Gaudium Et Spes |
Phần Thứ Hai
Chương II
Cổ Võ Việc Phát triển Văn Hóa
Ðoạn 2: Một Vài Nguyên Tắc Hướng Dẫn
Việc Phát Triển Văn Hóa
57. Ðức tin và văn hóa.
Người Kitô hữu đang hành trình về quê trời phải tìm kiếm và yêu
thích những sự trên trời
2. Ðó là điều chẳng những không bớt mà còn làm tăng
bổn phận của họ là góp sức với mọi người kiến tạo một thế giới
nhân đạo hơn. Thực ra, mầu nhiệm của đức tin Kitô giáo đã đem
đến cho họ nhiều khích lệ và trợ lực quí giá để họ chu toàn bổn
phận ấy cách hăng say hơn và nhất là để họ khám phá được ý nghĩa
trọn vẹn của công việc họ làm. Nhờ đó, văn hóa nhân loại có được
một địa vị cao cả trong ơn gọi toàn diện của con người.
Thực vậy, khi
cày cấy với hai bàn tay hoặc với phương tiện kỹ thuật để trái
đất nẩy sinh hoa quả và trở thành nơi cư ngụ xứng đáng của toàn
thể gia đình nhân loại, và khi tham dự cách ý thức vào tập thể
xã hội, con người đã tuân theo ý định của Thiên Chúa được tỏ bày
ngay từ thuở đầu là loài người phải chế ngự trái đất
3 và hoàn tất công cuộc tạo dựng, đồng thời con người
phát triển được chính bản thân; và cùng khi ấy con người tuân
giữ giới răn quan trọng của Chúa Kitô là hiến thân phục vụ anh
em.
Hơn nữa, khi
chuyên tâm học hỏi các bộ môn triết học, sử học, toán học, vạn
vật học và trau giồi nghệ thuật, con người có thể góp phần lớn
lao vào công cuộc thăng tiến gia đình nhân loại để đạt tới những
giá trị cao cả của chân, thiện, mỹ, và một phán đoán có giá trị
phổ quát. Nhờ đó, con người được soi chiếu rạng rỡ hơn, do Ðấng
Khôn Ngoan kỳ diệu đã có bên Chúa từ thuở đời đời, cùng Chúa an
bài mọi sự, nô đùa trên trái đất và vui sướng ở với con cái loài
người
4.
Cũng nhờ đó mà
tâm trí nhân loại bớt nô lệ sự vật và có thể dễ dàng bay bổng để
thờ phượng và chiêm ngưỡng Ðấng Tạo Hóa. Hơn nữa, con người còn
được ân sủng thúc đẩy để nhận ra Ngôi Lời Thiên Chúa, Ðấng trước
khi nên xác thể để cứu chuộc và kết thâu muôn loài nơi Người, đã
ở trong thế gian như "anh sáng thật... vốn hằng soi sáng mọi
loài dương gian" (Gio 1,9)
5.
Vì do phương
pháp của chúng, khoa học và kỹ thuật không thể xâm nhập cơ cấu
sâu xa của sự vật, nên sự tiến bộ ngày nay của chúng dĩ nhiên có
thể đưa đến một thứ chủ thuyết duy hiện tượng và bất khả tri,
khi phương pháp khảo sát của những bộ môn này được đánh giá quá
cao và được coi như luật tối hậu để khám phá toàn thể chân lý.
Cũng nguy hiểm hơn nữa khi con người tin tưởng thái quá vào
những phát minh hiện đại đến độ tự mãn và không còn kiếm tìm
những giá trị cao hơn
70*.
Tuy nhiên,
những hậu quả tai hại ấy không nhất thiết phát sinh từ nên văn
hóa hiện đại, và chúng ta không được ỷ vào đó mà phủ nhận những
giá trị tích cực của nền văn hóa này. Trong số những giá trị ấy
phải kể đến: lòng yêu chuộng khoa học, thái độ nghiêm chỉnh
trung thành với chân lý trong các công trình nghiên cứu khoa
học, nhu cầu làm việc tập thể trong các toán chuyên viên, tình
liên đới quốc tế, ý thức ngày càng mãnh liệt nơi các nhà thông
thái về trách nhiệm phải giúp đỡ và hơn nữa phải bảo vệ con
người, ý muốn đem lại cho mọi người tình trạng sinh sống thuận
lợi hơn, nhất là cho những người chịu thiệt thòi vì không được
trao trách nhiệm và vì thiếu văn hóa. Tất cả những giá trị này
có thể góp phần chuẩn bị cho con người lãnh nhận sứ điệp Phúc
Âm. Và công cuộc chuẩn bị này có thể được thấm nhuần nhờ tình
yêu thần linh của Ðấng đã đến để cứu chuộc thế gian.
58. Liên hệ đa diện giữa Phúc Âm của
Chúa Kitô và văn hóa nhân loại. Giữa sứ điệp cứu
độ và văn hóa nhân loại có nhiều mối liên hệ. Thực vậy, khi tự
mạc khải cùng dân Ngài cho tới khi tỏ mình đầy đủ trong Chúa Con
nhập thể, Thiên Chúa đã nói theo văn hóa riêng của từng thời
đại.
Cũng vậy, trải
qua các thế kỷ sống trong nhiều hoàn cảnh khác nhau, Giáo Hội đã
xử dụng những tài nguyên của các nền văn hóa khác biệt để phổ
biến và giải thích cho muôn dân sứ điệp của Chúa Kitô trong khi
rao giảng, để tìm tòi và thấu hiểu sâu xa hơn, để diễn tả sứ
điệp ấy cách tốt đẹp hơn trong các lễ nghi phụng vụ và trong
cuộc sống muôn mặt của cộng đoàn các tín hữu.
Nhưng đồng
thời, Giáo Hội không bị ràng buộc cách độc quyền và bất khả phân
ly với một chủng tộc hay quốc gia, với một lối sống đặc thù hoặc
một tập tục cũ hay mới nào, vì Giáo Hội được sai đến với mọi dân
tộc thuộc mọi nơi và mọi thời. Trung thành với truyền thống
riêng và đồng thời ý thức sứ mệnh phổ quát của mình, Giáo Hội có
thể hòa mình với nhiều hình thức văn hóa khác nhau. Nhờ đó,
chính Giáo Hội cũng như các nền văn hóa ấy đều được phong phú
hơn
71*.
Phúc Âm của
Chúa Kitô không ngừng đổi mới cuộc sống và văn hóa của con người
đã sa ngã, chống đối và khử trừ các sai lầm và tai họa phát sinh
từ sức quyến rũ thường xuyên của tội lỗi luôn đe dọa. Phúc Âm
không ngừng tinh luyện và nâng cao phong hóa các dân tộc. Những
đức tính của mọi thời như được Phúc Âm làm cho phong phú từ bên
trong, được củng cố, bổ túc và tái tạo trong Chúa Kitô
6 nhờ những ân huệ bởi trời. Như thế, trong khi chu
toàn bổn phận riêng
7, Giáo Hội cũng đồng thời thúc đẩy và góp phần vào
công cuộc phát triển văn hóa nhân loại, và nhờ hoạt động của
mình, ngay cả trong các nghi lễ phụng vụ, Giáo Hội giáo dục cho
con người đạt tới tự do nội tâm.
59. Hợp tác các giá trị trong những
hình thức văn hóa nhân loại. Vì những lý do đã
trình bày, Giáo Hội nhắc nhủ mọi người: văn hóa phải nhằm đạt sự
hoàn hảo toàn diện của nhân vị, lợi ích của cộng đoàn và của
toàn thể xã hội nhân loại. Do đó, phải tôi luyện tâm hồn làm sao
để phát triển khả năng tuân phục, thấu triệt, chiêm ngưỡng, phán
đoán riêng tư, lại phải có thể phát huy ý thức tôn giáo, luân lý
cũng như xã hội.
Thực vậy, vì
trực tiếp phát sinh từ xã hội tính và lý trí của con người nên
văn hóa luôn cần được tự do đúng mức để phát triển, cũng như cần
có quyền hợp pháp để hành động độc lập theo các nguyên tắc
riêng. Do đó, văn hóa có quyền được tôn trọng và được hưởng một
quyền bất khả xâm phạm nào đó, dĩ nhiên vẫn phải duy trì quyền
lợi cá nhân và cộng đoàn hoặc riêng biệt hoặc phổ quát, trong
giới hạn của công ích.
Thánh Công Ðồng
lập lại những điều Công Ðồng Vaticanô thứ nhất đã dạy, và tuyên
bố rằng: "Có hai lãnh vực trí thức" khác nhau, lãnh vực đức tin
và lãnh vực lý trí; Giáo Hội không cấm "các kỹ thuật và các bộ
môn văn hóa nhân loại dùng những nguyên lý và phương pháp riêng
trong phạm vi của mình"; do đó, Giáo Hội "nhìn nhận sự tự do
chính đáng này", và xác nhận sự tự trị hợp pháp của văn hóa,
nhất là các khoa học
8.
Tất cả những
điều vừa trình bày cũng đòi hỏi cho con người có thể tự do đi
tìm chân lý, phát biểu, phổ biến ý kiến mình và được tự do hành
nghề tùy sở thích, miễn là tôn trọng công ích và trật tự luân
lý; sau hết, những điều ấy cũng đòi cho con người phải được
thông tin chính xác về những biến cố xảy ra thuộc đời sống công
cộng
9.
Bổn phận của
công quyền không phải là quy định một hình thức văn hóa nhân
loại đặc thù nào, nhưng là tạo những điều kiện và phương tiện
thuận lợi để phát triển đời sống văn hóa trong toàn thể dân
chúng, cả trong những thành phần thiểu số của quốc gia
10. Do đó, phải hết sức tránh sao để văn hóa khỏi bị
sai lạc mục đích cá biệt của mình và khỏi bị cưỡng ép làm công
cụ cho các thế lực chính trị hay kinh tế.
Chú Thích:
(lưu ý:
những số ghi chú nhỏ hơn đã được đăng vào những số báo trước)
70* Hiện tượng luận chủ
trương rằng ta phải đánh giá các hiện tượng mà không cần tìm đến
những thực thể siêu việt. Ví dụ: trong cơn khủng hoảng đối với
quyền bính trong Giáo Hội hay trong xã hội, chúng ta không cần
dựa trên bất cứ nguyên tắc lý thuyết nào, mà phải chấp nhận
những thực tại mới, thích hợp với các hiện tượng xảy ra. "Bất
khả tri luận" chủ trương rằng trí con người thiếu khả năng để
hiểu biết các thực tại siêu hình. Nhiều khi đó chỉ là một lập
trường trong thực tế. Khoa học có thể đưa tới chủ trương ấy,
không phải vì bản tính đòi hỏi như vậy, nhưng chỉ vì người ta
muốn xét tới tất cả mọi vấn đề dựa trên những phương pháp thí
nghiệm và thực tế của khoa học.
71* Ðoạn trên đã được hàng
trăm các Ðức Giám Mục Á Phi và Nam Mỹ xác nhận. Có lẽ nhiều giáo
dân thuộc giới trí thức (ở Việt Nam cũng như ở nhiều nơi khác)
có cảm tưởng rằng mấy đoạn đó hợp với lý tưởng của Giáo Hội hơn
là hợp với lịch sử. Quả quyết rằng Giáo Hội đã dùng những kho
tàng của các nền văn hóa khác nhau để giảng dạy và diễn tả Phúc
Âm trong Phụng Vụ mà không hề cấu kết với một dân tộc hay phong
tục dân tộc nào... phải chăng hơi có tính cách tự đắc huênh
hoang quá đáng? (Ví dụ, hơn ba thế kỷ, ở Việt Nam vẫn cử hành
Phụng Vụ bằng tiếng Latinh và theo đúng như các nghi thức Roma).
Dù ta cảm thấy Giáo Hội đã thực hiện một thứ thực dân tôn giáo
và do đó trái với nguyên tắc tốt đẹp này (ở đây không cần nói
đến vấn đề Giáo Hội có giúp đỡ cho thực dân chính trị hay không,
vì có thể phức tạp hơn), nhưng nguyên tắc của Công Ðồng đã rõ
ràng. Ta phải làm sao để con cháu ta không thể tố cáo được rằng
chúng ta đã không làm gì để thực hiện nguyên tắc đó trong thực
tế.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
Tâm Thư Gởi các Linh Mục (tiếp theo) |
Nguyên tác: ”Lettres d’amour aux
prêtres” – “Thư tình
gửi các Linh mục”
của Catherine DE HUECK DOHERTY
Người chuyển ngữ, Đình Chẩn.
CHƯƠNG I: XIN ĐỪNG BỎ
CHÚNG CON
Trước đây, con đã viết một số cuốn sách với
tựa đề là: “ Thư gửi Đức Giám Mục” , “Thư gửi các chủng sinh”,
và “Thư gửi các nữ tu”. Con yêu mến các Đức Giám Mục, các chủng
sinh và các nữ tu, nhưng không hoàn toàn giống như con yêu các
cha, những Linh mục của Chúa, những người mà mỗi ngày có nhiệm
vụ chăm sóc đời sống tinh thần cho dân Chúa. Chính bởi tình yêu
cách riêng này mà con đã ấp ủ từ lâu viết lại những tâm tình
của con theo cái nhìn của các cha dưới dạng một cuốn sách.
Tình yêu của con dành cho cha và sự kính
trọng của con đối với sứ vụ Linh mục đã được đào sâu cách đặc
biệt và triển nở trong suốt cuộc đời của con.
Từ rất lâu, khi con lên 11 hay 12 tuổi,
cách nơi này rất xa, con sống trong một tu viện của các Soeur
dòng Sion bên Ramleh gần Alexandrie Ai cập- Một cha dòng tên đã
trò chuyện thân mật với chúng con, những đứa con bé nhỏ . Đó là
một Linh mục thánh thiện và rất giản dị. Ngài đã làm trái tim
trẻ thơ của con xúc động mạnh mẽ. Tuy nhiên, con không mấy vui
khi người nói: “ Khi các con lớn hơn một chút nữa , các con hãy
cầu nguyện cho các Linh mục. Con đã tự hỏi:”Tại sao mình phải
đợi đến năm 18 hay 19 tuổi mới có thể cầu nguyện cho các Linh
mục?” Ngay lập tức, con đã thưa riêng với cha dòng Tên đó và
trình bày với Ngài ước muốn cháy bỏng cầu nguyện cho các Linh
mục của con. Người nhìn con chăm chú và với vẻ nghiêm nghị hỏi
con có thực sự ao ước cầu nguyện cho các Linh mục hay không. Khi
con đáp lại cách quả quyết thì ngài đã đặt tay lên đầu con và
cầu xin Chúa Ba Ngôi chúc lành cho con rồi ngài âu yếm má con và
nói:”Con yêu, cha vừa chúc lành cho con để ngay khi còn
nhỏ, con đã có thể cầu nguyện cho các Linh mục. Con đừng quyên
điều đó nghe con!”
Quả vậy, con chưa bao giờ quên lời cầu chúc
đặc biệt này. Ngay khi còn là trẻ con, con đã yêu mến các Linh
mục với tất cả tấm lòng con.Trong những suy nghĩ còn non trẻ,
con đã xác tín rằng Chúa Giêsu đã ban các Linh mục cho chúng con
vì Ngài không muốn chúng con mồ côi, không muốn rời xa chúng
con. Con đã không hiểu được những điều lớn lao về Thân Thể mầu
nhiệm và những phương cách mà Chúa Kitô ở lại giữa chúng con.
Tuy nhiên, con đã cảm nghiệm được vai trò đặc biệt của các Linh
mục trong chương trình của Chúa Kitô và con nhận thấy thực sự
cần thiết cầu nguyện cho các ngài.
Từ năm 12 tuổi, con đã không ngừng cầu
nguyện cho các Linh mục. Ngoại trừ trong những lúc con cùng với
gia đình phải chạy trốn vòng quay cộng sản, con bị ốm nặng không
thể cầu nguyện được ( Con chỉ còn chưa được 37kg) . Con đã luôn
trung thành với lời cầu chúc của cha Dòng Tên bên Ai- Cập từ
nhiều thập kỷ nay.
Con đã ấp ủ trong lòng những những tâm tình
mà từ lâu con do dự hay ngại nói ra. Trước công đồng Vatican II,
có những ý kiến hoặc những tư tưởng mà người ta chưa bao giờ
nghĩ đến sẽ nói ra. Nhưng giờ đây, ở cái tuổi thất thập này, con
chẳng còn lo sợ như lúc còn trẻ, mà con chạy đến với cha- Linh
mục của Chúa để con giãi bày tâm sự.
Thực sự, con đã viết cuốn sách này hàng
ngàn lần trong trí óc và trong thâm tâm con. Thế mà, chính vào
lúc con cầm cây bút, con không chắc có làm cho các cha hiểu tình
yêu của con đối với Thiên chức Linh mục và đối với từng người
trong các cha hay không.
Mặc dầu, con thấy thật là khó mà diễn tả
được tình yêu của con đối với các Linh mục, nhưng con phải cố
gắng làm điều đó. Cha kính yêu, con thấy thực sự cần thiết bày
tỏ những tâm tình và ước vọng của chúng con, những con chiên,
với các cha. Cuốn sách này là những trang thư con viết cho cha,
con muốn làm cho cha hiểu nhu cầu của đoàn chiên chúng con là
được chủ chiên dẫn dắt. Chúng con khao khát cháy bỏng được nghe
tiếng nói của cha vang vọng tiếng gọi của Chủ chiên duy nhất, mà
đối với chúng con, cha hiện hiện một cách thật cụ thể. Nếu chúng
con không nghe được tiếng của Chủ chiên duy nhất qua các cha,
thì chúng con sẽ nghe tiếng Người bằng cách nào đây? Thời gian
qua, tiếng nói mang lại bình an của cha đã bị nghẹt hoặc đơn
giản là bị chìm trong sự náo động của một thế giới ồn ào hối
hả. Chúng con cần được nghe tiếng nói của cha một cách rõ ràng
ngay bây giờ. Đồng cỏ nuôi dưỡng đoàn chiên chúng con, khi xưa
thật xanh tốt và đầy sức sống, nay đang bị khô héo dần dưới sức
nóng như lửa thiêu của chủ nghĩa vật chất, của tính ích kỷ và
của sự nghi ngờ.Chỉ có tiếng nói của cha kết hiệp mật thiết
với tiếng nói của Đấng Chủ chiên nhân lành, mới có thể dẫn chúng
con, một lần nữa đến với đồng cỏ xanh tươi. Satan bóng đêm đang
bao phủ tâm trí, đang đe doạ đoàn chiên và bắt chiên chúng con
phải xâu xé nhau, người này chống lại người kia vì không có sự
lãnh đạo chắc chắn dẫn chúng con tiến lên. Nhưng thưa các cha,
trong cảnh chiều tà ấy, chúng con những con chiên vẫn luôn tin
tưởng rằng các cha sẽ còn ở gần chúng con, sẽ hướng dẫn chúng
con đối mặt với sự dữ.
Ở Madonna House, chúng con xưng hô với các
Linh mục là ‘’Cha”. Tuy nhiên một số Linh mục thích chúng con
gọi các ngài bằng chính tên riêng. Tuy nhiên, chúng con không
thể theo ý muốn của các ngài được. Chúng con biết rằng Linh mục
phục vụ những nhu cầu của một gia đình thiêng liêng tương tự như
một người cha chăm lo cho gia đình của mình. Nếu người cha
trong gia đình kiếm cơm bánh cho con cái thì Linh mục, người
cũng trao ban của ăn qua Bí tích Thánh Thể. Cũng vậy, nếu chúng
con bắt đầu học biết được Tình yêu của Chúa Cha đối với chúng
con qua việc cảm nghiệm tình yêu của người cha riêng của chúng
con đối với gia đình của mình thì chúng con sẽ còn biết được
điều lớn lao hơn về Tình Yêu Cha, Con Thiên Chúa dành cho mỗi
người qua các Linh mục. Chính vì vậy mà chúng con gọi các cha là
“ Cha”.
Một người cha là một người có những đứa
con, có một gia đình để chăm sóc. Người cha cần phải chăm sóc
những nhu cầu ăn mặc chỗ ở, dạy dỗ và chữa chạy thuốc thang.
Người cha phải luôn thể hiện tình cảm ,sự quan tâm chăm sóc đến
từng người trong gia đình. Người cha gia đình là người chủ của
cộng đoàn yêu thương. Cùng với vợ của mình, người cha tạo ra một
bầu khí yêu thương, tạo điều kiện thuận lợi cho những đứa con
phát triển tốt, không chỉ về thể chất mà còn cả về mặt tinh
thần. Chính qua mẫu gương sống, mà người cha trong gia đình
giảng dạy cho con cái những bài học quý giá nhất và có sức mạnh
lay động tâm hồn con cái nhất. Chính qua những cử chỉ, việc làm
đầy yêu thương và trách nhiệm mà con cái học biết yêu thương.
Người bố yêu thương gia đình của mình hơn tất cả những gia đình
khác, không phải người ấy không biết những nhu cầu của người
láng giềng. Thực vậy, tuỳ theo điều kiện xã hội và tình hình cụ
thể của người ấy trong cuộc sống mà họ quan tâm đến những nhu
cầu của thế giới bên ngoài. Nhưng trong mọi trường hợp, một
người cha yêu thương gia đình mình thì luôn ưu tiên cho những
nhu cầu của gia đình mình trước tiên. Đó chính là người cha lý
tưởng mà chúng con, những con chiên có được.
Chúng con gọi các cha là “Cha” bởi các ngài
đã sinh chúng con ra trong mầu nhiệm của một chuyện tình huyền
diệu giữa Thiên Chúa và các cha. Bởi các cha tham dự vào Thiên
chức duy nhất của Đức Kitô. Các cha kết hôn với Hội Thánh-Hiền
thê của Đức Kitô. Ngay cả khi luật độc thân không còn nữa, các
cha vẫn mãi luôn kết hôn với Hội Thánh, và trong cuộc sống của
các cha, Hội Thánh sẽ phải là trên hết.
Chúng con gọi các cha là “cha” và chúng
con là gia đình của cha. Chúng con cần đến các cha, nơi mà Thiên
Chúa đã đặt các cha là đầu của gia đình chúng con, đúng như
trong thế gian, Ngài đã đặt những người cha làm chủ gia đình của
họ để nuôi dưỡng và yêu thương gia đình ấy.
Mỗi khi người cha rời bỏ gia đình mình để
thoả mãn những nhu cầu cá nhân, thì người ấy gây ra thảm kịch
cho gia đình mình. Cả gia đình, nhất là những đứa con sẽ bị lạc
hướng, khiếp sợ và hư hỏng. Chính sự giũ bỏ trách nhiệm của
mình đối với gia đình đã gây ra hỗn loạn trên thế giới. Và một
số không nhỏ các Linh mục chối bỏ bổn phận của mình cũng làm cho
Giáo hội hoàn vũ đau đớn.
Thật là khó mà biết được tại sao nhiều Linh
mục lại rời bỏ gia đình thiêng liêng của mình. Phải chăng đó là
do sức ép của những giá trị hay thay đổi, đột nhiên các ngài đặt
những nhu cầu riêng tư lên trên những đòi hỏi của gia đình các
ngài? Con không muốn đánh giá nghiêm khắc quyết định của những
Linh mục này, bởi con biết những áp lực, những gánh nặng và cả
những đau khổ tinh thần các ngài phải chịu. Tuy nhiên, thưa cha,
xin cha nhớ lại rằng các cha không cô độc. Chúa Kitô hằng ở với
các cha. Và chúng con, những người con, cần đến các cha.
Cha kính mến, con xin cha hãy thường xuyên
ưu tư đến tình trạng và những khó khăn của các con chiên nơi cha
coi sóc. Chúng con gồm những người trẻ, trưởng thành hay cao
niên. Có những người đã lập gia đình, số khác còn độc thân. Có
những người được học hành tử tế, lại có những người không được
biết chữ, một số giầu có, và một số khác lại nghèo đói. Nhưng mà
tất cả chúng con đều giống như hoa cỏ ngoài đồng: nay còn mai
mất. Tuy nhiên, các cha cũng học được chúng con nhiều điều. Xin
cha hãy coi một chút tình cảnh của một người cha trong gia đình.
Ông phải lao động cật lực để đáp ứng những nhu cầu của gia đình.
Đôi khi ông mơ mộng đến một “đồng cỏ xanh tốt hơn”. Nhưng nếu
ông yêu thương gia đình của mình, ông sẽ không chạy theo những
ước mơ không mang lại lợi ích thực sự cho những người ông yêu
quý. Cũng tẻ nhạt, cũng nhàm chán và cũng cực nhọc, nhưng những
người cha tận tâm , sẽ tỏ ra quan tâm tới những nhu cầu của
người khác khi kiên nhẫn trong những việc họ làm. Mặc dù có đến
cả nghìn lẻ một vấn đề công kích gia đình, nhưng mọi việc sẽ
đâu vào đấy nhờ vào tình yêu và lòng cậy trông vào Chúa.
Chúng con, những con chiên, gọi các cha với
một danh xưng kính trọng “Cha” bởi chúng con nhận thấy các cha
quan tâm đến những nhu cầu thiêng liêng của chúng con. Xin cha
đừng bao giờ quên rằng các cha được truyền chức là để phục vụ
chúng con, để nuôi dưỡng chúng con bằng Thánh Thể, để thêm sức
cho chúng con bằng Dầu thánh, để hoà giải chúng con với Chúa và
với anh em qua Bí tích Giải tội, để làm chứng cho sự hoà hợp
tình yêu của chúng con qua Bí tích Hôn phối và để loan báo Tin
Mừng của Chúa.
Chúng con, những con chiên, có thể chăm sóc
cho đồng loại bằng những cách khác nhau. Chúng con có thể chăm
sóc cho họ bằng việc chữa bệnh như bác sĩ, nhà tâm lý học, tâm
thần học hay công nhân viên. Thậm chí, chúng con cũng có thể
chăm sóc các cha, những Linh mục của chúng con, những cố vấn kỳ
diệu. Thế nhưng, chúng con không thể tự chăm sóc cho mình bằng
Thánh Lễ như các cha, chỉ có các Linh mục mới làm được việc đó.
Nếu cha trung thành đảm nhận sứ vụ chữa
lành của riêng mình thì các cha sẽ thúc đẩy chúng con, những con
chiên, mang Lời Cứu chuộc của Chúa đến giữa thành phố, đến giữa
nông thôn, đến với người giầu cũng như đến với người nghèo.
Chúng con có thể làm được việc đó chừng nào các cha gieo Tin
Mừng cho chúng con, và chừng nào các cha còn nuôi chúng con
bằng Thánh Lễ, chúng con cần các cha ở với chúng con nơi mà các
cha có thể còn ưu tư. Chúng con cần học nơi các cha đức tính
kiên nhẫn, lòng nhân từ, sự cảm thông và sức mạnh là một Kitô
hữu.
Hãy đoái thương chúng con! Một đoàn chiên
không khác biệt, không có gì là to lớn của các cha. Hãy dạy
chúng con biết yêu thương! Hãy dạy chúng con biết cầu nguyện!
Hãy thắp lên trong trái tim chúng con ước muốn rửa chân cho anh
em chúng con, nuôi dưỡng người nghèo bằng tình thương và loan
báo Tin Mừng bằng chính cuộc sống của chúng con. Hãy sai chúng
con đi khắp thế gian- thế gian của sự nghèo đói, đau khổ- theo
cách mà chúng con có thể làm được bởi chúng con đã nghe được
tiếng của các cha-Tiếng nói của chủ chiên sai chúng con đi.
Hãy đến với chúng con nếu Chúa thúc đẩy cha
đến! Hãy dẫn chúng con đi khắp nơi mà Người muốn các cha dẫn
chúng con đi. Nhưng đừng bỏ chúng con để đi thoả mãn những tham
vọng cá nhân hay những nhu cầu chóng qua. Xin cha hãy luôn tuân
theo Thánh ý Chúa và khi đó cha sẽ được thoả mãn những ước muốn,
những nhu cầu một cách trọn vẹn nhất.
Luôn theo đuổi những cách sống mới, những
bằng cấp này nọ không phải là con đường dẫn đến hạnh phúc cho
các Linh mục. Nếu các cha đi theo tiếng gọi của Chủ chiên nhân
lành và tìm kiếm những giá trị của Người, các cha sẽ được bình
an. Thực vậy, sẽ có những biến động trong cuộc đời của các cha,
cũng giống như những gì đã xảy ra trong cuộc đời của tất cả các
Ngôn sứ, và ngay chính trong cuộc đời của Thầy chí thánh Giêsu.
Tuy nhiên, các cha sẽ có được sự bình an mà không gì có thể lay
chuyển được bởi các cha biết rằng các cha đang thi hành Thánh Ý
Thiên Chúa, chứ không phải ý muốn của các cha.
Các Ngôn sứ ngày xưa đã chiếm được khao
khát rao giảng Lời Chúa và giảng dạy cho dân chúng. Các ngài đã
từ bỏ chính mình vì phần rỗi của người khác. Các ngài đã phục vụ
Chúa và tha nhân đến những hơi thở cuối cùng. Các ngài đã từ bỏ
việc kiếm tìm những sự phàm tục để hiến dâng cho sứ vụ Lời Chúa.
Cha kính mến, xin cha cảnh giác kẻo chối bỏ bổn phận của Linh
mục vì những lợi ích của trần gian này. Xin các cha đừng để bị
cuốn hút bởi những yếu tố vật chất của đời sống các cha ( tài
sản Giáo Hội, thu vốn quỹ…) mà lơ là bổn phận thiêng liêng của
mình. Thưa cha, nhất là cha đừng bao giờ bị cuốn hút bởi cách
sống của dân chúng, chỉ cần một cú trong giây lát cũng có thể
từ bỏ Thiên chức của mình.
Có lẽ cha ước ao sẽ thực hiện bao việc làm
cao quý và hoàn thành nhiều nhiệm vụ. Rất có thể, cha muốn trở
thành nhà tâm lý học, hay một nhà truyền giáo ở nước ngoài.
Nhưng câu hỏi quan trọng nhất mà cha phải trả lời đó là: Phải
chăng đây là Thánh Ý Chúa hay chỉ là những gì mình muốn?
Nếu cha muốn trở thành chuyên gia tâm lý học hay là nhà truyền
giáo để thoả mãn những ước muốn riêng tư của mình mà không phải
để phục vụ người khác hay thi hành Thánh ý Chúa, cha sẽ không
được thoả mãn như là Linh mục, cũng chẳng như một người bình
thường. Đức ái luôn luôn là câu trả lời và Kinh Thánh nói với
chúng ta rằng Đức ái thì nhẫn nhục, hiền hậu, khiêm cung… đức ái
tìm phục vụ người khác chứ không tìm tư lợi cho mình.
Thưa cha, con muốn nói với cha rằng tất cả
sự khao khát mãnh liệt thoả mãn những nhu cầu riêng tư của cha,
sẽ gây thiệt hại cho đoàn chiên-gia đình thiêng liêng của cha,
và những ước muốn này không phát xuất từ Thiên Chúa. Ước muốn
cháy bỏng đòi thay đổi tất cả bằng một cú chiều theo sở thích
hay ý muốn của cha không bắt nguồn từ Thiên Chúa- Đấng nhẫn nại
và đầy yêu thương hằng có đời đời.
Càng nóng lòng thực hiện những ước muốn và
thoả mãn những ước muốn, cha càng bộc lộ ra sự sa sút về phẩm
chất hoặc lộ ra là “ông hoàng” của những lời hứa suông. Có lẽ sẽ
còn nực cười khi còn nói về Satan ở thời đại khoa học. Nhưng
trong khi từng đêm con không khỏi bị dằn vặt bởi những vấn đề
đang quấy nhiễu, công kích các cha, con chỉ biết cầu nguyện cho
các cha- những linh mục mà con kính mến đặc biệt, con nghe thấy
tiếng chuyển động của con rắn đang trườn. Tiếng động của con
rắn đang trườn bò ấy sẽ còn mãi cho đến tận cùng của thời gian.
Chừng nào chúng ta còn muốn làm theo ý riêng hơn theo ý Chúa thì
tiếng động ấy vẫn còn ám ảnh chúng ta. Thật rùng rợn khi phải
nghe tiếng động ấy. Nhưng còn đáng sợ hơn khi nhìn thấy một số
Linh mục của Chúa nghe theo tiếng động này bởi những lời hứa đầy
vẻ bề ngoài của nó. Chỉ có cách cầu nguyện mới giúp chúng ta
trong cảnh huống ấy hoặc trong tất cả những tình huống khác. Khi
cha khiêm tốn cầu nguyện và xin Chúa hướng dẫn cha, cha hãy luôn
nhớ rằng, cha không cầu nguyện lẻ loi đâu, nhưng có biết bao
người tin tưởng cha cũng đang cầu nguyện với và cho các cha.
Cha đã suy niệm về sách Dân số chưa? Con
mới đọc gần đây. Đó là câu hỏi về việc điều tra dân số các bộ
lạc theo thống kê của các thầy Lê vi:” Còn các thầy Lê vi thì
sẽ dựng lều xung quanh nhà Tạm Chứng Ước. Như thế cơn thịnh nộ
sẽ không giáng xuống cộng đồng con cái Israel. Các thầy Lê vi sẽ
phụ trách Nhà Tạm” ( Ds 1,57).
Một đoạn khác con đọc thấy:” Thiên Chúa
phán với ông Mô sê rằng: Đây chính ta đã chọn các Thầy Lê vi con
cái Israel thay thế tất cả các trưởng nam, các con trai đầu lòng
trong số con cái Israel, cho nên các Thầy Lê vi thuộc về Ta”
( Ds 3, 12)
Con lại đọc thấy:” Hãy lấy các người
Lêvi thay cho các trưởng nam của con cái Israel và súc vật của
các người Lê vi thay thế các súc vật của chúng, các người Lê vi
sẽ thuộc về Ta. Ta là Đức Chúa” ( Ds 3, 45)
Điều lạ lùng này làm con nghĩ đến các Linh
mục. Các thầy Lê vi hiển nhiên là những người đứng đầu. Con hiểu
đơn giản rằng điều này làm nảy nở trong Thiên chức Kitô giáo
ngày nay.
Cha kính mến, cha đã nghĩ đến điều đó chưa?
Điều đó chứng minh cho người không ngừng tưởng nghĩ đến Thiên
chức này với bao yêu thương vỗ về như thế.
Hiển nhiên rằng, Linh mục thời nay cũng
phải dựng lều của mình gần nhà Tạm chứng Ước. Theo con hiểu điều
đó có nghĩa là cha phải luôn đặt lòng mình vào Ngôi Lời Thiên
Chúa, vào Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô. Linh mục ngày nay sẽ
phải ghi nhớ lời này kẻo mà Thiên Chúa sẽ giáng cơn giận của
Ngài xuống dân tộc của Ngài. Và không một Linh mục nào mong điều
đó xảy ra!
Con cảm thấy có bao thanh kiếm đang xâu xé
tâm hồn con khi con nghĩ rằng ngày càng có nhiều Linh mục rời bỏ
chiếc lều của mình khi mà cơn giông tố không xuất phát từ trời
đang hoành hành dữ dội chiếc lều ấy. Các Linh mục ngày nay cũng
như các Thầy Lê vi ngày xưa, nắm giữ vị trí đầu cùng với Chúa
Giêsu Kitô. Đó là lý do tại sao khi con đến nơi nào con cũng có
thói quen đến gặp gỡ Linh mục. Vì thực sự từng người trong các
Linh mục là Chúa Giêsu Kitô. Chính Thiên Chúa đã nói với Linh
mục khi người nói về các Thầy Lê vi và vai trò của họ.
Càng suy niệm về sách Dân số, con càng giác
ngộ ra rằng các Thầy Lêvi
( các Linh mục ngày nay) thuộc sở hữu của
Chúa.
Những suy tư trên con viết trong một đêm và
những lời cầu nguyện của con cho các Linh mục còn sốt sắng hơn
bao giờ hết. Con bị ám ảnh bởi sự khẩn thiết cầu xin Thiên Chúa
ra tay ngay kẻo các Linh mục cứ ra đi mãi. Tất cả những gì
thuộc vai trò của các Linh mục, đối với con, đều trở thành một
ánh sáng kì diệu, nhất là điều “ các ngài thuộc sở hữu đặc biệt
của Thiên Chúa và bởi vậy nên các Linh mục được Chúa chúc phúc
cách riêng. Chúa nhìn các ngài là những trưởng tử đứng đầu nên
phải ở lại trong lều của mình , ở bên Chúa. Thật vậy bàn thờ của
Chứng Ước là gì nếu đó không phải là chính Người?
Khi mà vinh quang của Thiên chức Linh mục
tràn ngập tâm hồn con, con đã kêu lên: “Lạy Chúa, xin Chúa
làm cho các Linh mục thấu hiểu các ngài là ai. Xin đừng để các
ngài mắc phải sai lầm trong bóng tối và trong cơn giông tố không
xuất phát từ Trời. Nhưng trong suốt thời gian này, con cũng biết
rằng Thiên Chúa luôn thêm ơn, ban quyền phép và tình yêu của
Ngài cho các Linh mục; Chúa hiến chính thân mình cho các ngài
khắp nơi, nhưng không bao giờ Thiên Chúa muốn cản trở sự tự do
của các Linh mục.
Sự tự do mà chính Chúa đã ban cho tất cả
mọi người. Đây đúng là điều không thể tin được: Đấng toàn
năng lại tự đặt cho mình sự hạn chế, một giới hạn quyền năng của
Ngài để cho chúng ta, những con người bất toàn có thể thực sự
được tự do! Điều này lại không kỳ diệu hay sao?
Con không biết tại sao con lại chia sẻ với
các cha điều này, nhưng con nghĩ rằng Thiên Chúa đã chọn các cha
để sống gần, sống trong đền Thờ của Người, để hiểu Người hơn
những người khác, để các cha thuộc trọn về Người, để mỗi ngày
trôi qua các cha nhận thấy mình là những trưởng tử của Người.
Các cha được trao ban để mà các cha có thể loan báo và trao ban
trong chén Thánh yêu thương của các cha.
Vâng thưa cha kính mến, con biết rằng
chương thứ nhất này, thư con không được mạnh lạc lắm, nhưng mỗi
từ trong đó được rứt ra từ trái tim con trong một đêm con thao
thức cầu nguyện cho tất cả các Linh mục trên thế giới. Và không
ai có thể viết hay được với những gì rứt ra từ con tim.
còn tiếp |
VỀ MỤC LỤC |
|
NÀY TÔI LÀ NỮ TÌ CỦA ĐỨC
CHÚA! |
Tác phẩm Giáo Hội Cần Loại Linh Mục
Nào? (ký cuối)
Lm Giuse Lê Công Đức chuyển ngữ từ bản
tiếng Anh:
PRIESTHOOD IMPERILED, Tác giả: Lm.
BERNARD HARING, C.SS.R.
NÀY TÔI LÀ NỮ TÌ CỦA ĐỨC
CHÚA!
Tôi kết thúc quyển sách này bằng cách
qui hướng tất cả sự chú ý của
mình về Đức Maria – đây hoàn toàn không phải chỉ là chuyện cảm
tính hay chuyện điểm tô cho có màu mè đạo đức. Một cách độc đáo,
Đức Maria đứng bên cạnh Đức Kitô, Người Tôi Tớ Giavê. Đáp lại
lời Thiên Chúa đề nghị, Maria đã thưa: “Này tôi đây, là nữ tì
của Đức Chúa” (Lc 1,38). Lời ấy không cho thấy rằng Maria (mà
Giáo Hội gọi là “Đức Trinh Nữ”) đã nhận hiểu sâu sắc về vai trò
hiện diện của mình bên cạnh Đức Giêsu trong ánh sáng của bốn Bài
Ca Người Tôi Tớ đó sao?
Maria: Nữ Tì của Thiên
Chúa và mẫu gương của con người linh mục
Cùng với Giu-se, phải chăng chúng ta không
thể giả định rằng Maria đã rót vào lòng con trẻ chính những Bài
Ca Người Tôi Tớ trong truyền thống Do Thái của mình – những Bài
Ca đã nuôi dưỡng đức tin của Maria một cách sâu sắc? Niềm hy
vọng nơi Maria hoàn toàn tương phản với niềm hy vọng của các
thượng tế Do Thái, những người bắt hụt sứ điệp đích thực của
Thánh Kinh và đã ngưỡng vọng một Mêsia quyền uy vung gươm lấp
lóa. Đức tin của Maria là đức tin của những người anawim,
những con người bé nhỏ thấp hèn trong It-ra-en. Với niềm hy
vọng không lay chuyển, họ không ngừng cầu xin Người Tôi Tớ khiêm
nhường và phi bạo lực đến giải phóng họ. Niềm hy vọng thẳm sâu
ấy âm vang trong họ qua những lời đầy cảm kích của Ngôn Sứ Isaia
Đệ Nhị. Maria là Nữ Tì được đặc tuyển cho con trai mình, Đức
Giêsu, Đấng là hiện thân trọn vẹn niềm hy vọng của những người
anawim.
Maria, trong tư cách là Nữ Tì khiêm tốn của
Giavê (như ngài tự mô tả chính mình trong khoảnh khắc quyết
định), là con người đi vào sâu thẳm nhất trong mầu nhiệm và
trong sứ mạng của Đức Kitô - một mầu nhiệm được vén mở ngay từ
đầu trong biến cố phép rửa của Ngài ở sông Gio-đan, được mang
tới chỗ hoàn tất trong phép rửa bằng máu của Ngài trên Thập Giá,
và cuối cùng được đóng ấn bằng cuộc Phục Sinh.
Có lẽ ở đây cần phải nhắc qua giáo thuyết
truyền thống vốn quả quyết rằng nghi thức truyền chức linh mục
in một dấu ấn không thể xóa được trong linh hồn của người linh
mục – một giáo thuyết (mà tôi nói thêm rằng) không hề liên quan
gì với những quan niệm pháp thuật và cũng không được hiểu theo
nghĩa đen. Từ quan điểm của Maria, chúng ta có thể thực sự nói
rằng Maria là hình ảnh phản chiếu cách hiện lộ của con mình,
được đóng dấu và niêm ấn bởi ơn gọi trở thành người Nữ Tì của
Chúa. Chính bởi quyền năng Chúa Thánh Thần mà Maria được “rửa”
và được thánh hiến để phục vụ cho “Người Tôi Tớ Vô Song Của Đức
Chúa”, trong tư cách là người nữ tì đau khổ và phi bạo lực để
tôn vinh Thiên Chúa, để phục vụ cho ơn cứu độ của loài người và
của mọi tạo vật. Như vậy, chúng ta có thể kết luận rằng Maria là
một người tham dự chính yếu vào cuộc chiến thắng cánh chung đập
tan tinh thần cao ngạo và bạo lực. Nếu cách giải thích của tôi
về đặc tính không thể xóa nhòa của chức linh mục – như cũng được
mạc khải trong vai trò của Đức Maria - là đúng, thì tôi hy vọng
rằng cách giải thích này có thể trở nên một động lực mạnh mẽ và
một viễn tượng thiết yếu cho đời sống linh mục, một cách hoàn
toàn cụ thể.
Vai trò của Đức Maria trong đời sống Giáo
Hội được kết tinh nơi sự hiện diện trung kiên của ngài với Đức
Kitô trong cuộc khổ nạn và cái chết Thập Giá. Chúng ta ca ngợi
Đức Maria bởi vì Thiên Chúa “đã nhìn đến phận hèn nữ tì của
Chúa / ... Thiên Chúa đã xô người quyền thế xuống khỏi ngai vàng
/ và nâng lên những người bé mọn” (Lc 1, 48-52). Bài kinh
Magnificat, lời cầu nguyện bất hủ của những người anawim,
không chỉ là một lời tiên tri tuyệt vời được thốt lên từ môi
miệng Đức Maria. Đúng hơn, chính Maria là Bài Kinh Magnificat
nhập thể. Cả cuộc sống mình, Maria hiện diện với Đức Giêsu,
Người Tôi Tớ Giavê, trong tất cả những khoảnh khắc ý nghĩa nhất
của cuộc sống Người Tôi Tớ này.
Ở đây, tưởng nên quay trở lại với các tiêu
chuẩn mà Phê-rô đưa ra để tuyển chọn một tông đồ: Đó là một
người “đã đi với chúng ta suốt quãng thời gian mà Chúa Giêsu
hiện diện với chúng ta, bắt đầu từ phép rửa của ông Gioan, cho
đến khi Ngài được đưa lên khỏi chúng ta .... để người ấy cùng
với chúng ta làm chứng cho sự Phục Sinh của Chúa” (Cv 1,21-22).
Hơn tất cả các tông đồ của thuở ấy và hơn tất cả các Kitôhữu
nhiệt thành trong mọi thời đại, Maria hoàn toàn đáp ứng những
tiêu chuẩn về sự hiện diện của người tông đồ - qua việc sinh hạ
Đức Giêsu trong khó nghèo, dâng Đức Giêsu trong Đền Thờ, chia sẻ
với Đức Giêsu cuộc trốn thoát sang Ai cập, nuôi dạy Đức Giêsu
cho đến tuổi trưởng thành, và cuối cùng đứng bên Thập Giá Đức
Giêsu cùng với Gioan, người tông đồ duy nhất khác hiện diện. Đức
Giêsu đã trao phó hai người cho nhau.
Tại sao Thánh Kinh không nói gì về những
cuộc hiện ra của Đức Kitô Phục Sinh với Maria, Mẹ Ngài? Tôi cho
rằng sự giải thích sau đây có thể thuyết phục: Tất cả các trình
thuật Tin Mừng về những cuộc hiện ra của Chúa Phục Sinh đều tập
chú chủ yếu đến viễn tượng giúp cho các môn đệ Đức Giêsu dần dần
vượt qua nỗi thất vọng và nghi ngờ. Maria, đàng khác, đã được
đặc ân đi vào trực tiếp trong đức tin đối với cuộc Phục Sinh
vinh quang của Đức Giêsu – trên cơ sở mối hiệp thông độc đáo
trong tinh thần của Maria với Người Tôi Tớ Giavê.
Trong văn kiện Marialis Cultus nổi tiếng
của mình, chính Giáo Hoàng Phao-lô VI đã hướng Thánh Mẫu học và
lòng tôn sùng Đức Maria theo chiều nhận thức Thánh Kinh như
trên. Bài kinh Magnificat là một trong những lời cầu nguyện vô
song của một thần học giải phóng đích thực. Nếu chúng ta, những
linh mục, nhận biết và yêu mến Đức Maria, Nữ Vương các ngôn sứ
và các tông đồ, Đấng đứng gần sát nhất với Người Tôi Tớ Giavê,
thì chắc chắn chúng ta sẽ nhảy được một bước dài trong việc nhận
thức và sống tốt hơn ơn gọi của mình. <OJ>
lời nguyện đúc kết
Lạy Chúa Giêsu Kitô,
năm mươi sáu năm qua,
Chúa đã cho phép con làm sứ vụ của mình
với hàng ngàn anh em trong chức linh mục,
bằng việc giảng dạy, tư vấn, khích lệ, và
an ủi họ.
Cùng với nhau, chúng con đã học và – con hy
vọng rằng -
sẽ còn tiếp tục học
để biết khiêm nhường
và can đảm theo Chúa, Người Tôi Tớ Đau Khổ
của Giavê,
để biết kính trọng và phục vụ mọi thành
viên đoàn dân tư tế của Chúa trên thế giới này.
Xin hãy đổ đầy trong chúng con đức tin,
niềm vui, hy vọng và tình yêu nồng cháy!
Xin hãy đào sâu trong chúng con
khả năng nhận biết Chúa mỗi ngày một hơn –
Chúa là Người Tôi Tớ phi bạo lực,
là Con Đường Hòa Bình,
là Đấng An Ủi của những ai sầu muộn và thất
vọng!
Bằng sức mạnh của Thánh Thần,
xin hãy giúp chúng con nhận hiểu hơn
và thăng tiến hơn nữa các đại lộ hòa bình,
Xin giúp mỗi người trong chúng con
quyết tâm trở thành –
trước hết – những đầy tớ trung tín của Lời
Chúa,
những thừa tác viên vui tươi và khiêm tốn
để phục vụ tất cả mọi người
mà Chúa ủy thác cho chúng con.
Xin Chúa chúc lành cho giáo hoàng
và các giám mục của chúng con,
cho tất cả những ai đang nắm quyền bính
trong Giáo Hội,
để các vị sống tốt hơn
và thúc đẩy một cách sáng tạo hơn
sự hiệp nhất trong khác biệt.
Xin ban nghị lực cho tất cả chúng con,
để chúng con có thể trở thành
những chứng nhân đích thực và thánh thiện
cho Chân Lý của Chúa,
và trở thành những khí cụ hữu hiệu
trong công cuộc thăng tiến sự hiệp nhất các
Kitôhữu,
thăng tiến mối liên đới giữa mọi người –
vì ơn cứu độ của toàn thế giới. Amen.
hậu chú
Bản văn của sách này đã được viết trước
khi Vatican tuyên bố rằng việc
không chấp nhận phụ nữ vào chức linh mục thừa tác phải được
coi như một chân lý bất khả ngộ. Tôi nghĩ rằng cho tới nay, bạn
đọc cũng đã nhận ra vấn đề không hẳn như vậy. Những phản ứng
trên khắp thế giới, nội trong phạm vi Kitô giáo, có thể cho thấy
rõ điều này.
Sự phê phán rộng rãi đối với việc sử dụng
phạm trù “bất khả ngộ” tựu trung dựa vào hai lý do sau đây:
1. Cách thức công bố “bất khả ngộ” trong vụ
này không đáp ứng những điều kiện bắt buộc cho một giáo thuyết
bất khả ngộ của giáo hoàng, như đã được ấn định bởi Công Đồng
Vatican I (Pastor aeternus), nghĩa là, mọi tuyên bố bất khả ngộ
phải được chuẩn bị trước bằng một cuộc thẩm tra niềm xác tín của
mọi tín hữu, và khi thẩm tra như vậy, “mọi phương tiện mà Chúa
Quan Phòng ban cho phải được vận dụng.” Hơn nữa, sự tuyên bố bất
khả ngộ phải được chứng minh là đặt nền trên Thánh Kinh và trên
truyền thống cổ sơ nhất của Giáo Hội.
2. Phần đông các nhà thần học và nhất là
các học giả Thánh Kinh đều đồng ý rằng trong Thánh Kinh không
thể tìm thấy chứng cứ thuyết phục nào cho việc tích cực ngăn
chặn phụ nữ khỏi chức linh mục. Chứng cứ rằng Đức Giêsu “đã
không truyền chức cho phụ nữ” là một chứng cứ ngớ ngẩn, vì Thánh
Kinh cũng đâu có nói gì về việc “truyền chức” cho nam giới. Đức
Giêsu thiết lập Bí Tích Thánh Thể, ủy trao cho toàn thể các tín
hữu như một quà tặng tối thượng, một mệnh lệnh và một di chúc:
“Hết thảy các con hãy làm việc này để tưởng nhớ Thầy!”
Cũng rất cần ghi nhận rằng Đức Giêsu đã chọn các phụ nữ để làm
chứng nhân và sứ giả loan báo về cuộc Phục Sinh của Người.
Trong bản văn quyển sách của tôi, tôi đã
tránh không ủng hộ hay phản đối việc truyền chức linh mục cho
phụ nữ. Tôi muốn để độc giả tự rút ra kết luận dựa vào các dữ
kiện của Thánh Kinh và từ “các dấu chỉ của thời đại”. Tuy nhiên,
tôi muốn nhắc độc giả rằng Giáo Hoàng Gioan XXIII không chỉ khẩn
thiết kêu gọi chúng ta ý thức các dấu chỉ của thời đại mà ngài
còn vạch rõ rằng vai trò ngày càng quan trọng của phụ nữ trong
xã hội, trong văn hóa, và trong Giáo Hội là một trong những dấu
chỉ nổi bật nhất của thời đại chúng ta.
Tôi nghĩ rằng chúng ta nên thảo luận một
cách tử tế và nhã nhặn về vấn đề nóng bỏng này, với những luận
cứ có cơ sở đàng hoàng, và với khiếu hài hước nữa.
BERNARD HARING
ĐÔI DÒNG VỀ TÁC GIẢ
Cha Bernard Haring, linh mục Dòng Chúa Cứu
Thế, là một nhà thần học luân lý lừng danh và là tác giả của hơn
tám mươi quyển sách. Luật Của Đức Kitô (The Law of Christ)
(1954), một bộ sách nhiều tập, và Tự Do Và Trung Thành Trong
Đức Kitô (Free and Faithful in Christ) (1978,1980) là hai
trong số những tác phẩm chính yếu nhất của ngài.
Ngài sinh ngày 10-11-1912, là con áp út
trong 12 người con của một gia đình người Đức mộ đạo. Cuộc đời
đầy biến cố của Cha Haring đã đi qua các giai đoạn khốc liệt của
lịch sử. Tuổi ấu thời, ngài chứng kiến những tàn phá của Chiến
Tranh Thế Giới Thứ Nhất. Rồi sau đó, những năm tháng trưởng
thành của ngài trùng với sự xuất hiện của Hitler và Chủ Nghĩa
Quốc xã.
Là một linh mục trẻ, ngài bị động viên vào
ngành quân y. Ngài phục vụ cho quân đội và cho thường dân ở
Pháp, Ba lan và Nga - cả trong tư cách là lính cứu thương lẫn
trong tư cách một linh mục. Trong cuộc rút quân của quân đội Đức
khỏi Stalingrad, Cha Haring đã thuyết phục các đồng đội ngài
buông vũ khí và theo ngài để bảo toàn sinh mạng; ngài được cứu
khỏi một trại tù binh ở Nga – nhờ sự giúp đỡ của cả một giáo xứ
Ba lan.
Sau chiến tranh, Cha Haring trở về Đức, ở
đó, ngài hoàn thành học trình tiến sĩ vào năm 1947, và trở thành
một giáo sư thần học luân lý ở Gars am Inn. Trong thời gian này,
ngài cũng phục vụ cho những người dân Âu Châu tị nạn trong tư
cách là một mục tử lưu động.
Sau đó Cha Haring được bổ nhiệm giảng dạy
thần học luân lý tại Rôma và tham gia vào công việc chuẩn bị
Công Đồng Vatican II – ngài cũng tham gia cả trong tiến trình
chính thức của Công Đồng nữa.
Vào thập niên 1970 và đầu thập niên 1980,
Cha Haring phải đương đầu với không chỉ một cuộc điều tra đầy
phiền phức về các tác phẩm của ngài – do Thánh Bộ Giáo Lý Đức
Tin tiến hành – mà ngài còn phải vật lộn dằng dai và sống dở
chết dở với căn bệnh ung thư cuống họng. Do chứng bệnh này, ngài
mất tiếng nói và phải bập bẹ tập nói lại.
Hiện nay, Cha Haring đang sống ở Đức.
(Hết) |
VỀ MỤC LỤC |
|
NHỨC NHỐI VỀ
ĐỜI SỐNG CỘNG ĐOÀN |
Thao thức mãi, dằn vặt mãi đến
lúc không còn giữ được nên đành mạo muội viết ra vài dòng suy tư về
hiện trạng đời sống cộng đoàn ngày hôm nay trong các nhà tu. Có thể
suy tư, cảm nhận này mang tính cách cá nhân, có cái nhìn thiển cận
nhưng biết đâu nó đụng, nó chạm đến những người đang, đã và sẽ phải
đối diện với một đời sống cộng đoàn chẳng mấy là êm đềm.
Ai cũng biết rằng căn bản của đời
tu đó là lời tuyên giữ các lời khuyên Tin mừng : Khó nghèo – Khiết
tịnh – Vâng phục. Ba lời khấn hứa này xem ra đã hứa, đã khấn rồi nên
không còn cách nào khác nữa là cứ phải răm rắp mà thi hành. Thế
nhưng đối diện với ba lời khấn hứa này, giữ ba lời khấn hứa này nó
lại được bao trùm lên bằng đời sống cộng đoàn.
Giữa một cộng đoàn mà người ta du
nhập đời sống thế tục vào để rồi chạy theo hưởng thụ vật chất thì
các thành viên trong cộng đoàn cũng sẽ khó mà giữ được đức Khó
nghèo. Khi thấy anh em, chị em của mình được cái này cái kia một
chút bỗng dưng lòng ta nó lại nổi lên một chút gì đó để cho được
“bằng chị bằng em”. Cứ như thế, từ những cái nho nhỏ như cái đồng hồ
đeo tay nó sẽ đến những cái lớn hơn như cái xe, cái máy tính, cái
máy hát ... Dẫu biết rằng nó chỉ là phương tiện, dụng cụ để giúp cho
tu sĩ làm việc nhanh hơn, tốt hơn nhưng vì chạy theo thời thượng
bỗng dưng những thứ ấy vô tình trở thành vật trang sức cho tu sĩ
ngày nay. Thế là đời sống khó nghèo bị đời sống cộng đoàn chi phối
khi nào không biết. Từ những hơn thua vật chất bên ngoài đấy nảy
sinh ra mâu thuẫn trong cộng đoàn tự lúc nào ta cũng chẳng hề biết.
Sống là một chuỗi tương
quan. Ai càng có nhiều mối tương quan càng tốt vì lẽ mình không sống
một mình mình nhưng mình sống là sống cho và sống với và sống vì
người khác. Từ chuyện nhỏ như thế này nó lại phát sinh ra chuyện hơn
thua là nữ tu thì phải quen nhiều nam tu và nam tu thì làm sao mình
phải quen thật nhiều nữ tu để cho mọi người nhìn thấy mình có một
mối tương quan rộng lớn. Những tương quan đó được che đậy, được sơn
phết, được đánh bóng bằng một cái tên rất hoa mỹ “bố thiêng liêng”,
“con thiêng liêng”, “chị thiêng liêng”, “em thiêng liêng” ... Những
tương quan này sẽ không xấu nếu như ta coi mọi người như nhau và
ngược lại khi người này người kia là của riêng tôi để rồi tu nhưng
tôi cứ phải lo lắng cho người “thiêng liêng” của tôi quá nhiều
chuyện đến nỗi làm xáo động đời tu của mình. Khổ một cái là đâu có
phải ai cũng như ai, người quen nhiều, người quen ít và từ chỗ quen
nhiều quen ít này cũng phát sinh một mầm mống nghi kỵ, hơn thua nhau
trong đời sống cộng đoàn.
Về lời khấn vâng phục
cũng tác động, cũng ảnh hưởng đến đời sống chung. Có những người
vâng lời một cách tuyệt đối nhưng rồi cũng có những người bên ngoài
dạ dạ vâng vâng đấy nhưng ngấm ngầm bên dưới tìm đủ mọi cách để phá
bĩnh những người có trách nhiệm trong cộng đoàn. Khi coi thường vị
phụ trách của mình thì người ta tìm đủ mọi cách để mà biện minh cho
cái tôi, cho cái lý sự cùn của mình để bảo vệ cho “sáng kiến cá
nhân” cá nhân của mình mà quên đi chiều kích thiêng liêng rằng những
người phụ trách trong cộng đoàn là những người được Chúa gửi đến để
phục vụ anh chị em trong cộng đoàn tu.
Mấy ai bảo làm bề trên,
làm phụ trách trong các cộng đoàn nhà tu là sướng ? Có chăng đêm đêm
về trằn trọc băn khoăn mất ngủ hơn những người chẳng mang trách
nhiệm gì cả trong mình.
Từ những cá tính, từ
những lối sống đặc thù của mỗi người cộng thêm với tinh thần thế tục
du nhập vào các cộng đoàn tu để rồi đời sống cộng đoàn không biết là
vô tình hay cố ý trở thành gánh nặng cho tu sĩ.
Một lần nọ, gặp một
masơ có tuổi thì bà tâm sự rằng cái khó nhất trong đời tu của bà đó
chính là đời sống cộng đoàn. Bà cũng chẳng ngần ngại để nói lên rằng
giữ đời sống cộng đoàn khó hơn giữ ba lời khấn. Có lẽ với thâm niên
hơn 40 năm tu trì, trải nghiệm của bà về đời sống cộng đoàn phần nào
là xác đáng.
Chắc có lẽ thấy được
nỗi khó khăn, vất vả của đời sống cộng đoàn nên sau những lời khấn
giữ các lời khuyên Tin mừng thì tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế chúng tôi
lại thêm một lời thao thức : “Nguyện xin ơn Thánh Chúa, sự trợ giúp
của Đức Trinh Nữ Maria và sự hợp tác của anh em luôn luôn ở với
con”.
Vâng ! Cảm động lắm khi
mình tuyên giữ các lời khuyên Tin mừng có anh em bên cạnh động viên
và nâng đỡ mình.
Đi tu không phải ta
sống một mình mình, ta làm việc một mình mình nhưng ta luôn luôn
sống trong bầu khí của cộng đoàn, của anh em. Thế nên sự hợp tác của
anh em dành cho mình quả là một điều cần thiết và cực kỳ quan trọng
để ta hoàn thành đời tu của ta một cách tốt đẹp.
Một thực tế quả là đau
lòng về đời sống cộng đoàn ngày hôm nay đang ở mức báo động chứ
không còn là chuyện dửng dưng, chuyện ngoài lề được. Đau lòng lắm
nhưng phải nhìn nhận để rồi nhờ ơn Chúa giúp, nhờ sự cộng tác của
mỗi thành viên trong nhà dòng để làm giảm nhẹ đời sống cộng đoàn
hơn.
Một nữ tu đến chia sẻ
với Cha giáo của mình rằng : “Những gì mà Cha dạy chúng con ngày hôm
nay chúng con thấy hoàn toàn sai thực tế. Chúng con sống thật với
lòng mình thì chị phụ trách cảm thấy không hài lòng, chúng con phải
sống luồn lách thì mới làm hài lòng chị phụ trách hơn ! ... Trong
trường mẫu giáo chúng con phụ trách thì có đến hai sổ về khẩu phần
thức ăn của các cháu : một sổ để báo cáo còn một sổ nội bộ ! ... Chị
Tổng về kinh lý gửi con cho chị phụ trách để chị phụ trách quan tâm
giúp đỡ cho con thì chị phụ trách tưởng con được chị Tổng thương
riêng để rồi chị phụ trách coi con như người xa lạ !”.
Có một điều lạ là ngày
hôm nay nhiều và nhiều người tu sống không thật ! Đây là nỗi đau như
cắt trong tim nhưng phải nói ra. Những người sống thẳng thắn thường
bị thua thiệt và bị trù dập còn những ai sống hai mặt, sống luồn
lách, ăn nói “chỉn chu” thì dường như là có ơn gọi hơn.
Một thực tế đó là những
người nào sống đời tu mà như nhiều người nói là “đi bằng đầu gối”
thì đời tu của người ấy bằng yên hơn là những người đi bằng chính
đôi chân của mình.
Ai biết cách nịnh chị
phụ trách hơn, cha bề trên hơn thì đời tu của người đó được bảo đảm
hơn. Chuyện này thì hình như bề trên và bề dưới đều bé cái lầm rằng
kẻ ở dưới nịnh mình để được mình bao bọc, chở che còn người trên
khoái người dưới tâng bốc để thể hiện cái chức vị mà mình đang có.
Thế nhưng một chân lý
mà những người ấy quên đó là làm phụ trách, làm bề trên cùng lắm với
3 nhiệm kỳ mà thôi, muốn ngồi lâu hơn trên “chiếc ghế danh vọng” ấy
cũng chẳng được vì Luật Dòng đã viết như vậy. Còn bề dưới thì chẳng
lẽ cả đời tu sống mãi với cái vị bề trên mà mình nịnh hót hay chăng
?
Kinh nghiệm thực tiễn
về chuyện này ta nên đi hỏi những vị có chức có quyền một thời và
sau khi nghỉ việc thì như thế nào ? Khi nghỉ việc rồi thì những
người ngày xưa xum xum xoe xoe bên mình đâu ?
Sống đúng nhân bản một
con người thật sự thì ai lại làm thế khi “còn tiền còn bạc còn thầy
tôi”. Những bậc giang hồ hảo hớn khi gác kiếm may ra được các đệ tử
thân tín ngày xưa đền đáp công ơn. Mấy ai đi tu mà còn giữ tình, giữ
nghĩa với những vị bề trên tiền nhiệm của mình hay là khi không còn
chức còn vụ gì thì ta chẳng bao giờ đoái đến họ cả ?
Còn nhiều và rất nhiều
trường hợp phải phát khóc lên để mà nói lên những nỗi đau đớn nhức
nhối trong đời sống cộng đoàn. Viết nhiều, nói nhiều chỉ thêm đau mà
thôi.
Chuyện quan trọng bây
giờ mà các tu sĩ cần phải làm đó là phải đặt lại mối tương quan giữa
mình và vị Thiên Chúa mà cả đời mình dâng hiến, mối tương quan giữa
mình và Mẹ Nhà Dòng mà mình phục vụ để ta xem ai là chủ, là chúa
cuộc đời của ta. Chúa còn ở trong cộng đoàn hay không ? Chúa còn ở
trong ta hay không ?
Ta bảo ta bỏ mọi sự để
ta đi tu, để ta dâng hiến cuộc đời cho Chúa nhưng có thật sự có Chúa
ở trong ta và ta ở trong Chúa hay không ? Hay là ta để cho tiền,
tài, danh vọng, địa vị vây quanh đời ta đến nỗi Chúa không còn một
chỗ nào trong cõi lòng ta. Nếu có Chúa thật sự ở trong lòng ta thì
ta sẽ không bao giờ đối xử với anh chị em tu chung với ta như những
người xa lạ, như những người tệ hơn là những người không có đạo,
không đi tu.
Nếu Chúa còn ở trong
ta, Chúa còn ở trong cộng đoàn thì Ngài sẽ thay đổi để cộng đoàn
ngày mỗi ngày tốt hơn.
Nguyện xin Chúa Giêsu
là gương mẫu của các tu sĩ suốt cả cuộc đời dấn thân đến và ở lại
trong các cộng đoàn để đời sống cộng đoàn ngày mỗi ngày được nên nhẹ
nhàng hơn, hạnh phúc hơn.
(Xin niệm tình tha thứ
cho kẻ phàm phu tục tử này với những ý niệm đầy tính cá nhân và
riêng tư này nếu như nó có đụng chạm đến qúy vị).
Anmai, C.Ss.R.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
|
TRÀNG MÂN CÔI
Ôi trân quí! Tràng Mân Côi huyền diệu!
Là tràng kinh tôi đọc thuở ấu thơ
Buổi ban mai thực sớm, đến nhà thờ
Và buổi tối khi nắng vàng vừa tắt.
Kế bên tôi là chiếc đàn khoan nhặt
Thánh ca chiều làm hứng khởi tim tôi
Một hồi chuông rộn rã đọng nguồn vui
Tôi quì đó tâm hồn dường bay bổng!
Maria! Tràng Mân Côi hằng sống!
Ðã dìu con khi chập chững tuổi thơ
Nhiều năm sau con lại sống thờ ơ
Không lần chuỗi, ít đọc kinh ban tối!
Như có Mẹ nhủ con đầy thúc hối
Cuộc đời này nhiều gai góc con ơi!
Hãy siêng năng, con lần chuỗi Mân Côi
Tìm thanh thản trong tâm hồn lắng đọng!
Tràng Mân Côi! Hỡi con! Là tiếng vọng
Cuộc đời đầy gương mẫu của Chúa Con
Tràng Mân Côi! Những đau khổ héo mòn
Những nhẫn nhục Mẹ chịu trong đời sống!
Mẹ thương mến! Cùng tràng kinh sốt sắng
Niệm vui, mừng cùng với những bi thương
Con nguyện xin Mẹ nhân ái chỉ đưòng
Dắt con tới miền An hòa Hạnh phúc!
Bút Xuân TRẦN ÐÌNH NGỌC |
VỀ MỤC LỤC |
|
MỒ HÔI, NƯỚC MẮT VÀ
MÁU |
Nguyên Tác
IN STEP WITH GOD
LM Vincent Travers, OP.
HƯƠNG VĨNH
chuyển ngữ
MỒ HÔI, NƯỚC MẮT VÀ
MÁU
“Có rất đông người cùng đi đường với
Chúa Giêsu. Người quay lại bảo họ: ‘Ai đến với tôi mà không
dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em và cả mạng sống mình nữa
thì không thể làm môn đệ tôi được. Ai không vác thập giá mình mà
đi theo tôi thì không thể làm môn đệ tôi được.
Quả thế, ai trong anh em muốn xây một
cây tháp mà trước tiên lại không ngồi xuống tính toán phí tổn,
xem mình có đủ để hoàn thành không? Kẻo lỡ ra, đặt móng rồi mà
không có khả năng làm xong thì mọi người thấy vậy sẽ lên tiếng
chê cười mà bảo: Anh ta đã khởi công xây mà chẳng có sức làm cho
xong việc.
Hoặc có vua nào đi giao chiến với một
vua khác mà trước tiên lại không ngồi xuống bàn tính xem mình có
thể đem một vạn quân ra, đương đầu với đối phương dẫn hai vạn
quân tiến đánh mình chăng? Nếu không đủ sức thì khi đối phương
còn ở xa, ắt nhà vua đã phải sai sứ đi cầu hoà.
Cũng vậy, ai trong anh em không từ bỏ
hết những gì mình có thì không thể làm môn đệ tôi được.’”
(Lc 14, 25-33)
***
Trong thời Chúa Giêsu, giấc mơ của những
nông gia nghèo hèn ở Pa-lét-tin là có được một tháp canh trên
phần đất sở hữu của mình. Trong mùa gặt, họ có thể ở trên tháp
canh, coi chừng những kẻ xâm phạm cùng những súc vật và như thế,
bảo đảm hoa màu của mình khỏi bị thất thoát.
Những người nghe Chúa Giêsu nói như vậy lúc
bấy giờ đều hiểu giá trị của cây tháp canh như thế nào. Họ hiểu
thật ngớ ngẩn khi bắt đầu xây cất mà trước tiên không tính toán
sở phí. Người nông gia khởi công xây cất mà hết tiền, khi nền
móng vừa xây xong, sẽ làm trò cười cho biết bao người trong cộng
đồng địa phương.
Tính toán sở phí
Chúa Giêsu dùng dụ ngôn để diễn tả như sau:
Trước khi các bạn theo tôi, hãy suy nghĩ cho kỹ, tính toán
hơn thiệt. Tôi không chút nghi ngờ là bất cứ ai khi nghe
đoạn Phúc Âm nầy mà không cảm kích sâu xa về sự lương thiện
tuyệt đối của Chúa Giêsu. Ngài không bao giờ do dự nói rõ ràng
là người ta trông đợi điều gì khi theo Chúa Giêsu. Ngài nói rõ
hết ý định của Ngài, không chút giấu giếm
Ngoài ra, Chúa Giêsu không bao giờ tẩy não
bất cứ ai. Trái lại, Ngài đã mô tả việc theo Ngài bằng những
ngôn từ có tính cách thực tế và ai cũng có thể hiểu được: “Ai
không vác thập giá mình mà đi theo tôi thì không thể làm môn đệ
tôi được”. (Lc 14, 27)
Nói rõ hơn, Ngài truyền dạy: Hãy vác
thánh giá mình và theo Ngài. Ngài không bao giờ tự áp đặt
mình lên trên người khác nhưng luôn luôn dành chỗ cho họ chọn
lựa và ngay cả khước từ nữa.
Một người chơi đàn piano nổi danh trong các
buổi trình diễn đã trả lời một cuộc phỏng vấn trên vô tuyến
truyền hình về những sự hy sinh cần thiết phải có để đạt tới sự
thành công trong nghề nghiệp: “Khi người ta quyết định hy
sinh cuộc đời cho âm nhạc, người ta không bao giờ ngó lui đằng
sau. Người ta chỉ nói một cách đơn giản như sau: ‘Ngoài âm nhạc
ra, không có gì hết’.” Thật hấp dẫn và cũng đầy hứng khởi.
Điều đó không khác với những đòi hỏi của
Chúa Giêsu. Người ta không thể có cuộc sống mà không đau khổ.
Điều đó rất chính xác đối với mọi cuộc sống. Mọi tiến bộ y khoa
xem ra phải trải qua sức ép của khổ đau. Chim cần sức đề kháng
của gió để bay tới và bay cao. Cá cần sức đề kháng của nước để
dùng vây bơi tới như những mái chèo.
Kitô hữu cần thánh giá. “Không đau khổ,
không tiến bộ” không phải là một thành ngữ vu vơ. Kitô giáo
dành cho những người mang con tim quả cảm, không phải cho những
người giỏi giang lúc ban đầu nhưng không giỏi giang đến phút
cuối, giống như những người được nhắc tới trong đoạn Phúc Âm nầy
đã khởi công xây cất nhưng không thể hoàn thành được.
Khi cố công dùi mài, người ta có thể thất
bại nhiều lần, nhưng mỗi lần ngã xuống, người ta chỗi dậy và bắt
đầu lại. Cụm từ “bỏ cuộc” không có trong ngôn ngữ Kitô
giáo.
Đôi khi chúng ta hiểu tại sao Chúa đã dựng
nên cuộc sống khó khăn như thế. Một em bé không thích rau cải đã
hỏi người mẹ: “Tại sao Chúa đã để vitamin trong rau cải mà
không để trong kem lạnh?” Bà mẹ trả lời: “Mẹ lo sợ là
cuộc sống cũng giống như thế đó!”
Vẻ đẹp còn lại
Hai họa sĩ người Pháp là Henry Matisse
và Auguste Renoir là đôi bạn tri
âm, mặc dù Renoir lớn hơn Matisse hai mươi tám tuổi. Trong những
năm cuối đời, Renoir gần như bị co quắp vì chứng viêm khớp. Tuy
nhiên Renoir vẫn vẽ mỗi ngày và khi những ngón tay không còn mềm
mại đủ để cầm cây cọ cho đúng, Renoir và bà vợ là Alice đã buộc
cây cọ vào bàn tay ông để ông có thể tiếp tục hội họa.
Matisse thăm viếng ông hằng ngày. Một bữa
kia, khi nhìn bạn mình co rúm lại hết sức đau đớn mỗi khi phết
lên một nét tô màu, anh hỏi: “Auguste ơi, sao bạn còn tiếp
tục vẽ khi bạn đang ở trong tình trạng hấp hối như thế?”
Renoir đáp lại ngay: “Vẻ đẹp còn lại, sự đớn đau qua đi.”
Sự đam mê nghệ thuật đã chế ngự sự đau đớn
của Renoir và làm cho ông có thể hội họa cho tới ngày lìa đời.
Những ai còn tiếp tục say mê ngắm nhìn vẻ đẹp lưu lại trên những
bức tranh rạng rỡ của ông, những phong cảnh ông vẽ ra, những nét
sống tĩnh lặng của hoa quả trong các bức tranh…sẽ không tìm thấy
dấu vết của sự đớn đau đòi hỏi phải có để sáng tạo ra chúng.
Nhưng mọi người đều đồng ý là cái giá phải trả thật xứng đáng.
Thật đáng giá
Chúa Kitô đã hứa hẹn với các môn đệ không
phải là mẩu-bánh-trên-trời khi họ nhắm mắt, nhưng là thánh giá.
Nếu người ta lấy thánh giá ra khỏi Kitô giáo, người ta sẽ giết
chết tôn giáo đó không chút tiếc thương.
Nếu chúng ta không cảm thấy bị dằn vặt, dày
vò thì chúng ta chưa nhận được sứ điệp của Phúc Âm. Chúa Kitô đã
quả quyết với chúng ta là nếu chúng ta lưu lại với Ngài thì Ngài
và chúng ta cùng nhau sẽ làm nên đại cuộc, chúng ta sẽ xây nên
những tháp canh lớn. Chúa Giêsu luôn đòi hỏi nhiều hơn, chứ
không bao giờ ít hơn.
Là những Kitô hữu, chúng ta đang đi theo
một vị lãnh đạo bị đóng đinh. Ngài vẫn ở với chúng ta trên mỗi
bước đường đời như là bạn đồng hành của chúng ta. Khi chúng ta
đi tới đoạn cuối hành trình, Ngài đoan hứa là sẽ đưa tay ra chào
đón chúng ta.
Đức Hồng Y John Henry Newman đã nói
lên những ngôn từ thật tuyệt vời: “Khi cơn sốt cuộc sống qua
đi và công tác của chúng ta đã làm xong, Ngài sẽ cho chúng ta
một chỗ ở an toàn, một nơi nghỉ ngơi linh thánh và cuối cùng
được bình an.” Đau khổ mà chúng ta đã chịu đựng trên đường
đời thật đáng giá! |
VỀ MỤC LỤC |
|
THIẾT LẬP THÓI QUEN TỐT |
Tôi thường hay nhắc nhở những người em họ của
tôi về vấn đề giáo dục con cái. Rất tiếc, người bố thường hay thiên
về lý trí, còn người mẹ thường sống theo tình cảm, nên có nhiều
chuyện trục trặïc xảy ra. Và đây là một trong những câu chuyện mà
tôi được chứng kiến:
Ông bố hỏi khi ngồi vào bàn ăn sáng:
- Kim Thùy đâu rồi?
Bà vợ trả lời:
Đêm qua cô bé đi ngủ trễ, bố à!
- Sao vậy?
- Nó muốn gặp bố trước khi đi ngủ.
- Nhưng tôi đã bảo tôi về trễ mà.
- Tôi biết. Nhưng cô bé không hiểu điều đó. Vì
thế, tôi để nó thức khuya cho đến khi nó thiếp ngủ.
- Vậy hôm nay nó làm sao đi học.
- Điều đó không thành vấn đề. Mới lớp mẫu giáo
mà! Tôi sẽ viết vài chữ nói rằng nó không được khoẻ lắm sáng nay.
- Tôi không biết đó nhé! Xem ra với tôi, cô bé
phải giữ một vài luật lệ.
- Vâng, còn có nhiều thời giờ cho nó để học về
luật lệ. Nó còn quá nhỏ mà!
Ông bố nói đúng. Cô bé Kim Thùy cần có thói
quen tốt để theo. Thói quen tốt đối với con trẻ cũng giống như bức
tường đối với cái nhà. Nó cho biên giới và kích thước cho đời sống.
Không có đứa trẻ nào cảm thấy thoải mái trong một tình trạng trong
đó nó không biết xác thực mình mong đợi gì? Thói quen cho cảm giác
an toàn. Một thói quen được thiết lập cung cấp một cảm giác trật tự
từ đó sự tự do lớn lên. Cho phép cô bé tự do thức khuya là từ chối
cho cô bé quyền nghỉ đúng giờ, tất nhiên sẽ làm rối loạn ngày hôm
sau và cũng từ chối cho nó quyền đi học ngày hôm sau đó. Điều đó
không phải là tự do. Cô bé không thể phát triển sự khôn ngoan về
những quyết định của nó nếu bà mẹ tước đoạt mất đi những kết quả
bằng cách cho một lý do sai lầm để nó khỏi đến trường. Kim Thùy cũng
như những đứa trẻ khác học tìm thoải mái trong những giới hạn và
trật tự. Chúng ta có biết không: cô bé đang tìm để biết xem cô có
thể đi ra ngoài giới hạn được bao nhiêu. Bổn phận của bố mẹ là thiết
lập và giữ một trật tự hàng ngày, một thói quen tốt để con cái sống
trong hàng ngũ trật tự và gia đình có thể sinh hoạt một cách thoải
mái. Hãy nhớ rằng không có đứa trẻ nào là quá trẻ để học một đời
sống trật tự. Một khi luật lệ được thiết lập, con trẻ cảm nhận được
điều đó và biết phải làm gì như là một vấn đề của cuộc sống.
Nếu bạn muốn đi từ Sài Gòn đến Hà nội hay từ
New York đến Washington DC, bạn không thể ngồi vào bất cứ xe khách
nào hay lái xe vào bất cứ con đường nào , nhưng bạn phải chọn lấy
những xe hoặc tự lái xe đi vào những con đường nhất định. Cũng thế,
chúng ta phải giáo dục con trẻ chúng ta như vậy. Hà Nội hay
Washington DC là mục tiêu chúng ta nhắm tới cho cuộc hành trình của
chúng ta. Và chúng ta chỉ đến được đó bằng cách phải theo những con
đường rõ rệt phải đi. Chúng ta có sự lựa chọn, chẳng hạn như thói
quen nào chúng ta muốn thiết lập cho gia đình cũng giống như chúng
ta có sự lựa chọn những con đường nào chúng ta sẽ đi để đi đến đích.
Thiết lập một thói quen, một trật tự là cần thiết nhưng không nên
quá cứng nhắc đến nỗi không có chỗ cho sự tùy cơ ứng biến. Cũng có
nhiều cơ hội để thích ứng như nếu cần phải bỏ thói quen đó để đáp
ứng một nhu cầu bất ngờ xảy ra. Tuy nhiên, những loại bỏ như thế
phải là một bất thường hơn là một luật lệ. Chúng không nên được thực
hiện cho sự thoải mái của cha mẹ, cũng không phải cho sự thỏa mãn
những ước muốn không mấy tốt đẹp của con trẻ.
Suốt những tháng hè, Hồng Hà và Hồng Liên đã
sống thỏai mái như chúng nó thích. Chúng thức khuya ban đêm, ăn sáng
khi thức giấc, bánh kẹo và nước ngọt thì bất cứ lúc nào chúng muốn..
Việc nhà thì gác sang một bên để đi chơi với chúng bạn và còn yêu
sách mẹ lái xe để đưa chúng đi đây đó. Vào giữa tháng 8 bà mẹ mới
thở dài phàn nàn: “Mẹ rất vui khi trường khởi sự học lại và mọi sự
trở lại cuộc sống trật tự bình thường”.
Cho phép con trẻ được tự do thoát khỏi những
chương trình làm việc trong suốt mùa nghỉ hè là một chuyện xem ra
thông thường với chúng ta. Dĩ nhiên, chương trình và lối sống quen
thuộc nên được thay đổi ít nhiều trong mùa nghỉ, nhưng không được
đưa đến tình trạng vô trật tự. Chính việc để con trẻ được tự do
nhiều trong mùa hè gây cho chúng một ấn tượng rằng công việc hay
trường học thì không thoải mái, và rằng được tự do khỏi những đòi
hỏi đó là một điều đáng ước ao. Đây là một quan niệm sai lầm. Đi học
là một bổn phận của con trẻ trong cuộc sống, cũng như đi làm là bổn
phận của người cha và xếp đặt việc nhà là bổn phận của người mẹ. Tất
cả những công việc đó đòi phải có thói quen, nếu không, chúng sẽ trở
nên rối loạn. Mùa nghỉ xem ra rất cần cho con người. Mỗi mùa nghỉ là
một thời gian thay đổi lối sống quen thuộc, một cách thế làm tươi
trẻ con người chúng ta. Nhưng nó không có nghĩa là một sự bỏ mất
thói quen. Lối sống mùa hè có thể khác với lối sống trong năm học.
Giờ ngủ có thể được sắp xếp để gia đình có nhiều thời gian vui vẻ
với nhau hơn, giờ ngủ cũng có thể nhiều hơn, thời giờ ăn uống cũng
uyển chuyển để thích hợp với sinh hoạt mùa nghỉ. Tất cả những điều
nói trên cho thấy có một sự thay đổi cuộc sống giữa mùa học và mùa
nghỉ rất là rõ ràng. Tuy nhiên, chúng ta phải giữ hệ thống trật tự,
nếu không, sự cộng tác và sự hòa hợp xã hội không thể thực hiện
được.
Con trẻ cần sự chú ý của chúng ta. Làm sao để
thiết lập một tương quan hòa hợp và vui thích hơn là thời gian nhất
định và không thể thay đổi, vì thời gian nghỉ là thời gian của con
trẻ. Nếu cả bố mẹ và con cái đều ý thức rằng đó là thời gian để cùng
nhau vui vẻ, cả hai bên đều cố gắng loại bỏ những xung đột để tạo
cho bầu khí cực kỳ vui thích.
Nhưng ngoài mùa nghỉ ra, cuộc sống nên trở lại
bình thường. Chúng ta có thể xem lại một vài trường hợp mà trước đây
chúng ta đã đề cập đến. Bà mẹ bảo cô bé đi ngủ đúng giờ. Cô bé không
chịu vâng phục và cả hai mẹ con đã đi vào một cuộc xung đột quyền
hành mà lẽ ra đã có thể tránh được nếu một thói quen đã thành quen
thuộc và nếu cô bé biết rằng bà mẹ thì cứng nhắc về điều đó. Giờ ngủ
là giờ ngủ. Không cần nói nhiều. Nếu trẻ con kinh nghiệm sự cứng
nhắc của một thói quen, chúng ít khi cảm thấy có hứng khởi để phá
luật. Dĩ nhiên, nếu một sự đụng độ quyền hành xảy ra, con trẻ sẽ
dùng thói quen như một lợi điểm để tấn công. Chỉ khi thói quen được
cảm nghiêm như một vấn đề của cuộc sống, với sự nhấn mạnh trong yên
lặng và không cần tranh cãi nhiều lời, cha mẹ có thể áp dụng để phù
hợp với hệ thống trật tự trong gia đình. Dĩ nhiên, ở đâu thường có
những sinh hoạt chung ở đó dễ dàng có thói quen cho người lớn lẫn
con trẻ. Một ví dụ của vấn đề nầy là giờ ăn. Tuy nhiên, phận vụ khác
nhau của mỗi phần tử trong gia đình có thể đòi hỏi những thói quen
khác nhau. Nhưng những khác nhau nầy phải thật rõ ràng trong những
phận vụ khác nhau. Con trẻ một tuổi đi ngủ sớm hơn đứa 9 tuổi, và
đứa 9 tuổi dĩ nhiên đi ngủ sớm hơn bố mẹ nó.
Trong trường hợp của cậu bé không chịu ngồi ăn
chung bữa cơm với gia đình, bà mẹ có thể giải quyết vấn đề nếu có
một thói quen về bữa cơm chiều và tất cả mọi người trong nhà đều ăn
vào giờ đó. Thật có lý để hiểu rằng không ai xếp một bữa ăn tối vào
lúc không thích hợp cho mọi người. Mỗi gia đình phải tìm ra một mẫu
mực phục vụ cho lợi ích của mọi người trong nhà. Không có một mẫu
mực nào là lý tưởng cho hết mọi gia đình. Nhưng thường thì bà mẹ
thiết lập mẫu mực và luật lệ để gia đình tuân giữ và phát triển. Mỗi
khi có đứa trẻ nào phá lệ, bà mẹ bắt buộc phải nhấn mạnh cách yên
lặng rằng thói quen đó cần phải được tuân giữ. Việc phá lệ chỉ có
khi cha mẹ cho phép mà thôi. Cũng vậy, bà mẹ thường thiết lập những
mẫu mực để gia đình tuân theo và sống. Chẳng hạn, giường chiếu phải
ngăn nắp trước khi đi làm những công việc thường ngày, phòng xem
tivi phải gọn gàng sạch sẽ trước khi ông bố về nhà, bữa ăn tối chúa
nhật phải được bày dọn trong phòng đặc biệt, và cách thế gia đình
cần cử hành cho những ngày đại lễ. Đây là truyền thống văn hóa cần
phải truyền lại cho con cháu. Những điều đó trở thành thói quen tốt
đẹp mà chúng ta cần phải sống và lưu giữ.
Lm. Lê Văn Quảng,
tiến sĩ tâm lý
|
VỀ MỤC LỤC |
|
THU HUYỀN
|
THU HUYỀN
Trời đất sang thu chuyển dạ
sầu,
Ngày dài quyến luyến cảnh đêm
thâu,
sông hồ cô tịch vùng biên giới,
rừng núi hoang vu chốn địa đầu.
cành lá xác xơ chiều ảm đạm,
cỏ cây nghiêng ngả dạ thương
đau,
Hỡi ai gậm nhấm tháng ngày cũ,
có biết thời gian đã thay màu
?!
THU SẮC
Cả một trời thu rộn sắc màu,
tím xanh váng đỏ trắng pha nâu,
lá vàng đeo đẳng trên cành cũ,
lá xám dập dồn dưới gốc sâu.
từng cánh chim chiều khoe cánh
lạ,
một bầy ngựa sớm hí giang đầu,
Có ai đang đón mùa thu chết,
đợi tới thu tàn sao có nhau ?!
THU KHÔNG
Thu sang khoe sắc khắp non sông
cành lá chen vai dưới nắng
hồng,
Màu áo cà sa
trùm vạn vật,
oan hồn thập
giới ngập không trung,
Khói sương mờ
mịt hồn nhân thế,
Mây gió đẩy đưa
dáng cửu trùng,
Giữa cảnh ‘sắc
không’ muôn diệu vợi,
có ai lưu luyến
cõi thu không ?!
Vân Thanh
|
VỀ MỤC LỤC |
|
TÌNH YÊU LUÔN HY VỌNG VÀ CHỊU ĐỰNG TẤT CẢ |
Tác phẩm 13 Nét Mặt Tình
Yêu
Dominique AUZENET
Lm
Micae-Phaolô Trần Minh Huy chuyển
ngữ
Chương Mười Ba (chương cuối)
TÌNH YÊU LUÔN HY VỌNG
VÀ CHỊU ĐỰNG TẤT CẢ
Tình yêu làm phát sinh sự tha thứ và lòng trung thành đối với kẻ
khác : Tình yêu tha thứ và vẫn trung thành, dù việc gì xảy ra đi
nữa. Chương nầy nhấn mạnh lòng trung thành, đặc biệt là tính không
thay đổi... Thánh Phaolô viết : "Tình yêu chịu đựng tất cả". Động từ
chịu đựng diễn tả sự vững chắc, sẵn sàng trụ được với va chạm, chấp
nhận kéo dài... Đó là một tình yêu bền bỉ, tồn tại trong thời gian
và khó khăn gian khổ, nghĩa là luôn hy vọng.
Thánh Phaolô luôn liên kết niềm hy vọng và tính kiên trì không thay
đổi với nhau. Trong thư gởi tín hữu Thessalonica, ngài nhấn mạnh
rằng hy vọng được biểu lộ qua sự kiên trì : "Trước mặt Thiên Chúa là
Cha chúng ta,
chúng tôi không ngừng nhớ đến những việc anh em làm vì lòng tin,
những việc khó nhọc anh em gánh vác vì lòng mến, và những gì anh em
kiên nhẫn chịu đựng vì trông đợi Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô" (1
Th 1,3). Trong thư gởi tín
hữu Rôma, thanh Phaolô cho hy vọng định nghĩa đẹp đẻ nầy : "Hy vọng
điều chúng ta không thấy, chính là
chúng ta bền chí đợi chờ" (Rm 8,25).
Chúng ta hầu như tìm thấy một sự tương đương giữa hy vọng và tính
kiên trì trong các thư của thánh Phaolô. Ngài đã viết như thế nầy
cho Timôtê : "Phần anh, hỡi người của
Thiên Chúa, ... hãy gắng trở nên người công chính, đạo đức, giàu
lòng tin và lòng mến, hãy gắng sống nhẫn nại và hiền hòa" (1 Tm
6,11). "Anh đã theo sát đạo lý, cách sống và dự định của tôi; anh đã
thấy lòng tin, sự nhẫn nại, lòng yêu mến và sự kiên trì của tôi; anh
đã biết những cơn bắt bớ, những sự đau khổ tôi đã gặp..., đã biết
tôi chịu bắt bớ như thế nào. Nhưng Chúa đã giải thoát tôi khỏi tất
cả" (2 Tm
3,10-11). Thánh Phaolô cũng viết cho Titô : "Hãy khuyên
các cụ ông phải tiết độ, đàng hoàng, chừng mực, vững mạnh trong đức
tin, đức mến và đức nhẫn nại" (Tt 2,2).
Vậy chúng ta có thể nói rằng hy vọng và kiên nhẫn là một, sự bền bĩ
là dấu hiệu của hy vọng. Dù gì xảy đến đi nữa, chúng ta muốn tiếp
tục hy vọng vào Thiên Chúa và vào tha nhân. Ý chí muốn hy vọng về
tất cả và ngược lại tất cả, được ngầm hiểu là nhờ tình yêu, chính là
sự kiên trì bền bỉ.
1. Tính lạc quan hay niềm hy vọng ?
Chúng ta đều biết những người luôn nhìn khía cạnh tốt của cuộc đời,
bằng cách giảm thiểu những điều đáng buồn xảy ra... "Còn sống, còn
hy vọng". Những tính khí lạc quan tự thuyết phục mình về điều đó
cách dễ dàng hơn những kẻ khác.
Khác với tính lạc quan, hy vọng không phải là một nét của tính khí
và không cắm rễ trong một tư thế tự nhiên. Hy vọng phát xuất bởi
Thánh Thần, đúng như điều thánh Phaolô đã viết :
"Trông cậy như thế, chúng ta sẽ không phải thất vọng, vì
Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh
Thần mà Người ban cho chúng ta" (Rm 5,5).
Tính lạc quan dựa trên chính mình, đến đỗi có thể trở thành tự mãn
và để mình bị kiêu ngạo lôi kéo. Hy vọng khiêm tốn và kín đáo hơn,
nhưng lại mạnh mẽ hơn, bởi vì nó dựa vào Lời Chúa, chứ không dựa
trên một đặc tính hạnh phúc, hoặc những hoàn cảnh thuận lợi.
Những giờ phút đen tối và những thời khắc thử thách thường không
khởi đầu được một niềm hy vọng đích thực, cũng còn không phải là
những biến cố hạnh phúc có thể nâng đỡ cho niềm hy vọng. Như đức
tin, hy vọng là một nhân đức đối thần có đặc tính siêu nhiên. Hy
vọng tựa vào Chúa Kitô, chứng nhân cho lòng trung thành của Thiên
Chúa. Trong sách Khải Huyền, thánh Gioan đã không gọi Chúa Giêsu là
"chứng nhân trung
thành" sao (1,5 ; 3,14 ; 19,11) ?
Đức trông cậy cắm rễ sâu trong niềm tin vào Lời Chúa. Chính khởi đi
từ một lời hứa của Thiên Chúa mà Abraham đã lên đường. Tin tưởng vào
lời hứa nầy, ông đã dứt khoát rời bỏ quê hương, không có bảo đảm nào
khác ngoài lời đó.
Chỉ có người nào biết lời mời gọi của Thiên Chúa và tán thành mới có
thể đáp lại lời mời gọi đó của Ngài. Rõ ràng chính đức tin mạc khải
cho chúng ta thánh ý Chúa trên chúng ta. Nhưng biết rõ mục đích mà
không có lòng ao ước thì không đạt tới mục đích đó được. Chính vì
thế mà hy vọng thêm vào một cái gì đó cho đức tin. Tính năng động
của hy vọng chính là họat động của một đức tin kiên bền. Trong khi
nhờ đức tin mà nhận lãnh lời mời gọi của Thiên Chúa, chúng ta tin
tưởng nơi Ngài và kiên bền trả lời Ngài. Hy vọng chính là một nhân
đức của những quyết định không ngừng đổi mới và bền bỉ.
2. Tình yêu không thất vọng bao giờ :
Tình yêu đích thực, như thánh Phaolô mô tả trong bài ca đức ái, luôn
luôn tiếp tục hy vọng, dĩ nhiên hy vọng vào Thiên Chúa, nhưng cũng
hy vọng vào tha nhân nữa. Dù hòan cảnh có thế nào đi nữa, hy vọng
luôn luôn mở ra một tương lai :
* Ở đâu thử thách khắc nghiệt biến thành trở ngại thì hy vọng làm
cho nó nên bàn đạp và giúp kiên vững trong đức tin vào Chúa Giêsu
Phục sinh.
* Ở đâu sự xét đóan về người khác trở thành loại trừ họ thì hy vọng
nhìn thấy vượt xa hơn và mang lại khả dĩ tiếp đón tha nhân trong sự
khốn cùng của họ.
"Đức tin chỉ nhìn thấy cái ở trong thời gian và trong
vĩnh cửu. Còn hy vọng nhìn thấy cái sẽ xảy đến trong thời gian và
hướng về vĩnh cửu. Đức ái yêu thích cái có ở trong thời gian và
trong vĩnh cửu...Nhưng hy vọng yêu thích cái sẽ xảy đến trong thời
gian và cho vĩnh cửu. Hy vọng nhìn thấy cái chưa có và sẽ có, trong
tương lai của thời gian và của vĩnh cửu. Hy vọng yêu thích cái chưa
có và sẽ có"[1]
Chính vì vậy chúng ta phải cầu xin Chúa Thánh Thần phát triển trong
chúng ta niềm hy vọng "không thất
vọng" nầy, vốn được ăn rễ sâu trong "tình yêu của Thiên Chúa được
Thánh Thần trải rộng trong lòng chúng ta".
Hy
vọng là tính bền bỉ của đức tin.
"Nhờ đức tin, ông Áp-ra-ham đã vâng nghe tiếng
Chúa gọi mà ra đi đến một nơi ông sẽ được lãnh nhận làm gia nghiệp,
và ông đã ra đi mà không biết mình đi đâu. Nhờ đức tin, ông đã tới
cư ngụ tại đất hứa như tại một nơi đất khách, ông sống trong lều
cũng như ông I-xa-ác và ông Gia-cóp là những người đồng thừa kế cũng
một lời hứa, vì ông trông đợi một thành có nền móng do chính Thiên
Chúa vẽ mẫu và xây dựng. Nhờ đức tin, cả bà Xa-ra vốn hiếm muộn,
cũng đã có thể thụ thai và sinh con nối dòng vào lúc tuổi đã cao, vì
bà tin rằng Đấng đã hứa là Đấng trung tín. Vì thế, do một người duy
nhất, một người kể như chết rồi mà đã sinh ra một dòng dõi nhiều như
sao trời cát biển, không tài nào đếm được. Tất cả các ngài đã chết,
lúc vẫn còn tin như vậy, mặc dù chưa được hưởng các điều Thiên Chúa
hứa; nhưng từ xa các ngài đã thấy và đón chào các điều ấy, cùng xưng
mình là ngoại kiều, là lữ khách trên mặt đất. Những người nói như
vậy cho thấy là họ đang đi tìm một quê hương. Và nếu quả thật họ còn
nhớ tới quê hương mình đã bỏ ra đi, thì họ vẫn có cơ hội trở về.
Nhưng thực ra các ngài mong ước một quê hương tốt đẹp hơn, đó là quê
hương trên trời. Bởi vậy, Thiên Chúa đã không hổ thẹn để cho các
ngài gọi mình là Thiên Chúa của các ngài, vì Người đã chuẫn bị một
thành cho các ngài. Nhờ đức tin, khi bị thử thách, ông Áp-ra-ham đã
hiến tế I-xa-ác; dù đã nhận được lời hứa, ông vẫn hiến tế người con
một. Về người con này, Thiên Chúa đã phán bảo : Chính do I-xa-ác mà
sẽ có một dòng dõi mang tên ngươi. Quả thật, ông Áp-ra-ham nghĩ rằng
Thiên Chúa có quyền năng cho người chết chỗi dậy. Rốt cuộc, ông đã
nhận lại người con ấy như là một biểu tượng" (Dt 11,8-19).
"Mặc dầu không còn gì để hy vọng, ông vẫn hy
vọng và vững tin, do đó ông đã trở thành tổ phụ nhiều dân tộc như
lời Thiên Chúa phán : Dòng dõi ngươi sẽ đông như thế. Ông đã gần một
trăm tuổi, nhưng ông vẫn vững tin không nao núng, khi nghĩ rằng thân
xác ông cũng như dạ bà Sara đều đã chết. Ông đã chẳng mất niềm tin,
chẳng chút nghi ngờ lời Thiên Chúa hứa ; trái lại nhờ niềm tin, ông
đã nên vững mạnh và tôn vinh Thiên Chúa, vì ông hoàn toàn xác tín
rằng điều gì Thiên Chúa đã hứa thì Người cũng có đủ quyền năng thực
hiện" (Rm,4,18-21).
Hy
vọng cũng là tính bền bỉ của tình yêu.
"Nếu
anh em yêu thương kẻ yêu thương mình thì có
gì là ân với nghĩa ? Ngay cả kẻ tội lỗi cũng yêu thương kẻ yêu
thương họ. Và nếu anh em làm ơn cho kẻ làm ơn cho mình thì còn gì là
ân với nghĩa ? Ngay cả người tội lỗi cũng làm như thế. Nếu anh em
cho vay mà hy vọng đòi lại được thì còn gì là ân với nghĩa ? Cả
người tội lỗi cũng cho kẻ tội lỗi vay mượn để được trả lại sòng
phẳng.
Trái lại, anh em hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn và cho vay mà chẳng hy
vọng được đền trả. Như vậy, phần thưởng dành cho anh em sẽ lớn lao,
và anh em sẽ là con Đấng Tối Cao, vì Người vẫn nhân hậu với cả
phường vô ân và quân độc ác. Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh
em là Đấng nhân từ. Anh em đừng xét đoán thì anh em sẽ không bị
Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án thì sẽ không bị Thiên Chúa
lên án. Anh em hãy tha thứ thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha. Anh em
hãy cho thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người sẽ đong cho anh em đấu
đủ lượng đã dằn đã lắc và đầy tràn mà đổ vào vạt áo anh em. Vì anh
em đong bằng đấu nào thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu
ấy" (Lc
6, 32-38).
3. Sự không thay đổi và lòng trung thành :
Tính bền bỉ trong tình yêu, sự không thay đổi và lòng trung thành
được xây dựng trong cách thức chúng ta tích cực đón nhận những khó
khăn, những nỗi gian truân, những thử thách lớn nhỏ gieo rắc trên
đường cuộc sống hằng ngày của chúng ta.
"Chúng ta còn tự hào khi gặp gian truân, vì biết rằng ai
gặp gian truân thì quen chịu đựng, ai quen chịu đựng thì được kể là
người trung kiên, ai được công nhận là trung kiên thì được quyền hy
vọng" (Rm
5,3-4).
"Anh em hãy tự cho mình là được chan chứa niềm vui khi
gặp thử thách trăm chiều. Vì như anh em biết đức tin có vượt qua thử
thách mới sinh ra lòng kiên nhẫn" (Jc 1,2-3).
Cuộc đời chúng ta chẳng khác một cơn thử thách đầy khó khăn gian
khổ mà chúng ta phải vượt thắng. Trong sách Khải Huyền, thánh Gioan
được chiêm ngưỡng đoàn người tín hữu được đóng ấn trên mặt đất, mặc
áo dài trắng trong vinh quang :
"Họ là những người đã đến sau khi trải qua cơn thử
thách lớn lao. Họ đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con
Chiên. Vì thế họ được chầu trước ngai Thiên Chúa" (Kh 7, 14-15).
Đó là thực tại sâu xa của cuộc đời trần thế của chúng ta : một thử
thách lớn lao để sống thông hiệp với cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu,
hầu được dự phần Phục sinh với Ngài.
Khi thánh Phaolô viết "Tình yêu luôn luôn hy vọng, tình
yêu chịu đựng tất cả", có lẽ ngài nghĩ đến sự bền vững
mà người tín hữu biết yêu Thiên Chúa và yêu các anh em của mình đã
đắc thủ được. Sự bền vững của tình yêu nầy, Thánh Thần làm cho nó
triển nở nơi người ấy xuyên qua :
* Sự
từ bỏ :
Thánh giá là nền tảng của một đời sống phong phú :
"Trên mặt đất nầy mọi sự đều thay đổi, chỉ có một vật
vững bền, đó chính là cách cư xử của Vua Trời đối với các bạn hữu
của Người. Từ khi Ngài đã phất cao cờ hiệu thập giá, tất cả mọi
người phải chiến đấu dưới bóng nó và phải mang lại chiến thắng"[1]
*
Dạt dào hiến dâng :
Dạt dào hiến dâng, như lời Chúa Giêsu trong Phúc Âm Luca đã trích
dẫn trên kia nhắc lại cho chúng ta. Luôn cho nhiều hơn cái người ta
xin, có lẽ đó là dấu hiệu phân biệt người tín hữu :
"Tấm lòng yêu thương làm việc với tình yêu, nghĩa là với
nhiệt huyết : tâm hồn đó chạy ngược chạy xuôi, bay đi bay lại, chẳng
có gì là không thể và không có gì cản bước nó được"[1]
Nhưng đó cũng chính là sự bền tâm mà chúng ta phải vun trồng hầu sản
sinh ra hoa trái của một tình yêu chịu đựng tất cả. Trong dụ ngôn
người gieo giống, khi nói về những chỗ sỏi đá mà hạt giống rơi
xuống, Chúa Giêsu phán:
"Còn những kẻ ở trên đá là những kẻ khi nghe thì vui vẻ
tiếp nhận Lời, nhưng họ không có rễ. Họ tin nhất thời, và khi gặp
thử thách, họ bỏ cuộc..." Ngược
lại, đất tốt mà hạt giống được gieo xuống, "là
những kẻ nghe Lời với tấm lòng cao thượng và quảng đại, rồi nắm giữ
và nhờ kiên trì mà sinh hoa kết trái" (Lc 8, 13-15)
"Trong mọi công việc của nhân đức, cần phải có sự kiên
trì ; không có kiên trì, ta không đi đến cùng được mong ước của
mình, không đạt tới hoàn thành công việc mà mình đã bắt đầu hành
động. Không, không có kiên trì, ta sẽ không bao giờ đạt được mục
đích tìm kiếm ; không có kiên trì, ta sẽ không bao giờ thực hiện
được đối tượng mình mơ ước"[1]
Tình yêu luôn hy vọng và chịu đựng tất cả là một tình yêu trung
thành. Chúng ta chán nãn sâu xa về một người chúng ta đã tin cậy
chăng ? Thay vì loại trừ người đó, tốt hơn chúng ta nên để Thánh
Thần thanh tẩy tâm hồn chúng ta khỏi mọi tình cảm cay đắng hay loại
trừ, ngõ hầu Ngài có thể chữa lành nội tâm chúng ta khỏi thương tổn
người đó đã gây ra cho chúng ta. Một cái nhìn mới đầy lòng nhân hậu
có thể có được, và một con đường đã được hy vọng mở ra. Một tình yêu
vẫn trung thành vượt qua dòng thời gian, một tình yêu biết vượt quá
những thử thách lớn nhỏ, cả những cú đánh đã nhận chịu, đó chính là
một đại chứng tá.
4. Không có gì tách biệt chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa :
"Tình yêu luôn hy vọng, chịu đựng tất cả". Luôn luôn hy vọng, chính
là tin rằng tình yêu sẽ luôn luôn có lời nói cuối cùng. Nếu có một
cơn cám dỗ đè nặng trên xã hội vật chất của chúng ta, thì đó chính
là sự thất vọng. Vậy chúng ta hãy công bố cùng với thánh Phaolô :
"Tôi tin chắc rằng cho dầu sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma
vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào,
trời cao hay vực thẳm, hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không
có gì tách biệt được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa, được
thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta"[1]
(Rm 8,38-39)
Suy niệm
để lần hạt Mân Côi
1. Tình yêu luôn hy vọng và chịu đựng tất cả. "Cậy
trông sẽ không thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào
lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta" (Rm 5,5).
Nhờ lời
cầu bàu của Mẹ Maria, chúng ta cầu xin Chúa Thánh Thần củng cố trong
chúng ta niềm hy vọng.
2. Tình yêu luôn hy vọng và chịu đựng tất cả. "Mặc dầu
không còn gì để hy vọng, ông vẫn hy vọng và vững tin, do đó ông đã
trở thành tổ phụ nhiều dân tộc như lời Thiên Chúa phán : Dòng dõi
ngươi sẽ đông như thế. Ông đã gần một trăm tuổi, nhưng ông vẫn vững
tin không nao núng, khi nghĩ rằng thân xác ông cũng như dạ bà Sara
đều đã chết. Ông đã chẳng mất niềm tin, chẳng chút nghi ngờ lời
Thiên Chúa hứa ; trái lại nhờ niềm tin, ông đã nên vững mạnh và tôn
vinh Thiên Chúa, vì ông hoàn toàn xác tín rằng điều gì Thiên Chúa đã
hứa thì Người cũng có đủ quyền năng thực hiện"
(Rm,4,18-21). Lạy Chúa, xin tha thứ cho những nghi ngờ, những do dự
của chúng con... Nhờ lời cầu nguyện của Mẹ Maria, mà đức tin còn lớn
lao hơn đức tin của Abraham, chớ gì Chúa Thánh Thần ban cho chúng ta
sự bền vững đức tin.
3. Tình yêu luôn hy vọng và chịu đựng tất cả. "Anh em
hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ. Anh em đừng xét
đoán thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án
thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ thì sẽ được
Thiên Chúa thứ tha. Anh em hãy cho thì sẽ được Thiên Chúa cho lại.
Người sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng đã dằn đã lắc và đầy tràn mà
đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong bằng đấu nào thì Thiên Chúa sẽ
đong lại cho anh em bằng đấu ấy" (Lc 6, 32-38). Lạy
Chúa, xin giải thoát chúng con khỏi những hành động ti tiện và những
sự bo bo cho mình của chúng con. Chớ gì Chúa Thánh Thần làm phát
sinh trong chúng con sự dạt dào hiến dâng, sự bền vững của tình yêu
luôn hy vọng...
4. Tình yêu luôn hy vọng và chịu đựng tất cả. "Chúng ta
còn tự hào khi gặp gian truân, vì biết rằng ai gặp gian truân thì
quen chịu đựng, ai quen chịu đựng thì được kể là người trung kiên,
ai được công nhận là trung kiên thì được quyền hy vọng" (Rm 5,3-4).
"Anh em hãy tự cho mình là được chan chứa niềm vui khi gặp thử thách
trăm chiều. Vì như anh em biết đức tin có vượt qua thử thách mới
sinh ra lòng kiên nhẫn" (Jc 1,2-3). Với Mẹ
Maria dưới chân thánh giá, chúng ta hãy đón nhận những thánh giá
riêng của mỗi người như là một khả thể lớn lên trong tình yêu chịu
đựng tất cả.
5. Tình yêu luôn hy vọng và chịu đựng tất cả. "Chúng ta
hãy cởi bỏ mọi gánh nặng và tội lỗi đang trói buộc mình, và hãy kiên
trì chạy trong cuộc đua dành cho chúng ta, mắt hướng về Đức Giêsu
Kitô là Đấng khai mở và kiện tòan đức tin. Chính Người đã khước từ
niềm vui dành cho mình, mà cam chịu khổ hình thập giá, chẳng nề chi
ô nhục, và nay đang ngự bên hữu ngai Thiên Chúa" (Dt 12, 1-2. Nhờ
lời cầu nguyện của Mẹ
Maria Vô Nhiễm, chớ gì Chúa Thánh Thần ban cho chúng ta lòng khao
khát trở lại và chấp nhận những từ bỏ mà Mẹ đề nghị.
Tất cả đã được nói về Tình Yêu chăng ? Chắc chắn là không. Nhưng mấy
lời của thánh Phaolô cho phép chúng ta hiểu rõ hơn "sống tình yêu
trong chân lý" là gì... Đó chính là một chương trình sống thánh
thiện đòi hỏi một cuộc trở lại liên lĩ... Xin Chúa Thánh Thần dần
dần khắc sâu vào chúng ta những đường nét nầy của Tình Yêu làm cho
chúng ta nên giống Chúa Giêsu.
Lời nguyện khiêm tốn
Lạy Chúa, để tình yêu Chúa được muôn người biết tới, xin Chúa thương
ban cho con hồng ân nầy, là biết ân hận hối tiếc vì đã nói hoặc làm
cho người khác phải đau buồn một cách nào đó, và biết vui mừng vì đã
giúp anh chị em bớt đau khổ và buồn phiền.
Xin ban cho con tính
mềm dẻo, để con ý thức được mình yếu đuối, cần được người khác giúp
đỡ, hơn là chính con gây phiền hà, hoặc có thái độ khinh khi người
khác.
Xin ban cho con tính
ngay thẳng, biết tôn trọng chân lý, để không bao giờ con hiểu theo
nghĩa xấu điều mà ai đó đã làm phiền lòng con.
Xin ban cho con tính
đơn sơ, để có thể giúp người khác dễ sống bên con, và con không trở
nên gánh nặng cho những ai đang sống gần con.
Xin ban cho con một
tấm lòng hăng hái vui tươi, để con luôn cởi mở đối với những ai ghét
bỏ, ghen tỵ và phân bì với con.
Xin ban cho con một
tấm lòng khiêm tốn, để con không nên cứng cỏi, bất chấp những lời
chỉ dạy, những lời phê bình, những lời kết án khắt khe từ mọi phía.
Xin ban cho con một
tấm lòng quảng đại, để con biết chịu đựng và đón nhận những ai có óc
hẹp hòi, cố chấp, ích kỷ đến độ không ai chịu nổi.
Xin ban cho con một
ý chí vững vàng, để con mãi kiên tâm, dầu có phải mệt mỏi, dầu có
gặp phải thái độ vô ơn, nhất là đối với những người con đã tận tình
giúp đỡ.
Xin ban cho con một
tấm lòng quả cảm, chịu đựng anh chị em con một cách lâu bền, để giúp
họ được bình an hạnh phúc, dầu cho họ còn yếu đuối và đầy khuyết
điểm.
Xin ban cho con ơn
sống chứng tá cho Chúa ở khắp mọi nơi và mọi lúc, để không một ai
chung quanh con phải chán nản, phải ngã lòng do lỗi con đã gây ra.
Xin ban cho con biết
dè dặt, đừng vội phê phán khi không có thẩm quyền, khi chưa có đủ
bằng chứng xác thực, và nếu có phải phê phán, thì phải thận trọng
cân nhắc từng lời, và nghiêng về sự khoan hậu nhân từ.
Xin ban cho con ơn
sáng suốt, đừng dễ tin vào điều xấu người ta đã nói về kẻ vắng mặt,
và nhất là cương quyết không kể lại cho ai những điều xấu đã lọt vào
tai con.
Xin ban cho con một
đức tin nhạy cảm, để có thể khám phá ra ngay rằng Đức Giêsu đang ẩn
mình trong ai đó trước mặt con, sau lưng con, bên cạnh con, để con
biết chín chắn trong lời nói, cử chỉ và tâm tình.
Sau hết, trong mọi sự và với mọi người, xin Chúa dạy con biết lắng
nghe, biết đoán hiểu, biết nhạy cảm phán đoán theo ý tốt cho người
khác, và sẵn sàng tha thứ bỏ qua những lầm lỗi của họ với con, chỉ
bởi vì Chúa cũng luôn đối xử với con như thế, và còn hơn cả thế nữa.
Lạy Chúa, từ sáng
tinh sương cho đến lúc đêm khuya, xin thương tỏ ra Chúa là Chúa của
tình yêu thương mà nhận lời một đứa con đang tha thiết nài van, và
ban cho con những ơn con vừa xin. Con xin tạ ơn Chúa muôn đời. Amen.
Dominique AUZENET
Đại Chủng Viện Xuân
Bích, Huế – Mùa Chay 2003
Micae-Phaolo Trần Minh Huy, pss.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
Tại Sao Cần Uống Nước? |
1- Nước là thành phần chính yếu cấu tạo cơ thể.
Thực vậy, khoảng 60-70%
sức nặng của cơ thể là nước, phân phối ở khắp nơi như máu,
cơ bắp, não bộ, phổi, xương khớp…
Con người
có thể chịu đựng
đói ăn trong vài tháng, nhưng thiếu nước trong dăm ba ngày
là đã có nhiều nguy cơ tử vong.
Ngoài ra, mỗi ngày cơ thể
mất đi khoảng 1,5 lit nước qua đại tiểu tiện, đổ mồ hôi, hơi
thở. Làm việc, vận động cơ thể sẽ mất thêm nước.
Vì vậy, để giữ lượng nước
của cơ thể bình thường, cần phải uống nước để thay thế phần
mất đi.
2- Vai trò của nước trong cơ thể
Nước có nhiều vai trò rất
quan trọng trong:
a. Duy trì nhiệt độ trung bình của cơ thể, như
nước trong bộ tản nhiệt (radiator) xe
hơi, tầu bay.
b.
Chuyên chở chất dinh dưỡng và oxy nuôi tất cả tế bào.
c.
Giúp chuyển hóa thực phẩm ra năng lượng, cần thiết cho các
chức năng cơ thể.
d.
Giúp cơ thể hấp thụ các chất dinh dưỡng
e.
Loại bỏ các chất thải của cơ thể qua hệ tiết niệu, da, ruột,
hơi thở.
g.
Bao che các cơ quan sinh tử trong cơ thể, tránh tổn thương
do sự cọ xát, va chạm
h.
Bảo vệ các khớp xương, tránh viêm sưng, đau nhức vì nước là
chất nhờn làm cho khớp cử động trơn tru
i.
Làm ẩm không khí để sự hô hấp dễ dàng, tránh dị ứng, ho khan
k.
Phòng chống sự đóng cục máu ở các động mạch của tim, não,
giảm nguy cơ tai biến tim và não.
l.
Cần thiết cho sự sản xuất các chất dẫn truyền thần kinh, các
hormone cần thiết cho các chức năng và các phản ứng sinh hóa
của cơ thể
m.
Là thành phần cấu tạo của các bộ phận quan trọng: não chứa
85% nước, xương 22%, cơ bắp 75%, máu 92%,
dịch bao tử 95%, răng 10%...
3- Hậu quả của không uống nước đầy đủ
Khi thiếu nước, cơ thể sẽ
làm một cuộc tái phối trí: đưa nước tới các cơ quan sinh tử
như não, tim, phổi, gan và thận và giảm nước tới các cơ quan
ít quan trọng hơn như da, tiêu hóa, khớp. Do đó dấu hiệu
thiếu nước xuất hiện sớm nhất ở các cơ quan hạng hai này.
1-
Thiếu nước vừa phải đưa tới:
- Mệt mỏi, buồn ngủ,
không có nước mắt khi khóc
- Táo bón vì không đủ
nước để làm mềm chất phế thải tiêu hóa thực phẩm.
- Ít tiểu tiện
- Khô và ngứa da
vì
các tế bào da không có nước, tróc rụng
- Nổi mụn trứng cá
- Chẩy máu mũi vì niêm
mạc khô, mạch máu dễ hư hao
- Tái phát nhiễm trùng
tiết niệu vì không có nước để loại chất hóa học có hại và vi
khuẩn ra ngoài cơ thể qua sự tiểu
tiện. Sạn thận cũng dễ tái sinh.
- Ho khan,
viêm phế quản vì không khí qua mũi không được làm ẩm, kích
thích và khiến cho phổi nhậy cảm với bụi bặm, khói thuốc,
các hóa chất
- Chẩy nước
mũi vì mũi dễ bị dị ứng.
- Nhức đầu,
chóng mặt, cơ bắp yếu mềm.
2- Thiếu
trầm trọng đưa tới giảm huyết áp, tim đập nhanh; miệng,
da, niêm mạc khô, không đổ mồ hôi; mắt sưng, rất khát nước,
tiểu tiện ít, mất định hướng…
Nhiều người
dùng tiêu chuẩn “khát” để uống nước. Thực ra, khát không
phải là dấu hiệu toàn hảo để báo hiệu nhu cầu uống nước. Ở
người cao tuổi hoặc trong vài bệnh, cảm giác khát giảm. Vì
thế, cần uống nước đều đều dù ta có khát hay không.
Có thể quan
sát mầu của nước tiểu để biết thiếu nước. Nếu nước tiểu
trong sáng là có đủ nước; vẩn đục mầu vàng là dấu hiệu của
thiếu nước.
Nhu cầu nước
Nhu cầu nước của mỗi
người thay đổi tùy theo tuổi tác, nhiệt độ cơ thể, cân nặng,
mức độ vận động, làm việc, thời tiết...
Nhiều ý kiến cho rằng một
người trưởng thành mỗi ngày cần
khoảng 2 lít nước. Trong khi đó, một số khoa học gia lại cho
là mỗi ngày chỉ cần uống 1 lít là được rồi.
Có thể tính
số nước nên uống mỗi ngày bằng cách chia sức nặng cơ thể
theo kilogram cho 30. Thí dụ một người nặng 70 kí sẽ cần
khoảng 2.3 lít nước mỗi ngày.
Nếu là lbs
thì chia đôi. Nặng 120 lbs cần 60 oz nước/ngày.
Nên lưu ý
là 80% số chất lỏng này là từ nước và các loại nước uống
khác và 20% từ thực phẩm.
Cà phê, nước trà, nước
ngọt có hơi thường có caffeine là chất lợi tiểu, làm cho sự
thiếu nước trở nên trầm trọng hơn.
Uống
vào lúc nào?
Nhiều người đợi khi nào
cảm thấy khát hoặc miệng khô ran rồi mới uống nước thì sợ
rằng hơi trễ đấy. Vì cảm giác khát giảm rất nhiều ở người
cao tuổi và vì khô miệng là một trong những dấu hiệu cuối
cùng của sự ráo nước (dehydration) của cơ thể.
Do đó, nên có thói quen
uống nước vào những thời điểm nhất định để khỏi quên, khỏi
thiếu nước.
Thường thường nên uống
một ly nước lạnh ngay khi thức dậy để động viên tế bào cơ
thể rồi uống trước bữa điểm tâm;
lúc 10 giờ sáng; trước khi ăn trưa; lúc 4 giờ chiều; trước
khi ăn tối; lúc 9 giờ và trước khi đi ngủ.
Khi rất
khát, chẳng nên nốc một hơi hết ly nước. Mà nên từ từ uống
từng ngụm một để cho nước có thì giờ thấm qua thành ruột vào
mạch máu, tưới mát các mô bào và thỏa mãn nhu cầu khát của
một cơ thể bị thiếu nước.
Những
trường hợp cần uống thêm nước
a.
Không khí khô, như ngồi trong máy bay đường trường, cần uống
8oz nước mỗi giờ
b.
Với thời tiết lạnh, cơ thể cần thêm nước và năng lượng để
duy trì thân nhiệt ở mức độ 98.6.
c.
Với thời tiết nóng mà làm việc ngoài trời, cần uống thêm
một, hai ly nước.
d. Bị cảm cúm, sưng phổi có thể đưa tới khô nước
cơ thể, vì vậy nhớ uống thêm vài ly nước.
đ. Bà mẹ có bầu, cần uống thêm 2-3 ly nước mỗi
ngày để đáp ứng nhu cầu nước cho máu, nước bình ối, tế bào.
Cho con bú sữa mẹ cũng
cần thêm nước để có nhiều sữa.
e. Tiêu chẩy, ói mửa, băng huyết, bệnh tiểu
đường…
Nước
máy hay nước vô
chai?
Dù là nước máy hoặc nước
đóng chai, nên tìm hiểu nguồn gốc của nước coi xem chúng có
bảo đảm an toàn không.
Tại Hoa Kỳ, nước máy do
Cơ Quan Bảo Vệ Môi Trường (EPA) kiểm
soát, còn nước chai được
coi như thực phẩm cho nên đều do Cơ Quan Thực Dược Phẩm kiểm
soát.
Các giới chức y tế đều
cho là nước máy an toàn và có nhiều ích lợi vì luôn luôn
được các cơ quan chính quyền kiểm tra, thử nghiệm mỗi ngày
để coi xem có bị ô nhiễm với hóa chất hoặc vi khuẩn.
Nước chai chỉ cần chứng
minh tính cách an toàn cho người tiêu thụ là được bán và mỗi
năm chỉ cần thử nghiệm một lần. Nhiều loại nước chai dùng
nước máy chế biến mà thành, vì họ không cần chứng minh nguồn
gốc của nước.
Mấy mẹo vặt để uống nước đầy đủ
1- Luôn luôn kè kè bên mình một chai nước để khi
uống, có sẵn.
2- Nếu hay quên và nếu
có thể, mang một đồng hồ báo hiệu mỗi đầu giờ để nhắc nhở
uống nước
3-
Nhỏ vài giọt nước chanh vào chai nước để có thêm chút hương
vị thơm thơm, dễ uống.
4-
Nhiều người thấy uống nước lạnh hấp dẫn hơn. Nếu không thích
nước lạnh thì hâm hơi ấm một chút. Nước ấm có hương vị khác
và có thể làm dịu cuống họng.
5-
Có thể ăn một miếng bánh hơi mặn trước khi uống một ly nước.
Vị mặn làm miệng khô khô, tăng cảm giác khát, cần nước.
6-
Có thể ăn đá cục để có nước, nhưng đừng nhai, hư răng.
7-
Mỗi lần đi qua một vòi nước máy trong sở làm, ghé miệng uống
vài ngụm.
8-
Nếu không thích hương vị của nước, có thể uống với một ống
hút. Nước sẽ ít tiếp xúc với lưỡi và chạy thẳng xuống họng.
9-
Cũng chẳng cần mua loại nước chai quá đắt, nhiều công ty sản
xuất nước chai khuếch đại là nước máy không tốt. Lọc nước
máy với đồ lọc là quá an toàn. Thường thường, chỉ cần nước
chai khi tới các quốc gia đang trên đường phát triển.
10-
Ăn nhiều rau, trái cây cũng chứa nhiều nước: chuối có 70%
nước, táo 80%, cà chua, dưa hấu 90%, rau sà lách 95%
nước.
Vài điều cần lưu ý
1- Trong khi uống nước là cần thiết, nhưng nếu
uống quá nhu cầu hoặc sự chịu đựng của cơ thể lại là điều
không tốt, đôi khi ngộ độc nước.
2- Bệnh nhân tim mạch, cao huyết áp, phù nề bàn
chân cần tránh uống quá nhiều nước.
3- Nếu có bệnh thận, nên hỏi ý kiến bác sĩ trước
khi uống thêm nước.
4- Không nên uống nhiều nước trong khi ăn. Nước
sẽ làm loãng dung dịch acit
hydrochloric, dịch vị và enzym trong dạ dày, gây ra chậm
tiêu hóa.
5-
Đa số nước có thêm khoáng chất đều có acit acetic và acit
này hay làm hư răng.
6-
Uống nhiều nước có thể khiến cho ta phải thức giấc nửa đêm
để đi tiểu, gây gián đoạn giấc ngủ. Có thể tránh bằng cách
cắt giảm tiêu thụ nước mấy giờ trước khi đi ngủ và đi tiểu
trước khi lên giường.
Kết
luận
Con cá nó sống vì nước vì
cần nước để tung tăng vẫy vùng bơi lội, kiếm ăn.
Con người không sống
trong nước nhưng nước nằm trong người với 70% sức nặng cơ
thể. Chỉ vài ngày thiếu nước là đã thấy hậu quả.
Không có nước miếng làm
sao nhai, nuốt cơm thịt hàng ngày, phát ngôn hàng giờ.
Không có nước làm sao có
máu lưu thông nuôi dưỡng tế bào và loại bỏ độc chất trong cơ
thể.
Không có nước lấy gì mà
tạo ra hormon nam nữ để có nối dõi tông đường.
Lại cón da nhăn, mắt khô,
miệng đắng, nhức đầu chóng mặt, bước đi loạng quang, khớp
kêu “cót két” khô dầu, sạn thận, …
Eo ôi, sợ quá…
Tui đi uống nước đây, bà
con cô bác trong họ ngoài làng ơi!!
Bác sĩ
Nguyễn Ý-Đức
Texas-Hoa Kỳ.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
BÀN VỀ CON KHỈ Chuyện phiếm của Gã Siêu. |
Nằm vắt tay lên trán mà suy gẫm sự đời, gã nhận thấy việc lên
voi xuống chó, âu cũng chỉ là việc rất thường tình. Mới hôm nào,
năm Quí Mùi trở về với sự lên ngôi của loài dê, còn bây giờ loài
dê bị đá văng xuống làm…phó thường dân, nhường chỗ cho loài khỉ
đăng quang khi năm Giáp Thân đang tiến tới. Vì thế, gã bèn xin
được hầu chuyện về con…khỉ.
Theo “Việt Nam Tự Điển” của Lê Văn Đức, thì khỉ là một loài động
vật có vú, bốn chân có bàn trũng và ngón dài khả dĩ nắm được,
trèo giỏi, sống bằng trái cây và ngũ cốc…
Gã quen một anh bạn tên là Bảy. Anh Bảy là người
rất tốt bụng, nhưng chẳng may bị trời phú cho một khuôn mặt hơi
bị giống với khỉ. Vì thế, thiên hạ thường gọi anh ta là anh Bảy
Khỉ. Tuy nhiên, thiên hạ cũng chỉ dám gọi lén sau lưng mà thôi,
chứ đường đường mặt đối mặt mà gọi như thế, chắc chắn sẽ bị anh
ta đấm cho vỡ…mỏ, khi tự ái nổi lên đùng đùng. Và cũng thật
trùng hợp, anh Bảy lại có tài leo trèo. Ngọn tháp nhà thờ thật
cao, mà anh ta cứ phom phom bò lên, chẳng cần dây đai an toàn
chi cả, hai tay và hai chân cứ dính chặt vào tường vách như con
thạch sùng. Gã đứng dưới đất ngước nhìn mà còn chóng cả mặt.
Thấy vậy, thiên hạ bèn ưu ái phong cho anh ta một tên gọi đậm đà
khác nữa, đó là anh Bảy Tổ Tông.
Bốn chữ “Anh Bảy Tổ Tông” làm cho gã nhớ lại gần
ba mươi năm về trước, hồi đất nước mình mới được giải phóng, bất
kể giai hay gái, già hay trẻ, tất cả nam phụ lão ấu, từ thành
thị cho đến thôn quê, đều được học tập về thuyết tiến hóa.
Dựa vào những mẩu xương được tìm thấy, cũng như
dựa vào những di tích của ngành khảo cổ, một số nhà khoa học đã
đưa ra cái giả thuyết : người bởi khỉ mà ra và loài khỉ chính là
tổ tiên của con người.
Mục đích của việc phổ biến thuyết tiến hóa nhằm
đả phá tôn giáo, để rồi đi tới kết luận : vật chất đẻ ra vật
chất, chẳng có Thiên Chúa hay thần thánh nào cả.
Thế nhưng, theo gã nghĩ : cho dù vật chất có đẻ
ra vật chất và con người có bởi khỉ mà ra chăng nữa, thì bàn dân
thiên hạ vẫn phải công nhận : cái vật chất đầu tiên ấy do đâu mà
có nếu không phải là đã được dựng nên bởi một Đấng tạo hóa, hơn
thế nữa giữa người và khỉ luôn luôn có một sự khác biệt, để
người luôn luôn là người và khỉ vẫn luôn luôn là khỉ.
Cũng trong chiều hướng ấy, Teilhard de Chadin đã
đưa ra ý niệm về một cú nhảy vọt. Trong cú nhảy vọt ngoạn mục và
tuyệt vời này phải có sự can thiệp trực tiếp của Thiên Chúa, để
trao ban cho con người một linh hồn, nhờ vậy người mãi mãi là
người và khỉ vẫn mãi mãi là khỉ.
Theo một nghiên cứu mới đây của các nhà khoa học
Mỹ, cấu trúc AND của người và khỉ giống nhau đến…99,4%, thế
nhưng giữa người và khỉ lại khác nhau một trời một vực. Và trong
một bài viết trên báo “Kiến thức ngày nay”, thiên hạ đã liệt kê
một số những khác biệt căn bản như sau :
Thứ nhất, đó là loài khỉ không biết nói. Rất có
thể loài khỉ cũng đưa ra những yêu cầu đơn giản nhưng không có
khả năng gợi lên những gì tai không nghe, mắt không thấy hay
những gì sắp xảy ra và càng không thể nào trao đổi tư tưởng như
con người. Vì vậy, ngôn ngữ và tiếng nói là một đặc điểm của
người và chúng ta có thể xác quyết : người là một con vật có
ngôn ngữ, có tiếng nói nhờ đó mà xích lại gần nhau và cảm thông
với nhau hơn.
Thứ hai, đó là loài khỉ không biết cười. Rất có
thể khi gặp điều gì vui thú, loài khỉ cũng…khúc khích. Thế
nhưng, tiếng cười của loài khỉ khác hẳn tiếng cười của con
người. Thực vậy, loài khỉ chỉ biết khúc khích khi vui chơi,
nhưng lại chẳng biết sử dụng tiếng cười để nổi giận, để châm
biếm, để bỡn cợt. Và như vậy chúng ta cũng có thể xác quyết :
người là một con vật duy nhất biết…cười.
Thứ ba, đó là loài khỉ không biết cái chết là
cái chi chi. Rất có thể khỉ mẹ vẫn tiếp tục chăm sóc cho những
chú khỉ con chết yểu, nhưng chưa bao giờ người ta thấy loài khỉ
chôn cất đồng loại hay làm nghi lễ an táng cho kẻ đã khuất.
Thứ tư, đó là loài khỉ chẳng có khái niệm về
luân lý và đạo đức. Rất có thể loài khỉ cũng biết chia ngọt sẻ
bùi, bảo vệ những kẻ yếu thế trong những cuộc xung đột, giúp đỡ
kẻ tàn tật và tránh chuyện loạn luân! Tuy nhiên chúng ta cũng
đừng vội kết luận là loài khỉ cũng có luân lý và đạo đức riêng
của mình. Thực ra chúng chẳng phải là những con vật hiền lành.
Để bảo vệ lãnh thổ, chúng sẵn sàng tấn công, thậm chí giết chết
thành viên của bầy đàn bên cạnh, kể cả những chú khỉ con chúng
cũng không tha.
Thứ năm, đó là loài khỉ không biết chế tạo dụng
cụ. Rất có thể loài khỉ cũng dùng được một vài dụng cụ đơn giản
như cành cây, búa, đe…nhưng chúng không có khả năng thực hiện
những công việc khó khăn, cũng như không có khả năng học thêm
những điều mới.
Sau cùng, đó là loài khỉ không biết…nói dối. Rất
có thể loài khỉ cũng dấu giếm thức ăn vừa kiếm được để xơi một
mình, nhưng chẳng qua chỉ là một cách che dấu mà thôi, chứ còn
nói dối, tức là đưa ra những thông tin sai nhằm đánh lạc hướng
và lừa gạt đối phương, thì loài khỉ hoàn toàn không thể thực
hiện nổi.
Khỉ có nhiều loại và có những loại được kê tên
trong sách đỏ, được liệt vào hàng quí hiếm, cần phải bảo vệ cho
khỏi nguy cơ bị tuyệt chủng. Bình thường gã thấy có khỉ đột là
loại khỉ to. Còn khỉ giả nhân hay đười ươi cũng là loại khỉ to,
đi bằng hai chân giống như người, vì thế Cao Bá Quát đã có câu
đối :
- Nhà trống ba gian, một thầy, một cô, một chó
cái.
Học trò dăm đứa, nửa người, nửa ngợm, nửa đười
ươi.
Trong khi đó vượn lại là một loại khỉ có đuôi
và chân rất dài. Chuyện rằng : ngày xưa vua nước Sở có một con
vượn rất đẹp, chẳng may nó bị xổng chuồng và chạy vào rừng. Nhà
vua bèn truyền cho quan quân vô rừng tìm, nhưng tìm mãi tìm hoài
cũng chẳng thấy. Cuối cùng nhà vua ra lệnh đốt rừng, để con vượn
phải chạy ra. Và thế là chỉ vì một con vượn mà cả cánh rừng rộng
lớn bị thiêu rụi.
Bây giờ, gã xin điểm qua một vài đặc tính của
khỉ.
Trước hết khỉ là một loài vật tương đối có chỉ
số thông minh khá cao. Vì thế, chúng ta đã thấy, khỉ có thể sử
dụng một vài đồ dùng thô thiển như cành cây…để tự vệ cũng như để
tìm mồi. Nếu gã không lầm thì vào năm 1959, phi thuyền Jupiter
đã đưa hai con khỉ gốc Á Châu, thuộc nòi “Macaca”, tên là
“Aybơn” và “Baikơ” lên không gian, bay chung quanh trái đất với
độ cao 450 ki lô mét. Sau khi trở về được hai ngày thì con
“Aybơn” lăn đùng ra chết, còn con “Baikơ” sống thêm được một
thời gian nữa.
Tuy nhiên sự thông minh của khỉ chỉ là một sự
thông minh “vốn sẵn tính trời”, được di truyền từ đời khỉ ông tổ
xì hơi cho đến đời khỉ con cháu chút chít, có bao nhiêu xài bấy
nhiêu, chứ chẳng được cập nhật hóa và phát triển thêm chút nào.
Thành thử họ hàng nhà khỉ hôm nay vẫn cứ…ngu như tổ tông chúng
hàng ngàn năm về trước.
Có năm trăm con khỉ mặt đỏ đi trong rừng, đến
dưới một gốc cây cổ thụ. Bên cạnh gốc cây cổ thụ lại có một cái
giếng. Nước trong giếng phản chiếu ánh trăng vàng. Chú khỉ đầu
đàn nhìn thấy, liền vội vã nói với đồng bạn :
- Mặt trăng đã bị rơi xuống giếng rồi kìa, chúng
ta hãy cùng nhau kéo nó lên. Thế này nhé, tôi sẽ bám vào cành
cây trên mặt giếng, sau đó các anh từng người một bám vào đuôi
nhau mà trèo xuống, như thế mới có thể cứu được mặt trăng.
Bầy khỉ mặt đỏ từng con và từng con liên tục
treo thành một chùm dài. Lúc còn một chút xíu nữa thì đụng mặt
nước, trọng lượng của bầy khỉ vượt quá sức chịu đựng của cành
cây. Một tiếng “rắc” vang lên, cành cây bị gẫy và bầy khỉ mặt đỏ
rơi xuống giếng, giẫy giụa mãi không thôi. Còn mặt trăng trong
giếng cũng “mất tích” luôn.
Một câu chuyện khác chứng tỏ khỉ cũng…ngu, chứ
chẳng khôn ngoan gì cho lắm. Ở nước Tống có người khéo nuôi khỉ,
sống bằng nghề dạy khỉ làm trò. Thầy dạy khỉ hiểu tâm lý loài
khỉ và những con khỉ được ông nuôi dạy cũng hiểu được tiếng nói
và cử chỉ của ông.
Thầy dạy khỉ vẫn nuôi khỉ bằng hạt giẻ. Hạt giẻ
bên Tàu rất lớn, có hạt lớn bằng cái chén uống nước chứ không
nhỏ như hạt dẻ bên ta. Mỗi bữa ông phát cho mỗi chú khỉ bốn hạt
giẻ. Ngày hai bữa như thế. Gặp hồi thầy dạy hết tiền mà giá hạt
giẻ lại leo thang, nên ông thầy thấy cần phải giảm bớt số hạt
giẻ cấp phát mỗi bữa cho lũ khỉ, ông liền nói với chúng :
- Từ nay ta phát cho chúng mày mỗi con bữa sáng
ba hạt giẻ, bữa tối bốn hạt giẻ.
Lũ khỉ trước đó vẫn quen được phát mỗi bữa bốn
hạt, nay bớt đi một hạt, đều phản đối, kêu la chí chóe, nhất
định không chịu. Ông thầy dạy khỉ bèn sửa lại :
- Nếu vậy, từ nay ta phát cho mỗi con bữa sáng
bốn hạt, bữa chiều ba hạt. Chịu không ?
Lũ khỉ nghe nói bữa sáng đổi thành bốn hạt như
cũ đều hài lòng, không còn la ó phản đối nữa.
Nhiều người trong chúng ta cũng hành động giống
như khỉ, nghĩa là họ tham cái lợi nhỏ trước mắt, mà quên mất
tiêu cái hại lớn sau lưng :
- Khỉ thật.
Tiếp đến, khỉ là một loài vật có tính tò mò và
hay bắt chước. Thấy người ta làm gì, thì khỉ cũng bắt chước mà
làm theo. Người ta nhăn mặt thì khỉ cũng nhăn mặt. Người ta gãi
sườn, thì khỉ cũng gãi sườn. Người ta toét miệng cười, thì khỉ
cũng toét miệng cười.
Biết tính khỉ là như thế, bọn thợ săn bèn bày
mưu rượu uống, rồi cùng nhau đi guốc. Sau đó bỏ rượu và guốc
dưới gốc cây rồi nấp vào một chỗ mà rình. Lũ khỉ kéo nhau ra,
thấy guốc và rượu. Con đầu đàn tinh khôn, cho rằng người ta gài
bẫy, nên giục những con khác hãy mau mau đi khỏi. Cả bầy cất
bước, nhưng vẫn cứ ngoảnh lại. Cuối cùng chúng bảo nhau :
- Ta hãy nếm thử xem sao ?
Và thế là chúng tay chấm miệng mút, bén mùi làm
mãi, cho tới khi say tít thò lò, quên cả lời nhắc bảo của con
đầu đàn. Chếnh choáng nghiêng ngả, nói nói cười cười, chân đưa
vào guốc và bước đi cà lơ thất thểu.
Bọn thợ săn bấy giờ mới xông tới. Bầy khỉ lảo
đảo chạy, con ngã nghiêng, con ngã ngửa, bị bắt sạch, không sót
một con nào.
Nhiều người trong chúng ta cũng hành động giống
khỉ, nghĩa là họ nhắm mắt bắt chước thiên hạ, không phân biệt
cái tốt hay cái xấu, cái đúng hay cái sai. Thậm chí cái tốt và
cái đúng thì không theo mà chỉ theo cái xấu và cái sai.
Thấy cầu thủ bóng đá David Beckham húi trọc, thế
là a-lê-hấp, để trở nên giống thần tượng của mình, họ cũng phó
thác cái đầu bù xù của mình cho bác phó cạo trọc lóc. Thấy các
ca sĩ nữ khi trình diễn mặc áo váy thiếu trước hở sau, thế là
“a-la-mốt” mỗi khi ra đường họ cũng khoác vào mình những bộ váy
áo mát mẻ và nghèo nàn, rất ư là chướng tai gai mắt, chỉ còn
nước lẩm bẩm :
- Khỉ thật.
Ngoài ra, khỉ còn là một loài vật có tính láu cá
và hay quậy phá. Thực vậy, biết bao nhiêu phen người nông dân
trồng rẫy ven rừng đã phải khốn đốn vì lũ khỉ. Trồng được mấy
trăm gốc bắp, sắp sửa đến ngày thu hoạch, thì chỉ một đêm bị lũ
khỉ kéo đến phá cho một trận te tua, thành thử phải ca bài :
- Xôi hỏng bỏng không,
Nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì.
Vì thế, người ta cũng hay la mắng những kẻ phá
phách :
- Rõ khỉ.
Ngày kia, con hổ tát chết hai con trâu và xé tan
xác một con lạc đà. Hổ lấy làm kiêu hãnh rằng mình dũng cảm, bèn
lên một mỏm đá nằm lăn ra, khoái chí và lớn tiếng khoe khoang :
- Không có con vật nào có thể đọ sức cùng ta
được. Ngay cả đến voi cũng phải cúp đuôi chạy mất, nếu gặp ta và
bị ta tát cho vài tát. Trời đã sinh ta như vậy. Chẳng thèm cầu
cạnh nhờ vả ai.
Bỗng nhiên, một phiến đá nhọn lở ra rơi từ đỉnh
núi xuống, trúng lưng hổ làm hổ bị thương. Nhưng hổ vẫn không
tỉnh ngộ. Lát sau, hổ trở dậy, đi ra suối uống nước và nằm trên
bờ ngủ thiếp đi lúc nào không hay. Cạnh đấy có một tổ kiến lửa.
Kiến bò ra, leo lên, chui vào vết thương của hổ và ra sức đốt.
Hổ đau quá, chồm dậy, lồng lộn và gầm vang chuyển cả đồi núi.
Cạnh đấy có một chú khỉ ngồi trên cây. Chú khỉ thấy hổ quay
cuồng bèn phá lên cười và nói :
- Ê chàng dũng sĩ kia! Lòng can đảm và sức lực
của ngươi bỏ đâu mất rồi ? Ngươi vừa mới khoe khoang là chẳng có
con vật nào địch nổi sức mạnh của ngươi cơ mà. Tại sao bây giờ
ngươi lại hoảng hốt giãy giụa lên như thế. Rõ thật là bêu chưa ?
Hổ nghe nói rất lấy làm xấu hổ, liền năn nỉ :
- Tôi lạy anh, xin anh làm phúc phủi kiến ra
khỏi vết thương hộ tôi. Ơn này suốt đời tôi thề sẽ chẳng bao giờ
quên.
Một câu chuyện nữa chứng minh cho tính láu cá
của khỉ. Ngày nọ, khỉ đang lang thang thì gặp bác bò đang cày
ruộng. Khỉ nói :
- Tôi rất thích cày ruộng, bác để tôi giúp cho
nhé.
Cày được mấy luống, khỉ nói :
- Ấy chết, tôi quên mất một việc quan trọng, tôi
cần phải đi ngay đây.
Đi được một quãng, khỉ gặp thím chim ưng đang
làm tổ. Khỉ vội nói :
- Làm tổ là nghề của tôi, thím để tôi giúp cho
nhé.
Nhặt được mấy cọng cỏ khô, khỉ nói :
- Ấy chết, tôi quên mất một việc quan trọng, tôi
cần phải đi ngay đây.
Đi được một quãng, khỉ gặp chú thỏ đang đào
hang. Khỉ nói :
- Tôi rất rành nghề đào hang, chú để tôi giúp
cho nhé.
Gãi đất được mấy cái, khỉ nói :
- Ấy chết, tôi quên mất một việc quan trọng, tôi
cần phải đi ngay đây.
Thời gian trôi qua, khỉ trở về vào mùa lúa chín.
Thấy mọi người ca tụng bác bò vì thửa ruộng bác cày thật trúng,
khỉ vội nói :
- Ấy ấy, tôi cày ruộng đấy chứ.
Thấy mọi người khen ngợi thím chim ưng vì chiếc
tổ thím làm thật bền chắc, khỉ vội nói :
- Ấy ấy, tôi làm đấy chứ.
Thấy mọi người chúc mùng chú thỏ vì chiếc hang
chú đào thật ấm áp, khỉ vội nói :
- Ấy ấy, tôi đào đấy chứ.
Nghe thấy vậy, nhiều người ấm ức trong bụng và
đã phát ngôn thành lời :
- Có cái khỉ mốc gì đâu.
Nhiều người trong chúng ta cũng hành động giống
như khỉ, nghĩa là họ nói thì nhiều mà làm chẳng được bao nhiêu,
họ nói thì hay mà làm lại chẳng hay chút nào. Họ thích làm
giám…đốc, giám…xúi, chứ chẳng muốn giơ ngón tay lay thử một ly
ông cụ nào sốt.
- Khỉ thật.
Tuy nhiên, có một nét nổi bật của loài khỉ
thường các cụ ta ngày xưa nhắc đến qua văn chương chữ nghĩa, đó
là một tình thương chan hòa và lai láng.
Hẳn rằng khi học truyện Kiều của Nguyễn Du,
chúng ta đều thuộc lòng câu thơ bất hủ :
- Đoạn trường ai có qua cầu mới hay.
Hai chữ “đoạn trường” ở đây có nghĩa là đứt
ruột, để chỉ những sự việc thảm thương đến cùng độ, khiến cho
người ta nghe qua cảm thấy như đứt từng đoạn ruột, tan nát cả
cõi lòng.
Theo sách “Sưu Thần Hậu Ký” thì có một người thợ
săn bắt được một con khỉ con, đem về làm thịt. Khỉ mẹ trông
thấy, cứ ở trên cây kêu la thảm thiết mãi, rồi buông tay té
xuống đất mà chết. Đến khi mổ bụng ra, người thợ săn thấy ruột
của khỉ mẹ đứt ra từng khúc.
Tương truyền rằng : Ở đất Vũ Bình có giống vượn,
lông đỏ như vang, nõn như tơ, trông xa lấp lánh rất là đẹp mắt.
Hai mẹ con nhà vượn, mẹ thì khôn ngoan và tai quái, còn con thì
ngây ngô và nhẹ dạ, nhưng lúc nào cũng đi liền bên mẹ.
Người thợ săn không thể nào nhử mồi, đánh bẫy
được, mới lấy thuốc độc xát đầu mũi tên, rình lúc vượn mẹ vô ý,
thì bắn ngay. Vượn mẹ bị bắn, biết mình không thể sống được,
vắt sữa xuống cỏ cho con uống, xong rồi lăn ra mà chết.
Người thợ săn quay về phía vượn con, cầm roi
quật vào xác vượn mẹ. Vượn con thấy thế, kêu gào thương xót,
chạy ngay lại gần và người thợ săn bắt sống được.
Lúc về nhà, cứ đêm đêm vượn con nằm phục bên xác
mẹ, thì mới yên. Một đôi khi lại ôm lấy kêu gào, vật vã rất thảm
thiết. Không được mấy hôm vượn con cũng chết.
Than ôi! Vượn là giống vật còn biết thương mẹ,
huống chi là giống người lại nỡ nhẫn tâm quên mẹ, phụ lòng mẹ ư
?
Thế nhưng, nhiều người trong chúng ta lại hành
động thua kém cả loài khỉ. Cha mẹ thì đay nghiến và đánh đập con
cái, còn con cái thì hất hủi và bạc bẽo với cha mẹ.
Theo một bài viết trên báo Phụ nữ Chủ nhật số ra
ngày 29.6.2003 thì tại Thành phố Hồ Chí Minh đã xảy ra một vụ án
đau lòng. Vụ án đau lòng này rất đáng cho chúng ta dừng lại và
suy gẫm.
Một người mẹ nhẫn tâm đổ dầu sôi vào mặt con
gái, người mẫu Võ Thị Thu Trâm, trước ngày cô lên đường tham dự
cuộc thi “Hoa hậu liên lục địa” tại Đức. Lý do người mẹ ấy đưa
ra sau khi sát hại con, đó là bà đã có hai mươi năm mua bán ve
chai, vất vả nuôi con khôn lớn, để rồi khi bắt đầu nổi tiếng, cô
cũng mặc cảm về thân phận người mẹ, lẩn tránh sự kiểm soát của
bà và nhất là đã đối xử tệ bạc..
Bài báo còn đưa ra những trường hợp điển hình
khác nữa. Chẳng hạn mấy ngày trước, một phụ nữ ở huyện Bình
Chánh trong khi cãi cọ với chồng, đã bị chồng đạp vỡ lá lách
phải đi cấp cứu ở bệnh viện. Tòa án tỉnh Vĩnh phú vừa tuyên án
tử hình Trần Văn Nam, do ham chơi và đua đòi đã giết bà nội để
lấy năm chỉ vàng và bảy trăm ngàn đồng. Một đứa con trai trong
những cơn say triền miên thường hay quậy phá, gây sự với cha mẹ
già và đã ra tay giết người cha 74 tuổi bằng bốn nhát dao…
Đọc những mẩu tin trên, ai mà chẳng phải lắc đầu
ngao ngán cho “cái tình đời lạnh lẽo và cái tình người bạc bẽo”
:
- Khỉ thật.
Để kết thúc những chuyện lỉnh kỉnh về khỉ, gã
xin giới thiệu một món đặc sản cho dân bợm nhậu trong những
ngày đầu xuân, đó là món óc khỉ.
Tương truyền rằng khi bà Từ Hi Thái Hậu bên Tàu
mở tiệc thết đãi các quan chức chính gốc Ăng Lê, thì trong thực
đơn có món tuyệt chiêu này. Tuy là tuyệt chiêu, nhưng lại thật
đơn giản. Phía dưới bàn ăn, người ta đóng những chiếc hộc nhỏ.
Trong mỗi chiếc hộc nhỏ, người ta nhốt một con khỉ. Phía trên
bàn ăn, người ta khoét lỗ để cái chỏm đầu của con khỉ được nhô
lên.
Tới lúc các quan chức dùng, thì người hầu bàn
mang dao tới, rồi phụt một cú, cái chỏm đầu của con khỉ bị cắt
ngang, để lộ ra bộ óc còn nguyên vẹn và…đỏ hỏn. Bấy giờ các quan
chức chỉ cần vắt chanh, nêm muối tiêu, rồi lấy thìa xúc mà ăn.
Ăn vào, thập phần bổ béo, còn đầu óc thì trở nên minh mẫn và
thông suốt.
Không hiểu các quan chức lúc bấy giờ cảm nhận
như thế nào, chứ riêng gã khi nhìn thấy người ta làm thịt khỉ
thì đã rùng mình khiếp sợ. Con khỉ bị cạo lông trông giống y
chang một đứa con nít…làm sao mà nuốt cho nổi.
Riêng những ai mình mẩy đau nhức, mắt mũi kèm
nhèm thì trong năm mới này, hãy tìm mua cho được một lạng cao
khỉ, đem về ngâm với rượu mà uống. Uống vào, mình mẩy sẽ khỏe
khoắn. Ngoài ra, cao khỉ còn có tác dụng tuyệt vời, đó là làm
sáng mắt mình mà tối mắt thiên hạ.
- Khỉ thật.
Gã Siêu |
VỀ MỤC LỤC |
|
- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến,
bài vở..., xin gởi về địa chỉ
giaosivietnam@gmail.com
- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục
vụ của Giáo sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các
Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn
gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực
Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh
vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức
Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và
Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quí vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại
www.conggiaovietnam.net
Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị
Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã
sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác
nhau.
TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca
Phạm Quốc Sử
USA
|
|
*************
|
|