thợ truyền giáo và về sự
trợ giúp vật chất. Quả thực, mọi phần tử Dân Thiên Chúa được kêu
gọi chia sẻ của cải mình và lời nói sau đây của vị Tông Ðồ cũng
có giá trị cho mọi Giáo Hội: "Mỗi người hãy tùy theo ơn đã nhận
được mà giúp đỡ lẫn nhau, như những quản lý tài ba phân phối mọi
thứ ơn của Thiên Chúa" (1P 4,10).
Vì thế mọi
người đều được mời gọi vào sự hiệp nhất công giáo này của Dân
Thiên Chúa, sự hiệp nhất ấy tiên báo và cổ võ nền hòa bình phổ
quát. Họ thuộc về hoặc hướng về sự hiệp nhất đó dưới nhiều thể
cách khác nhau, được sắp xếp hoặc họ là tín hữu công giáo hay là
những người tin Chúa Kitô, hoặc sau cùng tất cả mọi người không
trừ ai đều được ơn Thiên Chúa kêu mời lãnh nhận phần rỗi.
17*
Chú Thích:
(lưu ý:
những số ghi chú nhỏ hơn đã được đăng vào những số báo trước)
15* Số 12: chứng tá cho đức
tin.
Hiến chế coi việc tuyên xưng đức tin Kitô giáo
liên quan tới chức vụ tư tế cộng đồng và đặc tính vô ngộ của đức
tin nơi toàn thể Dân Thiên Chúa là do Chúa Thánh Thần linh ứng.
Ðức tin này không chỉ là việc tuân theo các lời giáo huấn của
Giáo Hội, các công thức Giáo Hội đề ra, nhưng còn diễn tả một "ý
thức" sâu thẳm do Chúa Thánh Thần ghi tạc trong Dân Chúa, ý thức
ấy giúp phân biệt chân lý, vững tâm chấp nhận chân lý mà không
sợ sai lầm. Những chân lý ấy được Công Ðồng quảng diễn theo ba
cách:
a) Trước hết mối dây liên lạc giữa chức tư tế
cộng đồng với sứ mệnh tiên tri của Chúa Kitô, sứ mệnh mà Dân
Chúa tham dự và cũng nhờ đó mới có thể minh chứng đức tin.
b) Ý thức đức tin có ảnh hưởng trong cộng đoàn
nhờ việc Chúa Thánh Thần xức dầu, và như vậy chính tín hữu, được
soi sáng trong tâm hồn, sẽ phân biệt giáo lý chân chính với tà
thuyết.
c) Trong ý thức đức tin, người ta có thể nhận ra
một đoàn sủng được trao ban cho toàn thể cộng đoàn, và biểu lộ
bằng những ân sủng đặc biệt do Chúa Thánh Thần tự do ban phát vì
lợi ích cộng đoàn. Các đoàn sủng bày tỏ quyền năng hoạt động của
Chúa Thánh Thần trong Dân Chúa. Tuy nhiên, các thủ lãnh của Giáo
Hội phải cho biết giá trị chính thực của những ân sủng đặc biệt
này.
16*
Các số 13-16: Công giáo tính của một Dân Thiên Chúa.
Từ số 13, Công Ðồng bắt đầu một khai triển mới,
nhấn mạnh tới điều cốt yếu của hiệp nhất công giáo, nghĩa là tới
sự hiệp nhất của Giáo Hội đang lan rộng khắp cả thế giới. Ðể quả
quyết cho đặc điểm công giáo tính này, Công Ðồng chú trọng đến ý
định cứu rỗi của Thiên Chúa (1Tm 2,3). Có hai hiệu quả là, một
đàng Giáo Hội tự mình phải lan rộng đến mọi dân tộc; đàng khác,
mọi người có thiện chí, dù sống trong tình trạng nào đi nữa, thì
cũng hoặc thuộc về Giáo Hội, hoặc có tương quan với Giáo Hội,
hoặc hướng về Giáo Hội. Chủ đề được khai triển trong hai phần:
phần nhất bàn về các nguyên tắc (số 13), và phần hai trình bày
những áp dụng cụ thể.
9
Xem T. Gioan Kim Khẩu, In Jo., bài giảng 65, 1 : PG 59, 361.
10
Xem T. Ireneô, Adv. Haer. III, 16, 6; 22, 1-3 : PG 7, 925C -
926A và 955C - 958A; Harvey 2, 87t. và 120-123; Sagnard, x.b.
Sources Chrét. Trg 290-292 và 372tt.
11 Xem T. Inhaxiô Tử Ðạo, Ad
Rom., Lời mở đầu : x.b. Funk, I, trg 252.
17* Số 13: Công giáo tính cứ
luật của Giáo Hội.
Số 13 đã được
sửa đổi hầu hết trong lần tu chính sau cùng. Theo thuyết trình
viên thì "chủ đích của bản văn này là trình bày những nguyên tắc
của hiệp nhất tính và phổ quát tính của Dân Chúa, trước khi mô
tả những phương thức khác nhau làm cho con người liên kết với
Dân Chúa (các số 14-16). Bởi vậy, đoạn này chính là gạch nối
giữa hai phần của chương hai: phần đầu nói lên những đặc tính
tổng quát của Dân Chúa, phần sau bàn về các thành phần, hoặc
hiện là thành phần, hoặc là thành phần trong tiềm năng" (Rel.
Gen.).
Những chủ đề
được quảng diễn như sau:
a) Ðoạn đầu
(13a) chỉ nhấn mạnh tới sự hiệp nhất nối kết Giáo Hội mọi lúc và
mọi nơi. Thiên Chúa đã muốn qui tụ toàn thể nhân loại trong Con
của Ngài nhờ hoạt động hiệp nhất của Chúa Thánh Thần, và còn
muốn nối kết nhân loại trong Giáo Hội của Chúa Kitô. Sự hiệp
nhất thấy được trong việc bẻ bánh và trong kinh nguyện.
b) Ðoạn hai
(13b) khai triển ý tưởng Dân Chúa hiện diện trong mọi quốc gia
trên mặt đất mà không đồng hóa với một quốc gia nào. Dân Chúa
phổ quát theo sự lan rộng về địa lý nhưng lại vượt quá biên
cương mọi quốc gia do đặc tính siêu việt và do sự kiện bắt nguồn
từ Thiên Chúa. Chính thế mà mọi dân mọi nước khác biệt lại trở
thành anh em và sự hiệp nhất của Dân Chúa có tính cách "công
giáo" thực sự. Chủ đề thu-về-một-mối được áp dụng triệt để.
c) Nhờ đặc tính
công giáo ấy, tất cả các phần tử Dân Chúa đặt mọi của cải và ân
huệ riêng biệt của mình làm của chung. Cơ cấu nội tại của sự
hiệp nhất công giáo của Giáo Hội thật phức tạp. Bởi vậy mới có
sự dị biệt hiệp nhất trong mọi tầng lớp của Dân Chúa và mọi phần
tử phải hợp tác vào sự hiệp nhất dị biệt. Ngay trên bình diện
Giáo Hội, cũng cần phải có các giáo hội địa phương khác biệt
nhau nhưng bổ túc cho nhau, mà không phương hại tới sự hiệp
nhất. Hủy bỏ mọi khác biệt sẽ tạo nên tình trạng nhàm chán nghèo
nàn, và là lý do gây nguy hại cho chính việc hiệp nhất. Nhưng
muốn cho sự dị biệt sinh hiệu quả phong phú, cần phải có yếu tố
thông hảo trong đức ái. Trong chiều hướng ấy, Giáo Hội Rôma là
năng lực cai trị và là sự thống nhất các nguyên tắc nhờ trung
thành với đức ái (13c).
Trong câu kết
luận (13d) sửa soạn cho phần khai triển kế tiếp, Công Ðồng tái
xác nhận việc mọi người được mời gọi tới ơn cứu rỗi trong Dân
Chúa, nhưng mức độ tham dự và qui hướng tới Dân Chúa lại rất
khác nhau, tùy như người đó đã chịu phép Thánh Tẩy hay mới chỉ
là những người được định hướng tới Giáo Hội mà chính họ không
hay biết. Ðể nói lên sự khác nhau đó, Công Ðồng xử dụng hai động
từ: pertineri và ordinari. Chỉ những ai chịu phép Thánh Tẩy đúng
ra mới thuộc về Dân Chúa, còn những người khác hướng về Dân Chúa
tùy như mức độ và thiện chí của họ. Cũng như sự lôi cuốn giữa
Cha và Con mà Giáo Hội được tham dự, Giáo Hội cũng lôi kéo đến
mình tất cả mọi người không trừ ai, bởi vì mọi người đều qui
hướng về Giáo Hội do ý định cứu rỗi phổ quát. |
VỀ MỤC LỤC |
|
Học Thuyết Xã Hội Công
Giáo |
II. Con Người
B. Nhân quyền và Tôn Giáo (số 66 –
83)
21. Nhân quyền là gì?
Nhân quyền là
những quyền căn bản mà mọi người đều có. Đó là quyền sống, quyền tự
do, quyền mưu cầu hạnh phúc và những phương tiện cần thiết để phát
triển đời sống của họ như: lương thực, nhà ở, nghỉ ngơi, y tế và
những dịch vụ xã hội tối thiểu khác. Vì thế, khi con người mất khả
năng làm việc do bệnh tật, già yếu, thất nghiệp hay vì bất cứ nguyên
nhân nào mà dẫn đến hậu quả ảnh hưởng đến sự tồn tại của họ, thì họ
cũng có quyền được bảo vệ. Những quyền cơ bản nêu trên có giá trị
cho mọi người và mang tính bắt buộc, không thể bị xâm phạm.
22. Nguyên tắc cơ bản nào được áp
dụng trong HTXHCG để bảo vệ nhân quyền?
Về mặt pháp lý,
dựa theo quy tắc đức công bằng. Nhân quyền được bảo đảm đầy đủ và
không thiên vị. Theo trật tự công bằng do bởi ý Thiên Chúa, những
giá trị nhân quyền nơi mỗi người mang tính vĩnh viễn. Họ có đầy đủ
quyền để đòi hỏi nhân quyền của họ, nên không có một cơ chế độc tài
nào có thể tước đoạt nhân quyền được. (cf. Pius XII, Christmas
Eve Radio Message, 1942).
Về mặt luân lý,
nhân quyền cần được bảo vệ vì nhân quyền được xuất phát từ phẩm giá
của con người. Mọi nhà cầm quyền điều phải thừa nhận tính hợp pháp
luân lý này. Nếu bất cứ nhà cầm quyền nào miệt thị, từ chối điều
này, thì nền luân lý của xã hội ấy cũng sẽ bị suy yếu, xói mòn; và
chính quyền chỉ có thể dùng vũ lực để buộc người dân tuân theo ý họ.
(cf. GLCG #1930)
23. Thực thi nhân quyền có giúp con
người hướng đến Thiên Chúa không
Thưa có. Khi
mối quan hệ trong xã hội con người được biểu hiện bằng quyền và bổn
phận thì con người ngày càng ý thức hơn về những giá trị tinh thần,
ý nghĩa của công bằng, bác ái, tự do và họ cũng hiểu sâu hơn rằng họ
đang sống trong thế giới có giá trị. Khi nhận ra điều đó, họ đang
được dẫn vào khả năng nhận biết một Thiên Chúa gần gũi và siêu việt.
Vì thế, đời họ sẽ được gắn chặt với Thiên Chúa là nền tảng và tiêu
chuẩn tuyệt đối cho cả đời sống tâm linh và xã hội của họ. (cf.
Pacem in Terris #45)
24. Mỗi cá nhân có bổn phận tôn
trọng nhân quyền không?
Mỗi cá nhân khi
ý thức về quyền của chính mình như thế nào thì họ cũng cần phải ý
thức về bổn phận của chính họ như vậy. Mỗi một người, dù có khác
biệt về diện mạo, vị trí xã hội, tư chất thông minh và cả nhận thức
luân lý, nhưng tất cả đều có chung một nguồn gốc và cứu cánh là
Thiên Chúa. Vì thế, tất cả các hình thức kỳ thị về văn hóa, xã hội,
chủng tộc, giới tính, màu da, vị trí xã hội, ngôn ngữ và tôn giáo là
đi ngược lại với ý định của Thiên Chúa.
25. Nhà nước có bổn phận tôn trọng
các tổ chức xã hội không?
Tất cả mọi tổ
chức con người, cả nhà nước và cá nhân, đều phải có trách nhiệm chăm
sóc và bảo vệ nhân quyền. Một mặt, các tổ chức cá nhân thực thi
quyền tự nhiên của họ khi thành lập các tổ chức xã hội. Mặt khác,
một trong các bổn phận chính yếu của nhà nước là phải bảo vệ quyền
tự nhiên của con người, trong đó có quyền lập hội. Như vậy, nếu nhà
nước ngăn cấm công dân mình tham gia vào các tổ chức xã hội, thì
điều đó trái với bản chất của nhà nước. Vì thực ra, cả nhà nước và
các tổ chức xã hội đều được sinh ra từ một nguyên tắc căn bản là:
con người, theo bản chất tự nhiên, họ liên kết với nhau. (cf.
Rerum Novarum,
# 51).
Huynhquảng
|
VỀ MỤC LỤC |
|
TÔN KÍNH THÁNH
KINH |
LỜI MỞ ĐẦU
Lời Chúa trong Thánh Kinh là của ăn tinh thần
rất cần thiết cho đời sống thiêng liêng của các tín hữu. Chính Chúa Giêsu đã nói
: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi Lời
miệng Thiên Chúa phán ra.” (Mt 4,4)
Nhưng ngày nay nhiều người vẫn chưa hiểu biết
tầm quan trọng của Lời Chúa trong đời sống cá nhân cũng như tập thể, vì thế,
Công Đồng Vaticanô II đã dành hẳn một Hiến Chế để trình bày tín lý về Mặc Khải
của Thiên Chúa và đã khảng định : ”Hội Thánh luôn tôn kính Thánh Kinh như
chính thân thể Chúa.” (MK số 21)
Hội Đồng Giám Mục Việt Nam cũng đã kêu gọi
các tín hữu hãy Sống Lời Chúa. Các ngài viết trong thư mục vụ năm 2005 như sau :
-”Ngoài bàn tiệc Thánh Thể, người Kitô còn
được mời gọi tham dự bàn tiệc thứ hai là bàn tiệc Lời Chúa. Thật ra cả hai
bàn tiệc đều diễn tả cùng một mầu nhiệm, mầu nhiệm Sự Sống.
Vì thế chúng tôi mời gọi anh chị em đào sâu ý nghĩa và vai trò của Lời Chúa.
Hơn nữa, năm nay kỷ niệm 40 năm Hiến Chế Tín Lý của Công Đồng Vaticanô II về Mạc
Khải của Thiên Chúa, một trong những văn kiện quan trọng nhất của Công Đồng về
giáo lý cũng như về mục vụ.” (Số 1)
Trong tinh thần chia sẻ và đáp ứng lời kêu
gọi của HĐGM, tôi gửi đến anh chị em một số đề tài liên quan đến Lời Chúa trong
Thánh Kinh, giúp anh chị em thêm hiểu biết, tin tưởng, thực hành và loan truyền
Lời Chúa cho mọi người.
Trong phần nội dung, tôi dựa vào Thánh Kinh
và Công Đồng Vaticanô II, đặc biệt là Hiến Chế tín lý về Mạc Khải để trình bày
theo thứ tự như sau :
1/ Ý nghĩa và nội dung Thánh Kinh.
2/ Hội Thánh tôn Kính Thánh Kinh.
3/ Lắng nghe và thực hành Lời Chúa.
Chương một
Ý NGHĨA VÀ NỘI DUNG THÁNH KINH
1. Thánh Kinh là gì ?
Thánh Kinh là sách ghi chép Lời Thiên Chúa
phán dạy, dưới sự linh ứng của Chúa Thánh Thần, và được ghi chép một lần cho
muôn đời, để dẫn đưa loài người tiến vào Nước Trời.
Thánh Phaolô đã trình bày nhiều lần như sau :
-”Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách Thiên
Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này,
Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử.”
(Dt 1,1-2)
-”Mọi lời xưa đã chép trong Thánh Kinh,
đều được chép để dạy dỗ chúng ta. Những lời ấy làm cho chúng ta nên kiên nhẫn và
an ủi chúng ta, để nhờ đó chúng ta vững lòng trông cậy.” (Rm15,4)
-”Tất cả những gì viết trong Thánh Kinh
đều do Thiên Chúa linh ứng, và có ích cho việc giảng dạy, biện bác, sửa dạy,
giáo dục để trở nên công chính. Nhờ vậy, người của Thiên Chúa nên thập toàn, và
được trang bị đầy đủ để làm mọi việc lành.” (2 Tm 16-17)
-”Lời Thiên Chúa là Lời sống động, hữu
hiệu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi : xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh,
cốt với tủy; lời đó phê phán tâm linh cũng như tư tưởng của lòng người. Vì không
có loài thọ tạo nào mà không hiện rõ trước Lời Chúa, nhưng tât cả đều trần trụi
và phơi bày trước mắt Đấng có quyền đòi chúng ta trả lẽ.”
(Dt 4,12-13)
Thánh Phêrô cũng đã dạy :
-”Lời Chúa vẫn tồn tại đến muôn thuở muôn
đời. Đó chính là Lời đã được loan báo cho anh em như một Tin Mừng. Vậy anh em
hãy từ bỏ mọi thứ gian ác, mọi điều xảo trá, giả hình và ghen tương cùng mọi lời
nói xấu gièm pha.”
-”Như trẻ sơ sinh, anh em hãy khao khát
sữa tinh tuyền là Lời Chúa, nhờ đó anh em sẽ lớn lên để hưỏng ơn cứu độ, nếu anh
em đã nghiệm thấy Chúa tốt lành.”
(1 Pr 1,25 - 2,3)
Hội Thánh đã xác định :
-”Những gì Thiên Chúa mạc khải mà Thánh
Kinh chứa đựng và trình bày, đều được viết ra dưới sự linh ứng của Chúa Thánh
Thần.” (MK 11)
2. Ai là tác giả của Thánh
Kinh ?
Thiên Chúa là tác giả của Thánh Kinh. Bởi vì
Thánh Kinh được viết dưới sự linh ứng của Chúa Thánh Thần; nghĩa là Chúa Thánh
Thần đã tác động trên trí khôn và ý chí của “những người Chúa chọn và dùng họ
trong khả năng và phương tiện của họ, để khi chính Ngài hành động trong họ và
qua họ, họ viết ra như những tác giả đích thực tất cả những gì Chúa muốn và chỉ
viết những điều đó thôi.” (MK 11)
-”Thiên Chúa Đấng linh ứng và là tác giả
các sách Cựu Ước cũng như Tân Ước, đã khôn ngoan sắp xếp cho Tân Ước được tiềm
ẩn trong Cựu Ước, và Cựu Ước trở nên sáng tỏ trong Tân Ước. Thật vậy, dù Đức
Kitô thiết lập Giao Ước Mới trong Máu Ngài (Lc 22,20; 1 Cr 11,25), nhưng các
sách Cựu Ước vẫn được sử dụng trọn vẹn trong sứ điệp Tin Mừng, đạt được và bày
tỏ đầy đủ ý nghĩa trong Tân Ước (Mt 5,17; Lc 24,27; Rm 16,25-26; 2 Cr 3,14-16).
Ngược lại Tân Ước cũng được sáng tỏ và giải thích nhờ Cựu Ước.”
(Mk 15).
3. Thánh Kinh gồm mấy phần
và mấy quyển ?
Thánh Kinh là một công trình vĩ đại về văn
học nghệ thuật do rất nhiều người góp phần tạo nên trong suốt hơn 12 thế kỷ.
Thánh Kinh không phải là một cuốn sách đơn lẻ bình thường, nhưng là một “thư
viện nho nhỏ.”
Thư viện này gồm 73 quyển dài ngắn khác nhau,
chứa đựng cả một kho tàng tư tưởng phong phú với đủ mọi thể loại văn chương : từ
lịch sử, triết lý, luật pháp, thư, kịch, truyện, cho đến các bản thánh ca, tình
ca, ca dao, tục ngũ, châm ngôn, các lời tiên tri, những tâm tình cầu nguyện . .
.
Thánh Kinh gồm
73 quyển, chia làm 2 phần :
- Cựu Ước 46 quyển và Tân Ước 27
quyển.
- Mỗi quyển chia làm nhiều đoạn, mỗi
đoạn lại chia làm nhiều câu.
Thánh Kinh (trọn bộ hoăc từng phần) đã
được dịch ra trên 2300 ngôn ngữ khác nhau và phổ biến khắp nơi trên thế giới.
4/
Cựu Ước là gì ?
Cựu Ước là giao ước cũ, giao ước giữa Thiên
Chúa và dân Do thái qua ông Môsê. Thánh Phaolô đã gọi luật Môsê là giao ước cũ
(2 Cr 3,14).
-”Thiên Chúa đã dùng lời nói, việc làm mạc
khải cho dân Ngài đã chọn để họ biết Ngài là Thiên Chúa độc nhất, chân thật và
hằng sống, để dân Do thái nghiệm thấy đâu là đường lối Thiên Chúa đối xử với
loài người, và để nhờ chính Ngài phán dạy qua miệng các ngôn sứ, ngày qua ngày,
họ thấu hiểu các đường lối ấy cách sâu đặm và rõ ràng hơn, để rồi đem phổ biến
rộng rãi nơi các dân tộc.”
“Vì vậy, chương trình cứu độ được các
thánh sử tiên báo, thuật lại và giải thích trong các sách Cựu Ước, như là lời
nói chân thật của Chúa. Bởi vậy các sách được Thiên Chúa linh ứng này luôn có
một giá trị vĩnh viễn.” (MK 14)
-”Các sách Cựu Ước trình bày cho mọi người
biết Thiên Chúa là ai ? và Con người là ai ? Đồng thời trình bày Thiên Chúa công
bình và nhân từ đối xử với loài người như thế nào ? Tuy có nhiều khuyết điểm và
tạm bợ, nhưng các sách ấy minh chứng khoa sư phạm đích thực của Thiên Chúa.”
“Do đó các Kitô hữu phải thành kính đón
nhận các sách này, vì chúng diễn tả một cảm thức sâu sắc về Thiên Chúa, tàng trữ
những lời giáo huấn cao siêu về Ngài, những tư tưởng khôn ngoan và hữu ích về
đời sống con người, những kho tàng kinh nghiệm tuyệt diệu, và sau cùng ẩn chứa
mầu nhiệm cứu rỗi chúng ta.” (MK
15)
5. Các sách Cựu Ước chia
làm mấy thể loại ? và nôi dung là gì ?
Cựu Ước được hình thành trong khoảng từ năm
1200 đến năm 100 trước Công nguyên (trước Chúa Giêsu). Các sách Cựu Ước hầu hết
được viết bằng tiếng Hip-ri (Do thái) và sau này được dịch ra tiếng Hy lạp.
Các sách Cựu Ước thường được chia làm 4 thể
loại như sau :
I-
5 quyển luật Môsê Ngũ Kinh : Sáng Thế, Xuất Hành, Lê-vi, Dân số và
Đệ nhị luật.
Các sách này ghi lại liên tục phần đầu của
lịch sử cứu độ. Chương trình của Thiên Chúa trên nhân loại nói chung và việc
Chúa tuyển chọn một dân tộc để thực hiện chương trình ấy. Đó là dân Is-ra-en (Do
thái).
II-
16 quyển lịch sử : Gio-su-ê, Thủ lãnh, Rút, Sa-mu-en (2 quyển),
Các vua (2 quyển), Sử biên niên (2 quyển), Ét-ra, Nơ-khe-mi-a, Tô-bi-a,
Giu-đi-tha, Ét-te, Ma-ca-bê (2 quyển).
Các sác này ghi lại lịch sử dân Chúa chọn
trên phần đất họ đã định cư. Đó cũng là lịch sử những thăng trầm trong mối quan
hệ giữa Thiên Chúa và dân Ngài. Những thăng trầm này nằm trong kế hoạch giáo dục
lâu dài của Thiên Chúa để dọn đường và chuẩn bị cho Đấng Cứu Thế là Chúa Giêsu
Kitô giáng sinh.
III-
7 quyển thi phú : Gióp, Thánh vịnh, Châm ngôn, Giảng viên, Diễm
ca, Khôn ngoan và Huấn ca.
Các sách này diễn tả và giúp xây dựng mối
quan hệ cần có giữa con người và Thiên Chúa trong đời sống thực tế. Từ những suy
tư triết học về ý nghĩa cuộc sống, ý nghĩa sự đau khổ, sang đến quan niệm đúng
đắn về tình yêu, những lời khuyên cho cuộc sống hôn nhân, gia đình cho việc giáo
dục, các mối giao tế xã hội cho tới những lời cầu nguyện hằng ngày dâng lên
Thiên Chúa.
IV-
18 quyển ngôn sứ : I-sai-a, Giê-rê-mi-a, Ai-ca, Ba-rúc,
Ê-dê-ki-en, Đa-ni-en, Hô-sê, Gio-en, A-mốt, Ô-va-đi-a, Gio-na, Mi-kha, Na-khum,
Kha-ba-cúc, Xô-phô-ni-a, Khác-gai, Da-ca-ri-a và Ma-la-khi.
Các ngôn sứ là những người được Chúa chọn sai
đến chuyển trao lời Chúa cho dân Ngài. Các sách ngôn sứ giúp chúng ta hiểu thêm
về các giai đoạn lịch sử cách sâu sắc. Lịch sử đáng vui hay đáng buồn là tùy con
người trung thành hay bất trung với tình yêu Thiên Chúa và các giới luật của
Ngài. Muốn tiến đến một tương lai tươi đẹp cả trên thế giới này và trong vũ trụ
mới mai sau, chúng ta cần phải biết đi vào chương trình tình yêu của Thiên Chúa
Sáng Tạo.
6. Tân Ước là gì ?
Tân Ước là giao ước mới giữa Thiên Chúa và
loài người qua Chúa Giêsu Kitô. Tân Ước là giao ước vĩnh cửu đã thành hình trong
Máu Chúa Giêsu Kitô (1 Cr 11,25) đổ ra một lần là đủ. (Dt 9,23-26)
Hội Thánh xác định như sau :
-”Khi đến thời viên mãn (Ga 4,4), Ngôi Lời
đầy tràn ân sủng và chân lý đã nhập thể và ở giữa chúng ta (Ga 1,14). Chúa Giêsu
Kitô đã thiết lập Nước Thiên Chúa trên trần gian. Ngài mạc khải Cha Ngài và
chính Mình qua lời nói, việc làm và hoàn tất công trình Ngài khi Ngài chịu chết,
sống lại, lên trời vinh hiển và khi Ngài sai Chúa Thánh Thần đến.”
-”Khi bị treo lên khỏi đất (Ga 12,32),
Ngài kéo mọi người đến với Mình. Ngài là Đấng duy nhất có những Lời ban sự sống
vĩnh cửu (Ga 6,68).”
-”Nhưng mầu nhiệm này chưa bao giờ được tỏ
cho các thế hệ trước biết, nay đã được mạc khải trong Thánh Thần cho các Tông đồ
. . . để họ rao giảng Tin Mừng, cổ võ lòng tin vào Chúa Giêsu. Những việc này,
các sách Tân Ước đã minh chứng với một bằng chứng có giá trị vĩnh viễn và thần
linh.” (MK 17)
Thật vậy, giao ước cũ và giao ước mới có một
sự duy nhất, vì do cùng một Thiên Chúa là tác giả. Giao ước cũ đạt được sự hoàn
tất viên mãn của mình nơi Chúa Giêsu.
7. Các sách Tân Ước chia
làm mấy thể loại ? và nôi dung là gì ?
Tân Ước gồm 27 quyển, được viết bằng tiếng Hy
lạp phổ thông thời bấy giờ. Tuy gọi là sách, nhưng thực ra có những thư chỉ đài
khoảng 1, 2 trang (như : thư 1 Gioan, thư 3 Gioan, thư gửi Phi-lê-mon).
Chúng ta có thể chia các sách Tân Ước làm 4
loa?i, dựa trên bốn thể văn khác nhau :
I- Thể
văn Tin Mừng (cũng gọi là Phúc Âm) : Bốn sách đầu tiên của Tân Ước là
Mát-thêu, Mác-cô, Lu-ca và Gio-an.
Bốn sách Tin Mừng chiếm một địa vị ưu việt
trong tất cả Thánh Kinh, “bởi vì Tin Mừng là chứng tá chính yếu về đời sống
và giáo lý của Ngôi Lời Nhập Thể, Đấng Cứu Độ chúng ta.” (MK18)
Công đồng Vat. II đã coi các sách Tin Mừng
như những chứng từ thành văn của các tông đồ, hay của những vị đã sống bên các
tông đồ ghi chép lại, do ơn Chúa Thánh Thần linh ứng. Đó là chứng từ đức tin
mang hai đặc điểm sau đây :
a) Chứng từ này được viết lại sau
những biến cố nền tảng của Kitô giáo : phục sinh, lên trời và hiện xuống. Các
biến cố này như những luồng sáng chiếu dọi vào toàn bộ cuộc đời Chúa Giêsu,
khiến cho các tông đồ hiểu biết thâm trầm hơn về các việc làm và lời nói của
Ngài.
b) Chứng từ này mang đậm nét đặc
thù của từng tác giả. Khi soạn thảo các sách Tin Mừng, mỗi tác giả đã phải chọn
lựa những yếu tố được truyền khẩu, hay được ghi lại thành văn, cộng thêm những
hiểu biết riêng của mình mà làm nên một tác phẩm. Tác phẩm này được viết cho một
giáo đoàn nhất định và với một mục đích nhất định.
Bốn sách Tin Mừng là bốn cái nhìn
về cùng một thực tại là Chúa Giêsu, bốn cái nhìn khác nhau nhưng bổ túc cho
nhau, để chúng ta có cái nhìn trọn vẹn về Con Thiên Chúa.
II-
Thể văn Lịch sử Tôn giáo : Sách Công vụ Tông đồ.
Sách này kể lại buổi đầu của Hội Thánh và
công cuộc loan báo Tin Mừng cho các dân tộc. Sách này không phải là một tài liệu
thuần túy lịch sử và cũng không phải là một sách giáo lý thuần túy. Có thể nói
sách Công vụ Tông đồ là sách lịch sử nhằm giáo huấn.
Tác giả Luca đã viết sách này cho những tín
hữu gốc dân ngoại, để nói lên sứ điệp cứu độ được gửi tới tất cả mọi người,
trước là người Do thái, sau là dân ngoại.
III-
Thể văn Thư Tôn giáo chính thức : Gồm có 21 thư chia ra : 14 thư của
thánh Phaolô; 1 thư của thánh Gia-cô-bê; 2 thư của thánh Phê-rô; 3 thư của thánh
Gio-an và 1 thư của thánh Giu-đa.
Đây là những lá thư thật sự, vì được gửi tới
những cá nhân, như : Ti-mô-tê, Ti-tô, Phi-lê-mon, hay gửi cho các giáo đoàn ở
trong đế quốc Rô-ma.
Các thư phát xuất từ những hoàn cảnh cụ thể,
nhằm đáp ứng những nhu cầu cụ thể, như : Củng cố lòng tin, khích lệ trong cơn
bách hại, xác định những điểm giáo lý, uốn nắn những lệch lạc, ngăn ngừa những
sai lầm . . .
Các thư này thường được đọc công khai trong
các buổi họp cộng đoàn tín hữu (1 Tx 5,27) và cũng có thể được trao đổi giữa các
cộng đoàn (Cl 4,16).
Các thư phản ánh việc Sống Lời Chúa của các
cộng đoàn dân Chúa ở thế kỷ đầu, với những khó khăn riêng. Nhưng ngày nay chúng
ta cũng có thể khám phá thấy nơi các thư một sứ điệp luôn mới mẻ cho đức tin của
chúng ta, miễn là biết thích ứng sứ điệp đó cho thời đại chúng ta đang sống.
IV-
Thể văn Khải Huyền : Sách Khải huyền của thánh Gio-an.
Đây là thể văn thịnh hành trong văn chương Do
thái thời trước Chúa Giêsu 2 thế kỷ và sau Chúa Giêsu 1 thế kỷ. Thể văn này sử
dụng nhiều hình ảnh, con số, tên gọi và mầu sắc mang ý nghĩa tượng trưng.
Để hiểu được ý nghĩa của chúng, chúng ta cần
quy chiếu về Cựu Ước và các sách khải huyền khác, chứ không nên hiểu theo nghĩa
đen.
Sách Khải Huyền được viết để củng cố niềm hy
vọng cho các tín hữu đang bị bách hại vì đức tin. Tác giả Gio-an đã phác họa một
loạt những thị kiến có tính tượng trưng để mô tả cuộc giao tranh trong vũ trụ :
Giữa sự thiện và sự ác, giữa Chúa Kitô và Sa-tan; cuối cùng Chúa Kitô và các
thánh sẽ toàn thắng. Đó là động lực giúp người tín hữu vững tâm đợi chờ sự can
thiệp của Thiên Chúa.
Như thế, sách Khải Huyền vẫn có giá trị cho
mọi thời, vì lịch sử vẫn còn là cuộc tranh chấp cho tới khi Chúa Giêsu Kitô trở
lại.
Lm.
Giuse Hoàng Kim Đại
|
VỀ MỤC LỤC |
|
TÂM SỰ NGƯỜI LINH MỤC. |
Lời Ngỏ: Tác gỉa xin gởi
tặng bài viết này cho anh em DCCT.VN hiện đang truyền giáo tại các
vùng cao nguyên, đặc biệt là nơi có đông đảo anh chị em dân tộc
thiểu số. Người viết cũng ước ao gởi đến các anh em linh mục Triều
đang làm việc tại các họ đạo miền quê hay các vùng sâu xa, để nói
lên sự cảm thông trong những khó khăn và sự cô quạnh mà anh em đã
can đảm chấp nhận.
Michel Quoist, một cái tên
khá quen thuộc và có lẽ không xa lạ gì lắm đối với chúng ta. Ngài đã
trở nên danh tiếng nhờ vào một số các tác phẩm mà ngài đã viết và
cho xuất bản, đặc biệt là cuốn, “Prayers of Life”. Tác phẩm
này đã được dịch sang 24 ngôn ngữ và đã in trên hai triệu ấn bản,
được phổ biến trên khắp thế giới. Trong cuốn sách này, linh mục
Michel Quoist đã gói ghém phần lớn tất cả những kinh nghiệm quý báu
của đời sống linh mục. Ngài viết với tất cả tấm lòng và chân tình
chia sẽ những kinh nghiệm buồn vui, sướng khổ, hạnh phúc và gian
truân của người linh mục, ngay cả những nỗi cô đơn và thất vọng. Đọc
tác phẩm ấy, tôi cảm thấy được sự cảm thông và sự nâng đỡ về mặt
tinh thần của một người đàn anh linh mục, đã từng trải, đã từng va
chạm và đã từng nếm thử sự diụ ngọt cũng như đắng cay của một kiếp
người. Tôi rất ngưỡng mộ cha Michel Quoist, dù chưa một lần được
diện kiến, tôi chỉ biết về ngài qua các tác phẩm mà ngài đã xuất
bản. Cũng như tôi, chưa từng lần nào có cái vinh dự lớn lao được
diện kiến Đức Giêsu, như các môn đệ đồng thời với Ngài, nhưng tôi đã
gặp và biết Ngài qua Lời Ngài đã phán. Lời đã hóa thành nhục thể và
cư ngụ giữa chúng ta. Chính vì sự gặp gỡ Đức Giêsu, nên cuộc đời tôi
đã biến đổi, đã chuyển hướng và rồi kết cuộc, tôi đã thành người môn
độ của Ngài, trong sứ vụ linh mục.
Cha Michel Quoist đã để lại
cho tôi nhiều ấn tượng, đặc biệt những gì ngài viết trong Lời
nguyện của vị linh mục vào buổi chiều chủ nhật.
“Người ta đòi hỏi rất nhiều
ở người linh mục, và có lẽ đúng như thế. Nhưng họ cũng nên hiểu rằng
làm linh mục không phải là chuyện dễ dàng. Người linh mục đã cho đi
tất cả thời thanh xuân của mình, nhưng họ vẫn mang thân phận con
người, và vì thế mỗi ngày “con người ấy” nơi vị linh mục, muốn tìm
cách lấy lại những gì mà mình đã từ bỏ hoặc dâng hiến. Thật là một
sự chiến đấu và giằng co liên tục để có thể hoàn toàn phục vụ Thiên
Chúa và tha nhân.
Người linh mục không cần
những lời ca tụng (chỉ bằng đầu môi chót lưỡi) hoặc những qùa tặng
đắt tiền; điều mà họ cần là những ai được trao phó cho họ chăm sóc
biết sống yêu thương kẻ khác, qua đó chứng tỏ cho họ thấy rằng, đời
sống hiến dâng của họ đã không luống công vô ích. Vì vẫn là con
người (với nam tính), linh mục thỉnh thoảng cần những cử chỉ tế nhị
của một tình bạn mà không cần chiếm hữu... vào những buổi chiều chủ
nhật khi một mình lẻ loi, đơn độc.”[i
Khi đọc những dòng chữ này
của cha Michel Quoist, tôi liên tưởng đến các anh em linh mục bạn
của tôi, mà hiện nay họ đang phục vụ rải rác trên các cánh đồng
truyền giáo tại nhiều nơi trên khắp cùng bờ cõi Việt Nam và tại Hải
Ngoại. Họ là những sĩ tử Dòng Chúa Cứu Thế, mang trong người tinh
thần và nhiệt huyết muốn đem Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô đến cho
người nghèo, những con người tất bạt, đang bị xã hội và giáo hội
lãng quên. Lẽ đó, họ đã không quản ngại đường xá xa xôi, họ lặn lội
vào tận trong các buôn làng của người anh em miền cao nguyên, có khi
giáp cả biên giới Việt-Miên-Lào. Họ sống trong một môi trường và một
điều kiện thiếu thốn về mọi phương diện, đặc biệt là về mặt vật
chất. Thế nhưng họ vẫn hăng say rao giảng Lời Chúa, Lời hằng sống,
Lời có khả năng tái sinh con người, biến đổi người nghe, từ những
con người ích kỷ, chỉ biết sống cho chính mình trở thành những con
người quảng đại, biết cho đi và sống trọn vẹn cho tha nhân.
Cách đây ba năm (2004), khi
tôi đang phục vụ tại Việt Nam. Có lần tôi được cha giám tỉnh cho
tháp tùng, đi thăm viếng anh em DCCT tại các điạ điểm truyền giáo
của nhà dòng trên vùng cao nguyên, tỷ dụ như: Bảo Lộc, Pleiku,
Kontum .v.v... Khi đến nơi, tôi hơi bàng hoàng và ngạc nhiên vô
cùng... không hiểu lý do nào đã thúc đẩy những người anh em linh mục
trẻ của nhà dòng lại bằng lòng dấn thân và vui vẻ phục vụ tại đây.
Khi tôi được họ mời lên ngôi nhà chòi mà họ đang tạm trú, tôi không
cầm được nước mắt, nhìn thấy tận mắt, nơi họ ăn uống và ngủ nghỉ qúa
đơn sơ, nghèo nàn, ngoài những gì mà tôi có thể tưởng tượng hoặc
hình dung. Phòng ngủ của họ chỉ có một cái chiếu manh trải trên sàn
nhà và một cái gối cũ. Bàn làm việc thì rất sơ sài, có anh em dùng
cái vali (rương) của mình làm bàn viết. Họ ăn uống rất đạm bạc, đôi
khi không có gạo để nấu cơm, họ ăn khoai hoặc bắp, do dân làng biếu.
Bổng lễ của họ là những quày chuối hoặc những trái bầu, trái bí. Ấy
thế mà nơi họ lại toát ra một niềm vui sâu thẳm, nét mặt của anh em
lúc nào cũng tươi cười, hân hoan, họ dường như cảm nghiệm được một
cái gì đó huyền nhiệm lắm, niềm vui của kẻ dám cho đi, ngay cả mạng
sống của chính mình, để yêu thương và phục vụ những con người nghèo,
những người đang bị ruồng bỏ, không ai muốn đoái hoài tới.
Và tôi cũng liên tưởng tới
những người anh em linh mục Việt Nam, hiện nay đang phục vụ tại các
xứ đạo miền quê tại các giáo phận xa xôi trên lãnh thổ Úc Châu này.
Những anh em ấy đã chia sẻ với tôi, cái nỗi niềm cô đơn của họ, vì
phải sống trong một môi trường cách biệt, qúa xa đối với người giáo
dân hay bạn bè. Có anh em cho biết, đôi khi lái xe hơn cả 100 cây số
để dâng thánh lễ chủ nhật, ấy vậy chỉ có khoảng 4-5 người tham dự,
sau đó lại phải lái xe chạy sang một địa điểm khác cũng xa khoảng
như vậy. Bù lại cho những em anh linh mục ở miền quê, thì họ cho
biết, giáo dân tại đó rất thân thiện, họ rất qúy mến và yêu thương
các linh mục của mình. Nhờ đó mà họ cảm thấy được sự đỡ nâng thực sự
về mặt tinh thần.
Riêng bản thân tôi, vì là
linh mục dòng, nên tôi sống trong cộng đoàn với anh em, mọi sinh
hoạt trong đời sống thường ngày có giờ giấc quy định hẳn hoi, ngay
cả giờ ăn, giờ kinh nguyện hoặc thánh lễ. Điều này là một trợ giúp
rất lớn đối với tôi trong đời sống tu trì. Tôi cảm thấy sự đỡ nâng
của anh em trong cộng đoàn, những lúc vui hoặc buồn, tôi luôn luôn
có người để tâm sự hoặc chia sẻ, nếu muốn. Lúc nào tôi cũng có anh
em ở bên cạnh. Tuy nhiên, hai năm vừa rồi, tôi có được cơ hội phục
vụ tại một xứ đạo tương đối khá sống động và giáo dân tại đây vẫn
siêng năng tham dự thánh lễ mỗi chủ nhật, cũng như ngày thường. Tại
đây tôi học hỏi được nhiều kinh nghiệm, trước tiên là từ cha xứ, một
linh mục triều, rất năng nổ, và có nhiều khả năng. Ngài lúc nào cũng
vui vẻ, ân cần tiếp đón giáo dân, và luôn sẵn sàng giúp đỡ họ, nếu
có yêu cầu. Có lẽ trời ban cho ngài một đức tính luôn sẵn sàng và ít
khi biết từ chối.
Tôi làm việc và sống với
ngài được hai năm, anh em chúng tôi sống với nhau rất thân tình, sẵn
sàng chia sẻ mọi công việc, ngay cả những gánh nặng nếu có... Chúng
tôi luôn tôn trọng lẫn nhau và dành cho nhau những khoảng thời gian
cần thiết. Tôi thích những buổi tối thứ bảy hoặc chủ nhật, khi cả
hai anh em chúng tôi đều có mặt ở nhà, sau khi dâng thánh lễ và đóng
cửa nhà thờ. Chúng tôi, tổ chức nấu ăn và rồi cùng dùng bữa cơm tối
chung với nhau, những lần như vậy, anh em chúng tôi thường hay khui
một chai rượu vang để uống và thưởng thức, vì “rượu ngon phải có bạn
hiền.” Trong những lúc như vậy, anh em chúng tôi thỉnh thoảng đàm
đạo với nhau công việc của xứ hoặc bàn thảo các chương trình và kế
hoạch cho tương lai, đôi khi hai anh em chỉ nói chuyện để tâm sự và
chia sẻ với nhau về những gì mình cảm nghiệm trong cuộc sống hay
trong công việc mục vụ của mình.
Tôi nhớ có lần ngài đi nghỉ
holiday một tháng và tôi phải trông nom giáo xứ một mình. Mỗi tối
khi đêm về, nhất là những ngày cuối tuần, sau khi dâng thánh lễ
chiều ngày thứ bảy, tôi phụ với một vài giáo dân đóng cửa nhà thờ,
rồi một mình trở lại ngôi nhà xứ vắng lặng, vì chỉ một mình tôi lúc
đó, lủi thủi xuống nhà bếp kiếm gì ăn cho xong bữa, rồi đi ngủ để
sáng mai còn dậy sớm, hầu dâng thêm 3 thánh lễ vào sáng ngày chủ
nhật. Có một lần, tôi bị cảm cúm vào giữa tuần, ho nhiều và mất ngủ,
tôi bị lên cơn sốt, bà thư ký cố gắng gọi điện thoại để mời cha
khách phụ tôi dâng lễ cuối tuần, nhưng vì qúa cận ngày, nên các ngài
đều bận cả, không cha nào có thể giúp dâng lễ vào ngày thứ bảy hoặc
chủ nhật, thế là tôi đành phải lãnh đủ. Dù trong người còn yếu và
nói không muốn ra tiếng, tôi cũng phải cố gắng ra khỏi giường, sang
bên nhà thờ để cử hành thánh lễ cho giáo dân, tôi cố gắng giảng
nhưng khi giảng xong thì tôi lại bị “mất tiếng”! Những lúc như vậy,
tôi nhớ đến những anh em linh mục của tôi, nhất là những anh em linh
mục triều, đang làm việc tại các giáo xứ, có thể các vị ấy cũng đang
ở trong hoàn cảnh tương tự như tôi, tôi thấy thương cho các ngài, vì
bây giờ, tôi đã trải qua cái kinh nghiệm ấy, một mình phải tự lo cho
chính mình trong lúc ốm đau, đàng khác còn phải lo phục vụ giáo dân,
cử hành thánh lễ cho họ.
Trải qua hai năm làm việc
tại giáo xứ, tôi cảm thông và hiểu được phần nào về đời sống linh
mục của các anh em bên triều. Tôi thấy trách nhiệm của họ nặng nề và
đôi khi khá căng thẳng, họ làm việc nhiều để có thể đáp ứng các nhu
cầu của người giáo dân, từ việc rửa tội, cho đến hôn phối, từ đám
tang cho đến đám cưới. Họ đảm nhận vai trò lãnh đạo, cương vị chủ
chăn, người tư vấn, người trung gian, môi giới, làm hòa, người làm
bia lãnh đạn khi có chiến tranh bùng nổ giữa các nhóm với nhau. Tóm
lại, họ qủa thực là “làm dâu” trăm họ! Một vai trò khó có thể chu
toàn cách hoàn hảo, nhất là đôi khi gặp phải các bà “mẹ chồng” khó
nết, ưa nói hành nói tỏi, ưa chỉ trích và chê bai, chứ ít khi biết
nâng đỡ, khích lệ hoặc khen ngợi thực tình.
Bởi vậy, tôi cảm thấy rất
chí lý điều mà cha Michel Quoist đã viết mà tôi mạn phép được trích
dẫn thêm một lần nữa, dưới đây, để kết thúc bài viết.
“Người ta đòi hỏi rất nhiều
ở người linh mục, và có lẽ đúng như thế. Nhưng họ cũng nên hiểu rằng
làm linh mục không phải là chuyện dễ dàng. Người linh mục đã cho đi
tất cả thời thanh xuân của mình, nhưng họ vẫn mang thân phận con
người, và vì thế mỗi ngày “con người ấy” nơi vị linh mục, muốn tìm
cách lấy lại những gì mà mình đã từ bỏ hoặc dâng hiến. Thật là một
sự chiến đấu và giằng co liên tục để có thể hoàn toàn phục vụ Thiên
Chúa và tha nhân.”
Copyright©2008 Trần Mạnh
Hùng - Tác gỉa giữ bản quyền.
Lm.
Trần Mạnh Hùng, C.Ss.R
[i]
. Michel Quoist, “The Priest: A Prayer on Sunday Night,” in
Prayers of Life (Dublin: Gill and Macmillan Ltd.,
1963), pp. 49-51. Trần Mạnh Hùng phỏng dịch.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
HÃY CAN ĐẢM NÓI LÊN
TIẾNG “KHÔNG” |
Với nhiều bà mẹ Việt Nam, nói
lên tiếng “không” để đáp trả cho những yêu sách của con cái là
chuyện không phải dễ, cho dầu nền kinh tế gia đình xem ra không
được dồi dào, nhưng việc từ chối đối với một yêu cầu của đứa con
là một chuyện cảm thấy đau lòng không thể làm được, nhất là đứa
con đó lại là đứa con duy nhất của mình. Với sẵn quan niệm cho
rằng thà mình vất vả một chút, đi làm thêm cuối tuần để cung cấp
cho con mình có một đời sống đầy đủ và êm ấm còn hơn là chối từ
để rồi cả con lẫn mẹ phải buồn sầu khổ sở.
Và đây là một cuộc đối thoại
của một bà mẹ Việt Nam, một người mà đối với tôi quả thật rất
hiền lành và tử tế nhưng nhiều chuyện không may đã xảy đến cho
cuộc đời bà khiến bà mang nhiều mặc cảm.
Cậu bé Cương đòi mẹ:
- Mẹ, hãy mua cho con cái bể
tắm mới!
- Để làm gì?
- Con không thích cái nầy
nữa. Chở cho con đi mua cái mới.
- Con ơi, mẹ mệt lắm rồi.
Chúng ta có thể mua nó ngày mai.
Cậu bé giẫm chân nói:
- Bây giờ.
- Mẹ van con. Hôm nay chúng
ta đã đi ra ngoài quá nhiều lần rồi. Đi bơi, rồi đi học cỡi xe,
rồi lại đi bơi. Con không thể chờ đếân ngày mai sao?
- Con muốn đi ngay bây giờ và
có cái mới ngay.
Bà mẹ tiếp tục năn nỉ: bà quá
mệt. Cậu bé khóc, thét, chưởi, và đá bà. Cuối cùng bà chìu nó,
lái xe đến cữa hàng và mua cái bể mới rộng hơn và đẹp hơn cho
nó.
Bà mẹ có cảm giác sâu xa nầy:
cậu bé đã bị tổn thương vì bà và bố nó đã ly dị. Để bù lại cho
sự bất hạnh đó, bà muốn cung cấp cho nó mọi sự có thể. Cậu bé
cảm được điều đó nên lợi dụng để đòi mọi sự nó thích. Nếu bà mẹ
biết nói “không” với những đòi hỏi hoàn toàn vô lý của cậu bé,
nó sẽ thất vọng.
Không có lý do gì khiến một
bà mẹ cứ phải thõa mãn những đòi hỏi vô lý của đứa bé như bà
nghĩ bà sẽ phải làm như thế cho đến khi chết. Nếu vậy, không cần
thiết cho cậu bé học cách đối đầu với sự chán nản bao lâu bà mẹ
còn có thể bảo đảm rằng bà sẽ ở đó để ngăn chặn cho nó khỏi phải
những chán nản thất vọng. Dưới những điều kiện như vậy, bà mẹ sẽ
tiếp tục vai trò của kẻ nô lệ đáng thương, tiếp tục chấp nhận sự
lạïm dụng và những cái đá từ đứa con bạo chúa của bà, coi nó như
một người có đầy quyền hành có quyền đòi hỏi, nhận, và phát
triển sự khôn khéo trong việc dùng sự giận dữ để điều khiển.
- Mẹ ơi, con có thể đi coi sô
tối nay với bạn con, Thúy Hằng không? Cô bé Mỹ Nga gọi điện
thoại xin mẹ. Mẹ của bạn con sẽ chở chúng con đi.
- Không, con ơi. Con không
thể nào đi vào đêm có lớp.
- Nhưng mẹ, đây là một sô đặc
biệt. Nó không có vào cuối tuần.
- Cái gì đặc biệt?
- Đó là câu chuyện về một con
chó thật dễ thương, mẹ có biết không, từ trong sách.
- Mẹ thấy quảng cáo đó.
- Xin mẹ lần nầy thôi. Con
hứa con sẽ không mệt mỏi vào ngày mai đâu.
Tôi ghét từ chối cho nó một
cái gì, có nghĩa chối từ quá nhiều với nó, bà mẹ ngẫm nghĩ. Cô
bé rất thích chuyện thú vật và thật là câu chuyện hay. Tôi nghĩ
điều đó sẽ không làm trở ngại gì lần nầy. Hơn nữa, nếu tôi không
cho nó đi, nó sẽ sụ mặt suốt buổi chiều và tôi không thể chịu
được. Thôi được, nhưng phải về ngay sau khi sô kết thúc.
Cô bé Mỹ Nga trở lại và nói
với bạn: “Mẹ tao đồng ý cho tao đi rồi”.
Cô bé Mỹ Nga có bà mẹ được
huấn luyện tốt. Cô phấn khởi và hữu lý trong yêu sách của cô và
tùy thuộc vào ý muốn của mẹ. Nhưng nếu mẹ từ chối, cô sẽ thụng
mặt ra. Cô bé được điều cô muốn. Bà mẹ cho phép cô không tôn
trọng trật tự và phá luật lệ quen thuộc. Khi bà mẹ không thể nói
“không”, bà tỏ ra thiếu kính trọng cho chính bà, cho cô bé và
sức khỏe của nó, cho thói quen và trật tự trong nhà.
Nếu bà mẹ tích lũy lại, bà sẽ
ngạc nhiên với biết bao nhiêu “chỉ lần nầy thôi” đã được thõa
nguyện. Mỗi lần tự nó có thể nghe là có lý, nhưng thường xuyên
như vậy khiến bà mẹ nên xét lại. Đó là sự đe dọa có ám chỉ trong
yêu sách biến nó thành một đòi hỏi của nhà độc tài.
Cảm thấy bó buộc phải làm vừa
lòng một đứa trẻ nhiều như có thể là một sai lầm vì đó là một
thái độ nô lệ làm tăng “cái mình là trung tâm” trong đứa trẻ. Cô
bé xem cuộc đời như một cuộc thương mại làm sao đạt được điều cô
muốn. Sự chú ý của cô chỉ chú trọng vào cô và điều cô ước muốn
chứ không phải vào nhu cầu của tình thế. Khả năng phát triển sự
cộng tác bị xói mòn. Khi cô không thể có được điều cô muốn, cô
làm ra vẻ đáng được thương hại. Cô bé đã bị hư hỏng. Cô không có
tư tưởng làm thế nào để kiềm chế được sự chán nản thất vọng, làm
thế nào để chấp nhận tiếng “không”, và làm thế nào để cố gắng
làm tốt hết sức. Phần đáng buồn là cô bé sẽ bị gặp nạn trong
cuộc đời khi nó gặp phải hoàn cảnh ở đó không ai quan tâm đến
việc làm cho cô vừa ý.
Cái nhìn thiển cận của chúng
ta là: khó nhìn thấy những kết quả dài lâu của việc chìu theo
những ước muốn kỳ quặt của đứa trẻ, vì làm nó vui thường mang
lại sự hài hòa tạm thời cho gia đình. Vì thế, cần khôn ngoan
trong việc làm vui lòng con trẻ. Con trẻ cần học biết làm sao
điều khiển được những chán nản thất vọng. Cuộc đời người lớn thì
đầy dẫy những điều đó. Thật vô lý mà cho rằng đứa trẻ sẽ có thể
đối diện với những điều đó khi nó lớn lên. Ma thuật nào có thể
cung cấp một sự khéo léo như thế trong khoảng thời gian đầu đời
mà không cần phải học hỏi. Thế quân bình giữa làm vui lòng và
không làm vui lòng cần phải xem xét kỹ lưỡng. Nếu thói quen và
trật tự của gia đình đòi sự từ chối, và nếu bà mẹ có can đảm để
nói “không”, cô bé có thể học được sự khéo léo cần thiết để chịu
đựng được sự buồn chán đó.
lm.levanquang. Tiến sĩ tâm lý |
VỀ MỤC LỤC |
|
Sống Lòng Thương Xót Chúa trong Bí
Tích Hòa Giải
|
Chúa lập ra Bí Tích Hòa Giải
để tha tội cho chúng ta. Sau khi sống lại, Chúa Giêsu đã hiện ra
với các môn đệ và trao cho các ngài quyền thay Người mà tha tội.
Người
thổi hơi vào các ông và bảo các ông, “Các con hãy nhận lấy
Chúa Thánh Thần. Nếu các con tha tội cho ai, thì người ấy được
tha; nếu các con cầm buộc ai, thì người ấy bị cầm buộc.” (Ga
20:22-23). Vậy Bí Tích
Hòa Giải là nơi gặp gỡ riêng tư giữa mỗi linh hồn và Chúa Giêsu,
là chính Lòng Thương Xót của Thiên Chúa, để xin Người tha tội
lỗi và giao hòa linh hồn ấy cùng Thiên Chúa và Hội Thánh.
Thánh Faustina viết trong
Nhật Ký:
"Hôm nay Chúa nói với tôi,
Con ơi, khi con đi xưng tội, thì suối Thương Xót này, Máu và
Nước chảy ra từ Trái Tim Ta luôn đổ xuống linh hồn con và làm
cho nó nên cao quý. Mỗi khi con đi xưng tội, hãy hoàn toàn đắm
chìm trong Lòng Thương Xót Ta, với một niềm tín thác lớn lao, để
Ta đổ tràn ơn thánh Ta vào hồn con. Khi con đến tòa giải tội,
con nên biết rằng, chính Ta đang đợi con ở đó. Ta chỉ nấp sau
vị linh mục, nhưng chính Ta tác động linh hồn con. Ở đó linh
hồn đau khổ gặp Thiên Chúa của Lòng Thương Xót. Hãy nói cho các
linh hồn biết rằng trong suối thương xót này các linh hồn chỉ
múc được ân sủng qua lòng tín thác mà thôi. Nếu lòng tín thác
lớn, thì lòng quảng đại của Ta cũng không có giới hạn. Những cơn
thác lũ của ân sủng sẽ tràn ngập những linh hồn khiêm nhường.
Những người kiêu ngạo sẽ luôn ở trong trạng thái nghèo nàn và
đau khổ, vì ân sủng Ta tránh họ mà chảy đến các linh hồn khiêm
nhường.” (Nhật Ký,
1602).
Nhiều người cho rằng chỉ cần
xưng tội khi phạm tội trọng. Thực ra xưng các tội nhẹ là điều
rất cần thiết cho linh hồn. Con đường nên thánh không khác chi
chèo thuyền ngược nước. Chúng ta phải cố gắng lắm mới nhích lên
được một chút. Nếu chúng ta quay đầu ngược lại hay để thuyền
trôi theo giòng nước chắc chắn chúng ta sẽ đi lùi và sẽ xa đích
rất nhanh, có khi còn rơi xuống vực thẳm. Người phạm tội trọng
giống như người quay mũi thuyền mà chèo về phía cuối giòng nước,
trừ khi họ hoàn toàn quay lại, họ sẽ không bao giờ gặp Chúa. Còn
phạm tội nhẹ chẳng khác chi người buông mái chèo, giòng nước từ
từ cuốn ho xa Chúa. Trừ khi họ cố gắng chèo lái, họ cũng rất khó
mà gặp Chúa. Tội nhẹ sẽ dần dần đưa ta đến tội trọng và xa lìa
Chúa. Nhờ năng xưng tội, Chúa Giêsu ban thêm ân sủng để chúng
ta tiến bước trên đường nên thánh. Không có ơn Chúa, chắc chắn
chúng ta không đứng vững trong cuộc chiến với tà thần và quyến
rũ trần thế.
Thánh Faustina viết tiếp:
"Hôm nay, Chúa lại dạy tôi
đến với Bí Tích Hòa Giải ra sao: Con ơi, con sửa soạn cho sự
hiện diện của Ta thế nào thì con xưng tội trước mặt Ta như vậy.
Con người của vị linh mục, đối với Ta, chỉ là một bức màn. Con
đừng bao giờ phân tách xem vị linh mục Ta dùng là loại người
nào; con hãy mở linh hồn con ra trong lúc xưng tội như con mở ra
cho Ta, và Ta sẽ đổ đầy ánh sáng Ta vào nó."
(Nhật Ký, 1725).
Vị linh mục chỉ là phương
tiện Chúa dùng để ban ơn tha tội cho chúng ta. Đương nhiên là
một linh mục thánh thiện sẽ giúp chúng ta nhiều hơn qua những
lời khuyên bảo. Nhưng một linh mục tội lỗi vẫn có quyền tha tội
cho chúng ta vì chính Chúa Giêsu tác động sau vị linh mục ấy.
Điều cần thiết để được Thiên Chúa tha tội là sự thành tâm xưng
tội và chừa tội của ta.
Chúa coi việc phục hồi một
linh hồn tội lỗi là một phép lạ cả thể như việc làm cho người
chết sống lại:
"Con hãy viết và hãy nói
về Lòng Thương Xót Ta. Hãy nói cho các linh hồn biết rằng họ sẽ
tìm thấy sự khuây khỏa ở đâu; đó là ở tòa Thương Xót [Phép Giải
Tội]. Ở đó phép lạ cả thể nhất xảy ra và được tái diễn không
ngừng. Để lãnh nhận phép lạ này, không cần các cuộc đại hành
hương hay cử hành những nghi thức bề ngoài; điều thiết yếu là
lấy đức tin mà đến quỳ dưới chân vị đại diện của Cha và tỏ lộ
cho ngài sự đau đớn của mình, và phép lạ Lòng Thương Xót sẽ được
biểu lộ đầy đủ. Một linh hồn [phạm tội trọng] giống như một
thây ma đang thối rữa, mà theo quan điểm của con người thì
không [còn hy vọng] phục hồi, và mọi sự đã hư mất rồi, nhưng đối
với Thiên Chúa thì không thế. Phép lạ Thương Xót sẽ phục hồi
linh hồn đó hoàn toàn.
Ôi, đáng thương
thay những linh hồn không biết lợi dụng phép lạ Thương Xót này
của Thiên Chúa! Các người sẽ kêu cứu vô ích, vì quá trễ!"
(Nhật Ký, 1448).
Dầu tội lỗi chúng ta nặng nề
đến đâu, hãy chạy đến cùng Chúa Giêsu trong Bí Tích Thương Xót
(Hòa Giải). Nếu chúng ta thực tâm thống hối và chừa cải, Chúa
sẽ rửa sạch linh hồn chúng ta và làm cho nó nên trong sạch.
Để dọn mình xưng tội, thánh
Faustina viết:
"Tôi tưởng nhớ lại Sự
Thương Khó của Chúa Giêsu mỗi khi xưng tội, để khích động sự hối
cải của tâm hồn tôi. Nhờ ơn Chúa, tôi cố gắng luôn luôn ăn năn
tội cách trọn.... Trước khi vào tòa giải tội, tôi sẽ vào Trái
Tim rộng mở và vô cùng thương xót của Đấng Cứu Thế. Khi tôi rời
tòa giải tội tôi sẽ khích lệ linh hồn tôi cho có một lòng biết
ơn Chúa Ba Ngôi vì phép lạ thương xót tuyệt diệu và phi thường
này Chúa đã làm trong hồn tôi. Hồn tôi càng khốn khổ thì lòng
tôi càng cảm thấy đại dương của lòng Thương Xót Chúa trào dâng
trong tôi và ban cho tôi sức mạnh và khả năng phi thường."
(Nhật Ký, 225).
Nếu chúng ta tắm rửa thân xác
thường xuyên để chúng ta không có mùi hôi hám làm cho những
người chung quanh khó chịu, thì sao không coi việc tắm gội linh
hồn cách thường xuyên trong Bí Tích Hòa Giải là cần thiết? Nếu
chúng ta chích thuốc để ngăn ngừa bệnh phần xác, thì tại sao lại
phải đợi đến khi linh hồn chúng ta chết mới tìm đến Lòng Chúa
Thương Xót trong Bí Tích Hòa Giải?
Lạy Chúa Tình Thương, Chúa
lập Bí Tích Hòa Giải để làm cho linh hồn con được sạch. Xin cho
con biết thường xuyên chạy đến Tòa Thương Xót để được Chúa
thương yêu thứ tha, chữa lành, và được luôn sống bình an trong
Chúa bằng cách tha thứ cho anh chị em con như Chúa đã tha thứ
cho con. Amen.
GLV
Phaolô Phạm Xuân Khôi
Viết theo Nhật Ký của
Thánh Faustina và tài liệu của Hội Tông Đồ Lòng Thương Xót Chúa.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
TÔI MUỐN SỐNG HẠNH
PHÚC |
Ðề tài hôm nay xoay quanh câu hỏi riêng tư
nhất, nhưng cũng phổ quát nhất : “Tôi Muốn Sống Hạnh Phúc.” Ai không
sống hạnh phúc ở đời này, cũng không mong sống hạnh phúc ở đời sau.
Trong cuộc đời vắn vỏi này, đây là vấn đề sống chết và đầy tính cách
quyết định cho số phận đời đời của mỗi người.
Mới xem qua đề tài, có lẽ ai cũng nghĩ đây là
chuyện riêng tư, sao lai đưa lên báo, nhất là báo đạo? Bình thường
ai cũng nghĩ hạnh phúc và sống đạo là hai truyện hoàn toàn trái
ngược nhau. Hạnh phúc là truyện ăn chơi ngoài đời. Ðạo là khắc kỷ,
nghiêm nhặt, ăn chay, hãm mình, dâng lễ, chầu Thánh Thể v.v.
Cần phải quả quyết ngay, không thể sống đạo,
nếu không sống hạnh phúc. Nói khác, khi nào sống hạnh phúc thực sự,
bạn mới biết mình đang sống đạo tốt đẹp.
Vậy thế nào là sống hạnh phúc? Hạnh phúc là gì
mà ai cũng tìm kiếm? Không những Hạnh Phúc (HP) hấp dẫn, nhưng còn
bí ẩn, bí ẩn đến nỗi càng đuổi theo càng như vuột mất. Nói
khác, “chắc chắn mọi người đều muốn sống hạnh phúc. Vậy hãy xem
chúng ta có thể tìm được con đường tốt đẹp nhất để sống hạnh phúc
không.”[1]
I. HẠNH
PHÚC
Quan niệm về HP có một tầm ảnh hưởng rất quan
trọng đối với nếp sống của từng người. Chính quan niệm về HP sẽ
quyết định và khuôn nắn con người và cuộc đời tôi. Bạn hãy cho tôi
biết bạn quan niệm thế nào về HP, tôi sẽ cho bạn biết bạn là ai. Cứ
nhìn cách sống của giới trẻ hôm nay, chúng ta sẽ thấy họ quan niệm
thế nào về HP. Có thể nói có bao nhiêu quan niệm về HP, có bấy nhiêu
lối sống.
Nhưng cái gì quyết định HP của con người?
Cái quyết định HP chính là niềm hy vọng. Thật vậy, sống là hy
vọng. Khi tuyệt vọng, con người không đủ can đảm để sống nữa. Niềm
hy vọng sẽ quyết định sự sống và cách sống của con người. Cũng như
mọi người, Kitô hữu cần có niềm hy vọng mới có thể sống HP. Nhưng HP
của họ có gì khác mọi người không? Thánh Phaolô “nói với dân thành
Thêsalônica: anh em ‘đừng buồn sầu như những kẻ không có niềm hy
vọng.’ (1 Th 4:13) Ở đây, chúng ta thấy một dấu chỉ nổi bật của
những tín hữu Kitô: họ có tương lai, không phải là họ biết tường tận
chi tiết về những gì đang chờ đợi họ, nhưng họ biết cách tổng quát
là cuộc sống của họ không kết thúc trong hư không. Chỉ khi tương lai
chắc chắn như một hiện thực, lúc đó hiện tại mới có thể sống được.”[2]
Trái lại, vì không có niềm tin vào Chúa Kitô,
nhiều người sống bi quan và thất vọng về cuộc đời và chính mình. Hy
vọng thực sự không có trong những tâm hồn đó. Chỉ những ai đã từng
cảm nghiệm về tình yêu hay gặp gỡ Thiên Chúa trong tâm hồn và cuộc
đời, mới thấy niềm hy vọng của mình lớn lao tới mức nào. Thực vậy,
“Nhận biết Thiên Chúa - Thiên Chúa thật – là nhận lấy hy vọng …
Chúng ta mang trong mình một niềm hy vọng nảy sinh từ cuộc gặp gỡ
với Thiên Chúa.”[3]
Sở dĩ thế, vì niềm hy vọng của họ dựa trên niềm
tin vào Chúa Kitô. “Tin mừng Kitô giáo không chỉ thông tin
điều hiểu biết, mà nó còn ảnh hưởng trên thực tế và làm thay đổi đời
sống. Nó làm nổ tung cánh cửa âm u của thời gian và của tương lai.
Ai Hy Vọng, người đó sẽ sống khác đi, họ được ban tặng một cuộc sống
mới. ”[4] Niềm hy vọng đó giúp con người nhìn ra đâu là HP đích thực
của mình. “Thiên Chúa là nền tảng của hy vọng. Nhưng không phải bất
cứ một Thiên Chúa nào đó, mà là Thiên Chúa mang bộ mặt con người, và
là Đấng đã yêu thương ta cho tới tận cùng, yêu thương từng người và
toàn thể nhân loại. Vương quốc của Ngài không phải là một thế giới
tưởng tượng đời sau không bao giờ đến. Ở đâu Ngài được yêu thương và
tình thương của Ngài tới được với ta, ở đó là Vương quốc của Ngài.
Chỉ có tình yêu của Ngài mới cho ta khả năng điềm tĩnh trụ vững
trong một thế giới vốn luôn bất toàn, mà không đánh mất đà Hy Vọng.
Và tình yêu của Ngài đồng thời là bảo chứng hiện hữu của điều mà
chúng ta chỉ biết lờ mờ, nhưng vẫn trông chờ trong tận đáy lòng:
cuộc sống ‘đích thật’.»[5]
Nói cho cùng, HP là giấc mơ đẹp nhất của con
người. Nhưng nói tới HP, phải nghĩ ngay đến sống đạo. Cặp bài trùng
này được Chúa Giêsu kết nối tài tình trong Bài Giảng Trên Núi sau
đây.
II. TÁM
MỐI PHÚC THẬT
Theo thánh Augustinô, “Tám Mối Phúc Thật là bản
tóm lược toàn bộ giáo lý về sự trọn lành Tin Mừng. Tám Mối Phúc gợi
hứng và hướng dẫn đời sống Kitô hữu. Thực hiện Tám Mối Phúc và thăng
tiến đời sống Kitô hữu chủ yếu là công việc của Chúa Thánh Thần, một
ân huệ nhưng không, hoàn toàn vô điều kiện. Tám Mối Phúc là bản tóm
lược tất cả lời hứa Thánh Linh muốn hoàn thành trong và qua chúng
ta. Tân Ước không đặt chúng ta trước một luật lệ hình thức, nhưng
làm chúng ta quy phục hành dộng của Thánh Linh nhờ đức tin và sự
khiêm nhường. Nó đụng tới những miền sâu thẳm nhất trong tâm hồn.”[6]
Ðộng lực thực
hiện Tám Mối Phúc Thật chính là niềm hy vọng, dựa trên nền tảng là
Thiên Chúa. Nhờ đức tin, niềm hy vọng đã trở
thành một sức mạnh biến chất đau khổ như chứng từ Thánh Phaolô Lê
Bảo Tịnh, († 1857) sau đây : “Tôi là Phaolô, đang bị xiềng xích vì
danh Chúa Kitô. Tôi muốn nói cho anh em biết những gian truân tôi
đang chịu hằng ngày, để anh em được cháy lửa yêu mến Chúa mà hợp với
tôi ca ngợi Thiên Chúa: Chúa yêu thương ta đến muôn đời (Tv 136).
Ngục thất này quả thực
là một hình ảnh sống động Hỏa Ngục đời đời: ngoài gông cùm, xiềng
xích, dây thừng, lại còn thêm sự nóng giận, oán thù, nguyền rủa,
những lời tục tĩu, những sự gây gỗ, những hành vi xấu xa, những lời
thề gian, nói hành, và cả nỗi chán nản, buồn phiền, cả ruồi muỗi rận
rệp.
Nhưng Đấng đã giải
thoát ba người thanh niên khỏi lò lửa bừng bừng vẫn luôn ở cùng tôi;
Người cũng đã giải thoát tôi khỏi những sự khốn khó này bằng cách
làm cho trở nên ngọt ngào, Chúa yêu thương ta đến muôn đời.
Những cực hình này
thường làm cho người khác buồn sầu, nhưng nhờ ơn Chúa giúp, tôi vẫn
vui sướng hân hoan, bởi vì tôi không chỉ có một mình, nhưng có Đức
Kitô ở cùng tôi ... Lạy Chúa, làm sao con sống nổi khi hằng ngày con
nhìn thấy quan quyền và thuộc hạ nói phạm đến thánh danh Chúa, Đấng
ngự trên các thần Kêrubim và Xêraphim? (x. Tv 80:1). Kìa thập giá
Chúa bị kẻ ngoại chà đạp dưới chân! Còn đâu là vinh quang Chúa?
Chứng kiến tất cả những cảnh này, vì cháy lửa yêu mến Chúa, con thà
chịu chết và chịu phân thây để chứng tỏ lòng yêu mến Chúa.
Lạy Chúa, xin hãy tỏ cho
con thấy quyền năng của Chúa, xin cứu giúp con, để trong sự yếu đuối
của con, sức mạnh của Chúa được biểu lộ và tôn vinh, trước mặt thế
gian...
Khi nghe biết những điều
này, anh em hãy vui mừng dâng những lời tạ ơn bất tận lên Thiên Chúa
là Ðấng ban mọi ơn lành, và hãy cùng tôi chúc tụng Chúa, vì Chúa yêu
thương ta đến muôn đời...
Tôi viết cho anh em
những điều này để chúng ta hiệp nhất với nhau trong đức tin. Giữa
cơn bão táp này, tôi đã thả một cái neo vào tận ngai Thiên Chúa: đó
là niềm hy vọng sống động trong lòng tôi.”[7]
Máu tử đạo là giá các vị tử đạo phải trả cho HP
đích thực. Ðức Kitô không hứa hẹn một thứ HP dễ dãi. Tám Mối Phúc
Thật đặt chúng ta trước mọi thứ thử thách trong cuộc đời và đảo
ngược nhiều quan niệm về HP của chúng ta. Dù đòi hỏi thử thách tới
mấy, Tám Mối Phúc cũng bảo đảm cho chúng ta một con đường sống, con
đường dẫn tới HP tột đỉnh là chính TC, nếu chúng ta vững tin và hy
vọng.
III. CON
ÐƯỜNG ÐƯA TỚI HẠNH PHÚC
HP bắt đầu từ tinh thần
khiêm tốn. Ðó là nền móng cần thiết cho tòa nhà HP. Không khiêm
tốn, chúng ta không thể tìm được HP. Chúa Giêsu sung sướng chừng nào
khi mở đường HP cho nhân loại : “Hãy học với tôi, vì tôi có lòng
hiền hậu và khiêm nhường.” (Mt 11:29) Con đường dẫn đến HP thì dài
và ngoằn ngoèo. Ở đây chúng ta chỉ đề cập đến ba con đương dẫn đến
HP : cầu nguyện, đối thoại và phục vụ.
1. Cầu
nguyện. Trước hết, phải hiệp thông với Thiên Chúa trong
lời cầu nguyện, chúng ta mới có đủ sức mạnh và phấn khởi phục vụ tha
nhân. ÐGH Bênêđictô XVI giải thích : “Môi trường căn bản đầu tiên là
cầu nguyện. Khi không ai còn nghe ta nữa, thì Chúa vẫn lắng nghe ta
mãi. Khi ta không thể nói hay kêu được với ai nữa, thì ta vẫn luôn
trò chuyện được với Chúa. Khi không ai có thể giúp ta trong cơn nguy
khó hay trong một mong đợi nào đó vượt sức người, thì Chúa có thể
giúp ta. Khi rơi vào nỗi cô đơn tuyệt vọng, thì kẻ cầu nguyện chẳng
bao giờ hoàn toàn cô đơn. Qua mười ba năm tù, trong đó phải trải qua
chín năm biệt giam, cố hồng y Nguyễn Văn Thuận đã để lại cho chúng
ta một tập sách nhỏ thật quý : Đường Hy vọng. Mười ba năm tù
tưởng chừng như hoàn toàn vô vọng, thì việc lắng nghe Chúa, việc có
thể nói chuyện với Chúa, đã trở thành nguồn lực hy vọng lớn nơi
ngài, để sau khi ra khỏi tù, ngài đã hăng say đi ra làm chứng cho
mọi người trên khắp thế giới về niềm hy vọng lớn lao đó, niềm hy
vọng mà đêm tối cô đơn cũng không thể che lấp nổi nó..”[8]
2. Ðối
thoại. Hơn ai hết, các Kitô hữu
là những người truyền giảng tình thương từ Thánh Tâm Chúa. Muốn
thành công trong lãnh vực này, trước hết cần phải biết tự phê bình.
Không nhận rõ chính mình, chúng ta không thể bắt đầu đối thoại với
tha nhân về niềm hy vọng và HP trong tình yêu Chúa.
“Cần có một cuộc tự phê hiện đại trong việc đối
thoại với Ki-tô giáo và khái niệm hy vọng của nó. Trong cuộc đối
thoại này, với những kiến thức và kinh nghiệm riêng, cả ki-tô hữu
cũng phải nhìn lại xem hy vọng của họ thật sự gồm nội dung nào, và
đâu là điều họ có thể hoặc không có thể mang lại cho thế giới. Không
chỉ có tự phê của thời hiện đại mà thôi, cũng cần phải có một cuộc
tự phê về Ki-tô giáo hiện đại nữa. Ki-tô giáo luôn phải canh tân tận
căn sự nhận thức về chính mình.”
[9]
Không hiểu biết về chính mình và tha nhân,
không thể đối thoại. Nhưng nếu tình yêu không đủ mở rộng tâm hồn,
chúng ta càng không thể bước vào cuộc đối thoại. Tình yêu
không phải là tình cảm. Nhìn lại những cuộc trao đổi từ trong gia
đình đến ngoài cộng đoàn, có lẽ chúng ta đã gặp nhiều thất bại, vì
quá dựa trên tình cảm, nên đã làm cho vấn đề càng trở nên trầm
trọng. Ðã đến lúc chúng ta cần nhìn lại kỹ thuật chúng ta dùng để
giải quyết những bất đồng từ xưa tới nay.
Cần phân biệt giữa sự tranh luận hay cãi vã.
Mục tiêu của hầu hết những cuộc tranh luận là phải chiến thắng –
thường chẳng theo luật lệ và quyết thắng với bất cứ giá nào. Chúng
ta dành hết thời giờ để cố bắt người khác theo ý kiến mình. Khi
tranh luận, chúng ta không tìm kiếm một giải đáp vừa phải cho vấn
đề. Chúng ta tìm chiến thắng. Chúng ta quên hết sự thật và sự hòa
giải hợp lý.[10]
Một cuộc thảo luận thường khuyến khích chúng ta
chia sẻ ý tưởng và ý kiến với nhau mà không chỉ trích hay chế diễu
nhau.
Trong một cuộc thảo luận cởi mở và chân thành,
các phần tử trong gia đình hay hội đoàn sẽ cảm thấy an toàn đủ để
bày tỏ ý kiến và sự khác biệt mà không sợ bị tấn công. Nếu không ai
bị tấn công trong cuộc thảo luận, sẽ không cần trả đũa. Ðôi khi thảo
luận có thể dẫn tới tranh luận. Ðôi khi tranh luận đưa tới thảo
luận. Có đối thoại chân thành mới tìm được con đường HP. Nếu không,
chúng ta sẽ giống như « gà mù ăn quẩn cối xay » mà thôi.
Mong rằng những vấn đề hôm nay sẽ là những thách đố
để chúng ta cố gắng vươn lên, chứ không phải là những mãnh lực đẩy
chúng ta vào chân tường.
3. Phục
vụ:
Có thể sống HP mà không cần đến tha nhân không? Thực tế,
không quan tâm và phục vụ tha nhân, chúng ta không thể nào sống HP.
Tất cả Tám Mối Phúc chẳng qua cũng chỉ là lời mời gọi phục vụ mà
thôi. Chúa Giêsu nêu cao gương phục vụ : “Con Người đến không phải
để được phục vụ, nhưng để phục vụ.” (Mc 10:45a) Tất cả vương quyền
và vinh quang của Chúa đều nằm trong con đường phục vụ. Phục vụ
chính là con đường dẫn tới HP đích thực.
Hai chữ « phục vụ » cực tả con
người và sứ mệnh Chúa Giêsu. Ngay cái chết trên thập giá cũng chỉ là
một hình thức phục vụ tới cùng cho HP nhân loại. Càng phục vụ, càng
tham dự vào vương quyền của Chúa Kitô. Thật vậy, càng phục vụ, càng
làm cho Nước Thiên Chúa mau trị đến. Nói khác, càng phục vụ, càng
đem lại niềm hy vọng cho nhân loại. “Với Ki-tô giáo, hy vọng luôn có
nghĩa là hy vọng cho những người khác. Ðó là một hy vọng tích cực,
vì chúng ta tranh đấu để ngăn ngừa vạn vật không đi tới chỗ “kết
thúc phi lý.” Ðó cũng là một hy vọng tích cực, vì chúng ta cố gắng
hướng thế giới về Thiên Chúa. Có như thế, niềm hy vọng mới tiếp tục
là hy vọng của con người thật sự.”[11]
Nói tóm, càng phục vụ, chúng ta càng HP.
Nhưng có thể phục vụ tới mức nào? Phục vụ đem
lại HP cho ai? Sức người có giới hạn, nếu không tập trung và hoạch
định đúng mục tiêu, công cuộc phục vụ sẽ phí phạm và luống công vô
ích. Dĩ nhiên, phải cần đến sức mạnh và ánh sáng Thánh Linh, chúng
ta mới có thể thành công trong công cuộc phục vụ và làm chứng cho
tình yêu Thiên Chúa.
Tóm lại, sống đạo là sống HP. Muốn đạt đến đỉnh
cao của Tám Mối Phúc Thật, cần chu toàn những điều kiện do Chúa Kitô
vạch ra. Con đường đi đến HP đích thực có nhiều chông gai. Nhưng nếu
chúng ta biết sống khiêm tốn trong lời cầu nguyện, đối thoại và phục
vụ, trần gian có thể biến thành thiên đàng.
đỗ lực
12.02.2008
[1]
Thaùnh Augustino
[2]
Bênêđictô XVI, Spe Salvi, 2.
[3]
ibid.
[4]
Ibid.
[5]
Ibid., 31.
[6]
Pinckaers, S., O.P. The Pursuit of Happiness - God's Way,
Living the Beatitudes 1998:193.
[7]
Các Giờ Kinh Phụng Vụ, Các Bài Ðọc, ngày 24.11.
[8]
Bênêđictiô XVI, Spe Salvi.,32.
[10]
Cuộc tranh luận thường có nghiêng về tình cảm hơn lý trí.
Những cuộc tranh luận có khuynh hướng nói to và gây cảm xúc
mạnh với nhiều lời qua tiếng lại, và rất ít lắng nghe. Khi
tranh luận, chúng ta thường tìm cách bênh vực lập trường
mình và đổ lỗi cũng như phê bình người khác. Khi tranh luận,
chúng ta thường chỉ ngón tay về phía người. Khi tranh luận,
hầu như chúng ta không thấy lý do chúng ta bất đồng và bắt
đầu tấn công cá nhân đối phương. Chúng ta có khuynh hướng
dùng nhiều chữ “ông, anh v.v.” “Anh không hiểu, anh không
biết anh đang nói gì, anh không lắng nghe tôi, anh là một
thằng ngốc.”
Có cách nào khác để giải quyết những
bất đồng và giúp chúng ta đối thoại với nhau không? Thưa có,
đó là việc thảo luận. Thảo luận là trao đổi ý tưởng, ý kiến
và tình cảm để nỗ lực giải quyết sự bất đồng. Trong cuộc
thảo luận, thường có sự cân bằng giữa người nói và kẻ nghe..
Cuộc thảo luận thường vận dụng sự hiểu biết và lý trí thay
vì chỉ có tình cảm.
[11]
Bênêđictiô XVI, Spe Salvi., 34.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
Niềm Vui
Chúa Phục Sinh
|
Cửa hang mở trong đêm
còn u tối
Ba
bà vào nhưng chẳng thấy Thầy đâu?
Có
lẽ nào? Tìm trong động hồi lâu
Chẳng ai biết là Thầy đi đâu cả!
Có
kẻ đã lén vào trong động đá?
Cướp
xác Thầy như một bọn gian phi?
Bọn
người này thật dữ tợn quá đi
Không coi pháp luật vua ra chi cả!
Đứng
thẫn thờ nhìn sâu vào động đá!
Cả
ba bà quá bối rối băn khoăn
Ồ
nhưng kìa một vùng tỏa hào quang
Thầy
đứng đó uy nghi đầy vinh hiển!
Cả
ba bà khiếp kinh khi phát hiện
Nhưng Chúa rằng:”Chính ta đã phục sinh
Đi
tìm gặp và hãy nhớ thông tin
Cho
mọi người rằng ta đã sống lại!”
Chúa
sống lại! Tin mừng thật vĩ đại!
Vạn
tuế Ngài! Vạn tuế Chúa Phục sinh
Khải
hoàn ca, rạng rỡ ánh bình minh
Lời
ngôn sứ đã ứng vào việc Chúa!
Ngài
hiện ra, còn rất nhiều lần nữa
Với
tông đồ, nhiều nhóm khác trong dân
Cho
Tô-ma thấy dấu thánh tận tường
Ngài
cũng đặt Phê-rô, đầu Hội thánh!
Chúa Phục sinh! Niềm vui mừng Chư Thánh
Niềm
hân hoan từ con cái của Ngài
Cho
chúng con sống đạo hạnh, hòa hài
Lấy
Bác ái, Công bình làm nền tảng!
Bởi
Thứ Tha, Yêu Thương là đức sáng
của
nhân quần khi chung sống cùng nhau
Giúp chúng con xa Bảy mối tội đầu
Xây
thế giới bằng Tình Yêu cao cả!
Lễ
Phục Sinh 2008
Bút
Xuân TRẦN ĐÌNH NGỌC
Ghi chú:
Chúa Giêsu đã thực sự sống lại vào "ngày
Thứ Nhất trong tuần" và đã hiện ra lần đầu tiên với bà Maria
Madalêna, bà Maria mẹ ông Giacôbê và bà Salômê ngay nơi táng xác
Chúa khi các bà đến viếng mộ Chúa vào sáng sớm (Phúc Âm Matcô đoạn
16, câu 1 ...), sau đó với hai tông đồ Phêrô và Gioan, và nhiều lần
sau nữa với các Tông đồ và nhiều người khác trong vòng 40 ngày từ
khi Chúa sống lại (Mátcô 16, 9; Gioan 20,11).
Bảy mối tội đầu: kiêu ngạo, hà tiện, mê
dâm dục, mê ăn uống, ghen ghét đố kị, hờn giận, làm biếng.
CÂU HỎI PHỤC
SINH
Chúa sống lại - Ngài
đi gặp môn đệ
Lời mở đầu: “ Thầy mến
chúc Bình An
Hãy
đi xa - Trên khắp nẻo thế gian
Đem
Tin Mừng cho muôn người trần thế !”
Thầy
ơi Thầy ! Bình an sao chẳng dễ ?
Thế
giới này chưa từng có bình an !
Lỗi
phép Công bằng - Con người vẫn tham lam
Vẫn
chỉ biết sao cho mình giầu có !
Dù
biết tội - Dù lương tâm xấu hổ
Dù
sai luật mà Thầy đã răn đe
Nhưng nhiều người, nào có muốn lắng nghe
Và
tuân thủ những lề luật huấn giáo ?
Nhìn
xung quanh nhan nhản người có Ðạo
Ðạo
bên này và cả Ðạo bên kia
Ðược
bao nhiêu lòng quảng đại sẻ chia
người cơ nhỡ một miếng cơm manh áo ?
Thầy
ơi Thầy ! Phải đây nguyên tắc Ðạo:
Trước Công bằng - Bác ái sẽ theo sau
Con
đi đều - Con có bỏ lễ đâu !
Nhưng gian dối - Con vẫn hoàn gian dối !
Xin
Thầy thương - Tha cho con ngàn lỗi
Giữ
Công bằng - Con sẽ ráng ăn năn
Sống
Bác Ái - Con giữ lời Thầy răn
Con
vẫn cố xứng lòng Thầy mong mỏi !
Bút Xuân TRẦN ÐÌNH
NGỌC
|
VỀ MỤC LỤC |
LÀM
SAO ĐỂ CHẮC CHẮN ĐƯỢC ƠN CỨU ĐỘ? |
Hỏi:
Nhân kỷ niệm Chúa Phục Sinh và lễ kính lòng thương xót của Chúa,
xin cha cho biết: nếu Chúa Kitô đã hy sinh chịu chết thay cho loài
người như vậy, vì Chúa rất yêu thương con người như thánh Faustina
đã loan truyền về lòng thương xót của Chúa, thì ta còn phải lo
ngại gì về phần rỗi của mình nữa?
Trả
lời:
Trước khi trả lời câu hỏi trên, tôi thấy cần nói lại ở đây một lần
nữa về lý do khiến Chúa Giêsu-Kitô đã giáng trần cũng như thực trạng
của con người sau khi Chúa đã hoàn tất công trình cứu chuộc qua sự
chết và phục sinh của Người.
Như chúng ta đã biết: vì tội
lỗi của con người mà Chúa Kitô, tức Đấng Thiên Sai (Messiah) đã
xuống thế làm Con Người để đền tội cho toàn thể nhân loại như thánh
Gio-an đã viết:
“Chính Chúa
Giêsu-Kitô là của lễ đền tội cho chúng ta
Không những
vì tội lỗi chúng ta mà thôi
Nhưng còn vì
tội lỗi của cả thế gian nữa.” (1 Ga
2:2)
Mặt khác, Chúa hy sinh chịu
chết như vậy cũng vì Thiên Chúa quá yêu thương loài người nên đã
“sai Con của Người đến làm của lễ đền
tội cho chúng ta.”
( 1Ga 4:10). Chính nhờ sự hy sinh cao cả này mà chúng ta được tha
thứ tội lỗi, được giao hòa lại với Thiên Chúa và được hy vọng sống
hạnh phúc đời đời với Ngài trên Thiên Quốc.
Phải nói là được hy vọng thôi
chứ chưa chắc chắn đạt được hạnh phúc ấy bao lâu chúng ta còn sống
trên trần thế và trong thân xác có ngày phải chết này.
Thật vậy, Phép Rửa mà Chúa
Giêsu ban, dù đã tẩy sạch mọi tội cá nhân cũng như tội nguyên tổ
và hình phạt của tội này, nhưng không trả lại cho con người “tình
trạng ngây thơ, công chính ban đầu” (original
justice or innocence), một tình trạng ơn phúc mà Adam và Eva đã được
hưởng trước khi phạm tội bất phục tùng. Sự sa ngã của hai người
không những đã mang tội và sự chết vào trần gian mà còn phá hủy
nặng nề bản chất thiện hảo ban đầu mà Thiên Chúa đã ban tặng khi
tạo dựng lên họ. Vì thế, con người vẫn hoàn toàn yếu đuối và dễ sa
ngã sau khi đã được rửa tội như giáo lý của Giáo Hội đã dạy sau đây:
“Tuy nhiên, nơi người
đã được rửa tội, một số những hậu quả của tội vẫn còn tồn tại, như
những đau khổ, bệnh tật, sự chết, hoặc những yếu đuối gắn liền với
sự sống, như yếu đuối trong tính tình… nhất là khuynh hướng nghiêng
chiều về tội lỗi mà truyền thống quen gọi là nhục dục, hay nói cách
ẩn dụ, là ‘lò phát sinh tội lỗi’ (fomes peccati) được để lại cho ta
phải chiến đấu với nó. Nhục dục không có khả năng làm hại cho những
người không chiều theo nó mà còn chống lại cách can đảm nhờ ơn sủng
của Chúa Kitô. ..” ( x SGLGHCG, số 1264).
Đây là thực trạng không ai
chối cãi được. Nói rõ hơn, dù Chúa Kitô đã chết để chuộc tội cho cả
loài người, dù phép rửa có tác dụng tẩy sạch mọi tội lỗi – gồm tội
nguyên tổ và mọi tội cá nhân – (x. Sđd, số 1263), nhưng con người
vẫn còn nguyên những yếu đuối kể trên sau khi đã được rửa tội. Nghĩa
là vẫn có nhiều nguy cơ khiến con người rơi vào vòng tội lỗi vì bản
chất yếu đuối, vì gương xấu của thế gian và nhất là vì những cám dỗ
của ma quỉ ví “như sư tử gầm thét rảo quanh tìm mồi cắn xé.
Anh em hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự, vì biết rằng toàn
thể anh em trên trần gian đều trải qua cùng một loại thống khổ như
thế.” (1Pr 5: 8-9).
Đó là lời khuyên của Thánh
Phêrô xưa kia nhưng vẫn còn nguyên giá trị thực tế cho chúng ta sống
ngày nay. Chính vì thực trạng này mà Thánh Phaolô cũng đã phải thú
nhận như sau: “Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự
ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm. Nếu tôi cứ làm điều tôi không
muốn thì không phải chính tôi làm điều đó nhưng là tội vẫn ở trong
tôi.” (Rm 7: 19-20).
Như vậy, muốn được cứu độ để
sống hạnh phúc đời đời với Thiên Chúa trong
cõi vĩnh hằng, con người phải chiến đấu không ngừng để chống lại
những khuynh hướng xấu còn tồn tại nơi bản chất của mình, chống lại
những cám dỗ của ma quỉ luôn dùng gương xấu của thế gian và triệt để
khai thác bản chất yếu đuối nơi con người để mong đẩy xa con người
ra khỏi tình thương và kính sợ Thiên Chúa là Chân, Thiện, Mỹ tuyệt
đối.
Thiên Chúa rất yêu thương loài
người và mong muốn “cho mọi người được
cứu độ và nhận biết chân lý.”
(1 Tm 2:4). Nhưng nếu con người không cộng tác với
Chúa trong ơn cứu độ này thì Chúa không thể cứu ai được. Lý do là
Thiên Chúa phải tôn trọng tự do của con người. Ngài không ép buộc ai
phải yêu mến Ngài và nhận ơn cứu độ. Ngài chỉ mời gọi chúng ta giống
như Vua kia mở tiệc cưới cho hoàng tử và sai gia nhân đi mời khách
đến dự cho thật đông đủ. Nhưng những người được mời đã viện mọi lý
do để từ chối tham dự tiệc vui này. (x. Mt 22: 1-14; Lc 14:15-24).
Nói khác đi, nếu con người sử
dụng quyền tự do lựa chọn của mình để khước từ, không muốn vào dự
“Bàn Tiệc Nước Trời”
thì Thiên Chúa đành phải tôn trọng thôi. Như thế ơn cứu độ không
đương nhiên đến với ai sau khi lãnh bí tích rửa tội, mà chỉ đến với
những người thực tâm muốn thi hành những cam kết của bí tích này mà
thôi.
Những cam kết đó là tin và yêu
mến Thiên Chúa trên hết mọi sự và cương quyết từ bỏ ma quỉ là kẻ xúi
dục và gây ra mọi tội lỗi. Đó là cách cụ thể con người muốn cộng
tác vào ơn cứu độ để được sống muôn đời. Không có sự cộng tác này,
Thiên Chúa không thể cứu ai được.
Cứ nhìn vào thực tế ngày nay ở
khắp mọi nơi, người ta sẽ thấy rõ làn ranh giữa những người muốn
đáp lời mời gọi của Chúa để tham dự “Bàn
Tiệc Nước Trời” và những người đang từ
chối với nhiều lý do. Đó là những người đang chối bỏ Thiên Chúa bằng
chính cuộc sống của họ, đang ngụp lặn trong “văn hóa sự chết”
để đi tìm tiền bạc, danh vọng, chức quyền và vui thú vật chất bất
chính hơn là đi tìm Chúa là nguồn hạnh phúc và giầu sang đích thực.
Có thể nhiều người trong họ trước kia đã chịu phép rửa tội, đã thực
hành đức tin một thời gian. Nhưng nay vì hấp lực của đồng tiền và
lạc thú vô luân, họ đang chối bỏ Thiên Chúa cách hùng hồn bằng chính
đời sống của họ. Nếu cứ tiếp tục chối bỏ Thiên Chúa như thế cho đến
hơi thở cuối cùng thì dù Chúa Kitô có chết thêm nhiều lần nữa cũng
vô ích cho những người này mà thôi.
Tóm lại, dù Thiên Chúa yêu
thương con người đến tuyệt vời trong Chúa Kitô-Giêsu như Thánh nữ
Faustina Kowalska (1905-1938) đã loan truyền về lòng thương xót của
Chúa (Divine Mercy) mà Giáo Hội mừng kính trong Chúa Nhật thứ 2 Phục
Sinh, và dù cho Chúa Kitô đã hy sinh chịu chết thay cho mọi người
thì vẫn không ai được cứu độ nếu không cộng tác với Chúa trong ơn
này như đã trình bày ở trên. Và đây mới là điều đáng lo ngại cho
những ai đang từ chối phần đóng góp của mình vào ơn cứu độ.
Tình thương của Thiên Chúa và
công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô được tạm ví như giòng suối vô
tận tuôn chảy ngày đêm xuống vực sâu thẳm. Nhưng nếu người ta không
cúi xuống để múc lấy mà uống thì sẽ chết khát bên giòng suối ngập
nước kia, vì nước không có nhiệm vụ phải nhảy vọt lên khỏi giòng
suối để chảy vào miệng những ai đang khát nằm đợi bên bờ.
Vậy để khỏi chết khát, thì
trước tiên phải có nước uống. Nhưng cũng phải có công đi tìm nguồn
nước này và phải múc lấy mà uống cho khỏi chết khát, vì nước không
có chức năng đi tìm và tự động chảy vào miệng ai được.
Do đó, cần thiết phải cậy nhờ
lòng thương xót của Chúa, nhờ công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô
như giòng suối cứu sống nói trên. Nhưng cũng phải nỗ lực cộng tác
vào ơn cứu độ này bằng quyết tâm yêu mến Chúa, yêu thương anh chị
em đồng loại và xa lánh mọi tội lỗi bao lâu còn sống trên trần thế
này.
Không thể khoán trắng cho lòng
thương xót của Chúa và công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô để không
làm gì cả, hay tệ hại hơn nữa, là sống ngược lại với lòng thương
xót và công nghiệp ấy để mặc sức hành động theo những đòi hỏi của
nhục dục, lôi cuốn của thế gian và mưu chước của ma quỉ.
Lm.
Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
|
VỀ MỤC LỤC |
|
Lạy Cha chúng con ở trên trời |
Tác phẩm: Cầu
Nguyện Cá Nhân: Bí quyết tình yêu và vui sống
Lm. Micae-Phaolô Trần
Minh Huy, pss.
Phần thứ ba:
Cẩm Nang Chỉ Đường
hai
Lạy Cha chúng con ở trên trời
Chúng ta có hai bản
Kinh Lạy Cha, một của Matthêu và một của Luca (Mt.6: 9-15 và
Lc.11: 2-4). Kinh Lạy Cha của Matthêu là một phần của Bài Giảng
Trên Núi, Chúa dạy cho dân chúng và các môn đệ. Còn của Luca thì
Chúa Giêsu dạy cho các môn đệ khi các ông xin Chúa dạy cho các
ông cầu nguyện. Như vậy xem ra Chúa Giêsu dạy kinh Lạy Cha nhiều
lần, trong nhiều hoàn cảnh khác nhau và theo những công thức
khác biệt. Có lẽ Ngài cũng thêm cả một phần chú giải chi tiết
nữa. Như thế phải vừa chăm chỉ đọc vừa suy niệm sâu xa, chứ
không phải học thuộc lòng rồi đọc như con vẹt!
Do đó, tôi muốn mời
bạn chậm rãi suy niệm lời kinh Phúc âm nầy. Tôi chọn bắt đầu từ
cuối và đi lên cho đến tận đầu, bằng cách theo lối hành trình
của đứa con trai hoang đàng (Lc.15, 11-
32). Bạn hãy đặt mình trong da
thịt đứa con hư của dụ ngôn. Nó lìa xa cha để đi hoang phí cuộc
đời của mình cách dại dột. Nó đã tìm thấy mình phá sản xác xơ.
Vì phải chăn heo và đói, nó mới cảm thấy nhớ cha. Bấy giờ nó mới
bắt đầu tìm đường trở về.
Những kẻ thoát khỏi địa ngục
Xin cứu chúng con cho khỏi Sự Dữ
Đứa con lạc bước bắt
đầu lên đường trở về với cha. Cuối cùng nó rứt khỏi Sự Dữ. Sự Dữ
(chữ hoa) cũng chính là Satan và tất cả những gì làm chúng ta hư
hỏng. Nhờ phép thanh tẩy và đức tin sống động, Chúa giựt thoát
chúng ta khỏi cạm bẩy của hỏa ngục, để mở lối về thiên đàng cho
chúng ta. ‘’Với Chúa Giêsu dẫn dắt, bạn có thể được tái sinh,
bạn có thể bắt đầu lại tất cả, quét sạch đời sống quá khứ của
bạn và khởi đi lại từ con số không.’’
Lạy Cha chúng con,
chúng con cám ơn Cha về ân huệ tự do quí báu dường ấy. Xin Cha
dạy cho chúng con đừng phung phí nó. Xin Cha giải thoát chúng
con khỏi những nỗi sợ hãi của chúng con. Chúng con cầu xin Cha
cho tất cả những ai đang còn nô lệ cho Sự Dữ. Xin Cha cứu họ,
xin Cha giải thoát họ, vì tình yêu của Cha.
Mạnh hơn Sự Dữ
Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ
Trên đường trở về,
đứa con bị cám dỗ nhìn lại đàng sau. Tên Cám Dỗ rình chực những
yếu đuối nhỏ nhất. Nhưng nó đã bị đánh bại trước, vì Chúa Kitô
đã sống lại. Ngay một đứa trẻ còn mạnh hơn nó. Thánh nữ Têrêxa
Hài Đồng Giêsu thuật lại khi lên bốn tuổi, ngài đã mơ thấy hai
thằng quỉ nhỏ nhảy múa trước mặt ngài, dù chân chúng phải mang
xiềng xích. Thánh nữ sợ quá, nhưng ngài đã thấy chúng còn sợ hơn
ngài nữa, chúng chạy trốn khỏi cái nhìn của ngài và đi ẩn núp
trong đống quần áo. Thánh nữ viết: “Tôi tin rằng Chúa Nhân Lành
đã cho phép tôi nhớ lại chuyện đó để chứng tỏ cho tôi biết rằng
một linh hồn trong tình trạng ơn nghĩa Chúa không việc gì mà
phải sợ ma quỉ cả, chúng là những tên hèn nhát chỉ biết chạy
trốn trước cái nhìn của một đứa trẻ con’’ (Chuyện Một Tâm Hồn).
Chúng ta cầu xin Cha
chúng ta ban cho chúng ta cái nhìn trong sáng, để vượt qua các
cơn cám dỗ mà không dừng lại một giây. Nhưng nhiều lần chúng ta
đã có dừng lại ! Chẳng hạn, trong một con đường đầy cửa tiệm,
bạn thấy có cái gì hấp dẫn bạn. Bạn muốn mua cái đó. Bạn dừng
lại ngắm nghía. Bạn vào tiệm và bạn mua. Tại sao lại không ?
Nhưng khi ra khỏi cửa tiệm, bạn tự nhủ: “Thực ra, tôi chẳng cần
cái nầy. Sự ham muốn của tôi lại đã chơi tôi một trận nữa
rồi !’’ Đó là chưa nói tới những thứ quảng cáo đi qua con mắt mà
thức dậy ‘con heo’ trong lòng chúng ta !
Chính chúng ta là
những kẻ chịu trách nhiệm. Thiên Chúa không bao giờ cám dỗ ai và
Ngài cũng bảo đảm rằng chúng ta sẽ không bao giờ phải chịu cám
dỗ quá sức chúng ta: “Không một thử thách nào đã xảy ra cho anh
em mà lại vượt quá sức loài người. Thiên Chúa là Đấng Trung Tín,
Người sẽ không để anh em bị thử thách quá sức, nhưng khi để anh
em bị thử thách, Người sẽ cho kết thúc tốt đẹp, để anh em có sức
chịu đựng’’ (I Cr.10, 13). Lạy Cha, xin ban cho chúng con ơn can
đảm chiến đấu cho tới tận cùng cuộc đời chúng con và được chiến
thắng.
Tỏa chiếu dịu dàng
Xin tha thứ cho chúng con, như chúng con
cũng tha thứ cho kẻ khác
Đứa con hoang đàng
khó tưởng tượng được lòng tốt của cha nó, vì nó đã quá quen sống
ích kỹ. Nó nghĩ rằng nó không còn đáng được gọi là con của cha
nó nữa (x. Lc.15, 19). Quá nhiều lần chúng ta quá cứng cỏi: cái
nhìn cứng, trái tim cứng... Với người nọ, người kia, cái đó
không thể tha thứ được ! Trong khi Chúa, Ngài luôn luôn sẵn sàng
tha thứ. Nợ tình yêu mà chúng ta mắc Ngài, Ngài sẵn lòng bỏ qua,
không tranh luận chi hết (x. Mt.18, 23-35).
Ngay khi bạn gặp được
lòng tốt vô biên của Chúa đối với bạn, bạn trở nên người biết
xúc động: trái tim bạn chảy ra và bạn có thể tha thứ tất cả,
thật là phép lạ ! Với căn bản những ơn tha thứ đã cho đi đó, bạn
lại có thể xin Chúa tha thứ cho bạn, như bạn tha thứ cho những
ai làm bạn bị tổn thương. Nhưng nếu bạn không tha thứ, bạn sẽ
cắt đứt sự lưu chuyển của lòng thương xót và mọi sự sẽ xảy ra
dường như Thiên Chúa không còn tha thứ nữa...
Trong lời cầu nguyện
tư riêng, trong Bí tích tha thứ, trong việc phục vụ tha nhân,
một ánh sáng dịu dàng làm cho chúng ta dần dần tỏa chiếu sự dịu
dàng, ngay cả với những ai làm khổ chúng ta. Một thanh niên 19
tuổi chia sẻ: “Mỗi lần xưng tội, tôi muốn để quá khứ chìm đắm
trong sự dịu dàng tỏa ra từ Trái Tim Chúa. Hôm nay, tôi tin rằng
Chúa Giêsu muốn tôi luôn vẫn là kẻ kêu xin lòng thương xót của
Chúa. Ngài muốn thiết lập chỗ ở trong các thương tích của tôi.
Ngài muốn làm phát sinh từ những thương tích của tôi những lời
ca hy vọng.’’ Vâng, ‘’phúc cho những ai biết thương xót, vì họ
sẽ được xót thương’’ (Mt.5, 7).
Lạy Cha toàn năng tốt
lành, xin mở cho chúng con nguồn suối dịu dàng và chúng con sẽ
nên nhân chứng cho anh chị em chúng con về lòng thương xót ngọt
ngào của Cha.
Những lữ hành khiêm tốn
Xin cho chúng con hôm nay lương thực hằng
ngày
Càng bước đi, đứa con
hoang đàng càng cảm thấy đói. Nhưng nó không còn nhớ đến thức ăn
của heo, để đón nhận một của ăn lành mạnh. Khi xin những cái đã
có rồi, chúng ta lại ý thức được tất cả là hồng ân, ngay cả kết
quả lao công của chúng ta. Chúng ta đốt lên như thế ngọn lửa báo
hiệu: Sống không phải để ăn, mà ăn để sống ! Là những lữ hành
khiêm tốn, chúng ta lên đường với một hành trang tối thiểu. Về
lương thực thì chỉ vừa đủ để sống còn, như man-na trong sa mạc.
Dự trữ là vô ích...
Nhưng lương thực
không phải chỉ là cơm bánh. Thực đơn còn có những lời nuôi sống,
nụ cười giải thoát, sự thinh lặng nhiệm mầu, những sự hiện diện
phá tan nỗi đơn côi... Chúa Giêsu là bánh hằng sống từ trời
xuống, hiến trao cho chúng ta mỗi ngày, cho đến tận thế. Được
lãnh nhận qua hiệp lễ, Ngài dưỡng nuôi linh hồn, khi lời cầu
nguyện mỗi ngày mở ra cho tình huynh đệ. Chia sớt bánh trên bàn
ăn lữ hành... Chia sẻ con tim tràn ngập yêu thương, thì bất hạnh
thay đổi địa chỉ và trở thành hạnh phúc.
Lạy Cha, hôm nay
trong sự hiện diện của Cha, chúng con nhận biết những hồng ân
Cha đã ban cho chúng con, cho thân xác và linh hồn chúng con.
Chúng con tha thiết khẩn nài Cha ban cho mỗi đứa con của Cha
được hưởng nếm tình yêu của Cha. Xin Cha cho người đói được no
nê và lại ban cho người no nê được đói khát tình yêu của Cha.
Lời Xin Vâng trọn vẹn
Ý cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời
Đứa con hoang đàng
càng lúc càng nghĩ tới cha nó. Nó không còn đòi lại gì hết. Nó
dọn mình để lại sống hòa hợp với cha. Vâng, xin vâng, đồng ý,
amen ! Bao nhiêu lời cùng trùng hợp giữa trời với đất, giữa
Thiên Chúa và con người. Trong niềm tin, Mẹ Maria đã trao cho
Chúa sử dụng trọn vẹn con tim mình. Tiếng xin vâng quyết định và
hoàn hảo của Mẹ vang vọng đến vô tận, dưới đất cũng như trên
trời. Mỗi người chúng ta hãy thinh lặng lắng nghe, đón tiếp cuộc
thăm viếng và thưa lại cùng với Mẹ “Xin vâng như ý Chúa.’’
Càng tiến lại gần
Chúa, chúng ta càng cảm thấy một sức lôi kéo mãnh liệt. Trong từ
trường vinh quang của Chúa, chúng ta được nam châm hóa. Ý muốn
ích kỷ của chúng ta dần dần bị xóa tan như những vì sao biến đi
khỏi bầu trời khi ánh dương rạng sáng. Ý muốn dịu dàng của Chúa
hòa tấu nhịp nhàng hai thế giới, hữu hình với vô hình. “Hởi con
bé nhỏ, con hãy dừng lại, lặng yên và làm một cuộc hành hương
dài đến tận đáy lòng con. Hãy tiến bước dọc theo tình yêu hoàn
toàn mới mẻ của con, như người ta ngược suối lên tìm nguồn, và ở
tận cuối, nơi sâu thẳm, trong nhiệm mầu vô biên của linh hồn
con, con sẽ gặp được chính Cha, vì Cha được gọi là Tình Yêu.’’
Lạy Cha, với tất cả
lòng tín thác, con đặt vào tay Cha tất cả tự do của con.
Thánh Thần của thời đại cuối cùng
Nước cha trị đến
Ước muốn của đứa con
hoang đàng trở nên lo âu. Nó vội vã tiến đến nhà cha. Nó ước mơ
vương quốc. Vương quốc của Chúa là Công Chính, Bình An và Vui
Mừng trong Thánh Thần. Toàn thể tạo vật hết sức khát khao đạt
tới viên mãn cuối cùng. Lạy Chúa, xin hãy đến! Lạy Thánh Thần,
xin hãy đến, xin đừng trì hoãn! Thế giới đã quá khổ đau và máu
tử đạo hằng kêu lên với Chúa ngày đêm. Mọi người công chính âm
thầm chờ đợi một cuộc Hiện Xuống của Tình Yêu trên địa cầu. Mọi
lời cầu nguyện chuyển cầu cùng hội tụ vào ngày giờ Mầu Nhiệm
Thiên Chúa được mạc khải toàn bộ.
Như chiếc lưới bao la
của người đánh cá, tiếng kêu của hằng tỉ người nghèo khắp trên
hành tinh hằng vang vọng mọi nơi:
Cuối cùng, xin hãy đến
sự hiệp nhất của các giáo hội kitô,
-
công
lý cho những người bị ức hiếp,
-
hoà
bình chân thật làm vô hiệu đạn bom,
-
sự
trắng trong cho mọi nơi hư hỏng,
-
sức
khoẻ đẩy lùi khổ đau và chết chóc,
-
ơn cứu
rỗi đời đời cho những kẻ hư mất,
-
niềm
vui hiệp thông huynh đệ.
Lạy Cha, xin lắng nghe những tiếng kêu
hy vọng vang lên từ mặt đất hấp hối. Để Nước Cha trị đến mau
chóng hơn, xin Cha lại ban cho Giáo Hội lòng hăng say truyền
giáo của mình. Xin Cha dạy cho Giáo Hội biết theo trường của
những người bé nhỏ và nghèo khó nhất, vì họ là những người lớn
nhất trong Nước Chúa.
Sự hoàn hảo của Chúa
Con
Xin cho Danh Cha được
thánh hoá
Giữa gia đình của mình, đứa con hoang
đàng mỗi ngày một khám phá hơn được người anh cả. Nhưng không
phải là người anh cả ghen tương (x. Lc.15, 25-32), mà là một
người anh cả khác, đã làm cho nó và với nó, thành con đường trở
về với Cha.
Làm sao thánh hóa Danh Chúa Cha mà không
đi qua danh Chúa Con?! Lạy Chúa Giêsu, Người Con Cả xứng đáng
của Chúa Cha, trái ngược người con cả của dụ ngôn, chính nơi
Chúa mà Chúa Cha mạc khải tất cả bí mật tình yêu của Ngài. Chúa
có thể nói lên sự thật với Cha rằng: “Mọi sự của con đều là của
Cha, và mọi sự của Cha đều là của con’’ (Jn.17, 10 ; Lc.15, 31).
“Con đã tỏ Danh Cha cho những người mà Cha đã đem ra khỏi thế
gian để ban cho con’’ (Jn.17, 6). Mầu nhiệm của Danh, mầu nhiệm
Ba Ngôi! Cha và Con là một: “Ai thấy Thầy là thấy Cha”, Chúa
Giêsu nói với Philipphê như thế (Jn.14, 9).
Trước khi đi vào Nhà Cha, bạn hãy để sự
hoàn hảo của Chúa Con thanh tẩy cho. Ngài là Đường, là Sự Thật
và là Sự Sống (Jn.14, 6). Không ai có thể làm vinh danh Chúa Cha
mà không có Chúa Con, và cũng không ai có thể làm vinh danh Chúa
Con mà không có Chúa Cha. Đó thực quả là công việc của Chúa
Thánh Thần.
Con đường hoàn hảo là sức hút của một
tình yêu luôn luôn lớn hơn, bởi vì nó luôn luôn khiêm tốn hơn.
“Để thánh hóa Danh Cha, chúng ta chỉ biết ẩn náu trong Thập giá
của Chúa Kitô. Tử đạo kitô là một kinh nghiệm thần bí, nơi một
người nào đó, đàn ông hay đàn bà, trao hiến cho Chúa Kitô với
một lòng tín thác khiêm tốn, lúc mà những khổ đau đến cao độ
nhất. Bấy giờ, niềm vui phục sinh tràn ngập lấy họ. Có nhiều
cách thế để được tử đạo’’ (Olivier Clément).
Lạy Cha, xin ban cho thời đại chúng con
những con người yêu Cha như thế. Trong họ, Danh Cha chiếu sáng
như hạt kim cương với muôn ngàn mặt!
Nhà Cha
Lạy Cha chúng con ở
trên trời
Đây là chặng cuối đường.
Đứa con hoang đàng được mừng lễ tuyệt vời, với đàn ca và múa
nhảy (x. Lc.15, 20-24). Hỡi công dân Nước Trời, bạn được ở trong
Nhà Cha, ở đó mọi sự rất đơn giản và sẵn sàng đón tiếp bất cứ
người nào, với điều kiện biết ngắm nhìn và chơi như một trẻ nhỏ.
Người ta kể rằng trong giờ ra chơi, cha Gioan Bosco đến gặp
Savio và hỏi:
-
Con
định làm gì?
-
Con không biết. Cha muốn con làm chi?
-
Không, con hãy nói cái con muốn làm cơ.
-
Ô, con
muốn chơi.
-
Vậy
con có muốn chơi với Chúa không? Nếu con chơi với Chúa, là
con làm một việc rất lớn lao chưa ai làm đó. Con hãy chơi
với Chúa đi nhé. Ngài là một người bạn chơi tuyệt vời...
Lạy Cha trên trời của con, trong khi chờ
đợi ngày con được chiêm ngưỡng Cha, con tìm Cha trong lòng con,
cái bầu trời nội tâm nhỏ bé nầy. Xin Cha dẫn dắt con trên con
đường vĩnh cửu. |
VỀ MỤC LỤC |
|
Bệnh Thường Thấy Ở Mắt |
Cặp mắt nhỏ bé như hai hòn bi
thủy tinh đã được ví quý giá như ngọc, quý hơn hai bàn tay lớn
hơn gấp bội mà chỉ là vàng.
Vì là bộ phận rất tinh vi,
mỏng manh nên tạo hóa đã sắp đặt để hai con mắt được bảo vệ với
các thành phần như sau:
- Các mảnh xương sọ họp lại
thành một bức tường bao quanh ổ mắt để bảo vệ nửa phần sau của
nhãn cầu.
Mi mắt để che chở phần trước
của mắt. Mi mắt khép kín để tránh vật lạ xâm nhập và luôn luôn
chớp mở để mắt không khô.
- Lông mày và lông mi để ngăn
bụi bậm, vi khuẩn loạng quạng bay vào mắt.
- Lớp kết mạc mỏng lót mi mắt
và phần trước của nhãn cầu.
- Nước mắt để làm mắt trơn,
loại bỏ vật lạ và có nhất nhờn để chống nhiễm trùng.
Bào vệ như vậy tưởng là đã an
toàn, vậy mà nhiều khi mắt cũng hay bị tổn thương, bệnh hoạn.
Nguyên nhân gây bệnh có thể là từ bên ngoài hoặc từ con mắt.
Sau đấy là một số rối loạn
thường thấy.
Mắt khô
Bình thường, giác mạc được
bôi trơn bằng chất nước tiết ra từ những tuyến nước mắt nằm ở
phía trên nhãn cầu.
Nước mắt có vị mặn vì xuất
thân từ máu. Thành phần cấu tạo nước mắt gồm có nước, muối, chất
đạm, chất béo, các phân tử hydrocarbons. Mỗi lần mi mắt chớp là
nước mắt phủ rộng lên trên nhãn cầu, giúp cho mắt không bị khô
và đau. Giác mạc có nhiều dây thần kinh, rất nhậy cảm với đau
khi bị thương tích.
1. Nguyên
nhân gây ra khô mắt
Bất cứ nguyên nhân nào làm
giảm nước mắt đều đưa đến khô mắt. Đó là:
- Tuổi cao
Tuổi càng cao nước mắt càng
ít, đặc biệt là phụ nữ ở tuổi mãn kinh
- Do dược phẩm như thuốc lợi
tiểu, thuốc hạ cao huyết áp loại chặn beta, thuốc ngủ, chống dị
ứng, chống đau nhức, chống trầm cảm, thuốc ngừa thai, rượu hoặc
sau khi làm xạ trị.
- Mất sự cân bằng giữa các
thành phần cấu tạo nước mắt như chất dầu, nước và chất nhầy
(mucous) khiến cho nước mắt mau bốc hơi, mắt khô.
- Trong bệnh viêm khớp, ban
đỏ lupus, hội chứng Sjogren, khô miệng, bệnh HIV.
- Tổn thương nhãn cầu, viêm
nhiễm mi mắt
- Thiếu sinh tố A đôi khi
cũng đưa tới khô mắt
- Thời tiết khắc nghiệt,
không khí khô, quá nóng, nhiều gió.
- Khói thuốc lá, nhìn, đọc
sách quá lâu, không chớp mắt làm mắt khô nhiều hơn.
2. Dấu hiệu
Dấu hiệu thường thấy là cảm
giác ngứa, cháy bỏng trên giác mạc, đôi khi có ghèn quanh mi
mắt.
Khó chịu giảm khi thời tiết
mát, trời mưa, nhiều sương mù, nhiều độ ẩm, chẳng hạn khi đang
tắm.
Khô mắt có thể là báo hiệu
một bệnh trầm trọng. Vì vậy nếu mắt khô kéo dài quá lâu, cần đi
khám bác sĩ.
Bác sĩ khám mắt đều có thể
xác định được rối loạn này. Đôi khi bác sĩ có thể đo lượng nước
mắt tiết ra với một miếng giấy thử đặt ở mí mắt dưới.
3. Điều trị
Khô mắt mà không chữa, giác
mạc có thể bị tổn thương, đưa tới kém hoặc mất thị lực.
1.
Nước mắt nhân tạo được dùng rất phổ biến để giảm thiểu khô mắt
và tăng độ nhờn của mắt, nhờ đó thị lực rõ ràng hơn.
Thành phần chính của nước mắt
nhân tạo có thể là các chất Hydroxypropyl Methylcellulose,
Carboxy Methylcellulose, Polyvinyl Alcohol. Ngoài ra, một số sản
phẩm có chất như Benzalkonium Hexachloride để khỏi mau hư.
Khi dùng nên theo hướng dẫn
của bác sĩ và nhà sản xuất, chẳng hạn mỗi ngày ba lần, mỗi lần
một giọt. Dùng quá nhiều đôi khi gây ra mờ mắt nhất là nếu dị
ứng với một hoạt chất trong nước mắt nhân tạo.
Thuốc mỡ (ointment) làm nhờn
mắt và nên dùng vào ban đêm để sáng dậy mắt ẩm ướt hơn. Không
nên dùng thuốc mỡ khi mang kính sát tròng (contact lense).
2.
Nhớ chớp mắt thường xuyên. Đôi khi vì mải miết đọc sách, coi TV
đến nỗi quên cả chớp mắt, giác mạc sẽ khô, khó chịu.
3.
Trong nhà nên để máy phun bụi nước để không khí bớt khô.
4.
Ăn thêm vài củ cà rốt nho nhỏ mỗi ngày để có thêm sinh tố A.
5.
Mang một loại kính đặc biệt (moisture chambers glasses) bao kín
mắt để giữ hơi ẩm khi nước mắt bay hơi. Có thể mua kính này tại
phòng mạch các bác sĩ về mắt.
6.
Lâu lâu lấy chiếc khăn mặt nhúng vào nước nóng ấm, vắt khô rồi
đắp lên mắt trong vài phút. Hơi nóng làm thông ống dẫn nước mắt
và nước mắt trào ra.
Ngoài ra, vi phẫu thuật khép
ống dẫn nước mắt xuống mũi hoặc sử dụng tia Laser có thể được áp
dụng trong vài trường hợp đặc biệt để chữa mắt khô.
Viêm kết
mạc
Đây là trường hợp kết mạc phủ
nhãn cầu và mi mắt bị kích thích và đỏ. Tiếng Anh gọi là
Pinkeye, mắt hồng. Mắt kèm nhèm chẩy nước, hai mí mắt sưng đỏ,
nhiều ghèn.
Tác nhân gây bệnh thường thấy
là những virus tương tự các virus trong bệnh cảm lạnh. Đôi khi
vi khuẩn cũng gây ra viêm giác mạc.
Viêm kết mạc (Conjunctivitis)
rất hay lây qua sự dùng chung các dụng cụ liên hệ tới mắt như
khăn mặt, đồ trang điểm hoặc khi dụi tay lên mắt đang đau. Vì
thế, rửa tay thường xuyên và không dụi mắt là phương pháp hữu
hiệu để phòng tránh lây lan viêm mắt.
Viêm kết mạc do virus tự lành
sau mấy ngày. Thuốc nhỏ mắt được dùng khi mắt cảm thấy cộm,
ngứa.
Viêm do vi khuẩn được điều
trị bằng thuốc kháng sinh nhỏ mắt và cần được bác sĩ xác định
trước khi dùng.
Viêm do dị ứng thường kéo dài
lâu hơn và xảy ra tùy theo mùa. Điều trị căn bản là tránh xa các
chất gây ra dị ứng.
Mỗi ngày dùng khăn mặt tẩm
nước nóng, chườm lên mắt vài ba lần để giảm kích thích khó chịu.
Nếu viêm vì dị ứng, hay bị ngứa thì chườm khăn ngâm nước lạnh.
Lau ghèn mắt với miếng vải
mỏng, cục bông gòn tẩm nước lạnh. Nhớ ném xa các miếng vải lau
này để tránh lây bệnh cho người khác.
Nên phân biệt mắt hồng
pinkeye với mắt đỏ red eye trong đó các mạch máu trên mắt giãn
nở, chứa đầy máu.
Nguyên nhân có thể là do
không khí quá khô, mắt tiếp xúc quá lâu với ánh sáng mặt trời,
bụi bậm vật lạ vào mắt, dị ứng, chấn thương hoặc nhiễm trùng.
Nguyên nhân thông thường khác nữa là khi ho mạnh hoặc làm việc
cố gắng quá sức.
Mới nhìn, Mắt Đỏ coi có vẻ
rất đáng sợ, nhưng không nguy hại lắm và thường thì tan đi sau
dăm ngày.
Tuy nhiên nếu mắt đỏ kéo dài
cả tuần kèm theo đau nhức nhãn cầu, nhức đầu, thị giác rối loạn
hoặc thương tích mắt thì nên đi bác sĩ ngay.
Lẹo Mắt
Chân lông mi có nang tiết ra
chất nhờn. Vi khuẩn trên da có thể xâm nhập nang và làm nang
sưng to, ứ đọng với chất nhờn. Đó là lẹo mắt (stye).
Bệnh nhân than phiển chẩy
nước mắt, đau, đỏ, ngứa. Khi mủ thành hình, phần giữa của lẹo
nổi lên một chấm mầu vàng. Lẹo bớt đau khi vỡ mủ. Đôi khi mủ
tiếp tục tích tụ, lẹo lớn lên và gây ra khó khăn cho thị giác.
Lẹo có thể xảy ra vì:
- Viêm mi mắt (Blepharitis),
do vi khuẩn hoặc chất gây dị ứng.
- Dùng chung hoặc dùng quá
nhiều mỹ phẩm.
- Đôi khi do căng thẳng tinh
thần.
Chữa lẹo cũng giản dị thôi.
- Mỗi ngày chườm lẹo với khăm
tẩm nước ấm ít nhất 4 lần, mỗi lần lâu 10 phút.
- Lấy ngón tay thoa nhẹ trên
lẹo để lẹo mau lành
- Thoa thuốc kháng sinh dạng
mỡ hoặc dung dịch thuốc nhỏ mắt mỗi ngày ba lần.
- Nên để lẹo tự lành chứ
không nên nặn mủ để tránh bệnh trầm trọng hơn.
- Không nên bôi mỹ phẩm lên
mi mắt hoặc mang kính sát tròng cho tới khi lẹo lành.
Nếu không chữa, lẹo có thể
hết rồi lại xuất hiện hoặc lây lan qua nang lông kế cận hoặc gây
ra viêm nhiễm tế bào của mi mắt.
Cần đi khám bác sĩ nếu:
- Lẹo tiếp tục sưng sau một
tuần lễ tự chăm sóc.
- Nhìn khó khăn.
- Mi mắt sưng to, có vẩy
- Lẹo chẩy máu.
- Mắt không chịu đựng được
với ánh sáng.
Chắp mắt
Chắp (Chalazion) là bệnh của
một loại tuyến nhỏ ở viền mi mắt. Các tuyến này do nhà cơ thể
học người Đức Heinrick Meibom tìm ra vào thế kỷ thứ 17 vì thế
được gọi là tuyến meibom. Tuyến tiết ra chất nhờn.
Khi bị viêm vì dị ứng, tuyến
sẽ sưng lên và gọi là chắp.
Điều trị gồm có:
- Giữ gìn mắt và mi mắt sạch
sẽ.
- Nhỏ nước mắt nhân tạo cho
mắt trơn ướt.
- Chườm khăn thấm nước ấm lên
mi mắt mỗi ngày vài ba lần.
- Nếu cần, thoa thuốc kháng
sinh dạng mỡ lên mi mắt.
- Đôi khi bác sĩ có thể chích
một chút thuốc corticosteroid để giảm sưng hoặc rạch mổ để nạo
hết mủ.
Quầng đen
quanh mắt
Thông thường thì mọi người
đều nói rằng quầng đen quanh mắt là hậu quả cũa mấy đêm thức
trắng coi phim bộ, khi trong người mỏi mệt, khi đau ốm, mất cân,
vì suy nghĩ nhiều hoặc tâm tình căng thẳng.
Cũng có ý kiến cho là ở tuổi
già, lớp da quanh mắt mỏng hơn để lộ các mạch máu ở dưới tạo ra
quầng đen.
Hoặc vì cơ thể thiếu nước,
hay dụi mắt, thiếu dinh dưỡng, do di truyền hoặc khi nằm ngủ,
nước tụ quanh mi mắt tạo ra vết quầng.
Mới đây có thêm một giải
thích khác có tính cách khoa học hơn. Đó là dưới lớp da rất mỏng
chung quanh mắt có những mạch máu rất nhỏ, nhỏ đến nỗi mà hồng
huyết cầu muốn đi qua phải thay hình lách tới. Đôi khi có mấy
hồng huyết cầu thoát ra khỏi mạch máu, tan vỡ vào da. Huyết cầu
tố của hồng cầu bị phân hóa, tạo ra chất mầu xám và tạo ra quầng
đen quanh mắt. Hiện tượng này tương tự như da bị bầm (bruise) vì
va chạm mạnh.
Thường thường quầng mắt không
gây ảnh hưởng xấu cho sức khỏe và mất đi sau thời gian ngắn. Một
vài sản phẩm thoa trên da có sinh tố C, K alpha hydroxyl acid có
thể làm mất các vết quầng.
Nếu quầng mắt tồn tại lâu,
nên đi khám bác sĩ để tìm nguyên nhân rồi điều trị.
Ngoài ra, mắt sưng húp hoặc
có túi dưới mắt cũng có thể xảy ra.
Sưng mắt có thể là do di
truyền, tụ nước vì thay đổi thời tiết, thay đổi lượng hormone
trong cơ thể, do dị ứng, viêm da hoặc do một vài dược phẩm.
Sưng húp không gây nguy hại
gì ngoại trừ trông hơi khó chịu.
Để giảm mi mắt sưng, nên ngủ
đầy đủ; ngủ với gối hơi cao để tránh tụ nước quanh mắt; chườm
quanh mắt với khăn nước lạnh hoặc với mấy miếng dưa chuột tươi
mát.
Nếu mắt tiếp tục sưng lâu đặc
biệt là khi các phần khác của cơ thể cũng sưng thì nên đi bác sĩ
để được khám bệnh vì đây có thể là do bệnh thận, bệnh tuyến giáp
hoặc do tác dụng phụ cùa vài dược phẩm.
Kết luận
Kể ra thì còn một số rủi ro
khác của mắt. Nhưng người viết cũng đã mỏi đôi mắt. Và mắt người
đọc chắc cũng căng căng.
Vậy thì xin cùng nhau tạm
ngưng, nhắm cặp mắt vài giây, lấy ngón tay thoa nhẹ lên mi mắt,
rồi nhìn ra ngoài trời nắng ấm hoặc tuyết trắng rơi rơi… cho mắt
thư giãn, thoải mái. Để cùng bảo vệ hai hòn ngọc quý giá ngự ở
phần cao nhất của cơ thể, chỉ dưới có đỉnh đầu mà thôi.
Bác sĩ
Nguyễn Ý Đức
Texas-Hoa Kỳ
|
VỀ MỤC LỤC |
|
KÝ SINH Chuyện phiếm của Gã
Siêu |
Trên tuần báo Công giáo và
Dân tộc, số 1429, gã đọc được một bài viết ngăn ngắn của Khổng
Thành Ngọc với tựa đề “Khúc bi ai của người cầm bút”. Tác giả đã
mô tả như sau :
“Trong số những người
đến dự phiên tòa phúc thẩm một vụ án lớn, có một phụ nữ trẻ, ăn
mặc rất mô-đen, thời thượng. Chồng chị vốn là một nhà báo, nay
đang âu sầu đứng trước vành móng ngựa. Lạ một nỗi, chị vẫn tươi
cười, không một dấu hiệu trên gương mặt tỏ vẻ buồn phiền, lo âu.
Bị-cáo-nhà-báo kia đang
bị các nhân chứng khai đã trắng trợn tống tiền họ, lợi dụng uy
thế báo chí ép buộc phải cống nạp. Tiền mãi-lộ mua-đường nộp cho
ông nhà báo mỗi lần vài chục triệu. Kẻ-bán-chữ cúi gầm mặt hổ
thẹn trước những lời tố cáo. Còn cô vợ ngồi nghe những lời cáo
buộc chồng mình, xem chừng vẫn…vô tư. Có mấy người dự khán liếc
nhìn chị, lắc đầu ngao ngán. Có lẽ họ đau cho ông chồng nhà báo
đã phải bán rẻ lương tâm người cầm bút, kiếm chác càng nhiều
càng tốt, đặng cung phụng cho cô vợ trẻ se xua.
Không ai, kể cả luật
pháp động đến chị ta. Bởi chị vô can. Cũng chẳng người nào có
thể lân la góp ý, khuyên can. Bởi chị ta là…chị ta. Chị có quyền
sống theo cách của mình. Nghe đâu, chị đang rắp ranh mua xe hơi,
đặng theo kịp trào lưu những người có của. Thôi cũng mặc…
Tác giả còn “thuyết giảng”
một chặp nữa về lương tâm của người cầm bút, đồng thời kêu gọi
hãy đề cao cảnh giác trước những cơn cám dỗ ngọt ngào.
Hồi trước năm 1975, gã đã
từng được nghe nói đến những anh nhà báo báo hại, chuyên môn đi
tống tiền thiên hạ một cách trắng trợn. Những độc chiêu anh ta
tung ra để thiên hạ chui đầu vào rọ, không phải chỉ có tam thập
lục kế, ba mươi sáu kế mà thôi, nhưng nó còn thiên biến vạn hóa,
đến quỉ thần cũng không lường nổi.
Đại khái, anh ta khéo ỡm ờ
mở đầu loạt bài phóng sự điều tra của mình bằng những chữ viết
tắt : Ở quận H, tỉnh N, có một nhân vật tên K…Rồi sau đó, anh ta
vòng vo tam quốc, tán hươu tán vượn với mục đích rung cây và chờ
đợi.
Người bị ngòi bút của anh
ta đụng chạm tới, nếu quả thực trong dĩ vãng đã có những lem
nhem về tình hay những thiếu trong sáng về tiền, liền cảm thấy
nhột nhạt. Và thế là lập tức liên hệ với anh ta, để thương lượng
và trả giá.
Nếu giá cả quá bèo, không
đáp ứng với lòng tham lam của anh ta, thì ngay trên số báo sau,
anh ta sẽ không ngần ngại loan báo cho bàn dân thiên hạ được
biết :
- Ngày ấy tháng ấy, ông K
đã đưa cho tôi số tiền là…với mục đích bịt miệng dư luận. Nhưng
vì lương tâm nghề nghiệp, tôi nhất định không chịu bẻ cong ngòi
bút, nên vẫn cứ tiếp tục phanh phui.
Còn nếu như giá cả hợp tình
và hợp lý đúng theo những tính toán cộng trừ nhân chia của anh
ta, thì loạt bài phóng sự điều tra ấy sẽ được…chìm xuồng và
chẳng bao giờ xuất hiện nữa.
Thế nhưng trong bài này, gã
xin tạm gác hình ảnh thảm hại của anh nhà báo qua một bên, để
chiêm ngưỡng dung nhan chị vợ. Chị ta chẳng cần phải lao động,
mà chỉ cần : khi thì nhõng nhẽo, khi thì mè nheo, lúc thì hồ
hởi, lúc thì lạnh lùng đòi mua sắm đủ thứ…
Tới nước này, anh chồng tội
nghiệp chỉ còn biết gật đầu chiều theo. Rồi bằng mọi cách, dù là
bất chính, ra sức kiếm chác càng nhiều càng tốt, hầu cung phụng
cho chị ta. Mặc dầu đã biết trước những hiểm nguy đang rình rập
từng bước, anh ta vẫn cắn răng đánh bài liều, thôi thì cũng mặc
:
- Một liều ba bảy cũng
liều.
Hay như Nguyễn Du đã viết :
- Cũng liều nhắm mắt đưa
chân,
Mà xem con tạo xoay vần
tới đâu ?
Càng chiêm ngưỡng dung nhan
chị vợ, gã càng cảm thấy chị ta có những nét phảng phất giống
như một loài ký sinh, bám chặt lấy anh chồng, khiến anh ta cứ
chết dần chết mòn, thậm chí còn chết…tươi đi lúc nào cũng chẳng
biết.
Vì không phải là một
chuyên viên thứ thiệc, nên gã đành phải bật tự điển để “tra kíu”
cũng như…”ngâm kíu” tí chút và gã đã ghi nhận được những định
nghĩa như sau :
Ký có nghĩa là gửi, nhờ vả,
ở đậu.
Sinh có nhiều nghĩa, và một
trong những nghĩa ấy là sống.
Như vậy ký sinh có nghĩa là
sống bám, sống gửi, sống nhờ…Về phương diện này, người ta đã
chia ký sinh ra làm hai loại, đó là loại động vật và loại thực
vật.
Thứ nhất, ký sinh thuộc
loại động vật, trước hết là những loài sống bám trên da thịt
người hay vật khác, chẳng hạn như chấy, rận, bọ chét…Môi trường
hoạt động của chúng mới chỉ ở phía bên ngoài mà thôi.
Gã còn nhớ hình ảnh ngày
xưa về những bà mẹ già ở miền Bắc. Thực vậy vào mùa đông trời
rét đậm, nhưng thỉnh thoảng cũng có những ngày mặt trời ló dạng,
chiếu tỏa những tia nắng ấm. Vào những ngày nắng ấm họa hiếm ấy,
các bà thường đem chăn chiếu, mùng mền ra phơi. Có bà ngồi bên
ngưỡng cửa vừa chải tóc cho con và vừa bắt chấy. Có bà vừa ngồi
hong nắng, vừa vạch những đường khâu trên áo quần để bắt rận.
Bắt được con chấy hay con rận nào thì lấy móng tay ấn xuống cho
chết, hay đưa lên miệng mà cắn, nghe nổ đánh đét một cái.
Hồi xưa còn bé, sống trong
lưu xá, nếu phát hiện ra giường cu cậu nào có rệp, thì lập tức
sẽ có một ngày làm công tác tổng vệ sinh. Giường thì được phun
thuốc DDT, còn chăn chiếu mùng mền thì được đem giặt bằng nước
sôi, để tận diệt cho bằng hết loại ký sinh, chuyên hút máu của
những cậu bé dễ thương như…gã.
Cách đây không lâu, người
ta cho gã một con chó kiểng. Chú chó này thật xinh với bộ lông
xù. Thân hình nhỏ bé chỉ bằng cổ chân mà thôi. Ngày nào cũng
phải tắm gội cho chú bằng xà bông. Ai nhìn cũng thích. Thậm chí
mấy chị sinh viên tới chơi đã đưa ra một “lời đề nghị khiếm nhã”
với gã, đó là cho mấy chị ấy mượn tạm chú chó lông xù ít ngày để
mang về làm vui cửa vui nhà.
Thế rồi vì bận công việc,
gã phải đi vắng mất hai tuần lễ. Khi trở về mới thấy chú chó nhỏ
mới tang thương ngẫu lục làm sao. Trên thân hình nhỏ bé và tiều
tụy ấy, chỗ nào cũng thấy bọ chét đủ loại. Có con thì to, sau
khi hút máu cang phồng như đầu đũa. Có con thì nhỏ, mình đen hay
đỏ bóng, chân búng thật mạnh để thoát thân mỗi khi gặp nạn.
Chúng sinh sôi nảy nở thật khủng khiếp, thậm chí còn bám đầy cả
trên tường vách nữa.
Thế là gã bèn phải mất toi
mấy ngày để làm vệ sinh cho chú chó nhỏ, mới cứu vãn được tình
thế. Gã dùng chiếc “panh” gắp từng con bọ chét, cho vào lon sữa
bò đựng dầu lửa. Lại còn phải đem chú chó đi tắm gội và xịt
thuốc lên tường vách, sau đó môi trường mới dần dần trở lại cái
thế ổn định như trước.
Trong khi đau cả lưng, mỏi
cả mắt vì ngồi bắt bọ chét, gã mới nghiệm ra lời thiên hạ nói
ngày xưa là đúng :
- Trong cuộc sống có ba
việc làm thật luống công vô ích và phí phạm thời giờ : Thứ nhất
là giảng cho các cha, thứ hai là giải tội cho các sơ và thứ ba
là bắt bọ cho chó.
Hai việc trên gã không biết
thế nào, chứ việc thứ ba xem ra có phần đúng, bởi vì hôm nay
mình bắt tưởng chừng như đã hết, ngày mai vạch ra lại thấy có và
còn có nhiều nữa mới chết không cơ chứ.
Tiếp đến là những loài sống
bám trong cơ thể người hay vật khác, chẳng hạn như giun, sán…Môi
trường hoạt động của chúng là ở phía bên trong, nơi lục phủ ngũ
tạng và gây nên những chứng bệnh đôi khi cũng rất trầm trọng.
Về giun sán, gã có một kỷ
niệm nhớ đời như sau :
Số là vào một ngày nọ, gã
và một thằng bạn rủ nhau đi phố. Trên con dốc về nhà, nó bỗng
cao hứng hát oang oang :
- Trời hôm nay thanh thanh,
gió đưa cành mơn man tà áo…
Sau khi hát rông rổng mỏi
cả miệng nó bèn phán :
- Giả sử như lúc này có một
đám giun sán lúc nhúc trong bụng, bao nhiêu chất bổ béo ta xơi
vào, chúng liền tranh nhau đớp cho bằng sạch. Thảo nào mà ta vẫn
gầy còm, ốm yếu tong teo như những kẻ suy dinh dưỡng. Phen này
ta phải diệt bằng hết lũ ký sinh khốn nạn ấy.
Đồng ý với những hậu quả
tai hại, hai đứa bèn nhất trí quay phắt ra chợ, ghé vô một tiệm
thuốc tây và hỏi :
- Ở đây có loại thuốc giun
nào mới nhất và mạnh nhất thì bán cho chúng tôi, mỗi đứa một
liều.
Cô bán thuốc bèn đưa cho
mỗi đứa một lọ. Về nhà, sau khi đọc kỹ tờ hướng dẫn, hai đứa
liền nhắm mắt nhắm mũi uống đánh ực một cái. Sáng hôm sau, cả
hai đều mệt đứ đừ vì suốt đêm bị Tào Tháo rượt mà chẳng thấy
một con giun hay một con sán nào cả.
Theo tờ hướng dẫn, nếu
không thấy thì phải mua ngay một ve thuốc xổ để uống thêm. Gã
hỏi thằng bạn :
- Mày dám chơi nữa không ?
Thằng bạn lắc đầu quầy quậy
:
- Em chả giám đâu.
Thế là một mình gã, từng
bước chân âm thầm và xiêu vẹo, đi bộ ra chợ mua lấy một ve thuốc
sổ. Thuốc xổ vừa tanh lại vừa khó xơi. Nó cứ như quyện lại thành
một cục đóng ở cổ, nuốt mãi chẳng chịu trôi. Sáng hôm sau, gã bị
liệt giường liệt chiếu, bất nhóc nhách, nhìn cái gì cũng vàng
vọt. Thằng bạn nhanh trí pha cho một ly sữa, uống vào để cầm
hơi, mãi tới trưa mới tỉnh hẳn. Và từ đó, gã đành phải “bái bai”
cái món thuốc giun.
Thứ hai, ký sinh thuộc loại
thực vật là những loài sống bám trên thân của một cây khác,
chẳng hạn lan, nấm, tầm gửi, dây tơ hồng…
Nơi gã đang cắm dùi, dây tơ
hồng không ngừng được phát triển. Dĩ nhiên dây tơ hồng ở đây
không phải là sợi chỉ đỏ mà Nguyệt Lão dùng để xe kết một anh
chàng với một chị chàng để nên duyên vợ chồng. Dây tơ hồng ở đây
là một thứ dây leo thân trơn, hoa trắng, cánh mỏng, sống trên
tàn cây cỏ khác, gốc không chấm đất.
Trong vườn, gã trồng mấy
cây tùng, hằng tháng đều phải cắt tỉa, như mình đi hót tóc hay
cạo râu, để giữ lấy cái dáng vẻ như mình mong muốn. Thế nhưng,
không biết từ đâu, bỗng dưng dây tơ hồng rớt xuống, phát triển
mau lẹ, chỉ trong một thời gian ngắn đã gần phủ kín cả tàn cây.
Nếu không hủy diệt kịp thời, thì cây sẽ bị chết …đứng.
Ngoài hai loại động vật và
thực vật kể trên, theo ý gã, còn một loại thứ ba nguy hiểm hơn,
đó là loài người. Ký sinh thuộc dạng người là những kẻ chỉ biết
sống bám vào người khác, mà chẳng chịu lao động sản xuất, đóng
góp cho gia đình và xã hội. Gã xin đưa ra một vài thí dụ điển
hình.
Thí dụ thứ nhất, đó là chị
vợ trong phiên tòa xử anh nhà báo, mà gã đã đề cập ở trên, bây
giờ xin miễn bàn tới.
Thí dụ tứ hai, đó là là anh
chồng vừa mang đầu óc độc tài, độc đoán và cả độc ác nữa, mở mồm
mở miệng ra là phán thế này, phán thế nọ, vừa dài lưng tốn vải
ăn no lại nằm, chẳng hề làm lụng nhưng lại đòi được cung phụng
với chất lượng cao, theo kiểu cơm bưng nước rót :
- Bố tôi hay tửu hay tăm,
Hay nghiện chè tàu, hay
nằm ngủ trưa.
Ngày thì ước những ngày
mưa,
Đêm thì ước những đêm
thừa trống canh.
Gã đã từng chứng kiến một
ông chồng chẳng bao giờ đụng tay vào bất cứ công việc gì, suốt
ngày chỉ biết ăn và ngủ. Thời gian còn lại thì tổ tôm xóc đĩa,
hay đấu hót với bè bạn trong xóm.
Còn bà vợ quần quật suốt
ngày, buôn tần bán tảo, buôn ngược bán xuôi, buôn thúng bán
mẹt…chăm sóc từng bó rau muống và từng quả cà pháo, chắt chiu
từng đồng xu và cắc bạc. Thế mà mỗi bữa cơm, đều phải dọn cho
ông chồng một mâm riêng, trên đó có đủ thịt cá và cả một xị rượu
nữa. Ông chồng dùng xong, bà vợ và con cái mới được xơi.
Thí dụ thứ ba, đó là những
cậu ấm cô chiêu được cha mẹ gửi đi học nước ngoài, hay những
người con được cha mẹ gửi lên thành phố theo đại học. Học thì
chẳng bao nhiêu, mà đua đòi theo bè bạn thì nhiều. Họ cố tình
làm ngơ và không hiểu rằng ở miền quê, cha mẹ đả phải vất vả đổ
mồ hôi sôi nước mắt trên ruộng đồng, thu hoạch được ban nhiêu
lúa thóc, liền đem bán hết lấy tiền cung cấp cho con.
Mới đây trên báo Phụ Nữ Chủ
Nhật, có một bài mang tựa đề là “Tầm gửi”, trong đó tác giả mô
tả những kiểu sống bám của một phần giới trẻ hôm nay.
Họ là những cô cử được
dán “mác bởi tấm “bằng đỏ” đàng hoàng. Họ cũng có thể là những
nữ sinh viên vẫn còn cắp sách đến trường, hay những nữ nhân viên
trẻ trung, duyên dáng và mẫn cán…Họ có sở thích shopping, sư tầm
hàng hiệu và thú vui “thay bồ như thay áo”.
Một điểm chung nữa là
thay vì “còng lưng, cật lực”bằng sức lao động của mình, để nuôi
sống bản thân, thì các cô gái này lại chấp nhận làm thân “tầm
gửi” cho những “đại gia” hoặc “thiếu gia” lắm tật nhiều tiền…
Trong khi bạn bè cùng
lớp một buổi đi học, một buổi đi chạy bàn, dạy kèm, làm tiếp
thị, thậm chí giúp việc nhà để có tiền trang trải cuộc sống, thì
VH thong thả sắm vai một “nữ sinh quí tộc” với sự “bảo trợ” của
một cậu ấm hào hoa đất Saigon.
Mọi thứ cô đã có người
yêu lo từ A đến Z, đi học cho có lệ, miễn sao lấy được tấm bằng.
Chuyện việc làm thì chàng hứa sẽ nhờ “ông già” lo hộ.
Nhiều người tỏ ra lo
ngại :
- Chưa chắc bảo đảm, con
trai thành phố mà, một khi nó đã chán rồi thì…
Dẫu sao VH cũng bằng
lòng được làm thân “tầm gửi”, bởi theo cô :
- Được nhiều cái nhưng
có mất gì đâu. Hoặc có mất đi nữa thì cũng…đáng.
Không xinh đẹp như VH,
nhưng nhờ có biệt tài “ngoại giao”, giỏi ăn nói nên TV không mấy
khó khăn để thiết lập những “mối quan hệ cần thiết” từ khi cô
chưa tốt nghiệp khoa báo chí. Cùng với quan niệm “có mất gì thì
cũng đáng”, TV sẵn sàng làm “người tình bé nhỏ” của các “sếp”,
những mong có được một cuộc sống an nhàn, hay chí ít cũng làm
một việc làm giữa cái thời “việc ít, người nhiều”…
Còn một loại tầm gửi nữa
mà người ta hay gọi là một thứ “ký sinh hợp pháp”. Họ là đại
diện của những người trẻ “vào đời không bằng đôi chân của mình”.
Đa phần loại tầm gửi này đều là những cậu ấm cô chiêu được cưng
chiều và hoàn toàn yên tâm về một “tương lai tươi sáng” dưới sự
che chở của những “gốc” cỡ bự và chắc chắn chính là bố mẹ của
họ…
TB, một sinh viên đã
từng tuyên bố như thế này :
- Học cho lắm ra trường
cũng thất nghiệp, bè bạn tớ đã có bao nhiêu đứa như thế ! Thời
buổi này hoặc là phải có “gốc bự”, hoặc là phải biết cách chi.
Những kiểu ký sinh như vừa
kể ở trên chắc chắn sẽ đem lại những thảm khốc cho bản thân cũng
như cho chính kẻ mình sống bám. Khi kẻ ấy đi đoong thì những
loại người ký sinh kia cũng sẽ đi đoong theo.
Sách Cổ Học Tinh Hoa có kể
lại một mẩu chuyện như sau :
Ba con rận hút máu một
con lợn, tranh nhau ăn, đem nhau đi kiện. Một con rận khác gặp
và hỏi :
- Ba anh kiện nhau về
việc gì thế ?
Ba con rận đáp :
- Chúng tôi kiện nhau vì
tranh một chỗ đất màu mỡ.
Con rận kia nói :
- Tôi tưởng các anh
chẳng nên tranh nhau làm gì. Các anh chỉ nên lo đến con dao của
người đồ tể giết lợn, ngọn lửa của nồi nước sôi cạo lợn mà
thôi.
Ba con rận nghe ra, biết
là dại, thôi không đi kện nữa, cùng nhau quần tụ, làm ăn với
nhau, dù no dù đói, cũng không bỏ nhau. Con lợn thành mỗi ngày
một gầy, người ta không làm thịt cứ để nuôi, ba con rận nhờ thế
mà no đủ mãi.
Người xưa đã từng bảo :
- Ngày nay học tập, ngày
mai giúp đời.
Tương lai đang chờ đón
chúng ta. Vì thế, phải biết kiên trì thu lượm những kiến thức
làm đẹp cho bản thân và làm giàu cho cuộc sống. Và điều quan
trọng là phải biết bước đi bằng chính đôi thân của mình, có
nghĩa là phải biết cứu lấy mình trước đã, rồi trời sẽ cứu.
Văn Công nước Đằng hỏi
thầy Mạnh Tử rằng :
- Nước Đằng ta là một
nước nhỏ ở vào khoảng giữa nước Tề và nước Sở là hai nước
lớn.Kể phận thì phải chiều cả hai nước, nhưng kể sức thì không
thể chiều được cả. Chiều nước Tề chăng? Chiều nước Sở chăng ?
Ta thực không biết nên nương tựa vào nước nào để cho nước ta
được yên ổn, thầy mưu tính hộ cho ta.
Thầy Mạnh Tử thưa :
- Phàm việc gì mà cứ
trông cậy vào người thì không thể chắc được. Chiều Tề thì Sở
giận, chiều Sở thì Tề giận. Mưu ấy chúng tôi không thể nghĩ kịp.
Xin nói một cách là tự giữ lấy nước, đào hào cho sâu, đắp thành
cho cao, cai trị một cách cố kết lòng dân, cùng dân giữ nước.
Hoặc nhỡ có biến cố gì xảy ra, vua đã liều chết giữ nước, thì
chắc dân cũng liều chết giữ nước, không nỡ bỏ vua. Thế là ta
dùng cái lòng của dân để giữ lấy nước. Tự cường mà lo tan lấy
việc nước. Còn chiều Tề hay chiều Sở, thì tôi không thể quyết
được.
Kinh nghiệm cuộc sống cũng
cho gã thấy như vậy. Tin tưởng vào Mỹ, cậy nhờ viện trợ Mỹ, đến
khi Mỹ quay phắt góc một trăm tám mươi độ, cắt viện trợ và bỏ
ta. Thế là ta chao đảo và tiêu tùng luôn.
Gã xin mượn tạm mấy lời sau
đây của tác giả Diệu Phi trong bài “Tầm gửi” như một kết luận:
Sống như thế nào là
quyền của mỗi người. Dẫu sao vào đời bằng “đôi chân của chính
mình” vẫn thể hiện bản lĩnh, nghị lực sống của giới trẻ hôm nay.
Tất nhiên “đôi chân” đó
phải được hiểu là những giá trị của bản thân, là tài năng, là
chuyên môn và những phẩm chất khác ở mỗi người.
Đó không phải là cái “bệ
phóng”, chiếc chân giả dễ làm người ta hụt hẫng vấp ngã. Càng
không phải là thứ “vốn tự có” mà nhiều cô gái trẻ khai thác
triệt để, những mong được an nhàn, dù phải làm thứ tầm gửi sống
ký sinh !!!
Gã
Siêu
gasieu@gmail.com
|
VỀ MỤC LỤC |
|
- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến,
bài vở..., xin gởi về địa chỉ
giaosivietnam@gmail.com
- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục
vụ của Giáo sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các
Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn
gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực
Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh
vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức
Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và
Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quy vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại
www.conggiaovietnam.net
Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị
Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã
sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác
nhau.
TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca
Phạm Quốc Sử
USA
|
|
*************
|
|