Ðời Sống Cộng Ðoàn Chính Trị |
Thánh Công Ðồng Chung Vaticanô II
Hiến Chế Mục Vụ Về Giáo Hội
Trong Thế Giới Ngày Nay
Gaudium Et Spes
Bản dịch Việt Ngữ của Giáo Hoàng Học
Viện Piô X
Prepared for Internet by Vietnamese
Missionaries in Asia
Phần Thứ Hai
Chương IV
Ðời Sống Cộng Ðoàn Chính Trị
85*
73. Ðời sống cộng đoàn ngày nay.
Thời đại chúng ta đã được đánh dấu bằng những biến đổi sâu rộng
ngay trong cơ cấu và các tổ chức của các dân tộc. Những biến đổi
này chính là kết quả của tiến bộ về văn hóa, kinh tế và xã hội.
Những thay đổi này ảnh hưởng nhiều đến đời sống của cộng đoàn
chính trị, nhất là trong những vấn đề liên quan tới quyền lợi và
bổn phận của mọi người trong việc hành xử quyền tự do công dân
và theo đuổi công ích, cũng như trong vấn đề điều hòa những mối
tương quan giữa các công dân với nhau cũng như với chính quyền.
Nhờ ý thức mãnh
liệt hơn về phẩm giá con người, ngày nay tại nhiều nước trên thế
giới, người ta cố gắng thiết lập một thể chế chính trị pháp lý
để bảo vệ hữu hiệu hơn quyền lợi của cá nhân trong đời sống công
cộng, chẳng hạn quyền được tự do hội họp, tự do lập hội, tự do
phát biểu ý kiến và tự do tuyên xưng tín ngưỡng cách riêng tư
hoặc công khai: vì việc đảm bảo những quyền lợi của con người là
điều kiện thiết yếu để người công dân, với tư cách cá nhân hay
đoàn thể, có thể tham gia cách tích cực vào đời sống và vào
guồng máy quốc gia.
Song song với
tiến bộ về văn hóa, kinh tế và xã hội, nhiều người còn khao khát
mãnh liệt muốn đảm nhận một phần lớn trách nhiệm trong việc tổ
chức cộng đoàn chính trị. Nhiều người đã ý thức được mối quan
tâm mỗi ngày một lớn là phải bảo vệ quyền lợi của các dân tộc
thiểu số trong một quốc gia, nhưng không vì thế mà làm cho các
thành phần thiểu số ấy xao lãng bổn phận của họ đối với cộng
đoàn chính trị. Hơn nữa, càng ngày người ta càng tôn trọng những
người có tư tưởng hay tôn giáo khác với mình. Ðồng thời một sự
cộng tác rộng rãi hơn cũng được thiết lập để mọi công dân có thể
thực sự được hưởng những quyền lợi của con người chứ không riêng
gì một số người được ưu đãi.
Trái lại, người
ta lên án bất cứ thể chế chính trị nào, như hiện có ở một vài
nước, nếu nó ngăn chặn tự do công dân hoặc tôn giáo, nếu nó làm
gia tăng con số nạn nhân của tham lam và của tội ác chính trị,
nếu nó làm cho việc cai trị đi lệch đường, thay vì mưu cầu công
ích lại phục vụ cho một tập đoàn hay chính những người cầm
quyền.
Ðể xây dựng một
đời sống chính trị thực sự nhân đạo,
86* không gì tốt hơn là gây nơi thâm tâm mỗi người ý
thức về công bằng, lòng nhân ái, và tinh thần phục vụ công ích.
Cũng không gì tốt đẹp hơn là củng cố nơi mọi người những xác tín
căn bản về bản chất thích thực của cộng đoàn chính trị cũng như
về mục đích, về việc thi hành đúng và về những giới hạn của công
quyền.
74. Bản chất và mục đích của cộng đoàn
chính trị. Cá nhân, gia đình và tập thể, tức là
mọi thành phần của cộng đoàn công dân, đều ý thức rằng tự sức
mình không một thành phần nào có thể xây dựng được một đời sống
thực sự nhân bản, và đều nhận thấy cần phải có một cộng đoàn
rộng lớn hơn, trong đó tất cả mọi người hằng ngày hợp lực để mưu
cầu công ích mỗi lúc một tốt đẹp hơn
1. Do đó họ thành lập nên cộng đoàn chính trị dưới
nhiều hình thức khác nhau. Vì thế cộng đoàn chính trị chỉ hiện
hữu là vì công ích. Chính công ích là lý do tồn tại, ý nghĩa và
là căn bản pháp lý cho cộng đoàn chính trị. Công ích nói đây bao
gồm tất cả những điều kiện của đời sống xã hội; nhờ những điều
kiện này, cá nhân, gia đình và đoàn thể có thể triển nở cách
trọn vẹn và dễ dàng hơn
2.
Tuy nhiên,
trong một cộng đoàn chính trị gồm nhiều người thuộc đủ mọi thành
phần, do đó họ có thể có nhiều quan điểm khác nhau một cách
chính đáng. Vì mỗi cá nhân đều bênh vực quan điểm riêng của
mình, nên để tránh cho cộng đoàn chính trị khỏi tan rã, thì cần
phải có một quyền bính để hướng dẫn nỗ lực của mọi công dân nhằm
tới công ích. Không phải hướng dẫn cách máy móc hay độc đoán,
nhưng tiên vàn như một sức mạnh tinh thần dựa trên tự do và ý
thức về nghĩa vụ và trách nhiệm.
Ðã hẳn cộng
đoàn chính trị và công quyền xây nền tảng trên bản tính con
người, cho nên cũng nằm trong trật tự do Chúa an bài, nhưng việc
định đoạt một thể chế chính trị hay cắt cử người cầm quyền vẫn
là quyền tự do của mọi công dân
3.
Cũng thế, việc
hành xử quyền bính chính trị trong chính cộng đoàn hoặc trong
các cơ quan đại diện cho quốc gia luôn luôn phải nằm trong giới
hạn của trật tự luân lý để đem lại kết quả và mưu cầu công ích -
công ích ở đây phải hiểu cách năng động - tùy theo trật tự pháp
lý đã hoặc sẽ được thiết lập cách hợp pháp. Trong trường hợp đó
mọi công dân buộc phải theo lương tâm mà tuân phục
4.
87* Và do đó, những người lãnh đạo đương nhiên có
trách nhiệm, có thế giá và có uy quyền.
Tuy nhiên, khi
công quyền vượt quá quyền hạn của mình mà đàn áp công dân, thì
lúc đó chính công dân cũng không nên từ chối những gì khách quan
xét thấy phù hợp với đòi hỏi của công ích. Nhưng họ được phép
bênh vực quyền lợi của riêng mình cũng như của đồng bào chống
lại những lạm dụng của công quyền, tuy nhiên phải tôn trọng
những giới hạn của luật tự nhiên cũng như luật Phúc Âm.
Những phương
thức cụ thể mà mỗi cộng đoàn chính trị áp dụng để tổ chức cơ cấu
và phân phối quyền hành có thể khác nhau tùy đặc tính và bước
tiến lịch sử của mỗi dân tộc. Dầu sao những phương thức này phải
luôn luôn nhằm đào tạo cho con người có văn hóa, yêu chuộng hòa
bình và có lòng yêu thương đối với mọi người để giúp ích cho
toàn thể gia đình nhân loại.
75. Sự cộng tác của mọi người trong đời
sống cộng đoàn. Thiết lập những cơ cấu chính trị
pháp lý là điều phù hợp với bản tính con người, vì nhờ đó tất cả
mọi công dân, không phân biệt ai, có thể mỗi ngày một có cơ hội
tham gia cách tự do và tích cực vào việc thiết lập nền tảng pháp
lý của cộng đoàn chính trị, tham gia vào việc điều hành quốc gia
và xác định mục tiêu và phạm vi của những cơ quan khác nhau cũng
như tham gia vào việc lựa chọn người cầm quyền
5. Vậy mọi công dân cần phải nhớ tới quyền lợi và đồng
thời là bổn phận của họ trong việc tự do xử dụng lá phiếu của
mình để mưu cầu công ích. Giáo Hội ca ngợi và quí trọng việc làm
của những người vì lợi ích quốc gia mà dấn thân phục vụ con
người cùng nhận lãnh gánh nặng của trách nhiệm này.
Ðể việc cộng
tác của các công dân có ý thức trách nhiệm về nhiệm vụ đem lại
kết quả tốt đẹp trong đời sống chính trị thường ngày, cần phải
có một nền pháp lý thiết định. Nền pháp lý này giúp phân phối
hợp lý các nhiệm vụ và các cơ quan công quyền và đồng thời giúp
bảo vệ một cách hữu hiệu quyền lợi công dân mà không lệ thuộc
vào ai. Quyền lợi của cá nhân, gia đình và đoàn thể cũng như
việc xử dụng những quyền đó phải được công nhận, tôn trọng và cổ
võ
6. Nhưng đồng thời cũng phải chú trọng tới bổn phận
công dân của họ. Nói đến bổn phận công dân, cần phải nhắc tới
nghĩa vụ phải đóng góp cho quốc gia những dịch vụ về tài lực
cũng như nhân lực mà công ích đòi hỏi. Chính quyền không nên
ngăn cản những hiệp hội có tính cách gia đình, xã hội hay văn
hóa, những đoàn thể hay tổ chức trung gian. Cũng không nên cấm
chế những hoạt động hữu hiệu và chính đáng của các tổ chức ấy,
nhưng tốt hơn nên sẵn sàng cổ võ và phải có đường lối trong việc
cổ võ
88*. Về phía người công dân, cá nhân hay đoàn thể
không nên trao cho chính quyền một quyền hành quá lớn, cũng đừng
đòi hỏi ở chính quyền những giúp đỡ cũng như những đặc ân quá
đáng không phải lúc, vì như thế là làm giảm trách nhiệm của cá
nhân, gia đình và cả các đoàn thể xã hội.
Ngày nay hoàn
cảnh mỗi ngày một phức tạp, buộc chính quyền nhiều lúc phải can
thiệp vào các vấn đề xã hội, kinh tế và cả lãnh vục văn hóa để
tạo điều kiện thuận lợi cho các công dân cũng như các đoàn thể
được tự do phát triển toàn diện con người cách hữu hiệu hơn. Dĩ
nhiên tùy địa phương và tùy theo sự tiến hóa của mỗi dân tộc,
mối tương quan giữa việc xã hội hóa
7 và sự tự trị cùng sự phát triển của con người có thể
hiểu theo nhiều cách. Nhưng nếu vì công ích mà phải tạm thời hạn
chế việc xử dụng các quyền công dân, thì khi hoàn cảnh đã thay
đổi, cần phải tái lập tự do càng sớm càng hay. Song nếu chính
quyền đi vào những hình thức chuyên chế hoặc độc tài phạm đến
quyền lợi cá nhân hay các đoàn thể thì thật là vô nhân đạo.
Công dân phải
nung nấu tinh thần ái quốc với lòng đại lượng và trung kiên chứ
không hẹp hòi, nghĩa là làm sao để đồng thời vẫn quan tâm đến
ích lợi của toàn thể gia đình nhân loại, một gia đình được liên
kết lại bằng nhiều ràng buộc giữa các nòi giống, chủng tộc và
quốc gia.
Tất cả mọi Kitô
hữu phải ý thức về sứ mệnh đặc biệt của mình trong cộng đoàn
chính trị. Họ phải nêu gương sáng bằng cách phát biểu ý thức
trách nhiệm nơi chính mình và tận tâm phục vụ công ích. Nhờ thế,
qua hành động, họ cũng chứng minh cho thấy rằng làm sao dung hòa
được quyền bính với tự do, sáng kiến cá nhân với sự liên đới và
những đòi hỏi của toàn thể xã hội, dung hòa được sự hiệp nhất
sinh ích với những dị biệt phong phú. Trong việc tổ chức trần
thế, họ phải nhìn nhận những quan điểm chính đáng dầu đối chọi
nhau. Họ phải tôn trọng các công dân khác hay các đoàn thể khi
những người này bênh vực quan điểm của mình cách thẳng thắn.
Những đảng phái chính trị có bổn phận cổ võ những gì họ xét thấy
cần cho công ích, chứ không bao giờ được đặt quyền lợi riêng
trên công ích.
Muốn cho mọi
công dân xứng đáng nắm giữ vai trò của họ trong đời sống của
cộng đoàn chính trị, cần phải hết sức quan tâm đến việc giáo dục
cả về công dân và về chính trị. Việc giáo dục này ngày nay rất
cần thiết cho mọi người nhất là cho giới trẻ. Những ai có khả
năng hoặc có thể có khả năng làm chính trị, một nghệ thuật khó
khăn nhưng đồng thời rất cao cả
8, cần phải được chuẩn bị trước và họ phải hăng hái
hoạt động và không màng tới tư lợi hay lợi lộc vật chất. Họ phải
đem đời sống thanh liêm và sự khôn ngoan chống lại bất công và
áp bức, chống độc tài và ngoan cố của một cá nhân hay một đảng
phái chính trị. Họ phải đem lòng chân thành và chính trực, hơn
nữa tình thương và lòng dũng cảm phải có trong hoạt động chính
trị để tận tâm phục vụ ích lợi của mọi người.
76. Cộng đoàn chính trị và Giáo Hội.
Ðiều rất quan trọng là cần nhận thức chính xác về mối tương quan
giữa cộng đoàn chính trị và Giáo Hội, nhất là trong một xã hội
gồm nhiều thành phần. Cũng cần phải phân biệt minh bạch giữa
những hành động của các tín hữu hoặc cá nhân hoặc đoàn thể với
danh nghĩa công dân dưới sự hướng dẫn của lương tâm Kitô giáo và
những hành động của các tín hữu khi họ nhân danh Giáo Hội và hợp
nhất với các vị chủ chăn của họ.
Vì lý do chức
vụ và thẩm quyền của mình, Giáo Hội không cách nào bị đồng hóa
với một cộng đoàn chính trị, và cũng không hề cấu kết với bất cứ
hệ thống chính trị nào vì Giáo Hội vừa là dấu chỉ vừa là đảm bảo
cho tính cách siêu việt của con người.
Cộng đoàn chính
trị và Giáo Hội, mỗi bên với lãnh vực riêng của mình, đều độc
lập và tự trị. Tuy nhiên, dầu dưới danh hiệu khác nhau, cả hai
cũng đồng phục vụ cho con người trong sứ mệnh cá nhân và xã hội.
Tùy theo hoàn cảnh và địa phương, nếu cả hai càng duy trì được
sự cộng tác lành mạnh, thì cả hai càng phục vụ lợi ích của con
người một cách hữu hiệu hơn. Bởi vì con người không phải chỉ thu
hẹp trong nhãn giới trần gian. Nhưng tuy sống trong lịch sử nhân
loại, con người vẫn mang một sứ mệnh trường cửu. Ðược thiết lập
trong tình yêu của Chúa Cứu Thế, Giáo Hội có sứ mệnh làm cho
công bằng và bác ái lan tràn trong mỗi dân tộc và giữa các dân
tộc. Khi rao giảng chân lý Phúc Âm và lấy giáo lý và chứng tá
của cuộc sống các Kitô hữu soi sáng mọi lãnh vực của sinh hoạt
con người, Giáo Hội cũng tôn trọng và cổ võ tự do chính trị cũng
như trách nhiệm của các công dân.
Và được sai đi
để loan báo Chúa Kitô là Ðấng Cứu Thế cho mọi người, các Tông Ðồ
và các Ðấng kế vị cũng như những cộng tác viên của các ngài đều
dựa vào quyền lực của Thiên Chúa để làm việc tông đồ; còn Thiên
Chúa thường tỏ rõ sức mạnh của Phúc Âm trong chính sự yếu hèn
của các chứng nhân. Vậy bất cứ ai hiến thân phục vụ lời Chúa đều
phải dùng đến đường lối cũng như phương thế riêng của Phúc Âm.
Những đường lối và phương thế này khác biệt ở nhiều điểm với
đường lối và phương thế của trần gian.
Thực thế, các
thực tại trần thế và những thực tại siêu phàm nơi con người đều
liên kết mật thiết với nhau. Và chính Giáo Hội cũng xử dụng các
thực tại trần thế tùy mức độ mà sứ mệnh riêng của mình đòi hỏi.
Tuy nhiên, Giáo Hội không cậy nhờ vào những đặc ân của thế quyền
89*. Hơn thế nữa, Giáo Hội cũng sẽ từ chối việc xử
dụng một số quyền lợi đã được hưởng một cách chính đáng khi thấy
rằng việc xử dụng những quyền lợi đó làm cho người ta nghi ngờ
về lòng thành thực muốn làm chứng nhân của mình, hoặc trước
những hoàn cảnh mới đòi hỏi phải xử sự cách khác. Tuy nhiên, bất
cứ ở đâu và bất cứ thời nào Giáo Hội cũng phải được tự do rao
giảng đức tin, truyền bá học thuyết xã hội của mình cũng như
được dễ dàng chu toàn sứ mệnh của mình giữa loài người. Giáo Hội
cũng phải được quyền nói lên nhận định luân lý của mình về cả
những vấn đề liên quan đến lãnh vực chính trị khi quyền lợi căn
bản của con người hay phần rỗi các linh hồn đòi hỏi. Nhằm mục
đích trên, Giáo Hội xử dụng mọi phương tiện và chỉ những phương
tiện nào phù hợp với Phúc Âm và lợi ích của mọi người tùy theo
thời đại và hoàn cảnh khác nhau.
Trung thành
theo sát Phúc Âm và thi hành sứ mệnh của mình trong thế giới,
Giáo Hội phải cổ võ và nâng cao bất cứ điều gì là chân, thiện,
mỹ trong cộng đoàn nhân loại
9. Làm như thế tức là Giáo Hội xây dựng hòa bình cho
con người để làm vinh danh Thiên Chúa
10.
Chú Thích:
(lưu ý:
những số ghi chú nhỏ hơn đã được đăng vào những số báo trước)
85* 1) Ðời sống chính trị
hiện nay: đang thay đổi (số 73a). Sự ý thức về nhân phẩm khiến
con người đi tìm một chế độ chính trị biết bảo đảm nhân quyền
(b), bảo đảm việc tham gia của nhiều người vào chính trị và sự
tôn trọng dân tộc thiểu số cũng như những kẻ phát biểu ý kiến
khác với mình (c). Do đó con người lên án chế độ xâm phạm quyền
tự do và chỉ tìm kiếm ích lợi riêng (d). Muốn thành công phải
đổi mới tâm trạng (e).
2) Cộng đoàn
chính trị: Nguyên khởi và mục đích là công ích (số 74a). Cần
thiết phải có chính quyền (b). Cộng đoàn chính trị và chính
quyền đều bởi Thiên Chúa Tạo Hóa mà có. Còn chế độ chính trị thì
trái lại phải chọn lựa cách tự do (c). Khi chính quyền tìm kiếm
công ích hợp với luân lý, thì lương tâm buộc phải vâng theo luật
pháp (d). Chế độ chính trị, dưới bất cứ hình thức nào, tùy theo
đặc tính của từng dân tộc, bao giờ cũng phải phục vụ con người
và nhân loại (e).
3) Sự cộng tác
vào đời sống chính trị: thích hợp với bản tính con người: hai
phương tiện cụ thể là quyền bỏ phiếu và hoạt động chính trị (số
75a). Xã hội phải có trật tự pháp lý: công ích. Công dân không
nên nhượng quyền quá đáng cho chính quyền, đàng khác cũng không
nên đợi chờ chính quyền làm quá nhiều (b). Qui tắc về việc chính
quyền can thiệp và chế tài quyền lợi (c). Lòng yêu quê hương
(d). Vai trò của tín hữu trong cộng đoàn chính trị (e). Giáo dục
chính trị (f).
4) Cộng đoàn
chính trị và Giáo Hội: Phân biệt hoạt động riêng của tín hữu và
của Giáo Hội (số 76a). Giáo Hội không chủ trương một chế độ
chính trị nào (b), nhưng cả hai có lãnh vực và thẩm quyền riêng
và nên cộng tác với nhau (c). Giáo Hội không nhờ quyền thế phàm
trần (d), và dù phải xử dụng của cải trong khi thi hành sứ mệnh
riêng nhưng không tìm kiếm đặc ân; chỉ đòi hỏi tự do để rao
giảng đức tin và bảo vệ nhân quyền cũng như sứ mệnh của mình
(e), do đó góp phần cho hòa bình và vinh danh Thiên Chúa (f).
86* Muốn canh tân xã hội qua
phạm vi chính trị, con người phải bắt đầu từ nội tâm: ở đây và
trong số 75d-f, Công Ðồng phác họa một chương trình căn bản về
giáo dục công dân:
1) Những đức
tính chính yếu: công bằng, lòng tử tế đối với đồng bào, ý muốn
phục vụ công ích, lòng yêu quê hương, sự ý thức về ơn gọi của
tín hữu trong cộng đoàn. Tín hữu phải làm gương hoạt động vì
lương tâm, vâng lời với tinh thần tự do, có sáng kiến trong khi
phải tôn trọng đồng bào, biết cộng tác với người khác cả với
những ai không đồng ý với mình.
2) Phải hiểu rõ
đặc tính cộng đoàn chính trị; mục đích của chính quyền cũng như
cách thức hành động trong những giới hạn phải có.
3) Về hoạt động
trong cộng đoàn, phải biết chấp nhận sự kiện có người không đồng
ý với mình nghĩa là tôn trọng công dân và đảng phái có đường lối
khác. Giáo dân có thể hoạt động trong những đảng phái chính trị
nào mưu ích chung. Và khi có đủ khả năng để dấn thân vào cuộc
đấu tranh chính trị, phải chuẩn bị trước (cần phải học biết lịch
sử, kinh tế, xã hội học, pháp lý, v.v...), phải từ bỏ tư lợi
(kẻo dễ bị mua chuộc). Phải trong sạch và khôn ngoan chống lại
moị bất công và áp bức cũng như sự thống trị chuyên chế và ngoan
cố, bất cứ là của một cá nhân hay của một đảng phái. Chính trị
gia phải phát triển nhân đức thành thật, thanh liêm, thương yêu
và can đảm để phục vụ mọi người.
87* Phải chăng người công
giáo còn chưa ý thức đầy đủ về điều này? Vâng, tuân theo lề luật
quốc gia không phải vì sợ chính quyền, cũng không phải vì nhìn
nhận rằng muốn hưởng thụ tự do thì phải tôn trọng tự do kẻ khác.
Nhưng vâng theo luật vì lương tâm: vì biết rằng chính quyền là
do Thiên Chúa muốn có và vì nhiệm vụ phải phục vụ công ích. Dĩ
nhiên các luật đó phải là luật công bằng và phục vụ cho công
ích; dĩ nhiên có trường hợp các luật lệ không bó buộc một người
nào đó vì những nguyên nhân "thác miễn" hay vì "thể ý pháp"; dĩ
nhiên có nhà thần học chủ trương rằng một số luật chỉ có tính
cách hình luật thuần túy (một lập trường mà các nhà thần học
càng ngày càng từ bỏ...), nhưng nếu chúng ta chỉ biết đề cao
trường hợp luật trừ thay vì nhấn mạnh tính cách bó buộc của luật
pháp, e rằng chúng ta sẽ góp phần quá nhỏ vào việc canh tân xã
hội.
88* Ðức Piô XI (Quadragesimo
anno, x. Dz 3738/2265-2266) tuyên bố nguyên tắc bổ trợ dạy rằng,
những cộng đoàn cấp trên không được giữ riêng cho mình tất cả
những việc mà các cộng đoàn cấp dưới có thể thực hiện được.
Nguyên tắc có giá trị cho quốc gia và các cộng đoàn trong quốc
gia (trong Tuyên Ngôn về Giáo Dục Kitô giáo Công Ðồng nhắc lại
rằng phải áp dụng nguyên tắc trong phạm vi giáo dục, số 3b), cho
các quốc gia và xã hội quốc tế Pacem in terris, AAS 55 (1963),
trg 294; và số 86c sau này), cũng như cho các hội đoàn giáo dân
và Giáo Hội (Piô XII, diễn văn cho hội đồng các Ðức Hồng Y ngày
20-2-1946: AAS 38 (1946), trg 145). Sở dĩ ta phải công nhận
nguyên tắc trên là vì phẩm giá con người, cũng như vì bản thể
của xã hội là nhằm phục vụ công ích, chứ không phải chỉ vì lý do
thực tế để tránh xa những lạm dụng của các cộng đoàn trên.
Phải lưu ý:
nguyên tắc không chỉ cấm các cộng đoàn cấp trên, nhất là quốc
gia, làm thay công việc của các cộng đoàn cấp dưới một cách vô
lý, mà còn nêu ra phương diện tích cực: trước hết là quốc gia
phải cung cấp cho công ích mọi điều các cộng đoàn cấp dưới không
đủ khả năng để làm (Populorum progressio, 33; 37; - Mater et
Magistra: AAS 53 (1961), trg 414), hơn nữa, quốc gia phải làm
sao để giúp sức và phương tiện cho các cộng đoàn cấp dưới (Mater
et Magistra, n.v.t., trg 438-439).
Câu tiếp theo
của Công Ðồng nhắc lại cho chúng ta rằng sở dĩ quốc gia nhiều
khi không tôn trọng nguyên tắc bổ trợ là vì thái độ thiếu trách
nhiệm của công dân.
89*
Lịch sử gần đây của nước nhà có thể nhắc lại cho chúng ta rằng
thái độ ngược lại, nghĩa là trông nhờ vào đặc ân của chính
quyền, rất nguy hại cho chính sứ mệnh của Giáo Hội. Hơn thế nữa,
tìm kiếm đặc ân cho mình có thể vi phạm công bằng phân phối. Vả
lại, dù có thể không phạm lỗi gì nhưng việc tìm kiếm đặc ân đó
không thích hợp với sứ mệnh của Giáo Hội là phải phục vụ mọi
người theo gương của Chúa Giêsu, Ðấng đã không đến để được hầu
hạ (Mc 10,45). Thái độ siêu thoát và quảng đại như thế càng khó
tìm thấy ở những xã hội thấm nhuần tinh thần kính trọng các tôn
giáo và các vị đại diện tôn giáo.
còn tiếp |
VỀ MỤC LỤC |
|
Truyền giáo hôm
nay theo từng lứa tuổi |
Nguyễn Thảo Nam & Lê An
Hòa
Institute for Human
Development,
Seattle University,
Washington
Vấn Đề Vĩ Đại & Khẩn
Thiết
Mối quan tâm hàng đầu đối với Giáo Hội Hoa Kỳ
trong những năm gần đây đó là số tín hữu Công Giáo rời bỏ Giáo Hội quá
đông. Theo tài liệu thống kê trong những thập niên 80, có khoảng 15 triệu
người Công Giáo tại Hoa Kỳ rời bỏ Giáo Hội. Những anh chị em này thuộc mọi
tầng lớp khác nhau, nhưng phần đông là ở lứa tuổi từ 18 đến 24. Một khi họ
đă ra đi, thật khó mong họ trở về. Nếu có ai đó ước mong trở lại, thì
thường phải đến mấy chục năm sau.
Chẳng hạn một người bỏ Giáo Hội
vào năm 1980, và lúc đó anh ta 20 tuổi, thì năm nay anh đă là 43 tuổi rồi,
và vẫn c̣òn ở ngoài Giáo Hội. Số người ra đi từ những năm trước, lại cộng
thêm nhiều người trẻ ra đi hàng năm, nên con số cứ măi tăng dần.
Hội đồng Giám Mục Hoa Kỳ cũng như các chủ chăn băn khoăn, cố gắng
tìm mọi cách níu kéo, và hy vọng con số lớn lao ấy ngày sẽ giảm đi trong
những thập niên tới. Nhưng buồn thay, con số ấy chẳng những không giảm đi,
mà lại vẫn tiếp tục gia tăng trong những năm gần đây. Cho đến nay, số anh
chị em rời bỏ Giáo Hội tại Hoa Kỳ đă lên đến khoảng mười bảy triệu
(17.000.000). Một con số khủng khiếp, một mất mát lớn lao. Sự ra đi của họ
làm chúng ta đau ḷòng Giả sử nhóm người này gom lại thành một giáo phái,
thì giáo phái này sẽ có con số đông thứ hai so với tất cả các giáo phái
trên đất Mỹ, và nhóm này đông gấp hai lần số người Công Giáo Việt Nam tại
quê nhà cũng như rải rác khắp nơi trên thế giới. Cho đến nay, người ta ước
tính có khoảng hơn 65 triệu người Công Giáo trong Giáo Hội Hoa Kỳ, nhưng
lại mất đi hơn một phần tư -17 triệu - không còn tham dự vào đời sống Giáo
Hội. Người ta “ước tính” khoảng 48 triệu người Công Giáo tại Hoa Kỳ c̣òn
sống đạo, có nghĩa là còn thỉnh thoảng lui tới nhà thờ và tham dự bí tích.
Và trong số những người c̣òn đến với Giáo Hội, có lẽ lại c̣òn có rất nhiều
người đang gặp khủng hoảng về đức tin, hoặc sống đạo hời hợt. Thực trạng
này gợi cho chúng ta những suy tư về đối tượng truyền giáo hôm nay. Nếu
truyền giáo xưa nay làm theo mệnh lệnh của Đức Kitô: rao giảng tin mừng
cho muôn dân, rửa tội cho họ, đem anh em “lương dân” trở về với Chúa, th́ì
truyền giáo ngày nay lại đ̣òi hỏi một nhu cầu mới, đó là làm như Đức Kitô
đă làm: “đi t́ìm con chiên lạc,” “t́ìm đồng bạc bị đánh rơi,” là mở rộng
ṿòng tay của người cha trong dụ ngôn “người con hoang đàng” để đón nhận
cả đứa con đi hoang, lẫn người con càm ràm về trong tổ ấm gia đình của cha
ḿình.
Có người nói đùa, nếu có ai hỏi rằng trong năm qua các công
ty sản xuất được bao nhiêu triệu cây tăm xỉa răng, thì họ sẽ cho bạn biết
con số chính xác không trật một cây. Hoặc nếu bạn hỏi có bao nhiêu điếu
thuốc lá được tiêu thụ trong mười năm qua, thì bạn cũng sẽ nhận được câu
trả lời chính xác như thế. Nhưng khi hỏi có bao nhiêu triệu người Công
Giáo, th́ì người ta chỉ có thể ước tính với con số gần đúng mà
thôi.
Điều này cũng gợi lên một vấn đề đáng lưu tâm hôm nay, đó là
sự gắn bó trong các cộng đoàn xứ đạo đang rời rạc lắm rồi. Trong các Hội
Thánh Tin Lành có chương tŕinh membership, họ sinh hoạt từng Hội Thánh
tương đối nhỏ và phải đóng tiền quỹ hàng năm, nên các Mục sư có thể biết
rơ ai c̣òn sống đạo hoặc ai đã bỏ đi. Trong khi đó, các giáo xứ Công Giáo
khá lớn mà lại ít linh mục cũng như tu sĩ nam nữ, sinh hoạt cộng đồng chỉ
nổi bật ở một số nhóm và đoàn thể, nên số đông cọ̀n lại, đến hay đi mà
chẳng mấy ai biết tới. Người có thể biết rõ nhất ai c̣òn, ai bỏ đó là
người thân thuộc trong gia đ́ình hoặc bạn bè thân hữu.
Thế thì
những người bỏ Giáo Hội này chẳng là ai xa lạ, mà có khi là con em của
chúng ta, là bè bạn, là xóm giềng, là đồng nghiệp, là những người ḿình
gặp gỡ mỗi ngày nơi công sở, là đứa bạn ngồi chung một bàn trong lớp học,
là đứa bạn cùng chơi thể thao với ḿình mỗi chiều, v.v... Họ có mối quan
hệ thân thiết với chúng ta trong gia đì́nh, trong ḍòng tộc, trong tình
người. Họ có mối quan hệ với chúng ta trong Thân Thể Mầu Nhiêm Đức
Kitô--Giáo Hội. Nên khi họ ra đi, mình cảm thấy nhói đau.
Nguyên Nhân Đa
Dạng
Theo lối nói Việt Nam chúng ta, có người cho
rằng những anh chị em này đă bỏ đạo chăng! Không, họ không bỏ đạo, họ
không chối bỏ niềm tin. Họ chỉ không c̣òn tha thiết gì với Giáo Hội, với
cộng đoàn, với đời sống bí tích. Hàng ngàn cuộc phỏng vấn cho biết có
khoảng tám mươi lăm phần trăm số người này vẫn nghĩ đến việc lo cho con
cái học hành các lớp ở nhà thờ trong tương lai. Như thế, họ không phải là
những người khủng hoảng niềm tin. Họ khủng khoảng vì cơ chế, vì luật lệ,
và xung khắc với những con người trong cơ chế ấy.
Vì sao họ ra đi?
Hàng loạt cuộc nghiên cứu tiến hành trong vài chục năm qua cho biết có
nhiều nguyên nhân khiến họ bỏ Giáo Hội. Đơn cử một số nguyên nhân do Hội
Đồng Truyền Giáo Hoa Kỳ nêu lên, có thể đó là những xung đột trong gia
đ́ình. Những người này là một số bạn trẻ, lớn lên
trong một nền văn hóa tương đối tự do và cởi mở. Họ có khuynh
hướng “giữ đạo” theo chiều hướng cá nhân hơn là bị ép buộc bởi lối sống
đạo đức truyền thống của bố mẹ. Bắt nguồn từ một lối sống nặng tính cá
nhân, nên cách sống đạo cũng thiên về sống đạo cá nhân. Họ cho rằng tôn
giáo là mối quan hệ giữa cá nhân với Thiên Chúa, không nhất thiết phải lệ
thuộc vào một cơ chế của Giáo Hội. Do đó, những bạn trẻ này thường phản
ứng mạnh mẽ trước những lời khuyên răn nặng tính luân lý của bố mẹ. Những
phản ứng này thường tạo nên bầu khí căng thẳng giữa hai thế hệ, và kết quả
cuối cùng dẫn đến là thôi việc đến nhà thờ hoặc nghỉ luôn các sinh hoạt
tôn giáo. Một số bạn trẻ khi rời tổ ấm gia đình vì xung đột, thì cũng là
lúc họ bỏ luôn cả Giáo Hội. Tuy nhiên, không phải ai bỏ nhà ra đi cũng bỏ
luôn Giáo Hội. Nhưng nếu những bạn trẻ nào có xung khắc về vấn đề tôn giáo
ngay trong gia đ́ình, thì họ có khuynh hướng thôi việc giữ đạo.
Nhóm người thứ hai, không bất kỳ ở lứa tuổi
nào, một khi bị tổn thương do Linh mục, tu sĩ hoặc những người
lănh đạo gây nên, thường có khuynh hướng bất măn và dẫn đến bỏ luôn Giáo
Hội. Có khi là những kinh nghiệm đau lọ̀ng từ những lớp giáo lý, sinh hoạt
đoàn thể. Có khi là những vấn nạn cá nhân, thay vì cần được nâng đỡ thì
lại bị xúc phạm. Hoặc có khi chính các mục tử không nhạy bén với những
hoàn cảnh đặc biệt của họ, hoặc gây thêm khó khăn cho họ trong một số
trường hợp như tang chế, cưới hỏi, rửa tội v.v... Những anh chị em này cần
được lắng nghe từ phía Giáo Hội. Có khi trong sự khiêm tốn của Đức Kitô,
các vị lănh đạo có thể gởi lời xin lỗi, thông cảm, giao hảo và mời gọi
chính đương sự trở về với cộng đoàn Giáo Hội. Đây là những phút giây ân
sủng quí báu, và chính các mục tử hay những người cộng tác là khí cụ của
dạng ân sủng đó.
Nhóm người thứ ba là các
bạn trẻ, những người không cảm thấy sự hiện diện của Thiên Chúa
trong các cộng đoàn giáo xứ bởi vì phụng vụ buồn tẻ, bài giảng lạnh nhạt
không hồn hoặc nặng tính luân lý. Trong khi người trẻ muốn cảm nghiệm được
có sự hiện diện thực sự của Thiên Chúa trong một cộng đoàn đức tin, thì họ
lại gặp phải những kinh nghiệm ngược lại. Họ không cảm thấy những người
chung quanh có sự gắn bó sâu đậm với Đức Kitô. Họ cảm thấy thánh lễ như
một thói quen, hoặc đến nhà thờ v́ì lề luật chứ không thấm sâu trong đời
sống tâm linh. Các bạn không cảm thấy thánh lễ lôi cuốn họ đủ. Theo các
cuộc phỏng vấn với các bạn trẻ đă bỏ thánh lễ lâu ngày, phần đông phản ứng
mạnh mẽ với các bài giảng buồn tẻ, và phụng vụ nhàm chán. Vấn đề này cần
được đặt ra từ cả hai phía. Một mặt, nhiều người Công Giáo hôm nay không
được đào tạo để có ý thức xây dựng cộng đoàn. Họ đến với cộng đoàn để nhận
lănh, nhưng lại thiếu ý thức đóng góp. Chính vì vậy, khi cộng đoàn không
đáp ứng nhu cầu tâm linh cho họ là họ rút lui hoặc đi tìm đến các giáo
phái Tin Lành. Tuy nhiên, bên cạnh những yếu tố tiêu cực từ phía những
người bỏ đi, những người ở lại cũng cần suy tư xem thử ḿình nên làm gì để
bầu khí thờ phượng cũng như các sinh hoạt cộng đoàn trở nên sinh động hơn.
Chẳng hạn một bài giảng có chiều sâu và thấm chất Tin Mừng sẽ thu hút được
nhiều bạn trẻ, vì chính họ đang khao khát cuộc sống tâm linh. Một ca đoàn
chuẩn bị chu đáo và hát xướng tâm tình sẽ lôi kéo được nhiều bạn trẻ đến
với giáo xứ mình. Theo những cuộc nghiên cứu mới nhất với giới trẻ tại Hoa
Kỳ trong năm qua, các bạn cho biết có hai điều lôi
cuốn họ đến với thánh lễ: đó là bài giảng sâu sắc và thánh nhạc sinh động.
Bên cạnh nội dung và chất lượng của phụng vụ, nhiều
người cần đến bầu khí thân mật, gần gũi và gắn bó của những người trong
cùng họ đạo. Sự gắn bó này đóng một vai tṛò thiết yếu trong việc giúp
người khác ở lại với cộng đoàn Giáo Hội. Hiện nay, phần đông giáo hữu tây
phương sống đạo theo lối cá nhân, nên khi đến với Giáo Hội họ cũng đến với
thái độ cá nhân. Chính vì lối sống đạo cá nhân, ḿình ít khi để ý đến
người chung quanh, những người cùng tham dự phụng vụ và sinh hoạt tôn giáo
với mình. Đôi khi một cái bắt tay trong khi chúc b́ình an cũng gượng ép,
lạnh lùng. Từ một thực trạng như thế, một số người cảm thấy họ quá xa lạ
với cộng đoàn. Họ cảm thấy mì́nh là một khán giả vô danh trong một nhà hát
nhàm chán. Chính lý do này cũng khiến một số người không c̣òn hào hứng đến
với cộng đoàn. Một số trong họ t́ìm đến các Hội Thánh Tin Lành, nơi mà họ
cảm thấy được ân cần tiếp đón và có bầu khí thân mật t́ình người. Họ cảm
thấy ḿình được quan tâm và có giá trị trong một cộng đoàn tôn giáo. Điều
này thật dễ hiểu, bởi vì chẳng ai muốn tham gia vào một tổ chức mà nơi đó
tất cả đều xa lạ với nhau. Có lẽ đây cũng là vấn đề gợi cho chúng ta suy
tư. Đôi khi mình “sốt sắng quá”, chỉ nghĩ đến Chúa
mà quên người anh em bên cạnh chăng! Thái độ nghiêm trang thái
quá đôi khi lại trở thành dửng dưng lạnh lùng. Lối sống đạo xưa nay khắt
khe đến độ ngại nở một nụ cười ở trong nhà thờ, nên hôm nay ḿình cũng
nhì́n nhau bằng ánh mắt tôn giáo nghiêm nghị với nhau. Những anh chị em
rời Giáo Hội vì lý do này có lẽ đang khao khát một nụ cười, hay một lời
chào đón từ những người trong Giáo Hội. Họ sẽ sẵn sàng quay về, nếu có ai
đó thực sự quan tâm đến họ.
Ngoài những vấn đề nêu trên, có một vấn
đề tương đối gai góc hiện nay đó là vấn đề giáo huấn về luân lý của Giáo
Hội. Một số đông bạn trẻ giằng co với những giáo huấn của Giáo Hội về vấn
đề tính dục trước hôn nhân, ngừa thai nhân tạo, li dị, v.v... Nhiều bạn
trẻ phản ứng lại quyền giảng dạy của Giáo Hội về những vấn đề này. Một số
khác không phản đối mạnh mẽ, nhưng khi đă quan hệ tính dục ngoài hôn nhân,
hoặc ngừa thai nhân tạo, thường ngại đến xưng tội và lănh nhận bí tích.
Khi không được nuôi dưỡng bằng đời sống bí tích, các bạn trẻ thường có
khuynh hướng xa dần đời sống đạo và cuối cùng quyết định thôi hẳn. Bên
cạnh những người độc thân, một số người trong đời sống gia đình khi áp
dụng ngừa thai nhân tạo cũng có phản ứng mạnh với huấn quyền Giáo Hội. Họ
yêu cầu Giáo Hội cần thay đổi lối giảng dạy về luân lý. Thật vậy, đây là
một vấn đề tương đối phức tạp trong vấn đề sống đạo giữa một nền văn hóa
tự do tại Hoa Kỳ và các nước Châu Âu. Thật ra, trên bình diện luân lý, có
những vẫn đề Giáo Hội không thể thay đổi theo não trạng của người đương
thời. Có những vấn đề Giáo Hội có thể thay đổi, nhưng không thể thay đổi
trong ngày một ngày hai. Cơ cấu của Giáo Hội như một guồng máy hoạt động
trên cả hoàn vũ, nên có khi phải mất cả thế kỷ để thay đổi một vấn đề nào
đó. Chúng ta có thể nhận ra sự phức tạp này khi trong chính xứ đạo ḿình
có sự thay đổi. Ngay việc đơn giản nhất là khi thay đổi giờ giấc Thánh lễ
đă làm xáo trộn sinh hoạt của một giáo xứ, và gây nên phản ứng của biết
bao người.
Tuy vậy, nhiều người trẻ hôm nay không chấp nhận quyền
giảng dạy về luân lý của Giáo Hội, nên họ từ từ rút lui khỏi Giáo Hội. Vấn
đề này cần đặt ra cho những nhà giáo dục trong Giáo Hội hôm nay. Một mặt mình phải trình bày huấn quyền của Giáo Hội,
nhưng mặt khác phải nên trình bày vấn đề luân lý dựa trên tính nhân bản và
phẩm giá con người để thuyết phục các bạn trẻ về vấn đề luân lý. Do đó,
các nhà giáo dục cần đào sâu thêm những tài liệu về nhân bản để đi kèm với
Giáo huấn của Giáo Hội trong khi giảng dạy.
Một nhóm
người khác thôi giữ đạo vì không có nền tảng căn bản về tôn giáo, nên dễ
bị tấn công và bị lôi kéo sai đường do chính bè bạn của mình. Bên cạnh đó,
có một số bạn trẻ cặp bạn rồi chung sống hoặc kết hôn với người ngoài Công
Giáo, rồi dần dần cảm thấy nguội lạnh khô khan, hoặc chính bạn ḿình
thuyết phục từ bỏ Giáo Hội. Một số người khác rời bỏ cộng đoàn v́ì phải
thay đổi nếp sống và chỗ ở, nên mất liên đới với cộng đoàn cũ của mình và
ngại tìm tới cộng đoàn mới. Biết đâu những anh chị em này lại là người
đang sống loanh quanh trong lối xóm của ḿình và họ cần một ai đó bắc nhịp
cầu đê liên kết với một cộng đoàn mới. Truyền giáo
hôm nay là thế, là bắc một nhịp cầu để anh em mình trở về, là cố gắng xóa
đi những rào chắn ngăn cách vô hình giữa những anh em trong cùng một tôn
giáo. Một khi họ nhận ra có một cộng đoàn nào đó yêu thương và đón nhận,
họ sẽ sẵn sàng gia nhập và trở về với Giáo Hội.
Bao
nhiêu lí do nêu trên, c̣òn có một lí do dễ hiểu nhất, nhưng lại lôi cuốn
nhiều người nhất đó là vấn đề thiếu hiểu biết nên không cố gắng đủ, không
tha thiết với đời sống tâm linh. Những anh chị em này một phần vì quá bận
bịu công việc làm ăn, lại cảm thấy chán chường với đời sống đạo nên có
nhiều lí do để thoái thác việc đến nhà thờ. Mặc dù những anh chị em này
vẫn có những trăn trở vì đã bỏ bê sống đạo, nhưng họ vẫn không vươn nổi ra
khỏi cái nặng nề của công việc và bóng tối. Họ cần người khác nâng đỡ,
khuyến khích, và mời gọi họ trở lại với đời sống tâm linh. Vấn đê này ông
bà cha mẹ mình thường gọi là “ma quỷ níu kéo.” Tuy có những người không
tin vào ma quỷ, nhưng thực tế dường như lại luôn có một sức mạnh vô h́ình
nào đó níu kéo chúng ta trì trệ trong việc sống đạo, và dần dần xa Chúa.
Phương Pháp Chữa Trị và Ngăn
Ngừa: Bắc Cầu Tình Thương
Trên đây là những vấn đề của Giáo Hội hôm
nay, và nó cũng là vấn đề thiết thực đặt ra trong việc truyền giáo nơi
chúng ta đang sống tại đất Mỹ này. Thực trạng này mời gọi chúng ta suy tư
sâu hơn đê cùng thao thức với Giáo Hội trong việc truyền giáo. Đừng kết án
những anh chị em đă bỏ đi, bởi vì mỗi người có một lí do riêng khiến họ ra
đi. Hăy cùng cảm thông và lắng nghe những trăn trở và nỗi ḷòng của họ, và
cùng suy nghĩ xem Giáo Hội, cộng đoàn, gia đ́ình và chính mỗi cá nhân nên
làm gì và cần thay đổi những gì để mời gọi anh chị em mình trở về. Chúng
ta có tọ̀a nhà Giáo Hội, nhưng muốn tọ̀a nhà ấy trở thành tổ ấm thì cần
đến bầu khí yêu thương. Do đó, việc truyền giáo
nhiều khi lại đọ̀i hỏi trước hết là sự hoán cải của chính Giáo Hội và thay
đổi con tim của mỗi cá nhân, là phúc âm hóa đời sống nội tâm của ḿình
trước đã. Bởi vì muốn làm cho muôn dân trở thành môn đệ của
Chúa Kitô, thì trước hết chính ḿình phải là người môn đệ của Chúa Kitô,
thấm đượm cái chất Kitô trong đời sống đạo của ḿình.
Mặc dù
truyền giáo trong thời đại hôm nay thật đa dạng và phong phú, mỗi một Kitô
Hữu có thể làm tốt công việc truyền giáo trong chính môi trường và hoàn
cảnh của mình với sự thúc đẩy và gợi ý của Chúa Thánh Thần. Tất cả gợi ý
và kết quả của công việc truyền giáo là cho chính Thánh Thần hướng dẫn và
chính Ngài mang lại hoa trái. Do đó, chúng ta có lí do để hy vọng vào
những công việc của mì́nh, bởi vì Thánh Thần sẽ hoàn tất những gì Ngài đã
khởi sự trong ḷòng chúng ta hôm nay. Những năm qua, sự hiện diện của
người Công Giáo Việt Nam trên đất Mỹ này đă là một hành vi truyền giáo hết
sức ý nghĩa. Sự hiện diện ấy dù âm thầm hay sôi nổi cũng đă làm thay đổi
biết bao tâm hồn. Chúng ta không biến đổi người khác, nhưng chính Chúa
Thánh Thần biến đổi tâm hồn họ qua sự hiện diện và sống đạo của chính
mình. Hôm nay, bên cạnh sự hiện diện của người Công Giáo Việt Nam như một
hành vi truyền giáo, Chúa Thánh Thần lại tiếp tục gợi ý và mời gọi chúng
ta nối dài sự hiện diện ấy bằng những việc làm cụ thể, thiết thực, và cấp
bách hơn. Mỗi một hoàn cảnh sống mới, lại sinh ra những nhu cầu mới, và
chính Thánh Thần đang mời gọi chúng ta đáp ứng những nhu cầu mới này.
Có năm đối tượng chính mà hội đồng truyền giáo Hoa Kỳ đặt ra, đó
là truyền giáo cho chính các kitô hữu trong Giáo Hội, mời gọi tất cả các
tín hữu làm một cuộc hoán cải nội tâm và canh tân niềm tin trong Đức Kitô;
rồi truyền giáo cho những anh chị em đă rời bỏ Giáo Hội, những người đang
sống bên lề của đời sống bí tích và đời sống cộng đoàn. Mời gọi họ trở về
giao ḥòa với chính Thiên Chúa và với Giáo Hội. Rồi truyền giáo cho chính
các em, những môn đệ “tí hon” của Đức Kitô, giúp các em tập sống đức tin
và gắn bó với Chúa Kitô ngay từ nhỏ. Đây là công việc trọng tâm của gia
đì́nh và của các giáo lý viên trong giáo xứ. Kế đến là truyền giáo cho
những anh chị em thuộc Kitô Giáo nhưng không cùng truyền thống với Công
Giáo, giúp họ nhận ra sự sung mãn của truyền thống Công Giáo và tiến đến
sự hiệp thông Kitô Giáo qua đối thoại và cảm thông. Và cuối cùng là truyền
giáo cho những anh chị em không có niềm tin vào Đức Kitô.
Trong số
đối tượng truyền giáo của hội đồng Giám Mục Hoa Kỳ nêu trên, vấn đề truyền
giáo cho những anh chị em đă rời bỏ Giáo Hội vẫn là mối quan tâm sâu xa,
vẫn là nỗi trăn trở ưu tư của các mục tử, và đó cũng chính là lời mời gọi
của mỗi một người trong chúng ta hôm nay. Vì thế, truyền giáo hôm nay là
lưu tâm đến những anh chị em đó; họ là con em, là người thân, là bạn hữu
của mình. Cố gắng yêu thương và tìm cách mời họ trở về. Trong nhiều cuộc
phỏng vấn được thực hiện trong những năm gần đây, dấu hiệu hy vọng cho
biết phần đông trong họ muốn quay trở về với Giáo Hội, miễn là có ai đó
yêu thương và sẵn lọ̀ng dẫn đưa họ về. Thật ra, họ chẳng cọ̀n là trẻ thơ
để đợi người khác đưa dẫn, nhưng vì khi họ ra đi, chiếc cầu năm xưa đã một
lần mục gẫy, và nay họ cần một chiếc cầu mới để nối lại nhịp xưa. Chiếc
cầu đó là chính mỗi người Kitô Hữu, là bạn bè, là người thân, là đồng
nghiệp của họ. Đừng giảng giải cho họ nhiều điều,
nhưng lắng nghe, thông cảm và yêu thương. Chỉ có tì́nh thương chân thành
mới cảm hóa được ḷòng người. Đó cũng chính là bí quyết truyền giáo của
Đức Kitô.
Dấu chỉ hy vọng cho thấy đă có hàng trăm ngàn
người trở về trong những năm qua. Một khi họ trở về, đời sống đạo của họ
sâu sắc hơn và nhiều người trong họ đă trở thành những nhà truyền giáo
nhiệt thành. Đời sống của họ sung măn và hạnh phúc hơn so với những năm
tháng sống ng̣òai Giáo Hội.
Mỗi tín hữu Kitô, hơn ai hết, là chiếc
cầu hữu hiệu nhất giúp người khác trở về. Phải thành thật rằng, phần đông
các mục tử không làm nổi chuyện này. Phần thì các mục tử không biết nổi
hết các con chiên, phần khác mối liên hệ giữa các mục tử và đa số những
chiên lạc này chẳng mấy thắm thiết-nếu thắm thiết th́ì họ đă chẳng ra đi,
chưa kể những người ra đi vì xung khắc với mục tử. Những người này khi trở
lại thường gia nhập ở một cộng đoàn khác. Dù gia nhập cộng đoàn nào đi
nữa, việc họ quay trở về là một nỗi vui cho cả Giáo Hội. Đó là hình ảnh
vui mừng của người chủ chiên cõng con chiên lạc trên vai trở về. Chính vì
thế, việc “đi tìm anh chị em” gợi cho chúng ta một ưu tư mới trong vấn đề
truyền giáo hôm nay.
Qua nhiều cuộc nghiên
cứu cho thấy, phải đến từ 65% đến 90% người ngoài Kitô giáo trở lại là do
tiếp xúc cá nhân với người Kitô Hữu. Phần đông họ không trở về
với một Thiên Chúa mơ hồ, một Giáo Hội có nề nếp. Họ cũng chẳng trở về v́i
một nền thần học hấp dẫn, mà là họ trở về trước hết với những con người cụ
thể trong cộng đoàn, trong từng mối liên hệ mật thiết mà họ cảm nghiệm
được t́ình yêu thương.
Chữa bệnh không bằng pḥòng bệnh. Mặc dù số
lớn rời bỏ Giáo Hội khi các em lên 18 tuổi, chúng ta cần sửa soạn cho các
em ngay từ tuổi thơ. Chúng ta cần xây dựng cộng đoàn yêu thương cho mỗi
người và mỗi lứa tuổi, dùng mọi phương cách mà Chúa ban. Cả cộng đoàn cần
làm việc với nhau, và chính cách làm việc chung này có thể xây dựng t́nh
thân ái nếu chúng ta làm với Chúa và với nhau, hơn là với công việc hay
danh tiếng. Ngay trong lớp giáo lí, một “môn học” chính trong mọi lớp là
các em có thể cảm nhận được và diễn tả được tình thương. Các em được
“chích ngừa” bằng thuốc yêu thương nên sẽ khó bỏ cộng đoàn, bỏ Giáo Hội
rồi chính gương sáng của các em này, cùng với tình thương các em có với
người khác, cũng sẽ níu kéo người khác trở về và ở lại trong Giáo Hội.
Ngoài lớp giáo lí, các đoàn thể trẻ như Thiếu Nhi Thánh Thể, Hướng Đạo
Công Giáo, hay lớp Việt Ngữ cũng là những nơi truyền giáo hữu hiệu và cần
thiết. Và dĩ nhiên gia đình là nơi quan trọng nhất, và cộng đoàn có thể
giúp cho các gia đ́ình qua các hội đoàn thích hợp như Bà Mẹ Công Giáo và
Liên Minh Thánh Tâm, cũng như các buổi cấm pḥòng giáo xứ và giáo lí cho
người lớn.
Cách pḥòng bệnh này cần được thi hành ngay từ khi lọt
lọ̀ng mẹ, và phải thích ứng với nhu cầu và sở thích của từng lứa tuổi và
từng văn hóa. Một số khá lớn các mục sư Mỹ vừa trao dồi kiến thức về quá
trình phát triển con người cũng như phát triển đức tin theo từng lứa tuổi,
vừa chuyên cần học hỏi về vấn đề đa văn hóa. Chúng ta lầm to nếu chúng ta
nghĩ chúng ta hiểu các em Việt Nam với chúng ta cùng một văn
hóa.
Ngay trên đất Mỹ cũng có những văn hóa khác nhau, mà nếu chỉ
nhìn mặt, nhìn tên không thì không biết được. Ngay cả một cô giáo Việt Nam
trẻ sanh ra tại Mỹ, học giỏi, đạo đức, đã có một khoảng cách đáng kể với
các em Việt Nam học kém trong lớp, huống chi là những người như chúng tôi,
sinh trưởng tại Việt Nam. Khoảng cách càng xa ta càng cần tìm hiểu và cố
gắng để bắc cầu được với tâm hồn các em. Rồi chính các em này sẽ là những
nhà truyền giáo hữu hiệu, ngay bây giờ hay sau này, cho những em khác cùng
văn hóa với chúng. Với một cộng đoàn CGViệt Nam tại hải ngoại rất đa diện
và phức tạp, nên cần rất nhiều người, nhiều giới cộng tác.
Trong
khung cảnh liên tôn, bắc cầu tình thương với các anh chị em ngoài Công
Giáo lại càng cần thiết hơn. Đại Sư Thích Nhất Hạnh viết trong cuốn
Living Buddha, Living Christ là từ những nhịp cầu thương yêu của
các bạn Thiên Chúa Giáo mà Đại Sư đă đổi từ ác cảm đối với Thiên Chúa Giáo
qua thiện cảm, và dự thánh lễ Công Giáo nữa.
Xin Chúa Thánh Thần
tiếp tục hướng dẫn và gợi lên trong ḷòng mỗi Kitô hữu sự nhiệt thành
truyền giáo và lưu tâm đến những anh chị em sống chung quanh ḿnh. Bởi với
chia sẽ niềm tin cho người khác chính là cũng cố niềm tin của ḿình. Bao
lâu cộng đoàn giáo xứ hay mỗi một cá nhân không chia sẽ niềm tin, hoặc
không cổ võ việc truyền giáo theo niềm tin của chúng ta sẽ dần phai nhạt
và khô héo. Chính công việc truyền giáo đã nuôi dưỡng sức sống của Giáo
Hội. Như Đức Thánh Cha Phao-lô VI nhấn mạnh, Giáo
Hội không những sinh ra để truyền giáo, nhưng chính công việc truyền giáo
đă khai sinh Giáo Hội. Thật thế, Đức Kitô đă rao giảng tin mừng
trước khi Ngài thành lập Giáo Hội, và Giáo Hội đă không ngừng tiếp tục sứ
mạng của Đức Kitô qua mọi thời đại. Xin cho mỗi người chúng ta cũng luôn
mang tâm t́nh và ḷng nhiệt thành của Đức Kitô, để Tin mừng được rao
giảng, để tình thương của Ngài được chạm đến mỗi một con tim trong gia
đ́nh nhân loại.
Sách Thao
Khảo
Boyack, K. (Ed.). (1987). Catholic
evangelization today: A new Pentecost for the United States . Mahwah, NJ: Paulist Press.
Boyack,
K. (Ed.). (1992). The new Catholic evangelization. Mahwah, NJ:
Paulist Press.
Boyack, K. (1995). “Go
and make disciple: The United States Bishops’ National plan for
Catholic evangelization.” In
W. Houck, P. Williamson, & M. Ralph (Eds.) John Paul II and the new
evangelization: How you can bring the Good News to others. Ft.
Collins, CO: Ignatius Press.
Emmons, R.A., & Paloutzian, R. F.
(2003). The psychology of religion. Annual Review of Psychology,
54:377-402.
Fowler, J. (1981). Stages of faith: The psychology
of human development and the quest for meaning. New York: Harper
Collins Publisher.
Nhất Hạnh. (1997). Living Buddha, living
Christ. New York: Riverhead Books.
Hoge, D. (1981). Converts, dropouts,
returnees: A study of religious change among Catholics. Cleveland, OH:
Pilgrim Press.
Houck, W., Williamson, P., & Ralph, M. (Eds.).
(1995). John Paul II and the new evangelization: How you can bring the
Good News to others. Ft. Collins, CO: Ignatius Press.
United States Conference Catholic Bishops
(USCCB) Committee on Evangelization. (1998). A time to listen, a time
to heal: A resource directory for reaching out to inactive Catholics.
Washington, DC: USCCB.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
Ý Chúa ??? |
Sau Thánh Lễ sang, một nhóm các bà đạo đức quây
quần cầu nguyện bên Đức Mẹ. Thấy tôi đi ngang, một bà trong nhóm lên
tiếng : “Thầy ơi ! Nhờ quý Thầy cầu nguyện cho chúng con. Chúng con
đang cầu nguyện cho một cô kia bị ung thư nặng lắm, gia đình cô theo
Phật, cô cũng đã quy y”. Tôi chưa kịp phản ứng gì thì một bà khác
lại tiếp : “Bố mẹ của cô ấy nói, nếu chúng con cầu nguyện cho cô ấy
lành bệnh thì gia đình cô ấy sẽ tháo bàn thờ Phật xuống để theo Chúa
!”.
Nghe xong lời của hai bà đạo đức ấy, bỗng dưng
tôi nghẹn lời và tôi chắp tay xá các bà và vội vàng cất bước ra đi
chứ chẳng dám đứng lại đó để nghe các bà nói thêm.
Sau khi nghe các lời ấy, lòng tôi cảm thấy có
cái gì đó nhoi nhói trong lòng. Tội nghiệp Chúa quá ! Chúa đã chết
hơn 2000 năm rồi mà vẫn còn chưa yên.
Chiều nay nhìn lên thập tự, thấy sao mà thương
Chúa quá ! Chúa đã chết rồi mà người ta vẫn chưa để cho Chúa được
yên. Cái gì người ta cũng đổ cho Chúa cả, mà thật ra Chúa có muốn
như thế đâu.
Chuyện cái cô gì đó bị bệnh ung thư như người
đang đứng trước bờ vực của lưỡi hái tử thần, được các bà đạo đức đến
thăm nom trong cơn đau đớn ấy như vớ được một cái phao để bám vào.
Còn hơn nữa là những lời cầu nguyện mang hơi hám sặc mùi đạo đức vì
Chúa được đưa vào. Các bà đạo đức cảm thấy ăn chắc khi giao cho Chúa
chuyện khó khăn này.
Tôi cảm thấy buồn cười là những bà đạo đức chơi
trò đánh đố với Chúa chứ không phải để cho thánh ý Chúa thể hiện
trong cuộc đời này. Giả như Chúa cho lành bệnh ung thư thì sẽ bỏ
Phật để theo Chúa và sau đó chẳng may bị tiểu đường mà Phật chữa thì
lại bỏ Chúa theo Phật chăng ? Chúa nào mà đấu đá với Phật, Phật nào
mà giành giật với Chúa một cách thua đủ như thế ! Chẳng lẽ vì chuyện
của một người mà Phật phải buồn Chúa khi có một đệ tử bỏ mình theo
Chúa sao ? Và nếu như thế thì Chúa cũng chẳng muốn để cho Phật buồn.
Hoá ra người ta theo Chúa, theo Phật để rồi bảo Chúa và Phật theo ý
của họ chứ họ không xin Chúa, Phật giúp cho họ đón nhận thánh ý của
Chúa hay Phật. Làm Chúa, làm Phật để người ta điều khiển theo ý của
người ta thì bảo tôi làm Chúa làm Phật tôi cũng chẳng dám làm.
Trở lại chuyện thường ngày ở huyện.
Chúa chẳng làm gì nên tình nên tội cả mà lúc
nào họ cũng bảo “ý Chúa”. Thực tế thì chẳng thấy ý Chúa đâu cả mà
toàn là ý của con người và áp đặt vào cho Chúa. Đây là chuyện thường
xảy ra trong đời thường khi họ thấy biến cố nào đó xảy đến. Lẽ ra họ
phải chìm đắm trong sâu lắng để đọc ra Chúa muốn nói cái gì với họ
qua biến cố đó, đàng này họ chỉ nhìn bề mặt của biến cố và phán
quyết “ý Chúa”.
Tôi không phủ nhận việc tốt lành của các bà đạo
đức và nhiều nhóm đạo đức ngày đêm chuyên cần cầu nguyện. Thế nhưng
phải cẩn thận đừng biến ý của mình thành ý của Chúa. Ta xin Chúa ban
sức cho ta sống theo Thánh ý Chúa chứ đừng bảo Chúa sống theo ý của
ta !
Buồn cười một chuyện nữa về chuyện “ý Chúa” xảy
đến trong các nhà tu. Phải nhìn nhận thẳng một chuyện khá đau lòng
đó là bất cứ chuyện gì người ta cũng quy cho Chúa cả. Cũng có lý
thôi vì những người tu sống gần Chúa hơn người đời mà.
Thế nhưng đau một chỗ là nhiều khi người tu
nhân danh Chúa để thoả mãn ý riêng của mình mà lại quy cho Chúa. Nếu
thực sự nghiêm túc đưa vấn đề dưới ánh sáng của lương tâm thì những
người có lương tâm ngay thẳng không bao giờ xử sự với nhau như thế
đàng này người ta có thể theo ý riêng của mình mà gạt lương tâm ra
để giải quyết vấn đề và lại quy cho Chúa. Có những chuyện rõ rõ rành
rành thế nhưng để bảo vệ cho phe cánh mình, cho ý riêng mình và
người ta lại đùn cho Chúa. Tội nghiệp Chúa quá !
Có lẽ đến lúc giáo dân cũng như những người
sống trong nhà tu phải nghiêm chỉnh duyệt xét lại cách hành xử của
mình theo tiếng nói lương tâm chứ đừng bao giờ lèo lái ý của mình
xong rồi lại đổ cho Chúa.
Nhớ lại lời của một Cha giáo : “Anh em khoan
hãy nghĩ đến chuyện bác ái trong đời tu. Trước khi nghĩ đến bác ái
hãy nghĩ đến và sống công bằng đi ! Tại sao sống trong cộng đoàn mà
người lại được hưởng chế độ này, người bị chèn ép theo phe cánh kia
!”
Thế đấy ! sống không công bằng với nhau, xử với
nhau theo ý riêng của mình, thoả mãn cho dục vọng của mình cuối cùng
lại đổ thừa ý Chúa. Đâu phải thấy Chúa hiền lành và khiêm nhường,
Chúa lúc nào cũng im hơi lặng tiếng nơi nhà Chầu bé nhỏ, Chúa ngao
ngán trên thập giá để rồi ta muốn làm gì thì làm, ta muốn nói gì
nói. Hãy coi chừng ! Chúa còn sống cơ mà !
Đời tạm này ta có thể lấp liếm nhau, ta có thể
chơi trò hai mặt với Chúa nhưng một ngày nào đó diện đối diện với
Chúa ta sẽ tra lời sao vì biết bao lần ta cứ đổ thừa “ý Chúa”.
Anmai, C.Ss.R.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
TÌNH YÊU
NHIỆM MÀU |
“......Thánh Thần sẽ ngự xuống trên Bà và quyền năng Đấng Tối
Cao sẽ rợp bóng Bà, vì thế người con sinh ra sẽ là Thánh và được
gọi là Con Thiên Chúa” (Luca I, 35). Đây là màu
nhiệm nhập thể do bàn tay quyền năng của Thiên Chúa tạo thành
không qua phương cách bình thường giữa người nam và người nữ.
Huyền nhiệm này cũng chỉ có Thiên Chúa mới mật bí cho chúng ta
được mà thôi. Đó là NIỀM TIN. Giáng sinh phải chăng là một Niềm
Tin? Niềm Tin này sẽ khởi phát và mở tung vào thế giới tình yêu
đích thực vô biên của con người với bản chất Nhân chi sơ tính
bản thiện.
Chỉ
còn ba tuần lễ nữa thì Giáng Sinh. Mọi người, mọi dân tộc trên
khắp thế giới đều bận rộn, ngóng chờ những giây phút trọng đại
ấy. Có người nói nó sẽ rất huy hoàng, có người nói có thể rất
đen tối vì xã hội sẽ rối loạn hoặc tận thế. Giáo Hội chọn năm
2000 là năm thánh. Tất cả là bí mật, giống như một đống quà được
gói cẩn thận đẹp đẽ đang đặt dưới gốc cây Giáng Sinh trong mỗi
gia đình. Những đứa trẻ nôn nóng muốn biết bí mật ở bên trong.
Chúng muốn cầm lên và lắc thử xem nó là cái gì. Chúng sẽ hỏi cha
mẹ “Cái gì ở trong này hử bố mẹ?”.....có ăn được không? ...có
mặc được không?..có đi được không?..có chơi được không? Sáng
ngày Giáng Sinh, mọi tặng vật đều được mở ra thì bí mật không
còn là bí mật nữa.
Có những
bí mật không thể giải quyết một cách dễ dàng như vậy. Có những
bí mật không thể giải quyết bằng giác quan, hình thù mạo diện
bên ngoài hoặc lý luận bằng trí khôn bất toàn hay khoa học hạn
hẹp của con người, mà đòi hỏi phải có những kinh nghiệm nội tại
phát xuất từ đáy lòng tâm tư của mình. Trực giác, trực cảm, cảm
thông, hiệp thông. Tình yêu là một bí mật. Yêu mình thì dễ mà
yêu người thì thật là khó. Chúng ta không thể cắt nghĩa được
tình yêu nhưng nó là một sự thực hiển nhiên. Chúng ta cảm thấy
và chẳng cần phải có ai cắt nghĩa. Có cố gắng cắt nghĩa thì cũng
chỉ dùng thể so sánh “Tình yêu đẹp và dịu dàng như mặt nước mùa
thu, như trăng mờ bên suối, hoặc tình yêu mãnh liệt như thác đổ
mây ngàn...” Khi cha mẹ hay người yêu của ta mất, cái đớn đau
thương cảm của ta nó xót xa thế nào thì chỉ có ta hiểu và thấm
thía, chẳng có ai có thể cắt nghĩa và cảm thông được, có chăng
là suy diễn do kinh nghiệm tâm tư của mỗi người. Thánh Phao Lô
trong thư gửi dân thành Roma đã nhắc đến loại màu nhiệm bí mật
này: “Vinh danh Thiên Chúa, Đấng có quyền năng làm cho anh
em được vững mạnh theo Tin Mừng tôi loan báo, khi rao giảng Đức
Giê Su Kitô. Tin Mừng đó mặc khải màu nhiệm vốn được giữ kín từ
ngàn xưa nhưng nay lại được biểu lộ như lời các Ngôn Sứ trong
Sách Thánh. Theo lệnh của Thiên Chúa, Đấng hằng có đời đời, màu
nhiệm này được thông báo cho muôn dân biết, để họ tin mà vâng
phục Thiên Chúa.” (Roma 16: 25,26) . Màu nhiệm
được giữ kín từ ngàn xưa theo kế hoạch của Thiên Chúa được mặc
khải trong thời gian qua lịch sử Do Thái; các ngôn sứ đã thông
báo nhưng người ta không thể hiểu được kế hoạch ấy. Đức Giê Su
đã đến và cho người ta thấy rồi các tông đồ loan báo sứ điệp cứu
độ ấy.
Đây là
một loại màu nhiệm mà chúng ta chỉ có thể biết được do trực cảm
từ đáy lòng tâm tư ta. Màu nhiệm này đã được Thánh Phao Lô làm
nổi bật qua bàn tay huyền diệu của Thiên Chúa thể hiện trong
lịch sử loài người. Tình yêu của Chúa đối với con người và con
người đối với tha nhân. Tình yêu này chúng ta không tài nào hiểu
nổi bằng lý luận, giác quan...mà chỉ có thể hiểu được một khi
chúng ta tự mở rộng lòng chúng ta, cái tâm thiện của chúng ta và
đem san sẻ với tha nhân, những người anh em huynh đệ không phân
biệt màu da, tiếng nói, tôn giáo, địa phương...Tha Nhân đây
chính là Thiên Chúa (Mt..25:40&45) Có nhiều người không ưa
dùng từ “màu nhiệm” bởi nó nói lên cái khả năng hiểu biết giới
hạn của con người và do đó người ta không thể kiểm chứng nổi.
Nhưng thực ra đây không phải là cái mà ta có thể biết được một
cách rõ ràng như khi ta tin vào một bí mật trong khoa học thực
nghiệm. Màu nhiệm này đòi hỏi sự tôn thờ và kính sợ ở ngay chính
trong tâm chúng ta, trong kinh nghiệm niềm tin tín ngưỡng đích
thực. Mỗi khi chúng ta thực tâm tin chọn và ấp ủ nhiệm màu đích
thực đó từ đáy lòng ta thì ta đã được mở toang lòng để bước vào
thế giới huyền diệu trong cuộc sống mới của loài người. Khi
chúng ta làm một việc thiện, gửi 10$, 50$, 100$ hay 200$...vào
quĩ cứu trợ nạn lụt miền Trung để chia sẻ, cảm thông sự khốn
cùng hoạn nạn với những người kém may mắn ở quê nhà mà không
nghĩ đến phải cho người công giáo, phật giáo, cao đài, dân quê
tôi, làng tôi, họ đạo tôi, địa phận tôi...hoặc vì ẩn ý cá nhân
phe nhóm nào mà lòng cảm thấy hứng khởi vui mừng thì bạn đã có
được Kinh nghiệm Niềm Tin Nhiệm Màu Tình Yêu Thiên Chúa đối với
loài người và loài người đối với tha nhân.
Tha
nhân quanh ta chính là Thiên Chúa. (Mt. 25: 40 & 45)
Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh
Pace Islands, Florida
Giáng
Sinh 2007
|
VỀ MỤC LỤC |
|
TÀI KHOẢN VÔ GIÁ
|
Không
rõ tác giả
Có một ngân
hàng, mỗi buổi sáng,cung cấp vào tài khoản của bạn
86400USD.
Số dư trong tài khoản không được phép chuyển từ ngày này qua
ngày khác.
Mỗi buổi
chiều, ngân hàng sẽ hủy bỏ hết số dư còn lại mà bạn đã không
dùng hết trong ngày.
Bạn sẽ
phải làm gì?
Sử dụng hết
số tiền đó, dĩ nhiên !
Mỗi người
trong chúng ta đều có một ngân hàng như vậy.
Tên ngân
hàng là
THỜI GIAN.
Mỗi buổi
sáng, ngân hàng này cung cấp cho bạn
86.400 giây.
Vào mỗi
buổi tối, ngân hàng sẽ xóa bỏ, coi như bạn mất, thời gian mà bạn
không đầu tư được vào các mục đích tốt.
Ngân hàng
không cho phép bạn được để lại số dư trong tài khoản.
Cũng không
cho phép bạn bội chi.
Mỗi ngày,
ngân hàng lại mở một tài khoản mới cho bạn.
Mỗi tối nó
lại hủy hết những gì còn lại trong ngày.
Nếu bạn
không dùng được hết thời gian mà bạn có trong ngày, người bị mất
chính là bạn.
Không có chuyện
quay lại ngày hôm qua.
Không có
chuyện tiêu trước cho "ngày
mai"
Bạn phải
sống bằng những gì bạn có trong tài khoản ngày hôm nay.
Hãy đầu tư
vào đấy bằng cách nào đó, để bạn có thể nhận được nhiều sức
khỏe, hạnh phúc, và thành công nhất !
Đồng hồ vẫn
đang chạy.
Hãy cố thực
hiện thật nhiều trong ngày hôm nay.
Để biết được giá trị của
MỘT NĂM,
hãy hỏi một học sinh bị ở lại một lớp.
Để biết được giá trị của
MỘT THÁNG,
hãy hỏi một người mẹ sinh con thiếu tháng.
Để biết được giá trị của
MỘT TUẦN,
hãy hỏi biên tập viên của một tuần báo.
Để biết được giá trị của
MỘT GIỜ,
hãy hỏi những người yêu nhau đang mong chờ được gặp nhau.
Để biết được giá trị của
MỘT PHÚT,
hãy hỏi một người bị lỡ chuyến tàu.
Để biết được giá trị của
MỘT GIÂY,
hãy hỏi một người vừa thoát khỏi một tai nạn.
Để biết được giá trị của
MỘT PHẦN NGÀN GIÂY,
hãy hỏi người vừa nhận được huy chương bạc trong kỳ thi Olympic.
Hãy quý trọng từng giây phút mà bạn có !
Và hãy nên quý thời gian hơn nữa
bởi vì bạn đang chia sẻ thời gian đó với ai đấy thật đặc
biệtđốivớibạn,
đủ đặc biệt để có thể chia sẻ thời gian của bạn.
Và hãy nhớ rằng thời gian chẳng chờ đợi ai cả.
Ngày hôm qua dã là lịch sử. Ngày mai là một bí ẩn.
Hôm nay là quà tặng. Cũng vì vậy mà nó được gọi là
PRESENT !
(có nghĩa là
HIỆN TẠI,
mà cũng có nghĩa là
QUÀ TẶNG
).
Bạn bè thật
sự là một loại nữ trang quý hiếm.
Họ khiến
bạn mĩm cười và khuyến khích bạn thành công.
Họ lắng
nghe bạn, họ chia sẻ với bạn những lời khen tặng, và họ luôn
muốn mở trái tim ra với chúng ta.
Hãy gởi
những lời này đến với ai mà bạn xem như
BẠN MÌNH,
Và nếu
những dòng này lại trở về với bạn,
Bạn
ắt biết rằng bạn đang có một vòng tròn bạn hữu
|
VỀ MỤC LỤC |
|
Sợ điều đáng sợ |
Anh trưởng phòng đièu hành phong trào Cursillo
bảo tôi viết bài cho phong trào. Vì trách nhiệm và vì mến anh, tôi
muốn viết lắm, viết trong lúc rảnh rỗi, nhưng vừa nhận công việc mới
nên tôi sợ không dám cài đặt Vietkey vào máy tính, cũng sợ đồng
nghiệp thấy tôi viết tiếng Việt trong giờ làm việc, và lại sợ xếp
của tôi thấy mặt tôi suy tư ‘khác’ với kiểu suy nghĩ của việc làm.
Tôi sợ là phải vì “làm việc” là điều quan trọng nhất trong sở làm và
“việc làm” lại là một trong những điều quan trọng nhất cho riêng tôi
và cho gia đình.
Tuần trước, tôi phải bay sang thành phố
Carthage, tiểu bang Misssouri để dự đám tang người thân. Phi trường
Japlin của thành phố Carthage không có nhiều chuyến bay nên tôi phải
đi một chặng đường bằng máy bay nhỏ với 19 chỗ ngồi. Máy bay chao
đảo nhiều lần khi gặp gió lớn làm tôi sợ, sợ lắm. Tôi vốn sợ chiều
cao và sợ đi roller coaster nên tôi sợ máy bay nhỏ là phải.
Thật vây, có nhiều cái sợ chính đáng và do bản
tính không thể tránh được, nhưng hình như cũng có những cái sợ không
đáng sợ.
Tôi xin mở một cái ngoặc trước khi viết tiếp:
khi chiếc máy bay nhỏ sắp cất cánh rời phi trường Chicago thì anh
hành khách bên cạnh tôi nghiêm trang làm dấu thánh giá và cúi đầu
cầu nguyện. Anh không phải nhà tu hành, nhưng là chủ một tờ báo nhỏ.
Anh trở về sau chuyến công tác ở San Jose. Sự cầu nguyện của anh làm
tôi ngượng với chính tôi. Thực ra tôi cũng đã cầu nguyện đấy, nhưng
có lẽ tôi không cầu nguyện… như anh nên tôi không mấy bình an… như
anh. Xin đóng ngoặc.
Nàng nhà tôi rất sạch sẽ (tôi khen đấy nhá),
chén bát trong nhà lúc nào cũng phải rửa bằng xà phòng loại mắc
tiền, có nhiều bọt, và thơm phức vì nàng sợ chén bát dơ, sợ mỡ
đường, thức ăn dính vào chén bát sẽ lên men, từ đó có vi trùng sinh
bệnh tật. Vì qúa sợ vi trùng, vi khuẩn, nàng dùng nhiều xà phòng,
nhưng đôi khi lại không xả nước kỹ nên xà phòng còn dính vào ly cốc.
Vài lần, tôi đã chỉ cho nàng thấy ly nước có bọt vì còn dính xà
phòng. Vài lần thôi rồi. Để khỏi ‘mất lòng nhau’, tôi không nói nữa,
nhưng cám ơn Chúa sự cố ấy đã qua.
Nàng nhà tôi sợ vi khuẩn từ mỡ đường dính ở
chén bát, nhưng lại không sợ những chất hóa học độc hại từ những sản
phẩm dùng hằng ngày như các loại keo sơn, thuốc tẩy, thuốc gội đầu…
Cũng như có nhiều người quá sợ mùi hôi trong
nhà vệ sinh, nhưng lại không sợ chất độc từ những bình gọi là fresh
air nên cứ vô tư xịt khắp nhà, trắng như tuyết rơi. Lại có nhiều
người sợ bụi bặm từ ngoài bay vào nhà nên đóng kín các cửa nhà, cửa
to cửa bé, cửa trước cửa sau. Đóng hết. Họ sợ chút bụi bặm, nhưng
lại không sợ nhà thiếu không khí trong lành của một ngày mới, hoặc
thanh khí của những đêm gió mát vì cửa nhà… đóng kín.
Đúng là sợ quá lố và sợ những cái không đáng
sợ.
Tôi cũng thấy có những người rất sợ thức ăn rơi
xuống sàn nhà dù những thức ăn ấy chẳng dễ dính bụi dơ như một miếng
bánh mì. Và sàn nhà thì cũng rất sạch. Vậy mà bất cứ thức ăn nào rơi
xuống sàn nhà là họ quẳng vào thùng rác ngay. Cả một tờ napskin gió
bay xuống sàn nhà cũng thế. Họ sợ mất vệ sinh, sợ bị đau bụng, sợ
bệnh tật, nhưng lại chẳng sợ tí nào khi ăn cả tô thịt béo ngậy hoặc
xơi cả nửa lít cà rem đầy đường.
Với thế hệ người Việt thứ hai, sinh ra ở Mỹ, có
những người rất sợ các loại côn trùng như con kiến, con mối, hoặc
con ruồi, nhưng lại chẳng sợ tí nào khi phóng xe bạt mạng trên xa lộ
hoặc vừa lái xe, vừa ăn uống, và vừa chơi giỡn hoặc nói truyện bằng
điện thoại.
Còn với thế hệ baby boomer ở Việt Nam thì tôi
thấy có nhiều người cứ hay sợ người khác ám hại, sợ người khác dành
đường, sợ cúm gà H5N1, và đã phần nào ý thức nên cũng sợ môi sinh ô
nhiễm…nhưng lại chẳng sợ lách xe qua phố đông người khi đã uống say
bí tỉ hoặc ngồi cả giờ trong quán đầy khói thuốc.
Có những người trẻ Việt cũng như Mỹ rất sợ khi
nói về chiến tranh, sợ máu chảy, và sợ không dám nhìn người khác
giết một con gà hay con vịt, nhưng lại chẳng sợ khi chở nhau đến
những trung tâm phá thai để giết đi chính đứa con trong bụng của
mình. Mà chẳng phải chỉ người trẻ tuổi đâu, có những người lớn cũng
sợ mất ‘tí mặt’, mất tí danh dự trước người đời, nhưng lại chẳng sợ
tí nào khi bước vào những trung tâm nạo thai. Những người này sợ mất
một chút danh hão mau qua, nhưng lại chẳng sợ khi giết đi một mạng
người. Tôi vô cùng cảm phục chị Sáu trong xóm đạo của tôi, lớn tuổi
rồi mà chị vẫn hằng tuần âm thầm chở đứa cháu ngoại đi học kinh xưng
tội vì mẹ nó tuổi chưa đầy 20 và bố của nó chẳng biết giờ đã trôi
dạt phương nào. Gặp tôi chị hay cười như khóc: “buồn lắm chú ơi”.
Chị buồn nhưng thật can đảm.
Tôi lại thấy (thấy chứ không phải viễn kiến như
thánh Gioan) có những linh mục còn trẻ mà đã sợ cho tuổi già cô đơn,
không có người chăm sóc, sợ lúc bệnh hoạn không có tiền bạc để tiêu
dùng. Các Ngài sợ cô đơn cho một tương lai chưa tới mà lại không sợ
khi tự cô lập mình khỏi tập thể linh mục lúc tuổi còn trẻ, khi không
dám chia sẻ buồn vui với những đồng môn lúc tuổi chưa già. “Không lo
cho mình thì ai lo cho đây?” “Thưa cha, con chưa thấy một vị linh
mục nào sống trọn vẹn tuổi trẻ cho giáo dân mà lại thiếu thốn túng
quẫn lúc về già”.
Có những quí ông chồng lúc nào cũng sợ “mất
vợ”, nhưng lại chẳng sợ tí nào khi làm “mất lòng vợ” bằng những lớn
tiếng hống hách hoặc những ươn lười vô ích . Ngược lại thì có những
quí bà vợ chỉ sợ “chồng không thương” mình, nhưng lại chẳng sợ tí
nào khi mình “không thương chồng” cho đủ và cho đúng. Các bà sợ
chồng không thương, nhưng lại chẳng sợ khi cứ ôm lấy cái định nghĩa
sai lầm ‘yêu em là phải làm những gì em yêu’. Thật Chúa cũng phải
thua: “Thà cho Ta bác cây cầu một nhịp từ bờ biển San Diego sang đến
tận Hawaii còn dễ hơn con ạ”.
Rồi tôi cũng lại thấy có nhiều người sợ ma là
loài hư hư thực thực, lúc có lúc không, hoặc chỉ là những hiện tượng
vật lý, nhưng lại chẳng sợ quỉ là loài có thực. Họ sợ ma là loài
chẳng làm gì hại được người còn sống, nhưng lại không sợ loài quỉ là
loài luôn tìm cách ám hại và bắt đi linh hồn của mình. Có lẽ tại quỉ
ít khi xuất hiện như loài ‘quỉ’ thật chăng?
Riêng tôi thì sao?
Ấy, tôi hay sợ người khác hơn là sợ chính tôi.
Tôi sợ người khác nhìn thấy điều xấu tôi làm, nhưng lại chẳng sợ tôi
nhìn thấy tôi. Tôi hay sợ người khác lừa dối, tham lam, trổi vượt
hơn tôi…dù người khác ở xa tôi, nhưng tôi lại chăng sợ cái tôi đầy
tham vọng, đầy đam mê, đầy dục vọng, háo sắc… nó ở ngay trong tôi.
Thế đấy. Thôi. Tôi không viết về tôi nữa vì
càng viết tôi càng thấy sợ mình hơn.
Tôi cũng không viết về cái sợ nữa vì càng viết
tôi càng thấy có nhiều cái sợ không đáng sợ và ngược lại.
Tối nay, khi ở nhà tập thể dục đi về. Lên xe,
tôi chưa gài dây an toàn thì đèn xanh đã lên. Đèn xanh thì chạy,
nhưng một chiếc pickup lớn vượt đèn đỏ cắt ngay trước xe của tôi
trong gang tấc với tốc độ khủng khiếp đến độ tôi không nhận ra loại
xe gì vì trời vừa sập tối. Tôi xững sờ như vừa thấy lưỡi kiếm sắc
vút qua cổ mình cho đến khi người bạn lái xe phía sau gọi điện
thoại: “ Oh Gohs, you’re so lucky. Ìf you move secs early you die
instantly”. “Yeah, God saved me”.
Chúa đã cứu tôi? Chắc thế vì hôm nay là ngày 27
tháng 11, năm 2007, ngày tôi cưới nàng của tôi 20 năm trước. Chúa đã
cứu tôi? Chắc thế và đã cho tôi thấy: “Tuần trước máy bay của con
chao đảo trong gió mà không sao, tối nay ở trên xe SUV, như rất an
toàn mà con lại suýt toi mạng đấy”.
Chẳng biết có sự trùng hợp hay Chúa muốn dậy
thêm tôi một bài học, một extra homework mà khi đọc kinh tối nay thì
lại có đoạn Tin Mừng: Chúa đến lúc con người ta không ngờ, và theo
cách thế con người không biết được vì “hai người đàn ông đang chăm
chú chơi game trong khu Phúc Lộc Thọ thì một người còn và một người
mất, hai người đàn bà đang mải mê vắt sổ trong chợ Tầu thì cũng một
người còn, một người bị đem đi…”
Lạy Chúa, xin cho con biết
sợ điều đáng sợ, chứ đừng sợ điều không đáng.
Xin cho con biết sợ điều
hèn, điều xấu, và sợ tội, chứ đừng sợ cái nghèo vật chất.
Xin cho biết sợ cái tham
trong con, chứ đừng sợ những tay mafia chủ những sòng bài.
Xin cho con biết sợ lòng ích
kỷ trong con, chứ đừng sợ cô đơn nhỏ bé không đáng.
Joseph Vũ |
VỀ MỤC LỤC |
|
THỐNG HỐI |
Trong Phúc
Âm Thánh Luca (3, 2-6), Thánh Gioan Bao-ti-xi-ta được giao phó
sứ mệnh như sau: “…có lời Thiên Chúa phán cùng con ông
Da-ca-ri-a là ông Gioan trong hoang địa. Ông liền đi khắp vùng
ven sông Gio-đan, rao giảng, kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ
lòng sám hối để được ơn tha tội, như có lời chép trong sách ngôn
sứ I-sai-a rằng: ‘Có tiếng người hô trong hoang địa: hãy dọn
sẵn con đường cho Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Mọi thung
lũng phải lấp cho đầy, mọi núi đồi phải bạt cho thấp, khúc quanh
co phải uốn cho ngay, đường lồi lõm phải san cho phẳng. Rồi hết
mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa.’”
***
Đó là một
công việc khá vất vả. Thánh Gioan Tẩy Giả
đã rảo bước khắp miền Palestine. Sứ điệp của ngài thật đơn giản
nhưng cấp bách: Đấng Thiên Sai sẽ đến. Hãy chuẩn bị tâm hồn. Hãy
sửa sang lại những con đường khúc khuỷu quanh co. Hãy
thống hối!
Những biến
cố sau đó cho thấy một số người nghe theo và một số người không
nghe. Về sau, Chúa Giêsu cũng băng qua những con đường đó cùng
với một sứ điệp như thế: Hãy thống hối! Hãy thay
đổi cuộc sống. Hãy trở nên môn đệ của tôi.
Lời kêu gọi
của Gioan đôi khi có tính cách bộc trực và hăm dọa. Lời kêu gọi
của Chúa Giêsu có tính cách ân cần, đầy lòng nhân ái, ít gây tức
giận, đầy tình thương và giàu lòng mẫn cảm. Chúa Giêsu giúp dân
chúng hoán cải. Ngài không bao giờ cố tình bắt nạt hay bức bách
bất cứ ai thống hối. Một số người nghe theo và một số người
không nghe.
Kể từ đó có
nhiều thay đổi. Nhưng một câu ngạn ngữ đã nói:
sự việc càng đổi thay, càng giữ nguyên trạng.
Oscar
Wilde
Sau khi xem
trình diễn lần đầu tiên một trong những kịch bản của mình,
Oscar Wilde lui về câu lạc bộ nghỉ ngơi. Một người bạn hỏi
ông: “Vở kịch tối nay như thế nào?” Oscar trả lời: “Vở
kịch thành công lớn, nhưng khán giả thật thảm bại.”
Câu chuyện
cứu rỗi mang đến cho chúng ta hai phần vẫn còn chưa biểu lộ hết:
Những gì Chúa làm cho chúng ta và sự đáp trả của chúng ta đối
với những điều Chúa đã làm.
Tôi hình
dung Chúa Cha nói với Chúa Giêsu như sau: “Con ơi, hãy nói
cho Cha biết sứ vụ của con trên trần thế diễn tiến như thế nào?”
Tôi hình dung Chúa Giêsu nhìn xuống trần thế và trả lời: “Cha
ơi, sứ vụ của con thành công mỹ mãn, nhưng còn người trần thế…”
Không phải
phần việc của tôi phải nói cho hết câu. Chính Chúa Giêsu mới nói
cho trọn câu. Điều chúng ta có thể nói là lời kêu gọi thống hối
không bao giờ thay đổi. Nhưng có những người lắng nghe và
những người không quan tâm.
Hình ảnh
nghèo nàn
Bất hạnh
thay, từ ngữ “thống hối” gợi lên một hình ảnh
nghèo nàn, mang lại một hậu quả tiêu cực. Từ ngữ đó có âm bội cổ
lổ sĩ, mang tính cách sùng đạo mê muội khiến dân chúng quay lưng
lại. Từ ngữ đó gây nên một âm hưởng như sau: bạn phải đè bẹp
mình xuống. Bạn phải ép mình vào một thứ tôn giáo cổ xưa.
Ngôn từ
giống như trận chiến
Nói đúng
hơn, nếu từ ngữ chính xác, tức trận chiến đã thắng. Nếu từ ngữ
không minh bạch sẽ chuốc lấy thảm bại. Từ ngữ “thống hối”
gây ra ấn tượng thất bại. Tuy nhiên, chúng ta không thể kéo cờ
trắng đầu hàng. Chúng ta không thể vứt bỏ từ ngữ đó được.
Chúng ta
đang sống trong một thời đại mà nhiều người hổ thẹn về sự thống
hối và không thấy có lý do để thú nhận tội lỗi mình. Tuy nhiên,
những người trẻ cũng như già – và phần đông trẻ nhiều hơn già –
đã chia sẻ trên những băng tầng phát thanh hay truyền hình khắp
nơi để thú nhận những điều riêng tư nhất – có khi đầy dơ bẩn xấu
xa – về cuộc sống của chính cá nhân họ.
Tất cả
những điều đó đã xảy ra vào một thời điểm mà tâm lý học và tâm
lý trị liệu đã tái khám phá giá trị của sự thống hối.
Vài người trong họ đã van xin như Thánh Gioan Bao-ti-xi-ta ngày
xưa. Họ không uốn lưỡi. Họ nói thẳng thừng với thính giả: Nếu
bạn không thống hối những lỗi lầm quá khứ, bạn sẽ tái phạm và
khi tái phạm mãi, bạn trở nên bệnh hoạn.
Nếu bạn
không thống hối…nói cách khác, nếu bạn không hoán cãi, chắc chắn
bạn phải chết. Bạn trở thành một cái xác không hồn, tuy bạn vẫn
đi đứng như người bình thường. Ở một giai tầng nào đó, có thể
bạn hoạt động rất hữu hiệu và thành công trong xã hội. Nhưng ở
một mức độ cao hơn, ở trong sâu thẳm nội tâm của bạn mới là vấn
đề. Bạn có thể trở thành một con người tuy vẫn đi đứng, cử động,
nhưng đã chết về mặt tinh thần.
Mười hai
bước tiến
Trong xã
hội của giới nghiện ngập, người ta hiểu rõ tầm mức quan trọng
của việc thống hối hơn những người ngày nay thường lui tới nhà
thờ. Điều đó có lạ lùng không? Chương trình “mười hai bước
tiến” áp dụng cho giới nghiện ngập cho thấy người ta
phải thống hối, phải chấm dứt cách sống mang lại sự huỷ diệt,
nếu không, người ta tự huỷ hoại lấy mình, rồi rơi xuống hố sâu
và còn kéo theo nhiều người khác xuống hố với mình.
Nếu tôi,
trong tư cách là một linh mục, lên tiếng kêu gọi “thống hối”,
người ta không cho điều đó quan trọng lắm.
Tôi bị tố cáo là qui
tội cho kẻ khác. Nếu điều đó xảy ra, tôi cũng sẵn sàng chấp
nhận. Tôi thiết tưởng điều đó cũng nằm trong lãnh vực trách
nhiệm của một linh mục trong xã hội ngày nay.
Công việc của tôi không nhằm thuyết phục bạn, nhưng để làm chứng
tá cho chân lý. Nếu bạn hiểu được điều đó thì thật tuyệt vời!
Nếu bạn không hiểu được, thật quá tồi tệ. Một số người nghe
theo, nhưng một số khác không nghe. Như người Ả-rập
thường nói: Bản chất của nước mưa thì giống nhau. Mưa làm cho
gai góc mọc lên ở trong đầm lầy nhưng cũng làm cho bông hoa nở
rộ trong ngôi vườn.
Tiền bạc hay cuộc
sống
Thực tế là khi chúng ta không nhận ra những gì sái quấy trong
hành động chúng ta và tại sao lại sái quấy, và khi chúng ta
không chấp nhận đó là sái quấy thì chúng ta cứ tiếp tục tái phạm
mãi mãi. Chúng ta trở thành quen thói rồi. Điều đó trở nên
bản tính thứ hai và không làm cho chúng ta áy náy nữa.
Một cách vô thức, chúng ta bắt đầu đánh mất ý niệm về giá trị và
ý thức về tội lỗi. Điều đó xảy tới một cách vô ý thức,
bởi vì tôi không tin bất cứ ai có chủ tâm vứt bỏ hệ thống giá
trị ra ngoài cửa sổ. Thật đáng buồn, không có tinh thần thống
hối, chúng ta bị lạc đường. Chúng ta bị rối loạn, không nhận ra
điều gì đang xảy tới.
Đối với nhiều người, chân lý chỉ là trò giễu cợt, như trong câu
chuyện nói về tên cướp ngân hàng kê súng vào đầu anh Jack và
nói: “Đưa tiền đây hay bị mất mạng.” Jack đáp: “Để tôi
suy nghĩ! Để tôi suy nghĩ!”
Lòng tham muốn những của cải vật chất đã khiến Jack quên thực tế
khẩn trương. Anh nên kiềm chế lòng tham lam và kềm chế như thế
nào?
Thần học và sự lành
mạnh hóa
Lòng tham có thể là vấn nạn đối với bạn hay không thành vấn đề.
Bất cứ điều gì dẫn bạn đi lạc lối thì nền thần học cũng như tinh
thần lành mạnh đòi hỏi chúng ta phải nhận dạng điều gì cần thiết
để thống hối. Vậy điều gì chúng ta cần phải thay đổi để cuộc
sống được đồng điệu hầu trở nên môn đệ Chúa Giêsu? Công việc của
tôi không phải nói cho bạn điều gì phải làm, đúng hơn là chỉ cho
bạn một hướng đi. Rồi tùy bạn tự lo liệu lấy!
Tommy, cho ngựa ăn đi
Cho phép tôi kết thúc bằng câu chuyện về một em bé tên Tommy,
rất sợ bóng tối. Em sống trong một trang trại, ở nơi đèo heo hút
gió, vào thời kỳ chưa phát minh điện lực. Vào một buổi tối mùa
đông, cha em sai em ra chuồng ngựa để cho ngựa ăn. Chuồng ngựa ở
nơi tối tăm nhất trong trang trại.
Cha em biết em sợ bóng tối nên trao cho em một cây đèn lồng và
nói:
“Tommy
ạ, con cầm đèn đi và cho ba biết con thấy gì?”
-
Ba ơi, con thấy nửa đường đi qua sân trại!
-
Tốt, bây giờ con hãy đi thật xa mà con có thể thấy được.
Tommy lấy hết gan dạ đi khoảng cách đó. Ba em lại kêu:
“Tommy,
cầm đèn lồng cao hơn và cho ba biết con thấy gì?”
-
Con thấy chuồng ngựa.
-
Tommy, con hãy đi thật xa hơn nữa mà con có thể thấy được.
Em bé lấy hết can đảm để bước đi trong ánh đèn dầu. Khi em đến
chuồng ngựa, ba em gọi em:
“Bây giờ
con thấy gì?”
- Ba ơi,
con thấy những con ngựa.
- Tommy,
giờ con cho ngựa ăn đi.
Và em bé đã
làm như người cha nói.
Đèn
lồng là hình ảnh Phúc Âm.
Điều tôi nói cho bạn, tôi cũng nói cho chính tôi: Hãy cầm đèn
lồng lên và lấy hết can đảm đi càng xa càng tốt để có thể
thống hối và có can đảm thay đổi những gì cần phải thay đổi và
sống những điều trường tồn miên viễn.
Chân
thiện mỹ
Đức
Thánh Cha Gioan Phaolô II
đã nói như sau: “Chân thiện mỹ sẽ giải thoát thế giới.”
Thống hối là chân thiện mỹ. Khi chúng ta ôm ấp “chân thiện mỹ”,
chúng ta giải thoát thế giới.
Linh Mục
Vincent Travers, OP
Hương Vĩnh
chuyển ngữ
|
VỀ MỤC LỤC |
|
TÌNH YÊU DÂNG HIẾN |
Nguyên tác: ”Lettres d’amour aux
prêtres” – “Thư tình
gửi các Linh mục”
của Catherine DE HUECK DOHERTY
Người chuyển ngữ, Đình Chẩn.
CHƯƠNG V
TÌNH YÊU DÂNG HIẾN
Con đã nói với cha về dấu chỉ niềm vui và niềm
hy vọng như thế nào, nhưng con chưa nói đến cha cũng là dấu chỉ
của Tình yêu dâng hiến.
Tình yêu là một cái gì đó thật huyền diệu. Thánh
Phaolô đã đưa ra một định nghĩa về Tình Yêu (Đức Ái) chưa từng
có từ xưa đến nay. Ngài bắt đầu bằng những lời lẽ giản dị về thứ
bậc các đặc sủng:” Trong các ân huệ của Thiên Chúa, anh em
hãy tìm những ơn cao trọng nhất. Nhưng đây tôi xin chỉ cho anh
em con đường trổi vượt hơn cả”. Vậy nên, thưa cha kính
yêu, đó không phải là điều đáng nói sao? Thánh Phaolô đã chỉ cho
chúng ta thấy một con đường trổi vượt hơn cả. Người tách Tình
yêu ra khỏi tất cả những gì không thuộc về Thiên Chúa; Người
thanh tẩy và thánh hoá Tình yêu. Người nâng Tình yêu lên. Cha
hãy lắng nghe những lời ngài muốn nói :
“ Giả như tôi có nói được các thứ tiếng
của loài người và của các Thiên Thần đi nữa mà tôi không có Đức
Mến ( Tình yêu) thì tôi cũng chỉ là thanh la phèng phèng, chũm
chọe xoang xoảng”. Ước chi các Kitô hữu biểu lộ đúng
điều ấy! Ước chi điều ấy đúng với cha, thưa cha kính yêu! Những
câu chữ chau chuốt, những bài giảng đầy sức thuyết phục, làm
sao lại xảy ra chuyện người ta không xúm đến với cha, không cám
ơn cha, không vây quanh cha như người ta vây quanh Chúa Kitô?
Người ta đến gần cha và khen:” Cha giảng rất hay, thật đáng
ngưỡng mộ! Nhưng người ta buồn khi ra về . Tại sao vậy?
“Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được
biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được Đức Tin
đến chuyển núi dời non mà tôi không có Đức Mến thì tôi cũng
chẳng là gì cả”. Cha có thể hình dung ra điều đó không?
Cha có thể hình dung ra với ơn chữa lành, ơn nói tiên tri, ơn
suy xét, và tất nhiên hơn thế nữa, bảy Đặc Sủng của Thánh Thần?
Nhưng nếu cha thực thi những ơn đó mà không có Đức Mến, thì như
Thánh Phaolô nói:” …Thì tôi cũng chẳng là gì”.
Những lời này nghe thật khiếp sợ phải không
cha? Bởi có nhiều người trong chúng ta lợi dụng những Đặc Sủng
của Thánh Thần ban cho để được nổi danh. Những ơn đó làm rạng
ngời vinh quang của chúng ta. Điều đó còn bi kịch hơn. Chúng ta
được trao ban những ơn này là để dẫn đưa anh em về với Chúa,
chúng ta cất giữ những ơn đó, và cách nào đó, chúng ta bo bo giữ
cho mình và kiêu ngạo khi có những ơn đó.
Chính vì vậy, Thánh Phaolô nói rất chí lý:”
Chúng ta chẳng là gì cả”.“ Giả như tôi có đem
hết tài sản mà bố thí hay nộp cả thân xác để chịu thiêu đốt mà
tôi không có Đức Mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi”.
Những lời lẽ thật đanh thép phải không cha?
Chính vì vậy, Tình yêu hay Đức Mến, như thánh
Phaolô gọi, có đủ mọi cung bậc, là bản chất của sinh linh con
người. Bởi vì khi cha có Chúa trong mình là cha có Tình yêu. Cha
được tấn phong là để thực hành sứ vụ thánh thiện của Ngài, nhưng
còn hơn thế nữa, cha được phong chức ở trong Chúa bởi vì Chúa ở
trong cha và cha là Đại diện của Chúa, cái duy nhất cha có thể
trao ban là Tình Yêu. Cha phải trao ban Tình yêu thật nhiều
không tiếc tay. Thực vậy, bàn tay cha múc lấy nguồn Tình yêu vô
tận của Đức Kitô, từng giờ từng phút từng giây. Cha phải trao
ban Tình yêu mà cha nhận được từ Thiên Chúa cho chúng con, Tình
yêu mà Chúa đã hiến dâng qua sự nhập thể , qua cuộc thương khó
và chịu đóng đinh của Người. Tình yêu ấy thuộc về cha! Là của
cha! Để mà cha có dược Tình yêu ấy và giữ lại trong một giây,
chỉ một giây thôi! Và để cha có thể rộng tay ban phát Tình yêu
ấy, bởi vì Tình yêu ấy sẽ trở lại với cha từ chính suối nguồn nó
đã vọt lên khi cha được phong chức Linh mục. Chính vì vậy, Đức
Mến là điều cha cần phải trao ban luôn luôn.
Nhưng cha hãy đọc kỹ hơn một chút nữa:” Đức
Mến thì nhẫn nhục, hiền hậu”. Con nhớ đến những năm 60: Hành
động độc ác viện dẫn những tranh biếm họa về Đức Thánh Cha và
các Đấng bậc đã biến thành những sự nhạo báng, những điều mà
chẳng thể cười được dù chỉ trong giây lát.
“Đức Mến luôn luôn nhẫn nhục và hiền hậu”.
Liệu con có thể khẳng định với lương tâm mình rằng con là người
hoàn hảo, đáng yêu đối với Bề trên đối với anh chị em, đối với
những người được gọi là dưới con, đối với người nghèo, đối với
những người nhỏ mọn và đối với tất cả mọi người? Tuy nhiên, thưa
cha kính yêu, Thiên Chúa luôn luôn kiên nhẫn với chúng ta, Thiên
Chúa nhẫn nhục vô cùng. Bằng những phương cách trong các bài
Thần học, cha chứng tỏ điều đó và lại hủy bỏ trong những bài
Thần học khác. Tại sao vậy? Suối nguồn Đức Mến phải chăng nay
cạn kiệt? Tất cả những việc cha có thể làm bây giờ là hãy ngước
mắt nhìn lên Chúa và khẩn xin Ngài vì Thiên Chúa luôn xót
thương, ngay cả khi Chúa bị ta xúc phạm thì Chúa vẫn luôn tha
thứ và làm hoà với ta.
“Đức Mến không bao giờ ghen tương vênh
vang hay tự đắc”. Tuy nhiên, cách
mà con cái đối xử với Giáo Hội Mẹ thật bi thảm phải không cha?
Và trong khi hành động như vậy thì cảm giác tội lỗi đã xâm chiếm
chúng ta. Chúng ta đã chế giễu, cha không tin sao? Chúng ta đã
quá tin tưởng vào lời gièm pha, du nhập vào nhóm quân nhạo báng.
Nhưng cha không thấy rằng những nhóm ấy vừa cười vừa khóc sao?
Cha không nhìn thấy nước mắt chúng sao? Những giọt nước mắt ấy
cứ uẩn khúc trong tim họ, nhưng cha là người có được ơn nhận
biết phân định, và cha có thể trao ban bình an cho quân nhạo
báng Thiên Chúa và những người Đại diện Chúa. Người ta không chế
giễu Thiên Chúa nhưng có nhiều người không nhớ đến Thiên Chúa.
“Đức Mến không nóng giận không nuôi hận
thù”. Thật rõ ràng! Thế mà tại
sao có Linh mục lại còn tìm cách tranh cãi về Thiên Chúa? Tại
sao họ không quỳ gối xuống? Tại sao họ không cúi đầu vào tận
thẳm sâu lòng mình và kêu lên:” Lạy Chúa, xin thương xót
con vì con là kẻ tội lỗi!”?
“Đức Mến không mừng khi thấy sự gian ác
nhưng vui khi thấy điều chân thật, Đức Mến tha thứ tất cả, tin
tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả”. Xin cha
hãy ngẫm lại những lời ấy bởi nó thật quan trọng. “Đức Mến không
vui mừng khi thấy kẻ khác phạm tội!” Đức mến không bao giờ chế
giễu ai mà tự thú tội mình. Lẽ tự nhiên, Đức Mến vui mừng trong
sự thật bởi vì không phải chỉ nghĩ và nói sự thật, nhưng còn bởi
vì Đức Mến tự biết rõ mình và biết rằng Thiên Chúa luôn luôn sẵn
lòng tha thứ. Cha thường nhìn thấy người con trở về với Người
cha và trong phép Giải tội, cha nhân danh Chúa Kitô tha thứ và
xoá bỏ mọi lỗi lầm. “ Ego te absolve…” Không phải
cha là người tha tội mà đó là Thiên Chúa! Nhưng qua cha mà sự
tha thứ của Thiên Chúa được lặp lại. Nếu Thiên Chúa còn tha thứ
tội lỗi cho tất cả những người đến xưng tội với cha, há Thiên
Chúa lại không tha thứ cho cha, cũng là hối nhân dưới chân Chúa
Giêsu sao?. Con chắc chắn rằng Thiên Chúa có tha vì Thiên Chúa
là Tình yêu.
“Đức Mến hy vọng, tin tưởng, chịu đựng tất
cả!” Tất nhiên, Đức Mến tin
tưởng. Nhất là Đức Mến tin tưởng những người không đáng tin
tưởng đơn giản chỉ vì Đức Mến tin tưởng chúng ta, cha và con.
Thế mà cha không nghĩ rằng chúng ta đáng tin tưởng dù chút ít
thôi sao? Nhưng dẫu cho mọi lời chúc phúc, mọi điều kỳ diệu được
thực hiện nơi chúng ta, thì chúng ta cũng không đáng tin tưởng,
phải không cha? Vậy nên, nếu Thiên Chúa tin tưởng chúng ta, thì
chúng ta cũng cần phải tin tưởng anh em mình, nhất là những
người không đáng tin tưởng. Chúng ta không thể nói:” Ôi, tôi
vừa cho ông này một đôla và ông ta lại quay lại xin cũng với
những lý do như vậy”. Nhưng Chúa Kitô đã dạy:” Nếu ai xin áo
ngoài của anh em thì hãy đưa luôn cả áo trong nữa!” Thực vậy, họ
có thể đem áo đi bán lấy hai xu và đi uống, nhưng ai cũng biết
rằng ngày nay đồ uống là một căn bệnh, và cha sẽ không từ chối
cho chiếc áo ngoài cho một người bệnh phải không?
Thánh Phaolô tiếp tục nói với chúng ta rằng ngay
cả khi tôi tự hiến thân mình mà tôi không có Đức Mến thì tôi
cũng chỉ như thanh la phèng phèng chũm chọe trong một “ sa mạc”
không có Thiên Chúa.
Ít nhất, Đức Mến trao ban những cử chỉ đẹp và
thánh thiện. Ước chi mọi người biết chia sẻ từ que diêm đến trao
ban chính mạng sống mình, biết giang tay đón tha nhân, biết chia
sẻ nơi ăn chốn ở, tiền bạc, nếu chúng ta làm với Tình yêu thương
thì những việc làm ấy sẽ trở thành những hành động của Chúa
Giêsu. Khi đó, cha sẽ giống như Chúa Giêsu và không có ai biết
được điều gì đã xảy đến cho người mà cha đã cho chiếc áo, những
đồng xu, hay que diêm ấy. Không , không có gì biết được.
Còn hiển nhiên hơn nữa, Chúa Giêsu đã trao cho
chúng con- những tín hữu,cho các cha-những Linh mục, cho Đức
Thánh Cha, rồi đến những người ăn xin, những cô gái điếm, một
giới răn là: Chúng ta hãy yêu thương nhau, vì khi
chúng ta yêu thương nhau chính là khi chúng ta yêu mến Chúa.
Chính vì Đức Mến vượt trên tất cả, nên Đức Mến phải là trung tâm
của Linh mục.
Nhưng thánh nhân còn nói tiếp:” Ơn nói
tiên tri ư? Cũng chỉ nhất thời thôi. Ơn ngôn ngữ ư? Chẳng kéo
dài mãi mãi; ơn hiểu biết ư? Cũng có ngày sẽ hết. Vì chưng sự
hiểu biết thì có ngần, ơn tiên tri có hạn; một khi cái hoàn hảo
đến thì những cái có hạn sẽ biến đi. Cũng như khi
tôi còn là trẻ con, tôi nói năng như trẻ con, suy nghĩ như trẻ
con, nhưng khi tôi đã lớn thì tôi bỏ tất cả những gì là trẻ con.
Bây giờ chúng ta thấy lờ mờ qua tấm gương, mai sau chúng ta sẽ
thấy rõ trước mặt. Bây giờ sự hiểu biết của tôi có ngần có hạn,
mai sau tôi sẽ được biết hết như Thiên Chúa biết tôi”.
Tất cả các Ân Sủng của Thánh Linh sẽ biến mất chỉ có Đức Mến là
tồn tại. Con hy vọng rằng khi ra trước mặt Chúa cha sẽ mặc chiếc
áo khoác bằng Đức Mến. Con hy vọng rằng đó không phải là chiếc
áo khoác bị rách nhưng mềm mại phải chiếu hào quang mặt trời.
Thưa cha kính mến, đời sống Linh mục của cha là
đời sống yêu thương, Tình yêu mà con đang nói ở đây được thánh
Phaolô miêu tả rất gần với tình yêu của thế gian. Nó có thể kết
hợp cách dễ dàng bởi vì cha đã được nếm thử Tình yêu của Chúa
Cha. Cha được chìm đắm trong biển Yêu thương từ ngày cha lãnh
nhận chức Linh mục. Đây là mầu nhiệm của Đức khiết tịnh: Khả
năng yêu thương như Chúa yêu. Đó là bí mật của Đức khiết tịnh.
Xin cha hãy nhớ lại điều này mỗi khi cám dỗ nổi lên chống lại
Đức Mến bởi nó chống lại mầu nhiệm yêu thương mà cha đã được đắm
chìm trong đó qua việc thánh hiến lời khấn hứa. Cha chỉ có thể
hiểu được Đức khiết tịnh trong bối cảnh ấy, nếu không thì nhân
đức này không tồn tại. Thưa cha kính mến, cha không thấy điều gì
đã đến với cha sao?
Cha được khoác lên mình chiếc áo nhuộm máu đào
của Chúa. Đó là chiếc áo nhuộm máu đào bởi vì Chúa Kitô đã chết
cho cha và cho con, nhưng cách riêng cho cha. Cha được mặc chiếc
áo ấy như là lớp da bảo vệ cho cha. Cha có thể đi trên con
đường Chúa đã đi trong sự bình an. Con hình dung ra sự bình an
lạ lùng ấy đã choán hết con người cha khi cha nhận thấy những
gì mà Thiên chức Linh mục mang lại cho cha.
Cha có hiểu Đức khiết tịnh của cha thể hiện nơi
chúng con-người trần tục như thế nào không? Con không muốn nhắc
lại rằng những người trẻ đã xì xào nhau trong những năm 1960,
1970 và cả sau này nữa:” Cam kết sống đời tận hiến làm gì khi
người ta chứng kiến cha này hay sơ kia đi lạc đường?”
Vâng, cha là dấu chỉ niềm hy vọng bất cứ nơi đâu
cha đặt chân đến, nhưng cha sẽ nâng tâm hồn người ta lên khi cha
sống đời khiết tịnh. Khi đó người ta sẽ hiểu được thế nào là sự
thánh thiện và nhất là tại sao tất cả mọi người chúng ta được
rửa tội trong sự chết và Phục sinh của Chúa Kitô, nếu đó không
phải là để nên thánh sao? Tất cả mọi người cần nên thánh khi xác
tín nhìn lên Thầy chí thánh của chúng ta, nhưng đặc biệt hơn cha
là người bước đi trong chiếc áo choàng thấm máu đào mà Chúa Kitô
đã trao ban cho cha ngày cha lãnh nhận chức Linh mục. Như vậy,
chúng con cũng có thể chạm tới chiếc áo choàng nhuộm máu đào ấy.
Khi đó, chúng con cũng có thể trở nên khiết tịnh tuỳ theo bậc
sống của mỗi người. Chúng con cũng có thể cảm nhận được Đức
khiết tịnh mà chúng con đã vứt bỏ như đồ trang sức cũ kỹ ấy.
Cha ơi, Đức khiết tịnh của cha là cốt lõi của sự thánh thiện.
Đang suy nghĩ miên man về Đức khiết tịnh và Đức
Mến con chợt nghe thấy hai từ khác chen vào. Đó là : sự trắc ẩn
hay lòng thương xót. Rất tự nhiên con nghĩ nó phái sinh từ “Đức
khiết tịnh”. Con bắt đầu suy niệm về hai từ đẹp tuyệt ấy.
Đối với con, nhân đức là sự dạt dào của con tim.
Cha có tin rằng gọi một nhân đức là sự dạt dào của con tim
thì đúng theo phương diện Thần học không?
Con phải thú nhận rằng sự trắc ẩn và lòng thương
xót đã được kết dính một cách chặt chẽ trong trái tim con. Hình
ảnh hai từ đó giống như hai anh em sinh đôi, nếu như cha thấy
được điều con muốn nói. Nhưng đang khi con nghĩ đến lòng trắc ẩn
và thương xót, con nghĩ ngay đến Chúa. Thực vậy, há Người chẳng
phải là Đấng đầy lòng trắc ẩn và hay thương xót đó sao?
Con lại nghĩ ra một điều khác: Con không biết
con tim nhân loại có thể chứa đựng cả một đại dương lòng trắc ẩn
không! Có thể nhiều lắm cũng chỉ là một dòng suối hay dòng sông.
Nhưng một đại dương ư? Không, không, con không tin rằng con tim
nhỏ bé của con người có thể chứa đựng cả đại dương bao la lòng
trắc ẩn và thương xót. Nhưng gần đây, con khám phá ra rằng trái
tim nhỏ bé của con có thể chứa được.
Một đêm kia, đang khi cầu nguyện, con chợt nhìn
thấy bức tường gỗ căn nhà con biến mất ( khi đó con đang nửa
tỉnh nửa mê); dù thế nào thì túp lều cũng đã biến mất, và nhà
con ở dù bé nhỏ, nhưng bất chợt các Linh mục đứng chật nhà! Đó
là những Linh mục sống trong sự hồ nghi. Đó là những Linh mục
sống trong sự quằn quại. Một nỗi đau thầm kín. Đó là những Linh
mục đang mong chờ hồi tục. Đó là những Linh mục đang mong muốn
kết hôn. Đó là những Linh mục đang nghĩ đến sự chia cắt. Đó là
những Linh mục vẫn còn là Linh mục nhưng tỏ ra mệt mỏi. Vâng,
thậm chí có những Linh mục trong số đó đã hoàn toàn kiệt quệ!
Ngay khi đó, lòng con nổi lên ước muốn kết tội
bất cứ một Linh mục nào trong số đó vì yếu đức tin, yếu đuối hay
vì còn non nớt. Nhưng bất ngờ thay, lúc đó tâm hồn con lại tràn
ngập tình yêu thương và lòng trắc ẩn. Con muốn ôm các ngài vào
lòng như thể con đã là người mẹ hay chị gái của các ngài. Con
muốn an ủi các ngài biết bao! Con ước ao muốn nói với các ngài
rằng con cũng như tất cả các con chiên khác cần đến các ngài
biết bao. Nhưng ngay cả khi những nhu cầu của chúng con biến mất
thì tình yêu thương và lòng trắc ẩn ấy vẫn tràn đầy trong con.
Ước gì con có thể nói, viết hay làm cách nào đó cho từng Linh
mục nước Mỹ và Canada, những người đang sống trong sự dằn vặt
của nghi ngờ, của sự xáo động nội tâm và của sự chán chường để
các ngài hiểu rằng các ngài không cô đơn, rằng ở nơi xa xôi của
đất nước Canađa kia có một thiếu phụ kỳ lạ, yêu Thiên chức Linh
mục đến nỗi bà không thể hiểu nổi chính mình, bởi tình yêu ấy
vượt quá trí hiểu của bà, nhưng con tim người phụ nữ ấy tràn
ngập biển trời yêu thương và lòng trắc ẩn.
Con ước ao có thể viết thư cho từng Linh mục
nước Mỹ, Canađa để chia sẻ nỗi đau của từng người, chia sẻ trọn
vẹn nỗi khổ ấy, dù nỗi đau ấy thế nào đi nữa, bởi vì con yêu
Thiên chức Linh mục của họ. Các Linh mục là những người cha,
người anh, và ngày nay họ đang bị cô đơn và bị lãng quên biết
bao! Nhưng con không thể viết thư cho tất cả các Linh mục Mỹ
được. Con chỉ có thể nhắc lại những gì đã viết: Cánh cửa nhà
Madonna luôn rộng mở. Chúng con dành cho các ngài căn nhà giản
dị khiêm tốn. Chúng con có những nơi cô tịch, những căn nhà ổ
chuột tầm thường, nơi đó người ta có thể sống một mình với Thiên
Chúa, và đó là nơi để học lại cầu nguyện nếu cần.
Các Linh mục là những người được Thiên Chúa cất
nhắc lên hai lần. Các Linh mục là những người đã đáp lời mời gọi
của Thiên Chúa hai lần( lần một khi chịu phép Rửa tội, và lần
hai vào ngày chịu chức) để trở nên một Kitô khác. Thiên Chúa đã
gọi các ngài đứng dậy và lên đường để đi đến tận cùng vực thẳm
của ngục tù trần gian do con người xây dựng và sống ở đó cho đến
chết, chết cho chính mình, chết về xác thịt, chết đi những ước
muốn xa hoa, chết đi tất cả những ước muốn của thế gian này và
chết đi tất cả những gì mà thế gian ưa thích.
Vâng, đứng dậy đi vào trong những vực thẳm ngục
tù do con người gây ra, nơi mà chỉ ít người biết được danh Thánh
vĩ đại của Thiên Chúa, Danh xưng êm dịu có sức chữa lành. Vào
nơi đó để gặp Đức Maria, Đấng hằng ở trong các ngục tù và trong
tất cả các sào huyệt của trần gian, vì Mẹ là Mẹ Thiên Chúa cũng
là Mẹ của nhân loại. Duy có Mẹ chỉ cho các Linh mục thấy chốn
nương náu yêu thương của Mẹ và ở lại đó. Có hề chi, dù nơi nương
náu ấy chỉ là ngôi nhà giản dị, tĩnh lặng, xa lánh tất cả những
gì thế gian chạy theo. Hay thậm chí một túp lều tranh, một túp
lều chống tuyết vùng bắc cực hay chiếc lều dựng trong sa mạc. Mẹ
luôn luôn ở lại trong ngôi nhà Tình yêu của Mẹ và các Linh mục
phải ở lại đó.
Những Linh mục này sẽ sống ở đó như những chiên
sát tế đối diện với tất cả những Linh mục không sống kiểu
Bethlehem, nơi vườn Giệtsimani hay ở Golgotha. Những Linh mục ấy
sẽ là những mẫu gương sống đời dâng hiến cho những Linh mục chỉ
ưa sống sung túc, thích những nụ cười ngọt ngào, với những lời
nói bóng bẩy phát ra từ những miệng lưỡi giả hình, cho những
người nhận lấy những đồng xu của bà goá nghèo mua sắm những đồ
sa hoa và đi du ngoạn tốn kém. Những Linh mục ấy sẽ trở nên của
lễ toàn thiêu thay cho những Linh mục chỉ kính sợ loài người mà
không kính sợ Thiên Chúa, thay cho những ai đang say đắm trong
phù hoa và danh vọng thế trần.
Họ sẽ bắt đầu cuộc sống của mình trong sự hiến
dâng chính mình. Hiến tế là sự hy sinh trọn vẹn đến nỗi không
còn lại gì hết. Với Tình yêu, họ sẽ dâng hiến trọn vẹn làm của
lễ hiến tế Đức Mến. Chỉ khi đó, các Linh mục mới có được bình an
và các ngài sẽ đem bình an của mình vào địa ngục trần gian của
con người, không ai có thể lấy đi mất sự bình an của các Linh
mục ấy và của những người họ trao ban.
Nhưng hiến tế nghĩa là chết, và các Linh mục cần
phải chết đi. Đối với các Linh mục, đó là sự chết dần chết mòn,
giống như Chúa Giêsu đã bị đóng đinh cách tàn bạo và bị chết như
vậy. Đấng đã cất nhắc các Linh mục ấy lên, sẽ thừa nhận các ngài
là những Linh mục bác ái yêu thương và đầy lòng trắc ẩn.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
Đối thoại với Chúa thế nào? |
Tác phẩm: Cầu Nguyện Cá Nhân:
Bí quyết tình yêu và vui sống
Lm. Micae-Phaolô Trần Minh
Huy, pss.
Phần thứ hai
Đối
thoại với Chúa thế nào?
‘’Nầy đây, Ta đứng ngoài cửa mà
gỏ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa cho Ta,Ta sẽ vào với người ấy và
dùng bửa với người ấy và người ấy với Ta.’’
Chúa đến đứng ngoài cửa của bạn
mà gỏ. Để mở cho Ngài, bạn cần biết cách Chúa đến, tiếng Chúa
nói, ngôn ngữ Chúa dùng. Những bước nghệ thuật đối thoại tôi
trình bày chỉ nhằm giúp dễ dàng và phong phú cho cuộc đối thoại
của bạn với Chúa, chứ không bắt buộc phải theo một thứ tự nào
cả. Có khi bạn chỉ dùng một điểm để cầu nguyện.
m ộ t
Bạn
chào Chúa
Gặp
hay đón tiếp ai, bạn chào người đó. Chào Chúa là bạn bắt liên
lạc với Chúa, là sống trong sự hiện diện của Chúa. Nhưng Chúa
không phức tạp đâu. Đối với Chúa, giản dị là điều tốt nhất. Bạn
xem trong máng cỏ, Chúa hiện diện như thế nào? Là một em bé! Ba
vua đi vào, quỳ gối và sụp lạy chào Chúa Hài Nhi. Bạn đặt mình
làm một nhân vật nơi máng cỏ. Bạn chào Chúa, mà kỳ thực Ngài
chào bạn trước, bởi vì Ngài là Thiên Chúa đã đến làm người và ở
giữa chúng ta. Bạn hãy yên lặng nhìn ngắm Chúa và dâng cho Ngài
cái gì bạn đang lấy làm quí nhất. Bạn hãy để cho bình an và niềm
vui dâng lên trong lòng bạn.
Có nhiều cuộc gặp gỡ
trong Kinh Thánh có thể được dùng làm khung cảnh để bắt đầu việc
cầu nguyện của bạn. Thánh Têrêxa Avila bắt đầu nguyện gẫm bằng
cảnh Chúa Giêsu hấp hối trong Vườn Dầu. Liên lạc với thiên nhiên
cũng giúp bạn đặt mình trong sự hiện diện của Chúa. Biết dừng
lại giữa một cảnh đẹp, thinh lặng chiêm ngắm, Chúa cũng cho bạn
dấu hiệu và nói với bạn. Thánh Gioan Thánh Giá, Thánh Phanxicô
At-xi-di và nhiều vị thánh khác thích cầu nguyện lâu giờ giữa
thiên nhiên.
Khi mệt mỏi,
khô khan, bạn cũng có thể dùng một lời kinh lặp đi lặp lại (như
kiểu lần chuổi), để đi vào trong sự hiện diện của Chúa và bắt
đầu giờ cầu nguyện của bạn. Một Tập sinh tâm sự: ‘’Tôi lặp đi
lặp lại nhiều lần ’Lạy Chúa Giêsu, xin thương xót con’ - ’Lạy
Chúa Giêsu, con yêu mến Chúa’. Điều đó giúp tôi tập trung vào
Đấng Cứu Chuộc tôi’’. Hoặc bạn dùng công thức giáo đầu giờ kinh
phụng vụ để hướng lòng bạn về với Chúa: “Lạy Chúa, xin mở môi
con, cho con dâng lời ngợi khen Chúa.’’
Nơi cầu
nguyện của bạn
Có người chỉ
cầu nguyện được ở trong Nhà Thờ hay Nhà Nguyện được bài trí theo
sở thích của mình. Thật vậy, khung cảnh bên ngoài cũng góp phần
dẫn bạn đến với Chúa, hay kéo bạn xa Ngài.
Tôi bàn ưu tiên đến lời
cầu nguyện riêng tư, nên ý nghĩa nơi cầu nguyện của bạn đã được
nói nhiều ở phần trên. Bạn cần bài trí cho phòng bạn thành một
khung cảnh thích hợp cho việc cầu nguyện riêng: một Thánh Giá,
một ngọn đèn, một Thánh Kinh chẳng hạn... Nhắm thẳng vào cái
chính yếu là có thể gặp gỡ Chúa trong đơn sơ, nhưng đầy tĩnh
thức chân lý. Thời điểm thuận tiện là ban sáng: bạn đến trình
diện với Chúa và định hướng cả ngày sống của bạn.
Nếu ban sáng khó thì ban
tối hay sau trưa. Nhưng thời gian vẫn là thứ yếu. Điều quan
trọng vẫn là giữ cho được việc cầu nguyện hằng ngày.
Toàn thân bạn
cầu nguyện
Thể xác - linh
hồn - trí khôn phải liên đới sâu xa. Dĩ nhiên lời cầu nguyện thể
hiện trong sâu kín con tim và trí khôn, nhưng để đi vào cung
thánh nội tâm nầy thì thể xác và linh hồn cũng cần được hòa hợp
thống nhất. Thể xác bạn biến thành một thứ Nhà Tạm cho Chúa hiện
diện, như Thánh Phaolô nhấn mạnh: “Thân xác cho Chúa và Chúa cho
thân xác... Thân xác bạn là Đền Thờ Chúa Thánh Thần’’
(1Cor.6:13.19). Vì thế, bạn cần chế ngự và vô hiệu hoá ngũ quan
vốn làm cho bạn hướng ngoại hơn là hướng nội. Chẳng hạn ngồi
thẳng xương sống, nhắm mắt, điều hòa hơi thở, điều chỉnh thư
giản cơ bắp. Tóm lại là làm sao cho toàn thân bạn yên tĩnh, bằng
an, có cảm giác thoải mái, loại bỏ lo âu để tập trung vào giây
phút hiện tại. Tuy nhiên, bạn đừng để mất thời giờ và sức lực
vào lối ‘’định tĩnh yoga hay thiền’’, rốt cuộc là tập trung vào
chính bạn. Chỉ có mối liên lạc sống động và cá nhân với Chúa
Kitô giúp giải thoát thân xác bạn, dành cho việc phụng sự Thiên
Chúa.
Đứng cầu
nguyện cũng là thái độ cầu nguyện thông thường của mọi tôn giáo.
Nó diễn tả sự kính trọng, tĩnh thức, sẵn sàng lắng nghe và vâng
theo. Qùy gối cầu nguyện diễn tả thái độ lệ thuộc, phục tùng,
sám hối, cầu khẩn. Cầu nguyện sấp mình sát đất là dấu hiệu khiêm
nhường và thờ lạy trước sự thánh thiện của Thiên Chúa. Trong khi
cầu nguyện riêng một mình, bạn tự do sử dụng các tư thế của thân
xác. Bạn càng thoải mái tự nhiên trước mặt Chúa, lời cầu nguyện
của bạn càng chân thực, và mọi cánh cửa sẽ rộng mở cho cuộc đối
thoại thân mật với Chúa.
Những lo ra
chia trí
Bạn sẽ gặp
những lo ra chia trí trong khi cầu nguyện là điều không thể
tránh khỏi. Nhiều lúc ta không chú ý vào giây phút hiện tại
được, vì ý tưởng ta ở nơi khác, hoặc trong quá khứ hoặc trong
tương lai, nghĩa là trong mơ mộng. Khi đặt mình liên lạc với
Đấng Vô Hình, bạn thấy diễn ra cả một chuỗi những chia trí, đó
là cái hoàn toàn bình thường. Điều chính yếu là không thuận theo
hay thụ động chịu đựng chúng, mà phải không ngừng chiến đấu để
trở lại cuộc đối thoại. Cuộc chiến đấu nầy giúp mở ra con đường
cho lời cầu nguyện phong phú sâu xa.
Tôi có một
kinh nghiệm sống cá nhân về chuyện nầy là lấy ngay sự chia trí
ấy làm đề tài, làm đối tượng để trao đổi đối thoại với Chúa. Ví
dụ khi bạn nghĩ đến công việc, bạn cầu xin Chúa ơn chu toàn công
việc đó tốt hơn. Một bạn mù chia sẻ: “Tôi mù nên không bị chia
trí vì bên ngoài, nhưng lại có chuyện khác là đôi khi bị chia
trí vì tưởng tượng. Trí tưởng tượng tôi cứ đi dông dài và lúc
đầu sống cầu nguyện thật là vất vả. Thái độ của tôi là cố không
dừng lại ở tưởng tượng ấy, mà dâng nó lên Chúa và biến nó thành
lời cầu nguyện. Khi trí tôi nghĩ tưởng đến bạo lực, tôi xin Chúa
biến đổi nó nên dịu dàng. Khi trí tôi nghĩ tưởng đến điều không
trong sạch, tôi xin Chúa thanh tẩy tôi. Và như thế đó mà các cơn
cám dỗ biến đi. Ngay khi ý thức mình chia trí, tôi trở lại
ngay với Chúa đang hiện diện thực sự trong tôi.’’
Có một điều rất lợi ích
khi xem xét loại chia trí hằng đến luôn với bạn trong lúc cầu
nguyện. Chính những chia trí ấy mặc khải cho bạn là bạn đang ở
đâu trong những dính bén, những ước muốn thầm kín, những ám
ảnh... Nhờ đó mà bạn khám phá ra ‘’mối tội đầu’’ của mình. Bạn
đừng quên Chúa Giêsu đã nói rằng kho tàng bạn ở đâu thì lòng trí
bạn cũng ở đó. Đó là nhiệt kế để đo cơn sốt nội tâm và tìm
phương thuốc chữa trị. Từ đó mà lời cầu nguyện của bạn sẽ hướng
đặc biệt về một khía cạnh nào cụ thể, để cầu xin Chúa ơn hoán
cải, trở lại.
Dù bạn gặp
phải những khó khăn nào trong khi cầu nguyện đi nữa, bạn hãy
vững lòng. Sự suy niệm của người kitô hữu luôn có tính chất đối
thần, dựa trên Đức Tin - Đức Cậy - Đức Mến. Đôi khi bạn hăm hở
với việc cầu nguyện, mọi sự xem ra dễ dàng và bạn cảm thấy lời
cầu nguyện sống động, tập trung. Lúc khác lại trái ngược, mọi sự
xem ra khó khăn, khô khan, vất vả và bạn có cảm tưởng là lời cầu
nguyện chẳng có hiệu lực chi. Bạn đừng xét đoán lời cầu nguyện
theo những cảm giác tức thời ấy. Cái quan trọng là sự dấn thân
của bạn trong đức tin, đức cậy và đức mến. Thường chính khi cuộc
chiến đấu xem ra vất vả nhất, lại là lúc lời cầu nguyện được
chúc phúc nhất, dù bề ngoài có như thế nào đi nữa.
Nối tần
sóng liên lạc với Chúa
Để nối tần
sóng liên lạc đối thoại với Chúa, bạn cẩn thận lưu ý những điểm
sau đây:
-
Bắt đầu bằng sự cắt đứt với những mối
bận tâm thường ngày của bạn, chẳng hạn khi vào nơi cầu
nguyện của mình, bạn hãy thắp lên ngọn nến, đặt mình trong
một tư thế thích hợp (ngồi, quỳ, đứng, sụp lạy...), nhắm
mắt, tập trung tư tưởng bằng sự hít thở và thư giản.
-
Thiết lập ngay liên lạc với Chúa: Đặt
Chúa Giêsu ở trước mặt bạn, bằng hình ảnh hay ký ức (Chúa
Hài Đồng, Chúa Biến Hình, Chúa Hấp Hối, Chúa Vác Thánh Giá,
Chúa Chịu Đóng Đinh, Chúa Sống Lại...). Bạn thưa với Chúa:
‘’Lạy Chúa, Chúa đang ở trước mặt con, con yêu mến Chúa, con
đang lắng nghe Chúa ...’’
-
Xin ơn cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin Chúa
dạy con cầu nguyện.’’ Kêu xin Chúa Thánh Thần hướng dẫn và
duy trì lời cầu nguyện của bạn, dù bạn có lo ra chia trí.
Mới đầu bạn đừng mong đạt chú ý 100%. Cái quan trọng nhất là
ý hướng và sự bền tâm.
-
Hãy coi chừng, đừng coi giờ cầu nguyện
như là một thứ dịch vụ bắt buộc, để rồi cứ gián mắt xem đồng
hồ, vội vả cho xong việc. Nếu thế, bạn nên bắt đầu lại từ
đầu.
-
Cuối
cùng, hãy nhớ rằng bạn không cô đơn trước mặt Chúa. Bạn đừng
ngại liên kết lời cầu nguyện của bạn với Mẹ Maria, Thánh Cả
Giuse, các thánh, các thiên thần và mọi người đang cầu
nguyện cùng lúc với bạn trên khắp cùng thế giới, nhất là
những người liên hệ thân thiết với bạn: ‘’Hữu duyên thiên lý
năng tương ngộ, vô duyên đối diện bất tương phùng.’’
Lời cầu nguyện bên máng cỏ.
Con đang ở trước mặt Chúa
Giêsu Hài Đồng,
Rất bé nhỏ, rất khó nghèo
trong hang đá nầy,
Giữa Mẹ Maria và Thánh Cả
Giuse,
Là Ánh Sáng giữa đêm đen,
Là Thiên Chúa Nhập Thể,
Là Lời thành xác thịt,
Là Chúa Con xuống từ trời cao,
Là Emmanuel, ‘’Thiên Chúa ở
cùng chúng con’’,
Là Đấng Tối Cao trở thành Thấp
Hèn Nhất,
Là Bánh Hằng Sống hiến trao cho loài
người đói khổ,
Là Đầy Tớ Khiêm Hạ đến trong vương quốc
của Kiêu Căng.
Con cũng biết được một chút
Phúc Âm,
Niềm Tin của Giáo Hội,
Nhưng con khó thực hiện những gì lời mầu
nhiệm mang tới.
Con đoán thấy trái ngược bao la và mới
mẻ đến kinh ngạc.
Lạy Chúa, con tin rằng Chúa là Thiên
Chúa diệu kỳ,
Mang đầy tình thương cho con
người,
nhưng lại vô cùng khiêm tốn.
Con tin rằng Chúa tự làm người
rất bé nhỏ,
Để bắt nối cùng con nằm sát
tận đất,
Trong sự ti tiện và những
khiếm khuyết của con.
Giêsu ơi, Chúa là Đấng duy
nhất đáng con tôn thờ,
Con sấp mình trước mặt Chúa,
Với tất cả yếu đuối và thiện
chí của con,
Con dâng Chúa lời cầu nguyện nhỏ bé
không khéo diễn tả của con.
Con dâng Chúa ước vọng đón
tiếp Chúa
Hầu con được tái sinh vào Sự
Sống và Tự Do:
‘’Một trẻ thơ đã sinh ra cho
chúng ta,
Một người con đã được ban cho
nhân loại.’’
Lạy Chúa, con cảm thấy mình
vụng về, bối rối,
Vì quà tặng quá quí giá,
Và bâng khuâng lo lắng trước một trách
nhiệm bao la.
Con mở rộng
vòng tay và con tim,
Xin Chúa hãy
vào cuộc sống con,
Là Đấng Cứu Độ
và Thiên Chúa của con,
Là người anh,
người bạn,
Là kiểu mẫu
duy nhất của con,
Là Thiên Chúa
thật và là người thật,
Con thờ lạy và
xin theo Chúa.
Lạy Cha trên
trời, Cha của Giêsu,
Con dâng Chúa
ý chí của con.
Lạy Chúa Thánh
Thần, Thần Trí của Giêsu,
Con tín nhiệm
vào Chúa,
Con cám ơn
Chúa
về sự dịu dàng
và sức mạnh của Chúa.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
Thực Phẩm Chức Năng |
Trong hơn 20 năm vừa qua,
dân chúng cững như giới khoa học đã có thêm một cái nhìn nữa
về thực phẩm. Thực phẩm không chỉ là để duy trì sự sống, mà
còn mang thêm khả năng tăng cường sức khỏe, giảm thiểu các
bệnh mãn tính do mất cân bằng dinh dưỡng. Từ đó nẩy sinh ra
sự tìm hiểu và chế biến loại thực phẩm trong đó các thành
phần cấu tạo có tác dụng tích cực vào những nhiệm vụ khác
nhau của cơ thể. Đó là “Thực phẩm chức năng”.
Thực phẩm chức năng được
quần chúng dễ dàng đón nhận, đặc biệt là với những lời giới
thiệu hấp dẫn về ích lợi từ nhà sản xuất. Thực phẩm có vẻ
như đã đáp ứng nhu cầu tự chăm sóc sức khỏe của mọi người.
Tuổi thọ gia tăng, quý vị cao niên muốn có các phương thức ở
trong tầm tay để giúp cuộc sống an bình, khỏe mạnh hơn. Giới
trẻ muốn có “tiên dược” để phòng tránh các bệnh mãn tính mà
cha ông mắc phải. Rồi lại còn chi phí khám chữa bệnh quá
cao, thời gian ngồi chờ quá lâu, bảo hiểm sức khỏe nhiêu
khê, khiến cho nhiều người tìm tới các phương tiện sẵn có.
Vậy thực phẩm chức năng
là gì? Có khác với thực phẩm tự nhiên không? Công dụng có
như lời giới thiệu? Có cần thiết và an toàn cho cơ thể
không?
Sau đây là ý kiến của một
số các nhà chuyên môn, hữu trách.
Định
nghĩa
Vào thập niên 1980, chính
phủ Nhật Bản tài trợ một chương trình nghiên cứu sự ích lợi
của thực phẩm đối với sức khỏe.
Năm 1991, chữ Thực Phẩm
Chức Năng (Functional Food) được đưa ra với ý nghĩa ban đầu
là những thực phẩm chế biến (processed foods) chứa các hoạt
chất có thể giúp một vài chức năng cơ thể hoàn thành nhiệm
vụ khả quan hơn, ngoài công dụng dinh dưỡng.
Nhật Bản có những tiêu
chuẩn cho TPCN, gọi là thực phẩm dành riêng cho sử dụng y tế
(Foods for Specified Health Uses), được bộ Y Tế công nhận.
Sau đó, nhiều quốc gia
khác cũng bắt đầu để ý tới những sản phẩm với tên mới mẻ
này. Tuy nhiên, cho tới nay, chưa có một định nghĩa chính
thức cho nhóm chữ TPCN. Mỗi quốc gia, mỗi tổ chức nghiên cứu
có định nghĩa và quy luật riêng nhưng từa tựa nhau.
Viện Y học Hoa Kỳ đưa ra
định nghĩa: “Thực phẩm chức năng là những thực phẩm chứa các
chất có khả năng tốt cho sức khỏe. Các thực phẩm này bao gồm
bất cứ thực phẩm chế biến hoặc thành phần nào có thể cung
cấp lợi ích cho sức khỏe ngoài giá trị dinh dinh dưỡng cố
hữu của thực phẩm”.
Trong tài liệu
“Functional Foods: Opportunities and Challenges” phổ biến
vào năm 2003, cơ quan Nghiên Cứu Quốc Tế Bất Vụ Lội về thực
phầm, định nghĩa “Thực phẩm chức năng là những thực phẩm và
các thành phần thực phẩm có thể cung cấp ích lợi sức khỏe
ngoài giá trị dinh dưỡng căn bản. Các thực phẩm này bao gồm
thực phẩm thường dùng, thực phẩm được bổ sung, tăng cường
hoặc hoàn chỉnh hơn (enhanced) và các thực phẩm phụ thêm”.
Với giới chức y tế
Canada: “Thực phẩm chức năng có hình dáng bên ngoài tương tự
như thực phẩm thông thường. Ngoài khả năng dinh dưỡng cố
hữu, các thực phẩm này phải được chứng minh một cách khoa
học là có thể cung cấp những ích lợi sinh học và có khả năng
giảm thiểu rủi ro mắc các bệnh mãn tính”
Tại Việt Nam, thông tư số
08/TT-BYT ngày 23-8-2004 của Bộ Y tế quy định: “Thực phẩm
chức năng là thực phẩm để hỗ trợ các chức năng của các bộ
phận trong cơ thể, có tác dụng dinh dưỡng tạo cho cơ thể
tình trạng thoải mái, tăng sức đề kháng và giảm bớt nguy cơ
bệnh”
Giới chức y tế Hàn quốc
coi thực phẩm chức năng là các thực phẩm chứa các chất dinh
dưỡng và các chất khác dưới dạng cô đặc, có tác dụng nuôi
sống hoặc sinh học với mục đích phụ thêm cho thực phẩm tự
nhiên”.
Điều cần lưu ý là
trong các định nghĩa nêu ở trên, không có định nghĩa nào nói
tới công dụng “chữa trị” bệnh của thực phẩm chức năng.
Điều
kiện trở thành thực phẩm chức năng
Theo quy định chung, một
thực phẩm chức năng phải hội đủ các điều kiện như sau:
- Các thành phần của thực
phẩm phải có khả năng có tác dụng tốt đối với các chức năng
sinh hóa học của cơ thể, tăng cường sức khỏe cho người tiêu
thụ, ngoài giá trị dinh dưỡng cố hữu.
- Các khả năng này phải
được chứng minh bằng các thử nghiệm khoa học.
- Sản phẩm phải có đầy đủ
các thành phần đã nêu ra trên bao bì.
- Phải có chứng minh rằng
các thành phần cho thêm vào sản phẩm an toàn và không gây ra
các tương tác có hại
- Vì không là dược phẩm
nên không được giới thiệu là có thể chữa bệnh, mà chỉ có tác
dụng phòng tránh, tăng cường sức khỏe, nâng cao đời sống.
- Phải giới thiệu bằng
những từ ngữ rõ ràng, dễ hiểu, không có tính cách gây hiểu
lầm, lừa dối.
Tại Hoa Kỳ, thực phẩm
chức năng được cơ quan Thực Dược Phẩm (Food and Drug
Administration) kiểm soát về phẩm chất và sự an toàn. Nhà
sản xuất phải được FDA công nhận là thực phẩm chức năng với
các dẫn chứng khoa học về ích lợi của sản phẩm. Các điều-
cho-là-đúng hoặc khẳng- định, quả-quyết (Claims) của nhà sản
xuất được xét theo các tiêu chuẩn sau đây
a. Có một đồng ý khoa học
đáng kể (significant scientific agreement) đối với quả quyết
của nhà sản xuất.
b. Mặc dù có một vài bằng
chứng khoa học hỗ trợ nhưng bằng chứng đó không có tính cách
kết luận.
c. Có vài chứng cớ khoa
học gián tiếp nhắc tới quả
quyết này. Tuy nhiên FDA kết luận là dẫn chứng rất giới hạn
(limited) và không có tính cách kết luận
d. Rất ít nghiên cứu khoa
học đề cập tới điều mà nhà sản xuất quả quyết. FDA kết luận
rằng có rất ít bằng chứng khoa học hỗ trợ cho lời yêu cầu.
Mới đây nhất, tháng 1 năm
2007, FDA gửi một hướng dẫn tới các nhà sản xuất thực phẩm,
trong đó FDA nhấn mạnh ở hai điểm:
- Quà quyết sức khỏe
(Health claims) mô tả mối liên hệ giữa một chất (thực phẩm
hoặc thành phần thực phẩm) với một bệnh hoặc một tình trạng
sức khỏe. Quả quyết của thực phẩm giới hạn ở sự
giảm rủi ro
bệnh chứ không được quả quyết chữa lành bệnh, giảm bệnh,
điều trị hoặc phòng tránh bệnh. Các quả quyết này dành cho
dược phẩm.
- Các quả quyết của thực
phẩm chức năng (Functional Food Claims) chỉ trình bầy ảnh
hưởng của thực phẩm đối với cấu trúc và nhiệm vụ các bộ phận
cơ thể.
Chẳng hạn thực phẩm tăng
cường calci giúp duy trì xương lành mạnh và giảm rủi ro
loãng xương; thực phẩm có chất xơ giúp đại tiện đều đặn và
có thể giảm rủi ro vài loại ung thư và bệnh tim; folic acid
có thể giảm rủi ro khuyết
tật cột tủy sống; chất đạm đậu nành có thể giảm rủi ro bệnh
tim…
Tại Hoa Kỳ, giới sản xuất
thực phẩm chức năng liên tục tranh luận với cơ quan này về
điều mà họ cho là đúng để giới thiệu trên nhãn thực phẩm.
Thay vì nói sản phẩm chữa được bệnh thì họ “lách”: sản phẩm
có thể thay đổi chức năng và cấu trúc các cơ quan trong cơ
thể, trì hoãn sự hóa già hoặc duy trì mức độ cholesterol
bình thường, “cải thiện tâm trạng”, “chất bảo vệ sức khỏe”,
“Tăng cường sự thư giãn”…
Bên Anh quốc, luật pháp
đòi hỏi là mọi giới thiệu trên nhãn hiệu thực phẩm phải đúng
và không có tính cách gây hiểu nhầm (misleading).
Liên Hiệp Âu châu cũng có
quy luật để bảo đảm là mọi dữ kiện ghi trên bao bì thực phẩm
đều rõ ràng, chính xác và có chứng minh để dân chúng dễ lựa
chọn thực phẩm, nước uống
và để bảo vệ sức khỏe mọi người.
Việc kiểm soát chặt chẽ
như vậy nhằm mục đích bảo vệ người tiêu thụ khỏi bị “thôi
miên với các giới thiệu tốt đẹp, không phân biệt được thực
hư, dễ bị nhầm lẫn”.
Xin đưa ra trường hợp một
sản phẩm tại Việt Nam được Cục An Toàn Vệ Sinh Thực Phẩm cho
phép với xác định: ‘’Tảo côn bố là 1 loại tảo biển có nhiều
vi chất dinh dưỡng nên dùng tốt cho những người suy nhược cơ
thể do dinh dưỡng không cân đối. Ngoài ra, cung cấp một
luợng chất xơ tự nhiên cao giúp ổn định hoạt động của bộ máy
tiêu hóa, đặc biệt là đại tràng”.
Nhưng nhà sản xuất lại
giới thiệu: “Tảo
đặc chế bổ sung dưỡng chất cho cơ thể, chống loãng xương,
táo bón, trĩ, lợi tiểu. Ngăn ngừa chứng huyết khối, giảm
cholesterol, phòng chống ung thư dạ dày, đại tràng, trị bướu
cổ, tràng nhạc, xám da, lọc máu, thải độc, viêm gan B, giảm
béo. Đặc biệt đối với người béo phì, đái tháo đường, huyết
áp, tim mạch”.
Cục An toàn thực phẩm đã
yêu cầu nhà sản xuất thu hồi sản phẩm.
Áp dụng
thực tế
Thực ra, 500 năm trước
Thiên Chúa, danh y Hi Lạp Hippocrate đã biết rõ vai
trò của thực phẩm đối với bệnh và
đã viết: “Hãy dùng thực phẩm như dược phẩm”.
Từ lâu, các quan sát dịch
tễ đã thấy rằng, thổ dân vài bộ lạc ở châu Phi dùng nhiều
thực phẩm có chất xơ ít bị ung thư trực tràng; dân Eskimo
rất ít bị bệnh tim vì ăn nhiều cá; người Nhật sống ở quê
hương ăn nhiều đậu nành ít bị nhồi máu cơ tim hơn là khi
chuyển cư sang Mỹ, tiêu thụ nhiều thịt động vật…
Trong khi đó thì khoa học
thực nghiệm cũng chứng minh là các thực phẩm tự nhiên mà
chúng ta thường ăn đều có tác dụng tốt lên các chức năng của
cơ thể. Như là hạt yến mạch (Oats) có chất xơ b-glucan làm
giảm cholesterol, LDL giảm rủi ro bệnh động mạch tim; cà
chua với lycopene giảm rủi ro ung thư nhiếp tuyến; tỏi với
hóa chất Allium savitum có tác dụng phòng tránh ung thư,
tiêu diệt vi khuẩn, giảm cao huyết áp, cao cholesterol; nước
trái cây cranberry rất tốt để giảm nhiễm trùng tiểu tiện; cá
có omega-3 giảm rủi ro bệnh tim và ung thư; sữa chua có
nhiều vi sinh vật rất tốt cho các chức năng của ruột…
Như vậy
có nên hoặc cần dùng thêm thực phẩm chức năng hay không.
Marion Nestle, Trưởng Bộ
môn Dinh Dưỡng và Nghiên Cứu Thực phẩm tại Đại học New York
có ý kiến: “Điều e ngại của tôi là thực phẩm chức năng sẽ
ngăn cản (distract) dân chúng dùng thực phẩm lành mạnh và
khuyến khích các nhà sản xuất đưa ra thị trường những sản
phẩm vô tích sự, chỉ có một vài chất dinh dưỡng mà nói là
thực phẩm tốt lành. Rau và trái cây đã có đầy đủ những chất
giúp ngăn ngừa ung thư và bệnh tim”
Về sự an toàn, xin trích
dẫn lời nói của Steven DeFelice, Chủ tịch Quỹ Tài trợ Canh
tân Y học (Foundation of Innovation in Medicine) tại
Cranford, New Jersy: “Chín mươi chín phần trăm thực phẩm
chức năng chưa được thử nghiệm lâm sàng và đã đưa ra các
khẳng định mà không có sự hỗ trợ của dữ kiện lâm sàng”.
Hoặc như nhận xét của
Bruce Silverglade, Giám đốc Pháp lý của Trung tâm Khoa học
vì Lợi ích Công cộng (Center for Science in the Public
Interest): “Người ta vẫn nói rẳng dược thảo an toàn vì đã
được dùng cả nhiều trăm năm. Một số dược thảo có thể an
toàn. Nhưng không được thử nghiệm, không ai có thể biết một
dược thảo nào đó có thể gây ra ung thư, suy thận hoặc tổn
thương khác, dủ là chất đó đã được dùng từ lâu”.
Chính các nhà sản xuất
cũng nhận là hiện nay trên thị trường có nhiều loại TPCN
không đúng như quảng cáo, sự khuyến mãi không thực thà, sản
phẩm không có bổ ích.
Kết
luận
Thực phẩm chức năng đang
tràn ngập thị trường tại mọi quốc gia với những lời quảng
cáo dễ lung lạc lòng người về ích lợi cho sức khỏe.
Dùng hay không là tùy sự
suy luận và nhu cầu của mỗi cá nhân.
Chỉ nên nhớ rằng thực
phẩm tự nhiên đã chứa tất cả các chất dinh dưỡng cần cho các
chức năng của cơ thể.
Và thực phẩm gọi là chức
năng không phải là phương thuốc “bách bệnh tiêu tán, vạn
bệnh tiêu trừ” để giải tỏa các các thói quen xấu. Đây cũng
chỉ là thức ăn thường được chế biến, thêm bớt vài hóa chất
khác nhau.
Hơn nữa, không có thực
phẩm xấu tốt mà có cách sử dụng đúng hoặc sai. Sai vì dùng
quá ít hoặc quá nhiều. Như Paracelsus vào thế kỷ 15 đã có
nhận xét: “Mọi chất đều có mầm độc hại. Sử dụng với số lượng
thích hợp phân biệt một chất độc với liều thuốc trị bệnh”
Mà ăn uống đúng cũng
chưa đủ, còn cần có nếp sống lành mạnh, vận động đều đặn,
thư giãn tâm hồn.
Thực phẩm chức năng còn
cần nhiều nghiên cứu khoa học để chứng minh công dụng phòng
ngừa, chữa trị bệnh tật.
Cũng như cần sự “trong
sáng lương tâm” của nhà sản xuất để không đưa ra thị trường
những sản phẩm “hào nhoáng bề ngoài mà nội dung nghèo nàn,
đôi khi có hại”. Hoặc các nhà phân phối phóng đại lời giới
thiệu sản phẩm quá mức độ so với tác dụng thực sự của chúng.
Như ý kiến sau đây của
Barbara Gollman, Hội Thực Phẩm-Dinh Dưỡng Hoa Kỳ (American
Dietetic Association): “Tiêu thụ quá nhiều, các chất đó sẽ
gây hại cho sức khỏe. Nếu không thu lượm được điều mà ta
tưởng là có thì chỉ tốn tiền vô ích”.
Vì liệu “Cỏ có luôn
luôn xanh hơn ở phía bên kia núi” hay không!!
Bác sĩ
Nguyễn Ý-Đức Texas- Hoa Kỳ
|
VỀ MỤC LỤC |
|
CỤ XỨ BÊN TA
Chuyện phiếm của
Gã Siêu. |
Nếu gã nhớ không lầm, thì
trước ngày ba mươi tháng tư năm bảy mươi lăm, tại Đại Chủng Viện
Thánh Giuse Saigon các thầy phó tế, hay nói nôm na là các cụ
sáu, được lãnh nhận chức vụ linh mục vào cuối tháng tư, trước
khi ra trường; còn tại Giáo Hoàng Học Viện Thánh Piô X Đàlạt,
thì vào tháng mười hai, trước lễ Giáng Sinh. Thành thử trong năm
có những đợt truyền chức, được gọi là những mùa hồng ân,
Vào những mùa và những đợt
này, bàn dân thiên hạ lại được nghe trình bày về linh mục. Các
vị giảng thuyết cả tiếng lại dài hơi, ca tụng vẻ cao đẹp tuyệt
vời của thiên chức ấy. Chẳng hạn linh mục là trung gian giữa
trời và đất, là gạch nối giữa Thiên Chúa và nhân loại. Nghe cứ
như rót vào tai.
Có vị trích dẫn mẩu đối
thoại hình, hình như của cha thánh Gioan Maria Vianney, để biện
minh cho những lời ca tụng của mình. Thánh nhân phát biểu như
sau :
- Nếu một ngày nào đó, tôi
gặp một thiên thần và một linh mục ở giữa đường, thì tôi sẽ cúi
đầu chào linh mục trước, bởi vì linh mục đã đem Chúa đến cho
tôi, còn thiên thần thì…không.
Có vị còn xác quyết mạnh mẽ
hơn thế nữa, khi nói :
- Mẹ Maria chỉ sinh Chúa có
một lần, còn linh mục thì không ngừng sinh Chúa mỗi ngày!
Chỉ sợ rằng các cha mới cứ
được nghe miết những lời “khoái cả lỗ nhĩ” này, mà lim dim ngủ
trên những hào quang của mình. Cứ ngỡ mình là ông Bụt cao sang,
mà quên mất thân phận hòn đất thấp kém, bởi vì từ hòn đất, các
ngài đã được cất nên ông Bụt.
Có một anh bạn là linh mục,
ngày kia đã tâm sự với gã như thế này :
- Hồi còn bé, mình thích đi
tu lắm, ông có biết tại sao không ? Này nhé, đi tu làm cha thì
được ở nhà tây, được mang giày tây, được ăn bánh tây. Ra ngoài
đường, bất luận già trẻ lớn bé, nam phụ lão ấu đều khoanh tay
cúi đầu chào : Con xin phép lạy cha ạ. Lạy cha mà còn cần phải
xin phép nữa, thì quả là hết ý. Hồi ấy, mình cũng giống như anh
em ông Giacôbê và Gioan, mang nặng đầu óc xôi thịt, theo Chúa
với mục đích vinh thân phì gia, mong được ngồi bên tả và bên hữu
Chúa, có nghĩa là tìm lấy cho mình ghế nọ ghế kia, chức này
chức khác. Tóm lại là được làm lớn trong vương quốc của Ngài.
Thế rồi những tháng năm dài ở chủng viện đã dần dần thanh luyện
cái ý hướng của mình, nhờ đó mình không còn mang ảo tưởng nữa.
Chức linh mục là để phục vụ Chúa và người khác, chứ không phải
là để phục vụ cho bản thân. Và đời linh mục chẳng phải là một xa
lộ an toàn, nhưng cũng chất đầy những chông gai và sỏi đá…
Cũng vị linh mục này, trong
một buổi chia sẻ kinh nghiệm sống, đã được mấy bà hiền mẫu góp
ý…nhẹ nhàng như sau :
- Đi tu như các cha, các
thầy, các dì thế mà sướng, chứ còn đèo bòng như tụi con, khổ lắm
cha ơi.
Có bà còn mạnh miệng phán
một cách rất quyết liệt và quá khích :
- Khi gặp gỡ và trao đổi
với những đôi hôn nhân, cha hãy bảo chúng nó đừng lấy nhau nữa,
khổ lắm cha ơi.
Nghe vậy, gã bèn hỏi :
- Vậy cha đã giải tỏa cho
họ như thế nào ?
Ngài trả lời :
- Mình cũng chỉ biết nhún
vai, nhếch mép…mần duyên mà nói với họ rằng : Có ở trong chăn
mới biết chăn có rận và đoạn trường ai có qua cầu mới hay. Các
bà cứ thử đi tu làm…cha mà coi xem có nổ đom đóm mắt và toát mồ
hôi hột ra không ?
Đúng thế, bông hồng nào mà
chẳng có gai, cuộc đời nào mà chẳng có những đắng cay của nó.
Định luật này được áp dụng cho mọi người, ở mọi nơi và trong mọi
lúc, chẳng miễn trừ cho một ai, kể cả linh mục và tu sĩ.
Vì thế, hôm nay gã xin hầu
chuyện về nỗi đoạn trường và những cay đắng bẽ bàng của các linh
mục, đặc biệt các cụ xứ, các cha sở bên ta, tức là bên Việt Nam.
Hy vọng có người nào đó sẽ viết tiếp về nỗi đoạn trường và những
cay đắng bẽ bàng của các cụ xứ, các cha sở bên tây.
Nhìn thoáng qua con người
và cuộc đời, gã thấy linh mục được phủ đầy hào quang, thậm chí
có kẻ xấu bụng còn liệt các ngài vào hàng :
- Ngồi nhà mát, mà ăn bát
vàng.
- Muốn nói ngoa, thì làm
cha mà nói.
Hằng ngày chẳng phải bon
chen, bươn chải hay khắc khoải với vấn đề cơm áo gạo tiền. Rồi
lại còn được bàn dân thiên hạ trọng kính. Thấy vậy ai mà chẳng
ham.
Tuy nhiên, nếu vào sâu hơn
một chút, thì con người và cuộc đời linh mục cũng không thiếu
những gian nan và thử thách. Yếu tố căn bản tạo nên tấm bi kịch
của thân phận linh mục, theo gã nghĩ, đó chính là những mâu
thuẫn chồng chéo. Có những mâu thuẫn từ bên ngoài, do hoàn cảnh
mang tới. Nhưng cũng có những mâu thuẫn từ bên trong, phát sinh
do bản chất, do căn tính của linh mục.
Trước hết là những mâu
thuẫn từ bên ngoài.
Ngày xưa việc huấn luyện và
đào tạo linh mục được chia làm hai giai đoạn.
Giai đoạn thứ nhất ở tiểu
chủng viện. Các chủng sinh được gọi là các chú. Ngoài những sinh
hoạt đạo đức, các chú còn được học một chương trình giống như
các thanh thiếu niên ngoài đời, cho đến lúc mãn tràng, hết lớp
đệ nhất hay lớp mười hai.
Giai đoạn thứ hai ở đại
chủng viện. Các chủng sinh bây giờ được gọi là các thầy. Ngoài
những sinh hoạt đạo đức, các thầy còn được trau dồi về triết học
và thần học, nghĩa là được tìm hiểu về những sự cao siêu trên
trời.
Sau khi lãnh nhận chức linh
mục và bước chân xuống cuộc đời, nhất là trong trách nhiệm và
bổn phận của một cụ xứ, thì những sự cao siêu trên trời ấy bỗng
biến đi đâu mất tiêu, để rồi phải đối đầu với những việc cụ thể
dưới đất.
Dĩ nhiên, cái chất đạo đức
được tôi luyện trong bao nhiêu năm tháng, không nhiều thì ít,
cũng đã thấm được phần nào vào con người linh mục. Nhưng rồi
những chi phối của thế gian nhiều lúc cũng đã làm cho cái chất
đạo đức ấy bị phai nhạt dần.
Ngày xưa, cụ xứ chỉ được
học qua quít về…nghệ thuật hùng biện, thế mà bây giờ, giảng dạy
lại trở nên một trong những hoạt động chính yếu của ngài. Nếu
ngài giảng về những sự cao siêu trên trời, giáo dân sẽ ngáp lên
ngáp xuống. Họ đòi hỏi bài giảng của ngài phải cụ thể và xúc
tích, nghĩa là phải xuất phát từ đời thường, để rồi lại được áp
dụng vào chính cuộc sống hằng ngày. Vậy phải làm thế nào để đào
cho ra cái chất sống ấy ?
Là người luôn đứng trên bục
mà dạy thiên hạ, thế nhưng nếu không khéo thì chính ngài lại trở
thành kẻ…mất dạy. Hai chữ mất dạy ở đây không có nghĩa là ngỗ
nghịch, hỗn láo mà chỉ xin được hiểu là không còn được dạy bảo,
như lời một bà mẹ đã nói với người con của mình vừa mới được thụ
phong linh mục như sau :
- Con ơi, kể từ ngày hôm
nay, nếu không ý tứ, thì con sẽ trở nên một kẻ mất dạy, vì với
chức linh mục, con sẽ không còn được ai dạy bảo nữa.
Đúng thế, nếu không kết
hiệp mật thiết với Chúa qua những tâm tình cầu nguyện, thì cụ
xứ không còn được Chúa dạy bảo. Hay nói đúng hơn, cụ xứ không
còn sẵn sàng đón nhận sự soi dẫn của Chúa.
Đồng thời, với những thành
công gặt hái được và những trọng kính người ta dành cho mình, cụ
xứ dễ mang ảo tưởng cho rằng mình là một bậc thầy lỗi lạc, ý
kiến của mình luôn đúng, cho nên dễ dàng gạt bỏ thẳng thừng
những ý kiến đóng góp, những đề nghị xây dựng của người khác. Từ
đó, cụ xứ sẽ rơi vào thái độ cực đoan, độc tài và độc đoán,
không còn biết lắng nghe. Như thế phải chăng là sẽ làm cho mình
dần dần trở nên mất dạy.
Cụ xứ bên ta được sánh ví
như một chiếc chìa khóa vạn năng, ổ nào cũng phải mở được, hay
nói một cách khác, đụng đâu thì phải làm đó, mà việc nào xem ra
cũng phải được xếp vào bậc thầy, bậc sư phụ, bởi vì ngài là…thầy
cả cơ mà.
Ngày xưa, cụ xứ đâu có được
học về kiến trúc, thế mà bây giờ ngài phải nhúng tay vào hết mọi
công trình, xây từ nhà thờ cho đến nhà bếp, xây từ nhà xứ cho
đến nhà sinh hoạt, thậm chí đến cả chuồng heo, chuồng gà. Thế
nhưng, những kẻ không hiểu thì chép miệng phê bình :
- Cha xây, rồi cha lại cất.
Xây nhiều thì cất cũng nhiều.
Trái lại, nếu không xây,
thiên hạ bảo cha cù lần :
- Bao nhiêu năm cha ở với
chúng con mà chẳng để lại được một công trình nào cả. Cha chẳng
lo xây, nhưng chỉ lo cất mà thôi.
Rất lơ mơ về nghề xây dựng,
nhưng vì là cụ xứ có toàn quyền, nên đôi lúc ngài cũng đã ngẫu
hứng thò tay điều chỉnh bản vẽ, thêm cái này, bớt cái kia, thành
thử kết cấu cứ thay đổi luôn xoành xoạch, đến độ quỷ thần cũng
không lường nổi.
Ngày xưa, cụ xứ đâu có được
học về việc cấy lúa thần nông, làm đường giao thông, hay đào ao
thả cá…thế mà bây giờ, ngài cũng phải lăn xả vào những ngành
nghề này, ít nữa là đưa ra những ý kiến mang nặng tính cách khoa
học và kỹ thuật, để dân chúng noi theo mà nâng cao đời sống.
Và còn rất nhiều lãnh vực
khác nữa, mặc dù hiểu biết còn rất lơ mơ và kinh nghiệm tích lũy
chẳng bao nhiêu, thế mà ngài vẫn cứ phải dấn thân. Thôi thì cha
sở đi trước, làng nước theo sau. Hay nói cách khác :
- Đã ăn cơm Chúa thì phải
múa tối ngày mà thôi.
Một khó khăn nữa cũng đến
từ bên ngoài, đó là cách cư xử của cụ xứ. Ngài phải làm sao để
dung hòa được những nghĩa vụ, những hoạt động của mình, luôn
đứng ở giữa, không nghiêng bên nọ, cũng không ngả bên kia, bởi
vì thái quá thì bất cập.
Trong một bài báo với tựa
đề : “Làm cụ xứ thời nay dễ hay khó ?”, một tác giả đã đưa ra
những nhận xét của mình như sau :
“Nếu cha giảng lâu quá
mười phút – Cha lại nói thao thao bất tuyệt !
Nếu cha mời mọi người chiêm niệm về Thiên
Chúa – Ôi, cha chỉ toàn là nói chuyện trên mây trên gió !
Nếu cha đề cập hơi nhiều
đến các vấn đề xã hội – Rõ ràng là cha lại khuynh tả rồi !
Nếu cha chỉ cư ngụ trong
khuôn viên Giáo Xứ – Cha đã tự ý cắt đứt liên hệ với thế gian !
Nếu cha cứ cả ngày ở
trong Nhà Chung – Cha chẳng chịu đi gặp gỡ tiếp xúc với ai cả !
Nếu cha thường xuyên đi
thăm người này người kia – Cha chẳng chịu bao giờ ở Nhà Xứ !
Nếu cha sẵn sàng làm Phép Rửa Tội và chứng
Hôn Phối cho bất cứ ai đến xin – Đúng là cha đã bán tống bán
tháo các Bí Tích !
Nếu cha đòi hỏi cao hơn
và nhiều hơn – Cha chỉ muốn Giáo Hội gồm toàn những người trọn
hảo !
Nếu cha thành công với
thiếu nhi – Đạo của cha là đạo ấu trĩ !
Nếu cha năng thăm viếng các bệnh nhân – Cha
chỉ phí thời giờ, và không đi sát với các vấn đề của thời đại!
Nếu cha sửa sang Nhà Thờ
– Cha lại ném tiền qua cửa sổ mất rồi !
Nếu cha không tu bổ gì –
Cha đã bỏ bê mọi sự !
Nếu cha cộng tác chặt
chẽ với Hội Đồng Giáo Xứ – Cha lại để cho người ta xỏ mũi cha
rồi !
Nếu cha không lập Hội
Đồng Giáo Xứ – Cha độc tài quá đi mất !
Nếu cha hay mỉm cười –
Cha quá dễ dãi !
Nếu vì đãng trí hay quá bận tâm một chuyện
gì đó nên cha không nhìn thấy một người nào đó – Cha khinh người
vừa vừa chứ !
Nếu cha hay bực bội vì
một sai sót nào đó của người khác – Cha thiếu sự độ lượng nhân
từ rồi đấy !
Nếu cha hiền hòa nhẫn
nhục – Cha thiếu nghị lực quả quyết !
Nếu cha còn trẻ – Đúng
là cha còn thiếu kinh nghiệm trường đời !
Nếu cha đã có tuổi – Xin
mời cha nghỉ hưu đi là vừa !
Vậy thì, kính thưa cha
sở, xin cha cứ can đảm lên nhé !”
Qua những cuộc tiếp xúc, gã
cũng nhận thấy tương tự như vậy : một cha sở, nếu vui tính thì
bị hiểu là quá dễ dãi và thân mật, còn nếu nghiêm nghị ít nói
thì bị mang tiếng là khó tính, nếu bình dân ăn nói như mọi người
thì bị chê là không có tác phong đứng đắn, nếu áo quần tề chỉnh
và ít đi lại thì bị khép vào hạng người kiêu kỳ quan liêu và
cách biệt, nếu hăng hái lao động thì bị kêu là kẻ ham của cải
vật chất, còn nếu ít làm việc tay chân thì bị trách là con nhà
trưởng giả…
Thật đúng như cha ông chúng
ta đã nói :
- Ở sao cho vừa lòng người,
Ở rộng người cười, ở hẹp
người chê.
Cao chê ngỏng, thấp chê
lùn,
Béo chê béo trục béo
tròn,
Gầy chê xương sống, xương
sườn phơi ra.
Nếu muốn làm vừa lòng mọi
người, thì cụ xứ sẽ chẳng làm vừa lòng được một ai, hay cụ xứ
phải là người khôn ngoan như Salomon, bằng không thì sẽ điên cái
đầu. Mà dù có khôn ngoan như Salomon chăng nữa, biết đâu lại
chẳng có kẻ chê là thủ cựu, là dè đặt, là bảo hoàng hơn vua…Cho
nên, cụ xứ vừa phải khôn ngoan như con rắn, lại vừa phải đơn sơ
như chim bồ câu, vừa phải cứng như thép, lại vừa phải dịu như
nước. Ôi quả thực là nhiêu khê và rắc rối quá đi thôi!
Sau khi đã rảo qua một vài
mâu thuẫn từ bên ngoài, bây giờ gã xin trình bày những mâu thuẫn
từ bên trong, phát sinh bởi bản chất hay căn tính của linh mục.
Thứ nhất, con người linh
mục thì yếu đuối, nhưng lại mang lấy một chức vụ cao cả, chức vụ
trung gian giữa Thiên Chúa và nhân loại. Nói theo kiểu thánh
Phaolô thì chức vụ ấy chính là một kho tàng quý giá. Thế nhưng,
kho tàng quý giá này lại được đựng trong một chiếc bình sành dễ
vỡ là thân xác linh mục. Gìn giữ chiếc bình này sao cho không bị
bể vỡ cũng là chuyện rất cam go trong suốt cả cuộc đời linh mục.
Ngày xưa, gã có quen một
anh bạn bổn đạo mới, tên là Minh. Trong chỗ bạn bè thân mật với
nhau, chúng tôi thường gọi anh là…”Minh Tốc”. Chắc hẳn anh đã
được nghe thuyết giảng nhiều về sự cao cả của thiên chức linh
mục, nên luôn xác tín rằng : Linh mục là người không thể nào sa
ngã bởi vì luôn được Chúa yêu thương, nâng đỡ và chở che. Chúng
tôi có cắt nghĩa thế nào chăng nữa, anh cũng không chấp nhận.
Chúng tôi có đưa ra những bằng chứng cụ thể, chẳng hạn linh mục
này đã sa ngã, linh mục kia cởi bỏ chiếc áo chùng thâm để trở về
làm…phó giáo dân ngoài đời, anh cũng chẳng chịu nghe. Lập trường
của anh trước sau như một :
- Linh mục là người thánh,
không thể nào phạm tội!!!
Là trung gian giữa Thiên
Chúa và nhân loại, nên linh mục vừa phải gắn bó với Thiên Chúa,
nhưng đồng thời cũng phải gắn bó với con người. Vừa nắm chặt lấy
bàn tay Thiên Chúa, nhưng đồng thời cũng phải nắm chặt lấy bàn
tay con người. Vừa là tôi tớ của Thiên Chúa, nhưng đồng thời
cũng phải là tôi tớ của con người. Dung hòa được hai điều này
không phải là chuyện dễ dàng chút nào.
Vì thế, trong khi thi hành
bổn phận, cụ xứ càng dấn thân vào đời bao nhiêu, thì lại càng
phải siêu thoát đối với đời bấy nhiêu, chứ không được quyến
luyến với đời. Dưới mắt ngài, cuộc đời chỉ là quán trọ trong
hành trình tiến về Nước Trời vì chỉ Nước Trời mới là quê hương
đích thực mà thôi. Hay như người ta thường bảo :
- Thân xác là bụi tro, danh
vọng là mây khói và tiền bạc là phân bón.
Ý thức mình chỉ là một con
người yếu đuối, trong tay không có những phương tiện chính trị,
những nguồn tài chánh, hay những vũ khí quân sự, thế nhưng linh
mục lại chất chứa một sức mạnh vô song, sức mạnh của tình yêu và
thập giá, hay nói đúng hơn là sức mạnh của chính Thiên Chúa, như
thánh Phaolô đã viết :
- Chính lúc tôi yếu lại là
lúc tôi mạnh.
Những kẻ muốn tẩy trừ Giáo
hội ra khỏi thế giới đã biết rõ điều ấy. Bởi vì với biết bao
nhiêu quyền lực và sức mạnh, họ cũng vẫn không thể nào đè bẹp
nổi linh mục và làm cho Giáo hội bị sụp đổ.
Linh mục không phải chỉ là
một con người vừa yếu lại vừa mạnh, nhưng còn là một con người
vừa được yêu lại vừa bị ghét.
Như trên, chúng ta đã thấy
người giáo dân Việt Nam đã dành cho linh mục những yêu thương và
trọng kính. Trong khi đó, linh mục cũng lại là người bị thù oán,
bị chỉ trích nhiều hơn cả. Cũng như Đức Kitô, cụ xứ trở nên bia
cho người ta chống đối.
Bernanos, một nhà văn công
giáo, đã có lý khi thốt lên :
- Phải bị ghét bỏ mới chính
là linh mục đích thực của Đức Kitô.
Linh mục bị những kẻ thù
của Giáo hội hạ nhục, bôi nhọ và vu khống vốn dĩ chỉ là
chuyện…thường ngày ở huyện. Thế nhưng, linh mục còn bị chính con
cái mình, những kẻ được ngài dẫn dắt, quay lưng chống lại và
phản bội.
Bằng chứng là những đơn
kiện cáo các linh mục nơi phần đời cũng như nơi phần đạo tại
Việt Nam hình như mỗi ngày một gia tăng và nổi cộm. Thậm chí, có
linh mục đã phải ngậm đắng nuốt cay mà than thở cả tiếng, khi
đời mình đã ngả bóng về chiều :
- Bạc như dân, bất nhân như
lính.
Sau cùng, trong khi thi
hành chức vụ, linh mục và nhất là cụ xứ thường gặp phải một loại
mâu thuẫn khác nữa, đó là mâu thuẫn giữa nhiều và chẳng có chi.
Đúng thế, đôi khi cụ xứ cầm
trong tay cả một đống tiền, thế mà nếp sống vẫn cứ đơn giản, vẫn
cứ đạm bạc, bởi vì đống tiền ấy chẳng phải là của riêng mình,
nhưng là của chung và được tiêu dùng cho những công việc đem lại
lợi ích cho mọi người, thật đúng với cốt cách : có cũng như
không.
Đặc biệt trong lãnh vực
tình cảm, cụ xứ cũng như linh mục phải có một trái tim rộng mở
để chia sẻ và cảm thông với hết mọi người, từ những đứa con nít
cho đến những ông già bà cả, từ những kẻ giàu nứt khố đổ vách
đến những người nghèo túng khố rách áo ôm.
Tình yêu của ngài phải là
một tình yêu không biên giới, không loại trừ, không phân cách.
Tình yêu ấy phải được trải dài, trải rộng trên mọi người, nhưng
lại không được phép đóng lại trên ai cả. Ngài chẳng phải là của
riêng một ai và chẳng một ai là của riêng mình ngài. Ngài yêu
rất nhiều, nhưng cuối cùng lại chẳng được bao nhiêu. Ngài là bạn
của mọi người, nhưng rốt cục lại là người cô đơn nhất. Cô đơn
trong trách nhiệm và bổn phận. Cô đơn trong khó khăn và thử
thách. Cô đơn trong đau yếu và tuổi già.
Gã xin đưa ra một thí dụ
điển hình : buổi chiều Chúa nhật, thánh lễ thật đông vui làm
sao. Tiếp nối là giờ sinh hoạt của giới thiếu nhi : những tiếng
hát hồn nhiên và những nụ cười ngây thơ của lứa tuổi thiên thần
mới rộn rã làm sao…Nhưng rồi sau đó, mọi người ra về và cánh
cổng nhà thờ khép lại. Cụ xứ lầm lũi và âm thầm bước vào căn
phòng nhỏ hẹp của mình. Có nói thì cũng chỉ nói với chính mình.
Có nhìn thì cũng chỉ nhìn hình bóng mình in trên tường vách.
May mà ngài còn có Chúa. Chúa đã cứu ngài một bàn thua trông
thấy, bằng không thì chỉ còn nước phá sản và vỡ nợ mà thôi!!!
Để kết luận, gã xin ghi lại
ý kiến sau đây của cha Chevrier. Ngài nói :
- Xin hãy giúp tôi xây dựng
một ngôi thánh đường. Chỉ có ngôi thánh đường này mới cứu được
thế giới.
Người ta ngạc nhiên bèn hỏi
:
- Ngôi thánh đường nào vậy
?
Ngài nói tiếp :
- Tôi muốn làm hết sức để
xây một ngôi thánh đường mà nền móng là những linh mục thánh
thiện, các cột đỡ cũng là những linh mục thánh thiện, nhà tạm
cũng là những linh mục thánh thiện, tòa giảng cũng là những linh
mục thánh thiện và bàn thờ cũng là những linh mục thánh thiện.
Chỉ có ngôi thánh đường này mới cần thiết cho mọi người, ở mọi
nơi và trong mọi lúc.
Sở dĩ như vậy vì đời sống
đạo đức của người giáo dân lệ thuộc khá nhiều vào sự thánh thiện
của các linh mục và các…cụ xứ!!!
Gã
Siêu
gasieu@gmail.com |
VỀ MỤC LỤC |
|
- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến,
bài vở..., xin gởi về địa chỉ
giaosivietnam@gmail.com
- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục
vụ của Giáo sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các
Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn
gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực
Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh
vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức
Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và
Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quy vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại
www.conggiaovietnam.net
Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị
Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã
sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác
nhau.
TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca
Phạm Quốc Sử
USA
|
|
*************
|
|