Cổ Võ Hòa Bình Và Xây Dựng Cộng Ðoàn Các Dân Tộc |
Thánh Công Ðồng Chung Vaticanô II
Hiến Chế Mục Vụ Về Giáo Hội
Trong Thế Giới Ngày Nay
Gaudium Et Spes
Bản dịch Việt Ngữ của Giáo Hoàng Học
Viện Piô X
Prepared for Internet by Vietnamese
Missionaries in Asia
Phần Thứ Hai
Chương V
Cổ Võ Hòa Bình Và Xây Dựng
Cộng Ðoàn Các Dân Tộc
90*
77. Nhập đề. Hiện nay,
trong khi những nỗi đau khổ và lo âu hết sức trầm trọng còn tồn
tại giữa loài người do cuộc chiến tranh không ngừng hiện đang đe
dọa gây nên, toàn thể nhân loại trong tiến trình trưởng thành đã
bước vào một giai đoạn hết sức quyết định. Gia đình nhân loại
dần dần hiệp nhất với nhau và đã ý thức hơn về sự hiệp nhất của
mình ở mọi nơi, do đó công việc mà gia đình nhân loại phải bắt
tay vào là xây dựng một thế giới thực sự nhân bản hơn cho tất cả
mọi người ở mọi nơi. Công việc này chỉ được hoàn thành cách tốt
đẹp nếu tất cả mọi người đều cải tạo tâm hồn để hướng về hòa
bình đích thực. Như thế, sứ điệp Phúc Âm phụ họa với những khát
vọng và cố gắng cao cả của nhân loại mới rực sáng lên ở thời đại
chúng ta bằng luồng sáng mới, khi công bố phúc cho những người
kiến tạo hòa bình "vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa" (Mt
5,9).
Do đó, khi làm
sáng tỏ ý nghĩa đích thực và rất cao cả của hòa bình, và sau khi
đã lên án sự dã man của chiến tranh, Công Ðồng muốn tha thiết
kêu mời các Kitô hữu, với sự trợ giúp của Chúa Kitô, Ðấng sáng
tạo hòa bình, hãy cộng tác với tất cả mọi người để chuẩn bị các
phương tiện xây dựng hòa bình và để củng cố nền hòa bình đích
thực giữa họ trong công bằng và yêu thương.
78. Bản chất của hòa bình.
Hòa bình không hẳn là vắng bóng chiến tranh, cũng không chỉ được
giản lược vào sự quân bình hóa giữa các lực lượng đối phương,
cũng không phát xuất do một nền cai trị độc tài, nhưng theo đúng
định nghĩa thì hòa bình là "công trình của công bằng" (Is 32,7).
Hòa bình là kết quả của một trật tự đã được chính Thiên Chúa,
Ðấng Sáng Lập, ghi khắc vào xã hội loài người và phải nhờ những
người luôn luôn khao khát một nền công bằng hoàn hảo hơn thể
hiện ra trong hành động. Thật thế, mặc dù tự bản chất công ích
của nhân loại dĩ nhiên phải được định luật đời đời qui định, tuy
nhiên trong những đòi hỏi cụ thể của nó, công ích vẫn phải chịu
những thay đổi không ngừng với diễn biến của thời gian. Do đó,
hòa bình không bao giờ đạt được một lần là xong, nhưng phải xây
dựng mãi mãi. Hơn nữa, vì ý chí của con người yếu đuối và bị tội
lỗi làm tổn thương, do đó muốn có hòa bình mỗi người phải luôn
luôn kiềm chế dục vọng của mình và chính quyền phải canh phòng
cẩn thận.
Nhưng như thế
chưa đủ. Hòa bình ấy chỉ có được trên trần gian, nếu giá trị của
từng cá nhân được đảm bảo và mọi người tin tưởng cũng như tự
nguyện san sẻ cho nhau những của cải tinh thần và tài năng của
họ. Ý chí cương quyết muốn tôn trọng người khác, những dân tộc
khác cũng như phẩm giá của họ và sự ân cần thực thi tình huynh
đệ là những điều kiện thiết yếu để xây dựng hòa bình. Như thế,
hòa bình cũng là kết quả của tình thương, một thứ tình thương
vượt xa những gì công bằng có thể đem đến.
Phát sinh từ
tình yêu tha nhân, hòa bình trần gian là hình ảnh và là kết quả
của hòa bình Chúa Kitô, hòa bình do Ðức Chúa Cha mà đến. Vì
chính Chúa Con Nhập Thể là thái tử hòa bình đã dùng thập giá
Người để hòa giải mọi người với Thiên Chúa; Người đã tái lập sự
hiệp nhất mọi người thành một dân tộc và một thân thể. Người đã
hủy diệt hận thù trong chính xác thể Người
1, và sau khi đã khải hoàn phục sinh, Người đã đổ
tràn Thánh Thần tình yêu đầy lòng con người.
Do đó, trong
khi "thực thi chân lý trong bác ái" (Eph 4,15), mọi Kitô hữu
được khẩn thiết kêu mời hãy kết hiệp với những người thực sự yêu
chuộng hoà bình để cầu khẩn và thiết lập hòa bình
91*.
Cũng trong tinh
thần đó, chúng tôi không thể không ca ngợi những ai tranh đấu
cho quyền lợi mà không dùng bạo động, nhưng dùng những phương
tiện tự vệ sẵn có cho những người yếu kém, miễn sao không hại
đến quyền lợi và bổn phận của người khác và của cộng đoàn.
Bao lâu con
người còn là những kẻ tội lỗi, hiểm họa chiến tranh còn đe dọa
và vẫn sẽ còn đe dọa cho tới khi Chúa Kitô đến. Tuy nhiên, nhờ
kết hiệp trong bác ái, con người thắng vượt tội lỗi và cũng
thắng vượt bạo động cho tới khi lời sau đây được hoàn tất: "Họ
sẽ rèn gươm thành lưỡi cày và giáo thành lưỡi liềm. Các dân tộc
sẽ không rút gươm đâm chém nhau và sẽ không còn tập luyện để
chiến đấu" (Is 2,4).
Ðoạn 1: Tránh Chiến Tranh
78. Giảm thiểu sự vô nhân đạo của chiến
tranh. Mặc dù những trận chiến tranh gần đây đã
gây cho thế giới chúng ta những thiệt hại quá nặng nề về vật
chất cũng như tinh thần, thế mà cho tới nay trên một vài miền
chiến tranh vẫn còn hàng ngày liên tục tàn phá. Lại nữa, khi
người ta sử dụng những khí giới khoa học đủ loại trong chiến
tranh thì tính cách dã man của chiến tranh lăm le đưa những kẻ
tham chiến tới một sự man rợ còn khốc hại hơn những ngày trước.
Vả lại, hoàn cảnh phức tạp ngày nay và những mối bang giao rối
ren giữa các quốc gia càng giúp cho chiến tranh ngấm ngầm kéo
dài với những phương pháp mới quỷ quyệt và tàn bạo. Trong nhiều
trường hợp, sự xử dụng những phương pháp khủng bố được coi như
một hình thức mới của chiến tranh.
Ðứng trước thảm
trạng này của nhân loại, tiên vàn Công Ðồng muốn nhắc nhở đến
giá trị ngàn đời của quyền lợi tự nhiên của các dân tộc và những
nguyên tắc phổ quát của nó. Chính lương tâm nhân loại công bố
những nguyên tắc đó một cách càng ngày càng cương quyết hơn.
Những ai mưu toan hành động ngược lại những nguyên tắc đó cũng
như những ai ra lệnh những hành động như thế, đều phạm tội ác
cả; sự thừa lệnh mù quáng cũng không đủ để chạy tội cho những
người tuân theo những mệnh lệnh trên. Trong số những hành động
tội ác trên, trước hết phải kể đến hành động tiêu diệt một chủng
tộc, một dân tộc hay một dân tộc thiểu số bằng bất cứ lý do hay
phương pháp nào. Những hành động như thế phải được gắt gao lên
án như những tội ác đáng ghê tởm. Và phải hết sức ca ngợi tinh
thần can đảm của những người dám công khai chống đối laị những
kẻ ra lệnh thi hành những tội ác trên.
Về vấn đề chiến
tranh, hiện có nhiều hiệp ước quốc tế mà khá nhiều quốc gia đã
ký kết nhằm làm cho những hoạt động quân sự và những hậu quả của
chúng bớt vô nhân đạo hơn. Chẳng hạn có những hiệp ước liên quan
đến số phận của thương binh hoặc tù bình, và nhiều thỏa ước
tương tự khác. Những hiệp ước như thế cần phải được tôn trọng.
Hơn nữa, mọi người, nhất là chính quyền và những nhà chuyên môn
về vấn đề này, tùy theo khả năng của mình, cần phải cố gắng làm
sao cho những hiệp ước đó được hoàn hảo, và như thế tức là họ
giúp ngăn chặn một cách tốt đẹp và hữu hiệu hơn tính cách vô
nhân đạo của chiến tranh. Vả lại, cũng là một điều hợp lý nếu vì
lòng nhân đạo mà có những khoản luật dành cho những người vì lý
do lương tâm từ chối không xử dụng khí giới, miễn là họ chấp
nhận phục vụ cộng đoàn nhân loại dưới một hình thức khác
92*.
Dĩ nhiên, nhân
loại chưa trừ được tận gốc chiến tranh. Và bao lâu nguy cơ chiến
tranh tồn tại, bao lâu chưa có quyền bính quốc tế có thẩm quyền
và có đủ sức mạnh, thì mỗi khi đã dùng hết mọi phương thế ôn
hòa, các chính phủ được phép xử dụng quyền tự vệ chính đáng. Do
đó, các thủ lãnh quốc gia và những ai có trách nhiệm trong nước
có bổn phận phải bảo vệ dân chúng đã được ủy thác cho mình, họ
phải thận trọng trong những vấn đề nghiêm trọng như thế. Tuy
nhiên, chiến tranh để bảo vệ dân tộc một cách chính đáng là một
việc, còn mưu toan đặt ách đô hộ trên các quốc gia khác lại là
việc khác. Không phải mọi việc xử dụng sức mạnh của khí giới vào
mục tiêu chính trị hay quân sự đều là hợp pháp. Không phải vì
chiến tranh đã chẳng may khai diễn mà các đối phương đều được
phép làm gì thì làm.
Ðối với những
ai hy sinh phục vụ tổ quốc trong quân ngũ, họ cũng phải coi mình
như những người đem lại an ninh và tự do cho các dân tộc. Và nếu
họ chu toàn bổn phận này, họ thực sự đóng góp vào việc củng cố
hòa bình.
80. Chiến tranh toàn diện.
Sự phát triển khí giới khoa học làm cho chiến tranh tăng thêm
phần ghê tởm và khốc hại khôn lường. Thực vậy, những hành động
hiếu chiến đi đôi với việc xử dụng những khí giới này có thể đưa
lại những tàn phá lớn lao và không phân định, do đó vượt xa giới
hạn của việc tự vệ chính đáng. Hơn nữa, nếu tận dụng tất cả
những phương tiện hiện có trong các kho vũ khí của các cường
quốc, thì sẽ có một cuộc tương tàn hầu như hoàn toàn và mỗi bên
sẽ bị đối phương tận diệt, đó là chưa kể đến nhiều cuộc tàn phá
xảy ra trong thế giới và những hậu quả khốc hại do việc xử dụng
những khí giới nói trên.
Tất cả những
điều nói trên buộc chúng ta phải xét lại chiến tranh trong một
tinh thần hoàn toàn mới mẻ
2.
93* Con người thời đại này phải biết rằng họ sẽ
chịu trách nhiệm nặng nề về những hành động hiếu chiến của họ,
vì các biến chuyển tương lai sẽ tùy thuộc nhiều ở những quyết
định của họ hôm nay.
Trước tình
trạng đó, thừa nhận những lời kết án về chiến tranh toàn diện
của những vị Giáo Hoàng gần đây
3, Thánh Công Ðồng tuyên bố rằng:
Mọi hành động
hiếu chiến nhằm tiêu diệt bừa bãi nguyên cả thành phố hay những
vùng rộng lớn cùng với dân cư ở đó là một tội ác chống lại Thiên
Chúa và chính con người. Vậy phải cực lực và không ngần ngại lên
án tội ác đó.
Mối nguy cơ đặc
biệt của chiến tranh hiện nay hệ tại ở chỗ hầu như tạo cơ hội
cho những người có khí giới tối tân phạm những tội ác như thế và
hậu quả tất nhiên là có thể thúc đẩy ý muốn con người đi tới
những quyết định hiểm độc nhất. Vậy để cho thảm trạng đó không
bao giờ xảy đến, các Giám Mục trên toàn thể thế giới hợp nhau
nên một tha thiết kêu gọi mọi người, nhất là những nhà cầm quyền
quốc gia cũng như những vị chỉ huy quân sự hãy luôn luôn cân
nhắc trách nhiệm lớn lao của mình trước mặt Thiên Chúa và toàn
thể nhân loại.
81. Thi đua võ trang.
Thực ra, khí giới khoa học không phải được thu trữ chỉ để dùng
vào thời chiến tranh, vì người ta cho rằng sự phòng thủ kiên cố
của mỗi phe tùy thuộc ở khả năng trả đũa đối phương một cách vũ
bão, cho nên sự tích trữ khí giới mỗi năm một gia tăng chính là
nhằm đe dọa đối phương có thể bất thần tấn công. Nhiều người cho
rằng đó là phương cách hữu hiệu nhất để bảo toàn hòa bình giữa
các quốc gia ngày nay.
Dù cho phương
thức ngăn chặn đối phương có thế nào đi nữa, con người vẫn phải
xác tín rằng cuộc thi đua võ trang, công việc mà khá nhiều quốc
gia đang theo đuổi, không phải là một con đường an toàn để duy
trì hòa bình một cách vững chắc, cũng như cái gọi là quân bình
xuất phát từ việc thi đua đó cũng không phải là hòa bình chắc
chắn và đích thực. Do đó, những nguyên nhân của chiến tranh
chẳng những không bị loại bỏ mà còn đe dọa mỗi lúc một thêm trầm
trọng. Ðang khi tiêu thụ quá nhiều tài nguyên vào việc chuẩn bị
những khí giới luôn luôn mới mẻ thì không thể nào đem lại một
phương dược đủ để chữa trị biết bao khốn khổ hiện tại của thế
giới. Thay vì thật sự và triệt để hàn gắn những chia rẽ giữa các
quốc gia, người ta lại làm cho những chia rẽ ấy lan rộng đến các
vùng khác trên thế giới. Phải chọn lựa những con đường mới bắt
nguồn từ việc cải tạo tâm hồn để chấm dứt tệ trạng đó và để hòa
bình đích thực có thể được vãn hồi, một khi thế giới được giải
thoát khỏi mối âu lo đang đè nặng.
Bởi thế, cần
phải tuyên bố một lần nữa: cuộc thi đua võ trang là một tai họa
hết sức trầm trọng cho nhân loại và xúc phạm đến người nghèo một
cách không thể tha thứ được. Và phải hết sức sợ rằng cuộc thi
đua võ trang, nếu vẫn còn tiếp diễn, một ngày nào đó, sẽ gây ra
mọi tai họa chết chóc do những phương thế đã được nó chuẩn bị
sẵn.
Thấy được những
tai họa mà nhân loại có thể gây nên, chúng ta hãy lợi dụng thời
hạn mà ơn trên ban cho chúng ta, để khi ý thức hơn về trách
nhiệm của riêng mình, chúng ta sẽ tìm được những con đường giúp
chúng ta giải quyết được những tranh chấp của mình một cách xứng
đáng với con người hơn. Thiên Chúa quan phòng không ngừng đòi
hỏi chúng ta phải tự giải phóng khỏi ách nô lệ của chiến tranh
đã có từ xưa. Do đó, nếu khước từ mọi cố gắng như trên, chúng ta
không biết chúng ta sẽ đi về đâu trên con đường tội ác mà mình
đã bước vào.
82. Triệt để ngăn cấm chiến tranh và
hoạt động quốc tế nhằm tránh chiến tranh. Bởi
thế, dĩ nhiên chúng ta cần phải đem hết nỗ lực để chuẩn bị cho
giai đoạn mà bất cứ chiến tranh nào cũng đều bị triệt để ngăn
cấm do sự ưng thuận của các quốc gia. Ðiều đó chắc chắn đòi hỏi
phải thiết lập một công quyền quốc tế được mọi người thừa nhận.
Quyền bính này phải có một thực lực hữu hiệu để bảo đảm an ninh
cho mọi người cũng như buộc phải thực thi công bằng và tôn trọng
quyền lợi. Nhưng trước khi thiết lập được quyền bính đáng mong
mỏi ấy, các cơ quan tối cao quốc tế hiện hành cần phải đem hết
nỗ lực để nghiên cứu các phương thế khả hiệu nhất hầu đem lại an
ninh chung. Vì hòa bình phải phát sinh từ niềm tin tưởng lẫn
nhau giữa các dân tộc, chứ không là thứ hòa bình cưỡng ép giữa
các dân tộc do sự sợ hãi khí giới của nhau. Nên tất cả cần phải
cố gắng chặn đứng cuộc chạy đua võ trang. Muốn cho sự tài giảm
binh bị thực sự bắt đầu, thì việc tài giảm này không phải là
việc làm của một bên, nhưng phải được cả đôi bên thỏa thuận với
những bảo đảm thực sự và hữu hiệu
4.
Trong lúc chờ
đợi, không nên coi thường những nỗ lực đã có và đang có cho tới
nay đã ngăn chặn nguy cơ chiến tranh. Tốt hơn là nên nâng đỡ
thiện chí của một số đông những người, tuy phải bận tâm quá
nhiều về những nhiệm vụ tối cao của họ, những vẫn ý thức được
trách nhiệm rất nặng nề bó buộc họ, cho nên họ cố gắng loại bỏ
chiến tranh mà họ đang ghê tởm mặc dù họ không thể bỏ qua được
hoàn cảnh phức tạp hiện tại. Hơn nữa, phải luôn luôn cầu xin
Thiên Chúa ban cho họ nghị lực để kiên quyết tiến tới và can đảm
hoàn thành công cuộc của tình thương cao cả đối với con người là
xây dựng hòa bình một cách mạnh mẽ. Ngày nay, chắc chắn công
cuộc đó đòi hỏi họ phải mở rộng tâm hồn và tinh thần vượt khỏi
ranh giới của quốc gia mình, phải từ bỏ lòng ích kỷ quốc gia và
tham vọng thống trị các quốc gia khác, phải nuôi dưỡng lòng tôn
trọng sâu xa đối với toàn thể nhân loại đang vất vả tiến tới một
sự thống nhất lớn lao hơn.
Về vấn đề hòa
bình và giải giới, cần phải xem những nghiên cứu tìm tòi đã được
theo đuổi một cách can đảm và không ngừng, cũng như những hội
nghị quốc tế bàn về vấn đề này như là những bước đầu để giải
quyết những vấn đề khá trọng đại. Và trong tương lai, để đạt
được những kết quả thực tiễn, cần phải cổ võ những nỗ lực trên
một cách cấp bách hơn. Tuy nhiên, không nên chỉ ỷ lại vào cố
gắng của một vài người mà quên tinh thần riêng của mỗi người
94*. Vì là những người chịu trách nhiệm trước công ích
của dân tộc mình và đồng thời đem lại ích chung cho toàn thể thế
giới, cho nên các nhà lãnh đạo quốc gia tùy thuộc rất nhiều vào
quan điểm và tâm tình của quần chúng. Bao lâu những tâm tình thù
hận, khinh thị và nghi kỵ, những hiềm thù vì "kỳ thị chủng tộc"
cũng như những ý thức hệ ngoan cố, tất cả những thứ đó vẫn còn
chia rẽ và đối nghịch con người với nhau, thì các nhà lãnh đạo
quốc gia có cố công xây dựng hòa bình cũng vẫn vô ích. Do đó,
cần phải cấp tốc canh tân giáo dục tâm trạng và gây lại một
chiều hướng mới cho dư luận quần chúng. Những ai tận tâm với
công cuộc giáo dục, nhất là giáo dục giới trẻ, hoặc hướng dẫn dư
luận quần chúng, phải nhớ rằng việc gieo rắc trong đầu óc mọi
người những tư tưởng mới về hòa bình là một bổn phận nặng nề
nhất. Dĩ nhiên tất cả chúng ta đều có bổn phận thay đổi tâm hồn
mình, phải mở rộng nhãn quan trên toàn thế giới và trên những
nhiệm vụ mà chúng ta có thể cùng nhau đảm nhận để làm cho nhân
loại chúng ta tiến triển tốt đẹp hơn.
Nhưng đừng để
hy vọng hão huyền lừa dối chúng ta. Thật thế, cho dù đã loại bỏ
được hiềm khích và hận thù, nhưng nếu trong tương lai chúng ta
không ký kết được những hiệp ước vững chắc và thành thật bảo đảm
cho một nền hòa bình đại đồng, thì nhân loại, hiện đang gặp nguy
cơ trầm trọng dù có một nền khoa học kỳ diệu đi nữa, có lẽ cũng
sẽ tiến dần đến cách thảm khốc tới một giây phút mà nhân loại sẽ
không biết hòa bình nào khác hơn là thứ hòa bình khủng khiếp của
chết chóc. Tuy nhiên, Giáo Hội Chúa Kitô được thiết lập giữa
những lo âu của thời đại này, khi tuyên bố những điều trên, vẫn
luôn hết sức vững tâm hy vọng. Thuận tiện hay không thuận tiện,
Giáo Hội vẫn muốn trình bày và vẫn muốn trình bày mãi mãi cho
thời đại chúng ta sứ điệp của các Tông Ðồ: "đây là thời thuận
tiện" để cải tạo tâm hồn, "đây là ngày cứu độ"
5.
Chú Thích:
(lưu ý:
những số ghi chú nhỏ hơn đã được đăng vào những số báo trước)
90* Phần nhập đề:
1) Hoà bình cần
thiết để xây dựng một thế giới nhân đạo hơn cũng như xứng hợp
với tinh thần Phúc Âm hơn số (số 77a). Vì thế, Công Ðồng có ý
trình bày hòa bình đích thực cũng như lên án tính cách ác độc
của chiến tranh (b).
2) Hòa bình
đích thực (số 78a) phát sinh bởi tình thương (b) và do ơn Chúa
Kitô (c). Các tín hữu phải xây dựng hòa bình (d). Công Ðồng khen
ngợi những người không dùng phương tiện bạo động (e). Nhưng muốn
hòa bình thì phải thắng tội lỗi (f).
Ðoạn 1. Loại
trừ chiến tranh: Chiến tranh vẫn còn là sự kiện, và khí giới lại
càng ngày càng dữ dội (số 79a).
A) Nguyên tắc
cần phải tôn trọng luôn luôn: Không được tiêu diệt cả một dân
tộc (b). Phải gìn giữ các khế ước quốc tế. (Có lẽ nên chấp nhận
những kẻ lấy lý do lương tâm mà từ chối không muốn cầm súng)
(c). Chiến đấu tự vệ như phương tiện tối hậu là hợp lý, nhưng có
giới hạn (d). Quân nhân cũng góp phần cho hòa bình (e).
B) Vài trường
hợp thực tế: 1) Hành quân không phân biệt mục tiêu và bất chấp
giới hạn (số 80a), chiến tranh toàn diện (c), hay tấn công các
đô thị và khu vực rộng rãi, đều bị lên án (d). Tích trữ khí giới
khoa học có thể đưa tới các tội trạng đó (e). Hiện nay ta cần
phải duyệt xét lại các nguyên tắc cổ truyền về chiến tranh (b).
2) Cuộc thi đua võ trang như phương tiện khuyến cáo đối phương
(số 81a) không bảo đảm và cũng không đưa lại hòa bình đích thực
(b), trái lại nó làm tổn thương kẻ nghèo (c). Ðàng khác ta phải
lợi dụng khoảng thời gian chưa có chiến tranh (d).
C) Tìm cách
loại trừ chiến tranh: bằng khế ước và quyền bính quốc tế (số
82a). Ai cũng phải giúp đỡ người có trách nhiệm. Ta phải đổi mới
tinh thần (b). Phải kiện toàn những khế ước đã có. Phải đào tạo
cá nhân vì dư luận rất có ảnh hưởng (c). Công Ðồng cảnh cáo mọi
người về mối nguy cơ trầm trọng, đàng khác Công Ðồng hy vọng còn
kịp thời hóa giải (d).
Ðoạn 2. Xây
dựng cộng đoàn quốc tế: Trước hết bằng cách trừ khử tận gốc các
mầm mống thù nghịch, ngay cả trong môi trường quốc tế (số 83).
Rồi phải hiệp nhất để mưu ích chung cho quốc tế (số 84a). Vai
trò của những tổ chức quốc tế (b): các tổ chức ấy được coi như
là bước đầu trên con đường hòa bình (c).
A) Cần phải
cộng tác kinh tế: để loại trừ sự bất bình đẳng và trạng thái lệ
thuộc bất xứng (số 85a). Cộng tác tuỳ theo nhu cầu khác nhau của
các quốc gia đang mở mang và đã tiến triển (b). Những thái độ
cần phải vượt qua (c). Qui tắc về sự cộng tác ấy: Chính quốc gia
đang mở mang phải cố gắng (số 86a). Quốc gia tiền tiến có bổn
phận trợ lực các quốc gia kém mở mang (b). Cộng đoàn quốc tế
phải chi phối chính sách viện trợ theo nguyên tắc bổ trợ (c).
Nhiều lúc sẽ phải canh tân cơ cấu xã hội, nhưng cẩn thận kẻo làm
thiệt hại cho tinh thần (d). Cần phải viện trợ nhiều hơn cho
những quốc gia mà trong đó dân số đang gia tăng mau chóng (số
87a). Vai trò của chính quyền và các viện đại học về vấn đề này
(b) và những giới hạn luân lý (c).
B) Vai trò: của
tín hữu (số 88a). Việc cộng tác cá nhân hay nhờ phương tiện kinh
tế (b). Cộng tác với các tín hữu khác (c). Vai trò của Giáo Hội
(số 89a). Giáo dân càng góp phần trong cộng đoàn thì việc làm
của Giáo Hội càng hữu ích (b). Giáo dân nên cộng tác với tổ chức
quốc tế, nhất là tổ chức công giáo (số 90a), và với anh em ly
khai cũng như với những người hiếu hòa khác (b). Công Ðồng tỏ ý
ước mong rằng Tòa Thánh sẽ sáng lập một tổ chức quốc tế để cổ võ
công bằng và tình thương yêu đối với các miền nghèo nhất (c).
91* "Phúc cho người hiếu hòa
vì sẽ được gọi là con Thiên Chúa" (Mt 5,9). Chủ nghĩa hòa bình
đích thực không hệ tại sự lên án chiến tranh và đòi hỏi ngưng
chiến bất chấp hoàn cảnh, nhưng phải xây dựng hòa bình chính
nghĩa (78a-c). Thiếu công bằng và tình thương, "hòa bình" chỉ
trở nên một thứ bạo động càng đáng gớm ghét hơn vì nó gây nên
thiệt hại tinh thần hơn cả vật chất. Do đó, ta không thể dựa vào
tinh thần Phúc Âm mà đòi hỏi các quốc gia phải bỏ rơi số phận
của nhân loại trong tay những kẻ xâm lăng đầy tội lỗi, vì đó
chắc không phải là tinh thần Phúc Âm đích thực. Nếu một thứ thần
học tin lành nào đó nhấn mạnh rằng luân lý Phúc Âm chống lại và
vượt quá luân lý tự nhiên, bởi vì họ tưởng rằng thế giới và bản
tính con người đã bị tội lỗi làm hư hỏng hoàn toàn, cho nên tín
hữu phải can đảm từ chối chiến đấu bất chấp hậu quả thì đối với
người công giáo sẽ khác hẳn: bởi vì chúng ta biết rằng Thiên
Chúa không những đã dựng nên thế giới và ủy thác cho con người
phát triển và xây dựng thế giới, nhưng còn cho Chúa Kitô đến
chuộc lại thế giới đó. Các nhiệm vụ do công ích phát sinh không
chỉ có tính cách luân lý tự nhiên mà thôi. Nhưng chúng ta phải
hết sức vất vả để xây dựng hòa bình bằng cách loại trừ tội lỗi
(f), luyện tập đức công bằng và thương yêu (ab), tìm kiếm ơn
thánh Chúa Kitô và Chúa Thánh Thần (c), v.v... Trong phần hai,
Công Ðồng nhắc lại một số phương tiện tự nhiên ta có thể áp
dụng.
92* "Lấy lý do lương tâm mà
từ chối cầm súng" có phải là một nhân quyền dân sự không? Hiện
nay có nhiều người quả quyết như vậy. Tuy nhiên Công Ðồng vừa
bênh vực quyền bính và nhiệm vụ của chính quyền để bảo vệ công
ích (số 78ae); (79d), vừa ban khen quân nhân phục vụ quốc gia
(79e). Ðàng khác, trong toàn bài nói về những nỗ lực để giảm bớt
mức độ độc ác của chiến tranh, Công Ðồng lại phát biểu ý kiến
rằng nếu chính quyền và luật pháp chấp nhận lý do lương tâm mà
không buộc người vịn lẽ ấy phải cầm súng, điều đó có vẻ hợp lẽ
phải. Thực ra, trước Công Ðồng đã có một số quốc gia lập luật
chấp nhận lý do lương tâm, miễn là người vịn lẽ đó phục vụ quốc
gia một cách khác.
93* Ngoài hai nguyên tắc cổ
điển là "chiến đấu tự vệ" và "sự cân xứng giữa thiệt hại đã phải
chịu và thiệt hại có thể gây nên", Công Ðồng nhấn mạnh nguyên
tắc mới là nguyên tắc "không phân biệt mục tiêu". Nghĩa là đánh
nhau bất chấp mục tiêu quân sự hay dân sự, xử dụng những võ khí
quá mạnh mà không làm sao có thể điều khiển được, áp dụng phương
pháp khủng bố, lúc ấy chiến tranh không còn có tính cách tự vệ
nữa. Nguyên tắc này khiến ta phải xét lại lập trường cũ.
Không một chỗ
nào chứng tỏ Công Ðồng theo chủ nghĩa hòa bình quá đáng, nhưng
đàng khác Công Ðồng cũng không chấp nhận lập trường cứ yên tâm
mà chiến đấu. Công Ðồng lưu ý chúng ta tới sự vô lý của cuộc thi
đua võ trang đòi hỏi món tiền bao la đang khi biết bao người
nghèo khó thiếu thốn (81c). Thật là vô lý khi các quốc gia tiến
triển cũng như kém mở mang, dành cho ngân sách quốc phòng nhiều
tiền hơn ngân sách giáo dục, phát triển, v.v... Công Ðồng khích
lệ người có trách nhiệm áp dụng mọi phương pháp để loại trừ
chiến tranh (82), rồi trong toàn phần hai lại đề nghị nhiều
phương cách cụ thể để xây dựng hòa bình (83-90).
94* Xây dựng hòa bình là
công việc của mọi người chúng ta, nhất là của tín hữu, bởi vì dư
luận càng ngày càng có ảnh hưởng trên các nhà cầm quyền. Theo
lời chỉ dẫn của Công Ðồng, Ðức Phaolô VI nhiều lần đã nhấn mạnh
rằng ta phải đổi mới tâm trạng bằng cách tiêu hủy tính ích kỷ,
sự bạo động, sự xâm phạm quyền lợi của người khác (8-12-1967),
và bằng cách từ bỏ sự xung đột tư tưởng cũng như xu hướng bản
năng kiêu căng và vô nhân đạo (1-1-1968). Trái lại, phải tìm
kiếm tinh thần mới: đề cao nhiệm vụ và lòng tôn trọng tha nhân,
tình huynh đệ, công bằng, thương yêu, tự do về khía cạnh dân sự,
văn hóa, luân lý và tôn giáo (8-12-1967). Ðức Phaolô trông mong
ở giới trẻ không biết bi quan (1-1-1968). Tất cả những ai đã
phải khổ sở cũng như đã bị tử thương vì chiến tranh, đều kêu gào
và đòi hỏi chúng ta phải có tinh thần mới đó. Và nhất là Chúa
Kitô đã nhập thể và đã tuyên bố rằng mọi người đều là anh em với
nhau, đã giảng dạy giá trị thánh thiện của mạng sống và của việc
tha thứ cho nhau; Người đòi hỏi phải có tâm trạng đổi mới ấy
(1-1-1968)... Trong Thông Ðiệp Pacem in terris, Ðức Gioan XXIII
đã nhấn mạnh nền tảng hòa bình cốt tại trật tự tự nhiên do chân
thật, công bằng, thương yêu và tự do tạo nên. Bốn nhân đức ấy sẽ
giúp đỡ không những cá nhân với cá nhân mà còn cá nhân với cộng
đoàn chính trị, cũng như các quốc gia với nhau và với cộng đoàn
quốc tế.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
THƠ SONG NGỮ:
CAO CUNG LÊN ! |
Cao cung lên,
hát ngợi khen mừng Chúa!
Ngày hôm nay, ngày vui của muôn dân
Ngày Ngôi Hai cứu độ xuống gian trần
Người sẽ chết để cứu chuộc nhân loại!
Cao cung lên, hàng ngàn năm khắc khoải
Nhân loại mong một đấng sẽ sinh ra
Cứu con người thoát cạm bẫy quỉ ma
Sống đức tin trong tình yêu bất diệt!
Chân lí Ngài là con đường Sự Thật
Đường Yêu thương, đường Bác Ái, Công
bình
Đem loài người tới với ánh Bình Minh
Cùng đắp xây nền Hòa bình Công chính!
Cao cung lên, cho triệu lòng cung kính
Nhạc thiên cung hòa tấu khắp gần xa
Cho muôn người, muôn lòng trí trổ hoa
Mừng ngày vui, ngày Ngôi Hai đã đến!
Hãy thắp ngàn bạch lạp và hoa, nến
Hãy mừng vui buổi trời đất an hòa
Tâm hồn người và thiên ý giao thoa
Mừng Ngôi Hai đã xuống ơn cứu độ!
Hoa Ơn thiêng sẽ tràn lan nở rộ
Muôn phúc ân tràn đổ các linh hồn
Người thiện tâm dào dạt những hồng ân
Thánh danh Chúa trên trời cao sáng tỏ!
RAISE YOUR
VOICE !
Raise
your voice to sing and praise the Lord!
Today is the people’s joyful day.
Because the Savior, Jesus Christ came
to the world,
He died to save the people from their
sins.
Raise your voice because we had a
thousand years of anxiety and hopelessness without a Savior.
He will save the people from the
devil’s traps to live in faith and endless love.
His justice is the road to Truth.
And also the road to Love.
This road guides the people to dawn of
peace.
Raise your voice for the millions and
millions of respectful and humble hearts,
The heaven’s choir is sounding all
around.
Million of hearts are overflowing with
joy at the coming of Jesus!
Light up a thousand candles!
Bedect your soul with beautiful
flowers!
Rejoice because we have heaven and
peace on earth,
So the people’s hearts and God’s wish
are combined together at the coming of Jesus Christ.
Blessed flowers bring peace to the
people’s hearts and souls.
The name of the Lord in the heaven is
greatly praised forever!
Xuan Vu TRAN DINH NGOC
|
VỀ MỤC LỤC |
Linh Mục Anrê Trần Đức Huynh |
Nguyên Hiệu Trưởng Trung Học Hồ Ngọc Cẩn,
Nguyên Giám Đốc Các Trung Học Tư Thục Bùi Chu, Nguyễn Bá Tòng Và
Hưng Đạo, Đã Qua Đời Tại Orange.
Linh Mục Anrê Trần Đức Huynh vừa về Nước Chúa vào lúc 8 giờ tối
ngày 18 tháng 12 năm 2007, tại nhà Hưu dưỡng Bùi Chu, Thành phố
Garden Grove, Quận hạt Orange, California, hưởng thọ 88 tuổi và
đã phục vụ Giáo hội 60 năm trong thiên chức linh mục.
Linh mục Trần Đức Huynh sinh ngày 23 tháng 11 năm 1920 tại Ứng
Luật, Ninh Bình, giáo phận Phát Diệm, họ hàng gần với nhạc sư
Hải Linh.
Ngay đầu thập niên 30 trong thế kỷ trước, ngài từ Giáo phận Phát
Diệm sang Bùi Chu xin đi tu. Sau khi hoàn tất hai năm triết học
tại đại chủng viện Quần Phương, thầy Trần đức Huynh được cử về
tiểu chủng viện Ninh Cường để hướng dẫn và dậy tiếng La-Tinh cho
một lớp đàn em. Chính thời gian này là cơ hội giúp thầy lưu tâm
đến vấn đề giáo dục.
Ngày 4 tháng 8 năm 1947 thầy Huynh lãnh chức linh mục tại thánh
đường Tòa Giám mục Bùi Chu do Đức Cha Hồ Ngọc Cẩn, giám mục Giáo
phận Bùi Chu ban. Sau đó ngài làm linh mục phó xứ Lạc Đạo,
huyện Nghĩa Hưng.
Vì tha thiết với giáo dục từ lúc còn học tại chủng viện, linh
mục Trần Đức Huynh cùng với linh mục Phạm Châu Diên được Đức
Giám Mục Phạm Ngọc Chi uỷ thác nghiên cứu để thiết lập một
trường trung học cho tỉnh Bùi Chu mới thành lập.
Năm 1950 Đức Cha Phạm Ngọc Chi cử cha Huynh làm Hiệu Trưởng
trường này, lấy tên là Trường Trung Học Hồ Ngọc Cẩn. Ban đầu là
một trung học tư thục, số học sinh niên khóa đầu 1950-1951, gần
một ngàn, từ lớp đệ thất đến lớp đệ tam.
Với kinh nghiệm làm việc, cha Huynh đã đặt kế hoạch vận động
mạnh cho trường Hồ Ngọc Cẩn được tồn tại và trở thành công lập.
Mùa hè năm 1954, khi cảm thấy trường Hồ ngọc Cẩn có nguy cơ phải
bỏ tỉnh Bùi Chu vì tình hình chiến cuộc và cuối tháng 7, 1954
linh mục hiệu trưởng đã chuyển toàn bộ hồ sơ của trường vào
Linh Mục Hiệu Trưởng và Giáo Sư - 1953
Sàigòn và sắp xếp để trường được mở cửa lại tại Sàigòn trong khu
nhà thờ Huyện Sĩ. Do đó trường Hồ Ngọc Cẩn đã có điều kiện mở
cửa lại sớm nhất so với các trường trung học từ Bắc di cư vào
Nam.
Sau hai niên khóa tọa lạc tại khuôn viên nhà thờ Huyện Sĩ,
trường Hồ Ngọc Cẩn được bộ Giáo Dục dời về tỉnh lỵ Gia Định,
chiếm một trường tiểu học đã được sửa sang lại và xây thêm.
Nhận thấy trường Hồ Ngọc Cẩn đã qua được mọi khó khăn, an nhiên
và vững vàng trong sinh hoạt giáo dục, linh mục Trần Đức Huynh
đã chuẩn bị sẵn sàng từ đầu niên khóa 56-57 để rời khỏi trường
trung học Hồ Ngọc Cẩn. Trường Hồ Ngọc Cẩn được giữ cho tới ngày
30-4 -1975 thì bị xóa tên.
Tiếp tục công tác giáo dục như là một sở trường, linh mục Trần
Đức Huynh đã nắm giữ ba chức giám đốc của ba Trường trung học
lớn và danh tiếng nhất đó là trung học tư thục Bùi Chu, trung
học tư thục Nguyễn Bá Tòng và trung học tư thục Hưng
Đạo.
Trung học tư thục Hưng Đạo, tọa lạc tại 125 và 115 đường Cống
Quỳnh Saigon. Đây là một tư thục mở ra vì mục đích phát triển
văn hóa, tìm một hướng tiến lên theo đà tiến triển của các quốc
gia văn minh nhất thế gới như Mỹ, Anh, Thụy Sĩ. Với sự điều hành
của Giáo sư Nguyễn Văn Phú, tới niên khóa 1974-1975 chỉ kể các
lớp 12 tại trường Hưng Đạo lên tới bốn mươi (40) lớp.
Tuy bỏ nước ra đi đột ngột, mất mát tất cả những gì cao quý đáng
giá đang xây dựng được, linh mục Trần Đức Huynh vẫn bình tĩnh
quay về chăm lo bổn phận của một giáo sĩ, lãnh trách vụ quản
nhiệm cộng đoàn tại một giáo xứ ở San Antonio, Texas từ năm
1975. Qua thời gian ban đầu lận đận của một người tỵ nạn, cha
Huynh đã nặng lòng nhớ tới những người thân cận còn kẹt lại ở
Việt Nam, ngài tìm mọi cách để liên lạc, tận tình giúp đỡ. Linh
mục Trần Đức Huynh dồn tất cả nỗ lực để yểm trợ Giáo hội Công
giáo quê nhà. Cha đã vận động mọi giáo dân Việt Nam ở hải ngọai
hình thành quỹ "bảo trợ ơn thiên triệu" để gửi về Việt Nam duy
trì các chủng viện, giúp đỡ các chủng sinh « chui » có điều kiện
theo ơn gọi làm linh mục.
Trong Lễ Ngân Khánh của ngài được tổ chức vào ngày 3 tháng 8 năm
1997, cha nói: “Thâm tâm, tôi chỉ muốn ngày này được đánh dấu
bằng những sinh hoạt thuần túy tinh thần, thiêng liêng mà thôi.”
Mười năm sau, ngày 5 tháng 8 năm 2007, Lễ Ngọc Khánh của ngài đã
được tổ chức đơn giản tại Trung Tâm Công Giáo, Giáo Phận Orange.
Tất cả số tiền thu được đều dành cho nhà Hưu dưỡng Bùi Chu.
Một công trình đáng ghi nhớ là cha Huynh đã cố gắng thâu gom tài
liệu để thực hiện cuốn "Lịch sử giáo phận Bùi Chu" khổ lớn gần
500 trang, một cách qui mô và tỉ mỉ, với hàng ngàn hình ảnh,
đúng theo tinh thần của một sách giáo sử.
Hình ảnh người Mục Tử ở tuổi “bát tuần” ngày ngày cặm cụi bên
máy điện toán với hàng chồng sách báo, tài liệu, hình ảnh la
liệt chung quanh trong một căn phòng nhỏ, chật chội thiếu tiện
nghi đã tạo nên những xúc động lớn cho những ai có dịp ghé thăm
ngài. Đấy là một căn phòng chỉ đủ kê chiếc ghế Lazy boy để
nghiêng vì ngài không nằm ngủ bình thường được do bệnh xuyễn
kinh niên; mấy kệ sách, một bàn nhỏ cho dàn computer, một quạt
máy, hai chiếc ghế không vách dựa, mà khi không có khách, ngài
có thể lùa vào gầm bàn để có đường di chuyển lúc vào ra.
Lối sống ấy đã bám sát đời ngài từ khi còn ở miền Bắc qua những
năm tháng tiếp tục làm Hiệu Trưởng trường Hồ Ngọc Cẩn được di
chuyển vào Nam, làm Giám Đốc điều hành hệ thống ấn loát và các
cơ sở giáo dục tư thục Nguyễn Bá Tòng và Hưng Đạo tại thủ đô
Saigon.....cho tới thời gian về hưu dưỡng tại Orange thuộc miền
Nam California.
Linh mục Trần Đức Huynh, đã dành suốt cuộc đời cống hiến cho Tôn
Giáo và Dân Tộc. Là những môn sinh hay những người đã có dịp
cộng tác với Linh mục Trần Đức Huynh, ai cũng công nhận ngài là
một người có đầu óc sáng suốt quyết đoán mau lẹ, chắc chắn, hữu
hiệu và khôn ngoan, tính tình điềm đạm, kín đáo, có óc tổ chức,
và có một viễn ảnh nhìn xa trông rộng. Người ta biết đến ngài
như là một nhà văn hóa, giáo dục, nhưng trong cuộc đời ngài còn
là một “nhà chính trị không làm chính trị”, được thể hiện qua
nhiều việc và điển hình là nhiều lần ngài đã đại diện cho Hội
Đồng Giám Mục Việt Nam tiếp xúc với các vị nguyên thủ quốc gia ở
miền Nam trước 1975.
Ngày 18 tháng 12 năm 2007, cha đã đến dự bữa cơm trưa thân mật
tại một nhà hàng, với khỏang 10 môn sinh, hầu hết trên dưới 70
và cũng đã thành danh. Ngài chỉ dùng 2 chén cháo, từ tốn ngồi
nghe chuyện và nhỏ nhẹ trả lời những câu hỏi của anh em. Ngài đã
đột ngột ra đi vĩnh viễn lúc 8 giờ tối, sau khi hòan tất dâng
Thánh Lễ tại nhà Hưu dưỡng, để lại bao lưu luyến tiếc thương của
mọi người. Giờ đây ắt hẳn ngài đang huởng tôn nhan Thiên Chúa,
Đấng mà ngài đã hết lòng phụng sự.
Từ năm 1950, linh muc Trần Đức Huynh – đúng ra phải nhớ tới ĐGM
Phạm Ngọc Chi và LM Trần Đức Huân-- đã tạo cơ hội cho hàng ngàn
thanh thiếu niên thôn quê bước vào trung học làm cái đà tiến lên
đại học và sau đại học. Môn sinh của ngài hiện nay có tới hàng
chục ngàn. Họ là những chức sắc trong Giáo hội Công giáo: giám
mục, linh mục, tu sĩ và nữ tu trong đó có tới hàng trăm người
được du học nước ngòai để đạt trình độ tiến sĩ. Họ là những
chuyên gia thuộc mọi tôn giáo, có mặt ở khắp mọi lãnh vực, có
danh phận ở trong và ngòai nước. Điều đáng nói hơn cả là, theo
gương người thầy khả kính, họ biết đem tài năng phụng sự xã hội,
như một ơn gọi và trách nhiệm, như một cách trả ơn những bậc
sinh thành, những người Thầy và trả ơn đời.
Nguyễn Đức Tuyên |
VỀ MỤC LỤC |
|
CÓ BUỘC DỰ LỄ NGÀY CHÚA NHẬT Và
KIÊNG VIÊC XÁC KHÔNG ? |
Hỏi:
xin cha giải thích rõ luật buộc xem lễ ngày Chúa Nhật và các ngày Lễ
trọng và luật kiêng việc xác các ngày này.
Trả lời:
Trước khi trả lời câu hỏi này, tôi cần nói qua
về ý nghĩa và mục đích cử hành Lễ ngày Chúa Nhật và các ngày lễ
buộc trong phụng vụ của Giáo Hội.
Như chúng ta biết, trong thời Cựu
Ước, Thiên Chúa đã truyền cho dân Do Thái phải giữ ngày Sabat, thức
ngày thứ bảy trong tuần như sau:
“ ngươi hãy nhớ ngày Sa-bát và
coi đó là ngày thánh. Trong sáu ngày, ngươi sẽ lao động và làm
mọi công việc của ngươi. Còn ngày thứ bảy là ngày Sabát kính ĐỨC
CHÚA là Thiên Chúa của ngươi. Ngày đó ngươi không được làm công việc
gì, cả ngươi cũng như con trai con gái, tôi tớ nam nữ gia súc và
ngoại kiều ở trong thành của ngươi..” (Xh 20:8-10).
Đây là nguồn gốc của luật giữ
ngày Chúa Nhật, các ngày lễ trọng và luật kiêng làm việc xác những
ngày này trong Giáo Hội Công Giáo ngày nay.
Thật vậy, Thiên Chúa muốn cho dân
Do Thái dành riêng một ngày để thờ kính Ngài và suy niệm về công
trình sáng tạo vũ trụ và tạo dựng loài người cách riêng của Thiên
Chúa.
Tuy nhiên, Ngài cũng không có ý
bắt buộc họ phải giữ ngày Sabat một cách máy móc, nghiêm ngặt đến
nỗi không cho ai làm bất cứ điều gì trong ngày này kể cả chữa bệnh
cho người đau ốm hoặc cho người đói khát ăn uống. Đây chính là sự mù
quáng của nhóm Biệt phái và luật sĩ thời Chúa Giêsu khi bọn này bắt
bẻ Chúa chữa bệnh trong ngày Sabat, khiến Người đã phải nghiêm khắc
nói với họ như sau: “ Ai trong các ông có con chiên độc nhất bị sa
xuống hố ngày Sa bát lại không nắm lấy nó mà kéo lên sao ? Mà
người thì quí hơn chiên biết mấy. Vì thế, ngày Sabat được phép làm
điều lành.” (Mt 12:11-12)
Như thế cho thấy rõ là Chúa Giêsu
không hài lòng về cách giữ ngày Sabat của nhóm Biệt phái và luật sĩ
Do Thái vì họ hoàn toàn hiểu sai mục đích Thiên Chúa mong muốn cho
dân tuân giữa ngày này. Họ giữ theo luật để bắt bẻ người khác không
giữ luật cách máy móc như họ chứ không phải giữ vì lòng mến Chúa
thực sự.
I- Luật
buộc giữ ngày Chúa Nhật và các ngày Lễ Trọng trong Giáo Hội ngày
nay.
Người tín hữu ngày nay không buộc
giữ ngày Sabat nhưng phải giữ ngày Chúa Nhật. Trước hết, theo giáo
lý của Giáo Hội thì ngày Chúa Nhật được gọi là Ngày của Chúa (Dies
dominica) theo tinh thần Thánh Vịnh 118: 24:
“ Đây là ngày CHÚA đã làm ra
Nào ta hãy vui mừng hoan
hỉ”
Mặt khác, ngày Chúa nhật cũng là
ngày kỷ niêm Chúa Kitô sống lại từ cõi chết. Vì thế, Giáo Hội dạy
rằng : “ việc cử hành Ngày của Chúa và Hy tế Tạ Ơn của Chúa (The
Eucharist) mỗi ngày Chúa Nhật là trung tâm điểm của đời sống Giáo
Hội. Ngày Chúa Nhật cũng là ngày cử hành Mầu Nhiệm vượt qua theo
truyền thống Tông Đồ, và phải được tuân giữ trong toàn thể Giáo Hội
như ngày lễ buộc chính yếu.” (x. SGLGHCG, số 2177; giáo luật
số 1246).
Như thế, ngày Chúa Nhật vữa hoàn
tất tinh thần ngày Sabat ca tụng Thiên Chúa về công trình sáng tạo
của Ngài vừa làm sống lại Mầu Nhiệm Phục Sinh của Chúa Kitô qua
phụng vụ thánh để nhắc nhở mọi tín hữu về sự viên mãn của công trình
cứu chuộc và hy vọng vào ơn cứu độ nhờ Chúa Kitô.
Nói khác đi, tham dự Thánh lễ
ngày Chúa Nhật trước hết là để ca ngợi và cảm tạ Thiên Chúa về công
trình sáng tạo và cứu chuộc của Ngài qua Chúa Kitô, đồng thời cũng
nói lên hy vọng vào ơn cứu độ, vào sự sống chung cuộc trong Nước
Thiên Chúa sau khi đã sống và làm chứng tá đích thực cho Tin Mừng
Cứu Độ nơi trần thế này. Như vậy, các tín hữu phải sốt sắng và vui
sướng được tham dự Thánh lễ ngày Chúa Nhật thay vì ngần ngại hay
miễn cuỡng phải giữ vì luật buộc.Nghĩa là phải coi luật buộc này
như sự nhắc nhở đặc biệt của Giáo Hội về ý nghĩa và mục đích của
phụng vụ thánh ngày Chúa Nhật chứ không phải sự gò bó làm mất tự do
của ai.
Nói về luật buộc, thì ngoài ngày
Chúa Nhật quanh năm, giáo luật cũng liệt kê thêm các ngày lễ trọng
khác như lễ Giáng Sinh, Lễ Hiển Linh , lễ Phục Sinh, lễ Chúa Lên
Trời, lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô, lễ Đức Me là Mẹ Thiên Chúa, lễ
Đức Mẹ Vô Nhiễm , lễ Đức Mẹ lên Trời, lễ Thánh Giuse, lễ Thánh
Phaolô và Phaolô Tông Đồ, lễ các Thánh nam nữ . (x. giáo luật số
1246,triệt 1)
Tuy là luật buộc, nhưng không có
nghĩa là bó buộc trong mọi hoàn cảnh, không chút nhân nhượng nào như
thái độ giữ ngày Sabat của nhóm Biệt phái và luật sĩ Do Thái xưa.
Nói rõ hơn, trong điều kiện bình
thường, thì mọi tín hữu (giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân) buộc phải tham
dự Thánh lễ ngày Chúa Nhật và các ngày lễ trọng khác. “ Những ai lỗi
phạm nghĩa vụ này cách có suy nghĩ thì phạm một tội trọng”
(x.SGLGHCG số 2181). Nhưng trong những truờng hợp bất khả kháng
như đau yếu, phụ nữ sinh con, người săn sóc bệnh nhân trong nhà
thương hay tư gia, sinh sống ở nơi không có nhà thờ Công Giáo, bị
bắt buộc phải đi làm theo lệnh hay đòi hỏi của chủ nhân trong ngày
Chúa nhật, nhân viên công lực phải làm nhiệm vụ, hoặc binh sĩ tác
chiến ngoài trận địa….. thì đó là những lý do chính đáng không buộc
phải giữ ngày Chúa Nhật và các ngày Lễ trọng , tức là không có tội
nếu không tham dự được thánh lễ các ngày đó.
Điều quan trọng cần lưu ý là phải
giữ ngày Chúa Nhật và các ngày Lễ Trong vì lòng yêu mến Thiên Chúa,
tôn kính Đức Mẹ, Thánh Giuse và các Thánh ..chứ không phải vì sợ lỗi
luật buộc hay sợ người ta phê bình là “khô đạo”.
II- Luật
kiêng làm việc ngày Chúa Nhật và các ngày Lễ trong.
Kinh Thánh cho biết : “..Khi làm
xong mọi công việc của Người , ngày thứ bảy, Thiên Chúa nghỉ
ngơi.” ( St 2,2).
Đây là lý do khiến Giáo Hội mong
muốn cho các tín hữu tạm ngưng nghỉ các công việc làm ăn bận rộn
hàng ngày để dành thì giờ và tâm trí cho việc thờ phượng và cảm tạ
Thiên Chúa cách đặc biệt trong Ngày của Chúa, đồng thời cũng có chút
thì giờ để thư giãn thể xác và tâm hồn hầu lấy lại sức cho những
sinh hoạt tiếp tục sau đó. Như vậy luật kiêng việc xác ngày Chúa
Nhật và các ngày lễ trọng cũng nhằm giúp chu toàn bổn phận thiêng
liêng trong các ngày đó một cách tốt đẹp, hài hoà giữa thể xác và
tâm trí. (giáo luật số 1247; SGLGHCG số 2184)
Tuy nhiên, cũng như luật giữ ngày
Chúa Nhật, luật kiêng làm việc cũng không nhất thiết áp dụng khắt
khe trong mọi trường hợp. Thông thường khi không có lý do chính đáng
thì các tín hữu phải chú tâm chu toàn việc thờ phượng Chúa và kiêng
việc xác ngày Chúa Nhật và các ngày lễ buộc, để kính nhớ sự nghỉ
ngơi của Thiên Chúa trong ngày thứ bảy sau khi Ngài đã hoàn tất mọi
việc sáng tạo trong sáu ngày. Tuy nhiên trong hoàn cảnh xã hội ngày
nay, nhất là ở những nơi người ta chủ yếu hoạt động thương mạiï và
dịch vụ vào những ngày cuối tuần khiến rất nhiều người phải đi làm
hay mở của hàng buôn bán, lo dịch vụ trong ngày thứ bảy và chúa
nhật. Do đó vì lý do sinh sống thực sự cho gia đình hay vì lợi ích
của xã hội thì đây là “ những lý do chính đáng để chuẩn
miễn việc buộc nghỉ ngơi ngày Chúa Nhật” (x. Sđd, số 2185).
Điều quan trọng là phải chu toàn
việc thờ phượng Chúa trong ngày Chúa Nhật và các ngày lễ buộc, nghĩa
là không được tự ý gây trở ngại cho việc đi dự Thánh lễ ngày Chúa
Nhật và các ngày lễ buộc.
Nói khác đi, khi có điều kiện cho
phép thì phải giữ các ngày lễ buộc và kiêng việc xác trong những
ngày này. Nhưng nếu vì lý do kinh tế, phải đi làm những ngày đó mới
đủ sống cho bản thân và gia đình, hoặc phải đi làm theo đòi hỏi của
người thuê mướn; bác sĩ , y tá làm việc ở các bệnh viện, nhân viên
cấp cưú, nhân viên an ninh công cộng phải làm theo nhu cầu của lợi
ích chung thì không thể giữ luật buộc để nghỉ việc được. Đó là lý do
chính đáng để được miễn trừ theo lương tâm và theo giáo lý của Giáo
Hội.
Tóm lại, luật chỉ áp dụng trong
những trường hợp bình thường để tránh thói lười biếng hay cố ý lơ là
những bổn phận thiêng liêng mà thôi.
Lm Phanxicô
Xaviê Ngô Tôn Huấn.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
“HOÀI - ĐỨC và HẢI – LINH”. |
TÌNH CA CHO NGƯỜI ĐƯỢC YÊU
MỪNG NGÀY CHÚA
SINH RA
&
CHÚA NHẬT LỄ
THÁNH GIA THẤT
Dù đã được tiết lộ nhiều tháng trước, nhưng
việc Ông Tony Blair chính thức gia nhập Hội Thánh Công-giáo vào ngày
21.12.2007 đã được báo chí và các phương tiện truyền thông hầu như
trên khắp thế giới đưa tin và bình luận. Hãy cám ơn ông nguyên thủ
tướng nước Anh tài ba nầy, vì ông đã không để nhuốm mùi chính trị sự
kiện ông trở về với đức tin Công-giáo La-Mã khi đang cầm quyền. Việc
trở lại của ông thay cho muôn lời hộ giáo hùng biện và là câu trả
lời rõ ràng cho những kẻ đang lạm dụng tự do, để bài xích, bôi nhọ
và xuyên tạc Chân Lý Đức Tin và Hội Thánh Công giáo với những dụng ý
độc ác, xâu xa và thù nghịch. Nhưng người mà chúng ta phải cám ơn
hơn hết, người phụ nữ luôn rất kín đáo và âm thầm sau lưng chồng,
không se sua, không tự làm nỗi bật như hầu hết các mệnh phụ phu nhân
khác, song ảnh hưởng không nhỏ tới suy nghĩ, đường lối và hành động
của Ngài nguyên thủ tướng nước Anh, chính là bà Chérie Blair (và cả
bốn người con trai gái của hai ông bà). Ông Tony Blair vẫn hay âu
yếm (và hãnh diện) tự nhận mình chỉ là “tiểu đội phó”. Mọi quyết
định đều do “tiểu đội trưởng” Cherie Blair. Đến giờ phút nầy, hẳn
ông Tony Blair cảm tạ Thiên Chúa vì ơn phúc Ông nhận được và những
thành tựu trong sự nghiệp, là từ Hôn Nhân và Gia Đình. Hôn Nhân
thành công và Gia Đình thành công rõ ràn là từ người vợ, người mẹ.
Hôn nhân và Gia Đình thành công không chỉ tạo nên hạnh phúc, mà là
nguồn gốc của bao điều tốt đẹp, trong đó quan trọng nhất là đời sống
chứng nhân và truyền giáo.
Trong hệ thống đo lường cổ của Việt-Nam, một
dặm bằng một triệu ly (ly = 1 mm), tức là khoảng một kilô-mét. Tất
nhiên đây chỉ là những con số tượng trưng, để cho thấy khởi điểm có
tầm quan trọng quyết định thế nào cho tương lai, đích đến. Không chỉ
là “cái sẩy, nẩy cái ung”, mà “sai một ly, đi một dặm”. Từ cổ chí
kim, có vô số sự kiện, biến cố về mọi lãnh vực, đã xảy ra hoàn toàn
khác với những gì người ta mong đợi, do tính toán sai lầm hoặc do sự
can thiệp từ con người hoặc thiên nhiên: Nếu ở Waterloo, các lực
lượng chi viện không gặp ngăn trở và thực hiện đúng kế hoạch của
hoàng đế Napoléon, thì bản đồ Châu Âu hẳn sẽ không như bây giờ.
Người Tây Phương có câu châm ngôn rất thú vị và ý nhị: “Nếu cái mũi
của nữ hoàng Cléopâtre dài hơn chút nữa, hẳn bộ mặt trái đất đã đổi
thay”. Đầu năm nay, ngày 3 tháng 1, Hãng tin Reuters thuật lại câu
chuyện một thanh niên người Đức do ghi lầm Sydney thành Sidney, mà
thay vì sang Úc hưởng mùa hè nắng ấm với người yêu, thì suýt chết
cóng vì máy bay đưa anh ta sang một thành phố Mỹ đang giữa mùa đông.
Trong các tôn giáo, - đặc biệt trong Kitô-giáo - việc hiểu sai, dù
là vô tình hoặc do thiếu hiểu biết, cũng dẫn đến những hệ quả khó
lường, mà việc uốn nắn, sửa sai không dễ dàng chút nào.
Nghệ sĩ luôn có cái nhìn rất riêng của họ. Hai
nhạc sĩ Công giáo là cố linh mục Hoài Đức Lê-Đức-Triệu và cố nhạc sư
Hải Linh cũng không là ngoại lệ. Chúng ta tri ân hai vị nhạc sĩ nỗi
danh với hai bản thánh ca Giáng Sinh bất hủ “Cao Cung Lên” và
“Hang Bê-lem” từ sáu thập kỷ qua vẫn đứng đầu danh sách bầu
chọn các bài thánh ca Noel hay nhất Việt-Nam . Có
rất nhiều nét tương đồng nơi hai vị cố nhạc sĩ nầy: cùng quê Nam
Định, gần như cùng lứa tuổi (linh mục Hoài Đức sinh năm 1922, trong
khi nhạc sư Hải Linh sinh năm 1921) và đặc biệt nhất là cả hai cùng
sáng tác hai bản nhạc bất hủ với trình độ nhạc lý tự học, rất “i
tờ”. Điều chúng ta muốn nói, - trước hết xin tạ lỗi với hương hồn
hai nhạc sĩ vì so sánh không “chỉnh” lắm nầy, - ấy là nội dung
hai bản thánh ca kha giống nhau và cùng tô vẽ, lả lướt, rạng ngời
đắm đuối, nhưng vẫn có một chút khác biệt trong cách nhìn của một
linh mục tương lai và một giáo dân đạo đức, dù không phải là “sai”
một ly để rồi “đi một dặm”, song cũng điển hình cho các khuynh hướng
nghe – nhìn – nghĩ - sống trong Giáo Hội: “Thôi hỡi trần gian, im
tiếng đi mà cung kính: Chúa Con sinh ra trong máng cỏ khó hèn”
(Cao Cung Lên) và “Trong hang Bê-Lem ánh sáng toả lan tưng bừng;
nghe trên không trung, tiếng hát thiên thần vang lừng” (Hang
Bê-Lem). “Hoài-Đức” khác với “Hải Linh” là như vậy đó: nhiều hơi
hướng khó nghèo, rét buốt, âm thầm hơn ở “Hoài Đức” và nhiều ánh
sáng và nhã nhạc vang lừng hơn nơi “Hải Linh”. Hai cái nhìn ấy, hay
đúng hơn là cái nhìn “Chúa sinh ra” huy hoàng, vẻ vang và tưng bừng,
đã rất nhiều thời kỳ làm điêu đứng Giáo Hội: nhiều Giáo Hoàng, nhiều
giám mục, nhiều linh mục đã bỏ đức khó nghèo, chạy theo đời sống xa
hoa. “Tin Mừng cho người nghèo khổ”, đời sống đạo đức, bác ái “cộng
sản” thời khai nguyên, chỉ còn là kỷ niệm. Chúa Giêsu với cuộc sống
khó nghèo, đơn sơ và chịu khổ nạn, chỉ là một nhân vật với những sự
kiện lịch sử đã qua, chẳng còn bao giờ lập lại. Thánh Gia Thất chỉ
là một trong muôn vàn gia đình sống mức nghèo ở Israel thời bấy giờ.
Nay đã đổi khác!
Sự khó nghèo của Chúa Giêsu trong ngày sinh ra
và của Thánh Gia Thất trong cuộc sống được “thi vị hoá” đến mức
khiến cho rất nhiều người thuộc mọi đấng bậc trong Giáo Hội chỉ còn
nói về nghèo khó như một điều bất đắc dĩ. Lễ Noel
với những sắm sửa chuẩn bị mừng lễ cả tháng
trước, làm giàu cho bao nhiêu công ty và cá nhân, làm cho
cuối cùng không khí thuần lễ hội lấn át cả tính chất
thiêng liêng, trang nghiêm sốt sắng vả cảm động ngày Chúa đến. Quá
nhiều chất thơ khi ta nhìn vào máng cỏ thời nay, không chỉ ở các nơi
đình đám hội hè hay ở tại các gia đình, mà ngay cả ở trong các giáo
đường. Quá nhiều thánh ca đã tô vẽ hang lừa máng cỏ nên cảnh mộng mơ
kỳ ảo. Hình như người ta cảm thấy không thoải mái và tự hào với một
Đức Chuá nghèo khổ bất lực như thế và khó chấp nhận một gia đình
không có được những cái tối thiểu cho thai phụ và hài nhi như là
Thánh Gia Thất xưa. Nhưng thực tế máng cỏ, hang lừa, chiên bò, mục
đồng,… không thể nào còn thay đổi, làm lại, viết lại được nữa; vì
thế, cách tốt nhất là biến từng cọng rơm, ngọn cỏ, thành nhạc và
biến gió rét, giá lạnh, trống trải nghèo khó nên thơ, như trong
truyện cổ Nàng Bạch Tuyết hoặc Cô Gái Lọ Lem! Từ đó đời sống khó
nghèo nên ít nhiều lạc lỏng và đáng xấu hổ trong xã hội tiêu thụ và
hiện đại nầy. Hậu quả là người nghèo, đối tượng chính phải được rao
giảng Tin Mừng, chăm chút yêu thương, lại trở thành những gánh nặng
chẳng đặng đừng hoặc dùng làm “bung xung” mỗi năm một vài lần, để
“trưng bày” nhãn mác bác ái từ thiện. Với suy nghĩ và hiện thực ấy,
Giáo Hội ở nhiều nơi và trong nhiều bộ phận, đã dễ dàng trở thành
mồi ngon cho Xa-tan và các thế lực thù nghịch, chưa nói đến những vụ
bê bối sai lạc xảy ra trong hàng giáo phẩm và giáo sĩ, mà nguyên
nhân sâu xa cũng là vì bỏ qua, chối từ sống nghèo, chạy theo ý
riêng, vật chất và xa hoa. Thánh Phanxicô Atxidi và Thánh Đa-Minh
đã được Chúa sai đến, để làm cho Giáo Hội bừng tỉnh giấc mơ “thế
trần tục lụy” đi ngược với Tin Mừng, bằng gương khó nghèo của các tu
sĩ hai Hội Dòng được lập nên gần như cùng lúc. Và Thánh Phanxicô là
người đầu tiên đã bài trí Hang Đá Bê-Lem, để nhắc nhở sự thật về
Thiên Chúa Ngôi Hai Nhập Thể sinh ra: khó nghèo, rất khó nghèo, hoàn
toàn khác với những lễ hội tưng bừng, đầy ca vũ nhạc, tiệc tùng, quà
cáp và thậm chí những trò lố lăng dâm dật trong ngày mừng Chúa Giêsu
sinh ra. Cải tổ chính yếu ấy - sống đức khó nghèo phúc âm – đã thổi
hơi gió mát trong lành và mau chóng hồi sinh Giáo Hội Công Giáo.
Lạy Chúa Hài Đồng, có lẽ Chúa
vừa buồn vừa buồn cười vì những gì diễn ra ở trần gian trong những
ngày mừng ngày sinh của Chúa. Nó chẳng khác nào làm một bài thơ lâm
ly về chiếc áo rách bay phất phơ trong gió rét mùa đông của một ông
lão ăn xin đang tím người vì đói và rét : người sáng tác, người ngâm
nga, khán thính giả, ai cũng hài lòng, vỗ tay ca ngợi, duy chỉ có
người ăn xin là tê tái. Những gì chúng con đang làm cho Chúa, để
mừng sinh nhật Chúa, để mừng gia đình của Chúa, chỉ gói gọn trong
những quần là áo lượt, tiệc tùng vui chơi và tò mò đi xem, phê bình
mẫu mã hang đá so với các năm trước : vẫn Chúa Hài Nhi và hai ông bà
Giuse – Maria bằng đất nặn, sơn phết màu mè, không gợi lại chút ý
nghĩa thiêng liêng, đạo đức nào. Đèn hoa và các trang hoàng khiến
cho hang đá nghèo biến thành hoàng cung rực rỡ giàu sang. Hẳn
Chúa buồn lắm. “Hoài-Đức” khác với “Hải Linh” là như vậy đó: Hình
như có hai “Hài Nhi Giêsu” sinh ra cùng lúc ở hai nơi, trong hai
tình trạng khác biệt nhau hoàn toàn. Con sẽ chọn “Giêsu” nào? Giêsu
nào sẽ sinh ra hoặc được con sinh hạ trong đời sống Hôn Nhân và Gia
Đình của con?
CVK
Nguyễn-Thế-Bài
TÌNH CA CHO NGƯỜI ĐƯỢC YÊU 82
|
VỀ MỤC LỤC |
|
TRÁNH TRANH CHẤP QUYỀN
HÀNH |
- Rửa sạch cái đĩa cho chó ăn
kìa, bà mẹ ra lệnh cho cô bé Kim Chi.
- Tại sao con phải làm việc đó?
- Mẹ bảo đem rửa sạch cái đĩa cho
chó ăn đó! Con có nghe không? Hãy làm ngay đi.
- Con không thấy lý do tại sao
con phải làm điều đó?
- Vì mẹ bảo con làm có được
không?
Cô bé nhún vai và không làm điều
mẹ nó bảo. Vài giờ sau, bà mẹ nhìn thấy cái đĩa vẫn còn dơ và kiến
bò đầy trên đó. Bà gọi cô bé lại và nói:
- Mẹ đã bảo con đem rửa sạch cái
đĩa đó cách đây mấy tiếng đồng hồ rồi. Tại sao con không làm? Hãy
nhìn kìa. Kiến bò đầy cả rồi. Bây giờ đi dọn ngay đi!
- Vâng, vâng.
Nhưng khi bà mẹ quay đi. Cô bé
cũng chẳng chịu đem đĩa đi rửa. Một lúc sau, bà mẹ nhìn thấy đĩa vẫn
chưa được dọn rửa. Lần nầy bà mới phết đít cho cô bé mấy cái. Cô bé
thụng mặt ra nhưng cô không khóc.
- Nếu con không chịu thu dọn ngay
bây giờ, con phải đi ngủ sớm. Không được coi tivi tối nay.
- Vâng, con sẽ dọn.
Cô bé cúi xuống lấy đĩa trong khi
bà mẹ quay đi, nhưng vẫn không chịu chùi rửa đĩa. Sau đó bà mẹ khám
phá ra: cái đĩa vẫn nguyên tình trạng dơ bẩn như vậy.
Cả hai mẹ con đã đi vào cuộc
tranh chấp quyền hành. Bà mẹ cố gắng bắt cô bé thi hành lệnh. Cô bé
cho thấy ai là kẻ có quyền. Rõ ràng một sự tranh chấp quyền hành
đang tăng dần đến mức độ cần lưu ý. Con số những đứa trẻ như thế
được đưa tới văn phòng cố vấn bỡi cha mẹ càng ngày càng nhiều. Tại
sao vậy? Đâu là vấn đề? Con trẻ ngày hôm nay dám làm những điều mà
chúng ta không bao giờ dám đối với cha mẹ chúng ta. Tại sao như
thế?
Vấn đề được khởi động bỡi sự thay
đổi văn hóa cách tổng quát đang xảy ra. Con trẻ cảm được bầu khí dân
chủ của thời đại chúng ta và phục thù những cố gắng nắm quyền trên
chúng của chúng ta. Chúng tỏ sự giận dữ bằng cách trả thù. Chúng
kháng cự sự cầm quyền của chúng ta và ngược lại muốn tỏ cho chúng ta
thấy quyền hành của chúng. Trận đầu khai diễn trong đó cha mẹ cố
gắng xác định quyền hành và con trẻ tuyên chiến. Chúng nhất định
không chịu khuất phục. Tất cả những cố gắng để thống trị chúng đều
vô ích. Con trẻ khôn hơn trong những trận chiến tranh giành quyền
hành. Chúng không bị trói buộc bỡi những thể diện bên ngoài xã hội
hoặc những hậu quả hiểm nguy bỡi hành động của chúng. Gia đình trở
thành bãi chiến trường. Không còn có sự cộng tác, cũng không có sự
hài hòa. Trái lại chỉ có giận dữ và hận thù.
Bà mẹ đã thuyết phục được bé Kim
Liên 12 tuổi đồng ý rửa sạch hộp đựng thức ăn trưa và bình đựng sữa
của nó ngay khi nó từ trường về nhà và mọi sự xem ra tốt đẹp. Bỗng
một ngày kia, cô bé lơ đảng không chịu chùi rửa. Bà mẹ giận dữ khi
nhìn thấy chiếc hộp được để trên bàn với những thức ăn dính đầy bẩn
thỉu, và bình đựng sữa đã bốc mùi chua. Bà mẹ quở cho một trận. Cô
bé hứa sẽ nhớ. Nhưng một vài ngày sau, cô bé cũng lại bê bối ra. Lần
nầy bà mẹ nhớ lại một phương cách giáo dục: “Cứ để hậu quả sẽ dạy
nó”. Vì thế, bà không quan tâm nữa nhưng lại giận dữ trong lòng. Bà
nói với chính bà: “Ta sẽ tỏ cho nó thấy”. Sáng hôm sau, bà gói bữa
ăn trưa trong bao giấy và đặt tiền mua sữa trên bàn. Cô bé biết
chuyện gì xảy ra. Bà mẹ bỏ hộp đựng thức ăn trưa đó qua một bên. Bà
ngẫm nghĩ: “Tôi nhất định không rửa”. Bình đựng sữa và hộp đựng thức
ăn ngày càng lên mốc và bốc mùi hôi. Bé Kim Liên tiếp tục mang thức
ăn trưa trong bì giấy. Bà mẹ càng ngày càng nên giận dữ khi ngày
trôi qua. Sau cùng bà nổi cơn giận và trút lên đầu cô bé. Cô bé đỏ
mặt, mặt sập xuống nhưng vẫn không chịu đi rửa hôp và bình đựng sữa.
Cuối cùng, trong thất vọng bà mẹ đẩy cô bé vào trong bếp, đứng bên
cạnh bắt cô bé phải rửa cho đến khi làm xong. Bà mẹ nghiến răng bảo:
“Từ nay con có lo nhớ không?” Cô bé hứa: “Vâng, thưa mẹ”. Tuy nhiên,
ngày hôm sau, cô bé lại bỏ dơ không chịu rửa. Hoàn toàn thất vọng,
bà mẹ quyết định: “Con chỉ mang thức ăn trưa trong một cái túi”. Cô
bé đáp lại: “Không sao cả”.
Ngày cô bé không chịu rửa hộp và
bình đựng sữa, và bà mẹ giận dữ là ngày cao độ của cuộc chiến giành
quyền hành. Bà mẹ vẫn cố gắng ép buộc cô bé làm điều bà bảo. Bà đã
áp dụng phương pháp đó như một hình phạt. Câu nói “ta sẽ cho thấy”
là một sự trả thù. Cô bé cảm được sự giận dữ của mẹ dầu bà mẹ cố
gắng che dấu. Bà muốn áp dụng phương pháp “hậu quả tất nhiên”, nhưng
bà không để ý đến bản chất của phương pháp đó. Khi bà bỏ thức ăn vào
bao giấy và cho tiền mua sữa, bà đã làm mất đi hậu quả tất nhiên của
nó: bà vẫn còn tiếp tục phục vụ dẫu cô bé không muốn cộng tác. Lẽ ra
bà không nên chuẩn bị bữa ăn trưa như thường lệ vì không có hộp đựng
thức ăn. Bà chỉ để thức ăn trên bàn, cái kế tiếp là phần của cô bé.
Cô bé có ý cho mẹ thấy rằng cô
không thể bị ép buộc làm việc đó. Cô chấp nhận mọi sự hơn là phục
tùng lệnh nầy. Làm thế nào bà mẹ có thể làm chủ được tình thế mà
không cần phải chứng tỏ quyền hành.
Bà mẹ phải không quan tâm về cái
hộp đó. Nó thuộc về cô bé. Nếu cô bé không chịu rửa, nó không có hộp
đem thức ăn. Bà mẹ chỉ có thể quyết định điều cô bé sẽ làm, chẳng
hạn: thức ăn mốc và sữa hôi chắc chắn không có chỗ trong bếp, hoặc
bỏ hộp dơ và bình sữa dơ ở đó là một điều không được phép. Nhưng nếu
bà ra lệnh và bắt buộc cô bé phải làm là dùng quyền lực và như vậy
chỉ đưa vào cuộc chiến tranh giành quyền hành như được thấy rõ: ngày
hôm sau, dẫu cho cô bé đã hứa, cô bé lại không chịu làm. Bà mẹ giận
dữ vì cô bé đã công khai chống lại bà. Bà cảm thấy uy quyền của bà
bị đe dọa và muốn tỏ cho cô bé thấy rằng bà sẽ không để cho cô bé
làm chuyện như vậy.
Thật tốt đẹp biết mấy nếu bà mẹ
đã cố gắng khám phá ra: cái gì đã làm cho cô bé phản ứng như vậy và
nên thay đổi chiến thuật để không còn có sự chống đối của cô bé nữa.
Trong trường hợp nầy, cô bé không thích mang hộïp đựng thức ăn trưa
vì ít trẻ trong trường mang thức ăn trong hộp. Tại sao cô bé không
nói điều đó ngay từ đầu? Cô bé muốn dùng tình cảnh đó đưa bà mẹ dấn
thân vào cuộc tranh chấp quyền hành. Và cô bé đã thắng. Bà mẹ đầu
hàng.
Nếu có một cuộc nói chuyện thân
mật với cô bé thì tình thế có lẽ đã khác hẳn. Cuộc nói chuyện có thể
đã giúp bà mẹ hiểu được tâm trạng của cô bé về chiếc hộp đựng thức
ăn đó, bấy giờ hai mẹ con có thể cảm thông nhau cách dễ dàng và hy
vọng có thể tránh được cuộc chiến tranh không cần thiết đó. Hoặc bà
có thể dùng lốùi nói cách dịu dàng hơn để cô bé không cảm thấy mình
bị xúc phạm: “Mẹ thấy rằng con đã không chịu sửa soạn chiếc hộp đựng
thức ăn đó hôm nay. Mẹ bắt buộc phải nghĩ rằng con không muốn đem
thức ăn trong hộp nữa. Con có muốn mẹ bỏ thức ăn vào túi và cho tiền
con mua sữa không?” Như vậy, có lẽ đã tránh được một cuộc chiến
tranh vô ích.
Bất cứ khi nào chúng ta ra lệnh
một đứa trẻ làm một điều gì hoặc cố gắng bắt nó làm điều gì là chúng
ta mời nó làm một cuộc chiến với chúng ta. Điều đó không có nghĩa là
chúng ta không thể hướng dẫn con cái chúng ta có một hành vi thích
hợp. Nó chỉ có nghĩa là chúng ta phải tìm một phương cách khác và
hữu hiệu hơn. Chúng ta phải bỏ thái độ và phương cách lỗi thời, và
dùng phương pháp xem ra có hiệu quả hơn.
Huy Cường 5 tuổi đang làm mẹ nó
điên lên. Bà nói như thế với cậu bé và với những người khác trước
mặt nó. Bà mẹ phiền trách nó suốt ngày, còn cậu bé thì chẳng nghĩ
ngợi gì, cũng chẳng quan tâm gì. Nếu bà mẹ có phết đít nó, cũng chỉ
được một lúc thôi. Chẳng hạn hôm nay, bụng cậu bé không được bình
thường, sáng ngày bà dẫn nó vào nhà vệ sinh sau bữa ăn sáng, nhưng
nó trở ra nói rằng nó không thể đi vệ sinh lúc nầy, mặc dầu bà mẹ đã
cố gắng dạy cho nó nhiều năm rồi. Bà cho nó ra ngoài chơi và bà tiếp
tục công việc của bà. Vào khoảng trưa trong lúc dọn dẹp tủ quần áo,
bà ngửi thấy mùi thối. Bà lục lọi và khám phá ra rằng cu bé đã bỏ
phân trong mũ bố nó. Bà chạy ra ngoài tìm nó, mang nó vào, đặt nó
đối diện với chiếc mũ, và đập nó nặng tay. Nó té đái trong quần, và
bà nghĩ rằng đó là vì bà đánh nó. Tuy nhiên, suốt ngày nó cứ đái rấm
trong quần và đêm đó đái ước cả giường nữa.
Bà mẹ đã quan tâm về đường tiêu
hóa của cậu bé khi cậu còn nhỏ. Bà bảo: “Con cho nó ra khi mẹ bảo
như thế”. Nhưng hành động của cậu bé muốn nói: “Con chỉ cho nó ra
khi nào con thích”. Từ lâu rồi, cậu bé đã dùng cách nầy như một
phương cách để đánh bại bà mẹ đầy uy quyền. Cuộc sống hàng ngày của
câu bé và của mẹ nó là một cuộc chiến đấu tranh giành quyền uy.
Không dễ cho bà mẹ thay đổi cái quan hệ giữa mẹ và con ngoại trừ bà
biết vấn đề nằm ở đâu và bà có thể làm được gì cho vấn đề đó.
Rất nhiều cha mẹ đã tạo nên những
khó khăn như thế cho chính họ khi họ tỏ ra quá quan tâm về vấn đề
huấn luyện cho con trẻ cách đi vệ sinh. Cái khác biệt giữa quan tâm
bình thường và quá quan tâm nằm trong thái độ chúng ta. Nếu chúng ta
quá nhấn mạnh con trẻ cần học thói quen đi vệ sinh thích hợp, chúng
ta kêu mời sự kháng cự. Nếu chúng ta mong ước và khuyến khích sự
huấn luyên đi vệ sinh thích hợp, chúng ta mời gọi sự cộng tác. Nếu
sau một thời gian huấn luyện, đứa trẻ xem ra dùng việc nầy để có sự
chú ý không thích hợp hoặc để chống lại sự ép buộc của bố mẹ, tốt
hơn là đừng quan tâm chi cả, cứ để kết quả tự nhiên xảy ra. Trong
mọi trường hợp như thế, chúng ta đều thấy một cuộc chiến tranh
quyền. Chúng ta có thể giải quyết nó trong những lãnh vực khác, ở đó
tình thế xem ra thuận lợi cho việc bảo toàn trật tự mà không có
chiến tranh. Chẳng hạn khi nó đái dầm hoặc ỉa són, bà mẹ có thể cho
phép nó nằm trên giường ướt hoặc thay ra cho nó nếu nó cảm thấy khó
chịu. Hoặc là bà có thể mặc cho nó một cái tã và để nó ướt nếu nó
đái ra đó. Dĩ nhiên, nó không được phép làm ướt thảm hoặc bộ ghế ở
phòng khách. Nó sẽ phải chịu như vậy cho tới khi nào nó sẵn sàng
không còn đái dầm nữa. Tất cả điều đó có thể được thực hiện trong
một cách thế không chính thức cho thấy “đây là vấn đề của con đó”.
Con có thể thay đổi tình thế khi con sẵn sàng. Một khi không còn có
sự tranh chấp quyền hành, đứa trẻ sẽ chọn lấy việc bãi bỏ sự bất ổn,
nghĩa là không thích đái dầm nữa.
Ở điểm nầy nhiều người sẽ cảm
thấy rối loạn. Rất nhiều lần như những lúc nguy hiểm, chúng ta phải
dùng đến sức mạnh. Chúng ta cũng dùng một loại áp lực khi hoàn cảnh
cần đến và đôi khi bắt buộc chúng ta phải dùng sức mạnh để bảo vệ
trật tự.
lm.levanquang
tiến sĩ tâm lý
|
VỀ MỤC LỤC |
|
MỘT EM BÉ NẰM TRONG MÁNG CỎ |
Trong đêm
Giáng Sinh, điều trước tiên người ta không bao giờ quên được là
Thiên Chúa đã từ vĩnh cửu đi vào thời gian và thể hiện
trong một em bé nằm trong máng cỏ. Thánh Luca viết: “Khi
hai người đang ở đó thì bà Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai
hoa. Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rối đặt nằm
trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ.”
(Lc 2, 6-7)
Đó là Thiên
Chúa bằng xương bằng thịt, được quấn tã, xem ra không xứng đáng
với Chúa Tể càn khôn, tạo dựng trời đất vũ trụ. Thật là một mầu
nhiệm đức tin! Ai có thể cắt nghĩa được điều đó? Ai có thể nói
cho chúng ta biết tại sao?
Người điên
rồ cho biết lý do: những người khôn ngoan không bao giờ cố cắt
nghĩa cho ra lẽ. Tuy nhiên Thánh Gioan là một người khôn ngoan
đã cố cắt nghĩa với hết sức mình: “Thiên Chúa yêu thương
thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì
khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. ” (Gio 3, 16)
Sự ngạc nhiên linh thánh
G. K.
Chesterton nắm bắt
yếu tố ngạc nhiên trọn vẹn đó trong đêm Giáng Sinh khi ông viết:
“Đôi bàn tay đã tạo dựng mặt trời và các tinh tú, trở nên quá
bé nhỏ để có thể vói tới những cái đầu to lớn của các súc vật ở
trong hang động
Bethlehem.” Ai có thể
hiểu được điều đó một cách trọn vẹn? Và phải hiểu như thế nào
đây? Chúng ta cần phải hiểu rõ điều đó để ngạc nhiên run lên vì
vẻ đẹp tuyệt vời!
Câu chuyện vĩ đại nhất chưa bao
giờ được nói hết
Máng cỏ
là dụ ngôn vĩ đại về Lễ Giáng Sinh. Cảnh tượng đơn giản mà máng
cỏ tượng trưng không bao giờ ngừng nói cho con tim chúng ta từ
bên trong. Chúng ta cần những dụ ngôn như máng cỏ và những câu
chuyện như dưới đây đã xảy ra trong một gia đình người Canada
sống ở tỉnh bang British Columbia là nơi tôi được đặc ân sống
như tại quê nhà qua năm lễ Giáng Sinh.
Hôm đó là
Đêm Vọng Giáng Sinh. Một cặp vợ chồng tranh luận sôi nổi và thấy
thật kỳ quặc phi lý về việc Thiên Chúa giáng sinh xuống trần như
một trẻ sơ sinh, không nơi nương tựa. Người chồng nhấn mạnh là
để được chú ý về mình và gây ấn tượng mạnh mẽ trên trần thế
không phải là phong cách của Thiên Chúa.
Khi người
chồng đang nói, tức thời có một chấn động mạnh ở ngoài vườn. Anh
kéo màn cửa sổ lên và nhìn ra ngoài. Thật ngạc nhiên, anh thấy
năm con ngỗng trời, đi chập choạng trên tuyết. Chắc chắn chúng
đã rời khỏi đàn ngỗng thiên di.
Lo lắng để
giúp đỡ chúng, anh vội chạy ra ngoài vườn. Nhưng sự xuất hiện
của anh đã khiến cho những con ngỗng trởi hoảng sợ hơn nữa.
Chúng càng vỗ cánh đen đét, càng lún sâu trong tuyết. Người
chồng mở cửa ga-ra và cố lùa chúng vào bên trong. Anh càng cố
giúp đỡ, chúng càng hoảng sợ thêm: điều đó rõ ràng gây nguy hại
cho chúng.
Trong một
giây phút tuyệt vọng, người chồng mong sao trở thành con
ngỗng trời để có thể nói cùng một thứ tiếng với chúng: đó là
cách duy nhất anh ta có thể cố gắng giúp đỡ chúng mà thôi.
Quyền năng Thiên Chúa
Nhưng đau
buồn thay, người chồng đó không có năng lực tự biến mình thành
con ngỗng trời. Tôi không rõ những gì đã xảy ra cho những con
ngỗng trời sau đó, nhưng tôi biết ít nhất là trong vài phút vắn
vỏi, người chồng đó đã hoàn toàn cảm kích điều kinh ngạc xảy ra
trong đêm Giáng Sinh. Đó là điều kinh ngạc về Thiên Chúa nhập
thể vào một đêm đông đã lâu lắm rồi ở nơi tỉnh nhỏ Bê-lem.
Ngài đã
dùng quyền năng Thiên Chúa của Ngài để trở nên một người như
chúng ta và nói một ngôn ngữ mà loài người ở mọi thời đại, mọi
lứa tuổi, thuộc mọi sắc dân, màu da và nếp sống có thể hiểu
được. Ngài nói ngôn ngữ tình yêu khi Ngài công bố là Con của
Ngài trở nên con người để mọi người – nam cũng như nữ – được trở
nên con cái Thiên Chúa. Đó là Tin Mừng lớn lao! Đó là định
mệnh chúng ta! Thiên Chúa đã làm cho cuộc sống chúng ta mang một
ý nghĩa tuyệt vời.
Giờ đây
chúng ta là một thành phần mật thiết, không thể tách rời được,
nằm trong kế hoạch mà Thiên Chúa muốn làm cho thế giới. Chúng
ta tham gia vào vở kịch vĩ đại mà Thiên Chúa đã dàn dựng. Có
thể chúng ta không quen với toàn bộ vở kịch đó và không hiểu
nhiều về nguyên bản. Có thể chúng ta chỉ đóng một vai trò khiêm
tốn, còn khiêm tốn hơn Mẹ Maria và Thánh Giuse, các mục đồng hay
ba nhà đạo sĩ.
Điều quan
trọng là chúng ta đã được chọn lựa để trở thành diễn viên
trong Vở Kịch Lớn Lao của Thiên Chúa. Và giờ đây chúng ta
chỉ cần đóng vai trò của chúng ta càng tuyệt vời bao nhiêu càng
tốt bấy nhiêu. Tất cả những điều đó chỉ có ý nghĩa đối với những
ai có đôi mắt tinh tế để nhận thấy họ đang tham gia vào một kế
hoạch lớn lao hơn so với thân phận làm người của họ rất nhiều.
Bức tranh vĩ đại
Từ ngữ “tai
họa” (“disaster”) là một từ ngữ thật hấp dẫn. Từ
ngữ đó phát xuất từ tiếng La-tinh, có nghĩa là “bị phân cách
khỏi các vì tinh tú” (disconnected from the stars). Theo
Thánh kinh và có tính cách thi phú, những tinh tú biểu hiệu cho
một câu chuyện vĩ đại, câu chuyện về vũ trụ, về sáng thế.
Thi sĩ
William Stafford đã cảnh cáo chúng ta bằng một câu khá mạnh
mẽ về việc chạy theo một Thiên Chúa sai lầm: “Vì chạy theo
một Thiên Chúa giả hiệu, do đó chúng ta đã đánh mất những vì sao
của chúng ta.” Điều đó có nghĩa là chúng ta bị phân cách
khỏi câu chuyện vĩ đại mà chúng ta phải tham gia và khi chúng ta
bị phân cách như thế, chúng ta đánh mất đất đứng của mình, đánh
mất dòng mạch, tình tiết của cốt truyện và đối diện với một đại
họa.
Ngược lại,
bao lâu chúng ta biết câu chuyện nhỏ bé của chúng ta như được
sinh ra, cắp sách đến trường, tốt nghiệp và kiếm được việc làm,
si tình rồi đi đến kết hôn, sinh con đẻ cái và sau cùng sẽ chết
đi…đều được đan kết với một câu chuyện lớn lao hơn thì chúng ta
đã có căn bản và nền tảng vững chắc để sống một cuộc sống lành
mạnh và hạnh phúc.
Tất cả nền
tâm lý học và tâm lý trị liệu trên thế gian nầy không thể cho
chúng ta một tầm nhìn về vũ trụ học đó. Viễn kiến đó và tầm nhìn
về vũ trụ đó đến từ tôn giáo. Nếu bạn nghi ngờ tôi, mời bạn nhìn
vào máng cỏ và bạn sẽ thấy, dưới biểu tượng dụ ngôn, sự liên kết
của bạn vào một câu chuyện vĩ đại.
Điều chúng
ta thấy đang xảy ra trong thế giới Tây phương mà chưa bao giờ
xảy ra trước đó trong lịch sử loài người là sự phân cách giữa
những câu chuyện nhỏ bé của chúng ta với câu chuyện vĩ đại kia.
Khi chúng ta không tin tưởng câu chuyện vĩ đại đó, thì sự liên
hệ gắn bó của chúng ta đã bị cắt đứt.
Có thể lúc
ban đầu chúng ta không nhận chân điều đó vì chúng ta bị tách rời
khỏi câu chuyện vĩ đại đó trong chốc lát. Có thể chúng ta thành
công trong cuộc sống và điều đó cũng tốt thôi. Và cuộc sống
chúng ta được thích thú thì cũng tốt nữa. Nhưng nếu vào một lúc
nào đó và ở một nơi nào đó, chúng ta bị phân cách khỏi câu
chuyện vĩ đại kia, chúng ta có nguy cơ sẽ kết thúc trong sự vô
nghĩa.
Những người hạnh phúc
Những người
hạnh phúc thật thông thường là những người tin tưởng một đôi
điều và đặt căn bản đời mình trên những chân lý đó. Niềm tin của
họ thật cụ thể và vững chắc. Họ không dao động ngả nghiêng theo
những cuộc thăm dò dư luận, theo thời trang hay lề thói phong
hóa.
Tôi đã gặp
một chàng thanh niên ở Waterfond, Ái-nhĩ-lan. Anh đã hỏi dồn tôi
một số câu hỏi thuộc nhiều lãnh vực. Anh muốn xây đắp cuộc đời
mình trên một điều gì vững chắc, như mọi người khác. Tôi nói với
anh: “Xem đây, tôi không thể trả lời hết mọi câu hỏi của anh.
Nhưng tôi sẽ nói những gì tôi có thể biết: Thiên Chúa thiện hảo,
vì vậy những tạo vật của Ngài thiện hảo và thế giới cũng thiện
hảo.”
Đó là những
điều xác thực tôi có thể trả lời cho anh ấy và tôi tin tưởng
điều đó là đúng, vì đó là những điều xác thực mà tôi muốn đặt cơ
sở đời sống của tôi trên đó. Đó là những chân lý nối kết tôi với
câu chuyện Giáng Sinh, với Thiên Chúa bằng xương bằng thịt:
một Thiên Chúa đang quan tâm đến vũ trụ cùng nhân sinh và
chăm nom một cách say đắm tạo vật của Ngài, cho dù cuộc sống con
người đôi khi thật phức tạp, khó khăn và gây nhiều rối rắm.
Emmanuel – Thiên Chúa ở cùng
chúng ta
Một khi
chúng ta tín nhiệm Thiên Chúa một cách trọn vẹn, chúng ta không
cần lo lắng phải giật dây hay nhấn nút cho đúng cách, bởi vì
chúng ta biết rằng tất cả không tùy thuộc vào chúng ta. Chúng ta
đều biết Chúa Giêsu đã chọn lựa sống trên trần thế nầy và
trần gian là thế giới Ngài lựa chọn.
Chúng ta
biết giá trị của Ngài không chỉ nêu gương hoàn thiện và để mặc
chúng ta theo gương đó, hoặc chỉ mạc khải chân lý về Thiên Chúa
và để mặc chúng ta sống chân lý đó. Giá trị đích thực của Thiên
Chúa là Ngài sống trong chúng ta. Ngài là “Emmanuel” –
Thiên Chúa ở cùng chúng ta, Thiên Chúa ở trong chúng ta.
Vậy thì
Giáng Sinh mang lại sự khác biệt nào? Giáng Sinh mang lại sự
khác biệt nầy là liên kết câu chuyện nhỏ bé của chúng ta với
câu chuyện vĩ đại của Chúa. Và như thế Chúa Giêsu mang lại
sự khác biệt cho hết mọi người trên trần thế, nếu chúng ta để
cho Ngài hành động trong chúng ta!
Linh Mục
Vincent Travers, OP
Hương Vĩnh
chuyển ngữ
|
VỀ MỤC LỤC |
|
Lời Chúc hay Lời Nguyện |
Mấy tuần không đọc email, hôm nay vừa mở ra
tôi lại bị ngay một ông bạn già ‘sửa lưng’. Khổ quá. Bạn già của
tôi viết cho cả group trên dưới 50 đứa bạn của tôi thế này: cac
bác mỗi người đọc cho cho bac D. một kinh. Bác ấy đang mắc chứng
bênh trầm trọng, đó là bệnh ‘cấm khẩu’. Thế đấy, bạn bè chơi
giỡn chọc phá nhau, có lúc mích lòng nhau, nhưng rồi vắng nhau
mấy ngày đã thấy nhớ nhau. Hồi còn mài quần ở bậc trung học cũng
vậy mà khi đã vào tuổi bồng bế cháu nội cháu ngoại rồi cũng
thế.
Bạn già của tôi đã dùng lời kinh nguyện để
khích bác sự ‘im lặng là vàng’ của tôi trong mùa vọng Giáng
Sinh. Chẳng biết bạn của tôi đã đọc cho tôi Kinh Khổ hay Kinh
Sướng, kinh Từ Tròi Cao hay kinh Từ Vực Sâu? Chắc là kinh …
‘chuởi xéo’.
Tôi nhớ lại hồi học đệ Tứ đệ Ngũ trong
chủng viện, mỗi lần phải viết thư cho cha bố là một lần tôi khổ
sở. Tuổi ham chơi, tôi có vấn đề gì để bàn hỏi đâu, linh hồn tôi
mới nẩy mầm thì tâm tình đâu mà viết. Cố gắng viết chữ to và
viết thưa thì tôi cũng chỉ được một trang pơ-lua là cùng. Và thư
nào thì hình như cũng tựa tựa như nhau. Đại khái là cảm tạ Chúa,
cám ơn cha, con vẫn khỏe (mặc dù có khi viết thư trong phòng
bệnh), học lực của con tháng này được trung bình, hạnh kiểm cũng
gần trung bình… và luôn kết thư bằng một câu rất thuộc lòng ‘xin
cha thêm lời cầu nguyện cho con được trung thành với ơn gọi’.
Thật ra đây cũng chính là câu mà cha bố đã dặn bảo trước khi tôi
vào chủng viện. Lạy Chúa tôi, viết cho có, cho đẹp, cho đầy
trang thư thôi chứ làm gì tôi có ý tốt lành 100% xin Ngài cầu
nguyện cho được ở trong nhà Chúa suốt đời đâu.(Hèn chi. C’est
ca!!!).
Thế ra tôi đã dùng lời cầu nguyện để trang
trí cho một bức thư.
Nghĩ lại tôi thấy mình có phần giả dối nên
bây giờ bước vào tuổi U50, tôi bắt đầu ý thức nhiều hơn mỗi khi
xin người khác cầu nguyện và nhất là khi hứa cầu nguyện cho
người khác.
Nói đến cầu nguyện, tôi nhớ bài giảng của
cha xứ trong ngày lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội vừa qua. Ngài
nói về sự kiện và lịch sử Đức Mẹ Lộ Đức. Tại sao có Lộ Đức và
những gì đã xảy ra ở Lộ Đức, rồi Ngài kể câu truyện:
Sáng nay con mới đi làm lễ an táng cho anh
Phanxicô Nguyễn văn V. vừa qua đời lúc 30 tuổi. Anh V. sang Mỹ
một mình, không có cha mẹ thân nhân bà con gì cả. Anh đi bụi đời
rồi nhập băng đảng đi cướp ngân hàng, rồi bị bắt và lãnh án tù
chung thân. Sống trong tù không ai thăm viếng nên rất cô đơn.
Mới đay anh bị bệnh ung thu phổi và được chuyển về bệnh viện
Anaheim Memorial Hospital gần nhà thờ của chúng ta. Thấy anh cô
đơn, bệnh tật đáng thương, một cô y tá người Phi đã điện thoại
cho con khi biết anh là người Việt Nam. Con đến thăm anh lần đầu
anh không muốn gựap. Con trở về và cầu nguyện rồi trở lại lần
thứ hai, anh cũng không nói truyện nhiều, con chỉ tặng anh một
chuỗi tràng hạt dù chẳng biết anh có đạo hay không. Lần thứ ba
anh nói truyện nhiều và con dậy anh cầu nguyện với Đức Mẹ: Xin
Đức Mẹ cứu con trong giờ lâm tử. Chỉ đơn sơ thế thôi. Và sau
cùng anh đã trở lại và chết bình an. Con tin chắc Chúa và Đưc Mẹ
đã thương cứu anh….”.
Câu truyện sống thực và rất thương tâm,
đồng thời cũng là tấm gương cầu nguyện của hai người trẻ tuổi.
Cha xứ trẻ và anh tù nhân trẻ.
Cha xứ nhấn mạnh điểm Cầu Nguyện cùng Đức
Mẹ cứu giúp trong giờ lâm tử, nhưng tôi thấy một điều mà cha xứ
không ‘dậy bảo’: đó là mánh khóe cầu nguyện. Tôi mạo muội gọi là
mánh khóe vì nếu gọi là nghệ thuật thì quá cao siêu tôi không
dám bàn mà gọi là mánh mung thì lại thấp hèn với sự cầu nguyện.
Tôi không biết anh tù nhân trẻ đã cầu
nguyện thế nảo, nhưng tôi thấy cha xứ đã kết hợp lời cầu nguyện
với hành động. Nếu cha chỉ đến thăm anh tù mà không cầu nguyện
thì chưa chắc đã work, mà nếu cha chỉ đi đi lại lại trong khuôn
viên nhà thờ lâm râm lần chuỗi mà không hy sinh trận football
của đội Patriots England và Colts Indiannapolis để đén thăm anh
tù thì cũng chưa chắc đã work.
Nhìn lại Tin Mừng tôi thấy Chúa Giêsu là
người Do Thái, nhưng tâm lý lại khá giống dân Việt Nam của tôi:
“Hòn đất ném đi hòn chì ném lại”
Hoặc
“Bánh đa ra đi bành qui trở lại”
Tôi thấy trong cầu nguyện nhất là cầu xin
một ơn cụ thể, thường thì Chúa cũng thích có một ‘phong bì’ đi
trước. Đây là tâm lý xã giao chứ không phải hối lộ kiều thế gian
vì trong xã giao thì người nhận phong bì cho lại và luôn cho
nhiều hơn, còn trong hối lộ thì người nhận cất giữ phong bì và
muốn nhận nhiều hơn.
Biết tâm lý con trai của mình nên trong
tiệc cưới Canaan, khi thấy chủ nhà hết rượu, Đức Mẹ đã vội vàng
dặn gia nhân ‘lấy nước đổ đày các bình’. Đức Mẹ biết Chúa thích
bắt đầu phép lạ từ những công việc của con người, Chúa thich cho
con người cộng tác phần nhỏ trong công trình lớn của Ngài. Tôi
thấy 3 điều kiện để Chúa làm phép lạ này là: 1) Chủ tiệc thực sự
hết rượu 2) Ông bối rối và xin Chúa cho thêm 3) Múc nước đổ đầy
các bình. Thiếu một trong 3 điều kiện chắc Chúa không làm phép
lạ được.
Chúa là người Do Thái nhưng rất thuộc thành
ngữ Việt Nam : Mưu sự tại nhân thành sự tại Thiên. Không đội mũ
an toàn mà chạy xe ngược chiều thì khi tai nạn Chúa co muôn làm
phép lạ cũng không kịp. Cầu xin được sức khỏe mà cứ nằm ôm TV ăn
snacks hoặc muốn xây sửa nhà thờ mà không góp tài chánh, không
gây quĩ thì chắc Chúa cũng cho vào trong waiting list cho hợp
tình hợp lý.
Trong phép lạ hóa bánh ra nhiều cũng thế.
Dân Do Thái thì giầu có hoặc ít nhất cũng không nghèo vì họ sống
trên miền đất chảy sữa và mật, nhưng có lẽ không rộng rãi …bằng
… người Việt. Nghe Chúa giảng, một là họ say mê quên ăn quên
uống hai là họ giấu kỹ đồ ăn, sợ lấy ra sẽ bị người khác xin.
Tôi không biết suy đoán thế đúng hay sai, nhưng khi Chúa hỏi các
em: Có gì ăn không? Thì một em đã cho Chúa 1 bánh và 2 con cá.
Thế là từ cái Filet O’fish của em bé quảng đại này Chúa đã thay
dổi tất cả lòng người. Ai cũng lấy tất cả thức ăn của mình ra
để chia sẻ, rất hồ hởi và quảng đại nên ăn xong vẫn còn dư là
phải. Có lẽ đây là phép lạ dễ nhất mà Chúa đã làm: chỉ cần vận
dụng lòng người. Thôi thì dễ hay khó điều chính vẫn là Chúa làm
phép lạ từ những gì con người bắt đầu trước.
Gần lễ Giáng Sinh, tôi không có thói quen
gởi thiệp, chỉ gọi điên thoại thăm những người thân khi có giờ
- Anh
điện thoại về thăm em và Saigon .
- Cám
ơn anh. Saigon thì mối ngày mỗi mới và đẹp, chỉ lụt khi mưa lớn.
Còn em thì ngược lạị.
- Anh
thấy bề mặt Saigon mới và đẹp, nhưng lòng đất Saigon thĩ cũ hơn
và bị động nhiều hơn. Em thì ngược lại.
- Anh
khéo nói. Giáng Sinh sắp về anh có gì vui không?
- Còn
8 ngày nữa mới Lễ Giáng Sinh nên anh chưa biết. Hi hi!!!Nói
truyện với em đây là niềm vui rồi. Anh cứ cộng lại và nhân lên
những niềm vui nho sẽ có niềm vui lớn.
- Anh
lại vừa uống nước mía hay ăn chè mà ngọt thế?
- Không,
anh mới ăn một miềng cake trong dịp ra mắt sách Thao Thức của
Đức Cha Bùi Tuần ở nhà thờ Saint Callictus. Em có gì lạ?
- Em
với chị H. mới ra thăm mo anh B hôm nay.
- Ừ,
năm măm rồi ha?
- Tháng
tới là tám năm chứ anh. Thời gian qua nhanh hơn mình tưởng. Sống
trong hạnh phúc thì thời giờ qua nhanh, nhưng trong cô đơn thời
gian cung không chậm lại.
- Cảm
quan miền sơn cước thật hay. Thằng cu K thế nào rồi?
Nó cũng ngoan, nhưng ít nói. Đang xin mẹ sang Tầu học tiếng Tầu
đẻ làm business
- Cứ
để nó đi xem sao. Coi bộ nó có chí lắm.
- Thấy
nó còn dại em lo quá, nhưng chắc em để nó đi. Em có một mình nó
là con trai nên tất cả tình thương em dành cho nó. Em lo và
thương nó lắm nên đang làm một cuộc đánh đổi với Chúa, đánh đổi
cuộc đời còn lại của em và tương lai của thằng cu K.
- Khâm
phục em. Không biết nói gì hơn, anh chỉ thấy một điều là trong
cuộc đánh đổi này chắc em sẽ thắng và cầu cho Chua thua. Anh
thấy những người mẹ hy sinh cho con thường thắng, nếu không
thắng thì cũng huề. Mà em có backup plan không?
- Có
một người đàn ông mới bên cạnh có thể hạnh phúc lắm. Có người
sửa cái bức tường, cái mái nhà, cái tủ kính cũng an tâm lắm chứ
anh, nhưng thôi, em không có backup plan đâu…
“Em đánh đổi cuộc đời còn lại của em với
Chúa cho thằng cu K nên người tốt”. Trong khâu làm ăn này, Chúa
được một phong bì khá to: cuộc đời còn lại của một góa phụ xinh
đẹp. Đừng nghĩ tôi cải lương bịa ra điều này. Tôi biết người nói
truyên với tôi nói thật chứ không phải nói để trang trĩ cho câu
truyện giữa tôi và nàng hay tô điểm cho phần đời con lai của
nàng.
Nghe người góa phụ chia sẻ tâm tư, tôi như
vừa bước ra khỏi phòng huấn đức của chủng viện mấy chục năm về
trước. Dĩ nhiên vừa bước đi vừa nhìn lại cuộc đời của chính tôi.
“Em đánh đổi cuộc đời còn lại của em với
Chúa cho thằng cu K nên người tốt”. Thế là phong bì đã nằm trên
bàn, nước đã được đổ đầy binh, và bánh với cá đã nằm tên mâm
cơm. Chắc Chúa sẽ làm công việc còn lại.
Năm hết Tết đén, Đông qua Xuân về, mong cho
những lời cầu chúc đầu xuân cũng là nhung lời cầu nguyện thì đẹp
biết bao.
Và lời cầu nguyện có kềm theo một phong bì:
phong bì hy sinh và phong bì thiện tâm thì hiệu quả biết mấy.
Lạy Chúa con viết lời chia sẻ này để cầu
nguyện cho những người con muốn gởi Lời Chúc Giáng Sinh và Năm
Mới. Xin cho tất cả luôn được hồn an xác mạnh. Amen.
J. Vu
12/18/2007 |
VỀ MỤC LỤC |
|
”Lạy Cha, con muốn sinh
ra những đứa con” |
Nguyên tác: ”Lettres d’amour aux
prêtres” – “Thư tình
gửi các Linh mục”
của Catherine DE HUECK DOHERTY
Người chuyển ngữ, Đình Chẩn.
CHƯƠNG VI
”Lạy Cha, con muốn sinh
ra những đứa con”
Con đã nói nhiều về Đức khiết tịnh, thế nhưng
chủ đề này cách nào đó chẳng để cho con được yên. Con đã nhận
được một lá thư của một nam tu sĩ, trong thư đó, thầy ấy xin con
bày tỏ quan điểm về “Đức khiết tịnh của Thiên chức Linh mục” để
giúp các chủng sinh và những người dự tu. Thật vậy, họ đã đặt
câu hỏi cho những người phụ nữ để bày tỏ ý kiến về vấn đề đang
còn tốn nhiều giấy mực bấy lâu nay!
Con thú thật, khi nhận được lá thư này con đã
suy niệm rất lâu. Đó là một vấn đề mà người ta phải suy nghĩ
chín chắn, trước tiên là để lấy can đảm và để trả lời cho câu
hỏi dù thế nào đi nữa.
Trong khi suy nghĩ về vấn đề đó, con dần nhận ra
rõ hơn nguyên nhân tại sao cộng đồng các Linh mục này cũng như
một số khác lại xin con viết về vấn đề này. Chẳng phải con đã
kết hôn hai lần đó sao? Con không phải là người Nga sao, và như
vậy, con thường thấy các Linh mục ở đất nước này kết hôn đó
sao? Thực vậy, ở nước Nga, Bun-ga-ri, rồi Sec-bi-a, tất cả các
Linh mục coi xứ đều có vợ hoặc ở goá. Ở đây, họ phải xây dựng
gia đình trước khi trở thành Linh mục; Trong những năm học chủng
viện, họ được phép đi tìm cho mình người bạn đời. Sau đó, họ sẽ
được phong chức Linh mục. Nếu người vợ của họ qua đời, họ không
được phép đi bước nữa. Đó là những điều luật của Giáo Hội Chính
Thống Nga. Mẹ của con, một tín hữu Chính Thống Nga, không thể
hiểu được rằng Linh mục triều mà không kết hôn. Bà quan niệm chỉ
có các Linh mục dòng mới xứng đáng đặc ân ấy. Chính vì vậy mà
con bị mâu thuẫn giữa hai cách nhìn.
Sau đó, con nhớ lại trường hợp của con, hay đúng
hơn phải nói : trường hợp của chúng con ( giữa con và người
chồng quá cố Eddie Doherty). Theo con, đây có lẽ là trường hợp
duy nhất trên lục địa Bắc Mỹ và có thể trên thế giới nữa. Thực
vậy, Eddie và con cả hai đã giữ khiết tịnh trong suốt những năm
50 vì luật riêng của Hội Tông đồ Madonna chúng con đòi hỏi,
thông qua sự nhất trí của tất cả các thành viên nguyện hiến dâng
trọn cuộc đời mình bằng việc thực hiện ba lời khấn khiết tịnh,
khó nghèo và vâng lời.
Sau khi đã sống giữ mình khiết tịnh những năm
tháng đó, Eddie và con đã khám phá ra rằng tình yêu lứa đôi của
chúng con đã lớn mạnh đến mức không thể tin được; Chúng con đã
kết hiệp với nhau một cách sâu sắc và trọn vẹn đến mức khó tin,
chúng con đã nên một trong Chúa Kitô, nên một trong tình yêu
thương ngay từ thẳm sâu của tâm hồn chúng con.
Chính vì vậy, khi chúng con xa cách nhau, thì sự
kiêng giữ đã làm cho chúng con gần nhau hơn, hơn mức cả hai
người tưởng tượng giống nhau!
Thế nên, con nghĩ rằng vị Linh mục tương lai tốt
lành kia hoàn toàn có lý do chính đáng khi viết thư để tham khảo
ý kiến của con( vì con chỉ có thể đưa ra ý kiến của mình thôi).
Con thú nhận rằng con cảm thấy e sợ hay khá căng
thẳng khi đề cập đến vấn đề này. Với cái nhìn của người Bắc Mỹ,
sự khiết tịnh thường liên hệ đến vấn đề giới tính. Tuy nhiên, sự
khiết tịnh không chỉ có thể hiểu như thế.
Đức khiết tịnh xuất phát từ Đức Mến. Đó là sự “
trong sạch của tâm hồn” của người sẽ “ nhìn thấy Thiên Chúa”. Họ
sẽ được chiêm ngưỡng Thiên Chúa không chỉ ở trên Thiên Đàng mà
ngay ở dưới trần gian này.
Đức khiết tịnh là một đặc ân ban cho phép con
người ở lại trong sự bình an của tâm hồn qua trật tự do Thiên
Chúa sắp đặt. Đức khiết tịnh là dấu chỉ nhận ra người có sự kết
hiệp mật thiết với chính Chúa Kitô. Chúa Kitô đã đồng trinh
nhưng điều đó không ngăn cản Chúa yêu thương mọi người với một
tình yêu bao la, cũng không ngăn cản Chúa có mối quan hệ mật
thiết với một số người, như Thánh Gioan-môn đệ Chúa yêu, hay chị
Maria Madalena và nhiều người khác nữa.
Chúng ta phải đặt vấn đề này trong bối cảnh yêu
thương. Thí dụ : con có thể hình dung ra rất rõ một nhóm các
chủng sinh, nhất là vào những ngày trước khi chịu chức Linh mục,
trao đổi với nhau về hôn nhân gia đình hay đơn giản chỉ là nghĩ
đến đó thôi.
Đó là giây phút tối quan trọng để đưa ra quyết
định. Lúc đó, có thể họ sẽ hình dung ra một người phụ nữ xa lạ
nào đó sẽ là người vợ của họ. Như Kinh Thánh đã nói, họ cảm
thấy trong lòng rộn ràng lên tình yêu cuộc sống, một tình yêu
hết sức thiêng liêng dẫn họ đến cái nhìn thật xác thực về những
đứa con mà họ có thể sẽ có: Con trai kháu khỉnh, đứa con gái
duyên dáng. Rất có thể bàn tay họ sẽ bị đốt cháy bởi những ước
muốn được ôm những đứa con ấy vào lòng, những đứa con chưa bao
giờ họ sinh ra. Vâng, con có thể dễ dàng hình dung ra những ý
nghĩ như thế trong đầu những người trẻ trước khi lãnh nhận Thiên
chức Linh mục.
Nhưng khi đứng trước bối cảnh cụ thể của Thiên
chức, trong trạng thái trọn vẹn và trong ân sủng tràn đầy, có
thể họ sẽ có những suy tư khác không như những điều con vừa nói
trên, nhưng những điều con nói cũng chẳng có gì lạ cả mà hết sức
tự nhiên. Họ sẽ nghĩ rằng “ Thiên Chúa cần đến những người giúp
Ngài để tìm và đưa về cho Chúa những ai cần đến Chúa”.
Thực vậy, đó chính là điều cốt yếu của Thiên
Chức Linh mục. Bởi vì trong sứ vụ cao đẹp này, họ sẽ được chiêm
ngưỡng phép lạ của một vị Thiên Chúa cần đến các Linh mục, như
người liệt cần đến chiếc nạng vậy! Thật là một sự so sánh không
thể tưởng tượng được. Ấy vậy mà thực sự là như vậy! Quả vậy, thế
giới tâm hồn của một số những linh hồn cũng chai lỳ như những đá
tảng vậy. Vai trò mầu nhiệm và khó tin được là đây: Một người
phải dâng cho Thiên Chúa đôi mắt, hai bàn tay, đôi chân và trọn
cả con người ấy để qua con người ấy Thiên Chúa chinh phục được
những người khác.
Vậy, tại sao phải nói đến sự hy sinh, sự từ bỏ,
nhất là từ bỏ tư cách làm bố? Một Linh mục thực sự có thể trả
lời cho vấn nạn đó. Đột nhiên con lại chợt nhớ ra một vài câu
thơ của một Linh mục viết:
Lạy Cha là Chúa Trời con,
Con muốn làm sinh sôi nảy nở,
Cho dân riêng của Cha.
Con muốn sinh ra những đứa con,
Cho vương quốc của Cha,
Ngay trên dương gian này và ở trên Trời.
Con muốn vương quốc của Cha,
Đầy những đứa con ,
Do tay con rửa tội, tha thứ và nuôi dưỡng chúng.
Khi đó con được chiêm ngưỡng nhan thánh Cha,
Nơi những đứa con, đứa cháu và chắt của con…
Điều này làm con nghĩ đến hôn nhân gia đình là
sự rút ngắn để đạt được những mục đích của chính mình. Có thể có
hoặc không. Mặt khác, nếu người ta tìm đến hôn nhân chỉ để thực
thi, nói cách khác, để thoả mãn những nhu cầu tâm lý tình cảm,
thì câu trả lời đã rõ: Thật là sai lầm tai hại cho những ai, dù
là thường dân hay là Linh mục, nếu họ kết hôn chỉ vì mục đích
ấy!
Ơn gọi hôn nhân cũng đòi hỏi suy nghĩ chín chắn,
chín chắn về cảm xúc để không tìm tư lợi cho riêng mình mà đòi
hỏi phải cho đi ( cho đi và tìm hạnh phúc cho người mình yêu).
Đó là ơn gọi hôn nhân.
Con cảm thấy không mấy hứng thú khi đọc đi đọc
lại hàng trang sách nói về sự độc thân, đức khiết tịnh cũng như
những lời bàn luận cổ võ cho việc kết hôn của các Linh mục. Cha
có nghĩ rằng tiến đến hôn nhân gia đình thực sự là giải pháp cho
vấn đề của mình chăng? Nếu quả như vậy, thì cha mới biết rất ít
về hôn nhân. Cha cần phải nhìn nhận tất cả vấn đề mà mỗi cặp vợ
chồng phải đối mặt.
Các Linh mục Chính Thống Nga đã và vẫn còn là
những người có gia đình riêng. Phần lớn các Linh mục theo nghi
lễ Đông Phương cũng vậy. Có lẽ sẽ rất thú vị khi làm cuộc điều
tra xã hội học về tất cả các Linh mục theo nghi lễ Đông Phương
để biết được có bao nhiêu trong số họ thích được độc thân. Phần
con, con không biết rõ lắm. Hay là làm cuộc khảo sát đối với các
Linh mục Anh Giáo đã kết hôn chắc cũng không kém phần thú vị.
Hôn nhân và độc thân trong Kitô Giáo, nhất là
trong Giáo Hội Công Giáo là một vấn đề kỷ luật. Các quy định có
thể luôn được thay đổi. Nhưng không thể thay đổi do khủng hoảng,
cũng không do những cảm xúc nhất thời hay do những dư luận chống
phá hoặc điều kiện chưa chín muồi.
Chúa Kitô đã nâng Đức khiết tịnh và sự độc thân
lên bậc đáng kính. Đó là những dấu chỉ thiêng liêng sâu sắc mà
thế giới say đắm nhục dục này cần phải tôn trọng không chỉ là
ngoài môi miệng mà từ trong tâm hồn.
Rất rõ rằng trong khi giới giáo sĩ Công Giáo
đang chịu dằn vặt vì những khó khăn và vì những cuộc tranh luận
thì dân ngoại vẫn tiếp tục tôn trọng yêu mến và bắt chước những
người hiến dâng trọn vẹn sống khiết tịnh nơi hàng ngàn Tu sĩ Ấn
Độ Ashrams và trong các nước Á châu.
Thiên Chúa, Chủ thể của lịch sử, đã chuẩn bị con
đường khiết tịnh từ xa xưa trước khi sai Con Một của Chúa đến
cứu độ chúng ta. Sự khiết tịnh đã được hiểu rất rõ trước khi
Chúa Giêsu xuống trần. Những người Hi lạp và La Mã, những bậc
tiền bối của nền văn minh Tây phương, biết rất rõ ý nghĩa sự
trinh khiết của các Thần họ thờ.
Sự trinh khiết luôn luôn hiện diện trong suốt
hành trình nội tâm lạ lùng mà con người cần phải giữ lấy để gặp
được Thiên Chúa Ba Ngôi ngự trong chính tâm hồn con người. Và
khi thực hiện được như vậy, Đức khiết tịnh sẽ là ánh sáng dẫn
đường cho Linh mục và sẽ chỉ cho Linh mục thấy tất cả những con
đường ngắn gọn dẫn đến Tình yêu Thiên Chúa và tình yêu con
người, một tình yêu tự do, thoát ra khỏi những quyến luyến không
thuộc Thánh ý của Đấng là Tình Yêu.
Khi đó linh hồn của những Linh mục ấy sẽ bay
vút lên tới đỉnh cao của Tình Yêu và Sự Thật, các ngài sẽ xây
dựng vương quốc Chúa Kitô ngay trên trần gian này.
Con biết có một chàng thanh niên, một hôm ghé
chiếc ghế đến gần con và cố gắng nói với con có vẻ hơi bối rối
rằng anh ta sẽ vào chủng viện trong vài tuần tới. Một lần nữa,
dường như trái tim con ngừng đập bởi con cảm nhận được niềm vui
hồ hởi lạ lùng tràn ngập trong lòng khi con nghe kể về câu
chuyện tình tuyệt vời nhất đã xảy ra trên trái đất này với giọng
nói rụt rè và do dự : Câu chuyện tình giữa Thiên Chúa và con
người. Câu chuyện ấy diễn ra khi Thiên Chúa các đạo binh cúi
xuống đón lấy một trái tim trong vòng tay rồi nâng cao lên, cho
đến khi đạt tới đỉnh cao vô tận của đồi Can- vê và ôi cây Thánh
Giá đã trở nên phép lạ của những phép lạ! Một Chúa Kitô khác!
Vâng, người thanh niên trẻ kia đã ngồi sát mép
ghế và đã cố gắng nói với con một cách rụt rè và còn do dự quyết
định vào chủng viện và con lại nghĩ : Đã có 31 thanh niên trẻ
thuộc Tu hội chúng con ra đi theo tiếng gọi của Tình yêu, để
bước lên ba bậc nhỏ của bàn thờ, làm một người bình thường, một
Linh mục của Chúa.
Khi đó con nhớ lại tất cả những người đã nói
chuyện với con, dù không ở lâu trong Tu hội của chúng con hay ở
nơi khác. Họ đến với con đơn giản chỉ để chia sẻ niềm vui dạt
dào trong lòng họ.
Thế là thêm một người nữa! Chẳng có gì ngạc
nhiên khi trái tim con ngừng đập trong chốc lát vì vui mừng và
con nhẹ nhàng cất lên câu hát “ Alleluia” khúc hát chỉ có một từ
có lẽ là duy nhất có thể diễn tả được niềm vui vô bờ bến của con
tim đối với Thiên Chúa tốt lành.
Một lần nữa, con lại cảm nhận được mối rung cảm
tuyệt vời của Tình yêu Thiên chức Linh mục ngập tràn tâm hồn con
vì con yêu mến Thiên chức Linh mục và các ngài biết bao, một
tình yêu dạt dào vô bờ bến. Chuỗi ngày sống của con luôn đầy ắp
những lời cầu nguyện cho các ngài, nhưng có lẽ con phải nói rõ
hơn rằng con chỉ cầu nguyện cho tất cả các Linh mục với một lời
cầu nguyện duy nhất: Trong giờ lâm tử các ngài có thể nói chân
thành như thánh Phaolô:” Tôi sống nhưng không còn là tôi sống mà
là Chúa Kitô sống trong tôi”.
Trong khi người thanh niên trẻ kia đang chuẩn bị
hành trang bước vào chủng viện thì con đã mường tượng ra con
đường dài, rất dài mà người ấy phải đi qua trước khi đến ngày
trọng đại: Ngày người thanh niên kia được thụ phong Linh mục.
Con nghĩ đến tất cả những cám dỗ, đến sự vỡ mộng
đến những nghi ngờ sẽ đeo bám người thanh niên ấy vào trong bức
tường Tu viện và đôi khi người thanh niên ấy bị ám ảnh. Trái tim
con ái ngại cho người ấy biết bao ! Con biết rất rõ rằng con
người Linh mục trong tương lai ấy phụ thuộc rất nhiều vào con
người chủng sinh hôm nay.
Hành trình tiến đến đỉnh trời yêu thương của
người thanh niên trẻ kia phải bắt đầu ngay bây giờ, ngay từ
ngày đầu tiên bước chân vào Chủng viện. Bởi đó là một ân huệ lớn
lao mà người đó lãnh nhận. Được gọi tiến lên chức Linh mục luôn
luôn là một ân huệ, nhưng vào thời nay, đặc ân đó phải lớn gấp
hai : Thực vậy, ơn gọi này, ngày nay bao gồm cả sự tử đạo, đau
đớn về thể xác- nỗi thống khổ thuần tuý. Để đáp lại tiếng Chúa
gọi cần phải có một tình yêu mến nồng nàn và sự chuẩn bị tinh
thần kỹ lưỡng và thời gian cho việc đó thì quá vắn vỏi. Chính vì
vậy, hành trình tiến đến đỉnh trời yêu thương cần phải được thực
hiện ngay không được chậm trễ.
Người bạn thanh niên trẻ mến yêu của con có hiểu
được điều đó chăng ? Liệu cậu ấy có biết rằng Chúa Kitô đã sai
chính cậu đến thế gian và sống ở đó đúng như Chúa đã sống, thậm
chí còn khổ hơn thế nữa ?
Người bạn trẻ của con sẽ phải đến với dân ngoại
những người đã nghe Lời nhưng đã bỏ ngoài tai ! Hơn nữa, cậu sẽ
phải đối diện với những con người đã được rửa tội nhân danh Chúa
Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, những người đó không chỉ khước
từ niềm tin vào Thiên Chúa Duy nhất Ba Ngôi mà còn tìm cách
chống phá Thiên Chúa trong tâm hồn những người đồng loại của họ
bằng cách chạy theo thứ chủ nghĩa Vô thần với quan điểm không
tôn giáo của nó, với các môn đồ và những kẻ tử đạo của Ác Thần.
Người bạn thanh niên trẻ tuổi kia sẽ phải đối
mặt với sự lạnh nhạt, thờ ơ, sự tự phụ, sự tục hoá và vật chất
hoá của các tín hữu, những người đã bị con virút xa lạ gây nhiễm
và đang bị hoành hành. Tất cả những điều đó gợi lên một thảm
kịch của những trái bom huỷ diệt hết thảy. Thực vậy, người
thanh niên trẻ được chỉ rõ đến chính đỉnh trời của ơn gọi thánh
thiêng của thiên chức Linh mục vì đã được gọi sống đến tận cùng,
sống cân bằng trong một thế giới đang trên bờ vực thẳm đen tối
nhất chưa từng có trong lịch sử nhân loại.
Chỉ có một giải pháp duy nhất cho những thử
thách trên là : Người chủng sinh phải học ở Chủng viện không chỉ
để trở thành Linh mục mà phải nên thánh, thậm chí nên giống
chính Chúa Kitô ! Chủng sinh cũng cần nhớ rằng mình được lãnh
nhận chức Linh mục là để cho Thế gian. Nếu không có chiên, cần
chi đến chủ chăn ? Thế nên, ngay từ giây phút bước chân vào
Chủng viện, người theo Chúa bắt đầu chết đi chính mình một cách
trọn vẹn, để luôn sẵn sàng từ bỏ thời gian, sức khoẻ và mạng
sống của mình cho những người mà một ngày kia ta dẫn đưa họ về
với Chúa.
Trong khi người thanh niên kia đang chuẩn bị
hành lý, con muốn gợi ý người bạn ấy mang theo mình ít nhất có
thể, để cho ba người bạn : KHÓ NGHÈO, VÂNG PHỤC, VÀ KHIẾT TỊNH
được song hành theo. Đó là những người bạn đòi hỏi ta phải tập
luyện khắc khổ, nhưng không hề nặng nề. Bước chân của những
người bạn ấy nhanh nhẹn và đòi hỏi ta phải có đủ sức mạnh để
theo kẻo bị lạc hướng.
Thực vậy, ngày nay người ta chán ngấy với những
lời nói suông rồi. Thứ chủ nghĩa Vô Thần lôi kéo được nhiều
người theo, bởi vì những người Công giáo chúng ta nói nhiều quá.
Thực tế là chúng ta có nhiều điều để nói, nhưng không phải chỉ
bằng lời nói suông mà phải bằng việc làm cụ thể. Chúng ta cần
phải rao giảng Tin Mừng bằng chính con người cũng như bằng lời
nói của chúng ta. Để người đời có thể tin vào Đấng đã sai người
thanh niên ấy, thì người thanh niên ấy phải biểu lộ cho họ thấy
sự khó nghèo, vâng phục và khiết tịnh của Chúa Kitô, nghĩa là
bạn phải lột bỏ tất cả vì Tình yêu mến Chúa và tha nhân, để có
thể theo Thầy Giêsu đến cùng. Khi đã từ bỏ hết, còn cần đến
nhiều chiếc Vali nữa không ?
Trong khi đọc danh sách những điều kiện cần để
bước vào Chủng viện, con muốn ghi lại một danh sách khác để đưa
cho bạn trẻ ngay hôm bước vào trường.
1. Hãy
mang vào trường tinh thần học hỏi cầu nguyện để thầy có thể dạy
cho những con chiên tương lai của thầy biết cầu nguyện : Lời cầu
nguyện trong Thánh lễ, cầu nguyện suy niệm, cầu nguyện chiêm
niệm, cầu nguyện chia sẻ, cầu nguyện âm thầm và lời cầu nguyện
của Chúa Kitô. Những người khô khan nguội lạnh cần biết cầu
nguyện hơn cả cần cơm ăn nước uống. Họ cần đến những kinh nghiệm
đời sống thiêng liêng của thầy, chứ đâu cần đến những tri thức
sách vở của thầy. Và họ chỉ thực sự học cầu nguyện nếu chính
thầy đã cầu nguyện.
2. Xin
thầy nhớ rằng mỗi người tín hữu bình thường cũng như tất cả các
Kitô hữu khác đều là một nhân vị gồm ba yếu tố không thể tách
rời. Thực vậy, con người chúng ta gồm ba yếu tố tạo nên : Thể
xác, Tinh thần và Linh hồn, và thầy không thể đáp ứng những nhu
cầu của yếu tố này mà không đoái hoài gì đến hai yếu tố kia.
Chính vì vậy, giáo dân đến với thầy -Linh mục tương lai- để giãi
bày những vấn đề của cuộc sống hằng ngày, họ phải đến vì Linh
mục có khả năng chữa lành. Tất cả các vấn đề đó liên hệ đến giá
trị đạo đức, mà thầy là chuyên viên trong lĩnh vực này. Xin hãy
luôn sẵn sàng đón tiếp mọi người với lòng khoan dung. Hãy khuyên
bảo tận tình và kiên nhẫn! Thực vậy, ngoài Linh mục ra còn ai
có thể làm được việc đó ?
3. Với mục
tiêu này, thầy hãy bắt đầu học hỏi và thực hành ngay bây giờ,
không chỉ những lãnh vực chuyên biệt thuộc việc thờ phượng, đạo
đức đang chờ đợi, mà còn cả hiểu biết về xã hội, và những lời
dạy của Hội Thánh. Chớ xem thường việc học hỏi này và chớ cứ
tưởng rằng : thầy có thể lĩnh hội một cách nhanh chóng sau ngày
chịu chức ! Đây thật là một sai lầm tai hại, vì khi đó ( Chúa
giúp cha !) thầy quên mất rằng từng lời nói và mỗi cử chỉ của
Chúa Kitô có ý nghĩa xã hội lớn lao đến nỗi mà đã thay đổi cả
thế giới và còn tiếp tục thay đổi.
4. Xin
thầy nhớ rằng những người bị bỏ rơi, những người nghèo hèn nhất,
đã được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa và tất cả những gì
thầy làm cho những người bé mọn là thầy làm cho chính Chúa Kitô.
Cũng vậy, ở Chủng viện thầy đừng cố công tìm ra những con đường,
những cách thức để « né tránh thực hành đức ái » Đừng để vỡ
mộng và để lỡ những hứa hẹn với các tín hữu ! Không, đừng làm
việc đó, con xin thầy !
5. Thầy
đừng quá hiểu theo nghĩa đen câu ngạn ngữ trên mà đi đến chỗ
tách riêng mình ra. Thực vậy, thầy đã được chọn riêng, nhưng
thầy được tấn phong Linh mục là để ở giữa chúng con, ngay cả khi
thầy không phải thuộc cộng đoàn chúng con. Chớ gì chúng con đựơc
gặp cha thường xuyên ! Được gặp cha là chúng con được lãnh nhận
phép lành, được tăng thêm sự can đảm, được nhắc lại Đấng năm xưa
đã vui vẻ đến ở giữa loài người. Xin hãy cho chúng con dễ gặp
cha : Thực vậy, làm sao cha có thể dẫn chúng con đến với Chúa
Kitô nếu cha chỉ ở trong bốn bức tường nhà cha và chỉ tiếp đón
chúng con theo thời khoá biểu ? Có thể, chúng con sẽ cần đến cha
bất cứ khi nào. Chúa Giêsu xưa không hề định ra giờ tiếp đón
khách, thế sao cha lại có ?
6. Chớ
gì chúng con được nghe tiếng cha, không chỉ ở giảng đài, nhưng ở
bất cứ khi nào. Hãy đến thăm chúng con, ở gia đình cũng như ở
ngoài đường! Hãy nói cho chúng con về Thiên Chúa và những đường
lối của Ngài.
7. Đặc
biệt, cha hãy cất công tìm con chiên lạc. Những người tội lỗi và
những tâm hồn lạc lối phải là mối bận tâm chính của cha. Xin cha
đừng quên rằng cha là chủ chiên của tất cả các con chiên trong
xứ và không chỉ những tín hữu Công giáo không mà thôi ! Như
Postoievski nói : « Chúng ta phải yêu thương một người đến cả
tội lỗi của người ấy, vì chúng ta bắt chước Thiên Chúa Tình Yêu
và đó là tình yêu thương vĩ đại nhất trên thế gian này ».
Đó là vài suy nghĩ của con khi thấy người bạn
trẻ đang sắp xếp đồ đạc ở Nhà Madonna và chuẩn bị cho hành trình
dài trước mặt còn khá bỡ ngỡ này.
Con chầm chậm tiến về ngôi nhà thờ nhỏ màu trắng
nằm bên bờ sông. Con đến quỳ gối lâu giờ trước bàn thờ Đức Mẹ
khấn xin Mẹ biến đổi người thanh niên kia nên giống Chúa Kitô,
để cho thế giới tuyệt vọng chúng con đây có thể đứng dậy và bước
đi khi được chứng kiến người thanh niên trẻ ấy bước đi trong
niềm tin, hy vọng và yêu thương, đến với Thánh Tâm Con của Mẹ và
được chữa lành. Alleluia !!!
|
VỀ MỤC LỤC |
|
Xin Chúa tha thứ cho bạn. |
Tác phẩm: Cầu Nguyện Cá Nhân:
Bí quyết tình yêu và vui sống
Lm. Micae-Phaolô Trần Minh
Huy, pss.
Phần thứ hai
Đối
thoại với Chúa thế nào?
h a i
“Có hai người lên Đền
thờ cầu nguyện: một người Biệt phái và một người thu thuế. Người
biệt phái đứng riêng một mình cầu nguyện rằng: ‘Lạy Thiên Chúa,
tạ ơn Chúa, vì tôi không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính,
ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. Tôi ăn chay mỗi tuần hai
lần, tôi dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của tôi.’ Còn
người thu thuế thì đứng đàng xa, thậm chí chẳng dám ngước mắt
lên trời, vừa đấm ngực vừa thưa rằng: ’Lạy Chúa, xin thương xót
con là kẻ tội lỗi.’ Tôi nói cho các ông biết: người nầy khi trở
xuống mà về nhà thì đã được nên công chính rồi, còn người kia
thì không. Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ
mình xuống sẽ được tôn lên’’(Lc.18:10 - 14).
Nhìn
nhận sự thật
Lòng kiêu ngạo nguy hiểm
nhất của người biệt phái là cho rằng mình hoàn hảo và khinh miệt
‘’người tội lỗi công khai’’, tức là người không che giấu được
lỗi lầm của họ. Bạn có khéo che đậy lầm lỗi của bạn không? Có
những người chỉ trích tấn công khuyết điểm của kẻ khác để che
đậy tội lỗi của họ. Bạn hãy sợ ‘’lối đánh lừa thiên hạ’’ đó và
nghĩ đến hậu quả khi bị lột mặt nạ!
Trái lại, Chúa Giêsu tôn
trọng và đặc biệt yêu thương những người nhìn nhận tội mình. Như
vậy, kiêu ngạo không phải là một tội như những tội khác, mà là
một ‘’tội bình phương’’, vì nó che mắt lương tâm không cho ta
nhìn thấy tội mình. Người kiêu ngạo là người mù và lời cầu
nguyện của y hoàn toàn lầm lạc. Khi ra trước mặt Chúa, y luôn
luôn đặt mình trong vị trí ưu thế, vô tội và do đó không thể xin
ơn tha thứ một cách thành thật được, vì y không biết nhìn nhận
mình là tội nhân.
Người không nhìn nhận
tội lỗi mình không thể nào gặp gỡ Thiên Chúa là Đấng Thánh Thiện
Tuyệt Đối được. Trong một thị kiến, Isaia đã kêu lên: ‘’Khốn cho
tôi, tôi chết mất, vì tôi là một con người miệng đầy nhơ bẩn mà
mắt tôi đã trông thấy Thiên Chúa Hằng Sống’’ (Is. 6: 5). Cả
Phêrô khi khám phá thấy quyền năng của Thiên Chúa nơi Đức Kitô
cũng thốt lên: “Lạy Chúa, xin Ngài tránh xa con, vì con là một
người tội lỗi’’ (Lc. 5: 8).
May mắn thay Thiên Chúa
Chí Thánh cũng là một đại dương của tình yêu, dịu dàng và thương
xót. Ngài hằng đưa tay ra cho tội nhân được an lòng. Ngài mở
rộng vòng tay đón đứa con hoang đàng trở về và ban cho nó mọi
phương tiện để được thanh tẩy. Như thế, nhìn nhận sự thật, trước
tiên là nhìn vào Thiên Chúa, chứ không phải nhìn mình như là
trung tâm điểm.
Rồi dưới cái nhìn của
Thiên Chúa, biết nhìn nhận mình là tội nhân, ngay cả khi không
biết cáo mình về tội gì rõ rệt. Phải khẩn trương chống lại lòng
kiêu ngạo bằng cách hạ mình như người thu thuế. Bạn có nhận xét
thấy thái độ vật lý của người thu thuế khi cầu nguyện không? Ông
ta đứng xa xa, ngay cả không dám ngước mắt lên trời, cúi đầu đấm
ngực mình. Bạn cũng hãy làm như vậy trong khi bạn cầu nguyện, đó
sẽ là một thực tập cải tạo tuyệt vời. Bạn cũng thốt lên cùng
những lời như thế nhiều lần: “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ
tội lỗi.’’ Bạn cũng có thể thêm vào mà không sợ lầm: “Xin thương
xót con là kẻ kiêu ngạo. Xin dạy con bí quyết của khiêm
nhường.’’
Lòng chúng ta như là đáy
sâu hang tối. Sự nhìn nhận sự thật mở ra con đường tha thứ, mang
ánh sáng xuống tận đáy sâu hang tối ấy. Ngọn đèn trên nón nhà
thám hiểm chính là ánh sáng Phúc Âm. Dây an toàn chính là Thánh
Giá đưa đến Phục Sinh của Chúa Giêsu. Mỏ neo đánh bạt mọi chướng
ngại là sự thống hối. Và nhà hướng đạo chuyên nghiệp bảo đảm
chiến thắng là linh mục, thừa tác viên của ơn tha thứ.
Ánh sáng Phúc Âm được
ban cho bạn để bạn ra khỏi mù tối về chính bạn, về Thiên Chúa và
thế giới. Nếu bạn muốn lời cầu nguyện của bạn thực sự là lời cầu
nguyện, bạn hãy không ngừng tìm chân lý Phúc âm.
Vì đang nói tới tội và
ơn tha thứ, tôi lấy thí dụ rất thông thường là có những tội ta
lấy làm khó chịu, có những tội lại không. Tất cả tùy thuộc cái
nhìn kitô của ta. Mê ăn đối với người nầy là tội mà đối với
người khác lại không. Có những người coi cái gì về tính dục cũng
đều là tội, trong khi chẳng bao giờ coi giận hờn và xét đoán kẻ
khác là lỗi nặng. Do đó, điều quan trọng là cần có sự soi chiếu
khách quan, đầy đủ và chính xác. Trong lãnh vực nầy, không gì
tốt hơn là qui chiếu vào Bài Giảng Trên Núi (Mt.5-7). Bạn hãy
đọc ba chương nầy của Phúc âm Matthêu để học biết cái gì đẹp
lòng Chúa, cái gì không đẹp lòng Chúa.
Thánh giá Chúa Kitô là
chổ trung tâm nhất để sống ơn tha thứ. Ở đó, bạn khám phá được
tội lỗi của bạn dẫn tới đâu. Ở đó, bạn chiêm ngắm những gì Chúa
Giêsu đã làm cho bạn, trải qua muôn vàn khổ đau. Bạn hãy năng
đến cầu nguyện dưới chân thập giá, để tội lỗi bạn lại đó mà xin
ơn tha thứ. Càng nhìn Chúa Chịu Đóng Đinh, bạn càng khám phá
thấy sự khủng khiếp của hỏa ngục, đồng thời bạn cũng khám phá
được tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Nhờ sự chiến thắng của
Chúa Phục Sinh, bạn nhận ra bí quyết của tình yêu lớn nhất.
Lòng thống hối cứu ta
khỏi mọi tội lỗi. Nhưng coi chừng, không phải là cứ nhìn vào
gương để rồi bạn tự cảm thấy mãn nguyện hay thất vọng về chính
mình bạn. Có khi bạn tự nhủ: “Tôi hài lòng về tôi, tôi không
thấy tôi xấu như thế, lỗi của tôi chẳng nặng nề chi...’’ Đó là
lương tâm của biệt phái! Có khi bạn lại nói: “Tôi thất vọng lắm,
tôi quá tồi tệ, tôi không ngờ tôi lại như thế, tôi thật xấu
hổ...’’ Đó là lương tâm của Giuđa! Lòng thống hối đích thực chỉ
nói đơn sơ: “Con là kẻ tội lỗi, con không thể chữa mình trước
mặt Chúa. Lòng nát tan, con xin Chúa thứ tha. Con tin tưởng vào
lòng thương xót của Chúa. Con cám ơn Chúa.’’
Linh mục có đó để bảo
đảm cho bạn cách cụ thể ơn tha thứ của Chúa. Qua Bí tích Hòa
Giải, bạn có thể thành công trong việc nhìn nhận đúng sự thật
đời mình. Nhiều người đạt được kinh nghiệm quí báu đó. Hãy khiêm
tốn để được lòng thương xót của Chúa và được biến đổi. Ngay khi
có dịp, bạn hãy đón nhận bí tích trở về mang lại ơn tha thứ giải
phóng ấy.
Đèn
đỏ phải ngừng
Có những người bị ùn
tắc, không thể tha thứ và đón nhận tha thứ. Khi bị người nào
lăng nhục mà bạn nuôi trong lòng một ước muốn báo thù, thì nó sẽ
trở nên một ám ảnh làm cho ký ức bạn bị tổn thương. Nó sẽ đầu
độc các tương quan của bạn với Chúa và với tha nhân. Nó sẽ làm
bạn khựng lại trong việc cầu nguyện, chẳng hạn bạn không thể đọc
cách thành thật được ‘’xin tha thứ những xúc phạm của con, như
con cũng tha thứ cho những ai xúc phạm con’’. Và có thể như thế,
tận đáy lòng, bạn thù ghét Thiên Chúa, bạn thù ghét chính bản
thân bạn, bạn thù ghét mọi người! Hãy coi chừng, đó là đèn đỏ
phải ngừng lại: nguy hiểm của cái chết thiêng liêng!
Ma quỉ rất tài tình
trong việc cầm hãm chúng ta chối từ lòng thương xót Chúa. Nó làm
cho chúng ta bỏ lời cầu nguyện khiêm tốn của mình. Chiến thuật
đầu tiên của nó là ‘’thất vọng trắng’’. Nó đẩy chúng ta đến chỗ
không còn sợ tội, vì Thiên Chúa luôn luôn tha thứ. Tại sao phải
nhọc công? Sớm muộn chi ai cũng được kéo vào trong lưới tình
thương bao la của Chúa. Do đó chẳng cần sửa mình, chẳng cần tìm
ơn tha thứ, chẳng cần khiêm nhường van xin. Xưng tội ư? Không
hợp thời nữa rồi!
Chiến thuật tiếp theo
của nó là ‘’thất vọng đen’’. Nó đẩy chúng ta đến chỗ quá lưu ý
đến tội lỗi, đến đỗi không còn tin vào lòng thương xót của Chúa.
Như Giuđa, chúng ta tự kết án mình, cả đi đến tự vẫn. Thất vọng
trắng hay đen đều là một lời chửi rủa thậm tệ Thiên Chúa. Nó
giam hãm chúng ta trong con người nhỏ bé của mình, đến đỗi không
còn trông cậy vào sự giúp đỡ của những người khác, kể cả của
Đấng Cứu Thế. Đó là sự giam cầm của Hỏa ngục.
Trái lại, Chúa Giêsu đẩy
chúng ta đến ơn tha thứ: “Nếu con tha cho kẻ khác lầm lỗi của họ
thì Cha trên trời cũng tha thứ cho con. Nhưng nếu con không tha
thứ cho người khác thì Cha trên trời cũng chẳng tha thứ cho con
lầm lỗi của con đâu’’ (Mt.6:14-15). Nói khác đi, để nhận được ơn
tha thứ thì cũng phải có thể cho đi sự tha thứ.
Có phải Thiên Chúa tính
toán với bạn: ‘bánh ít cho đi bánh nhụy trả lại’, như người làm
thương mại không? Dĩ nhiên là không. Không có vấn đề tính toán
nhưng là hiệp thông. Tôi lấy thí dụ một đứa trẻ phạm một lỗi
nặng bị mẹ quở trách. Nó bực mình hờn giỗi thu mình trong một
góc. Ít giờ sau, mẹ nó bảo: ‘’Bây giờ là hết, mẹ tha thứ cho
con, con hôn mẹ đi.’’ Nếu đứa bé từ chối lời mẹ và cứ tiếp tục
hờn giỗi thì cái gì xảy ra? Nó không thực sự được tha thứ, mặc
dầu về phía bà mẹ, sự tha thứ đã được cho đi. Sẽ không có gì
thay đổi cho nó, bao lâu nó không chấp nhận tha thứ và được tha
thứ. Cũng cùng một sự như thế với Thiên Chúa.
Như vậy, bạn đừng nghĩ
rằng mình sẽ được tha thứ mà cứ chồng chất tội lỗi. Bạn cũng
không được ngã lòng khi gặp phải khó tha thứ. Điều chính yếu là
mở lòng bạn ra với Chúa, để tự do nói với Ngài những gì bạn
sống, dù chẳng có chi sáng chói. Bạn có thể nói lên tất cả trong
lời cầu nguyện: những niềm vui của bạn, những khổ nhọc của bạn,
những nổi loạn của bạn, những nghi ngờ của bạn, những kêu ca và
những khóc lóc của bạn. Các thánh vịnh đầy dẫy những tình cảm
phàm nhân, từ những tình cảm cao thượng nhất cho đến những tình
cảm thấp hèn nhất. Nhưng những lời nguyện tấn công, hiếu chiến
đừng nhắm vào con người, mà nhắm vào những thần trí sự dữ và các
thứ quỉ: ghét tội lỗi nhưng thương tội nhân.
Bạn cũng có thể than thở
với Chúa, như Chúa Giêsu trên thập giá: “Lạy Chúa, lạy Chúa, sao
chúa bỏ con?” (Tv. 21: 2). Bạn cũng có thể phiền trách Chúa như
Gióp khi bị nghiền nát dưới những đau khổ khủng khiếp mà ông
chẳng hiểu: “’Tại sao Chúa lôi con ra khỏi lòng mẹ?’’ (Job. 10:
18). Thiên Chúa nhẫn nại lắng nghe những lời kêu than đau khổ.
Và khi cay đắng đã được dốc cạn trước mặt Ngài thì sẽ đến sự
ngọt ngào của ơn tha thứ. Lòng thương xót của Chúa vô cùng linh
hoạt hằng theo bạn mọi lúc, để giúp bạn dễ dàng tiến bước đến
‘’bí quyết tình yêu’’. Lòng thương xót Chúa như bà mẹ cảm nhận
trong trái tim mình tất cả mọi tình cảm của đứa con. Ngay khi
bạn nương cậy vào lòng nhân lành của Chúa, bạn sẽ đón nhận cảm
giác an toàn bao la trong nội tâm.
‘’Con chẳng đáng, nhưng...’’
Bí quyết xin Chúa tha
thứ nằm trong phương trình đơn giản nầy: Tha thứ = Khiêm nhường
+ Hy vọng. Con người chúng ta chẳng có công trạng gì, nhưng lại
đắc tội trong mọi sự. Bạn đừng để một phút giây nào mà không
trông cậy tất cả nơi Chúa. Hãy bám chặt lấy lòng thương xót của
Chúa, vì bạn thế nào thì Chúa thương bạn thế ấy. Bạn hãy ngắm
nhìn lòng tin của viên đội trưởng trong Phúc Âm. Chúng ta đọc
lại lời kêu xin của ông trước khi rước lễ: “Lạy Chúa, con chẳng
đáng rước Chúa, nhưng xin Chúa phán một lời thì con sẽ được chữa
lành.’’ Nếu bạn chờ khi nào cảm thấy ‘’xứng đáng’’ để cầu
nguyện, để xưng tội, để rước lễ thì không biết bạn sẽ chờ đến
bao giờ! Ma quỉ là thầy dạy tuyệt hảo về sự xứng đáng, nó khuyên
bạn chạy tìm cho được sự xứng đáng, mà chính nó cũng dư biết
chẳng bao giờ con người có được.
Trái lại, Thần Trí Chúa
Kitô mạc khải cho chúng ta rằng chẳng bao giờ chúng ta xứng đáng
rước Chúa cả. Sự xứng đáng đích thực của chúng ta chính là quên
việc chạy tìm sự xứng đáng ấy để chơi trò ’ai mất thì được’: “Kẻ
nào nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được
nâng lên.’’ Bạn càng muốn thấy loại trừ được hết tội lỗi đời
bạn, bạn càng cảm thấy không xứng đáng vào Nước Chúa. Nhưng bạn
sẽ nhảy mừng vì Chúa cho bạn đầy quà tặng và ban nhưng không cho
bạn tất cả những gì bạn thiếu, để bạn được nên giống Chúa. Vì
chúng ta phải chạy tới mục đích “không phạm tội nữa” (x.1Jn.3,
3-10) là điều “không thể” đối với loài người, nhưng lại “có thể”
đối với Thiên Chúa. Chúng ta hãy để Chúa hành động bằng những
phương thế của Ngài. Bạn hãy thẳng thắn xử sự như thế và làm
sống trong bạn những lời cầu nguyện mạnh mẽ nhất để xin ơn tha
thứ.
Một
lời cầu nguyện khiêm tốn
Bạn thuộc nằm lòng Kinh
Cáo Mình, nhưng bạn có cân nhắc đủ từng chữ không?
“Tôi thú nhận cùng Thiên
Chúa Toàn Năng...’’ Phải, bạn thú nhận tội bạn trước mặt Đấng
mạc khải cho bạn một tình yêu toàn năng có sức tha thứ. Bạn tín
nhiệm vào Chúa. Bạn biết rằng tội bạn sẽ được tha thứ, nếu bạn
ăn năn thống hối trở lại cùng Chúa.
“Tôi nhìn nhận trước mặt
anh chị em rằng tôi đã phạm tội.’’ Bạn chấp nhận không còn biện
minh trước mặt người khác nữa, nhưng thẳng thắn và can đảm thú
nhận tội bạn. Bạn không sợ bị kết án, vì họ là anh chị em của
bạn trong Chúa Kitô. Họ sẽ giúp bạn sửa chữa lầm lỗi của bạn.
“Trong tư tưởng, lời
nói, việc làm và những điều thiếu sót.’’ Cội rễ của tội nằm ở
trong lòng, trong tư tưởng. Xin Chúa tha cho bạn những tư tưởng
xấu mà bạn không muốn xua đuổi đi ngay. Xin Chúa cũng tha cho
bạn những lời nói dối trá, bạo lực, thiếu bác ái mà bạn không
kiểm soát được. Xin Chúa tha cho bạn những hành vi ích kỷ chế
ngự bạn suốt bao tháng ngày. Xin Chúa tha cho bạn biết bao quên
lãng, chia trí, những cơ hội bỏ qua mà bạn đã có thể làm tốt
hơn.
“Vâng, con đã thực sự
phạm tội’’ (đấm ngực). Bạn xác nhận trách nhiệm của bạn. Trước
mặt Chúa, bạn đã đắc tội hơn là nạn nhân. Bạn hạ mình xuống chỗ
rốt hết, hổ thẹn nhưng tin tưởng. Bạn cám ơn Chúa vì đã cho bạn
có thể cậy trông vào sự tha thứ của Chúa.
“Vì vậy con khẩn cầu
cùng Trinh Nữ Maria.’’ Ngoài Chúa Kitô, chỉ có một người vô tội:
“Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội,
khi nầy và trong giờ lâm tử.’’ Cám ơn Mẹ đã cầu nguyện cho chúng
ta là những người tội lỗi.
“Các Thiên Thần và toàn
thể các Thánh.’’ Một sức mạnh bao la giúp bạn chiến thắng tội
lỗi. Được một đạo binh thánh thiện như thế cổ vũ và nhờ ơn Chúa,
làm sao mà lại không hy vọng trở nên tốt hơn được?
“Và anh chị em nữa, xin
khẩn cầu cho tôi trước mặt Chúa.’’ Nếu bạn cậy dựa vào lời cầu
nguyện của anh chị em bạn, thì anh chị em bạn cũng phải cậy dựa
được vào lời cầu nguyện của bạn nữa. Bạn cầu nguyện cùng Chúa
cho các anh chị em tội lỗi của bạn. Xin Chúa giải thoát bạn khỏi
kết án lỗi lầm của anh chị em bạn. Xin cho bạn có một cái nhìn
yêu thương giúp anh chị em bạn biến đổi.
Chúa
nghiêng xuống trên con
Chúa ơi,
Buổi đầu
con cầu nguyện thầm thỉ,
Sợ người ta chú ý.
Rồi con vội chạy đi,
Dần dần rơi
vào quên lãng,
Trong thói quen, trong công việc.
Sức mạnh nào hơn con thúc
đẩy,
Con cầu nguyện, vẫn sợ bị
chú ý.
Nhưng,
Chúa nghe con, mà con không
đáp lại.
Mạnh hơn, con nghe tiếng
Chúa vào tai:
“Con muốn
Cha làm gì cho con?’’
Chúa đã
nghiêng xuống trên con.
Con thấm
đượm tình yêu Chúa,
Con không
còn sợ, vì có Chúa.
Con tìm
nghe Chúa,
Đấng mở cõi
lòng,
Cho con
thích sống,
Đầy tin
tưởng và hy vọng. |
VỀ MỤC LỤC |
|
NGHIỆN RƯỢU |
Rượu là một hợp
chất hữu cơ do sự lên men của tinh bột và đường bằng một loại
men rượu mà thành.
Rượu đã được dùng
từ thuở xa xưa, trong nghi lễ tôn giáo, trong các dịp vui mừng,
cũng như trong đời sống hàng ngày.
Uống vừa phải, rượu
không gây tác hại. Nhưng uống nhiều, rượu có thể đưa tới nghiện
rượu, phụ thuộc vào rượu và có ảnh hưởng xấu cho bản thân, gia
đình và xã hội.
Nghiện rượu có phải là một bệnh không?
Nghiện rượu đã được
coi như một bệnh của cơ thể, giống như các bệnh khác. Có điều
hơi khác, là bệnh nghiện rượu thường lại do chính người bệnh tự
ý gây ra.
Thế nào là Nghiện Rượu?
Nghiện rượu là bệnh
mãn tính trong đó người bệnh bị ám ảnh với rượu và mất sự kiểm
soát về số lượng tiêu thụ.
Họ ở vào tình trạng
đòi hỏi rượu mãnh liệt chẳng khác chi sự đòi hỏi thức ăn, nước
uống.
Họ thường tiếp tục
uống rượu mặc dù đã có những hậu quả trầm trọng về sức khỏe, về
gia đạo, về việc làm, đôi khi có những tác phong, hành động vi
phạm pháp luật.
Không điều trị,
bệnh nghiện rượu sẽ kéo dài suốt cuộc đời và có thể đưa tới tử
vong.
Xin kể các dấu hiệu của bệnh nghiện rượu
Nghiện rượu có các
dấu hiệu như sau:
1- Người bệnh thèm
rượu kinh khủng, luôn luôn ám ảnh với rượu và có nhu cầu uống
vài ly cho đỡ nhớ.
2- Mất tự chủ,
không kiểm soát được lòng mình. Người nghiện sẽ uống rượu mặc dù
đã nhiều lần hứa với người thân và hứa với lòng mình là không
uống nhưng vẫn tiếp tục uống dù biết là đã uống quá nhiều.
3- Phụ thuộc vào
rượu: Khi ngưng hoặc giảm số lượng, người nghiện rượu cảm thấy
trong mình bực bội, khó chịu, ói mửa, đổ mồ hôi, cơ thể run
rẩy, ngáp lên ngáp xuống,
thiếu nhớ rượu.
4- Tăng khả năng
uống: Uống nhiều tới “say xỉn” rồi mà họ vẫn chưa đã cơn ghiền
Họ thường lén lút
uống một mình, không thích thú với công việc thường làm, cảm
thấy nóng nẩy khi tới bữa mà không có rượu, dấu rượu ở nơi mà
chỉ họ biết, đang làm việc cũng
lén lút mở chai
rượu, tu một hơi...
Ai thường hay nghiện rượu?
Nam giới thường
nghiện rượu nhiều hơn nữ giới, tuổi 18-29 nhiều hơn lớp tuổi
trưởng thành hoặc trên 65 tuổi.
Nguyên do nào đưa tới nghiện rượu?
Có nhiều nguy cơ
đưa tới nghiện rượu như di truyền, rối loạn tinh thần, khó khăn
trong công việc làm ăn, gia đạo bất an, áp lực rủ rê của bè bạn,
sự quảng cáo và sự sẵn có của rượu.
Uống nhiều rượu có tác hại gì cho cơ thể không?
Khi mới dùng, rượu
có tác dụng kích thích tinh thần. Nhưng nếu tiếp tục, rượu trở
thành chất làm dịu thần kinh, ành hưởng tới sự suy nghĩ, cảm xúc
và xét đoán.
Tiếp tục uống nữa,
rượu gây tổn thương cho não bộ và các cơ quan bộ phận khác,
người nghiện có thể rơi vào tình trạng hôn mê, tử vong.
Rượu gây ra viêm
gan, xơ cứng gan, viêm loét bao tử, viêm tụy tạng, cao huyết áp,
suy nhược cơ tim, hư hao xương, giảm tình dục, viêm dây thần
kinh ngoại vi, tăng nguy cơ bị ung thư cuống họng, thực quản,
gan và ruột già.
Uống rượu khi mang thai đưa tới khuyết tật cho thai nhi.
Ngoài ra, nghiện
rượu còn đưa tới xáo trộn nếp sống gia đình, ly dị, kém khả năng
làm việc và học hành, tăng tai nạn xe cộ, vi phạm luật giao
thông, nhiều nguy cơ tự tử, giết người.
Có lượng rượu nào an toàn không?
Ðối với người
trưởng thành, uống một lượng rượu vừa phải mỗi ngày có thể tương
đối an toàn.
Vừa phải là một lon
bia 350cc, một ly vang 150cc, một ly rượu mạnh 50cc, hai lần mỗi
ngày cho nam gíới, một lần mỗi ngày cho nữ giới
và người cao tuổi.
Những người sau đây không nên uống rượu:
- Phụ nữ có thai
hoặc dự định có thai
- Người sắp làm
công việc cần sự tỉnh táo, phản ứng nhậm lẹ, khéo léo như lái xe
tự động.
- Người đang uống
thuốc chữa các loại bệnh.
- Người đang bị
bệnh mà uống rượu có thể làm bệnh trầm trọng hơn.
- Người đã được
điều trị và đang hồi phục nghiện rượu
- Thiếu niên dưới
21 tuổi.
Làm sao biết là bị nghiện rượu?
Sau đây là bản trắc
nghiệm để coi có bị nghiện rượu hay không. Xin trả lời 4 câu hỏi
sau đây:
- Có bao giờ cảm
thấy cần phải giảm lượng rượu tiêu thụ?
- Có thấy bực mình
khi bị chỉ trích là nghiện rượu?
- Có bao giờ cảm
thấy hối hận vì tật uống rượu của mình?
- Có bao giờ mới
sáng dậy mà đã phải uống một ly rượu để có tinh thần làm việc?
Trả lời “CÓ” chỉ
một lần thôi thì có thể có vấn
đề với uống rượu.
Nếu “CÓ” trên một
lần, là có nhiều khả năng ghiền và cần đi bác sĩ hoặc chuyên gia
tư vấn để xác định coi có bị bệnh không rồi điều trị.
Nếu trả lời “KHÔNG”
đối với tất cả 4 câu hỏi trên, nhưng khi uống rượu mà gặp khó
khăn trong việc làm, trong giao tế với mọi người, về sức khỏe
hoặc pháp lý, cũng nên tìm sự giúp đỡ. Mình có thể ở trong tình
tạng lạm dụng rượu và sự lạm dụng này cũng có tác hại trên bản
thân và với người khác.
Có chữa dứt được bệnh nghiện rượu không?
Nghiện rượu có thể
chữa được bằng dược phẩm, tư vấn tâm lý, hỗ trợ của gia đình,
bạn bè, xã hội.
Hiệu quả của điều
trị tùy thuộc ý chí người nghiện có thực tâm muốn xa lánh thần
Lưu Linh hay không.
Một số người ngưng
uống hoàn toàn, một số khác uống lại sau một thời gian dài.
Tuy nhiên, với điều
trị, người nghiện rượu kiềm chế được và thời gian kiềm chế càng
lâu thì họ càng dễ dàng ngưng uống.
Phải làm gì nếu muốn chữa bệnh nghiện rượu?
Ðiều kiện tiên
quyết là người nghiện rượu phải thừa nhận mình có vấn đề với
rượu và có nhu cầu giúp đỡ để ngưng uống rượu.
Rồi tìm kiếm nơi
điều trị, hỗ trợ càng sớm thì sự hồi phục càng có nhiều triển
vọng thành công hơn.
Bệnh nhân có thể
đến trung tâm tư vấn về lạm dụng chất gây ghiền, nói chuyện với
một chuyên viên về lãnh vực này.
Họ sẽ hỏi một số
câu hỏi về thói quen uống rượu để xác định coi xem mình có vấn
đề với rượu hay không cũng như trắc nghiệm sự “muốn chừa” rượu
của mình.
Hãy thành thực trả
lời các câu hỏi. Nếu chuyên viên này cho rằng mình có dấu hiệu
nghiện rượu và quyết tâm muốn ngưng, mình sẽ được giới thiệu tới
một trung tâm cai rượu với nhà chuyên môn chữa bệnh nghiện rượu.
Ngoài ra mình cũng
nên tham dự sinh hoạt của các tổ chức hỗ trợ người nghiện rượu
như Alcoholic Anonymous (AA), Al-Anon để cùng chia sẻ khó khăn
và cùng nhau từ bỏ rượu.
Kết luận
Trong sách Quốc Văn
Giáo Khoa Thư - Lớp Sơ Đẳng do Việt Nam Tiểu Học Tùng Thư xuất
bản cách đây trên nửa thế kỷ có tả người say rượu như sau:
“ Các anh hãy trông
người kia đi ngoài đường. Mặt đỏ gay, mắt lờ đờ, quần áo xốc
xếch, chân đi xiêu bên nọ, vẹo bên kia, múa chân múa tay, mồm
nói lảm nhảm. Lũ trẻ đi theo sau, reo cười chế nhạo. Thỉnh
thoảng anh ta lại đứng lại, nói những chuyện gì ở đâu đâu. Người
qua lại ai trông thấy cũng phải tránh xa.
Người ấy vừa ở hàng
rượu ra. Chỉ tham mấy chén rượu mà thành ra say sưa, mất cả tư
cách con người, có khi như con vật vậy, thật là đáng khinh bỉ.
Hỡi các anh, các
anh đã trông thấy người say rượu như thế, thì nên lấy đó làm
gương mà giữ mình.”
Các cụ ta ngày xưa
có nhận xét quá chính xác về tác phong, hành động của người say
sưa nghiện rượu
Bác sĩ Nguyễn Ý-Ðức
Texas-Hoa Kỳ |
VỀ MỤC LỤC |
|
TAM VÒNG,
Chuyện phiếm của Gã Siêu |
Buổi tối, mấy đứa con nít
ngồi cãi nhau chí chóe về vấn đề đờn bà và đờn ông. Một đứa lên
tiếng hỏi :
- Đờn bà bởi đâu mà có ?
- Thì bởi đờn ông chứ còn
bởi ai ?
- Thế đờn ông bởi đâu mà có
?
- Thì bởi đờn bà chứ còn
bởi ai ? Nếu không có đờn bà, thì lấy ai sinh ra đờn ông, không
khéo đờn ông đã tiêu tùng từ lâu.
Và thế là bọn con nít rơi
vào một chiếc vòng luẩn quẩn giữa đờn ông và đờn bà, giữa đờn bà
và đờn ông. Cuối cùng một đứa xem ra có vẻ thông thái đã cất
tiếng nói :
- Đức Chúa Trời đã dựng nên
người đờn ông thứ nhất, rồi từ đó sinh ra người đờn bà thứ nhất
và cứ thế, cứ thế….liên tục phát triển cho đến ngày hôm nay.
Thực vậy, theo sách Sáng
Thế Ký thì thưở ban đầu, Thiên Chúa lấy bùn đất nhào nặn, rồi
thổi hơi vào lỗ mũi mà làm thành người đàn ông đầu tiên, mang
tên gọi là Adong. Sau đó, Ngài thấy Adong sống cô độc lẻ loi và
cu ky một mình thì động lòng thương, bèn chờ lúc Adong ngủ say,
lấy một chiếc xương sườn của chàng mà dựng nên người đờn bà đầu
tiên. Ngài dẫn người đờn bà này tới giới thiệu với Adong. Vừa
nhìn thấy, cặp mắt Adong đã sáng lên long lanh, còn đôi môi thì
hớn hở mừng rỡ mà kêu lên hai tiếng :
- Mình ơi !
Rồi Adong đã đặt tên cho
người đờn bà này là Eva, bởi lẽ nàng là mẹ của chúng sinh. Theo
quan niệm của sách Sáng Thế Ký, thì đờn ông và đờn bà đều được
Đức Chúa Trời dựng nên, bình đẳng với nhau về trách nhiệm cũng
như bổn phận, mặc dù mỗi người đều có một lãnh vực riêng của
mình. Vì thế, một vị thánh nào đó đã diễn tả :
- Đức Chúa Trời đã không
lấy xương sọ mà dựng nên Eva, vì thế bà không được chỉ huy ông.
Ngài cũng không lấy xương gót chân mà dựng nên Eva, vì thế ông
không được đày đọa bà. Nhưng Ngài đã lấy chiếc xương sườn ở cạnh
lái tim mà dựng nên Eva, vì thế ông phải yêu thương bà và bà
phải yêu thương ông.
Ngoài ra, còn rất nhiều
truyền thuyết khác nữa nói về nguồn gốc của người đờn bà. Gã xin
kể ra đây hai truyền thuyết mà thôi.
Truyền thuyết thứ nhất kể
lại rằng :
Thưở ban đầu, người đờn ông
sống trơ trụi một mình. Vừa đơn độc lại vừa buồn phiền. Thượng
đế lấy làm tội nghiệp. Ngài bèn dùng một chút dịu dàng của hoa
lan, một chút xinh đẹp của hoa hồng và một chút tinh khiết của
hoa huệ. Tất cả được trộn lẫn với nhau, nhưng chưa đủ. Ngài còn
hòa vào đó một chút tinh ranh của con khỉ già, một chút độc ác
của con rắn hổ mang và một chút hung dữ của con sư tử. Tất cả
được quyện lẫn với nhau mà làm nên người đờn bà. Thượng đế trao
người đờn bà ấy cho người đờn ông. Kể từ đó, người đờn ông không
còn trơ trụi một mình nữa.
Nhưng rồi vào một buổi sáng
u ám, người đờn ông bỗng cảm thấy không còn chịu đựng nổi sự
tinh ranh, độc ác và hung dữ của người đờn bà, nên đã trả nàng
lại cho Thượng đế. Thế nhưng, cuộc ly hôn đầu tiên này diễn ra
chưa được một tuần trăng, thì người đờn ông bỗng cảm thấy nhớ
day nhớ dứt vẻ dịu dàng, xinh đẹp và tinh khiết của người đờn
bà, nên đã xin Thượng đế cho mình được lấy lại. Và từ đó, họ
sống hạnh phúc với nhau.
Truyền thuyết thứ hai kể
lại rằng :
Sau khi dựng nên núi đồi và
biển cả, cây cối và muông thú, cuối cùng Thượng đế mới hoàn tất
tác phẩm tuyệt vời của mình, đó là là người đờn ông với tên gọi
là Adong. Bấy giờ, Adong đi lang thang hết chỗ này đến chỗ kia,
nhưng luôn cảm thấy trống vắng. Một buổi sáng, Adong dừng chân
bên hồ, chàng mừng rỡ khi nhận ra bóng mình in trên mặt nước. Và
thế là chàng bèn nhảy xuống để ôm lấy chiếc bóng mình trong vòng
tay, nhưng không thể được. Chàng buồn bã ngồi thinh lặng dưới
gốc cây và than thở cùng Thượng đế về sự trống vắng. Thượng đế
liền trả lời :
- Thôi được, hãy dẫn Ta tới
hồ nước.
Thượng đế nắm lấy chiếc
bóng của Adong trong lòng bàn tay, thổi vào đó một luồng sinh
khí. Và thế là một người đàn bà đẹp hết ý mang tên gọi là Eva
bỗng xuất hiện. Nàng chớp chớp đôi mắt và khẽ nói :
- Tôi hiện hữu hay không
hiện hữu ?
Thượng đế mỉm cười và bảo :
- Đây là quy luật của muôn
đời : khi con ở cạnh người đờn ông, thì con hiện hữu. Trái lại,
khi vắng bóng chàng, con sẽ không còn hiện hữu nữa.
Từ những truyền thuyết
trên, gã nhận thấy bàn dân thiên hạ cũng đã dành cho người đờn
bà một sự trân trọng đáng kính nào đó và nàng trở thành một con
người không thể thiếu vắng cho phe đờn ông con giai. Thế nhưng,
trải qua dòng thời gian, phe đờn ông con giai đã lờ tít và cố
tình quên đi sự trân trọng đáng kính ấy, để rồi ỷ vào sức mạnh
trời cho, mà đày đọa cánh đờn bà con gái. Từ đông sang tây, cũng
như từ cổ chí kim, họ đã nhìn cánh đờn bà con gái bằng nửa con
mắt.
Thực vậy, ở phương tây có
những kẻ muốn trút tất cả mọi tội lỗi lên đầu cánh đờn bà con
gái. Theo họ : khi cánh đờn bà con gái chưa xuất hiện trên mặt
đất này, thì phe đờn ông con trai sống rất ư là thoải mái, vui
vẻ và đầm ấm. Thế nhưng, khi cánh đờn bà con gái vừa xuất hiện,
thì lập tức có ghen ghét và vu cáo, bạo loạn và chiến tranh. Và
cũng theo họ : lòng dạ đờn bà con gái thì vô cùng hiểm độc và
nhan sắc của họ dễ làm cho phe mày râu chìm đắm.
Các triết gia như Anaxilas
thì khẳng định : hùm beo, rắn độc, quái vật, sư tử…bao nhiêu thứ
ấy là cái quái gì chứ ? Chẳng là cái thá gì cả trước đờn bà con
gái. Phutarque thì nhẹ nhàng hơn, nhưng cũng đầy khinh bỉ : Khi
các ngọn nến được thổi tắt, thì tất cả đờn bà con gái đều xinh
đẹp cả.
Các nhà văn, chẳng hạn như
Somerset Maugham đã lập luận như sau :
- Vì cớ làm sao những người
đờn bà xinh đẹp đều lấy những người đàn ông tầm thường ? Xin
thưa rằng những người đàn ông thông minh sẽ chẳng bao giờ chịu
lấy những người đờn bà xinh đẹp cả.
Georges Courteline thì than thở :
- Những gì mình làm cho đờn bà con gái thì
họ quên rất mau, còn những gì mình không làm cho họ thì họ lại
nhớ mãi nhớ hoài. (Kiến thức ngày nay số 43).
Ý thức được sự bất công và địa vị yếu kém
của mình, cánh đờn bà con gái đã đoàn kết lại để đấu tranh,
thiết lập những phong trào, nào là phụ nữ đòi bình đẳng, nào là
phụ nữ đòi quyền sống và ngay cả phụ nữ đòi quyền…sướng nữa. Thế
nhưng, xem ra tình trạng mới chỉ sáng hơn được một chút xíu mà
thôi.
Ông Nguyễn Thanh Long, trong một bài viết
trên báo “Công giáo và Dân tộc” đã cho biết những nét đại cương
như sau :
Hiện nay, đờn bà con gái chiếm ít nhất 50%
dân số nhân loại. Theo một cuộc điều tra của Liên Hiệp Quốc được
công bố năm 1999, thì chẳng có quốc gia nào đối xử với nữ giới
bình đẳng với nam giới. Trên trái đất, có 1,3 tỷ người sống
trong tình trạng cực kỳ nghèo đói, thì đờn bà con gái chiếm tới
70%. Tổng trị giá của những công việc đờn bà con gái phải làm mà
không có lương được ước tính khoảng 11.000 tỷ đô la Mỹ mỗi năm.
Số lượng đờn bà con gái đi làm có lương chỉ là 1/3 so với đờn
ông con giai. Số tiền lương họ được lãnh chỉ bằng 10% tổng quỹ
lương. 50% nhân loại ấy chỉ đứng tên sở hữu 1% tài sản trên thế
giời!
Trong lãnh vực chính trị, sự hiện diện của
đờn bà con gái lại còn quá thấp. Tại Pháp, quốc hội hiện nay chỉ
có khoảng 60 nữ trên tổng số 577 đại biểu, tỷ lệ 10,2%. Mỗi khi
một nhân vật nữ được bàu vào một chức vụ cao, thì đó là một “sự
lạ cả thể” và được bàn dân thiên hạ nhìn bằng một cặp mắt nghi
ngờ.
Trong phạm vi tôn giáo, một vị thánh nổi
tiếng là Âu Cơ Tinh cũng đã khẳng định đờn bà con gái thấp kém
hơn đờn ông con trai. Vì thế, họ không được tham gia vào những
hoạt động về xét xử hay giảng dạy trong Giáo hội. Thậm chí theo
truyền thuyết còn có cả một công đồng, trong đó các nghị phụ đã
tranh cãi về vấn đề đờn bà con gái có linh hồn hay không ?
Còn tại nước Đức, phe đờn ông con giai đã
gọi cánh đờn bà con gái là người của 3K : Kinden tức là con nít,
Kuchen tức là bếp núc và Kirch tức là nhà thờ. (Công giáo và Dân
tộc số 1447).
Trong kinh Coran, Đức Mahomet đã truyền dạy
các tín đồ đực rựa như sau : Đờn bà con gái là một mảnh đất đã
được cày sẵn, các con cứ việc đến đấy, tha hồ mà trồng cấy.
Còn ở phương đông như tại Việt Nam, do ảnh
hưởng nặng nề của Khổng giáo, trải qua nhiều thế kỷ chủ trương
trọng nam khinh nữ tha hồ mà tung hoành trong xã hội. Người ta
cho rằng :
- Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô. Sinh
được một cậu con giai thì đã kể là có, trong khi đó sinh được
mười cô con gái, thì vẫn kể là không.
- Trai năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên
chỉ có một chồng.
Chỉ người đờn ông mới là chủ gia đình và
được trọng kính. Thực vậy, trong nhà khi các bà muốn đưa cho
chồng cái gì thì cũng phải để trên bàn chứ không đưa tận tay.
Nam nữ thọ thọ bất thân. Không thể có chuyện nắm tay hay bá vai
bá cổ. Lại càng không thể có chuyện vuốt ve hôn hít nhau chùn
chụt trước mặt bàn dân thiên hạ. Đặc biệt trong xã hội ngày xưa,
đờn bà con gái còn phải giữ tam tòng tứ đức. Tam tòng, tức là ba
chữ tòng : tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử.
Ở nhà thì phục tùng cha, lấy chồng thì phục tùng chồng, chồng
chết thì phục tùng con. Còn tứ đức, tức là bốn nhân đức : công
dung ngôn hạnh. Khéo tay làm lụng, nét mặt đoan trang, ăn nói
lịch sự và tính tình nết na.
Theo linh mục Thiện Cẩm : Ngày nay, thế
gian bỗng tự nhiên ra khác, ngay ở nước ta, nam nữ cũng trở nên
thọ thọ…rất thân, nắm tay, ôm eo, tựa vai, bá cổ. Có người bảo
phụ nữ ngày nay chỉ nghĩ đến “tam vòng tứ sắc”. Tam vòng là
vòng ngực, vòng eo và vòng mông. Tứ sắc là nét đẹp của khuôn
mặt, của bộ ngực, của áo quần và của cặp giò. Còn chuyện tam
tòng tứ đức là chuyện đã quá “đát” từ lâu.
Hôm nay, gã xin mượn những gợi ý trên để
bàn rộng và tán dài về chuyện tam tòng cũng như tam…vòng!
Trước hết là chuyện tam tòng mà ngày xưa,
cánh đờn bà con gái phải tuyệt đối tuân giữ.
Thứ nhất, tại gia tòng phụ, có nghĩa là khi
còn sống ở nhà thì phải phục tùng và vâng lời người cha, bởi vì
người cha là cột trụ của gia đình. Đây là điều dễ hiểu và dễ
chấp nhận, bởi vì cha mẹ có bổn phải phải giáo dục con cái và
con cái có bổn phận phải vâng lời cha mẹ :
- Mẹ dạy thì con khéo, bố dạy thì con khôn.
- Cá không ăn muối cá ươn,
Con cưỡng cha mẹ trăm đường con hư.
Thứ hai, xuất giá tòng phu, đi lấy chồng
thì phải phục tùng và vâng lời chồng. Đây là một quan niệm cần
phải xét lại, bởi vì nó đã làm nảy sinh ra những lạm dụng khó mà
chấp nhận. Thực vậy, người chồng trong xã hội phong kiến thường
được coi như là một ông chủ. Vì thế, hễ ông ta mở miệng phán ra
điều gì, thì vợ con trong nhà đều phải cúi đầu răm rắp nghe
theo, chẳng được phép ý kiến ý cò gì sốt.
Phu xướng phụ tùy. Từ đó, ông ta sẽ thừa
thắng xông lên mà đi tới chỗ độc tài, độc đoán và cả…độc ác
nữa. Ông ta sẽ mang lấy đầu óc “gia trưởng” và đối xử theo
kiểu “chồng chúa vợ tôi”. Lời nói của ông ta cộc lốc như dùi
đục chấm mắm tôm : Tiên sư cái con mẹ mày. Hành động của ông ta
mang nặng tính cách vũ phu và bạo lực. Ông ta không ngần ngại
“thượng cẳng chân hạ cẳng tay”. Như cầu thủ ghi bàn thắng, ông
ta hăng tiết vịt sút một phát cho bà vợ lọt thỏm vào tủ áo mỗi
khi cần ưu ái dạy bảo điều gì, như trái banh lọt thỏm vào khung
thành, hay cầu môn chi đó.
Gã đã từng thấy có những ông chồng đòi hỏi
bà vợ phải phục dịch cơm bưng nước rót cho mình. Thậm chí đến
bữa ăn, mình ông ngồi chễm chệ một mâm. Tội nghiệp cho bà vợ
suốt ngày phải tần tảo buôn thúng bán mẹt, nhặt từng cọng rau
muống đem ra chợ với hy vọng kiếm được tí tiền còn, mua lấy một
xị rượu và một chút thịt lợn mà cung phụng cho đức ông chồng của
mình được thập phần béo tốt.
Thứ ba, phu tử tòng tử, khi chồng chết thì
theo con. Đây cũng là điều tương đối dễ hiểu và dễ chấp nhận,
bởi vì người đờn bà lúc bấy giờ nghiễm nhiên đã trở thành một
người mẹ, và không chừng cũng đã mang nặng tí tuổi đời. Một khi
chồng chết thì biết theo ai nếu không phải là theo những người
con mình đã mang nặng đẻ đau, đã chắt chiu nuôi dưỡng. Hơn thế
nữa, chính những người con này cũng có bổn phận phải thảo hiếu
đối với người mẹ của mình.
Cái sự phu tử tòng tử ở đây xem ra còn có
vẻ nhẹ nhàng và nhân đạo hơn tập tục tại nhiều nơi trên thế
giới. Chẳng hạn, nếu gã nhớ không lầm, trong cuốn “Vòng quanh
thế giới 80 ngày”, Jules Verne cho hay tại một vài nơi bên Ấn
Độ, khi người chồng qua đời thì các bà vợ sẽ bị thiêu sống để
được theo hầu đức phu quân của mình nơi chín suối!!!
Tuy nhiên, theo lời của linh mục Thiện Cẩm
thì : Ngày nay thế gian bỗng tự nhiên ra khác, chuyện tam tòng
là chuyện quá “đát” từ lâu, xưa rồi Diễm ơi!
Thực vậy, trong tương quan với cha mẹ : con
cái bây giờ thuộc vào thế hệ vi tính, nên cha mẹ khó mà dạy bảo.
Nếu có răn đe điều gì, thì liền bị chúng kê tủ đứng :
- Mấy ông mấy bà…già rồi, rõ thật lẩm cẩm,
thời bây giờ mà còn như vậy ư ?
Và cha mẹ cũng đành phải bó tay. Chẳng hạn
như việc hôn nhân : Ngày xưa thì cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy,
còn bây giờ thì con cái đặt đâu thì cha mẹ xin vui lòng…ngồi
đấy. Chẳng hạn việc giao tiếp : Ngày xưa thì nam nữ thọ thọ bất
thân, còn bây giờ thì nam nữ thọ thọ…rất thân, để rồi đi tới
chỗ nam nữ cọ cọ rất ư là….giật gân.
Trong tương quan vợ chồng : đờn bà con gái
bây giờ đang lăm le nhảy vào lãnh vực xã hội, thành thử gã phải
đổi lại câu thơ của Tú Xương. Thay vì :
- Việc nhà phó mặc cho bu nó.
Thì bây giờ sẽ phải là :
- Việc nhà phó mặc cho bố nó.
Và theo định luật về thị trường, anh nào có
tiền, thì anh ấy sẽ nắm quyền. Chữ tiền liền với chữ quyền một
vần. Khi chị vợ đã làm ra tiền, nắm hào bao và quyết định ngân
sách, thì sẽ chi phối mọi sinh hoạt trong gia đình. Lúc bấy giờ,
sẽ có một cuộc thay ngôi đổi chủ. Anh chồng chỉ còn nước âm thầm
vào bếp, như chó cụp đưôi, làm bạn với nồi niêu xoong chảo, chổi
cùn rế rách mà thôi.
Một khi tam tòng của Nho giáo đã bị xếp vào
ngăn kéo dĩ vãng vì quá “đát’ và xưa rồi Diễm ơi, thì cũng theo
như lời diễn tả trên, đờn bà con gái bây giờ lại chăm chăm chú
chú mà lo cho cái khoản “tam vòng”, tức là ba cái vòng trên cơ
thể mình.
Viết đến đây, gã bỗng nảy ra một “théc
méc”, đó là không biết từ bao giờ cái ông khỉ gió nào đó đã có
sáng kiến công bố cho bàn dân thiên hạ được biết số đo ba vòng
của những thí sinh trong các cuộc thi hoa hậu. Coi đó như một
trong những chuẩn mực để phán xét về sắc đẹp, khiến cho cánh đờn
bà con gái phải lao đao vất vả, xấc bấc xang bang, tốn phí không
biết biết bao nhiêu tiền bạc và công sức, để cái thì được phình
ra, còn cái thì được tóp lại, theo đúng tiêu chuẩn quốc tế ISO,
cũng chỉ vì muốn làm người đẹp mà thôi.
Vòng số một, tức là vòng ngực. Thực vậy,
Thượng đế trao ban cho cánh đờn bà con gái bộ ngực là để cung
cấp sữa mà nuôi con, như các cụ ngày xưa đã bảo :
- Đờn ông không râu bất nghì,
Đờn bà không vú, lấy gì nuôi con.
Bộ râu làm nên nét oai phong của người đờn
ông thế nào, thì bộ ngực cũng làm nên vẻ quyến rủ của người đờn
bà như vậy. Vì thế, ngày nay nhiều bà nhiều cô đã phe lờ cái
nhiệm vụ cung cấp sữa để nuôi con, mà chỉ chuyên trị làm đẹp cho
bộ ngực của mình.
Thực vậy, mặc dù các bác sĩ và các nhà
chuyên môn luôn quảng bá sữa mẹ là một thức ăn không thể thiếu
cho con trẻ, nào là đề kháng được nhiều chứng bệnh, nào là có đủ
chất dinh dưỡng…Thế nhưng, chỉ vì không muốn cho bộ ngực của
mình bị xệ xuống, nên không thiếu những bà mẹ chả chịu cho con
bú, cứ việc ra ngoài chợ, lôi về đủ mọi thứ sữa, từ sữa tươi cho
đến sữa đặc có đường, từ sữa bột cho đến sữa hộp, từ sữa cô gái
Hà Lan đến sữa ông già, từ sữa có nhãn hiệu trình tòa đến những
loại sữa chui và trôi nổi…thôi thì thiên hình vạn trạng, đến quỷ
thần cũng chẳng đếm nổi trên thị trường hiện nay có bao nhiêu
thứ sữa. Có những người đã bị đi tàu suốt về chầu Diêm Vương,
chỉ vì ham rẻ mà dùng những loại sữa chui và trôi nổi ấy.
Vì vòng số một là nơi cần phải làm phình
ra, nên khoa giải phẫu thẩm mỹ đã nhảy vào vòng chiến, cứu một
bàn thua trông thấy cho những bà những cô chẳng may có bộ ngực
lép xẹp. Người ta mổ ngang, xẻ dọc rồi đặt vào trong đó chất
“silicone”, làm cho bộ ngực phình to ra bao nhiêu cũng được.
Miễn là đạt mục đích, sau này lỡ có bị ung thư, thì cũng…hạ hồi
phân giải.
Nếu ngại giải phẫu, người ta có thể nhờ
trang phục trợ giúp, nào là những chiếc yếm hững hờ, nào là
những chiếc nịt ngực, những chiếc “cọc xê” được độn được lót
cách này hay cách khác để che lấp cái kích thước bé tẻo bé teo
của bộ ngực mình.
Tiếp đến, vòng số ba tức là vòng mông. Đây
cũng là nơi cần phải làm cho phình ra như vòng số một, nên gã
xin miễn bàn tới để được tiếp nối ngay bằng vòng số hai tức là
vòng eo.
Với cơn bệnh béo phì ngày càng liên tục
phát triển, thì vòng eo đã trở nên một nỗi ám ảnh cho nhiều
người. Báo Le Monde số 2884 cho hay : Trung tâm dự phòng bệnh
tật Mỹ cảnh báo bệnh béo phí sắp dành ngôi vị giết người hàng
đầu, vượt qua thuốc lá. Mỹ ước tính có 130 triệu có thể trọng
vượt mức, trong đó có 59 triệu béo phì. Trung Quốc hiện có 300
triệu người quá mập, trong đó có 30 triệu bép phì. Khi vòng eo
tăng trưởng vượt vòng ngực và vòng mông, thì nguy cơ bị tiểu
đường và tim mạch cũng gia tăng. Vòng eo nam giới vượt quá 1,00m
và nữ giới vượt quá 0,80m là dấu hiệu béo phì, cũng như là dấu
chỉ phát tướng vòng eo. (CGVDT số 1449).
Trái với vòng số một và vòng số ba là những
nơi cần phải làm cho phình ra, thì vòng số hai lại là địa điểm
cần phải làm cho tóp lại. Lý tưởng của vòng số hai chính là cái
eo của con ong. Thế nhưng, đối với nhiều bà nhiều cô, nó lại cứ
phình ra mới chết không cơ chứ. Lý do phình ra như thế, có thể
do chứng béo phì và cũng có thể do…trục trặc kỹ thuật ngoài ý
muốn.
Trước hết, để thực hiện cái lý tưởng “eo
con ong”, cũng như để chống lại tình trạng phát tướng do sự béo
phì gây nên, người ta đã phải dùng tới nhiều biện pháp. Nào là
tập thể dục như đi bộ, đi xe đạp, hay bơi lội mỗi ngày, nghĩa là
thân thể phải vận động. Nào là kiêng ăn kiêng uống, áp dụng một
chế độ ẩm thực vô cùng nghiêm khắc. Những biện pháp này đòi hỏi
phải kiên nhẫn nhiều lắm, bằng không thì chỗ cần phình thì lại
tóp, còn chỗ cần tóp thì lại phình. Thật là tréo cẳng ngỗng.
Ngoài ra, người ta cũng có thể nhờ trang
phục trợ giúp phần nào. Nếu gã không lầm thì “mô đen” áo dài
Việt Nam vào thập niên sáu mươi : cổ phải cao có khi hơn một
tấc, eo phải thắt ngẫng như eo con ong. Vì thế, người ta đã khéo
léo luồn vào phía trong áo một sợi dây nhỏ cùng màu và sau khi
mặc, người ta sẽ thắt chặt sợi dây ấy để tạo nên một cái eo rất
là….ấn tượng, trên cả tuyệt vời.
Tiếp đến, có những trường hợp vòng số hai
bỗng dưng phình ra, một cách bất đắc dĩ và ngoài ý muốn, hoàn
toàn không phải do chứng béo phì, nhưng do một trục trặc kỹ
thuật nào đó. Chẳng hạn như cái tật ăn cơm trước kẻng, anh chị
vụng trộm với nhau hay thử cho biết vị ngọt đắng của tình yêu,
để rồi một buổi sáng bỗng thấy vòng eo phình ra và những ngày
sau đó lại liên tục phình ra một cách vô tổ chức, vượt ngoài chỉ
tiêu. Lúc ấy chỉ còn biết mếu máo và khóc lên, như người ta hay
phịa ra mà hát :
- Anh ơi, nếu bụng em…phình thì sao ?
Nhưng đừng dại đột :
- Đi mua thuốc chuột uống cho rồi đời!!!
Bởi đó, đừng “khôn ba năm dại một giờ”, vì
vui sướng của tình yêu có thể chỉ kéo dài trong thoáng chốc,
nhưng khổ đau của nó sẽ kéo dài bằng cả cuộc đời :
- Đờn ông bụng…bự thì sang,
Đờn bà bụng…bự tan hoang cuộc đời.
Chỉ có ba cái vòng, mà sao lại nhiêu khê
rắc rối quá vậy. Gã cũng đành bó tay chào thua.
Gã Siêu
gasieu@gmail.com
|
VỀ MỤC LỤC |
|
- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến,
bài vở..., xin gởi về địa chỉ
giaosivietnam@gmail.com
- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục
vụ của Giáo sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các
Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn
gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực
Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh
vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức
Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và
Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quy vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại
www.conggiaovietnam.net
Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị
Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã
sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác
nhau.
TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca
Phạm Quốc Sử
USA
|
|
*************
|
|