Trong số trước, gã đã trình bày hình ảnh về
đờn bà con gái xưa và nay, bằng cách mượn kiểu diễn tả của Linh
mục Thiện Cẩm, đó là sự tiến hóa từ tam tòng nhảy vọt sang
tam…vòng. Cùng một thể thức ấy, hôm nay gã xin đề cập đến sự
chuyển biến từ tứ đức bỗng chốc trở thành tứ…sắc nơi đờn bà con
gái thời xưa và thời nay.
Khi được hỏi thế nào là cái đẹp, có người
đã đưa ra một câu định nghĩa xanh dờn như thế này :
- Đẹp, đó chính là con cóc cái dưới mắt con
cóc đực.
Câu định nghĩa méo mó này muốn nói lên rằng
: ở thế gian, chẳng bao giờ có được một cái đẹp khách quan, mà
chỉ toàn là những cái đẹp chủ quan mà thôi. Chủ quan của từng
người, cũng như chủ quan của từng thời.
Tại sao anh chàng “bô…giai” nọ lại vớ ngay
phải cô vợ xấu ơi là xấu ? Thế nhưng, xấu là xấu dưới mắt bàn
dân thiên hạ, chứ còn dưới mắt anh chàng “bô giai” nọ, nhất là
khi đã chịu đèn và say tình, thì cô nàng vẫn là người đẹp nhất
trên đời :
- Mũi em mười tám gánh lông,
Chồng yêu, chồng bảo : râu rồng trời cho.
Đêm nằm thì ngáy o o,
Chồng yêu, chồng bảo : ngáy cho vui nhà.
Đi chợ thì hay ăn quà,
Chồng yêu, chồng bảo : về nhà đỡ cơm.
Trên đầu những rác cùng rơm,
Chồng yêu, chồng bảo : hoa thơm rắc đầu.
Cũng thế, tại sao cô nàng thuộc vào hàng
“lá ngọc cành vàng” lại quơ ngay phải một anh chàng thuộc hàng
“nông nãi, vũ phi chi cục mịch” ? Thế nhưng, nông nãi và vũ phu
chi cục mịch là đối với người ngoài, chứ còn đối với cô nàng,
thì anh chàng vẫn mãi mãi là…hoàng tử của lòng em :
- Chồng ta áo rách ta thương,
Chồng người áo gấm, xông hương mặc người.
Không phải chỉ mỗi người, mà hơn thế nữa,
mỗi thời cũng đều có những tiêu chuẩn riêng để xác định cái đẹp.
Ca dao đã diễn tả về người con gái đẹp ngày xưa như sau :
- Một thương tóc bỏ đuôi gà,
Hai thương ăn nói mặn mà có duyên.
Ba thương má lúm đồng tiền,
Bốn thương răng nhánh hạt huyền kém thua.
Năm thương cổ yếm đeo bùa,
Sáu thương nón thượng quai tua dịu dàng.
Bảy thương nết ở khôn ngoan.
Tám thương ăn nói lại càng thêm xinh.
Chín thương cô ở một mình,
Mười thương con mắt có tình với ai.
Từ bài ca dao trên, gã thấy phảng phất và
bàng bạc tinh thần của Nho giáo. Thực vậy, xã hội Việt Nam thời
xưa đã mang nặng dấu ấn của Nho giáo. Người ta lấy những lời
giảng dạy của Khổng Tử làm khuôn vàng thước ngọc cho cách cư xử,
cũng như làm tiêu chuẩn hướng dẫn cho cuộc sống của mình.
Đối với cánh đờn ông con giai, ngoài việc
tuân giữ “tam cương”, ba rường cột quan trọng trong đạo làm
người, ba mối dây liên hệ chính yếu trong xã hội, đó là quân
thần, phụ tử và phu phụ, đạo vua tôi, đạo cha con và đạo vợ
chồng, lại còn phải thực thi “ngũ thường”, năm nhân đức quen
thuộc của con người, đó là nhân nghĩa lễ trí tín.
Riêng đối với phe đờn bà con gái, ngoài
việc tuân giữ “tam tòng”, ba sự tùng phục chính yếu, đó là tại
gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử, khi còn ở nhà
thì theo cha, khi đi lấy chồng thì theo chồng và khi chồng chết
thì theo con, lại còn phải thực thi tứ đức, bốn nhân đức đặc thù
của người phụ nữ, đó là công, dung, ngôn, hạnh.
- Phận gái tứ đức vẹn tuyền,
Công dung ngôn hạnh giữ gìn chớ sai.
Đức thứ nhất là công. Vậy công là gì ?
Xin thưa rằng :
- Công là đủ mùi xôi thức bánh, giỏi giang
từ đường chỉ mũi kim, nói chung việc nhà phải khéo léo.
Dường như Thượng đế đã ngấm ngầm thỏa thuận
và phân chia : đờn bà thì quán xuyến việc nhà, còn đờn ông thì
lo toan việc làng việc nước. Hai chữ “việc nhà”, mới nghe qua,
thấy nó thật nhẹ nhõm và đơn giản, nhưng bước vào rồi, mới thấy
nó thật nhiêu khê và rắc rối, cũng vất vả toát cả mồ hôi hột,
chứ chẳng nhẹ nhõm và đơn giản tí nào.
Trước hết, việc nhà chính là việc sắp đặt
và tổ chức trong gia đình.
Đúng thế, phải làm sao cho căn nhà được
sạch sẽ và đẹp đẽ, được thứ tự và ngăn nắp, biến nó trở thành
một tổ ấm dễ thương và dễ mến, để rồi sau những giờ phút lao
động mệt mỏi, sau những bươn chải kiếm tìm chén cơm manh áo, thì
ai cũng thầm mong sớm trở về, hầu được nghỉ ngơi và thư giãn.
Thử tưởng tượng xem một anh chồng suốt ngày
quần quật trên ruộng đồng, đổ mồi hôi xôi nước mắt, hay một ông
xã ngồi nơi công sở, bị cấp trên chèn ép, bị cấp ngang cạnh
tranh và bị cấp dưới chống đối…mang cái đầu óc căng thẳng về
nhà, chỉ mong sao được khuây khỏa. Thế mà khi bước chân vào nhà,
thì ôi thôi, cả một bãi chiến trường ngổn ngang và bầy hầy trước
mặt. Áo quần vứt bừa vứt bãi, hay giăng mắc lung tung. Thậm chí,
có những thứ “nội y” cần cất dấu, mà vẫn cứ được vô tư phơi bày
ra trước mắt bàn dân thiên hạ. Ly tách bẩn thỉu, bàn ghế mỗi cái
một nơi. Thẹn đỏ cả mặt, mỗi khi có bè bạn hay khách khứa ghé
thăm.
Chính vì thế, thiên hạ thường gọi người vợ
là người nội trợ, tức là người trợ giúp những việc trong nhà :
- Bề nội trợ việc trong xem xét,
Siêng năng thì trăm việc đều nên.
Nói là trợ giúp, chứ thực chất là quản lý
và điều hành tấr ráo cả mọi sự, như Tú Xương đã từng xác quyết
:
- Việc nhà phó mặc cho bu nó,
Quắc mắt khinh đời cái bộ anh.
Cái uy quyền “nội thất” này, không oai
phong lẫm liệt, không hét ra lửa khiến cho nhiều đầu gối phải
run lập cập, để rồi chỉ còn nước cúi gập mình xuống, hay uốn
cong người lên mà luồn lách lươn lẹo…nhưng âm thầm và kín đáo,
dầu vậy cũng vẫn có được một tác dụng ghê gớm.
Chính vì tác dụng ghê gớm này, mà thiên hạ
đã không ngần ngại phong cho các bà xã cái hàm…nội tướng. Và khi
vị nội tướng đã phán, thì tất cả đều phải thi hành, hay khi vị
nội tướng đã ra tay, thì mọi người đều phải răm rắp vâng theo,
từ ông bố cho chí đến đứa con. Chả thế mà người xưa đã bảo :
- Lệnh ông không bằng cồng bà.
Phân tích câu tục ngữ này, gã nhận thấy :
lệnh là thứ chiêng đồng loại nhỏ dùng để đánh làm hiệu mà xuất
quân, đồng thời cũng có nghĩa là lời sai khiến. Còn cồng là thứ
chiêng đồng loại lớn dùng để đánh làm hiệu mà lui quân. Như vậy
khi cái lệnh của ông được đánh thì mọi người sẽ vâng nghe mà ra
đi. Nhưng nếu cái cồng của bà cũng vang lên, hẳn sẽ át được
tiếng lệnh của ông, khiến mọi người phải nghe theo mà rút về.
Thậm chí nhiều lúc còn :
- Lệnh vua thua lệnh bà.
Và như thế, trong phạm vi gia đình, quyền
bà thường lớn hơn quyền ông. Chả thế mà dân mánh mung, cũng như
dân áp phe áp chảo đã triệt để khai thác đặc điểm trên.
Thực vậy, muốn cho công việc được thuận
buồm xuôi gió, nói với “tướng ông” xem ra có vẻ bị khó, thế là
họ bèn đi cửa sau, giãi bày tâm sự với “tướng bà”ø. Một khi
tướng bà đã gật đầu ô kê, thì mọi việc đều xong tuốt luốt. Bởi
vì, tướng ông nỡ lòng nào mà từ chối những lời thỏ thẻ ngọt như
đường cát, mát như đường phèn của tướng bà, dù có phải tra chân
vào cùm và bị thân bại danh liệt… cũng vẫn một lòng chịu vậy !!!
Tiếp đến, việc nhà là việc bếp núc và nấu
nướng.
Cánh đàn ông con giai, xem ra anh nào cũng
thích ăn ngon. Đối với họ, bao tử đi trước, rồi việc làng việc
nước mới theo sau. Thậm chí những kẻ phàm ăn tục uống còn phát
biểu :
- Tình yêu đến qua ngả đường của bao tử.
Ngay cả trong phạm vi tôn giáo, đằng sau
những việc đạo đức thiêng liêng cao cả, thì dường như người ta
đều thấy bóng dáng của mâm cỗ, của dạ dày phảng phất :
- Trước là kính thánh, sau là…đánh chén.
- Có thực mới vực được đạo.
Chẳng thế mà họ đã từng giải quyết chuyện
quốc gia đại sự, hay những phi vụ làm ăn trị giá bạc tỷ bên bàn
tiệc đó sao. Còn nói theo kiểu thánh Phaolô, thì đôi lúc họ đã
trót lấy …cái bụng của mình làm chúa.
Vì thế, người vợ “ngon lành” cũng phải là
người vợ thành thạo việc bếp núc và nấu nướng :
- Vắng đờn ông quạnh nhà,
Vắng đờn bà quạnh bếp.
- Xem trong bếp, biết nết đờn bà.
Nhiều bà mẹ đã khéo lo cho con gái, bằng
cách gửi con gái theo học một lớp cắt may và một khóa nữ công
gia chánh, là như một mớ hành trang cần thiết cho chuyến đi về
nhà…chồng.
Sau cùng, việc nhà còn là việc giáo dục con
cái.
Thực vậy, ông bố thường bận bịu với chuyện
cơm áo gạo tiền, lắm lúc bất đắc dĩ phải lấy “ngoài đường” làm
nơi thường trú, còn “trong nhà” chỉ là nơi tạm trú mà thôi. Vì
thế, người mẹ là người sống gần gũi con cái hơn, hiểu biết con
cái hơn và cũng được con cái yêu thương hơn, nên cũng thường để
lại nhiều dấu ấn sâu đậm trên con cái. Chẳng vậy mà người xưa đã
bảo :
- Con hư tại mẹ, cháu hư tại bà.
Việc giáo dục này cần phải được bắt đầu
ngay khi con cái còn là một bào thai và nhất là khi chúng bắt
đầu hiểu biết , bởi vì :
- Bé không vin, cả gẫy cành.
- Uốn cây thừ thưở còn non,
Dạy con từ thưở con còn đương thơ.
Một tên tướng cướp ngày kia trở về nhà thăm
mẹ già. Bà mẹ dẫn con ra một góc vườn, rồi hai mẹ con cùng ngồi
thủ thỉ và tâm sự với nhau. Bà mẹ ra sức khuyên nhủ người con từ
bỏ con đường lầm lạc và làm lại đời mình. Nghe nói thế, người
con bèn chỉ vào một cây to và nói :
- Liệu mẹ có còn uốn được cây này nữa không
? Chắc chắn là không. Vậy tại sao mẹ không dạy con từ lúc con
còn nhỏ, bây giờ con đã là một cây to, thì không thể uốn được
nữa.
Nói xong, tên tướng cướp lặng lẽ bỏ đi.
Đức thứ hai là dung. Vậy dung là gì ?
Xin thưa rằng :
- Dung hay dong là hình dáng, tướng mạo bên
ngoài, như người đời thường bảo :
- Xem mặt mà bắt hình dong,
Con lợn có béo thì lòng mới ngon.
Dung ám chỉ sắc đẹp của người phụ nữ. Sắc
đẹp này, trước hết được chú trọng vào khuôn mặt, vì thế người ta
mới gọi nhan sắc là vẻ đẹp của khuôn mặt nói riêng và vẻ đẹp
của toàn thân nói chung :
- Chồng em vừa xấu vừa đen,
Đã kém nhan sắc, lại hèn chân đi.
Người con gái đẹp là người con gái có nét
mặt tự nhiên, không tha thướt lả lơi. :
- Cổ tay em trắng như ngà,
Con mắt em liếc như là dao cau.
Miệng cười như thể hoa ngâu,
Cái khăn đội đầu như thể hoa sen.
Sắc đẹp ấy không phải chỉ được thể hiện
trên khuôn mặt, mà còn được thể hiện nơi thân hình :
- Những người thắt đáy lưng ong,
Vừa khéo chiều chồng, vừa khéo nuôi con.
Thế nhưng, ngoài sắc đẹp trời ban cho,
người con gái còn phải biết kết hợp với việc ăn mặc, sử dụng
trang phục sao cho hài hòa, thích hợp với từng người, theo từng
tuổi, ở từng nơi và trong từng lúc :
- Áo đen ai nhuộm cho mình,
Cho duyên mình đậm, cho tình anh thương.
Đức thứ ba là ngôn. Vậy ngôn là gì ?
Xin thưa rằng :
- Ngôn là biết trình thưa vâng dạ.
Lời nói vừa tế nhị lại vừa ôn tồn, vừa lễ
độ lại vừa khôn ngoan, biểu hiện được nhân cách của người phụ
nữ, đồng thời còn chứng tỏ mình là một con người có giáo dục, có
văn hóa :
- Chim khôn kêu tiếng rảnh rang,
Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe.
Sau cùng, đức thứ tư là hạnh. Vậy hạnh là
gì ?
Xin thưa rằng :
- Hạnh là đường ngay thảo kính, nết na đằm
thắm.
Nói cách khác, hạnh chính là sự đạo đức,
nết na của người phụ nữ. Muốn được bàn dân thiên hạ coi là đẹp,
thì bản thân họ phải là con ngoan, vợ hiền và dâu hiền, phải
biết trung thực và nhân hậu, kính trên và nhường dưới. Đây chính
là yếu tố căn bản nhất tạo thành nét duyên ngầm của người phụ
nữ. Nét duyên ngầm này sẽ không bị tàn phai với thời gian, trái
lại ngày càng thêm đậm đà, khiến cho mọi người phải cúi đầu tâm
phục khẩu phục :
- Cái nết đánh chết cái đẹp.
Nếu phải chọn lựa giữa nhan sắc và đức
hạnh, người xưa không ngần ngại chọn ngay đức hạnh, bởi vì như
vừa trình bày, đức hạnh chính là nét duyên ngầm của đờn bà con
gái, không bị thời gian là cho nhạt nhòe :
- Tốt gỗ hơn tốt nước sơn,
Xấu người đẹp nết, còn hơn đẹp người.
Sách “Cổ học tinh hoa” có kể lại một mẩu
chuyện như sau :
Dương Chu sang nước Tống, đến ở trọ một nhà
kia. Chủ nhà trọ có hai người thiếp : một người đẹp, còn một
người xấu. Dương Chu thấy trong nhà ai cũng quí mến người thiếp
xấu mà khinh chê người thiếp đẹp, lấy làm lạ bèn dò hỏi một
thằng nhỏ giúp việc, thì nó trả lời rằng :
- Người thiếp đẹp tự coi là đẹp, nên mất
đẹp. Còn người thiếp xấu, tự biết là xấu, nên không còn xấu nữa.
Nghe vậy, Dương Chu bèn gọi học trò lại và
bảo :
- Các con hãy nhớ lấy câu này : người giỏi
mà bỏ được cái thói ”tự cho mình là giỏi”, thì đi đến đâu ai mà
chẳng trọng kính, ai mà chẳng yêu mến.
Sau khi đã tìm hiểu về tứ đức của đờn bà
con gái thời xưa, bây giờ chúng ta hãy nhìn vào xã hội hôm nay,
để xem tứ đức ấy còn tồn tại, hay chỉ là một kỷ niệm buồn của dĩ
vãng, một chuyện đã xưa rồi Diễm ơi mà thôi.
Theo sự diễn tả của linh mục Thiện Cẩm, thì
ngày nay thế gian bỗng tự nhiên ra khác. Vậy thế gian ra khác
như thế nào, nhất là trong lãnh vực đờn bà con gái ?
Theo các nhà tâm lý, hoàn cảnh bên ngoài
nhiều lúc đã ảnh hưởng sâu xa đến tâm tính bên trong. Đờn bà con
gái ngày nay, không còn bị nhốt trong căn nhà bếp, suốt ngày bầu
bạn với nồi niêu xoong chảo, mà đã nhảy phóc ra ngoài xã hội.
Cũng lao động và sản xuất, cũng quản lý và điều hành, cũng bươn
chải và đôn đáo chạy ngược chạy xuôi chẳng kém gì đờn ông con
trai. Nhiều bà nhiều cô đã gặt hái được những thành quả sáng
chói, làm tới giám đốc, bộ trưởng, thủ tướng…chẳng kém gì, mà có
khi còn vượt trội hơn cả cánh đờn ông con giai với mức lương thu
nhập khá cao.
Gã không phải là chuyên viên kinh tế, nhưng
kinh nghiệm đời thường cho gã thấy : trong bất cứ tổ chức nào,
từ gia đình cho đến xã hội, ai nắm được tài chánh, thì người ấy
cũng nắm quyền chỉ huy, nghĩa là được quyền ra lệnh, đồng thời
chi phối mọi hoạt động của người khác.
Vì cũng phải góp mặt với đời và hơn thế
nữa, không còn bị lệ thuộc vào đờn ông con giai trong lãnh vực
tiền bạc, nên đờn bà con gái ngày nay bỗng trở thành một thứ bề
trên, nên đâu còn thời giờ lo toan chuyện tẹp nhẹp bếp núc,
thành thử lắm khi “việc nhà phó mặc cho bố nó”. Như vậy, chữ
“công” được tạm cất vào ngăn kéo của dĩ vãng.
Thật tội nghiệp cho những đức ông chồng,
mặc dù đang sống phây phây giữa đời, thế mà cứ như ông thầy dòng
sống trong tu viện. Mặc dù chẳng khấn chẳng hứa, thế mà vẫn cứ
phải tuân giữ ba nhân đức khó nghèo, khiết tịnh và vâng phục.
Thứ nhất không được giữ tiền riêng, vì đồng lương phải nộp cả
cho vợ Thứ hai đừng có dại mà tơ tưởng lung tung, hay mèo chuột
linh tinh vì phải tuyệt đối trung thành với vợ. Bà mà biết được
thì chết với bà. Thứ ba phải luôn chiều ý vợ, thậm chí nếu phải
tham nhũng hối lộ vì vợ thì cũng hồ hởi thưa lên hai tiếng “xin
vâng”.
Ai nắm tiền bạc trong gia đình, thì người
ấy có quyền phán bảo. Và một khi đã quen với cung cách phán bảo,
thì cứ việc ăn to nói lớn, chả cần phải để ý tới ai, vì lẽ phải
và công lý luôn nằm trong lòng bàn tay của mình. Nương theo cái
đà ấy, mấy cô em gái nho nhỏ dễ thương mà tụ lại với nhau, thì
cũng phát ngôn theo kiểu đao to búa lớn, đủ mùi chanh chua. Họ
sẵn sàng gọi người yêu của mình là cái lão ấy, cũng như gọi cha
mẹ của mình là cái ông ấy, cái bà ấy. Hơn nữa, những đề tài được
trao đổi, người ngoài mà nghe thấy cũng phải toát cả mồ hôi
lạnh và quỉ thần cũng phải phát kinh, phát khiếp lên ấy chứ. Như
vậy, chữ “ngôn” cũng được mời đi chỗ khác chơi.
Nếu ngày xưa người ta chủ trương : Cái nết
đánh chết cái đẹp, thì đờn bà con gái thời nay nhiều người lại
cho rằng :
- Cái đẹp đè bẹp cái nết.
Rất nhiều cô đã biết tận dụng cái vốn trời
cho này mà hốt bạc tỉ, hay leo lên đài danh vọng, mà chẳng phải
tốn đồng xu cắc bạc nào cả, khiến cho phe đờn ông con giai phát
thèm, phát khát, có nằm mơ cũng chẳng thấy. Thành thử chữ “hạnh”
bị xếp vào hàng thứ yếu. Thậm chí, người đạo đức nết na lắm khi
còn bị liệt vào hàng “ngớ ngẩn ngây ngô khù khờ ngu ngơ”
nữa là khác.
Điều mà đờn bà con gái thời nay chú trọng
hơn hết, có lẽ là chữ “dung”, tức là nhan sắc, tức là vẻ đẹp. Và
thế là tứ đức của Nho giáo nghiễm nhiên trở thành tứ…sắc. Sắc
đẹp của khuôn mặt, sắc đẹp của bộ ngực, sắc đẹp của cặp giò và
sắc đẹp của áo quần.
Để phục vụ cho nhu cầu làm đẹp này, các
thẩm mỹ viện mọc lên như nấm, ăn nên làm ra, phất lên như diều
gặp gió. Mấy ông bác sĩ giải phẫu, cắt chỗ nọ vá chỗ kia, hút
chỗ này bơm chỗ khác, cứ ung dung ngồi hốt bạc vì phen này ắt
hẳn trúng mánh lớn. Thậm chí nhiều bà nhiều cô lặn lội từ bên Mỹ
về Việt Nam cốt chỉ để xẻ cái cằm, xâm bờ môi hay cấy hàng lông
mi…vì tiền công ở Việt Nam rất rẻ.
Rồi trên thị trường, từ các siêu thị hiện
đại cho đến các tiệm tạp hóa nơi hang cùng ngõ hẻm, cũng đã bày
bán biết bao nhiêu thứ mỹ phẩm. Nguyên dầu gội đầu, phục vụ cho
mái tóc thì cũng đã có biết bao nhiêu loại, đến quỉ thần cũng
không thể nào nhớ cho hết. Nguyên kem phục vụ cho làn da, thì
cũng đã có biết bao nhiêu thứ : kem dưỡng da, kem tẩy da, kem
trắng da, kem chống nắng, kem chống nhờn, kem chống khô…vì nhất
dáng nhì da cơ mà. Và rồi còn biết bao nhiêu mặt hàng, biết bao
nhiêu đồ phụ tùng lỉnh kỉnh khác nữa, từ bên ngoài cho đến bên
trong, nhằm tăng thêm vẻ đẹp cho quí bà quí cô. Gã đành phải bó
tay, xin chào thua.
Thế nhưng, qui luật của muôn đời cho thấy :
- Có tuổi trẻ nào mà không già, có nhan sắc
nào mà không bị tàn phai với thời gian.
Và khi nhan sắc đã tàn phai, thì hỡi ôi :
- Còn duyên kẻ đón người đưa,
Hết duyên vắng ngắt như chùa bà Đanh.
- Còn duyên kén những giai tơ,
Hết duyên ông lão cũng vơ làm chồng.
Vì thế, trong khi điểm tô và làm đẹp cho
cái nhan sắc bên ngoài, cũng đừng quên điểm tô và làm đẹp cho
cái nhan sắc bên trong :
- Người xấu, duyên lặn vào trong.
Bao nhiêu người đẹp, duyên bong ra ngoài.
Để tạo được vẻ đẹp hài hòa như thế, không
bì bằng trở về với truyền thống dân tộc, bởi vì bốn chữ “công
dung ngôn hạnh” vừa tạo được cái đẹp bên ngoài, mà cũng không
sao lãng cái đẹp của phẩm chất bên trong.
Với chủ trương như vậy, chắc chắn gã sẽ bị
mấy cô gái choai choai bây giờ bĩu môi, trề miệng ra mà phán :
- Rõ thật đồ cù lần cù lèo!!!
Gã Siệu
gasieu@gmail.com
|