Gaudium Et Spes |
Hiến Chế Mục Vụ
Về Giáo Hội
Trong Thế Giới Ngày Nay
Gaudium Et Spes
Bản dịch Việt Ngữ của Giáo Hoàng Học
Viện Piô X
Prepared for Internet by Vietnamese
Missionaries in Asia
Phần Thứ Hai
Chương III
Ðời Sống Kinh Tế Xã Hội
75*
63. Một vài khía cạnh của đời sống kinh
tế. Ngay trong đời sống kinh tế xã hội, phẩm giá
cũng như ơn gọi toàn diện của con người và lợi ích của toàn thể
xã hội cũng phải được tôn trọng và thăng tiến. Vì con người là
tác giả, là tâm điểm và là cứu cánh của tất cả đời sống kinh tế
xã hội.
Sau đây là một
vài đặc điểm của nền kinh tế hiện đại cũng như của các lãnh vực
khác trong đời sống xã hội: con người càng ngày càng chế ngự
thiên nhiên nhiều hơn, sự liên lạc và nương tựa lẫn nhau giữa
các công dân, đoàn thể, quốc gia càng ngày càng nhiều và rộng
lớn hơn, và mỗi ngày sự can thiệp của các chính quyền càng trở
thành thường xuyên; đồng thời, với đà tiến bộ của các phương
pháp sản xuất và trao đổi sản phẩm cũng như dịch vụ, kinh tế đã
trở thành một công cụ thích hợp để thỏa mãn cách khả quan những
nhu cầu chồng chất của gia đình nhân loại.
Tuy nhiên,
không thiếu những lý do gây nên lo ngại. Nhiều người, nhất là
trong những miền có nền kinh tế tiến bộ, như bị đời sống kinh tế
chi phối hoàn toàn, đến nỗi trong các quốc gia theo kinh tế tập
sản cũng như trong các quốc gia khác, hầu như cả đời sống cá
nhân cũng như xã hội của họ đều bị thấm nhiễm một thứ chủ nghĩa
duy kinh tế. Trong thời đại mà sự phát triển đời sống kinh tế
nếu được điều khiển và phối hiệp cách hợp lý và nhân đạo, có thể
giảm thiểu những chênh lệch trong xã hội, thì nhiều khi lại làm
cho những chênh lệch ấy trở thành trầm trọng hơn, hoặc ở một vài
nơi còn trở thành sự thoái hóa địa vị xã hội của những người yếu
thế và miệt thị những kẻ nghèo túng. Ngay trong những vùng kém
mở mang, giữa lúc đại đa số vẫn còn thiếu những nhu cầu thiết
yếu, thì một thiểu số lại sống dư dật, phung phí. Xa hoa và cùng
cực kề cận nhau. Trong khi một thiểu số được quyền định đoạt rất
lớn, thì đa số lại hầu như không thể hành động theo sáng kiến
riêng và không được thể hiện tinh thần trách nhiệm của mình,
nhiều khi còn phải chịu đựng trong những hoàn cảnh sinh sống và
làm việc bất xứng với phẩm giá con người
76*.
Giữa lãnh vực
nông nghiệp, kỹ nghệ, mậu dịch và ngay giữa những miền khác nhau
của cùng một quốc gia cũng có những chênh lệch tương tự về kinh
tế và xã hội. Sự tương phản giữa các cường quốc kinh tế và các
quốc gia khác càng ngày càng trở nên trầm trọng và có thể đe dọa
cả nền hòa bình thế giới.
Con người thời
đại chúng ta càng ngày càng ý thức mãnh liệt về những chênh lệch
ấy, vì họ thâm tín rằng những kỹ thuật tân tiến và những năng
lực kinh tế của thế giới ngày nay có thể và phải sửa đổi được
những tệ trạng kia. Muốn vậy, cần phải cải tổ đời sống kinh tế,
xã hội và mọi người phải đổi mới tâm thức và thái độ của mình.
Nhằm mục đích ấy, nên qua bao thế hệ, với ánh sáng Phúc Âm, Giáo
Hội đã nỗ lực minh dẫn những nguyên tắc về công bình và quân
bình trong đời sống cá nhân, xã hội và quốc tế cho hợp với những
đòi hỏi của lương tri nhân loại, nhất là trong những ngày gần
đây Giáo Hội càng đưa ra những nguyên tắc ấy hơn. Trong khi đặc
biệt nhìn vào những đòi hỏi của sự phát triển kinh tế, Thánh
Công Ðồng muốn củng cố lại những nguyên tắc đã nêu trên, đồng
thời vạch ra một vài hướng đi phù hợp với hoàn cảnh của thời đại
này
1.
Ðoạn 1: Phát Triển Kinh Tế
64. Phát triển kinh tế để phục vụ con
người. Ngày nay hơn bao giờ hết, để đối phó với
sự gia tăng dân số và thỏa mãn những nguyện vọng mỗi lúc một
nhiều của nhân loại, người ta được quyền nghĩ đến việc tăng gia
sản xuất nông nghiệp, kỹ nghệ, cũng như các dịch vụ cung ứng. Do
đó, cần phải cổ võ việc phát triển kỹ thuật, tinh thần canh tân,
cố gắng thiết lập và khuếch trương các xí nghiệp; thích nghi các
phương pháp sản xuất và những cố gắng không ngừng của các nhà
sản xuất, tóm lại, là cổ võ tất cả những yếu tố dự phần vào việc
phát triển này. Tuy nhiên, mục đích căn bản của sự sản xuất
không chỉ là gia tăng sản lượng, lợi tức hoặc quyền lực, nhưng
chính là phục vụ con người, dĩ nhiên là con người toàn diện. Tuy
nhiên, phải duy trì đúng cấp bực giá trị của các nhu cầu vật
chất cũng như những đòi hỏi của đời sống tinh thần, luân lý, tu
đức và tôn giáo. Phải phục vụ tất cả mọi người, mọi đoàn thể,
mọi chủng tộc và mọi miền trên thế giới. Bởi thế, hoạt động kinh
tế, mặc dù theo phương pháp và luật lệ riêng, nhưng vẫn phải nằm
trong giới hạn của trật tự luân lý
2; Có như thế mới hoàn thành được kế hoạch Thiên Chúa
đã sắp đặt cho con người
3.
65. Phát triển kinh tế dưới sự kiểm
soát của con người. Con người phải kiểm soát lại
sự phát triển kinh tế; không được khoán trắng nó cho sự định
đoạt của một thiểu số hoặc của những tập thể nắm trong tay quyền
lực kinh tế quá lớn, hoặc của một cộng đoàn chính trị hay một số
quốc gia giàu mạnh. Ngược lại, trong những dịch vụ quốc tế, mọi
quốc gia đều phải tích cực dự phần vào việc phát triển kinh tế,
và càng nhiều người thuộc mọi cấp bậc tham gia càng hay. Cũng
vậy, phải phối hợp và điều hòa một cách thích đáng và hợp lý
những sáng kiến của cá nhân và của các đoàn thể tự do với nỗ lực
của chính quyền.
Không thể chỉ
bỏ mặc việc phát triển cho sự diễn tiến gần như máy móc của hoạt
động kinh tế cá nhân hay cho một mình chính quyền mà thôi. Do
đó, phải tố giác những sai lầm của các học thuyết đang nhân danh
một thứ tự do ngụy tạo để ngăn cản những cải tổ cần thiết; cũng
phải tố giác những học thuyết đòi hy sinh quyền lợi cá nhân và
đoàn thể cho tổ chức sản xuất tập thể
4.
Người công dân
nên nhớ rằng, bổn phận và quyền lợi của mình là tùy khả năng
đóng góp vào việc phát triển thực sự cộng đoàn mình. Chính quyền
cũng phải công nhận bổn phận và quyền lợi này. Nhất là những
miền còn kém mở mang, càng phải cấp bách tận dụng mọi tài
nguyên; do đó, những người để tài sản của mình không sinh lợi,
hoặc không trợ giúp cộng đoàn mình những phương tiện vật chất và
tinh thần cần thiết là gây nguy hại trầm trọng cho công ích
77*, dĩ nhiên bao giờ cũng phải tôn trọng quyền di cư
của mỗi cá nhân.
66. Phải chấm dứt những chênh lệch lớn
lao trên bình diện kinh tế xã hội. Ðể thỏa mãn
những đòi hỏi của công bằng và lẽ phải mà vẫn tôn trọng quyền
lợi cá nhân và đặc tính của mỗi dân tộc, cần phải hăng hái nỗ
lực để sớm chấm dứt những chênh lệch kinh tế lớn lao hiện nay và
còn gia tăng mai ngày: những chênh lệch này gắn liền với sự phân
hóa cá nhân và xã hội. Cũng vậy, trong nhiều vùng, việc sản xuất
và bán nông phẩm đang gặp nhiều trở ngại trầm trọng. Do đó, cần
phải nâng đỡ nông dân tăng gia và tiêu thụ được sản phẩm, lại
phải thực hiện những cuộc cải tổ và canh tân cần thiết hầu thâu
được lợi tức tương ứng. Như thế, họ sẽ không mãi ù lì trong thân
phận công dân hạ đẳng, như vẫn thường thấy. Còn các nông dân,
nhất là những người thuộc lớp trẻ, phải cố gắng kiện toàn khả
năng chuyên nghiệp, nếu không nông nghiệp không thể phát triển
5.
Sự di chuyển là
điều cần thiết đối với nền kinh tế đang phát triển, tuy nhiên,
sự công bằng và quân bình đòi hỏi phải tổ chức sự di chuyển ấy
thế nào để đời sống cá nhân cũng như gia đình không bị xáo trộn
và bấp bênh. Những công nhân từ một quốc gia hay một miền khác
đến, cũng là những người góp công vào việc phát triển kinh tế
của một nước hay một miền, nên cần phải cố gắng tránh mọi dị
biệt về điều kiện lương bổng và việc làm. Hơn nữa, mọi người,
nhất là chính quyền, phải coi họ như những nhân vị, chứ không
phải chỉ như những công cụ sản xuất; phải giúp đỡ để họ có thể
đưa gia đình đến và có thể kiếm được một nơi nương thân đàng
hoàng; cũng phải cho phép họ dễ dàng gia nhập đời sống xã hội
của quốc gia hay miền đất nào đón tiếp họ. Tuy nhiên, nếu có
thể, nên tạo cho họ có công ăn việc làm ngay tại nguyên quán của
họ.
Trong những
trạng huống kinh tế đang biến chuyển cũng như trong những hình
thái mới mẻ của xã hội kỹ nghệ chẳng hạn hệ thống tự động đang
được phát triển, phải liệu sao cho mỗi người có công việc đầy đủ
và thích hợp, đồng thời hấp thụ được một sự huấn luyện thích ứng
về kỹ thuật và nghề nghiệp. Cũng cần phải bảo đảm sự sống và
nhân phẩm, nhất là của những người vì bệnh tật, tuổi tác, phải
sống trong những hoàn cảnh thật khó khăn.
còn tiếp
Chú Thích:
(lưu ý:
những số ghi chú nhỏ hơn đã được đăng vào những số báo trước)
75* Con người là trung tâm
điểm và mục đích của sinh hoạt kinh tế xã hội (số 63a). Hiện nay
các sinh hoạt này cũng đang phát triển (b), nhưng không thiếu lý
do để lo lắng (c), đặc biệt vì nhiều sự bất bình đẳng giữa các
nghề nghiệp, các địa phương và các quốc gia (d), đòi hỏi phải
được canh tân (e).
1) Sự phát
triển kinh tế.
A) Phải phục
dịch con người (số 64).
B) Và được con
người điều khiển (số 65): càng nhiều người và càng nhiều quốc
gia góp phần để tìm kế hoạch kinh tế thì càng tốt (a). Không thể
chấp nhận thái độ chống việc cải cách cũng như chế độ tập trung,
vì là xâm phạm đến nhân quyền (b). Tất cả có nhiệm vụ góp phần
vào sự phát triển (c).
C) Cần phải
loại trừ sự bất bình đẳng, bất công: đặc biệt đối với giới nông
dân (a), giới lao động di trú (b), phải giúp mọi người tìm việc
làm và huấn luyện họ (c).
2) Một vài
nguyên tắc chỉ đạo:
A) Giá trị của
việc làm (số 67a, b). Do đó mỗi người có nhiệm vụ và có quyền
làm việc với lương bổng xứng đáng (b). Qui tắc kinh tế phải tùng
phục con người để phát triển nhân phẩm trong việc làm cũng như
trong giờ nghỉ ngơi bắt buộc phải có (c).
B) Sự tham gia
vào tổ chức kinh tế trong xí nghiệp cũng như trong quốc gia (số
68a). Quyền lập nghiệp đoàn (b). Làm thế nào để giải quyết sự
xung đột về công việc: Công Ðồng không loại trừ việc đình công
như phương tiện tối hậu (c).
C) Trong bất cứ
chế độ nào về quyền sở hữu, nguyên khởi của tài sản cũng đòi hỏi
tài sản phải được phân chia một cách công bằng (69a). Trong các
quốc gia kém mở mang hay tân tiến nguyên tắc ấy có thể được thực
hiện ra sao (b),
D) Chính sách
tiền tệ (số 70).
E) Cổ võ quyền
tư hữu: giá trị của quyền tư hữu (số 71abc). Quyền lợi của chính
quyền (d). Vai trò xã hội của quyền tư hữu (e). Ðất tư quá rộng
và sự cải cách điền địa. (f).
3) Kết luận:
Sinh hoạt kinh tế xã hội có thể làm thực hiện đức công bằng và
đức thương yêu. Các tín hữu phải làm gương: có thẩm quyền và đem
tinh thần Phúc Âm vào sinh hoạt đó (số 72).
76* Trong tình trạng nhà ổ
chuột, làm việc thiếu vệ sinh, thiếu nghỉ ngơi... không hiếm ở
Việt Nam, đã nói lên mức ảnh hưởng của chiến tranh, nhưng chỉ
đúng một phần thôi. Ðã lâu rồi, Ðức Piô XI viết rằng đó là trách
nhiệm của "nhiều người chỉ có một tư tưởng là làm sao để gia
tăng của cải cho mình" (Quadragesimo Anno, AAS 23 (1931), trg
177-228). Kẻ ấy lơ là trước cảnh huống khốn khổ của tha nhân như
thái độ kẻ giàu có trong dụ ngôn của Chúa Giêsu đối với Lazarô
là kẻ nghèo nàn (Lc 16, 19-22).
77*
Công dân phải được giáo dục để ý thức về nhiệm vụ này. Giới bình
dân có thể góp phần gì? Dĩ nhiên sẽ có thể làm ít hay nhiều tùy
khả năng, địa vị và tài sản. Một người có thể làm ít, nhưng cả
nghiệp đoàn (số 68b) sẽ làm được nhiều. Công Ðồng nhắc lại hai
điều thiếu sót làm hại cho cộng đoàn quốc gia: một là để tài
nguyên vô dụng (ví du tích trử tiền bạc ở nhà; chỉ mua vàng;
không đầu tư vào những kế hoạch của cộng đoàn), hai là không cho
cộng đoàn hưởng dụng những phương tiện vật chất (ví dụ khi đem
tiền gởi ra ngoại quốc) và tinh thần (khi người đi du học không
chịu về nước). Công Ðồng nhắc lại quyền di cư của mọi người
(quyền lợi này và bổn phận phục vụ quốc gia, bên nào khẩn cấp
hơn, mạnh mẽ hơn, thì phải xét theo hoàn cảnh thực tế của từng
cá nhân).
|
VỀ MỤC LỤC |
|
CON NGƯỜI
ƠI, THÔI ĐỪNG NGẠO MẠN NỮA ! |
Quý
độc giả Ephata và Giáo Sĩ Việt Nam thân mến,
Trong một, hai thập niên trở lại đây, không ai có thể phủ nhận
những thay đổi khả quan về mặt đời sống xã hội. Người ta ăn ngon
hơn, mặc đẹp hơn, đi xe tốt và nhanh hơn, ở nhà rộng và cao hơn,
sử dụng những phương tiện hiện đại hơn, hưởng thụ những thú vui
giải trí phong phú hơn... Thế nhưng, những tấm huy chương sáng
chói ánh vàng hoặc bạc ấy đang tìm cách giấu giếm che đậy cái
mặt trái xám xịt, hợm hĩnh và đau xót !
Đọc
báo hằng ngày chúng ta có thể chỉ bàng hoàng với những tin tức,
sự cố, thiên tai địa họa, hết chỗ này này đến nơi kia, liên
tiếp. dồn dập, nhiều quá đến mức ta không kịp tổng hợp và nghiệm
sinh cho thấu đáo. Lắm lúc lại cứ tưởng tại ông trời, tại thiên
nhiên, tại con tạo đành hanh “bắt phong trần phải phong trần”.
Thế
nhưng, may quá, thỉnh thoảng chúng ta bắt gặp một giọng điệu,
một kiểu viết và nói khác hẳn. Viết thẳng và nói bạo, không
tránh né hãi sợ thị phi. Viết cũng không phải chỉ để viết cho bõ
ghét, cho hả cơn giận, nhưng là có chủ ý xoáy đến căn bệnh trầm
kha hơn ẩn giấu phía sau, đó là sự phá sản về lương tâm phát
xuất từ thái độ ngạo mạn đối với Ông Trời. Điều này thì rõ ràng
các loại báo kia ngoài xã hội chắc là cũng thấy hết, hiểu hết
chứ, nhưng không được phép, hoặc chí ít, chưa dám nói thật đấy
thôi...
Xin
chép toàn bộ bài viết của Ngọc Danh, Nhóm DOJ, để chia sẻ cùng
mọi người gần xa thay cho Lời Ngỏ kỳ này.
1. Cuối
tuần này, Liên Hiệp Quốc họp tìm cách giải quyết vấn đề dân số
già của thế giới. Thế giới bây giờ... già quá, thiếu vắng tiếng
cười trẻ con, thiếu lực lượng lao động…
Các ông Âu, Mỹ, Nhật, Hàn cậy vào thuốc
ngừa thai, “phát minh giải phóng phụ nữ”, và nhiều biện pháp
khác để nghỉ đẻ, để có nhiều thời gian hưởng thụ hơn. Hưởng thụ
chưa được bao lâu, đã thấy cảnh khổ. Lớp trẻ không có đủ để tạo
ra của cải vật chất, trong khi lớp già hưởng tiền hưu và các
loại bảo hiểm an sinh ngày càng nhiều. Bây giờ cánh già đáng lẽ
được về an hưởng tuổi già, vui vầy với con cháu, lại phải è cổ
ra đi làm kiếm cơm.
Ông Trung Quốc tin rằng bằng mệnh lệnh
hành chánh, bằng chính sách vô thần, ông có thể giải quyết mọi
sự. Do đó, bằng mọi giá ông ép con người ta kế hoạch. Lỡ mang
bầu đứa thứ hai thì phải chọn lựa một là mất việc, mất thưởng,
kỷ luật hai là giết đứa bé đi. Ông tưởng làm như vậy ông sẽ giải
quyết được chuyện dân số đông của ông. Ai dè, chỉ vài thập kỷ
sau, các con trai của ông phải đi khắp nơi kiếm vợ, vì xứ ông
không còn con gái, mà chỉ còn các bà các thím già mà thôi. Và
ông vẫn đứng đầu thế giới về dân số. Ông Ấn Độ cũng tương tự.
Lạ thay, từ thuở Thiên Chúa tạo dựng muôn
loài cho đến nay, con người ta cứ đẻ như gà, vì không biết ngừa
thai, không biết chọn lựa giới tính. Ấy vậy mà dân số thế giới
cân bằng một cách kỳ lạ. Lớp già chết đi có lớp trẻ kế thừa.
Trai, gái, nam, nữ cân bằng.
Cũng
không thấy dân tộc nào vì đông con mà chết đói. Nếu vì đông dân
mà chết đói, Trung Quốc và Ấn Độ có lẽ đã bị xoá sổ trên bản đồ
thế giới từ lâu. Mất cân bằng dân số và những bi hài kịch của nó
chỉ xảy ra từ khi con người ta tiến bộ, giàu sang, loại bỏ Thiên
Chúa ra ngoài, con người giành quyền kiểm soát dân số, sinh đẻ.
2.
Căn bệnh HIV/AIDS hoành hành, chưa có
thuốc chữa. Loay hoay mấy chục năm trời, cuối cùng con người tìm
ra biện pháp hữu hiệu nhất để phòng ngừa bệnh này là “chung
thủy”, “một chồng một vợ, khỏi sợ SIDA”.
Biện
pháp này đâu có mới mẻ gì. Từ khi tạo dựng con người, Thiên Chúa
đã muốn con người như thế. “Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài
người không được phân ly” ( Mc 10, 5 – 9 ). Nhưng từ khi tiến
bộ, giàu sang, con người ta “rửng mỡ, đã loại Thiên Chúa ra khỏi
cuộc sống của mình để tự do hưởng thụ truỵ lạc.
Đàn ông tự cho mình quyền làm chủ, làm
chúa để năm thê bảy thiếp. Đàn bà vùng lên để được như đàn ông.
Không ai chịu ai “ông ăn chả, bà ăn nem”. Tình dục, món quà tặng
của Thiên Chúa dành cho vợ chồng, để vợ chồng nên một, để vợ
chồng thể hiện tình yêu bỗng chốc bị biến thành trò vui xác
thịt. Ai cũng đòi có quyền được vui. Ai phản đối bị cho là lạc
hậu, bảo thủ, ai ủng hộ được khen là “thoáng”, “hiện đại”…
Kết quả, các loại bệnh tha hồ có dịp tung
hoành. Tiêm la, giang mai, lậu, hột xoài… rồi đến HIV/AIDS. Con
người vẫn không chịu nhận ra lỗi của mình, và tự bào chữa và sửa
chữa. Thôi thì bao cao su các loại ra đời. Kết quả HIV/AIDS vẫn
tràn lan…
3.
Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ thiên nhiên có
cái hiền hoà, có cái hung dữ, có cái nhẹ nhàng, có cái ào
ạt…Nhưng tổng thể thiên nhiên hoà hợp một cách tuyệt vời. Từ khi
con người được mở mang trí tuệ, con người giành quyền làm chủ,
và đuổi Thiên Chúa ra khỏi nơi Ngài đã tạo dựng.
Con người kiêu căng, ngạo mạn: “Thằng Trời
đứng qua một bên. Để cho thuỷ lợi đứng lên làm Trời”. Khi con
người làm trời, con người đắp đập, ngăn sông, dời núi, lấp biển…
theo ý con người. Thoạt đầu, dòng sông, dòng thác, con suối,
ngọn núi, đại dương ngoan ngoãn nghe lời con người như đã từng
nghe lời Trời trước đây. Con người càng khoái trá, đấy thấy
chưa: “Không có việc gì khó, chỉ sợ lòng không bền…” Chí lý quá
!
Nhưng tiếng cười chưa kịp tắt, lũ lụt đã
quét sạch thành quả của con người. Sinh vật trong lòng nước dần
dần biến mất. Đất chuồi vùi lấp con người. Hạn hán khắp nơi đốt
cháy cổ họng khát khô của con người… Khi con người làm trời, con
người đã phá mọi sự cân bằng của thiên nhiên.
Bây giờ nhận ra, con người lại í ới nhau
bảo vệ môi trường. Thực chất bảo vệ môi trường là trả lại cho nó
sự cân bằng vốn dĩ nó đã có từ khi Thiên Chúa tạo dưng nên.
4.
Thiên Chúa đã tạo dựng mọi sự hài hoà trong trật tự, lớp lang
của nó một cách tuyệt vời. Và bất cứ thứ gì, con người đòi đuổi
Chúa ra, để làm một mình đều bung bét, hư hại. Đến khi đó, con
người luống cuống tìm cách sửa. Loay hoay tìm kiếm một hồi, con
người lại quay về cái ban đầu Thiên Chúa đã tạo dựng.
Con người ơi, thôi đừng ngạo mạn nữa. Xin
lỗi Chúa đi !
EPHATA, Chúa Nhật 11.11.2007
|
VỀ MỤC LỤC |
|
BÀI GIẢNG
TANG LỄ CHA TRẦN HỮU THANH, DCCT |
Kính thưa cộng đoàn Phụng Vụ,
Chúng ta cùng
tiễn đưa một cây Đại Thụ của Dòng Cứu Thế Việt Nam và cũng là
của hàng Giáo Sĩ Việt Nam. Với 92 tuổi đời và 65 năm Linh mục,
cha cố Giu-se quả thật đã cộng tác viết lên những trang sử đẹp
của Giáo Hội và Quê hương Việt Nam. Trang sử của mồ hôi, nước
mắt và cả máu nữa ! Quãng đường mà Ngài đã đi trong hành trình
làm người và làm con Chúa thật dài và thật đẹp. Hôm nay Ngài đã
kết thúc hành trình ấy. Chúng ta tiễn đưa Ngài với sự ngưỡng mộ
và yêu mến, đồng thời chúng ta hiệp lời cầu nguyện xin Chúa đón
nhận cha cố Giu-se vào hưởng hạnh phúc vĩnh cửu. Phụng vụ của
Hội Thánh không cho phép chúng ta ca ngợi một con người chỉ vì
một con người. Tuy nhiên, hôm nay, trong giờ phút linh thiêng và
cảm động này, chúng ta cùng chiêm ngưỡng những nét đẹp cuộc đời
của ngài để qua đó, chúng ta biết tạ ơn Chúa vì những ơn huệ
người đã ban cho chúng ta qua cha cố Giu-se.
1.
Trước hết, chúng ta thấy nơi cuộc đời của cha cố Giu-se một
chứng nhân của Chân Lý. Sinh ra trong một gia đình là hậu
duệ của những chứng nhân Tin Mừng, vì có ông nội và nhiều ngươi
thân của ngài đã tử vì đạo năm 1885, cha cố Giu-se đã sống như
một chứng nhân của Chân Lý. Nếu chế độ chính trị trước năm 1975
tại Miền Nam đã gây khó dễ vì ngài đứng đầu một ủy ban chống
tham nhũng với 301 Linh Mục cùng ủng hộ, thì xã hội sau 1975
cũng không ưa gì ngài, vì sau đó, từ năm 1980 đến năm 1984, ngài
đã bị quản chế tại Ba Vì, và rồi tại Trần Nội, thuộc Giáo Phận
Hải Phòng cho đến năm 1988.
Vâng, Chân Lý
thì không phụ thuộc vào màu cờ sắc áo, Chân Lý không hệ lụy vào
sức mạnh, không xu thời, nhưng Chân Lý là tiếng nói của lẽ phải,
của lương tâm, phản ánh lề luật của chính Thiên Chúa. Trong hoàn
cảnh thuận lợi cũng như không thuận lợi, cha cố Giu-se luôn rao
giảng Lời Chân Lý của Đức Giê-su, Đấng là Đường, là Sự Thật và
là Sự Sống.
Việc loan báo
Lời Chân Lý đã là lý do dẫn đến những gian truân thử thách,
những lao nhọc vất vả, nhưng cha cố Giu-se đã vui vẻ đón nhận,
vì phẩm giá con người, vì Ơn Cứu Độ và phần rỗi của anh em. Cha
cố Giu-se đã cố gắng suốt đời để noi gương Thầy Chí Thánh là Đức
Giê-su, Đấng đã chấp nhận Thánh Giá để thi hành Thánh ý của Chúa
Cha và vì yêu mến nhân loại.
2.
Chúng ta còn thấy nơi cuộc đời của Cha cố Giu-se hình ảnh một
nhà Truyền Giáo miệt mài. Từ những năm 60, Ngài đã phụ trách
công tác đào tạo các Linh Mục Thừa Sai của Tỉnh DCCT. Những hoạt
động truyền giáo của cha cố Giu-se thật đa dạng: dạy học, viết
sách, gặp gỡ giao lưu với nhiều tầng lớp xã hội khác nhau. Sau
này, ngài không lùi bước trong hoàn cảnh quản chế. Mặc dù thiếu
thốn mọi phương tiện, cha cố Giu-se vẫn miệt mài loan báo Đức
Giê-su và tận tụy phục vụ Giáo Hội của Người. Sống giữa những
người nông dân nghèo của Giáo Hội miền Bắc, tại Trần Nội, thuộc
Giáo Phận Hải Phòng, ngài đã trở nên người nghèo với họ, cùng họ
cấy lúa, trồng rau, phát triển nông nghiệp.
Với những cố
gắng ấy, ngài đã diễn tả hình ảnh một Đức Giê-su gần gũi giới
bình dân, đồng hành với họ, huấn luyện và giúp đỡ họ giữa những
điều bình dị của cuộc sống. Khi thực thi những điều ấy, Cha cố
Giu-se đã sống lý tưởng của DCCT, là đi đến với người nghèo tại
những nơi xa xôi để loan Tin Mừng cho họ, như chính Đức Giê-su,
Đấng đã được sai đi để “loan báo Tin Mừng cho người nghèo khó” (
Lc 4, 8 ). Cha cố Giu-se đã nỗ lực truyền giáo qua những chia sẻ
đời thường, đơn giản mà hiệu quả, bình dị mà sâu xa. Cha cố
Giu-se đã ước muốn từ nơi ngài quản chế, tức là tại Trần Nội, sẽ
trở thành một cộng đoàn của DCCT, và ước mơ của ngài hôm nay đã
được thực hiện.
3.
Và, mỗi ai được
gặp Cha cố Giu-se khi Ngài còn sống đều ghi nhận nơi Ngài sự
lạc quan, phó thác. Từ những câu chuyện vui, hài ước và tinh
tế, Ngài đã muốn đi vào lòng người và truyền đạt kiến thức cho
họ. Lạc quan, vui vẻ và phó thác là lẽ sống của Ngài trong những
năm tháng khó khăn. Ngay cả lúc ngồi trên xe lăn, ngài vẫn có
những mẩu chuyện vui, để lại nơi người gặp gỡ những kỷ niệm tốt
đẹp.
Những câu
chuyện vui phản ánh thực tế cuộc đời, phản ánh nỗi niềm nhân
thế, tặng cho mọi người những nụ cười và sự lạc quan. Một tác
giả đã nói: “Người lạc quan là người thấy ánh sáng trong đếm tối
dày đặc, người bi quan là người cố tắt ánh sáng ấy” ( William
Faulkner ). Vâng Cha cố Giu-se của chúng ta đã phụng sự Chúa và
Giáo Hội trong niềm vui, với nụ cười. Ngài đã cảm nghiệm được
ánh sáng trong đêm tối của những thử thách gian nan. ánh sáng ấy
là Đức Giê-su, Đấng đã đến để soi cho nhân loại đang bước đi
trong u tối.
Kính thưa cộng
đoàn,
Chúng ta vừa ôn
lại một vài nét đặc biệt của cuộc đời cha cố Giu-se.
Những nét đặc biệt ấy cũng chính là sứ điệp mà Thiên Chúa muốn
nhắn gửi cho chúng ta qua cuộc đời của một vị Linh Mục suốt đời
đấu tranh cho Chân Lý, suốt đời tận tụy hy sinh để đem Đức
Giê-su cho mọi người, để giúp mọi người phụng sự Chúa trong niềm
vui, Đức Giê-su, trong giờ phút cảm động sau bữa Tiệc Ly đã thưa
với Chúa Cha: “Con muốn rằng Con ở đâu thì những người Cha đã
ban cho Con cũng sẽ ở đó với Con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang
mà Cha đã ban cho Con” ( Ga 17, 24 ).
Thật là xúc
động và tự hào khi ý thức rằng, mỗi người chúng ta là một quà
tặng Thiên Chúa Cha ban cho Con một mình là Đức Giê-su. Vâng,
mỗi người chúng ta là một món quà của Thiên Chúa. Món quà này,
chính Chúa Giê-su lĩnh nhận từ nơi Chúa Cha. Vì vậy Người muốn
chúng ta cũng ở đó. Cha cố Giu-se là một món quà quý giá Chúa
Cha ban cho Chúa Con để làm những công việc Chúa Con
đã làm. Hôm nay, ngài được lệnh ra đi về Nhà Cha, về nơi Chúa
Giê-su đang hưởng vinh quang bất diệt. Xin cho ngài được gặp gỡ
Đấng mà ngài đã suốt đời yêu mến và tận tâm phụng sự.
Hôm nay, cha cố
Giu-se đã rời xa chúng ta. Ngài ra đi để đáp lại tiếng gọi “Hãy
theo Thầy” ( Mc 1, 17 ), tiếng gọi mà ngài đã đáp trả từ khi
lĩnh nhận Bí Tích Thánh Tẩy, rồi Bí Tích Truyền Chức Thánh.
Tiếng gọi ấy đã vang lên trong suốt cuộc đời, đã hòa vào máu
thịt của ngài để làm nên nghị lực Tông Đồ. Xin Chúa cho chúng ta
học nơi cha cố Giu-se những nhân đức tốt lành để chúng ta xứng
đáng là môn đệ của Đức Giê-su trong cuộc sống hôm nay. Amen.
+
VŨ VĂN THIÊN,
Giám Mục Giáo Phận Hải Phòng,
Nhà Thờ
DCCT Thái Hà, Hà Nội thứ sáu 26.10.2007 |
VỀ MỤC LỤC |
|
LINH MỤC: DẤU CHỈ LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA CHO CÁC LINH HỒN |
Chúng ta đang ở trong tháng 11, tháng cầu nguyện đặc biệt cho
các linh hồn đã qua đời. Là những linh mục, những mục tử của
Chúa Giêsu, chúng ta luôn ý thức Thiên chức cao cả của đời linh
mục đó là làm sáng danh Chúa và để cứu rỗi các linh hồn. Có thể
nói, số phận của các linh hồn, dù còn tại thế hay đang trong
chốn luyện hình, đều có mối tương quan hết sức mật thiết với đời
sống và sứ mạng của người linh mục. Hon ai hết, người linh mục
được trở nên khí cụ hữu hiệu, cánh tay nối dài của chính Đức
Kitô [1], để chăm sóc và cứu vớt các linh hồn, dù còn sống hay
đã qua đời.
1. Linh Mục Trong Phận Người mong manh
Có lẽ sứ điệp quan trọng mà các linh hồn gởi đến cho chúng ta
trong tháng 11 này đó là sự mong manh của cuộc sống con người
qua cái chết. Những khúc ca được cất lên trong thánh lễ cầu hồn
gợi nhớ cho chúng ta rằng“ đời sống con người, chóng qua như cỏ,
như bông hoa nở trong cánh đồng”
Đời sống ấy sẽ kết thúc như là một trạm dừng chân trước một cây
cầu định mệnh mà ai ai cũng phải bước qua. Suy nghĩ về sự phù
du của đời người, thi nhân Nguyễn Gia Thiều đã diễn tả qua
những cung điệu ai oán “…Kiếp phù sinh trông thấy mà đau. Trăm
năm nào có gì đâu, chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì.”[1] Đối
với những người có đức tin, quan niệm về đời sống con người
không chỉ dừng lại ở sự bi quan, nuối tiếc ở cuộc sống này,
nhưng với tất cả ý thức của niềm hy vọng hướng đến một kết quả
chung cuộc do chính mình đã tự chuẩn bị lấy cho mình: “ mọi sự
biến tan giờ hạ huyệt, chỉ còn công phúc đã lập xưa.”
Với nhiệm vụ giảng huấn trong Chúa Kitô, các linh mục sẽ dâng
nhiều thánh lễ hơn, sẽ chuẩn bị nhiều bài giảng hùng hồn, đầy
sức thuyết phục hơn, để khuyến khích các tín hữu sống tinh thần
tỉnh thức, hoán cải, tích cực lãnh nhận các bí tích và tham dự
những phụng vụ thánh và làm những việc lành để cầu nguyện cho
các linh hồn.
Chắc hẳn, không ai trong đời, có nhiều cơ hội hơn người linh mục
để suy nghĩ về sự sống và cái chết . Vì không biết bao lần ngài
là người chủ toạvà chứng kiến các linh hồn đến rồi đi, khi cử
các bí tích cho người sống lẫn kẻ chết. Ngài đón chào những sự
sống mới đến trần gian khi ban bí tích thanh tẩy cho trẻ thơ
chào đời, ngài trao Mình Thánh Chúa như của ăn đàng và ban những
bí tích sau hết cho người hấp hối và ngài tiễn đưa những linh
hồn đã hoàn tất cuộc lữ hành trần thế để trở về nhà Cha.
Với nhiều nỗi lo toan và bận tậm vì các linh hồn như vậy, một
lúc nào đó “trông người mà nghĩ đến ta,” người linh mục cũng có
thể phần nào nghĩ đến chính thân phận của mình.
Đối với những vị linh mục cao niên hoặc trọng tuổi, khi biết
mình dần bước đến “ thất thập cổ lai hy” cũng là lúc ngài ý
thức rằng mình đã gần đến giây phút phải bàn giao sổ sách lại
cho người khác để chuẩn bị lên đường về nhà Cha. Vì “ tính
tuổi thọ trong ngoài bảy chục, mạnh giỏi chăng là được tám
mươi.”[1] Nhưng nếu như người linh mục còn trẻ, đang tràn trề
sức sống ở tuổi xuân phơi phới với đầy những hoài bão và ước mơ,
thì có lẽ là không mấy dễ dàng để ngài có thể cảm nhận hay chấp
nhận về giờ ra đi và hậu vận chung cuộc đời mình ngay vào lúc
này.
“Chị chết”[1] hình như không có luật trừ cho bất cứ ai hay ở bất
cứ độ tuổi nào. “Sinh -bệnh - lão -tử” vốn là sự thường. Tuy
nhiên, đôi lúc ta vẫn thấy xảy ra cảnh “ đầu bạc tiễn đầu xanh.”
Dù suy nghĩ nhiều hay ít đến sự chết, có chuẩn bị tốt hay chưa
sẵn sàng để trình diện Chúa, thì cũng như tất cả mọi người, đời
linh mục cũng vẫn phải từng bước đi vào quy luật tất yếu trong
thận phận cát bụi của mình, để trải qua một hành trình biến
đổi, ví như hình ảnh của chú cá chép vàng đang cố gắng hết sức
mình, vượt qua chín tầng Vũ Môn để biến thành rồng !
Lẽ tự nhiên, là người, ai cũng muốn mình được trường sinh bất
tử, cải lão hoàn đồng, nhưng lời kinh nguyện hằng ngày vẫn như
tiếng Chúa thì thầm bên tai lên nhắc nhở người linh mục thức
tỉnh về thận phận bụi đất của mình. “Người quá biết ta được nhồi
nắn bằng gì. Hẳn Người nhớ ta chỉ là cát bụi. Kiếp phù sinh
tháng ngày vắn vỏi. Tươi thắm như cỏ nội hoa đồng. Một cơn gió
thoảng là xong. Chốn xưa mình ở cũng không biết mình.”[1]
2. Linh Mục: hạt bụi Thần Thánh
Trong ngày được lãnh nhận thánh chức, ta thường được nghe các
tân linh mục cùng với cả cộng đoàn dân Chúa say sưa cất lên bài
ca tạ ơn “Từ ngàn xưa Cha đã yêu con, Cha gọi con giữa muôn
người”. Và lời ca tạ ơn ấy dẫn người linh mục từng bước đi vào
chiều kích sâu thẳm nhất khi ý thức mình chỉ là hạt bụi “ từ bụi
tro, Chúa nâng con lên hàng khanh tướng ”[1]
Thánh Grê-gô-ri-ô thành Na-di-a-nô khi còn là một linh mục trẻ,
ngây ngất trước ơn thánh cao cả, ngài đã phải thốt lên :“...Tôi
biết chúng ta là thừa tác viên của ai, chúng ta ở địa vị nào,
chúng ta hướng về ai. Tôi biết Thiên Chúa cao cả và con người
yếu đuối, và biết cả sức lực của con người. Vậy linh mục là ai ?
Là người bảo vệ chân lý, được đứng chung với các thiên thần,
cùng ca hát với tổng lãnh thiên thần, mang lễ vật lên bàn thờ
thiên quốc, chia sẻ chức tư tế với Đức Ki-tô, canh tân vạn vật,
phục hồi hình ảnh Thiên Chúa trong vũ trụ, tái tạo thế giới cho
trời mới đất mới; nói cho cùng, ngài được thần hoá và thần hoá
kẻ khác.”[1]
Vâng ! Người linh mục ý thức tuy mình vẫn là hạt bụi nhưng hạt
bụi ?y tuy mang thân phận phải chết, nhưng nay đã được lên ngôi
thần thánh trong tình yêu hết sức kì diệu của Thiên Chúa nơi Đức
Giêsu Kitô. Chính vì thế, người linh mục không những chẳng còn
phải sợ thận phận bụi đất hèn yếu đè bẹp trong cái chết nhưng đã
được thần hoá. Không những họ được chia sẻ tước vị làm con
Thiên Chúa trong sự sống mới mà còn được chia sẻ trọn vẹn cuộc
sống và sứ mạng của Thầy Giêsu, không còn bị coi làphận tôi tớ
mà lại được trở thành banï hữu thân thiết của Con Thiên Chúa
làm người. “Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ
không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì
tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha của Thầy, Thầy đã cho anh
em biết.”
* Theo nhịp sống của Đức Kitô:
Đức Kitô là Đấng Hằng Sống, Người đã chiến thắng sự chết và nắm
giữ chìa khoá của cả tử thần và âm phu.û [1] Người không phải là
Chúa của kẻ chết mà là Chúa của kẻ sống.[1] Thế nên, dù con
người đang sống nơi thân xác hay đã ngủ yên trong lòng đất thì
vẫn sống động trước mắt Thiên Chúa. Vì lẽ vì mỗi sinh linh ấy
vẫn luôn mang lấy sự sống bất diệt của Người.
Vì lòng thương xót mà Thiên Chúa đã kêu gọi con người cách nhưng
không để cộng tác vào chương trình cứu độ của người, người linh
mục tin tưởng hân hoan bước theo Đức Kitô Phục Sinh, Thầy Chí
Thánh của mình, mở rộng vòng tay yêu thương của Đức Kitô đến anh
chị em mình. Bước đi theo dấu chân vị Mục Tử Nhân Lành, người
linh mục học biết hy sinh vì đoàn chiên, tiếp nối sứ mạng của
Đấng đã đến thế gian là d? làm cho các linh hồn “được sống và
sống dồi dào”[1].
Khi cử hành các bí tích cũng là lúc mà người linh mục được soi
mình vào cuộc đời của Đức Kitô để hoạ lại đời sống của Người để
“cử hành bí tích cuộc đời mình.” Người linh mục hiểu rõ hơn ai
hết, cuộc đời mình cũng đang cưu mang chính mầu nhiệm sự sống
của Đức kitô được ẩn tàng ngay trong mầu nhiệm sự chết. Người
linh mụcï sống trong Đức Kitô và cử hành các mầu nhiệm ấy
mỗi ngày trong đời sống của mìnhï, trong việc liên tục chết đi
cho tội lỗi, cho những mối bận tâm của trần thế, để có thể trở
nên dấu chỉ của tình yêu Chúa cho anh chị em mình.
3. Linh Mục: Dấu Chỉ Của Tình yêu vàø
Lòng Thương Xót Chúa
“Thương xót chính là yếu tính của việc nhập thể cứu chuộc và
thiên chức linh mục của Chúa Kitô. Tự bản chất, thiên chức linh
mục của Chúa Kitô là một công trình của lòng thương xót, dựa
trên giao ước Thiên Chúa đã thực hiện với nhân loại.”[1]
Quả thực, khi người linh mục cử hành các Bí Tích, ngài như luôn
được sống cùng lúc hai vai trò trong cùng một thực tại mầu
nhiệm, ý thức mình vừa là dụng cụ, là thừa tác viên của Đức
Kitô, Đấng đầy quyền năng và tình yêu thương tha thứ, người
linh mục nhận biết rằng mình chỉ là một thọ tạo mỏng dòn và yếu
đuối đang đươc thừa hưởng hồng ân cứu độ.[1] Vì thế, người linh
mục không chỉ là thừa tác viên của lòng thương xót Chúa mà còn
là nhân chứng, là dấu chỉ sống động của một tội nhân luôn được
Chúa yêu thương. Có thể nói, trước khi linh mục cử hành các Bí
tích thì chính ngàiï đã là kẻ đầu tiên đón nhận được ân sủng của
lòng thương xót ấy.
Thánh Phaolô quả đã hết sức thấm thía về điều này khi ngài nói “
Đây là lời đáng tin cậy và đáng mọi người đón nhận: đó là Đức
Kitô Giêsu đã đến thế gian, để cứu những người tội lỗi, mà kẻ
đầu tiên là tôi. Sở dĩ tôi được thương xót, là vì Đức Giêsu Kitô
muốn tỏ bày tất cả lòng đại lượng của Người nơi tôi là kẻ đầu
tiên, mà đặt tôi làm gương cho những ai sẽ tin vào Người, để
được sống muôn đời.”[1]
Trong lời kinh, khi cầu xin Chúa thương đến các linh hồn, thì
người linh mục cũng ý thức rằng mình cũng nằm trong số những “
linh hồn cần nhờ đến lòng Chúa thương xót hơn”
Vì lẽ đó mà Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, trong Tông Huấn
Pastores Dabo Vobis, đã nhắc nhở các linh mục một cách đặc biệt
khi cử hành bí tích hoà giải “linh mục là thừa tác viên bí tích
Thống Hối nhưng đồng thời cũng phải là những thụ nhân, từ đó họ
trở nên những người làm chứng cho lòng từ bi nhân ái của Thiên
Chúa cho các tội nhân… Cũng như đời sống của anh chị em giáo dân
và tu sĩ, đời sống thiêng liêng và mục vụ của người linh mục chỉ
có thể giữ được phẩm chất và lòng nhiệt thành nếu như cá nhân
linh mục biết thực hành bí tích thống hối một cách chuyên cần và
nghiêm chỉnh.”[1]
* Loan Truyền Lòng Thương xót Chúa
Trong vai trò lãnh đạo cộng đoàn dân Chúa, tháng các linh hồn là
thời gian thuận tiện để người linh mục giúp các tín hữu biết
sống niềm xác tín của mình cách sâu xa hơn nữa khi tuyên xưng
đức tin vào sự sống lại, vào tín điều các thánh cùng thông công,
để tích cực đón nhận ân sủng của lòng thương xót Chúa để chuyển
cầu cho cho các linh hồn. Nhờ ơn cứu độ của Đức Kitô mà mỗi
thành phần trong Hội Thánh được liên đới và chiasẻ những lợi ích
thiêng liêng trong mối giây hiệp thông giữa các thánh trong hội
thánh khải hoàn, lữ hành và thanh luyện.
Khi nhớ đến các linh hồn, giúp cho người linh mục, suy nghĩ và ý
thức hơn nữa về giây phút quyết định dứt khoát của sự sống con
người trên dương gian này, để chính ngài cũng biết giúp cho các
tín hữu biết tận dụng từng phút giây trong hiện tại để có thể
đón nhận được ân sủng của lòng thương xót Chúa.
Chính Linh mục là người hiểu hơn ai hết, mỗi giây phút nơi trần
thế là thời giờ quý giá nhất của của ân sủng cứu độ. Nói cách
khác, mỗi giây phút của của cuộc đời này là “ giá máu cứu chuộc
của Đức Kitô” không ngừng tuôn trào để yêu thương và cứu vớt con
người. Vì thế, khi dâng những lời kinh nguyện và thánh lễ cầu
cho các linh hồn trong chốn luyện hình thì cùng lúc người linh
mục và cả cộng đoàn dân Chúa cũng hướng đến vô số những linh
hồn ở trần gian, đang lạc xa Chúa, lạc nẻo đức tin, những linh
hồn ơ thờ nguội lạnh và chai đá đặc biệt là các tội nhân khốn
khổ..
Cuộc sống của các linh hồn nơi chốn luyện hình như là một câu
trả lời cho mỗi người chúng ta. Một khi bước qua ngưỡng cửa trút
bỏ sự sống của thân xác mang sinh khí để mặc lấy sự sống mới của
Thần khí[1], là chúng ta đi vào một sự phân định rạch ròi cuộc
sống của mỗi cá nhân. Ngày giờ của con người trần thế kết thúc
dứt khoát một lần cho tất cả. Cơ hội để đón nhận ân sủng cứu
độ nơi lòng thương xót của Thiên Chúa Nhân lành ở trần gian đã
chấm dứt, và con người phải đối diện với Thiên Chúa trong giờ
phán xét riêng, với vị thẩm phán chí công, trong giờ của sự công
thẳng của Thiên Chúa.
Thánh Phaolô đã luôn nhắc nhở các tín hữu rằng “ anh chị em hãy
biết run sợ để lo cho mình được ơn cứu độ. Vì chính Thiên
Chúa tác động đến ý chí cũng như hành động của anh em do lòng
yêu thương của Người.”[1]
Là những người quản lý và phân phát các ân huệ của Thiên Chúa,
sứ vụ của các các linh mục có thể ví như những người cứu hộ
giữa biển trần gian với những phương tiện hiện đại do chính Chúa
Giêsu trang bị để cứu vớt các linh hồn đang bị đe doạ hay đang
bị tội lỗi nhấn chìm giữa những bão tố của bóng tối thế tục.
Phận vụ của các linh mục là luôn hiến trọn thân mình, trở nên
những phương tiện hữu hiệu của Chúa, mang lại lợi ích cho các
linh hồn qua các nhiệm tích của ơn cứu độ, như những chiếc phao
cứu sinh thiêng liêng để cứu vớt họ. Hạnh phúc thay cho các linh
hồn nào khi họ gặp được những người cứu hộ lành nghề và giàu
lòng trắc ẩn. Trái lại sẽ là điều bất hạnh cho những linh hồn
nào không được người cứu hộ quan tâm. Chúa Giêsu cũng đã nói
với thánh Faustina “ ôi! có lẽ đã có nhiều linh hồn thánh thiện
hơn nếu như đã có nhiều cha giải tội kinh nghiệm và thánh thiện
hơn” [1]
* Tất cả vì Các linh hồn
Thánh Gioan M. Vianney đã nói “ một linh hồn còn quý trọng hơn
cả và thế gian này.” Và “ Chúa Giêsu thương linh hồn ta hư đi
đời đời nên đã chịu chết mà cứu chuộc chúng ta.”[1] Mang lấy
trái tim của Chúa Giêsu, mỗi linh mục cũng được mời gọi yêu quý
chăm lo cho các linh hồn như vậy.
Khi cử hành ngày lễ kính các thánh mục tử, chúng ta có dịp
suy gẫm về những mẫu gương các vị thánh đã sống cách tròn đầy
thánh chức linh mục khi hiến thân vì lợi ích các linh hồn “ Đây
linh mục những con người thánh hiến. Suốt cuộc đời làm chủ tế
trung kiên. Đem tình thương người Mục tử nhân hiền. Dâng trọn
vẹn cho đoàn chiên chẳng tiếc. “[1]
Có thể nói càng say mến Chúa kitô bao nhiêu thì người linh mục
càng trở nên giống Chúa Kitô trong việc say mê tìm kiếm các
linh hồn về cho Chúa bấy nhiêu. “Nhờ các ngài mà biết bao nhiêu
linh hồn đã được ơn cứu rỗi, đã được giúp đỡ trong việc hoán
cải, trong việc chiến đấu chống lại tội lỗi và các chước cám
dỗ”[1] Trong Giáo hội, đã và đang có rất nhiều mẫu gương của
đời linh mục thánh thiện, nhiệt thành phục vụ các linh hồn,
trong đó phải kể đến cha thánh Gioan Maria Vianney, bổn mạng của
các cha sở.
Cha sở họ Ars ấy nổi tiếng về lòng nhiệt thành say mê chăm lo
cho các linh hồn, đặc biệt trong việc cử hành Bí Tích Giải Tội.
Từ mờ sáng cho đến tối mịt, hàng đoàn người lũ lượt kéo đến xứ
Ars để được nghe giảng, xưng tội và được tham dự Thánh lễ. Có
thể nói, không hối nhân nào đến với ngài mà phải về tay
không[1]..Người ta nói rằng, hình như linh hồn của các tội nhân
đã choán hết tâm tư tình cảm cùng với mọi hy sinh hãm mình của
Cha Thánh.
Còn thánh Philíppe Nêri lại có trái tim đầy tràn tình yêu khi
nói đến các linh hồn. Ngài nói “ Nếu như tôi đã bước một chân
vào cửa Thiên Đàng mà có kẻ xin xưng tội thì tôi sẽ hoãn phúc
Thiên Đàng lại để giải tội cho hối nhân trước đã.”[1]
Thánh Donbosco cũng đã thốt lên rằng “xin cho tôi các linh hồn.
Bao nhiêu thứ khác mất còn kể chi ”
KẾT LUẬN
Chính vì bước theo mẫu gương của Đức Kitô mà người linh mục sẵn
sàng hiến thân để trở nên dấu chỉ ơn cứu độ, của tình yêu và
lòng thương xót Chúa cho các linh hồn. Vì thế mà đời linh mục
cũng chấp nhận phải trả giá vì tình yêu như đức Kitô. Đó là đón
lấy thập giá đời mình trong sứ mạng yêu thương phục vụ để cứu
vớt những người tội lỗi theo gương Thầy Chí Thánh.[1]
Thánh nữ Faustina, qua thị kiến, đã được Chúa cho nhìn thấy:
Trong số các linh hồn chịu đóng đinh, đông đảo nhất là các vị
trong hàng giáo sĩ [1]
Trong cuốn “Thiên Chức Linh Mục” của Đức Giám Mục Quillard, có
đoạn “ Người đời hăng say kiếm tiền thế nào, thì các linh mục
cũng hăng say, cũng chỉ sống để thu phục các linh hồn như vậy,
người cứu nạn hãnh diện gắn trên ngực mình, huy chương cứu nạn ;
nhưng niềm vui của người cứu các linh hồn còn cao trọng hơn biết
bao, vinh hiển của ngài còn đáng được thèm khát biết bao.”[1]
Mong ước, qua vài mảnh vụn suy tư trong tháng các linh hồn này,
có thể gợi lên trong chúng ta một chút cảm nghiệm về cuộc đời
qua chính thân phận hữu hạn của con người chúng ta ở trần
gian.
Và qua thân phận ấy mà chúng ta được mời gọi trở nên những nhân
chứng của Chúa Giêsu[1], để giới thiệu cho thế giới hôm nay,
“một thế giới đang sống trong sự trống rỗng nội tâm thảm hại là
sự vắng bóng Thiên Chúa”, về niềm hy vọng một thực tại hạnh phúc
vĩnh cửu trong nước Cha, nguồn hạnh phúc viên mãn mà mọi người
luôn khao khát tìm kiếm.
Cuộc tìm kiếm ấy đang diễn ra trong lúc này, ngay khi chúng ta
đang sống giữa biển trần gian. Cuộc tìm kiếm hạnh phúc đích thực
trong Thiên Chúa chỉ có thể đạt đích khi chúng ta biết đón nhận
và tỏ bày tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa cho anh
chị em chúng ta trong ơn gọi đặc biệt của mình.
Và rồi, lời kinh của thánh nữ Faustina cũng có thể là lời dâng
thiết tha của mỗi người linh mục, vọng lại nhịp đập trái tim
tình yêu của Chúa Giêsu cho anh chị em mình, trong từng khoảnh
khắc của cuộc đời hiến tế: “ Lạy Cha hằng có đời đời. Con Xin
dâng lên Cha, Mình, Máu, Linh hồn cùng Thiên Tính của Con rất
yêu dấu Cha là Đức Giêsu Kitô, để đền tội chúng con và tội mọi
người”
VẤN TÂM
1. Đức Giám Mục Bùi Tuần[1], trong bài suy niệm tháng các linh
hồn, đã gợi lên ý tưởng về cái chết rằng: Chết là một phần hết
sức quan trọng của cuộc sống. Chết kèm theo một sự kết thúc một
dòng đời và để lại một dấu ấn cho sự chọn lựa của chúng ta: dấu
ấn xinh đẹp của những chọn lựa tốt lành đưa đến phần thưởng. Và
dấu ấn kinh khủng của những chọn lựa xấu xa, tội lỗi để tự lãnh
lấy hậu quả của hình phạt. Người linh mục cảm nghiệm thế nào về
sự chết của đời mình ? Ngài đã ý thức chuẩn bị cho cái chết
của mình và giúp cho người tín hữu biết chọn lựa để biết sống và
biết chết ra sao?
2. Đức Maria đã nói với thánh nữ Faustina rằng : “Con hãy nói
với các linh hồn về lòng nhân lành của Thiên Chúa trong khi vẫn
còn thời gian ban phát lòng thương xót. Nếu lúc này con im
tiếng, con sẽ phải trả lẽ với vô số linh hồn trong ngày kinh
hoàng ấy…”[1]. Lời Mẹ Maria nhắc nhở Thánh Faustina cũng có thể
phù hợp với đời sống và sứ vụ của các linh mục trong việc cứu
rỗi các linh hồn. Vậy người linh mục đã ý thức về trách nhiệm và
có những nỗ lực nào trong việc thi hành sứ vụ cao cả này ?
3. Lời của Chúa Giêsu nói với các Linh mục qua chị thánh
Faustina “Con hãy nói với các linh mục của Cha rằng các tội nhân
cứng lòng cũng sẽ hối cải khi nghe rao giảng về lòng thương xót
của Cha… Linh mục nào rao giảng về lòng thương xót của Cha sẽ
được ân thưởng một thần lực kỳ diệu; cha sẽ xức dầu những lời
của các ngài và đánh động tâm hồn những ai nghe lời các ngài rao
giảng”[1]
Qua việc cử hành các nhiệm tích, đặc biệt trong bí tích giải
tội và việc cử hành thánh lễ, người linh mục có nhiều cơ hội
tiếp cận với các tín hữu. Vậy, lời kêu mời gọi của Chúa Giêsu
có thực sự trở nên cần thiết và quan trọng trong việc thi hành
sứ vụ linh mục không ? Chúng ta đã cảm nghiệm về lòng thương xót
Chúa trong đời mình như thế nào và rao giảng cho tín hữu về lòng
thương xót ấy ra sao ?
HƯỚNG VỀ
VĨNH CỬU
Một lúc nào đó, cũng như mọi
người, người linh mục cũng bước vào hồi cuối cùng của cuộc đời
dương thế sau khi có thể nói như Thánh Phaolô “ Tôi đã thi đấu
trong cuộc đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường và đã giữ vững
niềm tin.”[1] Mỗi người mục tử của Chúa Giêsu chắc hẳn đều mong
ước khi kết thúc hành cuộc lữ hành trần gian cũng có thể được
lãnh lấy triều thiên vinh hiển. Mỗi ngày, người linh mục đều ý
thức dâng cuộc đời mình lên Chúa với lời kinh xin ơn thánh hoá “
…Khi xác chúng con đến ngày tàn tạ, được Chúa làm phần thưởng
đời đời trong nguồn vinh sáng các thánh…”[1]
Hướng về vĩnh cửu là hướng
đến niềm hy vọng sống động về thực tại hạnh phúc viên mãn trong
Đức Kitô. Niềm hy vọng ấy đã được diễn tả cách tuyệt vời nơi
cuộc đời của Đức Hồng Y Phanxicô Nguyễn văn Thuận, vị mục tử
trung thành của Đức Kitô, người đã trở nên mẫu gương sáng ngời,
trước tiên cho anh em linh mục giữa lòng Giáo Hội trong Thiên
Niên Kỷ mới này. Cuộc đời của ngài đã trở nên chứng tá sống
động của niềm tin và hy vọng, của tình yêu và lòng bao dung
ngời sáng giữa muôn vàn thử thách.
Nơi ngài luôn toả sáng một
đời sống tế hiến cho Chúa Kitô Linh mục Thượng Phẩm đời đời.
Giữa những cơn khốn cùng mong manh của phận người trong cảnh tù
đày, trong bóng tối sự chết đang đe doạ với khổ đau cả về thể
xác lẫn tâm hồn. Cuộc sống của Đức Hồng y Phanxicô mỗi ngày
vẫn hân hoan cất lên bài ca sự sống nơi Đức Kitô. Sức sống Phục
Sinh ấy vẫn bừng lên ngay trong đêm đen. Ngài nói “ Tôi không
chờ đợi. Tôi sống phút hiện tại và làm cho nó đầy yêu thương”[1]
Đức Hồng y như đã thấy mình được trở nên đồng hình đồng dạng với
Chúa Giêsu Linh mục cách trọn vẹn hơn giữa anh em “ hằng ngày,
cùng với Chúa Giêsu, con dâng hiến mình con, sẵn sàng từng giây
phút để “bị nộp” vì anh em con, để đổ máu ra cho nhiều người
được tha tội”[1]
Có lẽ hình ảnh đẹp nhất, chứa
đựng ý nghĩa sâu xa nhất mà Đức Hồng y để lại cho Giáo hội, cách
riêng cho anh em linh mục, là khi đôi tay và cả thân xác của
ngài trở thành bàn thờ, thành của lễ sống động đời mình dâng lên
Thiên Chúa ngay trong nhà tù. Như Đức Kitô, ngài vừa là tư tế
và là lễ vật hy sinh cho Chúa. Đôi tay ngài trở thành chén
thánh đón lấy những giọt máu và nước hồng ân của sự sống vĩnh
cửu và đón lấy chính Thân Mình Chúa Kitô.
Cuộc đời của người linh mục
như thế có thể diễn tả rất đúng với tâm tình của thánh Phaolô “
tôi sống, không còn phải là tôi sống mà là Đức Kitô sống trong
tôi. Hiện nay, tôi sống trong xác phàm, là sống trong niềm tin
vào con Thiên Chúa. Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng mình vì
tôi.”[1]
Đức Hồng y Phanxiô đã đi bước
trước chúng ta. Ngài đã thực sự hoàn tất cuộc lữ hành trên đường
hy vọng và xứng đáng để lãnh nhận lấy phần phúc mà Thiên Chúa
đã dành sẵn cho ngài.
Xin mượn lời cầu của linh mục
Gioan,J.Pasquini [1] trong Kinh sáng mỗi ngày, để trở nên như
một hành động luôn quy hướng tất cả cuộc đời và sứ mạng của đời
người linh mục về thực tại vĩnh cửu:
Lạy Chúa , xin cho Máu Châu
báu của Chúa, thanh tẩy, khai sáng và thánh hoá con để con có
thể thanh tẩy, khai sáng và thánh hoá người khác trong Thánh
Danh quyền năng Chúa. Xin giúp con trở nên đôi tay, đôi chân ,
đôi mắt, tiếng nói, tâm hồn và lòng thương xót của Chúa trong
một thế giới đang đói khát Chúa.
Xin cho con được trở nên một
người mục tử tốt lành, một người cha thiêng liêng, một người cha
cầu nguyện với lòng nhiệt thành thánh thiện, lòng nhiệt thành
đã được diễn tả trong ngày con chịu chức, một lòng nhiệt thành
đã và đang làm cho con ao ước được hiền lành và khiêm nhường
trong lòng. Xin ban cho con ân sủng của một tình yêu sâu xa, một
lòng tin khiêm hạ, một niềm trông cậy vững vàng, và một tình
yêu bừng cháy để làm cho con hy sinh cuộc sống mình, cách tự do,
tự nguyện, vì đoàn chiên, vì những người con thiêng liêng của
con.
Ôi lạy Chúa Giêsu Kitô, xin
làm cho con trở nên người thừa tác viên xứng đáng của các mầu
Nhiệm thánh Chúa. Xin giúp thánh hiến tâm hồn con cho Trái Tim
Cực Thánh Chúa và Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ. Lạy Mẹ Diễm Phúc của các
Linh Mục, xin Mẹ hãy nhìn đến con như Mẹ nhìn đến Con Mẹ. Xin Mẹ
giúp con trở nên một Kitô khác trong thế giới đang đói khát Chúa
Kitô. Và đến giờ chết xin Mẹ hãy ẵm lấy con và đưa con về nhà
Con Mẹ. Amen
(Bài Suy Niệm Tĩnh Tâm
Linh Mục Giáo Phận Phú Cường)
Linh Mục Giuse Nguyễn Thanh Ngư,
DòngThừa Sai Đức Tin, Gp.
Phú Cường
|
VỀ MỤC LỤC |
|
THUYẾT PHỤC CỘNG
TÁC |
Người ta thường nói: “Nhân chi sơ tính bản
thiện”, bản tính con người mới sinh đều tốt, và rồi xã hội đã
làm hư hỏng nó đi. Nhưng, thực tế cho chúng ta thấy rằng nhiều
đứa trẻ ngay từ nhỏ đã sinh phá phách, nghịch ngợm, bướng bỉnh,
khiến bố mẹ phải sinh bực bội, khó chịu. Và đây là một trong
những bằng chứng chúng ta nhìn thấy mỗi ngày.
Trong khi bà mẹ thay tã, bé Uyên Mi 8 tháng
tuổi, dãy dụa, lăn lộn, chống cự đến nỗi bà mẹ không thể thay tã
cho nó được. Bà mẹ chán nản, thở dài, giận dữ đến nỗi bà đã phát
cho nó một phát. Cô bé khóc to và khóc một cách tức tưởi.
Lạ lùng là đứa bé mới 8 tháng, dựa trên
nhận thức và hoạt động không lời của nó, đã khám phá ra cách thế
làm bà mẹ chán nản. Thường chúng ta không nghĩ: một đứa bé nhỏ
như vậy có sự thông minh. Chúng ta có khuynh hướng coi thường
chúng, đối xử với chúng như là những đứa khờ khạo, không biết
gì. Nhưng bất cứ một người mẹ nào biết quan sát, sẽ thấy những
đứa bé dầu rất nhỏ cũng là những đứa thông minh.
Vấn đề của bà mẹ bây giờ là: trước nhất,
phải biết huấn luyện cô bé cộng tác vào việc thay tã. Bà mẹ sẽ
đạt được sự cộng tác của cô bé nếu bà biết nhận ra mục đích của
nó và rồi biết phải làm gì để thoát khỏi sự chán chường một cách
thoải mái. Thứ đến, bà mẹ nên xếp đặt lại chương trình để thêm
thời gian huấn luyện cho cô bé. Mỗi lần cô bé hành động trong
cách thế cản trở công việc thay đồ hay thay tã, bà mẹ nên im
lặng và với nụ cười thân tình ôm bé vào lòng và nói với nó:
“Uyên Mi, con ngoan nhé! Con cần phải học những chuyện nầy. Con
giỏi và dễ thương lắm!” Không thành vấn đề là nó không hiểu được
lời mình nói, nhưng nó sẽ hiểu được ý mình muốn nói. Nó cảm được
điều mình muốn nhắn nhủ và sẽ đáp lại. Nó cũng sẽ nhăn mày nhíu
mặt để diễn tả sự chán chường. Nhưng nếu bà mẹ không thấy khó
chịu mà chỉ có tình yêu, nó sẽ hiểu được điều đó. Bà mẹ có thể
thả cô bé ra bao lâu nó không còn kháng cự. Bất cứ khi nào cô bé
có hành động bất thường, bà mẹ có thể ôm giữ cô bé lại. Như vậy,
cô bé sẽ được huấn luyện cho việc cộng tác.
Trong một xã hội dân chủ, chúng ta cảm thấy
cần thiết để tái xác định điều chúng ta muốn bằng danh từ chúng
ta dùng. Cộng tác là một trong những danh từ nầy. Ngày xưa, khi
quyền hành được dành cho những người nắm quyền, cộng tác có
nghĩa là làm như người ta được sai bảo. Cấp dưới được đòi hỏi
phải cộng tác với cấp trên. Chế độ dân chủ mang lại một ý nghĩa
mới cho danh từ nầy. Chúng ta phải làm việc cùng nhau để thỏa
mãn nhu cầu của tình cảnh. Trong xã hội dân chủ, chúng ta có sự
bình quyền và tự do hơn nên chúng ta cũng phải có trách nhiệm
hơn. Không còn sức mạnh của kẻ trên người dưới, chúng ta cần
phải cộng tác với nhau nhiều hơn. Chúng ta không thể đòi hỏi con
trẻ cộng tác với chúng ta, cũng không thể bảo trẻ con hãy làm
như ta bảo. Chúng ta phải nhận thấy nhu cầu cần phải thuyết phục
chúng cộng tác.
Thêm vào việc bảo chúng lo dọn dẹp giường
chiếu mỗi buổi sáng, bà mẹ cần phải phân chia công tác cho mỗi
đứa. Đứa nầy lau dọn nhà tắm, đứa khác hút bụi phòng khách, đứa
khác nữa lo đổ rác. Bà mẹ mỗi ngày trước nhất nên nhắc nhở, sau
đó mới quở trách, cuối cùng mới la hét, và thông thường hình
phạt là để cho công việc được xui chạy. Một lời nhắn nhủ nên
được dùng với những đứa con là: “Tốt nhất các con nên cộng tác
với nhau, nếu không các con sẽ gặp nhiều khó khăn”.
Rõ ràng là người mẹ muốn nói: “Hãy làm điều
mà mẹ bảo các con phải làm”. Bà đã quyết định điều mà mỗi đứa
nên làm và cố gắng bảo chúng làm điều đó. Nhưng thường thì những
đứa con bị kích động nổi loạn chống lại phương thức áp đặt đó
và cùng lúc chúng xem ra thành công trong việc kháng cự cách xử
sự đó. Thái độ của bà mẹ khi giao trách nhiệm cho con cái chứng
tỏ quyết định của bà là “chủ”. Con trẻ đáp trả với thái độ: “ Cứ
thử xem đi”. Đây là một sự tranh quyền, không phải là cộng tác.
Bà mẹ đang áp đặt ý muốn của mình trên con cái thay vì thuyết
phục chúng cộng tác trong cuộc sống chung với nhau. Làm cách nào
bà mẹ có thể thuyết phục được con cái chịu cộng tác thật? Bà có
thể từ từ thảo luận với tất cả mọi người trong gia đình. Chúng
có thể liệt kê các công việc cần phải làm. Bà mẹ nói điều mà bà
muốn và rồi yêu cầu họ hoàn thành những điều còn lại. Ông bố và
các con có thể chọn lấy những công việc mà họ muốn làm. Trong
cách thế đó, bà mẹ tỏ ra kính trọng các con mình. Bà cho một sự
lựa chọn và một quyết định. Nếu có ai không chịu làm điều đã
được chọn, không cần nói gì, cũng không cần phải làm việc đó.
Sau một tuần, bà mẹ có buổi họp mặt. Bà mẹ sẽ bảo: “Cậu Hai đã
chọn công việc dọn dẹp phòng coi tivi và sắp đặt gọn gàng, nhưng
đã không làm. Chúng ta phải làm gì về vấn đề đó? Danh từ “chúng
ta” đặt trách nhiệm chúng ta vào trong nhóm chúng ta thuộc vào,
lấy người mẹ ra khỏi vai trò có quyền hành và đặt bà vào trong
vai trò lãnh đạo. Mọi đề nghị cần được xem xét cách cẩn thận và
cần đạt tới sự giải quyết chung của cả nhóm. Sự áp lực của nhóm
tất nhiên có hiệu quả trong khi sự áp lực của người lớn chỉ gây
thêm sự nổi loạn. Phương pháp đối phó với những trục trặc, trở
ngại nầy thường lấy hình thức của một hội đồng gia đình mà chúng
ta sẽ trình bày sau. Điểm mà chúng ta muốn trình bày ở đây đó
là: chức năng của gia đình là một nhóm. Một nhóm như thế thúc
giục mỗi cá nhân cộng tác với người khác vì ích lợi của tất cả
mọi người. Sự chú ý của mỗi phần tử trong nhóm tập trung vào nhu
cầu của gia đình như là một toàn thể. Cộng tác có nghĩa là: mỗi
người và mỗi phần tử trong gia đình cùng hoạt động với nhau để
hoàn thành cái tốt nhất cho tất cả mọi người.
Sự cộng tác trong gia đình 4 người được so
sánh như một chiếc xe 4 bánh và mỗi người là một bánh xe. Tất cả
4 bánh đều phải cùng nhau lăn để chiếc xe được chạy cách tốt
đẹp. Nếu một bánh bị trục trặc, cả chiếc xe sẽ không di chuyển
được hoặc có khi sẽ bị lật ngược. Mỗi bánh xe đều quan trọng như
nhau và không có bánh nào là hoàn toàn quan trọng. Hướng đi mà
chiếc xe hướng về được quyết định bỡi cả 4 bánh cùng làm việc
chung với nhau. Nếu một bánh tách rời ra, cả chiếc xe sẽ vô dụng
vì không xử dụng được. Gia đình cũng vậy, nó cũng cần phải có sự
cộng tác của tất cả mỗi phần tử trong gia đình.
Khi chúng ta nói về việc huấn luyện con trẻ
cộng tác, chúng ta thử nghĩ sự cộng tác riêng của chúng ta
trước. Chúng ta không có ý nói rằng người nầy nên nhường nhịn
cho người khác, nhưng là có một cảm giác: mọi người cùng nhau di
chuyển trong một sự hòa hợp hướng về một mục đích chung. Khi sự
hoà hợp của cuộc sống gia đình rối loạn, chúng ta có thể chắc
chắn rằng sự cộng tác sẽ bị ngưng trệ, hoặc bánh xe nầy hay bánh
xe khác bị tắc nghẽn. Chúng ta cũng có thể như vậy.
Mỗi một người trong gia đình đều có thể học
nghĩ đến cái gì là tốt nhất cho cả nhóm? Hoàn cảnh đòi hỏi gì?
Chúng ta không còn nghĩ đến điều tôi muốn người khác làm. Điều
đó áp đặt ý muốn chúng ta lên người khác và như vậy không kính
trọng người khác. Cũng không nên nhường nhịn cho những đòi hỏi
thái quá của người khác để có sự hòa bình, vì điều nầy vi phạm
sự trọng kính chính mình. Để giúp con trẻ học cộng tác, chúng ta
phải ý thức về ý nghĩa chính xác của chữ cộng tác, nó ám chỉ sự
chấp nhận những luật lệ căn bản chung.
Một trong những trở ngại mà cha mẹ thường
gặp phải là quyết định: chúng ta muốn con cái ở tuổi nào có thể
giúp những công việc trong nhà. Khi một đứa bé muốn giúp dọn
bàn, chúng ta nói: “không được, con còn quá bé. Lúc đó đứa bé
nghĩ rằng chúng ta cùng cộng tác mà không cần có nó, vì thế tại
sao bây giờ lại nên giúp? Chúng ta phung phí nhiều cơ hội cho
phép con trẻ đóng góp. Tuy nhiên nếu đứa trẻ được cho phép,
không phải được yêu cầu, đóng góp từ đầu, nó chắc chắn thích thú
điều đó và có cảm giác vinh dự về việc hoàn thành của nó.
Cu Quân 7 tuổi bi cảm cúm một tuần rồi. Cô
bé Hoài 5 tuổi rưỡi và Hường 4 tuổi đã chiếm phòng chơi cho
chúng nó. Sáng thứ 7 là thời gian lau dọn nhà cữa và mọi người
cùng làm việc cho tới khi công việc được làm xong. Hôm nay là
ngày đầu tiên cu Quân ngóc đầu dậy sau một tuần cảm cúm. Lúc đến
giờ dọn phòng chơi, cu Quân nói: “Con không thấy lý do tại sao
con phải giúp dọn phòng nầy. Cả tuần nay con không xuống đây.
Con đã không làm phòng nầy trở nên bừa bãi, lộn xộn”. Bà mẹ nói:
“Không, mẹ nghĩ là con đã không làm nó nên bừa bãi, dơ dáy.
Nhưng mẹ cá với con là bé Hoài và bé Hường sẽ để con giúp nếu
con muốn giúp các em con. Cu Quân nghĩ một chặp và rồi đồng ý
giúp các em dọn dẹp đồ chơi và lau bụi trong khi bà mẹ dùng máy
để hút bụi. Cậu bé nhìn thấy trên chóp giá để đồ chơi mọi thứ
được vất vãi lung tung, nó mới đề nghị: “Chúng ta xếp đặt lại để
nó xem ra gọn gàng dễ coi hơn”. Và cả 3 đứa trẻ cùng cộng tác
làm việc vui vẻ với mẹ chúng. Khi chúng làm xong, bé Hoài tuyên
bố: “Bây giờ xem ra đẹp đẽ gọn gàng hơn ở trong nầy”. Cu Quân
đồng ý đáp: “Chắc chắn rồi. Và chúng ta đã giúp mẹ làm điều
đó”.
Lúc đầu, cậu bé Quân có vẻ kháng cự và sự
kháng cự của nó có thể hiểu được. Nhưng gia đình đã có một quan
hệ tốt đẹp. Sáng kiến của bà mẹ đã giúp thuyết phục được sự cộng
tác của cậu bé vì bà biết được quan tâm của nó và chuyển sự chú
ý đó vào những nhu cầu của tình thế và nhu cầu cần sự giúp đỡ
của các em nó. Bà cũng ám chỉ rằng sự giúp đỡ của nó cũng là một
vinh dự cho nó vì nó là người anh lớn nhất. Cậu bé khám phá ra
rằng nó có thể đóng vai trò lãnh đạo khi nó đề nghị cái giá để
đồ chơi cần phải được xếp đặt ngay thẳng gọn gàng. Mọi người đều
có thời giờ thích thú, vui vẻ với nhau, cùng nhau hoàn thành một
cái gì tốt đẹp.
Lm. Lê Văn Quảng,
tiến sĩ tâm lý |
VỀ MỤC LỤC |
|
Từ Đảng Viên Cộng Sản đến Việc Làm Linh
Mục Chui |
Theo cơ quan Tín
Vụ Á Châu thì ơn gọi linh mục và tu sĩ ở Trung Cộng đang tăng
tiến, bất chấp việc tuyền truyền chủ nghĩa cộng sản vô thần và
tình hình mất tự do tôn giáo. Một cuộc nghiên cứu được thực hiện
bởi Viện Các Khoa Xã Hội Học ở Bắc Kinh cho thấy trên 60% sinh
viên ở Bắc Kinh và Thượng Hải tỏ ra thiên về Kitô giáo. Ở vào
một thời điểm Đảng Cộng Sản ở Trung Hoa đang trải qua cơn khủng
hoảng về căn tính của nó thì chỉ còn một ít người tin tưởng vào
những lý tưởng của Mao Trạch Đông mà thôi, chứ nhiều người thuộc
đảng này đang âm thầm tỏ ra chú trọng tới tôn giáo và đức tin
Kitô giáo.
Sau đây là một
câu truyện có thật về một đảng viên cộng sản năng nổ, một sinh
viên thuộc miền bắc xứ sở này, đã trở thành một vị linh mục Công
giáo (vì mục đích an ninh nên các địa danh và tên tuổi xin được
giữ kín).
(Nhân dịp Thủ Tướng Phan Văn Khải của nhà
nước Việt Nam vừa chấm dứt chuyến viếng thăm Hoa Kỳ tuần thứ bốn của Tháng Sáu
2005 vừa rồi theo lời mời của Tổng Thống Bush, câu truyện đây được phổ biến vào
lúc này thật là thích hợp, để cho thấy rằng hạnh phúc đích thực của con người
nói riêng và của xã hội loài người nói chung không phải chỉ nguyên bởi bánh kinh
tế và chính trị mà chính là bởi niềm tin, bởi Đấng Tối Cao, bởi Đấng làm chủ
lịch sử loài người, Đấng được ĐTC GPII gọi là "Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần").
Tên
tôi là Bao Yuanjin và là một linh mục ở miền bắc Trung Hoa. Tôi làm linh mục mấy
năm trước đây. Tôi được rửa tội 11 năm trước. Trước đó, tôi là một người vô
thần, và thực sự là một tay năng nổ của Đảng Cộng Sản Trung Hoa. Ở đại học, tôi
đã lãnh đạo các thành viên Cộng Sản trẻ thuộc phân khoa của tôi. Lòng tôi có
nhiều dự án và tư tưởng cho tương lai, thế nhưng không có một sự nào trong những
thứ ấy liên quan tới Thiên Chúa hết, bởi vì, đối với tôi, Ngài thậm chí không
hiện hữu. Gia đình tôi chỉ có bà của tôi theo Tin
Lành mà thôi. Khi tôi còn là một đứa nhỏ, tôi đã có lần nghe bà nói về Giêsu: Bà
nói rằng Giêsu là con Thiên Chúa. Thế nhưng tôi chẳng có chú ý gì tới tôn giáo.
Vấn đề giáo dục theo vô thần là những gì bắt buộc ở Trung Hoa, từ tiểu học lên
đến đại học. Tâm trí của tôi đầy những lý thuyết về vô thần và tôi nghĩ rằng vấn
đề tin tưởng vào Thiên Chúa là một cái gì đó trẻ con, thậm chí là một cái gì đó
hơi ngu ngốc nữa.
Vào
năm thứ tư đại học của mình, tôi đã gia nhập đảng Cộng Sản. Dân chúng ở Trung
Hoa ghi danh nhập đảng này theo niềm xác tín chẳng có bao nhiêu, hầu hết để "làm
bạn" hầu một ngày kia có thể giúp họ tìm việc làm hay giúp họ khi họ gặp rắc
rối.
Đời
sống của tôi trong tổ Cộng Sản chẳng tốt cũng không xấu. Nhóm sinh viên chúng
tôi tỏ ra tử tế với mọi người, chăm chỉ chuyên cần và khéo léo tổ chức tất cả
mọi loại sinh hoạt.
Thế
nhưng, tôi đã bị dội lại bởi sự kiện là, ở Đảng Cộng Sản này, tất cả những vấn
đề ấy, cho dù là tốt đẹp đi nữa, vẫn thực hiện không phải cho người khác mà là
cho chính mình mà thôi, cho việc thăng tiến nghề nghiệp của mình mà thôi. Rồi
vấn đề dối trá nữa: đặc tính chính yếu của chúng tôi là dối trá, ở chỗ, hết mọi
người đều nói dối và hết mọi người đều biết đến những thứ dối trá ấy, song tất
cả chúng tôi vẫn cứ dối trá như nhau. Chẳng hạn, ở hết mọi cuộc họp tổ đều có
giây phút để thú nhận và tự kiểm (được gọi chính xác là "phê bình kẻ khác và phê
bình bản thân"). Thực ra chẳng có vấn đề tự kiểm gì cả và cũng chẳng có ai thực
sự là phê bình kẻ khác nữa.
Có
một loại trao đổi chính thức đã được ấn định, một thứ trao đổi thậm chí có thể
trở thành hình thức tâng bốc xua nịnh. Chẳng hạn, người ta có thể nói với người
trưởng tổ rằng: 'Thưa tổ trưởng, tôi cần phải phê bình một điều tổ trưởng không
làm đúng. Tổ trưởng đã làm quá nhiều cho chúng tôi. Đúng thế, làm việc là điều
quan trọng, nhưng sức khỏe của tổ trưởng cũng quan trọng nữa. Tổ trưởng cần phải
để ý đến sức khỏe để còn làm việc hơn nữa cho cộng đồng".
Vào
những lúc như thế, từ lòng tôi vang lên tiếng nói: "Thật là điêu ngoa, đúng là
dối trá!". Thế nhưng, tôi cũng phải làm như vậy thôi.
Sau
đó ít lâu tôi bị bệnh. Tôi thường có những cơn ác mộng làm tôi thức giấc. Vào
một đêm kia, tôi đã mơ thấy rằng tôi tìm thấy được một cái hộp; tôi đã mở ra và
thấy một cuốn sách trong đó. Đó là một cuốn Thánh Kinh, sáng rực. Tôi tỉnh dậy
và nhớ lại rằng bà của tôi là người duy nhất đã nói với tôi về Thánh Kinh. Tôi
nhớ lời bà nói rằng Giêsu là đấng toàn năng. Bởi thế tôi nghĩ rằng nếu Giêsu là
đấng toàn năng thì ngài có thể chữa tôi lành. Và vì vậy tôi đã tìm đến một nhà
thờ trong vùng và thấy một ngôi nhà thờ Tin Lành. Tuy nhiên, một đảng viên cộng
sản bị cấm không được tin tưởng vào bất cứ một tôn giáo nào. Nên tôi đã kín đáo
đi gặp những người Tin Lành. Vừa ra trường, nhờ Đảng đỡ đầu, tôi mau chóng tìm
được một việc làm ngon lành ở một thành phố lớn. Trước khi nhận nhiệm vụ, hãng
đó đã cho tôi lấy 1 tháng về thăm gia đình của tôi thuộc một miền khác. Vào cuối
tháng nghỉ hè này, có một người bạn – sau này tôi mới khám phá ra là Công giáo –
đã trao cho tôi 10 cuốn băng nhựa ghi những bài giảng của một vị linh mục Trung
Hoa. Sau khi nghe những cuộc băng nhựa ấy, một trận chiến đã bắt đầu giằng co
trong tâm khảm của tôi: tôi nghĩ rằng có lẽ Thiên Chúa thực sự hiện hữu; có lẽ
Công giáo thực sự là một đạo đích thật…Thế nhưng, đồng thời tôi nhớ đến tất cả
mọi lý thuyết về vô thần đã được học hỏi ở học đường và đại học. Tôi bị khống
chế bởi một cơn buồn thảm đồng thời sợ rằng nếu tôi chấp nhận đức tin Công giáo
tôi sẽ liều mình mất việc làm của tôi. Tôi không biết phải làm sao. Đó là ngày
tôi phải trở về thành phố để thi hành công việc của mình. Tôi đã mua vé xe buýt
rồi.
Lần đầu tiên
trong đời tôi hướng về Đức Bà và nói cùng người rằng: "Hỡi Thánh
Maria, nếu bà thực sự hiện hữu, nếu đức tin Công giáo là những
gì chân thực, nếu bà muốn tôi trở thành người Công giáo, thì xin
ban cho tôi một dấu hiệu, đó là, ngày mai, trong chuyến đi của
tôi, hãy để cho một cái gì đó quan trọng xẩy ra, một tai nạn
chẳng hạn, mà tôi còn sống sót, thì tôi sẽ tin". Giờ đây, tôi
nghĩ rằng tôi đã rất ư là điên khùng khi thách đố Thiên Chúa, đã
thử ngài kiểu đó. Thế nhưng, vào lúc bấy giờ thì đó là lời cầu
nguyện duy nhất nẩy lên trong tâm trí tôi mà thôi.
Ngày hôm sau,
một tai nạn thực sự đã xẩy ra, ở chỗ, bánh xe ở đằng trước phía
bên phải của chiếc xe buýt nổ tung khi chúng tôi đang đi xuống
dốc với tốc độ nhanh. Chiếc xe buýt đâm vào lề và lật ngược bốn
bánh lên trời. Tất cả chúng tôi đều sống sót, thế nhưng chúng
tôi đã phải gắng gõi hết sức để chui ra khỏi chiếc xe bẹp dúm
qua những cửa sổ của nó. Tôi kinh hoàng trước tai nạn này, nhưng
tôi không chú ý lắm tới dấu hiệu đó. Sau vài tiếng đồng hồ chờ
đợi, hãng xe buýt cho một chiếc xe khác tới và chúng tôi tiếp
tục cuộc hành trình của mình. Tuy nhiên, tai nạn ấy đã làm cho
chúng tôi mất thời gian tính. Khi chúng tôi tới được trạm xe
buýt – chuyến đi của tôi vẫn phải tiếp tục bằng xe lửa – thì đã
quá trễ và vé xe lửa đã bán hết sạch. Người ta sắp hàng dài
trước quay bán vé, và mọi người nói với chúng tôi rằng chỉ còn
có những vé cho chuyến xe lửa trong vòng 3 ngày nữa thôi.
Tôi cảm thấy mất tinh thần và chán
nản, vì tôi quá trễ việc làm đầu tiên của mình và vào ngày đầu
tiên làm việc của mình. Tôi nghĩ đến việc cầu nguyện cùng Đức Bà
một lần nữa rằng: "Xin giúp tôi mua được vé xe lửa. Nếu bà giúp
tôi lần này nữa, tôi thề sẽ theo bà!" Trong khi chờ đợi ở một
hàng dài, tôi đã mất hết hy vọng. Đùng một cái, một người đàn
ông xuất hiện hô to lên rằng: "Đây là vé cho thành phố … Vé cho
ngày hôm nay. Ai muốn mua tấm vé này?" Đó là điểm đến của tôi.
Tôi liên mua ngay lập tức. Người này nói rằng ông ta vừa lấy
được vé ấy cho một người bạn vừa gọi cho ông ta nói rằng họ
không thể đến đúng giờ. Người bạn ấy xin ông ta hãy trả vé lại,
thế nhưng, vì chuyến xe lửa sẽ rời trong vòng 40 phút nên quá
trễ để được hoàn tiền lại do đó mà ông ta đã hỏi quanh quanh xem
để cố gắng bán tấm vé đó cho người nào đó. Đó là một dấu hiệu
nhỏ, nhưng là dấu hiệu ban đầu – bước đầu tiên cho cuộc trở lại
của tôi.
Sau khi nhận
việc, tôi đã tìm đến một Nhà Thờ Công Giáo để dự Lễ, song bao
giờ cũng âm thầm kín đáo. Dần dần, tôi hiểu thêm về đức tin Công
giáo, để rồi cuối cùng tôi đã xin rửa tội. Khi tìm được đức tin
Công Giáo, tôi đã tìm thấy một cộng đoàn dân chúng đơn thành và
tốt lành, nơi không có gì là gian dối. Tôi đã tìm được một số
bạn bè thực sự. Tôi đã được giải thoát, ở chỗ, tôi không còn cần
phải dối trá nữa. Dân chúng thực sự kiểm điểm họ và thậm chí
nhận định về vị linh mục nữa. Tôi bắt đầu thấy được ánh sáng và
hiểu rằng tôi đã thấy được ý nghĩa của cuộc sống. Tuy nhiên, để
rửa tội, tôi cần phải thắng vượt một trở ngại lớn, đó là việc
tôi làm thành viên của Đảng Cộng Sản.
Một
đảng viên Cộng Sản là một người vô thần; một Kitô hữu là người tin vào Thiên
Chúa: không thể nào vừa là người Công giáo vừa là đảng viên Cộng Sản. Ngay cả vị
linh mục dạy đạo cho tôi cũng nói rằng tôi cần phải rời bỏ Đảng Cộng Sản. Thế
nhưng, tôi không đủ can đảm để làm điều này, bởi vì, tôi sợ rằng việc rời bỏ
Đảng tôi sẽ phải chấp nhận những hậu quả khủng khiếp, ở chỗ có thể bị mất việc
làm hay thậm chí có thể bị bách hại nữa. Đảng Cộng Sản ở Trung Hoa kiểm soát tất
cả mọi sự, bởi thế, để dứt tình với nó có nghĩa là một cách nào đó làm mất đi
tất cả mọi niềm hy vọng được sống một cuộc đời yên hàn; có nghĩa là cảm thấy như
mình trở thành một kẻ xa lạ. Trong Đảng Cộng Sản Trung Hoa có một qui luật là
mỗi đảng viên đóng góp một số tiền hằng tháng nào đó cho Đảng. Nếu một người
không đóng góp trong vòng 6 tháng liền thì bị trừng phạt và đôi khi còn bị đuổi
ra khỏi Đảng nữa. Vì tôi không đủ can đảm để công khai rời bỏ Đảng nên tôi đã
nghĩ đến cách ra khỏi đảng bằng cách ấy, bởi thế tôi đã không đóng góp gì trong
vòng 6 tháng. Thế nhưng lại chẳng có gì xẩy ra cả, vì không hề cho tôi biết,
người tổ trưởng, vì thấy tôi không đóng đã đóng cho tôi! Tôi không biết tại sao anh ta lại làm thế.
Anh ta là một loại người bình thường, không tốt cũng chẳng xấu. Có lẽ anh ta
nghĩ rằng tôi đã quên và ứng trước để tôi trả lại cho anh ta sau chăng; có lẽ
anh ta không muốn các viên chức cấp trên của anh ta thấy rằng có những "kẻ chểnh
mảng" ở tổ của anh ta, khiến anh ta bị phê bình khiển trách hay chăng. Cuối
cùng, tôi chỉ còn một chọn lựa duy nhất đó là đi theo đường lối chính thức, và
tôi đã viết một bức thư để xin bỏ Đảng. Tuy nhiên, tôi đã không đủ can đảm để
nộp bức thư này. Tôi đã quyết định nhiều lần trình bức thư ấy, để rồi cuối cùng
tôi đã không thực hiện nổi. Có lần tôi đã vận dụng tất cả lòng can đảm của mình
để đi thẳng tới viên chức Đảng mà trao bức thư của mình cho người này. Ông ta
không nói được một lời nào, vì đó là lần đầu tiên ông ta thấy có một người dám
từ chối ở lại trong CCP (Đảng Cộng Sản Trung Hoa). Ông ta hoàn toàn không thể
nào hiểu nổi.
Cuối cùng tôi đã được lãnh nhận phép rửa.
Và với bí tích này, tôi đã bắt đầu hoan hưởng được niềm an bình sâu xa. Sau đó
ít lâu, tôi đã gặp một người bạn cũ trong tổ của mình. Chúng tôi đã là bạn với
nhau ngay cả trước khi gia nhập Đảng nữa. Anh ta nghe rằng tôi đã rời Đảng và
trở thành một Kitô hữu. Anh ta bảo tôi rằng tôi rất can đảm và thêm rằng anh ta
sẽ không bao giờ có thể can đảm như thế.
Sau
khi trở thành một người Công Giáo, tôi đã tiếp tục tham dự Thánh Lễ mỗi Chúa
Nhật, thế nhưng với một cộng đồng hầm trú không được chính quyền nhìn nhận. Có
lần một nữ tu nói với tôi rằng: Tại sao em không theo Chúa Giêsu trọn vẹn hơn để
làm linh mục? Tôi đáp ngay là "không". Không có ai tin tưởng ở trong gia đình
tôi cả và việc trở thành linh mục là việc khó khăn. Là người con trai đầu lòng,
theo truyền thống Trung Hoa, tôi buộc phải nâng đỡ cha mẹ tôi khi các vị về già.
Việc tôi vào chủng viện, thì kẻ thù đầu tiên của tôi sẽ là cha mẹ tôi.
Sáu
tháng sau, khi đang cầu nguyện trong phòng, tôi nghe thấy tiếng gọi: "Hãy theo
Ta". Bấy giờ không có ai trong phòng cả. Tận đáy lòng tôi hiểu rằng chính Chúa
Giêsu đã gọi tôi, thế nhưng tôi quá ư là run sợ, bởi vì, việc trở thành linh mục
– thuộc Giáo Hội hầm trú – nghĩa là từ bỏ tất cả mọi sự, từ bỏ gia đình, việc
làm, lao mình vào nguy hiểm, ôm lấy Thập Giá, chịu khổ ải, bị tù đầy. Tôi đã đáp
lại là không. Thế nhưng, vì việc từ chối này mà tôi không còn được bình an nữa,
khi tôi trở thành một kẻ khắc khoải khôn nguôi và mất đi tất cả mọi niềm vui.
Tôi không muốn theo Chúa Giêsu vì tôi có một công ăn việc làm tốt, một đời sống
bình lặng. Thế nhưng, tôi đã không thể nào chống cưỡng được tiếng Chúa gọi.
Thế là tôi đã cầu xin cho được một việc
làm khác ở một thành phố xa xôi. Có thế, tôi mới có thể bỏ việc làm của tôi một
cách âm thầm kín đáo hơn, và mới có thể nhập chủng viện. Tôi đã làm việc ở thành
phố ấy gần 2 năm trời, để kiếm được nhiều bao nhiêu có thể, dành dụm mọi sự để
giành tiền cho cha mẹ tôi, rồi cuối cùng theo tiếng gọi của Chúa Giêsu. Tôi biết
rằng tôi yếu đuối nên tôi đã nguyện cầu rằng: "Lạy Chúa Giêsu, nếu Chúa muốn,
Chúa có thể làm con trung thành sống đời môn đệ của Chúa đến muôn đời. Điều này
sẽ là một phép lạ rất cả thể".
T ôi đã sống 5 năm ở chủng viện thuộc Giáo
Hội hầm trú. Đời sống rất ư là khó khăn và nguy hiểm. Thức dậy vào lúc 5 giờ
sáng. Sau buổi suy niệm nửa tiếng, chúng tôi cử hành Thánh Lễ và nguyện kinh
thần vụ. Sau điểm tâm, chúng tôi thu dọn và bắt đầu học. Chúng tôi lên giường
nghỉ vào lúc 10 giờ đêm. Đời sống ở chủng viện chui là một đời sống khá khó
khăn, ở chỗ, chúng tôi sống ở một ngôi nhà miền quê của một tín hữu giành cho
chúng tôi.Thế nhưng, khi chúng tôi nghe tin cảnh sát khám phá ra chúng tôi thì
chúng tôi buộc phải thoát thân và định cư ở một nơi khác. Trong năm năm, chúng
tôi đã đổi chỗ tất cả là 3 lần. Chủng sinh chúng tôi chẳng những phải lo thu dọn
mà còn phải nấu nướng, dọn bữa cho mọi người nữa. Về vấn đề vật chất, cuộc sống
thật là khó khăn: lương thực thì ít, rau cũng ít, hiếm khi có thịt ăn; phòng ở
chật chội, không có chỗ nào là dư thừa cả. Thế nhưng, lòng tôi lại cảm thấy bằng
an, thậm chí hết sức vui vẻ, khác với những gì tôi cảm thấy trước đó. Chủng sinh
với nhau rất thân thiện và sống tình huynh đệ với nhau. Một khi mọi người lúc
nào cũng tỏ ra yêu thương nhau thì việc thắng vượt khó khăn thật là dễ dàng.
Sau 5 năm học hỏi, ngày chịu chức
linh mục đã tới. Bấy giờ tình hình căng thẳng xẩy ra trong giáo
phận của tôi, và chúng tôi liều mình bị cảnh sát tống giam. Bởi
thế chúng tôi đã cử hành lễ truyền chức vào lúc 4 giờ sáng. Lúc
ấy mọi người ở Trung Hoa đang ngủ, kể cả cảnh sát nữa. Cho dù
đời sống là người Công Giáo có khó khăn, đức tin của chúng tôi
thực sự kiên cường. Điều này cũng là nhờ gương sáng của các vị
linh mục trong ngục tù. Một thí dụ nhỏ, đó là, ở tỉnh của tôi,
vào năm 1983, khi Trung Hoa bắt đầu thực hiện những cải cách cả
thể về kinh tế, chỉ có 3 gia đình Công giáo. Giờ đây, sau gần 20
năm, con số đã lên tới trên 4 ngàn. Thật sự là máu tử đạo trở
nên hạt giống mọc lên các Kitô hữu mới. Đối với cả tôi nữa, sức
mạnh của tôi chính là Chúa Giêsu. Người đã nói rằng "Không phải
các con đã chọn Thày, song Thày đã chọn các con" (Jn 15:16 ).
Dọc theo con đường này, tôi gặp Thập Giá, nhưng cũng gặp cả niềm
vui và an bình nữa. Với ơn Người trợ giúp, tôi mãi mãi theo
Người, thắng vượt bất cứ những gì là khó khăn xẩy ra cho tôi.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh,
BVL, dịch theo
Zenit ngày 26/6/2005
|
VỀ MỤC LỤC |
Ưu
tiên cho Lời Chúa. |
Tháng 11 hằng năm, trời đã
vào thu tự hồi nào, và lòng người se lạnh vì thời tiết đổi thay
thì ít, mà bồi hồi,
bâng khuâng thì nhiều vì nhìn
cảnh chiều đời mây tím phía trời tây, phía nghĩa trang buồn, khu
phố cuối cùng của những người đã ra đi biền biệt. Tháng 11,
tháng tưởng nhớ và cầu nguyện cho các linh hồn. Và qua việc đạo
đức của Đức Tin và Chữ Hiếu ấy, người tín hữu có cơ hội nhìn lại
và nhìn tới thân phận người của mình.
Cũng vậy, vào mùa Chay, người
tín hữu bỗng nghe trong lòng một tiếng gọi thiêng liêng vô hình:
“Hãy trở về, hãy trở về với Thiên Chúa”. Và với việc khai mạc
mùa Chay bằng Lễ Tro, thì ý thức về thân phận tro bụi của con
người nếu lâu nay có ngủ quên trong lòng cũng phải thức dậy mà
khẩn xin lòng thương xót Chúa.
Không chỉ năm nay, mà đã mấy
năm rồi. Không chỉ có ngày 2-11 mà là suốt một tháng thu chí,
tôi đã thấy xuất hiện một hiện tượng lạ ở nhiều nơi trong nước:
“nhạc sĩ tài hoa họ Trịnh được phong Thánh”. Nói như thế có hàm
hồ quá không? Hãy hỏi những người “phong thánh” cho ông thì
biết.
Trước tiên, phải công minh mà
nói nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã có nhiều suy tư thật thâm trầm và
chính xác về cuộc đời con người. Những suy tư ấy có vẻ như được
rút ra từ những giờ suy niệm thật sốt sắng- còn có thể từ những
trang Lời Chúa, những trang Kinh Thánh. Những suy tư ấy để lại
cho đời một dấu ấn rất riêng về Trịnh Công Sơn, đến nỗi có người
nói: “Trinh Công Sơn là một nhà triết gia hơn là một nhạc sĩ”
Tôi cũng nhận thấy điều nầy,
qua những dòng ca trầm tư mà cuốn hút con người rồi lắng đọng
trong lòng người sâu thẳm đến nỗi có người xem như là “chân lý”.
- “Hạt bụi nào hóa kiếp thân
tôi, để một mai tôi về làm cát bụi…..”
-“Bao nhiêu năm làm kiếp con
người, chợt một chiều tóc trắng như vôi…”
-“Con chim ở trọ cành tre,
con cá ở trọ trong khe nước nguồn”
- “Em đi qua chuyến đò, ối a
biết đâu nguồn cội”
-“Bao nhiêu năm rồi còn mãi
ra đi…trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt, rọi suốt trăm năm
một cõi đi về…”
-“Người chết nối linh thiêng
vào đời…”
-“Ngày sau sỏi đá cũng cần có
nhau…”
Vâng còn nhiều nữa, và có thể
nói hầu hết các ca khúc của “nhạc sĩ tài hoa họ Trịnh” đều chất
chứa những suy tư tuyệt vời về cuộc nhân sinh.
Không phủ nhận những suy tư
tuyệt vời ấy, của một nhạc sĩ tài hoa ấy, nhưng điều tôi muốn
nói ở đây là những điều đáng tiếc:
1.
Người nhạc sĩ ấy đã trăn trở về cuộc đời, đã gửi lại cho đời
những suy tư, những vấn nạn mà chính ông cũng chưa tìm ra được
giải đáp. Ông tự cuộn mình vào trong một mớ vấn nạn của cõi đời
thường, mà những vấn nạn ấy lại là những vấn nạn muôn đời của
bao nhiêu bậc tiền bối trước kiếp nhân sinh. Những vấn nạn ấy
nhờ cái tài hoa nghệ thuật của ông đẩy cao lên vị trí của một
trong những loại văn học dễ thu hút lòng người. Tôi thì nghĩ
rằng: Nhạc Sĩ Trịnh Công Sơn chưa tìm được lối giải thoát cho
chính mình , ông chưa tìm được “con đường, sự thật, sự sống”
và “sự sống vĩnh cửu”, ông chưa tìm được Tin Mừng, chưa tìm được
Chúa Giêsu. Mỗi khi hát lên một ca khúc của ông, và đặt lòng
mình vào trong đó, chắc chắn sẽ thấy một điều xảy ra là người
hát dừng lại ở cái cảm thức buồn chán về cuộc đời nhiều hơn là
phát sinh một niềm hy vọng- nếu chúng ta không dùng đó làm tiền
đề để tiến sang một suy tư thần học về cuộc đời theo cách nhìn
Kitô Giáo. Đúng là “Tin buồn từ ngày Mẹ cho mang nặng kiếp
người” nghe có vẻ như “Mẹ con đã thai con trong tội” nhưng không
phù hợp với Tin Mừng vì Tin Mừng không chấp nhận để con người
dừng lại trong tình trạng tội lỗi, mà đòi hỏi thăng tiến thoát
vòng tội lỗi bằng cách “sám hối và tin vào Đức Giêsu”. Đáng
tiếc cho “người nhạc sĩ tài hoa” chưa vượt lên tới Tin Mừng để
siêu độ.
2.
Một số người, kể cả người công giáo, yêu thích nhạc sĩ tài hoa
nầy, đã trân trọng lấy ra những câu ca triết lý về cuộc đời làm
kim chỉ nam hoặc làm ý lực sống cho đời mình. Có người luôn gắn
liền với những suy tư Trịnh công Sơn đến nỗi đi đâu, ở đâu, và
lúc nào cũng có thể sống và trình bầy một cách sống bằng những
tư tưởng ấy như là một chân lý. Nét hào hoa, sức cuốn hút của
một tư tưởng trần thế gần gủi với những dấu hỏi của cuộc đời đã
nhập hồn tín hữu và chi phối mọi ý nghĩ, làm cho Lời của Thiên
Chúa không còn chổ chen vào…không những đã làm cho niềm tin của
họ dừng lại ở một trạm dừng lơ lững , mà còn có nguy cơ phát tán
một kiểu sống theo cái nhìn bi quan tiêu cực, vô định hướng được
cải cách dưới hình thức nghệ thuật âm nhạc.
3.
Điều đáng tiếc hơn cả, là có một số người có trách nhiệm giáo
dục đức tin công giáo cho cộng đoàn dân Chúa, cũng lại rơi vào
cõi si mê “nhạc sĩ tài hoa họ Trịnh” này, đến nỗi đã trích dẫn,
rồi phân tích giảng giải từng câu từng từ và cuối cùng là rút ra
một kết luận cho cộng đoàn dân Chúa học và sống. Họ quên rằng
người tín hữu rất cần được nghe giảng dạy Lời của Thiên Chúa,
nhất là Lời của Đức Giêsu. Người tín hữu hôm nay có đủ khả năng
nghe và nhận thức mình đang nghe lời Chúa hay nghe lời người
phàm. Ca từ và những dòng tư tưởng của “Nhạc sĩ tài hoa họ
trịnh” luôn dừng lại ở mức “tư tưởng của người phàm”, “lời của
người phàm”. Ông ta không phải là vị thánh, nhưng ông dùng những
suy tư của các bậc thánh hiền trước ông và nhờ cái nghệ thuật âm
nhạc chuyển tải những tư tưởng của thánh hiền đến con người một
cách dễ đón nhận và rung cảm nhất. Vì thế, việc đưa cả tư tưởng
của một người phàm vào trong bài giảng hay lời giáo huấn, vừa là
cho thấy sự lệch lạc của chính người thuyết giảng, vừa mất hiệu
quả giáo dục đức tin cho cộng đoàn. Vô tình, một cách nào đó,
người ta đã phong thánh cho một “văn nghệ sĩ” và lấy tư tưởng
của ông ra mà học hỏi như một “linh đạo”. Điều cần phải lưu ý
hơn nữa là, không thể quên rằng: Satan có thể nói Lời của Thiên
Chúa- không những biết nói, biết hát ,
mà còn nói đẹp, hát
hay- nhưng nó không sống theo Lời của Thiên Chúa.
Một em bé 13 tuổi, sau khi dự
một thánh lễ ở nghĩa trang, ra về nói với Mẹ: “ Mẹ ơi, hôm nay
Cha giảng về ông Trịnh công Sơn”. Nó chỉ hiểu được như thế. Cha
giảng lễ đã trích dẫn quá nhiều câu ca trong các ca khúc của
Trịnh Công Sơn, , phân tích quá nhiều, ca tụng nhạc sĩ tài hoa
quá nhiều, làm cho phần lời Chúa bị cắt xén đi, và cũng không
dùng Lời Chúa để đưa cả ông Trịnh công Sơn và Cộng đoàn về đến
đích điểm mà ông nhạc sĩ ấy còn lơ lững.
Trên đây, nhân tháng 11, mới
đề cập đến một nhạc sĩ họ Trịnh, chưa nói tới việc còn có thể có
những tư tưởng loài người khác được trích dẫn để “soi sáng cho
Lời Chúa” thay vì đưa Lời Chúa ra trước để học hỏi và các suy tư
theo lời Chúa, các chứng từ sống Lời Chúa được đưa ra sau để
minh họa.
Thiết nghĩ, nên nghiên cứu kỷ
chủ đề của Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới khóa XII 2008:
“LINEAMENTA- LỜI THIÊN CHÚA TRONG ĐỜI SỐNG VÀ SỨ MẠNG CỦA HỘI
THÁNH” để thấy được cái ưu tư to lớn của Giáo Hội về việc giáo
dục Đức Tin cho cộng đoàn dân Chúa qua Lời của Thiên Chúa, Lời
của Đức Giêsu. Và những người có trách nhiệm giáo dục đức tin
Kitô giáo, phải là người đi đầu trong việc chọn cho mình cái
đúng nhất, cái ưu tuyển nhất, chính là Lời Chúa để giảng dạy.
Pm. Cao Huy
Hoàng |
VỀ MỤC LỤC |
|
CHÚNG CON THỢ GẶT LÊN ĐƯỜNG ! |
Thân mến tặng các
anh chị thanh niên CGVN
trong nước
và hải ngoại.
1-
Chúa phán:” Hãy
rao truyền lời Chúa!”
Vâng, chúng con đội ngũ lên đường
Rao
truyền Bác ái, tình thương
Rao
truyền Chân lí là phương cứu đời!
2-
Có vũ khí: Phúc Âm, lời Chúa
Có
trong hồn ngọn lửa Tin, Yêu
Giới răn Chúa dạy mười điều
Chúng con quyết gặt thực nhiều, Chúa ơi!
3-
Gặt tâm hồn người chưa biết Chúa
Để
họ được nhuần thấm Phúc Âm
Rao
truyền tới những người thân
Chân lí cuộc sống không phân vân gì!
4-
Để thực hành những điều Chúa dạy
Chúng con cần can đảm, kiên trung
Tuân theo Giáo huấn đến cùng
Cùng chung lí tưởng, cùng chung hợp đoàn!
5-
Xin đốt trong hồn con lửa Mến
Chúa Ngôi Ba thánh hóa chúng con
Cho
hồn tinh khiết, trinh trong
Xứng đền Chúa ngự trong lòng chúng con!
6-
Cho chúng con giữ gìn lời nói
Tránh ngôn từ bất xứng, kiêu căng
Bỏ
đi bao thói lăng nhăng
Làm
tụt nhân phẩm, làm tăng suy đồi!
7-
Giúp chúng con sống đời đạo hạnh
Đó
chính là sức mạnh trần gian
Với
ơn Chúa giúp - Xiển dương
làm
người dẫn lối con đường Chúa đi!
8-
Chúa ơi! Đời quá nhiều cạm bẫy!
Xin
Chúa thương chỉ dạy chúng con
Trót đời son sắt như in
Yêu
thương đồng loại, kính tin Chúa Trời!
Nhà
Văn Xuân Vũ TRẦN ĐÌNH NGỌC |
VỀ MỤC LỤC |
|
CHÚA GIÊSU TÁI ĐÓNG ĐINH |
Nguyên tác: ”Lettres d’amour aux
prêtres” – “Thư tình
gửi các Linh mục”
của Catherine DE HUECK DOHERTY
Người chuyển ngữ, Đình Chẩn.
CHƯƠNG III
CHÚA GIÊSU TÁI ĐÓNG ĐINH
Cha kính yêu, hình như có hai chiều hướng
trong cuộc sống của cha. Một xu hướng cũ, con nhớ rất rõ, đó là
khả năng chia sẻ của cha với Đức Giám mục của mình. Hình như cha
không thể, nói nôm na , “dốc bầu tâm sự” với người. Nhưng
Đức Giám mục là cha và là nơi cho tâm hồn cha trú ngụ. Thái độ
của ngài có thể có lúc nọ lúc kia. Nhưng không hẳn là do điều đó
mà có cái gì đó ngăn cản không ít Linh mục đến cởi mở tâm hồn
mình với Đức giám mục. Tuy nhiên, con đã gặp một số Đức cha rất
cởi mở. Bây giờ con sẽ kể cho cha nghe điều gì đã xảy ra cho một
Linh mục trước Công đồng Vaticano II khá lâu. Cha đó muốn hồi
tục. Ngài đến nhà Hội chúng con, trong những ngày tự do để dạy
giáo lý, lau cửa kính hoặc là làm tất cả những gì ngài có thể.
Vấn đề của ngài rất đơn giản và ngài thường xuyên nói với con.
Ngài thuộc một giáo xứ nơi mà cha sở quá
quan tâm đến “ bộ mặt bên ngoài của giáo xứ”, nếu có thể nói như
vậy. Cha sở muốn làm cho nhà thờ của mình trở nên hấp dẫn. Cha
sở dùng loại đá cẩm thạch của carrare để làm bàn thờ (đây là một
trong những loại đá quý nhất ) nhưng cha sở dùng một loại đá rẻ
hơn trang trí phần chính điện. Ngài trang bị bằng những đồ đắt
tiền. Mỗi tuần Linh mục trẻ tuổi kia đến uống cà phê với con và
nói:” Tôi không thể chịu đựng được cha đó. Thực sự tôi không thể
chịu đựng được sự lộng lẫy nơi nhà thờ này và tất cả những cái
khác nữa trong khi ở một góc của giáo xứ tôi- dù là một xứ khá
giả cũng còn thấy đám người đói khổ. Không ai để ý đến đó cả.
Trong khi tất cả những người nghèo ấy lại là người Công giáo”.
Tôi không nhớ họ là người Bồ đào nha hay là người Portô-ri-cô,
nhưng đó là những người Công giáo. Linh mục trẻ nói thêm:” Cha
sở đã nổi cáu khi tôi giúp họ với sứ vụ của tôi. Cha sở muốn
rằng tôi quan tâm đến công trình nhà thờ nhà xứ- điều mà không
cần thiết bằng việc mục vụ của tôi, rằng đó mới là một mục tử
tốt lành ưa thích tô đẹp. Có lẽ chẳng còn cách nào hay hơn để
rao giảng Tin Mừng cho những người nghèo này. Tôi không biết họ
đón nhận thế nào, nhưng tôi không được xét đoán: Thực sự tôi
muốn hồi tục làm một người bình thường.
Con nói với Linh mục đó:” Cha hãy nghe con
nói. Tại sao cha không đến gặp Đức hồng y ở New York và chân
thành cởi mở tâm tình với ngài? Ngài là người tốt bụng. Cũng
không mấy quan trọng ngài là người tốt hay xấu, hay lãnh đạm
theo cách tự nhiên, nhưng ngài là cha linh hồn của cha và cha
không thể không cảm nhận được điều đó. Nhất là chính ngài đã
phong chức cho cha. Chính ngài là người mà cha phải đến gặp! Cha
đó đáp lại:’” Ôi Hồng y …!” và câu hỏi đã bị gạt bỏ bằng một
trong những từ kỳ quặc “Ôi” thở dài vô tận. Thế là, như thường
lệ, con quyết định không thể để im chuyện đó! Con đã đến gặp Đức
Hồng Y và thưa ngài rằng:” Trọng kính Đức Hồng y, Đức Hồng Y sẽ
mất một Linh mục vì ngài không chịu đựng được khi mà cha chính
xứ của ngài luôn chăm lo làm đẹp bàn thờ, nhà thờ và nhà xứ mà
không đoái hoài gì đến người nghèo. Linh mục trẻ này muốn hồi
tục, một Linh mục tốt bụng và thánh thiện, nhưng đó cũng là một
con người. Đó là một Linh mục đã dành thời gian của mình cho
những người nghèo bị bỏ rơi trong xứ.”
Rất tự nhiên, con cho Đức Hồng y biết tên
Linh mục trẻ đó cùng với cha chính xứ. Con nói:” Đức Hồng y là
cha của Linh mục trẻ kia, nên cha cần xem xét và uốn nắn cho cha
đó”. Nói xong ngài nhìn con trìu mến và nói:” Katie, trong
những ngày này con và cha sẽ cùng nhau lãnh đạo Giáo Phận”.
Con trả lời:” Thưa Đức Hồng y con không dám, con không thể xen
vào việc của Đức Hồng y được. Con chỉ có thể đi theo những đường
mà Đức Hồng y chỉ dẫn thôi.” Đức Hồng y cũng biết đấy, con còn
trẻ và dại lắm, người mỉm cười và nói:”Tuyệt! Tuyệt! Tuyệt!”.
Khoảng hai tuần sau, vị Linh mục trước kia
dạy giáo lý cho những người da đen , lau cửa kính trong lúc rảnh
rỗi, đến gặp con và nói:” Chị Katie, một phép lạ đã xảy ra! Một
phép lạ! Chị đừng nói với tôi rằng đó không phải là một phép
lạ! Đó là phép lạ ở New York. Con đáp lại:” được rồi, cha kể cho
con nghe đi! Con rất yêu thích những phép lạ! Cha kể: Tôi đã
được thay đổi như thế đấy! Tôi được đổi đến giáo xứ nghèo hơn.
Chị có hình dung ra không? Chị có tin điều đó không? “ Có , thưa
cha, thời gian diễn ra phép lạ còn chưa hết, cha sẽ phải đến đó.
Chắc đã có ai nói cho cha biết. Ồ không, không có ai nói với tôi
cả. Đó là một phép lạ! Cha đã được linh hứng!
Vâng, con thưa lại, con tin rằng Linh mục
trẻ đó đã được linh hứng và câu chuyện dừng lại đó.
Thưa cha, trước Công đồng Vatican II các
Linh mục ít đến gặp Đức Giám mục địa phận vì sợ hoặc vì e ngại
hay vì lý do nào đó. Nhưng cha đừng trách ngài! Rất có thể cha
cho rằng ngài bận việc hay không mời cha đến hay đại loại những
lý do như vậy, nhưng cha đừng nói với con rằng cha không thể đến
gõ cửa nhà cha của cha được!
Giả sử lúc cha có việc cần kíp, cha có thể
gọi điện thậm chí lúc đêm khuya, để trình bày với ngài, trao phó
cho ngài. Nhưng cha đã không làm như vậy. Thời gian trôi qua và
đến thời Công Đồng Vatican II. Bây giờ nếu cha chẳng muốn đến
gặp Đức Giám mục thường xuyên nữa có lẽ khiến người ta buồn
cười.
Có thể cha không đến gặp Đức cha vì cha tin
rằng cha có thể tự giải quyết được vấn đề. Nhưng con cầu xin
cha, con tha thiết van nài cha. Con xin cha hãy hiểu. Cha đừng
quên rằng Chúa Kitô đã ban tràn đầy Thánh Thần của Người cho Đức
Giám mục. Cha đã lãnh nhận Chức Thánh từ tay Đức Giám Mục.Cha là
Linh mục nghĩa là cha được kết hiệp với Đức Giám mục. Nếu cha là
Linh mục dòng, thì cha cũng có Cha Bề Trên đóng vai trò của vị
Giám Mục. Nhưng cha không thể được truyền chức từ ai đó không
phải là Giám Mục và cha phải vâng lời cách đặc biệt Đức Giám Mục
Rôma.
Có thể cha không thích liên hệ với thứ tự
cấp bậc. Tuy nhiên, Đức Giám mục thực sự là Đấng duy nhất có thể
truyền đạt cho cha Thánh Ý Chúa. Ồ tất nhiên, lương tâm của cha
mách bảo cha bao điều, và các Đấng Bề Trên cũng vậy, nhưng trong
những trường hợp cần phải khiêm tốn tận đáy lòng thì chính Đức
Giám mục là người nói cho cha biết Thánh Ý Chúa và điều đó
không phải lúc nào cũng dễ nghe.
Biết bao thành tựu kỳ diệu được hoàn tất
dưới triều Đức Thánh Cha Phaolô VI. Thế mà con người anh hùng
này đã phải chịu biết bao đau thương, nhất là những vết thương
lòng khi người thi hành sứ vụ phục vụ Dân Chúa. Đôi khi, ngài
lại bị chính những người mà ngài yêu quý là các Linh mục phê
phán mạnh mẽ. Con biết rằng các cha cũng là những con người,
những con người được dựng nên từ đất và vì vậy cha cũng có thể
phạm bất cứ tội nào như chúng con. Tuy nhiên, thật là khó hiểu
cho con khi có nhiều người trong các Linh mục, những Linh mục
kính mến của con, lại lên tiếng phê phán chống lại người Đại
diện của Chúa- một con người nghèo khó và dễ bị tổn thương này.
Người đã bị “ném đá” dữ dội từ cánh tả cánh hữu khiến người sửng
sốt nhận ra rằng Người không thể phục vụ Dân Chúa lâu dài hết
mình như người đã làm được.
Đôi khi, suốt đêm con linh cảm thấy có điều
gì thật là bi kịch đang diễn ra. Hình như, con nghe thấy Quỷ dữ
nó đang cười đắc chí. Ngày xưa, một phụ nữ đã bị bắt quả tang
phạm tội ngoại tình. Chị bị người Do thái dẫn đến Chúa Giêsu và
suýt bị họ ném đá. Chúa Giêsu đưa mắt nhìn những người kết tội
chị và nói:” Ai trong các ông sạch tội, hãy ném đá người này
trước đi”. Họ đã lần lượt rút lui hết vì thấy hổ thẹn. Họ đã
ý thức được con người bất toàn và tội lỗi của mình. Chẳng có gì
ngạc nhiên rằng Hội Thánh bao gồm những con người bất toàn dưới
nhiều góc độ. Tuy nhiên, Hội Thánh trung thành với Thiên Chúa
trong từng giáo huấn, trong giáo lý Đức tin của mình, và với
tư cách là Hiền Thê của Chúa Kitô, Hội Thánh hãy còn trinh khiết
và vô nhiễm nguyên tội. Thực vậy, người phụ nữ bị bắt quả
tang phạm tội ngoại tình đã bị những người Do thái lên án, ngay
khi chính họ cũng là những tội nhân và chị đã được Chúa Giêsu
-Đấng không hề có tội- đã tha thứ cho chị. Qua dòng lịch sử,
Giáo Hội Chúa Kitô hãy còn vô tội trong Giáo lý và trong Đức
tin. Chúng ta, với tư cách là những cá nhân, còn cách xa sự
trong trắng, do vậy chúng ta cần phải tránh ném đá Hội Thánh-là
Mẹ ban sự sống cho chúng ta.
Đức Thánh Cha yêu mến toàn thể Hội Thánh và
từng người trong đó. Ban đêm người cầu nguyện để xin sự suy xét
đúng đắn, ban ngày người lại xin ơn khôn ngoan.
Thưa các cha kính mến, nếu các cha thực sự
yêu mến Hội Thánh, như con biết các cha yêu mến, thì các cha sẽ
cùng hiệp thông trong lời cầu nguyện với Đức Giáo Hoàng, cùng
với người các cha sẽ không bao giờ cô đơn trong sứ vụ phục vụ
Dân Chúa. Tình yêu thì thiêng liêng và mầu nhiệm. Do vậy, nó
không thể bị ngăn cách bởi không gian. Nếu cha cùng hiệp thông
với vị Chủ chiên Rôma, thì chính các cha sẽ trở thành những chủ
chiên tốt lành nhất.
Chúng ta chúc tụng Chúa đã an ủi Dân Chúa
trong thời gian qua. Có lẽ Hội Thánh đang thu nhặt lại những
mảnh vụn mà con cái đã xâu xé và làm vương vãi khắp nơi. Chắc
chắn rằng những mảnh vụn này đang được liên kết lại với nhau.
Đức Tin của con thà thuộc về một Giáo hội bị xâu xé còn hơn là
làm cho Giáo hội tan ra từng mảnh như những thần học gia đã
làm.
Cha kính yêu, con xin cha hãy chia sẻ nhận
định này. Đây là cửa để đi vào Đức Tin. Đây là chìa khoá vạn
năng. Hãy mở ra! Hãy mở ra !!
Các cha đã trải qua nhiều năm nghiên cứu,
học hỏi tất cả những gì cần phải học để nhận biết Thiên Chúa.
Nhưng thưa cha, cha có biết rằng Thiên Chúa là Đấng vượt trên
tất cả sự hiểu biết , trí thông minh của loài người hay không?
Cha đã mở cánh cửa này chưa? Cha đã vượt qua cái đó chưa? một
khi cha đã đạt đến sự nhận biết đó thì những lời nói của cha,
những hành động của cha, tư tưởng của cha sẽ được chín mùi và sẽ
trở nên ngọt ngào êm dịu.
Con cầu xin các cha là những người đã mở
cửa ra và đi vào trong Đấng Thánh chí Thánh, thì cũng hãy tỏ ra
đáng kính. Ngày xưa, Thần học là chúa tể của mọi khoa học và nó
vẫn là như thế đối với những người biết hiểu. Nhưng điều gì đã
xảy ra? Điều gì đã làm dơ bẩn suối nguồn trinh trong mà Chúa đã
ban cho con người vậy?
Trước đây và cả ngày nay nữa, người ta đã
đưa cái trí thông minh giới hạn của mình vào suối nguồn trinh
trong này và đã làm cho ra ô uế! Chúng con cũng vẫn khao khát
Chúa như những người thế hệ trước chúng con. Các cha kính mến,
xin hãy trao cho chúng con Sự Thật. Đừng cho chúng con thứ Thần
học mà đã bị pha mắm muối vào! Thần học ấy không mang lại ơn Cứu
độ. Xin cha hãy trao cho chúng con Thần Học của Thiên Chúa! Bởi
Thần học là học biết về Thiên Chúa. Thế nên, xin các cha cầu
nguyện để Người ban Tình yêu của Người cho các cha, khi đó các
cha mới có thể ban lại cho chúng con.
Con muốn nói với cha rằng rất nhiều Linh
mục không muốn đến gặp Đức Giám mục của mình. Một số không đến
bởi có thể ngài sẽ nói với các cha rằng các cha không có quyền
làm những gì mình muốn. Một số khác, lại giống như những kẻ đua
ngựa đang trong vòng đấu. Họ cứ chạy mãi, quay mãi trong vòng
quay:” Tôi muốn làm những gì làm cho tôi thích thú, khi điều đó
mang lại thích thú cho tôi, như thế là tôi thích” .
Thế nên, thưa cha kính yêu, những người
trong vòng đua ngựa, nhìn chung sẽ chết đói và chết khát Đấng mà
duy chỉ có Người mới có thể nuôi họ sống.
Vào một đêm tháng 10, không rõ năm nào, con
đã trằn trọc năm canh mà không ngủ được. Con đã bị ám ảnh bởi
cái nhìn nội tâm sâu sắc xâm chiếm lòng con mãi. Chạy theo vòng
luẩn quẩn thật vô ích! Con đã bị dằn vặt bởi nỗi buồn khôn tả,
bởi sự lo lắng vô cớ, đờ đẫn thực sự và cũng tỉnh táo kỳ lạ.
Ý tưởng xâm chiếm lòng con đó là Giáo Hội
Công Giáo đang trong sự nguy kịch trầm trọng. Chúng con - Dân
tộc của Chúa - như hạt tuyết rơi đang lăn trên sườn núi. Càng
lăn nó càng trở nên to hơn và dần dần nó sẽ đè bẹp Hội Thánh.
Thế nên, Hội Thánh đang bị tàn phá dưới lớp tuyết lạnh, là chính
những trái tim băng giá của những người tự xưng mình là Kitô
hữu.
Càng vào đêm sâu, con càng xác tín rằng
Giáo Hội đang ở giữa ngã ba đường và tất nhiên Giáo Hội bao gồm
tất cả chúng ta: Giám mục, Linh mục và Giáo dân, và Giáo Hội là
Hiền Thê của Chúa Kitô, là Thân Thể mầu nhiệm mà Người là Đầu.
Vâng, Giáo Hội còn hơn Dân riêng của Chúa như thế đó. Hình như
con thấy rằng Thân Thể mầu nhiệm này, Dân riêng của Chúa này đã
quên hay sao lãng việc nhìn nhận mầu nhiệm của Chúa Kitô: Đầu
của Thân Thể ấy. Sự thực, Giáo Hội là Hiền Thê của Chúa Kitô.
Con có cảm giác rằng chúng ta đang đối xử
với Giáo Hội như thể với một thể chế của loài người. Người ta
chuyển Giáo Hội cho người nọ người kia như thể ném quả bóng.
Đồng thời, con cảm nhận thấy trong bóng đêm có rất nhiều người
con đang xâu xé những thành phần Dân Chúa. Người ta không ngừng
bàn tán về những sai lầm của Đức Giáo Hoàng, của các Giám Mục,
Linh mục, các Tu sĩ..vv…và của cả chúng con nữa . Chính những
cái nhìn lệch lạc của chúng ta cứ tìm tòi để thay thế những gì
chúng ta đã rời bỏ.
Trong suốt đêm dài lạ lùng ấy, con nhận ra
một cách nào đó không thể giải thích được, nếu chúng ta xâu xé
Thân Thể này, chúng ta sẽ khiến cho Đầu của Thân Thể ấy phải
chết. Con trộm nghĩ rằng Đầu - Chúa Kitô - sẽ lại chết một lần
nữa và chính chúng ta sẽ tái đóng đinh Người trong chúng ta. Từ
“tái đóng đinh” đã làm con choáng váng đến nỗi có cảm giác như
ngất đi, nhưng con tỉnh lại và tràn ngập nỗi sợ ( sợ vì Giáo Hội
bị đối xử một cách xa lạ ). Nỗi sợ này cứ giày vò như cơn sốt,
bởi con chợt nhận thấy Chúa Cha nổi giận trước cảnh Con Một
Chúa bị tái đóng đinh, trước cảnh Giáo Hội- Hiền Thê của Con Một
Người -bị lãng quên.
Đức Tin dạy cho con biết rằng Thiên Chúa
cũng là Đấng đầy lòng thương xót. Người yêu thương chúng ta, lo
lắng cho chúng ta hạnh phúc đời sau cũng như sự bình an và hạnh
phúc ngay giây phút hiện tại, bởi Thiên Chúa yêu thương con
người đơn giản chỉ vì Thiên Chúa là Thiên Chúa.
Con lại chợt nghĩ rằng Thiên Chúa nổi giận
bởi vì chính chúng ta đang xâu xé nhau, đang phá vỡ sự bình an
của chính chúng ta. Thiên Chúa nổi giận bởi vì chúng ta đối xử
cách mù quáng, phi lý cứng lòng và tệ bạc với Hồng ân bao la
của Chúa ban cho chúng ta qua Thánh Thần. Nhưng cơn thịnh nộ
của Thiên Chúa luôn luôn thể hiện lòng thương xót của Người.
Ý nghĩ “ Thiên Chúa nói với chúng ta qua
những dấu chỉ” chợt đến trong đầu con.Người đang viết những
điều mầu nhiệm trên bức tường như xưa kia Người đã làm trong Cựu
Ước. Đó là những lời cảnh báo gợi lên những tai ương khủng khiếp
dội vào thế giới, như những trận lũ lụt chẳng hạn. Nhưng còn hơn
cả những điều có thể giải thích được bằng khoa học. Người cho
biết những điều nói đến những cuộc chiến khủng khiếp, sự ô uế
hoành hành trong tâm hồn con người bởi chính từ trong thâm tâm
con người mà nảy sinh chiến tranh.
Những cảnh tượng Dân Chúa bị chia rẽ, bị
xâu xé, người này kình địch người kia, hay sự chối bỏ Tin Mừng,
tất cả cứ hiện lên trước mắt con rõ mồn một trong suốt cả đêm
dài đáng sợ này.
Tất nhiên, con biết rằng Giáo Hội tiếp tục
sống và cả hỏa ngục cũng không làm gì được. Tuy nhiên, con run
sợ và khóc than cho trách nhiệm của con, của anh chị em con
trong Chúa Kitô và của mỗi người. Bởi vì chính những người ưu
tú, những người được Thiên Chúa chúc phúc và phú ban cho tài
năng vượt trổi lại là những người gây chia rẽ Giáo Hội Chúa.
Con đã run lên trước sự lạm dụng tài năng
của họ và nhất là có chính Linh mục lại chối bỏ trách nhiệm đích
thực của mình.” Khốn cho những ai làm cho những kẻ bé mọn của
Chúa Kitô vấp phạm!” Những lời này cứ ám ảnh con suốt cả
đêm. Thay vì đưa những kẻ bé mọn về với Chúa hay chỉ cho họ con
đường đến gặp Chúa thì có Linh mục lại làm cho họ xa cách Chúa
hoặc lại chỉ dẫn họ đến với chính mình.
Vâng, gã khổng lồ Gôliath sẽ phải chết,
nhưng nó chỉ chết dưới tay một Đa- vít khác với những vũ khí
chống lại là Đức Ái, bằng những viên đá dăm là sự giản dị khiêm
nhường và một tinh thần đơn sơ. Con thấy các cha mặc trang phục
thờ phượng như những áo choàng tư tế của Chúa Kitô. Bên cạnh vũ
khí của các cha là lòng mến, sự đơn sơ khiêm nhường, các cha còn
có khăn thắt lưng, một bình nước và một chậu nhỏ để rửa chân
cho tất cả những ai đến với mình. Người người đi từ núi Thánh
xuống thung lũng trần gian không mang gì khác ngoài Đức Ái, tinh
thần đơn sơ khiêm nhường. Con biết rằng các Linh mục đã được
thắt khăn lưng, các ngài sẽ có một bình nước, một chiếc chậu và
những giọt nước tinh tuyền của Tình yêu thương sẽ chảy mãi trong
tâm hồn các ngài bất cứ nơi nào các ngài đặt chân làm nhân chứng
cho Đức Kitô.
Vâng, thưa cha trên đây là những tâm tình
của con vào một đêm tháng mười mà con không nhớ năm nào, một đêm
thật lạ lùng, một đêm con thao thức chập chờn.
còn tiếp |
VỀ MỤC LỤC |
|
Cầu Nguyện Cá Nhân: Bí quyết tình yêu
và vui sống |
Phần thứ nhất
Những chỉ dẫn tổng
quát để thực hiện tốt việc cầu nguyện cá nhân
một
Đến điểm hẹn với Chúa.
“Khi cầu nguyện, con hãy vào
phòng, đóng cửa lại và cầu nguyện với Cha con, Đấng đang ngự
trong nơi kín ẩn. Và Cha con, Đấng thấu suốt mọi kín ẩn, sẽ trả
công cho con’’ (Mt.6, 6)
Có phải Chúa Giêsu đòi
phải có một căn phòng riêng để cầu nguyện không? Nếu thế thì
những người nghèo, những người không thể có một căn phòng riêng
không thể cầu nguyện nội tâm với Chúa sao? Không phải thế đâu,
nhưng chính là trạng thái hồi tâm. Hay nói rộng ra là sự giảm
trừ thế giới ngoại tại để tránh sự chia trí.
Như vậy là Chúa Giêsu
muốn nói với bạn: hãy vào trong chính mình bạn, hãy hồi tâm, hãy
chăm chú vào sự hiện diện vô hình và hãy cầu nguyện với Chúa,
Đấng ngự trong nơi kín ẩn. Chúa Giêsu không yêu cầu bạn tạo nên
sự trống rổng của chiêm niệm siêu vượt. Ngài chỉ đề nghị bạn gặp
gỡ một bản vị thần linh mà bạn phải gọi là Cha, Cha của bạn.
Lời cầu nguyện luôn luôn
là một cuộc gặp gỡ, một đối thoại giữa hai bản vị, có người nói
và có người nghe. Do đó, bạn có thể đặt ra cho bạn những vấn
nạn: Tôi có thực sự có một người Cha đang mời gọi tôi đi vào
trong sự thân mật của tình yêu Người không? Tôi có muốn thiết
lập sự trao đổi tín cẩn với Người không? Tôi có thể đặt cuộc đời
tôi dưới cái nhìn của Người, hơn là dưới cái nhìn của tôi hay
của những người khác không?
Vâng, Cha của bạn đang
có mặt ở đó, trong nơi kín ẩn, trong cung thánh lòng bạn. Bạn
không nghe tiếng Ngài, bạn không cảm nhận được Ngài. Bạn không
biết được chính mình và bạn cũng không biết Ngài đang ở trong
bạn. Tuy nhiên, Ngài vẫn chờ đợi bạn, Ngài vẫn nhìn thấy bạn
trong kín ẩn, bằng một cái nhìn không đè nặng, nhưng như sự ve
vuốt của bàn tay trẻ thơ. Nếu bạn chấp nhận đưa nội tâm bạn trở
về với Ngài, Ngài sẽ ‘’trả công’’ cho bạn. Nhưng bạn đừng lo âu,
ở đây không có gì là tính toán, là mặc cả hết. Phần thưởng (trả
công) mà Ngài chuẩn bị cho bạn chính là sự khám phá ra Vương
quốc Tình Yêu. Khi bạn thông hiệp với Ngài, bạn sẽ thừa hưởng
món quà vô giá Ngài dành cho các bạn yêu dấu: thông dự vào sự
sống thần linh của Ngài, trong lửa yêu mến của Chúa Thánh Thần
và trong ánh sáng dẫn đường của Chúa Giêsu.
Có lẽ bạn sẽ nói rằng
việc cầu nguyện ‘’trong phòng’’ mỗi ngày như thế không phải dễ.
Đúng thế! Đâu đâu người ta cũng gặp cùng một khó khăn tương tự,
bởi vì sự hồi tâm tĩnh lặng làm cho người ta buồn chán. Và để
thoát khỏi buồn chán, người ta tìm trải lướt trên bề mặt cuộc
sống. Tính ham hoạt động không ngừng đẩy chúng ta choán lấy thời
gian hay giết chết thời gian. Xã hội hưởng thụ tìm gia tăng thêm
mãi những phương tiện kỹ thuật và cơ hội để giải khuây. Người
trẻ ngày càng bị lôi cuốn bởi nhịp độ hấp dẫn của thời trang,
của quảng cáo, của vidéo, truyền hình, phim truyện, âm nhạc, thể
thao. Một cơn lốc mãnh liệt khó mà thoát ra được!
Chúa Giêsu đã nói rằng
các môn đệ của Ngài ở trong thế gian nhưng không thuộc về thế
gian (Jn.17: 14-18). Đó là vấn đề hệ trọng phải giải quyết. Dĩ
nhiên giới trẻ phải quan tâm khám phá đúng chiều kích của thế
giới hiện đại, làm quen với tin học và tất cả những kỹ thuật cao
cấp, theo đuổi những học hỏi đem lại địa vị tốt, v.v. Nhưng cuối
cùng nhìn lại thì thấy có một cái gì đó không xuôi chảy, cần
phải lìa bỏ một chút bề mặt để đi vào chiều sâu của cuộc đời.
Cái đáng ngại nhất là
đời sống nội tâm có thể bị mắc bẩy bởi dáng vẻ giả tạo bên ngoài
của một chiều sâu. Viện cớ đào sâu những mầu nhiệm của Thiên
Chúa, người ta cẩn thận giam mình trong cái bong bóng nước chỉ
lướt sà trên bề mặt. Chẳng hạn nói là rút lui về phòng riêng
cách khôn ngoan để cầu nguyện với Chúa trong kín ẩn, nhưng rất
có thể bạn tìm được ở đó tiện nghi hay một sự lôi cuốn mãnh liệt
nào đó, hoặc bạn có tính khí co mình lại khiến bạn thích thú sự
thinh lặng, cô tịch, suy tư. Và như thế, bạn có mọi điều kiện lý
tưởng để tạo nên và ẩn núp trong cái bong bóng nước của bạn!
Thay vì cầu nguyện dưới cái nhìn của Chúa, bạn có thể độc thoại
dưới cái nhìn của chính bạn, hay của những người khác.
Tới lúc phải thoát ra
khỏi cái bong bóng nước đó. Tất cả chúng ta đều có thể đã phải
ngang qua đó, bằng cách nầy hoặc bằng cách khác. Hãy cẩn thận để
không thích thú ở mãi trong đó. Dấu hiệu của một lời cầu nguyện
nội tâm đích thực là không bao giờ nó làm cho chúng ta tự đóng
mình lại, nhưng nhất thiết mở rộng chúng ta ra với tình yêu của
Thiên Chúa và tha nhân.
Bầu trời trong
phòng biệt giam
Một mình trong phòng biệt giam, mọi sự
trở nên đen tối vì thất vọng, vì thù hận, một sự tệ hại còn lớn
hơn sự tệ hại khiến người ta phải vào đó. Chúa Giêsu đã nói tới
‘’phòng cầu nguyện.” Đây cũng là ‘’phòng’’, làm sao có thể cầu
nguyện trong nơi quên lãng nầy? Không phải để lý tưởng hóa nhà
tù, nhưng nhiều chứng từ cho hay phòng giam cũng có thể là nơi
cung thánh gặp gỡ Thiên Chúa. Phòng giam bắt buộc tù nhân đối
mặt với cái chính yếu của cuộc đời. Anh tự do phủ nhận Ngài,
chọn lăng mạ Ngài hay cầu nguyện với Ngài. Nhưng anh bị đặt
trần trụi trước sự chọn lựa căn để nầy. Vì vậy mà anh khám phá
ra sự hiện diện của Thiên Chúa. Đây là lời thố lộ của một tù
nhân: “Dường như tôi không còn cô đơn nữa trong phòng biệt giam.
Vâng, tôi không diễn tả được, có cái gì như một cuộc thăm
viếng... Sự giam cầm đã bắt tôi trực diện với cái chính yếu...’’
Trong phòng anh có một cuốn Kinh Thánh
do một linh mục bạn gởi cho. Sau nhiều thời gian tìm kiếm và đối
kháng, nhờ đọc Lời Chúa và thư người bạn linh mục gởi hàng
tháng, cuối cùng anh thách thức với vị Chúa Không Biết ấy. Anh
ra hẹn với Ngài vào hai giờ sáng, mà chẳng tin tưởng chi bao
nhiêu, đúng hơn là anh muốn thoát khỏi một vấn nạn cứ quấy nhiểu
đầu óc anh mãi.
Thế rồi vào đêm 18.6.1972, một tiếng nói
nội tâm dội lên trong anh như trong một đường hầm: “Hai giờ
rồi, chúng ta đã có hẹn!’’ Sau khi kiểm tra không phải tiếng
người canh tù, anh lại nghe tiếng ấy: “Đừng cứng tin. Ta là
Thiên Chúa của anh, Thiên Chúa của mọi người.’’ Anh kể lại:
‘’phòng biệt giam nhỏ bé, tăm tối của tôi biến đi dần dần, không
còn nữa trần và tường ngục tù, mà là một bầu trời trong
phòng biệt giam. Một ánh sáng đẹp không thể diễn tả soi chiếu
cho tôi nhìn thấy Đấng Chịu Đóng Đinh, Ngài tỏ cho tôi các vết
thương và bảo: “Cũng là để cho anh nữa đó.’’ Từ lúc ấy, tôi quỳ
gối xuống và cầu nguyện lần thứ nhất trong đời tôi. Cuối cùng
tôi khám phá được niềm vui của ơn tha thứ.’’ Và như thế, trong
bốn bức tường của phòng biệt giam, anh trở thành con người tự do
mãi mãi, một người môn đệ Chúa Kitô và là một con người cầu
nguyện.
Phòng -
cuộc sống của bạn
Chúa đến tìm gặp bạn bất cứ bạn ở đâu,
bất kể bạn như thế nào, trong cuộc sống mọi ngày của bạn. Bạn
được tự do hoạt động, không bị đóng chặt trên giường bệnh, cũng
không bị nhốt vào trại giam, tiếng mời gọi của Chúa vẫn vang lên
cho bạn trong tất cả tự do: “Con hãy vào phòng con, đóng cửa lại
và cầu nguyện với Cha con đang ngự trong kín ẩn, và Cha con thấu
suốt mọi kín ẩn sẽ trả công cho con.’’
Bạn hãy nhìn xem các thầy Dòng, họ cũng
học khám phá ‘’một bầu trời trong phòng tu’’. Họ đã tự do chọn
lựa ép mình trong một vòng rào, một giới hạn tự do thể lý. Tuy
nhiên, khi vào một tu viện, bạn sẽ bị đánh động bởi sự tỏa chiếu
của những người môn đệ Chúa Kitô đó, bạn sẽ cảm thấy lời cầu
nguyện đối với họ trở thành như khí thở. Trong những Dòng chiêm
niệm nhất, mỗi người cầu nguyện, ăn uống, làm việc và ngủ nghỉ
trong phòng riêng của mình, những hoạt động chung rất ít. Đối
với các tu sĩ nầy, phòng riêng của họ trở thành một thánh địa,
một nơi thánh để chết và sống lại, như mộ của Chúa Kitô! Trong
thinh lặng và cô tịch có Thiên Chúa ngự trị, họ khám phá được
bước khởi đầu của Thiên Đàng.
Trong cuộc sống thường ngày giữa thế
gian thì khó hơn. Nhưng không có một nơi nào mà lời cầu nguyện
bị loại trừ, bởi vì căn phòng sâu thẳm chính là căn phòng trái
tim bạn. Bạn có thể cầu nguyện bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào.
Mỗi người bắt đầu khi nào và ở đâu mình có thể, cho lời cầu
nguyện dần dần xâm chiếm tất cả cuộc sống mình.
Tôi rất xúc động khi đọc chứng từ đẹp đẽ
của một thiếu nữ được giáo dục trong một môi trường hoàn toàn vô
thần, nơi mọi biểu hiện tôn giáo đều bị cấm triệt để, ấy thế mà
nàng đã khám phá được sự hiện diện của Thiên Chúa trong chùng
lén. Nàng nói: ‘’Tôi đã sớm biết nguyện gẫm khi thưa chuyện với
Thiên Chúa Không Biết, vì lúc đó không ai dạy cho tôi chút gì
cả. Để làm việc đó, tôi vào phòng vệ sinh và đóng cửa lại, tránh
mọi tiếng động có thể, vì ngay cả ở đó cũng bị cấm đoán. Tôi quỳ
gối xuống sàn và nói: “Chúa ơi, con yêu mến Chúa hết lòng con!’’
Một nhà tu đức đã viết: “Tìm lại con
đường về trái tim mình là nhiệm vụ quan trọng nhất của con
người.’’ Đáng buồn thay con đường đó nhiều khi đã biến mất,
giống như một con đường mòn trong rừng đã từ nhiều năm không có
người qua lại. Bây giờ, nhiều chướng ngại do tội lỗi đã ngăn
chặn lối đi. Vì thế, chúng ta cần đến những con người đã thành
công trong việc khai phá hành trình thiêng liêng trong chính
cuộc đời họ. Họ sẽ chỉ cho chúng ta con đường. Họ sẽ dạy cho
chúng ta giải tỏa nội tâm chúng ta mà không bị lạc lối. Những
nhà khai phá đó là các thánh.
Tôi nghĩ đến Thánh Gioan Thánh Giá. Ngài
đã so sánh cuộc sống cầu nguyện kết hợp với Chúa như con đường
trèo lên đỉnh núi. Ngài nhấn mạnh sự từ bỏ triệt để mọi khát
vọng nhân loại để giúp chúng ta chỉ tập trung vào tình yêu của
một mình Thiên Chúa. Ngài nói về linh hồn, hình ảnh của Thiên
Chúa. Ngài còn đi xa hơn nữa khi dám nói: Trung tâm của linh hồn
là chính Thiên Chúa. Ngài không đồng hóa Tạo Hóa với tạo vật nhỏ
bé của Người, nhưng ngài tin rằng hạnh phúc lớn nhất của linh
hồn là càng ngày càng tập trung vào Thiên Chúa.
Hãy cùng nhấn mạnh đến mầu nhiệm bản vị
con người. Nơi mỗi con người đều có mặt biểu kiến bên ngoài và
mặt giấu ẩn bên trong, ngoại giới và nội tâm. Lời cầu nguyện
sống động lôi kéo bạn trên hành trình thiêng liêng vào với ‘’con
người ẩn giấu trong đáy lòng bạn’’ (1P.3:4). Mẹ Thánh Têrêxa
nói: ‘’Nếu con đi đến tận cùng thế giới, con sẽ gặp được dấu vết
của Thiên Chúa; nhưng nếu con đi vào tận đáy lòng con, con sẽ
gặp được chính Ngài’’. Trong sâu thẳm nhất của lương tâm bạn
đang ẩn giấu một cung thánh, ở đó Thiên Chúa đang nói với bạn.
Ngài không ngừng thúc giục bạn ‘’làm điều lành, tránh điều dữ’’.
Đó là lời nói phổ quát nhất, chung cho tất cả mọi người, cả
những người không nhận biết Thiên Chúa, ngay cả những người
chống lại Ngài. Nhưng Chúa còn muốn đi xa hơn nữa và nói với bạn
lòng bên lòng.
‘’Làm sao đạt tới
được mức đó?’’
Chính Thiên Chúa sẽ cho bạn phương tiện.
Thần Trí của Ngài đến gặp lòng trí bạn, trong sự trao đổi tình
yêu, ngày càng mật thiết hơn. Tất cả tùy thuộc vào phẩm chất
tình yêu mà bạn đáp trả lại Ngài. Tình yêu mời gọi tình yêu. Hầu
như tất cả mọi người đều mơ tưởng đến tình yêu, mong ước một
tình yêu vừa biết cho đi vừa biết nhận lãnh. Nhưng ai lại không
thất vọng vì thiếu tình yêu? Chính bạn, bạn có yêu thương như
chính bạn mong ước không? Nhiều cái giảm trừ tình yêu xuống
thành một khát vọng ích kỷ, trái với Tình Yêu. Ai mạc khải cho
chúng ta tình yêu đích thực và dạy cho chúng ta cách thực hành?
Cho đến hôm nay, tôi chỉ biết có một người, đó là Chúa Giêsu,
‘’Đấng đã yêu tôi và đã hiến mình cho tôi’’.
Thực tế, tự mình, con người không biết
yêu thế nào cho phải. Con người cần đến sự huấn luyện cấp tốc
của Trường Cao Đẳng Tình Yêu. Trường cao đẳng do Thiên Chúa sáng
lập đó chỉ có một thầy dạy là Chúa Kitô, và chỉ có một chương
trình là Phúc Âm. Bạn có muốn vào trường đó không? Trường miễn
phí... tuy nhiên cũng có một giá phải trả: trao ban trái tim
bạn, cho đến cả sự sống của bạn trọn vẹn nữa.
Hành trình thiêng liêng bạn đã đi vào
giả thiết phải có một sự tiến bộ liên tục trong tình yêu: bạn
nhận lãnh tình yêu của Chúa, bạn để Chúa biến đổi bạn và bạn
chia sẻ tình yêu đó với tha nhân. Lời cầu nguyện của bạn chỉ
thực sự có tính cách công giáo khi nó chấp nhận chảy xuôi dòng
tình yêu, đến từ Thiên Chúa và trở về với Ngài, ngang qua con
người. Như tiên tri Êdêkien thấy nước chảy từ bên phải Đền Thờ
và tưới gội cho tất cả mọi sự trên dòng chảy của nó, bạn cũng sẽ
thấy tình yêu lớn dần lên trong cuộc đời bạn, và nó sẽ mang bạn
đi đến nơi Chúa muốn. Bấy giờ nếu có ai hỏi bí quyết của bạn thì
bạn sẽ đáp lại: Đó là tình yêu của Chúa được kín múc trong trái
tim tôi bằng lời cầu nguyện.
Ngỡ ngàng và tạ ơn
Con cám ơn Chúa,
vì Chúa đã muốn canh giữ
cho cung thánh linh hồn con
khỏi những gì xấu xa nhơ bẩn xâm nhập
vào.
Con cám ơn Chúa,
vì Chúa đã không để
bất cứ vết thương nào con người gây nên
làm biến dạng khu vườn kín đáo nầy,
để chỉ một mình Chúa bước vào.
Con cám ơn Chúa,
vì mỗi lần con vấp ngã,
Chúa đã nhân từ chỉ cho
con rằng
Chúa vẫn ở trong con,
vì tình yêu của Chúa lớn
hơn tội lỗi của con.
Con cám ơn Chúa,
vì Chúa đã không để
một ý tưởng xấu hay nổi
loạn nào của con
vượt qua được cánh cửa
mà Thiên Thần Chúa canh
giữ.
Con cám ơn Chúa,
vì Chúa đã thương thanh
tẩy con,
và vẫn luôn chờ đợi con
trong cuộc gặp gỡ cuối
cùng rạng rỡ tình yêu.
Lm. Micae-Phaolô Trần Minh
Huy, pss. |
VỀ MỤC LỤC |
|
Lợi Hại của Chất Béo |
Ngày 31 tháng 10, 2007
vừa qua truyền thông khắp nơi đều loan báo một tin quan
trọng liên quan tới sức khỏe,
bệnh tật. Đó là “Tiêu thụ quá nhiều chất béo đưa tới nhiều
bệnh ung thư”. “Chất béo đang trên đường chiếm đoạt
ngôi vị số một của thuốc lá trong việc gây ra bệnh ung thư
tại Hoa Kỳ”. “Dư chất béo là nguyên nhân gây ra 1/3 các
trường hợp ung thư”. “Các bác sĩ và nhà dinh dưỡng đều đồng
ý là có sự liên hệ giữa chất béo và ung thư”…
Đây là họ muốn nói đến
kết quả việc làm của 21 nhà khoa học nổi tiếng trên thế
giới, do Viện Nghiên cứu Ung Thư Hoa Kỳ và Quỹ Nghiên Cứu
Ung Thư Thế giới tài trợ.
Trong 5 năm tận tụy, họ
đã tỉ mỉ duyệt xét hơn 7000 nghiên cứu trên khắp thế giới kể
từ năm 1960 tới nay về sự liên hệ giữa chất béo với ung thư.
Kết quả phân tích dầy 517 trang
“Food, Nutrition, Physical Activity and the
Prevention of Cancer: a Global Perspective” được công bố tại
thủ đô Washington ngày thứ Tư 31-10-2007 và được lưu trữ
trên các mạng điện tử.
Bác sĩ Steven Zeisel,
Giám Đốc viện Nghiên Cứu Dinh Dưỡng Đại học North Carolina
đồng thời cũng là nhà chuyên môn của nhóm cho biết: “Điều
mới lạ của báo cáo này là các nhà khoa học lỗi lạc trên thế
giới đã duyệt xét các dữ kiện của nhiều nghiên cứu và khi
tổng hợp lại, chúng tôi nhận thấy dư thừa chất béo trong cơ
thể tăng rủi ro gây ra bệnh ung thư”.
Chính xác hơn, bác sĩ
Walter C. Willett của Đại học Y tế Công Cộng Harvard tuyên
bố: “Tiêu thụ chất béo quá mức độ hoặc quá số lượng hợp lý
sẽ tăng rủi ro các bệnh ung thư thận, đại tràng, tuyến tụy,
cuống họng, và niêm mạc tử cung và ung thư vú ở phụ nữ sau
tuổi mãn kinh”. Theo vị bác sĩ này, nếu chỉ ăn 600gr (18
ounces) thịt đỏ (thịt bò,
heo, cừu) mỗi tuần lễ thì an toàn, nhưng cứ mỗi 55gr
(1.7ounces) thịt đỏ ăn thêm thì rủi ro ung thư sẽ tăng 15%.
Giáo sư Sir Michael
Marmot, chủ tọa nhóm khoa học gia nghiên cứu khuyên: “Chúng
tôi đề nghị mọi người giữ một thân hình càng khỏe mạnh rắn
chắc càng tốt và tránh quá mập phì ở tuổi trưởng thành. Điều
này có vẻ như khó khăn, nhưng đấy là điều mà khoa học nói
cho ta hay một cách rõ ràng hơn bao giờ”.
Trong thời
gian từ 1990 tới 2005, tỷ
lệ béo phì tại nhiều quốc gia kỹ nghệ giầu có đã tăng gấp
đôi.
Thực ra, trước đây cũng
đã có nhiều nghiên cứu nói tới sự liên hệ giữa dinh dưỡng,
sức nặng cơ thể với ung thư, nhưng công bố này rất đáng
thuyết phục (convincing) vì nó là đúc kết của nhiều bằng
chứng khoa học về vấn đề này.
Các khoa học gia cũng bác
bỏ ý kiến dủng supplement để phòng tránh ung thư, vì nguồn
dinh dưỡng tốt nhất vẫn là từ thực phẩm nước uống tự nhiên,
chứ không phải từ thực phẩm phụ thêm.
Trước kết quả này, tiến
sĩ Randy Huffman, Phó Chủ tịch American Meat Institute, phản
bác “Kết luận của bản báo cáo rất cực đoan, không căn cứ và
trái ngược hoàn toàn với hướng dẫn về dinh dưỡng của chính
phủ Hoa Kỳ”. Ông bảo vệ ý kiến là thịt đỏ, thịt chế biến
không gây ra ung thư và cũng đề nghị mọi người nên ăn cân
bằng các chất dinh dưỡng, vận động cơ thể mỗi ngày và giữ
cân nặng trung bình để có sức khỏe tốt.
Chắc là sẽ còn nhiều
nghiên cứu và ý kiến khác về vấn đề này.
Trong khi chờ đợi kết
luận chung, xin cùng tìm hiểu về lợi hại của chất béo, qua
các dữ kiện đã có.
Chất
béo là gì
Về phương diện dinh
dưỡng, chất béo (lipid) là một
trong ba nhóm thực phẩm chính yếu và là nguồn năng lượng
quan trọng cho cơ thể. Chất béo là danh từ gọi chung cho mỡ
động vật, dầu ăn thực vật và sáp (wax).
Trong thực
phẩm, mỡ và dầu có cùng cấu trúc và hóa tính nhưng lý tính
khác nhau: ở nhiệt độ bình thường, dầu thì lỏng, mỡ lại đông
đặc.
Mỗi gram
chất béo đều cung cấp một số năng lượng như nhau là 9 Kcal.
Chất béo
được cấu tạo bởi các acid béo (fatty acid). Đây là những hợp
chất hữu cơ có carbon, hydrogen và oxygen. Số lượng hydrogen
trong mỗi phân tử quyết định đó là chất béo bão-hòa hoặc
bất- bão- hòa.
Acid béo
nào có số lượng hydrogen tối đa thì gọi là acid béo bão-hòa
(saturated).
Acid béo
nào thiếu một vài nguyên tử hydrogen thì gọi là acid béo
dạng đơn -bất-bão- hòa ; thiếu trên 4 nguyên tử hydrogen thì
là đa- bất- bão- hòa.
Ba dạng
acid béo này kết hợp với glycerol để tạo thành một chất hóa
học gọi là triglyceride. Triglycerids chiếm 98% tổng số acid
béo trong thực phẩm có chất béo, phần còn lại là cholesterol
và phospholipid.
Chất béo
bão-hòa có nhiều trong thịt động vật,
bơ, pho mát cứng, dầu cây cọ (palm), dầu dừa (coconut).
Chất béo đơn- bất- bão-
hòa có nhiều trong dầu olive, dầu cải (canola); trái bơ
(avocado), các loại hạt có vỏ
cứng (nut) và hạt giống (seed).
Chất béo đa-bất- bão- hòa
có nhiều trong ngô, dầu đậu nành, dầu cây rum (safflower),
dầu cá.
Chất béo bão- hòa có khả
năng tạo cholesterol trong máu cho nên người ta thường hạn
chế.
Chất béo đa- bất-bão- hòa
trong thực phẩm có khả năng hạ cholesterol trong máu nhưng
các chất béo bão hòa lại có khả năng tăng cholesterol lên
gấp đôi.
Vai trò
đối với cơ thể
Bốn phần trăm sức nặng cơ
thể là chất béo, trong các bộ phận, cơ bắp, hệ thần kinh
trung ương. Đó là các chất béo cần thiết (essential) vì các
cơ quan này sẽ ngưng hoạt động nếu không có chất béo.
Nam giới nên duy trì tỷ
lệ từ 8-25% chất béo, nữ từ 19-35%. Lực sĩ hơi thấp hơn,
nhưng nếu xuống dưới 5% cho nam và 16% nữ thì không tốt cho
sức khỏe và vận động kém đi.
Người mập phì có tỷ lệ chất béo trên 30%.
Chất béo
thường bị dư luận dân chúng cũng như một số nghiên cứu khoa
học cho là thành phần không tốt đối với sức khỏe con người,
nếu dùng quá nhiều.
Với mức
tiêu thụ vừa phải, chất béo rất cần cho cơ thể với các chức
năng sau đây:
a-
Chất béo là nguồn năng lượng quan trọng cho các chức năng
của cơ thể (ngoại trừ tế bào thần kinh não tủy mà đường
glucose là nguồn năng lượng chính yếu). Chỉ với 20 g chất
béo tồn trữ là ta có đủ năng lượng làm việc trong một ngày.
b-
Chất béo tham dự vào nhiều phản ứng sinh hóa học trong cơ
thể, cần thiết cho sự tăng trưởng của trẻ em, là thành phần
để tạo ra testosterone, estrogens, acid mật, là màng bọc của
các tế bào, làm trung gian chuyên chở các phần tử dinh
dưỡng, là dung môi hòa tan nhiều loại sinh tố như A, D, E,
K và giúp ruột hấp thụ các sinh tố này.
c-
Một acid béo rất cần thiết mà cơ thể không tự tổng hợp được
và phải được thực phẩm cung cấp là linoleic acid. Thiếu chất
này, da bị viêm và khô, bong vẩy, sự tăng trưởng cơ thể
giảm; nước tiêu thụ nhiều và bị ứ lại trong
cơ thể và khả năng sinh sản có thể gặp rối loạn.
d- Về ẩm thực, con người thích ăn chất béo vì
chúng làm tăng hương vị đậm đà cho món ăn, làm món ăn trông
hấp dẫn hơn. Nấu nướng với một miếng
thịt có nhiều vân mỡ tạo ra một
món ăn mềm ngon mà không phải nêm ướp.
e-
Chất béo lại chậm tiêu, no lâu đồng thời kích thích ruột
tiết ra hóa chất cholecystokinin. Chất này tác động lên não
bộ làm giảm khẩu vị, tạo ra một cảm giác no đủ, khiến cho ta
không muốn ăn nữa. Vì thế, nếu giảm số lượng chất béo xuống
dưới 20% tổng số năng lượng cung cấp để giảm cân, ta sẽ mau
đói và sẽ ăn nhiều hơn. Hậu quả là sẽ tăng cân thay vì giảm.
Muốn khắc
phục điều này, khẩu phần ăn cần được tăng cường chất xơ có
trong rau và trái cây để làm “chất độn”.
g- Mô mỡ có ở dưới da bảo vệ sự thất thoát nhiệt
của cơ thể; là lớp bao che và chống đỡ cho các cơ quan như
mắt, thận; hiện diện trong màng tế bào, trong các thớ thịt
Như vậy, với các vai trò
kể trên, ta thấy là chất béo cần thiết cho cơ thể.
Vấn đề là ta phải tổ chức
các buổi ăn như thế nào để cung cấp đủ năng lượng cho nhu
cầu của cơ thể, với một tỷ lệ chất béo hợp lý, vừa phải để
tránh hậu quả của dư thừa, mập phì..
Hậu quả
của dư thừa chất béo
Chất béo
chỉ trở thành có hại khi
con người lạm dụng
chúng hoặc ăn các chất dinh dưỡng khác quá với nhu cầu của
cơ thể mà lại không vận động, tiêu dùng. Năng lượng từ các
chất này sẽ tích tụ thành những lớp mỡ béo ở vùng mông, vùng
bụng, đưa tới mập phì.
Mập phì là là khi cân
nặng cơ thể quá mức trung bình khoảng 20%.
Chính
xác hơn, Viện Sức Khỏe Hoa Kỳ xác
định mập là khi chỉ số khối lượng cơ thể (body mass
index-BMI) ở mức 30 kg/m2 hoặc cao hơn, lý tưởng là trong
khoảng 21- 22 kg/m2.
Muốn tính
BMI, chia sức nặng kilo cho bình phương chiều cao tính theo
mét.
BMI dưới
18.5 là thiếu ký; từ 18.5- 24.9 là trung bình, từ 25- 29.9
là quá kí, trên 30 là béo phì bệnh hoạn.
Đo vòng
bụng cũng là một chỉ dẫn béo gầy: nam từ 102cm (37 inc)
trở lên, nữ từ 88cm (31.5 inc) là có nhiều rủi ro. Nên
đo ở eo/ thắt lưng, ngay trên xương hông là chính xác.
Ngoài ra
cũng có phương pháp để phân tích chất béo cơ thể như đo độ
dầy của da với thước cặp (skinfold caliper) hoặc bằng luồng
điện sinh học
(Bioelectrical Impedance- BEI).
Ngoài số lượng, địa điểm
mà chất béo trụ cũng quan trọng: ở nam giới chất béo thường
tụ chung quanh bụng với hình dạng như trái táo; nữ giới ở
vùng hông, có hình dạng như quả lê.
Béo phì ở vùng
bụng đưa tới nhiều rủi ro bệnh
tật hơn vì chúng tung những chất béo có hại vào mạch máu,
đưa tới cao huyết áp, tắc nghẽn động mạch rồi bệnh tim.
Quá nhiều
chất chất béo giữa các cơ quan trong bụng (visceral fat) là
rủi ro của tiểu đường loại 2, bệnh tim và cao cholesterol
trong máu.
JoAnn
Manson, một chuyên gia Dịch Tễ tại Đại học Harvard có ý kiến
là “Dù chỉ béo vừa phải cũng đưa tới nguy cơ sớm tử vong ”.
Người mập
phì thường hay mau mệt, hụt hơi thở nhất là trong khi ngủ
hoặc làm việc nặng; thiếu sức sống; đau nhức xương thịt. Họ
cũng hay bị bệnh tiêu hóa, bệnh tim, tiểu đường loại 2, xơ
gan, sưng phổi, viêm sỏi túi mật, giãn tĩnh mạch, cao huyết
áp, lâu lành vết thương, thống phong, hiếm muộn, giảm khả
năng đề kháng với bệnh tật, hội chứng Pickwickian với mập
phì, đỏ mặt, hụt hơi thở và chóng mặt...
Mập phì
cũng tăng nguy cơ ung thư vú, tử cung, nhiếp tuyến, ruột
già, thực quản. Riêng nguy cơ ung thư vú tăng rất cao ở phụ
nữ lên cân vào
tuổi đôi mươi và vào thời kỳ mãn kinh.
Ngoài ra cũng còn phải
nói tới ảnh hưởng tâm lý, buồn bực khi bị chế diễu mập thù
lù như cái cối xay lúa, không hấp dẫn hoặc kỳ thị trong việc
làm, ở trường học…
Phải
làm gì.
Trở lại với vấn đề ung
thư do quá nhiều chất béo trong cơ thể.
Sau khi trình bầy kết quả
nghiên cứu, 21 khoa học gia đưa ra 10 ý kiến để phòng tránh
rủi ro ung thư vì tích tụ quá nhiều
chất béo trong cơ thể:
1- Hãy cố gắng duy trì sức nặng cơ thể trung
bình;
2- Hãy vận động cơ thể đều đặn mỗi ngày;
3- Giới hạn tiêu thụ thực phẩm có nhiều calori,
tránh nước uống có đường, bánh ngọt bánh nướng, khoai tây
chiên, bơ gơ, thịt lườn lợn muối bacon;
4- Ăn nhiều thực phẩm gốc thực vật;
5- Giới hạn thịt đỏ và tránh thịt chế biến như
thịt nguội, bacon;
6- Giới hạn rượu;
7- Giới hạn tiêu thụ muối; tránh ngũ cốc mốc meo
(có chất độc aflatoxins).
8- Cố gắng đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng qua thực
phẩm tự nhiên
9- Phụ nữ trong thời kỳ sanh đẻ nên nuôi con bằng
sữa mẹ vì cho con bú giảm vài hormon có liên hệ tới ung thư
(báo cáo đầu tiên về ích lợi này) và giảm béo phì ở con;
10- Bệnh nhân thoát khỏi bệnh ung thư nên tuân
theo các hướng dẫn về dinh dưỡng, sức nặng và vận động để
phòng tránh ung thư mới cũng như bệnh mãn tính.
Mặc dù khuyến cáo này
nhắm vào dân chúng tại Hoa Kỳ, nhưng các ý kiến về ăn uống
và vận động có thể áp dụng cho mọi người tại mọi quốc gia.
Lý do là tại các quốc gia phát triển cũng như đang phát
triển, dịch mập phì đều trên đường gia tăng.
Giáo sư Martin Wiseman,
Giàm Đốc dự án nghiên cứu góp ý: “Nếu mọi người làm theo các
đề nghị của chúng tôi, họ có thể tin chắc rằng đã tuân theo
những lời khuyên quý giá nhất có thể có, căn cứ vào tất cả
các nghiên cứu khoa học đã được thực hiện cho tới thời điểm
này”.
Chúng ta hãy thử thực
hiện lời nhắc nhở của vị khoa học gia có tên Wiseman- “Người
Khôn Ngoan” này, biết đâu chẳng phòng tránh được căn bệnh
hiểm ác Ung thư.
Bác sĩ
Nguyễn Ý-Đức
Texas- Hoa Kỳ.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
ÐỨC ÔNG… CHỒNG
Chuyện phiếm của Gã Siêu |
Nếu có người nào mở miệng mà bảo :
- Đờn bà con gái khổ ơi là khổ.
Gã sẽ phùng má trợn mắt cực lực phản đối
cho tới cùng, bởi vì :
- Ai bảo đờn bà con gái là khổ, đờn bà con
gái sướng lắm chứ. Chỉ cánh đờn ông con giai mới thực sự khổ mà
thôi.
Trước hết, gã xin kể lể qua quít về nỗi
sướng của phe đờn bà con gái.
Trong những năm gần đây, một số những ngày
lễ của Tây phương đã được du nhập vào Việt Nam và phần lớn
những ngày lễ này chỉ làm lợi cho phe đờn bà con gái và tôn vinh
hình ảnh của người phụ nữ. Còn cánh đờn ông con giai ấy hả ? Vào
những ngày húy kỵ và hú…vía ấy, thì hãy cúi đầu xuống như…muông
chim.
Thứ nhất là ngày mười bốn tháng hai, tục
gọi là ngày lễ tình yêu, ngày hội tình nhân, tiếng Ăng lê gọi đó
là “St Valentine’s day”, ngày kính ông thánh Valentinô. Còn giới
trẻ thì gọi một cách ngắn gọn là ngày Valentine.
Mở sách vở ra “ngâm kíu”, gã ghi nhận có
tới ba ông thánh Valentinô được mừng kính vào ngày mười bốn
tháng hai. Ông thánh Valentinô, linh mục tử đạo tại Rôma vào năm
270. Ông thánh Valentinô, giám mục Terni, tử đạo vào năm 273.
Ông thánh Valentinô giám mục, vị tông đồ miền Tyrol, qua đời vào
năm 74. Chẳng biết vị thánh nào đã phò trợ cho những người đang
yêu, chỉ biết rằng trong ngày đáng nhớ này, những anh con giai
nào trót có bồ, thì liền phải ba chân bốn cẳng chạy vội đi mua
lấy ít nhất một bông hồng mà tặng cho người yêu bé bỏng.
Và nếu trong ví còn rủng rỉnh tí tiền còm
thì cũng hãy nổi máu ga lăng, xin phép thầy bu đưa em đi bát
phố, ăn cơm tối ở nhà hàng, xơi chè chổm hổm ở quán đầu ngõ, hay
mần một tô…phở nhé, cả hai cùng húp sùm sụp. Ớt cay xè, chảy cả
nước mũi và nước mắt. Tình phải biết !
Ngày thứ hai là ngày mồng tám tháng ba,
được gọi là ngày quốc tế phụ nữ. Theo lịch sử, thì đó là ngày
đờn bà con gái đấu tranh, hay nói một cách nôm na, thì đó là
ngày phụ nữ vùng lên đòi quyền sống cũng như đòi quyền…sướng.
Trong ngày ảm đạm và u ám này, những anh
chồng phải tỏ ra mềm nhũn trước bà xã của mình. Nào là phải đi
chợ đi búa, rồi lại còn phải nấu với nướng, giặt với giũ, dọn
với dẹp từ trong nhà cho ra đến tận ngoài ngõ… cho đúng với cốt
cách :
- Làm trai, rửa bát quét
nhà,
Vợ gọi thì dạ, bẩm bà…em
đây.
Sở dĩ có cảnh tréo cẳng
ngỗng như vậy vì trong ngày lịch sử này bà xã không phải chỉ là
nội tướng trong gia đình, mà còn lên ngôi nữ hoàng thống trị,
khiến ông chồng chỉ là…một con dân đáng thương.
Ngày thứ ba là Chúa nhật
thứ hai trong tháng năm, tiếng Ăng lê gọi là “Mother’s day”,
tiếng Phú lãng sa gọi là “Fête des mères”, ngày lễ của các bà
mẹ, nhằm tôn vinh công đức của giới hiền mẫu.
Trong ngày êm ả này, con
cái thường quây quần bên người mẹ hiền, chúc mừng và dâng quà
để tỏ lòng hiếu kính đối với người đã vất vả nhọc nhằn trong
việc sinh thành cũng như dưỡng dục nên mình.
Nhiều nơi vẫn giữ tục lệ
này, đó là những người mà mẹ già còn sống, khi ra đường thường
cài một bông hồng trắng trên áo, để ám chỉ rằng người ấy vẫn còn
có được một diễm phúc tuyệt vời trên đời. Chẳng thế mà Thượng
tọa Thích Nhất Hạnh đã viết một cuốn sách nhỏ trong mùa Vu lan
báo hiếu. Cuốn sách mang tựa đề “Bông Hồng Cài Áo”.
Giữa lúc phe đờn bà con gái
rôm rả và tưng bừng với những ngày lễ hội của mình : cười cười
nói nói, ấy là chưa kể tới thái độ vênh vênh váo váo nữa là đàng
khác, thì cánh đờn ông con giai cứ phải nín khe, chẳng giành lấy
được một ngày để tôn vinh giọt mồi hôi và nỗi khổ cực của những
anh chồng, của những ông bố.
Nghe đâu thiên hạ cũng định
chọn ngày mồng ba tháng tám để đối chọi lại với ngày mồng tám
tháng ba, nhưng xem ra ý đồ đen tối này đã bị thất bại ngay từ
trong trứng nước, vì chẳng ma dại nào nhớ tới cái ngày chết tiệt
ấy.
Về phương diện xã hội phe
đờn bà con gái vốn đã được bàn dân thiên hạ ưu đãi như vậy, còn
ca thán nỗi chi. Riêng về phương diện cá nhân, bản tính của
người phụ nữ cũng đã được Thượng đế cưng chiều và gã có thể nói
được rằng :
- Họ sướng từ trong bụng sướng ra.
Để diễn tả cái sự sướng ấy, một tác giả nào
đó đã đưa ra ba trường hợp điển hình, gã xin “copy” lại như sau
:
Trước hết, vừa mới sinh ra, họ liền được
xếp ngay vào “phái đẹp”, mà chẳng cần chờ ban giám khảo các cuộc
thi hoa hậu cân đo, săm soi gì hết. Rõ sướng ! Họ khoái sắm đồ
đẹp, thích đi mỹ viện, sửa đi, sửa lại : độn cái này vô, lấy cái
kia ra cũng được cho qua, bởi vì họ là phái đẹp. Còn đờn ông con
giai ấy hả ? Nếu làm như vậy thì thiên hạ lập tức xì xào :
- Rõ là đồ bóng, đồ pêđê, đồ lại cái…
Tiếp đến, thử hỏi ở phòng khám béo phì có
bao nhiều bà bụng to cỡ “thùng nước lèo’, và bao nhiêu cô hông
bự cỡ “võ sĩ sumô”, kết mô đen : vòng tròn biết đi, thùng phi di
động ? Ấy vậy mà nếu đờn ông con giai lỡ có bụng to đi chữa mập,
thì liền bị các bà các cô nhòm nhòm, ngó ngó, rồi ghé vào tai
nhau phê cho một câu :
- Bụng bia, uống bia cho đẫy vào rồi mới
vậy.
Sau cùng, họ được phép quyến rũ ta, tức
cánh đờn ông con giai, bằng các độc chiêu như ánh mắt, nụ cười,
giọng nói, thôi thì lườm lườm nguýt nguýt, nhõng nhà nhõng
nhẽo…khiến bọn mày râu vốn được gọi là phái mạnh, phái khỏe,
bỗng trở nên yếu xìu : răm rắp làm theo ý muốn của họ, cho dù có
phải vào nhà đá mà nằm bóc lịch. Thế mà dư luận lại còn lên
tiếng chê bai ta là mất đạo đức, làm bại hoại gia phong, làm tan
nát cửa nhà.
Ngoài ra, họ lại còn rất tinh khôn, đó là
thích được người khác ôm, chứ nhất định không chịu bỏ tiền ra để
mà “ôm” ai bao giờ cả !!!
Với những so sánh khập khiễng kể trên, gã
bèn nghiệm ra rằng đờn bà con gái sướng ơi là sướng, còn đờn ông
con giai khổ ơi là khổ. Thân phận phái mày râu vốn dĩ rẻ như
bèo, đã thế lại còn khó mà thực hiện được cho trọn vẹn vai trò
của mình.
Càng nghĩ gã càng cảm thấy tủi cho cánh đờn
ông con giai. Đành phải thở dài thườn thượt mà ngán với ngẩm :
- Lũ chúng ta đầu thai lầm thế kỷ.
Rồi giơ tay lên trời, lớn tiếng phân bua :
- Chúng ta sinh ra đời dưới một ngôi sao
xấu.
Và cuối cùng, dứt khoát thề với đầu gối
mình mà rằng :
- Kiếp sau xin chớ làm chồng,
Làm cây thông đứng mà trông…đờn bà.
Bây giờ, gã xin bàn đến nỗi đoạn trường đầy
cơ cực, đầy cay đắng của cánh đờn ông con giai, nhất là của
những anh chồng trong cuộc đời bất hạnh của họ.
Mỗi khi có dịp gặp gỡ, trong câu chuyện
trao đổi, mấy cha dòng thường hay chê mấy cha triều như sau :
- Các cha cứ việc xây rồi cất.
Cũng giống như mấy ông cán bộ nhà nước :
- Có làm thời mới có ăn,
Không dưng ai dễ mang phần đến cho.
Càng vẽ ra làm nhiều thì lại càng có ăn,
bởi vì mỗi dự án được thực hiện, thì mấy ông cán bộ cũng bỏ vào
túi riêng của mình chí ít là 30%.
Trong khi đó, mấy cha triều lại trách mấy
cha dòng như sau :
- Các cha cứ việc khấn hứa cho lắm vào, rồi
để tụi này phải giữ. Mặc dù bản thân các cha chẳng có gì cả,
nhưng khi cần thì lại có tất tật. Chẳng hạn các cha không có xe
riêng, nhưng nếu đi đâu, cần xe hai bánh thì có xe hai bánh, cần
xe bốn bánh thì có xe bốn bánh. Hơn thế nữa, tiền xăng dầu khỏi
phải lo vì đã có nhà dòng “bao cấp”, trang trải từ A đến Z. Sống
như vậy, thì quả thực cũng “khó…mà nghèo”.
Trong khoảng thời gian gần đây, thiên hạ
thường hay nói đến hai chữ “linh đạo” tức là con đường tu đức,
con đường nên thánh. Có linh đạo dành cho đời tu, thì cũng có
linh đạo dành cho đời thường. Có linh đạo dành cho các cha dòng
thì cũng có linh đạo dành cho những ông bố. Có linh đạo dành cho
các sư huynh, thì cũng có linh đạo dành cho những anh chồng. Có
linh đạo các bà phước thì cũng có linh đạo dành cho các bà mẹ.
Có linh đạo dành cho các ma xơ thì cũng có linh đạo dành cho các
chị vợ. Thôi thì trăm hoa đua nở, đúng như người Việt Nam chúng
ta đã diễn tả :
- Chữ tu kia cũng có dăm bảy đường :
Thứ nhất thì tu tại gia,
Thứ hai tu chợ, thứ ba tu…dòng.
Ngồi nghĩ vẩn nghĩ vơ, gã
thử so sánh đời sống của các thầy dòng với đời sống của những
anh chồng, gã bỗng nghiệm ra rằng đời sống của mấy anh chồng
gian nan hơn gấp bội so với đời sống của các thầy dòng. Mặc dù
chẳng phải khấn với hứa, thề với thốt về ba lời khuyên Phúc âm,
thế mà những anh chồng sống giữa đời, bên vợ bên con, bên xã hội
bên gia đình, đã phải tuân giữ một cách “nghiêm văn chỉnh” những
lời khuyên quí giá ấy, bởi vì nếu buông lơi đi một tí, thì sẽ
kéo theo những hậu quả trầm trọng, đến nỗi quỉ thần cũng không
lường nổi.
Thứ nhất là lời khấn
khó nghèo.
Nhìn vào thực tế, gã nhận
thấy vấn đề “đầu tiên” bao giờ cũng vẫn là vấn đề “tiền đâu”.
Nỗi ưu tư số một của nhiều người là gì nếu không phải là nỗi ưu
tư về “cơm áo gạo tiền”. Tiêu chuẩn để đánh giá sự thành đạt của
một người, ngày nay thiên hạ không còn dựa vào nhân đức hay kiến
thức, mà dựa vào lương bổng người ấy nhận được. Càng kiếm được
nhiều tiền, thì càng được coi là thành công.
Và tiền bạc đã chi phối mọi
lãnh vực, từ bản thân đến gia đình, từ tình cảm cá nhân đến chức
tước ngoài xã hội, đúng như bàn dân thiên hạ đã diễn tả :
- Tiền là tiên là Phật,
Là sức bật của người già,
Là cái đà của danh vọng,
Là cái lọng để che thân,
Là cán cân của công lý.
Như có lần gã đã nói tới
chiếc vòng luẩn quẩn :
- Người ta lấy tiền để nhử
đờn bà. Người ta lấy đờn bà để nhử đờn ông. Và người ta lấy đờn
ông để…nhử ra tiền.
Đúng thế, tự bản chất
Thượng đế đã phú bẩm cho anh con giai một thân thể “cốt xì tô”,
một thân thể cường tráng. Vì thế, anh con giai có bổn phận phải
dùng nó để lao động sản xuất, hầu đảm bảo một cuộc sống ấm no
cho bản thân cũng như cho vợ con. Tắt một lời, cánh đờn ông có
bổn phận, có nghĩa vụ phải kiếm ra…tiền!
Mặc dù không khấn khó
nghèo, nhưng thực sự phần lớn các anh chồng đều phải giữ đức khó
nghèo một cách triệt để, thậm chí còn phải giao nộp cho tới
đồng xu cuối cùng.
Nếu các thầy dòng không
được phép giữ tiền riêng cũng như không được phép tự do hưởng
dùng thoải mái những của cải vật chất, thì những anh chồng cũng
rứa và còn hơn thế nữa.
Đúng vậy, suốt năm suốt
tháng, anh chồng phải lao động cực nhọc, đổ mồ hôi sôi nước
mắt, mới kiếm được tí tiền còm. Thế nhưng với số tiền còm này,
anh chồng đừng hòng tơ tưởng mà trích ra một phần nhỏ để làm quĩ
riêng hay để nhậu nhẹt đàn đúm với bầu bạn bốn phương. Trái lại,
phải mau mắn đem về nộp cả cho chị vợ, không thiếu một đồng,
không hụt một xu.
Cái “đài” của chị vợ suốt
ngày ca đi ca lại bản nhạc vật giá leo thang, gạo châu củi quế :
tiền chợ tiền búa, tiền điện tiền nước, tiền mắm tiền muối, tiền
thuốc tiền thang, tiền học tiền phí…thôi thì trăm thứ lỉnh kỉnh,
khiến anh chồng chẳng còn dám “của chung ai khéo vẫy vùng thành
riêng”, bằng cách ăn bớt, ăn xén…
Mà chị vợ thì lại rất giống
kho bạc của nhà nước. Giao tiền thì hồ hởi, còn lấy tiền thì
nhăn nhó. Nộp tiền dễ dàng, còn rút tiền thì nhiêu khê. Nghĩa là
có đầu vào mà chẳng có đầu ra. Thậm chí ngay cả đến những nhu
cầu chính đáng như tiền cà phê, tiền xăng dầu…anh chồng cũng
phải gãi đầu gãi tai bẩm báo và xin xỏ với bà xã. Và thế là đi
đoong tất cả, ta mất luôn chủ quyền trên cái ta đã chắt chiu…mần
ra.
Thứ hai là lời khấn
trong sạch và khiết tịnh.
Chuyện rằng : Có một cậu bé
được vị ẩn sĩ đưa lên núi từ thưở nhỏ. Ngày ngày tu hành học
đạo, xa tránh cuộc sống trần gian. Cho đến ngày kia, cậu bé trở
thành một thanh niên khỏe mạnh và cường tráng. Vị ẩn sĩ mới
quyết định đem cậu ta xuống núi để thử thách.
Cuộc sống phàm tục có nhiều
điều mới lạ khiến cậu ta hết sức ngạc nhiên và thích thú. Gặp
bất cứ điều gì, cậu ta cũng ngắm nghía và hỏi han thầy mình.
Trên đường về, gặp mấy cô
gái vừa cấy lúa vừa cất tiếng cười trong trẻo, cậu ta liền hỏi :
- Thưa thầy, cái gì thế ?
Vị ẩn sĩ ngước nhìn và thấy
mấy chiếc nón các cô đang đội, liền ôn tồn trả lời :
- Ồ, đó chỉ là mấy chiếc
nón mà thôi con ạ.
Về đến núi, tự nhiên cậu ta
đâm ra ngẩn ngơ như người mất hồn. Thấy vậy, vị ẩn sĩ mới hỏi :
- Con đau bệnh hay sao ?
Cậu ta buồn bã trả lời :
- Chẳng biết tại sao con nhớ mấy chiếc nón
ấy quá, con thương mấy chiếc nón ấy lắm.
Câu chuyện dí dỏm này muốn nói lên một sự
thật, đó là nam và nữ, trai và gái thường lôi cuốn và hấp dẫn
lẫn nhau. Đó là điều hết sức tự nhiên và bình thường, như tục
ngữ vốn diễn tả :
- Trai thấy gái lạ, như quạ thấy gà con.
Mặc dù không khấn trong sạch, nhưng phần
lớn các anh chồng đều phải giữ đức trong sạch đến từng ly từng
tí. Hai chữ “trong sạch” ở đây không được hiểu theo nghĩa hẹp,
nói tới việc giữ phép vệ sinh nơi thân xác, chẳng hạn mỗi buổi
sáng khi thức dậy phải lấy nước đánh răng và rửa mặt, mỗi ngày
phải tắm rửa và kỳ cọ cho sạch sẽ, râu tóc phải cho tươm tất và
áo quần phải cho gọn ghẽ :
- Đói cho sạch, rách cho thơm…
Cũng không được hiểu theo nghĩa rộng, nói
tới tình trạng tâm hồn không vướng mắc tội lỗi.
Trái lại, phải được hiểu theo một nghĩa đặc
biệt. Với nghĩa đặc biệt này thì trong sạch là nhân đức giúp
chúng ta xa tránh những vui thú thể xác bất chính, không được
phép. Cao điểm của đức trong sạch chính là đức khiết tịnh, hoàn
toàn xa tránh những vui thú xác thịt, kể cả những vui thú chính
đáng và được phép, bằng việc tự nguyện khước từ hôn nhân. Cao
điểm này được dành cho bậc tu trì.
Vì dây hôn phối đòi buộc phải chung thủy,
vì hạnh phúc của bản thân và sự bền vững của gia đình, kể từ khi
đưa nàng về…dinh, thì anh chồng lập tức phải chấm hết những mối
liên hệ bất chính, chớ có mà lơ tơ mơ hay mèo chuột linh tinh
thì có lúc phải…chết với bà.
Về khoản nào gã không biết, chứ về khoản
này thì các chị vợ rất ư là nhạy bén. Hở ra một tí, thì cũng đủ
tiêu tùng. Ấy là chưa nói tới khi sự thật bé tẻo teo như con
cóc, lại được các chị vợ phóng đại tô màu thành to như con bò.
Ngoài ra, các chị vợ còn được hỗ trợ bởi
những “vệ tinh do thám”, những quan sát viên quốc tế, như cô
em, cô chị, bà thím, bà bác…Nhất cử nhất động đều được tường
trình và báo cáo. Nên chớ có mà dại dột.
Một tác giả nào đó đã giãi bày tâm sự…buồn
về việc làm chồng của mình bằng cách than ngắn thở dài như sau :
- Chiều chiều bìm bịp kêu chiều,
Lấy vợ thì cũng lấy liều mà thôi.
Ban ngày làm việc tả tơi,
Ban đêm hầu vợ, phận tôi đêm trường.
Nằm chung thì bảo…chật giường,
Nằm riêng thì bảo…tơ vương con nào.
Lãng mạn thì bảo…tào lao,
Nghiêm trang lại bảo…người sao hững hờ.
Khù khờ thì bảo…giai tơ,
Khôn lanh thì bảo…hái mơ bao lần.
Cả đời cứ mãi phân vân,
Tơ lòng bà xã biết mần sao đây.
Tính ghen của chị vợ là như một thứ rào
cản, khiến cho anh chồng bất nhóc nhách. Xem ti vi thì đừng có
mở mồm khen ca sĩ này đẹp, ca sĩ kia tươi mát. Ra đường thì đừng
có láo liên con mắt, nhìn bên nọ ngó bên kia, nhưng phải cúi
xuống, bước đều thẳng tắp một mạch. Gã xin ghi lại nơi đây “lời
vợ dặn” để phe ta cùng suy gẫm :
- Lái xe ra khỏi cổng nhà,
Vợ kêu giật ngược, diết da dặn rằng :
Một đừng mơ mộng thơ trăng,
Đụng xe thi sĩ gẫy răng u đầu.
Hai đừng giữ ống nghe lâu,
Gái tơ õng ẹo ghẹo đầu dây kia.
Ba đừng ghé quán rượu bia,
Bốc men tơ tưởng nọ kia khó lường.
Bốn đừng mua báo dọc đường,
Bìa in hoa hậu soi gương liếc cười.
Năm đừng liến láo con ngươi,
Đồng nghiệp váy ngắn ẹo người đi qua.
Sáu đừng hoang phí thời gian,
Ngồi lâu trộm nghía cô hàng cà phê.
Bảy đừng thấy phở mà mê,
Bột ngọt loét dạ lại chê cơm nhà.
Tám đừng hò hát lang thang,
Tiếp viên ca sĩ giả ma hớp hồn.
Chín đừng dạo bước hoàng hôn,
Công viên hóa lá cô hồn rủ rê.
Mười đừng ghé rạp xi nê,
Ti vi nhà sẵn, lẹ về coi phim.
Rõ chưa, vợ hét đứng tim,
Đừng hòng tưởng bở như chim sổ lồng.
Nhắc đi nhắc lại cho thông,
Nếu không…tui quyết nhốt ông ở nhà.
Thứ ba là lời khấn vâng lời.
Người ta hỏi một em nhỏ :
- Cháu muốn gì bây giờ ?
Em nhỏ trả lời ngay :
- Cháu muốn làm người lớn ?
Người ta hỏi tiếp :
- Tại sao cháu lại muốn làm
người lớn ?
Em nhỏ đơn sơ nói :
- Cháu muốn làm người lớn
để được thoải mái nằm ngủ nướng mà không bị gọi dậy đi lễ, để
được vô tư chửi tục mà không bị la mắng, như…bố cháu ấy!
Câu trả lời của em nhỏ, tuy
ngây ngô, nhưng cũng phản ảnh được phần nào ước vọng của con
người, đó là muốn có tí chức, tí quyền để được ra lệnh và không
phải vâng lời.
Phải chăng đây cũng chính
là một cơn cám dỗ mà con người thường gặp phải ở mọi nơi và
trong mọi lúc. Ngày xưa nơi vườn địa đàng, ông bà nguyên tổ đã
bị cám đỗ muốn được trở nên ngang hàng với Thiên Chúa, nên đã
không vâng lời Ngài, giơ tay hái trái cấm mà ăn, để rồi phải cúi
đầu lãnh nhận án phạt của đau khổ và chết chóc.
Khi khấn giữ đức vâng lời,
thầy dòng tự nguyện từ bỏ ý riêng để chu toàn ý Chúa. Ý Chúa ấy
một phần nào đó được biểu lộ qua những lệnh truyền của bề trên.
Cũng thế, bước vào đời sống
hôn nhân anh chồng tuy không khấn vâng lời, nhưng đã thực sự
giữ đức vâng lời một cách tối mặt ở mọi nơi, trong mọi lúc và
qua bất kỳ công việc gì, nhớn cũng như nhỏ, to cũng như bé. Gã
có thể suy diễn về đức vâng lời của anh chồng như sau :
- Ta từ bỏ ý riêng, để chu
toàn ý trời. Ý trời ấy một phần nào được biểu lộ qua những lệnh
truyền của vợ ta.
Đây không phải là một điều
chi mới lạ do gã bịa ra, nhưng là một sự thật ngàn đời, đã được
cha ông chúng ta tôi luyện bằng những kinh nghiệm xương máu, khi
phát biểu :
- Nhất vợ nhì trời.
- Vợ muốn là trời muốn.
- Lệnh vua thua lệnh bà.
- Lệnh ông không bằng cồng
bà.
Nếu ngày xưa : trai thời
trung hiếu làm đầu, thì hôm nay anh chồng cũng phải trung với vợ
và hiếu với bố mẹ. Nếu ngày xưa : quân xử thần tử, thần bất tử
bất trung, có nghĩa là vua xử bày tôi phải chết, mà nếu bày tôi
không chết, thì đó là bầy tôi bất trung. Còn hôm nay, dù chị vợ
có bảo anh chồng phải chết, thì anh chồng cũng rất hoan hỉ vâng
lời chị vợ mà ngạo nghễ đi vào chỗ…tiêu tán đường !
Chẳng thế mà không thiếu gì
những vị tai to mặt lớn, vì chiều theo ý vợ cũng như vì vâng lời
vợ, mà mở rộng vòng tay đón nhận quà cáp, sẵn sàng tham nhũng,
vô tư xơi hối hộ, để rồi cuối cùng thân bại danh liệt, nằm vắt
tay lên trán mà ngẫm nghĩ chuyện đời ở trong chốn lao tù.
Như thế mới biết đức vâng
lời của những anh chồng quả là cao vòi vọi :
- Lời nàng dạy phải lắng
nghe,
Mai sau khôn lớn mà khoe
mọi người.
- Vợ mình, mình sợ mới
khôn,
Vợ người mà sợ có hôm què
giò.
Vợ ta, ta sợ chẳng lo,
Vợ người mà sợ, đồ bò đồ
trâu.
Thật tội nghiệp cho những
ông chồng, không tu ở nhà dòng nhưng lúc nào cũng tu ở nhà mình.
Không thề không hứa, nhưng lúc nào cũng phải tuân phải giũ ba
lời khấn : khó nghèo, trong sạch và vâng lời. Quả là những vị
thánh giữa đời thường.
Riêng gã, gã rất tâm phục
khẩu phục cuộc sống đầy cam go thử thách của họ, nên xin được
tôn phong họ lên làm “Đức ông…chồng”.
Gã Siêu
gasieu@gmail.com
|
VỀ MỤC LỤC |
|
- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến,
bài vở..., xin gởi về địa chỉ
giaosivietnam@gmail.com
- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục
vụ của Giáo sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các
Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn
gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực
Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh
vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức
Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và
Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quí vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại
www.conggiaovietnam.net
Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị
Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã
sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác
nhau.
TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca
Phạm Quốc Sử
USA
|
|
*************
|
|