Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam

 

 

 

ĐỰƠC CHỌN GIỮA LOÀI NGƯỜI
VÀ CHO LOÀI NGƯỜI  (x. Dt, 5.1)

 

GIÁO SĨ:

Xuất phát từ giáo dân, hiện diện vì giáo dân và cậy dựa vào giáo dân

 

ĐỂ CÙNG LÀM VINH DANH THIÊN CHÚA

 

www.conggiaovietnam.net                          giaosivietnam@gmail.com

Đặc San Điện Tử    Giáo Sĩ Việt Nam    Số 48, Chúa Nhật 26.08.2007


CÁC SỐ BÁO ĐÃ PHÁT HÀNH          MỤC LỤC 

Sứ Mệnh Của Giáo Hội Trong Thế Giới Ngày Nay (tiếp theo)                  Gaudium Et Spes

TRUYỀN GIÁO                                                                                                             GSVN

Linh mục , người được thánh hiến                                              + HY. GB. Phạm Minh Mẫn

HAI CHỊ EM MÁC-TA VÀ MA-RI-A                                                 Hương Vĩnh chuyển ngữ

TRÁNH PHÊ BÌNH – CHÚ TRỌNG ƯU ĐIỂM HƠN LÀ KHUYẾT ĐIỂM     Lm. Lê Văn Quảng

NHỮNG VẤN NẠN XUNG QUANH VẤN ĐỀ ĐỘC THÂN            Lm Lê Công Đức chuyển ngữ

ĐỐI THOẠI VỚI CỘNG SẢN TRUNG QUỐC                                                            Mặc Giao

Nước, lửa và sự chia rẽ                                                      Lm. Jos. Phạm Ngọc Ngôn, Csjb

TÌNH YÊU KHÔNG NGHĨ ĐIỀU XẤU             Lm. Micae-Phaolo Trần Minh Huy chuyển ngữ

Cuộc đua với tử thần                                                    Nguyễn Ánh-Ngọc / Nguyễn Ý-Đức

KHI CHỒNG GIẬN                                                                      Chuyện phiếm của Gã Siêu


Sứ Mệnh Của Giáo Hội Trong Thế Giới Ngày Nay (tiếp theo)

Bản dịch Việt Ngữ của Giáo Hoàng Học Viện Piô X

Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia


 

Chương IV:  Gaudium Et Spes

Sứ Mệnh Của Giáo Hội Trong Thế Giới Ngày Nay (tiếp theo)

 

43. Sự trợ giúp mà Giáo Hội cố gắng nhờ các Kitô hữu mang đến cho hoạt động nhân loại 47*. Công Ðồng khuyến khích các Kitô hữu, công dân của cả hai đô thị, hãy nỗ lực chu toàn cách trung thành những bổn phận trần thế của họ và chu toàn dưới sự hướng dẫn của tinh thần Phúc Âm. Thực sai lầm cho những ai đang khi biết rằng chúng ta không có một quê hương trường tồn ở trần thế và đang phải kiếm tìm một quê hương hậu lai để rồi vì đó tưởng rằng mình có thể xao lãng các bổn phận trần gian 13, như thế là không nhận thấy chính đức tin buộc phải chu toàn các bổn phận đó hoàn hảo hơn, mỗi người tùy theo ơn gọi của mình 14. Ngược lại, cũng sai lầm không kém đối với những ai nghĩ rằng có thể dấn thân hoàn toàn vào công việc trần thế như thể các công việc ấy hoàn toàn xa lạ với đời sống tôn giáo, vì cho rằng đời sống tôn giáo chỉ còn hệ tại những hành vi phượng tự và một vài bổn phận luân lý phải chu toàn. Sự phân ly giữa đức tin mà họ tuyên xưng và cuộc sống thường nhật của nhiều người phải kể vào số những sai lầm trầm trọng nhất của thời đại chúng ta. Và gương mù này ngay trong Cựu Ước các Tiên Tri đã mạnh mẽ tố cáo 15 và trong Tân Ước chính Chúa Giêsu Kitô còn ngăm đe nhiều hơn nữa bằng những hình phạt nặng nề 16. Vậy, không được đem sinh hoạt nghề nghiệp và xã hội mà đối nghịch cách giả tạo với đời sống tôn giáo. Ðối với người Kitô hữu, xao lãng bổn phận trần thế tức là xao lãng bổn phận đối với người lân cận và hơn nữa đối với chính Thiên Chúa, khiến phần rỗi đời đời của mình bị đe dọa. Theo gương Chúa Giêsu đã sống như một người thợ, các Kitô hữu hãy vui mừng vì có thể thi hành mọi hoạt động trần thế mà đồng thời có thể liên kết trong một tổng hợp sống động duy nhất, các cố gắng nhân loại, gia đình, nghề nghiệp, khoa học hay kỹ thuật với các giá trị tôn giáo. Dưới sự điều hướng tối cao của các giá trị tôn giáo này, mọi sự được qui hướng về vinh danh Thiên Chúa.

Những phận vụ và sinh hoạt trần thế thuộc lãnh vực riêng của giáo dân, tuy không độc quyền thuộc về họ. Vì vậy, khi hoạt động, cá nhân hay đoàn thể, với tư cách công dân trần thế, không những họ phải tôn trọng các luật lệ riêng của mỗi ngành nhưng còn phải ra sức tự luyện khả năng chuyên môn thực sự trong các lãnh vực ấy. Họ sẽ sẵn lòng hợp tác với những người cùng theo đuổi những mục đích chung. Nhìn nhận các đòi hỏi và hưởng nhờ sức mạnh của đức tin, khi cần, họ sẽ không do dự đề nghị và thực hiện những sáng kiến mới. Một khi được đào luyện cách thích hợp, lương tâm họ phải đem luật Chúa thấm nhập cuộc sống của xã hội trần gian. Giáo dân hãy mong đợi ánh sáng và sức mạnh tinh thần nơi các linh mục. Tuy nhiên, họ đừng vì thế mà nghĩ rằng: các chủ chăn có đủ thẩm quyền chuyên môn để có thể có ngay một giải pháp cụ thể cho mọi vấn đề xảy ra, kể cả những vấn đề quan trọng. Cũng đừng lầm tưởng các chủ chăn vốn có sứ mạng ấy. Nhưng tốt hơn là chính họ, được đức khôn ngoan Kitô giáo soi dẫn và cẩn thận chú ý các giáo huấn của Giáo Hội 17, hãy nhận lấy trách nhiệm của mình.

Thường thì chính vũ trụ quan Kitô giáo sẽ hướng dẫn họ chọn một giải pháp nhất định nào đó tùy hoàn cảnh. Tuy nhiên, cũng có những tín hữu khác, dầu khá thực tâm, sẽ thẩm định cách khác về cùng một vấn đề, như thường thấy xảy ra; và sự thẩm định đó vẫn được coi là hợp lý như thường. Nhiều người dễ dàng gán ghép với sứ điệp Phúc Âm những giải pháp mà họ đề ra, mặc dầu nhiều khi ngoài ý muốn của họ. Nhưng nên nhớ trong các trường hợp trên, không ai được độc quyền giành lấy thẩm quyền của Giáo Hội để biện minh cho lập trường riêng 48*. Phải luôn luôn nỗ lực soi dẫn nhau bằng đối thoại thành thực, bảo toàn tình tương ái và trước hết mưu cầu công ích.

Người giáo dân có những phận vụ tích cực phải chu toàn trong toàn thể đời sống Giáo Hội. Không những họ phải đem tinh thần Kitô giáo thấm nhuần thế giới nhưng còn được kêu gọi làm chứng cho Chúa Kitô trong mọi hoàn cảnh, ngay giữa lòng cộng đoàn nhân loại.

Còn các Giám Mục đã được ủy thác việc điều hành Giáo Hội Chúa hãy cùng các linh mục của mình rao giảng sứ điệp của Chúa Kitô, sao cho mọi hoạt động trần thế của các tín hữu thấm nhuần ánh sáng Phúc Âm. Hơn nữa, tất cả các chủ chăn hãy nhớ rằng các Ngài sẽ biểu lộ cho thế giới một khuôn mặt của Giáo Hội qua thái độ và ưu tư hằng ngày của mình 18. Qua khuôn mặt ấy, người ta phán đoán về sức mạnh và chân lý của sứ điệp Kitô giáo. Bằng đời sống và lời giảng, hợp cùng các tu sĩ và giáo hữu của mình, các ngài hãy minh chứng rằng Giáo Hội, nguyên bằng sự hiện diện và kho tàng ân huệ của mình, đã là nguồn vô tận của những mãnh lực mà thế giới ngày nay rất cần. Các Ngài hãy trau dồi khả năng bằng cách chuyên cần học hỏi sao cho có thể đóng trọn vai trò trách nhiệm của mình trong khi đối thoại với thế giới và những người thuộc bất cứ lập trường nào. Nhưng, trước hết xin các ngài hãy ghi lòng những lời sau đây của Công Ðồng: "Ngày nay, vì nhân loại ngày càng hiệp nhất về dân sự, kinh tế và xã hội, nên các Linh Mục càng phải loại trừ mọi mầm mống chia rẽ, phải nối kết cố gắng và khả năng mình dưới sự hướng dẫn của các Giám Mục và Giáo Hoàng, để toàn thể nhân loại hiệp nhất trong gia đình Thiên Chúa" 19.

Mặc dù Giáo Hội, với sức mạnh của Chúa Thánh Thần, vẫn là hiền thê trung tín của Chúa mình và không ngừng là dấu chỉ ơn cứu rỗi trong thế giới, tuy nhiên Giáo Hội biết rõ rằng trải qua bao nhiêu thế kỷ vẫn không thiếu những phần tử trong Giáo Hội 20, giáo dân hoặc giáo sĩ, sống bất trung cùng Thánh Thần Chúa. Ngay trong thời đại chúng ta, Giáo Hội không quên sự cách biệt lớn lao giữa sứ điệp do Giáo Hội công bố và sự yếu đuối nhân loại của những người được giao phó rao giảng Phúc Âm. Dầu lịch sử có phê phán thế nào về những khiếm khuyết ấy, chúng ta cũng phải ý thức và mạnh mẽ khử trừ những thiếu sót để khỏi phương hại đến việc rao giảng Phúc Âm. Cũng vậy, trong việc mở rộng tương quan với thế giới, Giáo Hội biết mình phải luôn trưởng thành nhờ kinh nghiệm qua các thế kỷ, Ðược Chúa Thánh Thần hướng dẫn, Mẹ Giáo Hội không ngừng "khuyên giục con cái thanh tẩy và canh tân, để ấn dấu của Chúa Kitô chiếu sáng rạng ngời hơn trên khuôn mặt Giáo Hội" 21.

44. Sự trợ giúp mà Giáo Hội nhận được nơi thế giới ngày nay 49*. Cũng như thế giới cần phải nhìn nhận Giáo Hội như một thực thể xã hội lịch sử và như men của lịch sử, Giáo Hội cũng biết mình đã nhận được rất nhiều nơi lịch sử và sự tiến hóa của nhân loại.

Kinh nghiệm của những thế kỷ đã qua, tiến bộ của khoa học, các kho tàng hàm chứa trong những hình thức văn hóa nhân loại khác nhau, biểu lộ đầy đủ hơn bản tính của chính con người và mở ra những con đường mới dẫn đến chân lý: tất cả những điều ấy đều hữu ích cho Giáo Hội. Thực vậy, chính Giáo Hội ngay từ buổi đầu của lịch sử mình đã ra sức diễn tả sứ điệp của Chúa Kitô bằng những ý niệm và ngôn ngữ của nhiều dân tộc. Hơn nữa, Giáo Hội còn cố gắng dùng sự khôn ngoan của các triết gia để làm sáng tỏ sứ điệp ấy. Làm như thế, nhằm thích nghi Phúc Âm, trong mức độ có thể, với tầm hiểu biết của mọi người cũng như với những đòi hỏi của các nhà hiền triết. Rao giảng lời mạc khải cách thích nghi như vậy còn phải là luật lệ cho mọi công cuộc truyền giáo, bởi vì có như vậy mới khơi dậy trong mọi quốc gia khả năng diễn tả sứ điệp Chúa Kitô theo lối riêng của mình và đồng thời mới cổ võ được sự trao đổi linh động giữa Giáo Hội và những nền văn hóa khác nhau của các dân tộc 22. Ðể xúc tiến những cuộc trao đổi như thế, nhất là trong thời đại chúng ta, thời mà sự vật biến đổi rất nhanh và lối suy tư rất nhiều khác biệt, Giáo Hội đặc biệt cần đến sự đóng góp của những người sống trong thế giới và biết rõ các tổ chức và bộ môn khác nhau, cũng như thấu triệt tinh thần các tổ chức và bộ môn đó, dầu họ có đức tin hay không. Bổn phận của toàn thể Dân Chúa, đặc biệt của các chủ chăn và các nhà thần học là nhờ sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần, đón nghe, phân biệt và giải thích các tiếng nói của thời đại, rồi phán đoán dưới ánh sáng lời Chúa để Chân Lý mạc khải luôn được thấu triệt, được hiểu rõ và trình bày cách thích hợp hơn.

Giáo Hội có một cơ cấu xã hội hữu hình, dấu hiệu của sự hiệp nhất trong Chúa Kitô, nên Giáo Hội cũng có thể được giàu có thêm và thực sự đang được giàu có thêm nhờ sự tiến hóa của cuộc sống xã hội nhân loại, không phải vì định chế do Chúa Kitô ban cho Giáo Hội như thiếu một điều gì, nhưng là để định chế đó được hiểu biết sâu xa hơn, được diễn tả trung thực hơn và được thích nghi hoàn hảo hơn với thời đại chúng ta. Với lòng biết ơn, Giáo Hội nhận thấy rằng Giáo Hội đã được nhiều người thuộc mọi giai cấp và hoàn cảnh giúp đỡ nhiều cách cho chính cộng đoàn cũng như cho từng con cái mình. Quả thực, tất cả những ai phát triển cộng đoàn nhân loại trong phạm vi gia đình, văn hóa, kinh tế, xã hội, chính trị và trên bình diện quốc gia, cũng như quốc tế, đều trợ giúp không ít cho cộng đoàn Giáo Hội, theo như ý định của Thiên Chúa, trong mức độ Giáo Hội lệ thuộc những yếu tố bên ngoài. Hơn nữa, Giáo Hội còn nhìn nhận rằng chính sự chống đối của những kẻ công kích hay bách hại Giáo Hội đã và còn đang có thể giúp ích cho Giáo Hội 23.

45. Chúa Kitô, Alpha và Omega. Khi trao đổi với thế giới những sự giúp đỡ hỗ tương, Giáo Hội nhằm một mục đích duy nhất là: làm cho Nước Chúa trị đến và toàn thể nhân loại được cứu rỗi. Mọi lợi ích mà Dân Chúa trong thời gian hành trình tại thế có thể đem lại cho gia đình nhân loại đều phát xuất từ sự kiện này: Giáo Hội là "bí tích phổ quát cứu rỗi" 24, tỏ bày và đồng thời thực hiện mầu nhiệm tình yêu Thiên Chúa đối với con người.

Quả thực, Ngôi Lời Thiên Chúa, nhờ Người mà muôn vật được tạo thành, đã làm người, là Con Người hoàn hảo, Người cứu rỗi mọi người và kết thâu vạn vật nơi Người. Chúa là cùng đích của lịch sử nhân loại, là điểm qui tụ mọi ước vọng của lịch sử và văn minh, là trung tâm của nhân loại, là niềm vui của tâm hồn và đáp ứng mọi niềm khao khát 25. Chính Người là Ðấng Chúa Cha đã phục sinh từ kẻ chết, đã tôn vinh và cho ngự bên hữu, đặt làm thẩm phán kẻ sống và kẻ chết. Ðược sống động và tụ họp trong Thánh Thần Ngài, chúng ta đang hành trình hướng về chung cục lịch sử nhân loại, phù hợp với ý định yêu thương của Ngài: "kết thâu tất cả trong Chúa Kitô: mọi sự trên trời dưới đất" (Eph 1,10).

Chính Chúa đã nói: "Vậy tiền công của ta sẵn đây rồi, này ta đến gấp mà trả cho mỗi người tùy theo công việc họ làm. Ta là Alpha và Omega, thứ nhất và sau chót, nguyên thủy và cứu cánh" (Kh 22,12-13) 50*.

 


Chú Thích:

(lưu ý: những số ghi chú nhỏ hơn đã được đăng vào những số báo trước)

 

47* Sống trong thế gian tín hữu phải tránh hai thái độ sai lầm: 1) bỏ sót công việc trần thế để chỉ lo cho việc đạo đức; 2) chìm đắm trong công việc trần thế và coi công việc này như không có liên quan gì đến việc đạo đức.

Qua cả hai sự sai lầm trên, người ta tách biệt đời sống tôn giáo và đời sống nghề nghiệp hay đời sống trần thế nếu nói rộng hơn (cuộc giải trí, văn hóa...) và lại hành động theo luân lý cá nhân (số 30).

Ðức tin phải ảnh hưởng trên cả đời sống và ta phải đem tinh thần Phúc Âm vào công việc trần thế: vào nghề nghiệp, vào giao thiệp với người khác, vào văn hóa, vào cuộc giải trí v.v... "Ðối với người Kitô hữu, xao lãng bổn phận trần thế tức là xao lãng bổn phận đối với những người lân cận và hơn nữa đối với chính Thiên Chúa, khiến phần rỗi đời đời của mình bị đe dọa": vì bổn phận trần thế là phương tiện để thực hành đức mến đối với anh em và đối với Thiên Chúa. Không thực hành đức mến tức là phạm đến toàn thể bộ luật (x. Gal 5,14). Cho nên kẻ nào xao lãng bổn phận trần thế hay là tách rời nó khỏi ảnh hưởng của tinh thần Phúc Âm tức là người không sống đạo, họ không phải là người công giáo.

48* "3) Sau khi nhắc lại những nguyên tắc tổng quát trên đây, Hàng Giáo Phẩm Công Giáo Việt Nam chiếu theo những sự kiện lịch sử, chính trị, xã hội, tôn giáo hiện tại trong nước, đồng thanh xác định như sau: a) Không cho phép một đảng phái nào lấy tên là "Công Giáo" hay là "Thiên Chúa Giáo", để rồi đảng ấy có thể xuất hiện như là đảng phái của Giáo Hội Công Giáo tại Việt Nam. b) Kêu mời giáo dân Công Giáo phải ý thức rằng: sức mạnh của họ trước hết phải ở trong tinh thần Chúa Giêsu - tức là tinh thần Phúc Âm được mọi người sống động và chiếu dọi chung quanh, như đã trình bày trong những đoạn nói trên. c) Tuy nhiên để áp dụng nguyên tắc số 2 ở trên, hết mọi người Công Giáo - với tư cách là người công dân - đều có thể tự do ghi tên để gia nhập đảng này hay đảng khác tùy ý, bất cứ là đảng ấy đã thành lập rồi, hay sẽ được những công dân đầy đủ khả năng, can đảm thành lập về sau.

Ghi tên vào một đảng phái như thế, đồng bào Công Giáo không cam kết Giáo Hội, nhưng chỉ cam kết cá nhân mình...

Ðồng bào Công Giáo hoạt động trong đảng phái mình đã lựa chọn, tuy nhiên cả trong hoạt động chính trị (cũng như đời sống cá nhân, gia đình, nghề nghiệp) họ phải là một nhân chứng của Chúa Kitô. Họ phải tìm cách để in sâu vào trong các tâm hồn những luật lệ, những qui chế, tinh thần Phúc Âm và học thuyết xã hội của Hội Thánh.

1) Hiện nay không có một tờ báo Công Giáo nào, hay là một tờ báo có xu hướng Công Giáo nào đã được Hàng Giáo Phẩm chỉ định để làm tiếng nói chính thức cho Công Giáo...

2) Có những báo chí đã được thành lập do một số giáo dân Công Giáo nhiệt thành, quảng đại; đó là quyền lợi riêng của họ và chúng tôi thêm rằng: đó là nghĩa vụ của họ. Chúng tôi để lời khen ngợi họ đã có sáng kiến tốt đẹp như thế, và chúng tôi hết sức khuyên họ hãy tiếp tục bền vững".

(Thư luân lưu của H.Ð.G.M.V.N., ngày 22 tháng 1 năm 1964, x. trong báo Sacerdos, số 27, tháng 3 năm 1964, (trg 170-171; 172-173).

49* Từ xưa tới nay, thế giới cũng đem lại rất nhiều lợi ích cho Giáo Hội. Quả quyết như vậy là xác nhận một sự kiện lịch sử, nhưng có lẽ chỉ gần đây tín hữu mới ý thức về sự kiện ấy. Giáo Hội lãnh nhận nhiều:

1) Trong lãnh vực tư tưởng nhờ các kho tàng của nhiều nền văn minh khác nhau. Tất cả những gì giúp ta hiểu biết hơn về con người và thế giới đều giúp đỡ Giáo Hội: giáo dục, văn hóa, khoa học...

2) Trong lãnh vực cơ cấu xã hội: từ đầu, Giáo Hội đã chịu ảnh hưởng của nếp sống Do Thái, của pháp lý La Mã và Ðức Quốc, và ít hay nhiều của phong tục các dân tộc khác nữa. Pháp lý các xứ truyền giáo đã ảnh hưởng rất nhiều đến pháp lý chung của Giáo Hội chẳng hạn. Hiện nay ta thấy ảnh hưởng của chế độ dân chủ qua những phong trào phân quyền, nhiều cơ quan mới như Thượng Hội Ðồng Giám Mục, Hội Ðồng Giám Mục, Hội Ðồng Linh Mục, v.v...

3) Trong lãnh vực sinh hoạt: khi các Quốc Gia và các Tổ Chức quốc tế kính trọng sự tự do của Giáo Hội, mời Giáo Hội cộng tác, giúp Giáo Hội hoạt động, hay là mặc dầu không muốn nhờ Giáo Hội, nhưng khi các Tổ Chức ấy cố gắng nâng cao con người nhờ việc giáo dục, nhờ việc bảo đảm nhân quyền, v.v... thực ra họ đã làm những công việc có chung mục đích với Giáo Hội.

Là người Việt Nam hay làm việc ở Việt Nam, ta phải nhấn mạnh câu "Rao giảng lời mạc khải cách thích nghi như vậy còn phải là luật lệ cho mọi công cuộc truyền giáo". Sau hơn ba thế kỷ từ khi Phúc Âm tới Việt Nam, phải chăng Ðạo chúng ta còn thấm nhuần màu sắc ngoại quốc quá đáng? Người ngoại giáo có cảm tưởng đó không?

50* Alpha và Omega là chữ đầu và chữ cuối của mẫu tự Hy Lạp. Câu nói có nghĩa là khi dùng các chữ trong mẫu tự, ta có thể viết ra tất cả những gì ta muốn. Vậy thì, nói về Chúa (cũng như về Thiên Chúa Cha: Kh 1,8) có nghĩa là Chúa có toàn quyền để phán xét nhân loại.

 
VỀ MỤC LỤC
TRUYỀN GIÁO
 

Cách đây không lâu, tôi có đọc trên Internet chứng từ do một Đức cha Việt Nam kể lại như sau :

Tại thôn làng nhỏ bé ở miền thượng du Bắc Việt, tất cả đều là người công giáo. Thế nhưng, từ hơn hai mươi năm qua, họ không có linh mục coi sóc. Dầu vậy, họ vẫn tổ chức các buổi đọc kinh và hát thánh ca tại nhà thờ. Đây cũng là nơi họ tổ chức các lễ cưới và rửa tội một cách trọng thể. Tuy gặp nhiều khó khăn, nhưng họ vẫn sống trong an vui và bình thản.

Tiếng đồn về niềm vui của họ đến tai một làng sơn cước. Do đó, dân làng sơn cước này yêu cầu những người công giáo cho người đến dạy họ các bài kinh và thánh ca để họ cũng tìm được niềm vui.

Nhưng dân làng công giáo không tìm được ai : người lớn thì phải đi làm công việc đồng áng, trẻ em thì phải đi học, còn người già cả thì không đủ sức băng rừng leo núi để tới giúp dân làng sơn cước. Chỉ có một người thuộc kinh bổn, thánh ca và biết các nghi thức tôn giáo. Nhưng  đó lại là một người mù.

Sau khi bàn bạc với nhau, dân làng sơn cước đã đồng ý sai người dẫn hai con ngựa đi rước người mù. Người tín hữu tật nguyền này đã ở lại với dân làng bốn tháng. Cứ mỗi tối, sau khi làm việc trở về, dân làng tụ họp với nhau, nay nhà này, mai nhà khác, để tập đọc kinh và hát thánh ca. Sau một thời gian, người giảng viên giáo lý mù đã khảo sát và làm phép rửa cho người dân làng đầu tiên. Rồi người tân tòng này lại rửa tội cho những người khác và cứ như thế cho đến người cuối cùng.

Câu chuyện trên đã làm cho tôi suy nghĩ và nhận ra trong đó cả một chương trình truyền giáo cần phải được áp dụng cho cá nhân cũng như cho cộng đoàn. Thế nhưng trước hết, truyền giáo là gì ?

TRUYỀN GIÁO 

Đọc lại Phúc âm, hẳn chúng ta sẽ nhận ra nỗi ưu tư số một của Chúa Giêsu khi còn ở trần gian, đó là phải làm thế nào để người ta nhận biết tình thương của Ngài, nhờ đó mà được cứu độ. Rất nhiều lần Ngài đã đề cập tới vấn đề này :

- Thày đã ném lửa vào mặt đất, và Thày những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên. (Lc 12,49).

- Cả các anh nữa, hãy vào làm vườn nho cho tôi đi. (Mt 20,4).

Và rõ rệt hơn cả đó là lệnh lên đường của Ngài trước khi về trời :

- Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở nên môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy cho họ tuân giữ những điều Thày đã truyền cho anh em. (Mt 28,19-20).

Chính vì nỗi khắc khoải ấy, Ngài đã chọn lựa các tông đồ và thiết lập Giáo hội để cộng tác với Ngài qua giòng thời gian trong sứ mạng cứu chuộc nhân loại.

Ngày xưa, truyền giáo thường được hiểu là Kitô hóa, nghĩa là làm sao rửa tội và đem vào Giáo hội  càng nhiều người càng tốt. Quan niệm như thế nhắm tới số lượng hơn là nhắm tới chất lượng và đã tạo nên những Kitô hữu “hữu danh vô thực”, nghĩa là chỉ mang tên gọi Kitô hữu, chứ chưa thực sự sống niềm tin của mình.

Cụ thể tại các xứ đạo, phần đông những người trở lại vì lý do hôn phối, cần phải rửa tội để lấy vợ lấy chồng, hay để hợp thức hóa hôn nhân, nếu không có sự hỗ trợ của những người thân yêu, thì khó mà sống đạo, nếu không muốn nói là sẽ bỏ đạo, như chúng ta thường bảo :

- Con quì lạy Chúa Ba Ngôi,

  Con lấy được vợ, con thôi nhà thờ.

Còn hiện nay, truyền giáo chủ yếu được hiểu là phúc âm hóa, nghĩa là không chỉ nhằm đến việc rửa tội cho nhiều người, mà quan trọng hơn là phải làm cho tinh thần yêu thương của Đức Kitô thấm nhập vào tâm hồn mọi người cũng như ảnh hưởng tới đời sống xã hội trong mọi lãnh vực, bằng chứng từ đời sống của mình.

  Thực vậy, đưa người khác vào Giáo hội là điều cần thiết và quý hóa. Thế nhưng điều cần thiết và quí hóa hơn chính là làm sao để họ biết thực sự sống tinh thần của Đức Kitô. Rửa tội cho nhiều người mà thôi chưa đủ, mà còn phải giúp họ đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa. Bởi đó, truyền giáo là truyền một cách sống mới. Nếu chỉ lo dạy giáo lý và rửa tội, chắc chắn chúng ta sẽ không thể nào chạy đua với thời gian. Chẳng hạn chỉ tính riêng ở Việt Nam, với số dân gần 80 triệu, trong đó có khoảng 6 triệu là công giáo. Và mỗi năm có chừng 20.000 người theo đạo, thì chúng ta phải mất 3.300 năm nữa mới làm cho tất cả số đồng bào hôm nay được theo đạo.

Chính vì thế, Công đồng Vaticanô II đã nhấn mạnh tới việc truyền giáo trong môi trường. Sắc lệnh Tông đồ Giáo dân đã viết như sau :

- Làm tông đồ trong môi trường xã hội có nghĩa là cố gắng đem tinh thần Kitô giáo thấm nhuần tư tưởng, phong tục, luật lệ và cơ cấu của cộng đồng nơi họ sống. (TĐ số 13)

Việc truyền giáo trong môi trường phải khởi đi từ chính cuộc sống, từ chính đời thường. Trong chiều hướng đó, Đức Hồng y Cardin (?),người sáng lập phong trào Thanh Lao Công, có nói :

- Khi tôi gặp những người lao động trẻ, cũng như những người lao động lớn tuổi, tôi luôn hỏi họ : nhà bạn ở đâu ? Bạn làm ở hãng nào ? Bạn lãnh lương bao nhiêu ? Bạn có thời giờ rảnh rỗi để chăm sóc con cái không ? Chứ tôi không hỏi : Bạn có đi lễ không ? Bạn vào hội đoàn công giáo nào ?

Muốn truyền giáo trong môi trường, chúng ta phải chú ý đến trọng tâm của cuộc sống, của đời thường, nơi con người thực sự sống cuộc sống của mình. Công đồng Vaticanô II, trong hiến chế về Giáo hội cũng đã viết :

- Họ sống giữa trần gian, nghĩa là giữa tất cả cũng như từng công việc và bổn phận ở đời, trong những cảnh sống thường ngày ở gia đình hay ngoài xã hội. Tất cả những điều đó như dệt thành cuộc đời của họ. Đó chính là nơi họ được Chúa mời gọi thi hành sứ vụ riêng của họ. Sứ vụ đó là góp phần vào việc thánh hóa thế giới từ bên trong như men nhờ có tinh thần Tin mừng thúc đẩy. Họ còn làm cho người khác thấy Đức Kitô, nhất là qua đời sống, qua lòng tin, lòng cậy và lòng mến của họ. (GH số 31).

Việc truyền giáo trong môi trường đòi hỏi phải kiên trì và dài hạn, bắt đầu từ những công việc nhỏ mọn như hạt cải.

Trong một buổi chia sẻ kinh nghiệm sống, sau khi nghe Lời Chúa phán dạy : các con là muối, là men…Tuyến, giáo sinh sư phạm năm thứ nhất, cho biết trong kỳ thi cuối năm vừa qua rất nhiều người đã “quay phim”, nhưng Tuyến đã cố gắng tự làm bài chứ không gian lận.

Thu, học sinh lớp 12, cho biết trong lớp các bạn hay xả rác. Để làm sạch cho  lớp, mỗi lần thấy giấy vụn, Thu lặng lẽ cúi xuống lượm và bỏ vào sọt rác. Thế nhưng, mấy lúc sau này, để chọc quê Thu, các bạn đã xé giấy vụn thật nhỏ và vứt bừa bãi làm Thu nhặt  không xuể và thế là Thu chẳng thèm nhặt nữa.

Qua cuộc kiểm điểm đời sống và với sự góp ý của cộng đoàn, Tuyến và Thu đều thấy rằng vấn đề không phải là làm gương sáng, làm anh hùng cá nhân, làm bông sen giữa bùn, nhưng là làm muối trong thức ăn, làm men trong bột. Tuyến phải làm sao cho các bạn cũng như cho cả lớp cùng thấy là không nên gian lận, nhất là đối với giáo sinh, những nhà mô phạm sau này. Thu phải làm sao cho các bạn khác cùng nhặt rác với mình hay làm sao cho không còn ai xả rác nữa.

Như vậy, truyền giáo trong môi trường không chỉ nhằm thiết lập giáo điểm để dần dần lôi kéo họ đến với Chúa, mà còn phải nhằm thay đổi con người, để rồi chính con người sẽ thay đổi xã hội. Truyền giáo hôm nay là hiện diện, làm chứng và chia sẻ. Người truyền giáo là người được thôi thúc và hướng dẫn bởi Tin mừng, nhưng đồng thời cũng là người sống giữa mọi người, chia sẻ thân phận của mọi người và cùng với họ hướng cuộc đời về những giá trị của Tin mừng.

Chính vì thế, trong phạm vi cá nhân cũng như xã hội, chúng ta cần phải xóa bỏ quan niệm tách biệt đạo và đời, hay chia cuộc sống thành những ngăn nhỏ hoàn toàn biệt lập và đức tin cũng chỉ chiếm một trong số những ngăn nhỏ đó. Trái lại, chúng ta cần phải đem đạo vào đời, tinh thần đức tin phải thấm nhập mọi sinh hoạt của chúng ta, từ tư tưởng đến lời nói và việc làm. Như trái đất xoay quanh mặt trời thế nào thì cuộc đời chúng ta cũng phải xoay quanh Đức Kitô như vậy, để rồi chúng ta có thể nói lên như thánh Phaolô :

- Dù ăn, dù uống, hay làm bất cứ việc gì, anh em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa. (1Ccor 10,31)

- Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi. (Gal 2,20)

Mẹ Têrêxa Calcutta không nói nhiều, nhưng cuộc đời của mẹ đã là bài giảng hùng hồn về một Thiên Chúa hiện diện và yêu thương con người. Mẹ đã mang Đức Kitô đến với những kẻ  không chỗ tựa nương, những kẻ bị loại ra khỏi xã hội. Bằng tình yêu phục vụ, mẹ đã đem sứ điệp Tin mừng đến với mọi người, thuộc mọi quốc gia.

Tóm lại, chúng ta có thể định nghĩa một cách đơn giản :

- Truyền giáo chính là loan báo Đức Kitô, làm cho Tin mừng được thấm nhập vào từng tâm hồn, từng môi trường bằng lời nói, bằng việc làm, hay nói cách khác, bằng cả cuộc sống của mình.

Như thế, bổn phận truyền giáo phải là một bổn phận gắn liền với bản tính của Giáo hội. Thực vậy, trong Sắc lệnh về Truyền giáo, công đồng Vaticanô II đã viết :

- Tự bản tính, Giáo hội lữ hành phải truyền giáo, vì chính Giáo hội bắt nguồn từ sứ mạng của Chúa Con và Chúa Thánh Thần theo ý định của Thiên Chúa Cha. (TG số 2).

Cũng vậy, trong Sắc lệnh Tông đồ Giáo dân, Công đồng đã xác quyết :

- Giáo hội được khai sinh là để làm cho nước Chúa Kitô mở rộng trên khắp hoàn cầu, hầu làm vinh danh Thiên Chúa Cha : tức là làm cho mọi người tham dự vào việc chuộc tội và cứu rỗi, để rồi nhờ họ, toàn thể vũ trụ thực sự được qui hướng về Chúa Kitô. (TĐ số 2).

Bổn phận truyền giáo là một bổn phận mang tính cấp bách như lời Chúa đã nói :

- Lúa chín đầy đồng  mà thợ gặt lại ít, vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về. (Lc 10,2).

Theo thống kê của bộ Truyền giáo, dân số trên thế giới vào đầu năm 2000 là 6.055.049.000 người trong đó có 1.056.920.000 người công giáo,  tỷ lệ gần 17%. Riêng tại châu Á tỷ lệ mới được khoảng 3%. Còn ở Việt Nam là 7,5%. Từ đó, chúng ta nhận thấy rất nhiều người còn ngồi trong tăm tối, chưa nhận biết ánh sáng Tin mừng của Chúa.

Bổn phận truyền giáo là một bổn phận chung cho mọi Kitô hữu, không phân biệt giáo sĩ, tu sĩ hay giáo dân. Sở dĩ như vậy cũng là điều dễ hiểu, bởi vì bất kỳ chi thể nào cũng có bổn phận phải làm cho thân thể được sống và phát triển theo cách thức riêng của mình. Cũng vậy, sống trong lòng Giáo hội và là phần tử của Giáo hội, chúng ta có bổn phận phải làm cho Giáo hội được lớn lên. Công đồng Vaticanô II đã khẳng định :

- Mỗi Kitô hữu là một chi thể của Giáo hội, được trao phó một nhiệm vụ độc đáo, không thể thay thế cũng không thể ủy thác cho người khác được.

Trong sắc lệnh về “Tông đồ Giáo dân”, Công đồng cũng viết :

- Trong nhiệm thể Đức Kitô tức Giáo hội, toàn thân “tùy theo công dụng khả năng từng phần tử khiến thân thể được phát triển” (Eph 4,16).

Hơn thế nữa, khi nhận được một tin vui, chúng ta thường muốn nói cho người khác được biết để cùng chia sẻ với chúng ta. Cũng vậy, sứ điệp Đức Kitô đem đến là một Tin mừng. Một khi đã đón nhận Tin mừng của Ngài, chúng ta cũng có bổn phận phải loan báo và chia sẻ Tin mừng ấy cho những người chung quanh, bởi vì đã lãnh nhận nhưng không thì cũng phải cho đi nhưng không.

Nếu thực sự gắn bó với Đức Kitô, chúng ta sẽ phải cố gắng làm cho mọi người nhận biết và yêu mến Ngài. Đọc lại Phúc âm, chúng ta thấy, sau khi nghe Gioan Tiền hô giới thiệu về Chúa Giêsu :

-  Đây là Chiên Thiên Chúa.

Andrê cùng với một môn đệ khác đã đi theo Chúa Giêsu và ở lại với Ngài suốt ngày hôm ấy. Sau đó, Andrê gặp anh mình là Simon và dẫn anh mình đến cùng Chúa Giêsu. (Gio 1,35-42).

Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, trong sứ điệp ngày truyền giáo năm 2001, đã viết :

- Ai đã gặp được Đức Kitô rồi, thì không thể chỉ giữ lại cho riêng mình mà thôi.

Có như vậy, ước nguyện của Chúa  mới trở thành sự thật :

- Xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển, triều đại Cha mau đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. (Mt 6,9-10).

Để rồi cuối cùng chỉ còn một đoàn chiên và một chủ chiên :

- Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi, và sẽ chỉ còn một đoàn chiên và một mục tử. (Gio 10,16).

Tuy nhiên, để đạt tới mục đích ấy, mỗi người chúng ta phải tích cực góp phần vào công cuộc truyền giáo của Giáo hội, bởi vì như lời thánh Phaolô đã xác quyết :

- Làm sao họ kêu cầu Đấng họ không tin ? Làm sao họ tin Đấng họ không được nghe ? Làm sao mà nghe, nếu không có ai rao giảng ? Làm sao mà rao giảng, nếu không được sai đi ? Như có lời chép rằng : Đẹp thay những bước chân sứ giả loan báo những tin mừng. (Rom 10,14-16).

Và như chúng ta đã nói :

- Có nhiều cách rao giảng. Không phải chỉ rao giảng bằng lời nói, mà còn phải rao giảng bằng việc làm, bằng chính cuộc sống của mình.

Con người thời nay có quá nhiều những lời hào nhoáng của những chương trình quảng cáo, những lời hứa hẹn của các chính khách khi mùa bàu cử trở về, những lời giảng hùng hồn của các linh mục trong thánh lễ. Nói thì nhiều mà làm chẳng được bao nhiêu. Trăm nghe không bằng một thấy. Vì vậy, họ rất cần những chứng từ sống động xuất phát từ lòng cuộc đời.

Đức Thánh Cha Phaolô VI trong tông huấn “Loan báo Tin mừng” đã dạy :

- Tin mừng trước tiên phải được loan báo bằng cách làm chứng.

Tuy nhiên, để trả lời cho câu hỏi làm chứng là như thế nào, Đức Thánh Cha đã viết  :

- Cứ xem một Kitô hữu hay một nhóm Kitô hữu, đang sống giữa cộng đồng những con người, mà tỏ ra khả năng thông cảm và đón nhận, thái độ chia sẻ cuộc đời và vận mệnh với kẻ khác, tình liên đới trong các nỗ lực chung nhằm tất cả những gì cao thượng và tốt lành. Cứ xem họ chiếu tỏa, một cách thật đơn sơ và hồn nhiên, niềm tin của họ vào những giá trị vượt xa những giá trị thông thường và lòng trông cậy vào những gì người ta không trông thấy, không dám mơ tưởng. Bằng cách làm chứng không lời như thế, những người Kitô hữu kia gợi lên những câu hỏi không tránh được trong tâm trí những ai nhìn thấy họ sống : Tại sao họ như thế ? Tại sao họ sống như   vậy ? Cái gì – hay ai – đang thôi thúc họ ? Tại sao họ ở giữa chúng ta ? Làm chứng như thế đã là loan báo Tin mừng một cách thầm lặng mà rất mạnh mẽ và hiệu quả. Đó là một cử chỉ khai mào cho việc Phúc âm hóa. (số 21).

Loan báo Tin mừng bằng cách làm chứng, nghĩa là bằng chính đời sống, bằng chính cách ăn nết ở phù hợp với điều mình tin. Đơn giản chỉ có thế. Bởi đó, mỗi người tín hữu đều có thể và phải thực hiện nơi cá nhân, nơi gia đình và nơi cộng đoàn của mình, để góp phần nhỏ bé vào việc chiếu tỏa ánh sáng Tin mừng. 

còn tiếp

GSVN

VỀ MỤC LỤC

Linh mục , người được thánh hiến  

 

(29.6.2007, lễ trao tác vụ Linh Mục, Nhà Thờ Chính Tòa SG) 

Anh Chị Em rất thân mến, 

1.  Quy tụ trong nhà Chúa hôm nay, gia đình giáo phận cùng nhau cử hành lễ trao tác vụ LM cho 18 phó tế. Trước hết, tôi xin gởi lời chào thân ái đến anh em linh mục, anh chị em tu sĩ và giáo dân, các phụ huynh và các tiến chức.  Đồng thời, với tư cách là người đứng đầu trong gia đình, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đối với các vị đồng hành với các tiến chức trong hành trình đào tạo, đối với quý gia đình phu huynh và tất cả những ai đã góp phần vật chất và tinh thần để cung những người thợ cho vườn nho của Chúa, đáp ứng nhu cầu của đoàn chiên Chúa trong TP nầy. 

Qua nghi thức trao tác vụ LM, TC sẽ thánh hiến các tiến chức, sẽ trao ban cho họ ơn thánh hiến.  Xin mọi người hãy dành một ít phút để tâm suy nghĩ về ý nghĩa của ơn thánh hiến nầy và tìm cách vun phân tưới nước cho ơn thánh hiến đó phát triển và đơm bông kết trái cho cộng đồng dân Chúa. 

2.  Ơn thánh hiến là ơn trao cho các tiến chức khả năng và trách nhiệm trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô.  Khả năng trở nên đồng hình đồng dạng với CK nghĩa là gì?  Thưa có nghĩa là trở nên giống CK là Lời yêu thương của TC ngỏ với dân Người, trở nên giống CK là tấm bánh bẽ ra vì sự sống con người, trở nên giống CK là Đấng thánh thiện như Cha trên trời, là Đấng hiền lành và khiêm tốn phục vụ cho Tin Mừng và phần rỗi của mọi người.  Tóm lại, ơn thánh hiến là ơn giúp cho LM khắc hoạ lại khuôn mặt CK Mục tử như lòng Chúa mong ước.   

3.  Vì phần rỗi của mọi người, ơn thánh hiến trao cho LM những nhiệm vụ gì?  Thưa ơn thánh hiến trao cho LM những nhiệm vụ rất cụ thể nầy: (1) chiếu toả ánh sáng chân lý của CK khi giảng dạy, (2) mang lấy tâm tình yêu thương và hy sinh của CK khi cử hành các bí tích, (3) bày tỏ lòng nhân hậu và bao dung của CK khi giao tiếp với mọi người, (4) mặc lấy phong cách hiền lành và khiêm tốn phục vụ của CK khi đồng hành với cộng đoàn tín hữu trong mọi sinh hoạt, mặc lấy thái độ của CK trân trọng và chăm lo cho sự sống và phẩm giá của mọi người, đặc biệt người nghèo khổ, bất hạnh.

4.  Trên đường bước theo Chúa Kitô, trở nên giống CK, LM còn có bổn phận thi hành Lời Chúa dạy hãy quên mình và bỏ mình. 

(1) Quên mình có nghĩa là gì?  Thưa có nghĩa là phải từ bỏ cách suy nghĩ và hành động theo ý riêng ích kỷ hẹp hòi, để tâm trí luôn tìm ý Chúa được thể hiện qua Lời Chúa, qua giáo huấn và đời sống của Giáo Hội, và chuyên tâm thi hành ý Cha trên trời trong mọi tình huống của cuộc đời. 

(2) Bỏ mình có nghĩa là gì?  Thưa có nghĩa là phải rũ bỏ thói quen chiều theo lòng tham sân si, rập khuôn theo thói đời và sự khôn ngoan thế gian, để tâm hồn luôn mở rộng cho sự soi sáng và dẫn dắt của Chúa Thánh Thần trên Đường Giêsu là đường dẫn đến chân lý và yêu thương phục vụ. 

5.  Trong hành trình trở nên giống CK, LM luôn có CK đồng hành như Người đã đồng hành với hai môn đệ về làng Eâmau.  Ngoài ra, LM được CK ký thác cho Mẹ Người, như đã ký thác người môn đệ thân yêu. 

Giờ dây tôi cũng ký thác anh em tiến chức cho sự phù trợ và giáo dục của Người Mẹ Hiền Maria, ký thác cho sự nâng đỡ và lời cầu nguyện của cộng đoàn dân Chúa, của hàng linh mục, của gia đình thân thuộc. 

Anh em tiến chức hãy đón Người Mẹ Hiền và mọi thành viên trong gia đình về nhà mình, hãy luôn gần gũi với mọi người. Nếu được thế, tôi tin rằng cuộc đời của anh em sẽ chan chứa bình an và niềm vui, anh em sẽ tìm gặp lẽ sống trong công cuộc xây dựng niềm tin yêu và hy vọng cho gia đình thân thuộc của mình, cho gia đình giáo xứ và giáo phận của chúng ta. 

Xin TC hoàn tất việc Người đã khởi sự nơi anh em.  Xin TC chúc lành cho mọi người góp phần và hỗ trợ cho việc hình thành và đào tạo những mục tử như lòng Chúa mong ước.

+ HY. GB. Phạm Minh Mẫn

VỀ MỤC LỤC
HAI CHỊ EM MÁC-TA VÀ MA-RI-A

 

Trong khi thầy trò đi đường, Chúa Giêsu vào làng kia. Có một người phụ nữ tên là Mác-ta đón Người vào nhà. Cô có người em gái tên là Ma-ri-a. Cô nầy cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người dạy. Còn cô Mác-ta thì tất bật lo việc phục vụ.  

Cô tiến lại mà nói: ‘Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ mà Thầy không để ý tới sao? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay!’ Chúa đáp: ‘Mác-ta! Mác-ta ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Ma-ri-a đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi.’ (Lc 10, 38-42)

***

Trước tiên, tôi phải thú nhận rằng tôi có cảm tình với hai chị em nầy, có lẽ vì hai trong số năm chị em của  tôi có tên gọi là Mác-taMa-ri-a. Thôi bây giờ để chuyện đó sang một bên để tôi có thể tiếp tục suy tư với một lương tâm thanh thản. Tôi muốn nêu lên một câu hỏi. Ai trong hai chị em đó mà bạn cảm thấy buồn cho họ? Tôi không có một chút nghi ngờ nào là bạn có cảm tình với cô Mác-ta.

Quá rõ ràng 

Phúc Âm thật chính xác cho cuộc sống, cuộc sống của bạn và của tôi. Chúng ta đã rơi vào những hoàn cảnh tương tự. Bạn đã làm việc tất bật, làm việc túi bụi và hết hơi, và ước mong phải chi có thêm đôi cánh tay khác nữa. Tuy nhiên những người chung quanh bạn không quan tâm đến những gì bạn đã phải làm.  

Ban đầu bạn chịu đựng trong thinh lặng nhưng chẳng mấy chốc bạn bị tổn thương. Bạn bị cuốn lôi vào chỗ phản kháng như Mác-ta đã làm khi chị nói: “Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ mà Thầy không để ý tới sao? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay!” (Lc 10, 40)

Rõ thật bất công kinh khủng. Ngay cả một đứa con nít có thể nhận thấy Ma-ri-a ngồi thừ ra đó và tán gẫu với khách, trong khi để người chị làm tất cả mọi việc trong bếp một mình. Tuy nhiên Chúa Giêsu nhận thấy điều đó như thế nào. Thay vì đứng về phía Mác-ta, Chúa Giêsu đã theo phía Ma-ri-a. Điều đó xem ra không hợp lý. Nhưng cuộc sống hợp lý từ khi nào? Bất cứ ai tưởng rằng cuộc sống hợp lý thì đã nhầm lẫn nghiêm trọng.  

Bị quấy rầy và phiền nhiễu

Mác-ta, Ma-ri-a và người em là La-da-rô ở trên Con Đường Chính (Main Street) đi qua Bê-ta-ni. Mác-ta, Ma-ri-a và La-da-rô không phải là những cộng sự viên, những người phụ tá hay những môn đệ của Chúa Giêsu. Họ chỉ là những người bạn tốt.  

Be-ta-ni ở trên Con Đường Chính cách trung tâm Giê-ru-sa-lem khoảng một dặm đường. Bất cứ khi nào Chúa Giêsu đi trên con đường lên Giê-ru-sa-lem, Ngài không thể đi ngang qua cửa nhà họ mà không ghé vào nhà và họ luôn mầng rỡ đón tiếp Ngài.

Trong trường hợp nầy, Ngài đang trên đường đi lên kinh thành Giê-ru-sa-lem lần cuối cùng. Đoạn chót cuộc đời của Ngài đang gần kề. Chỉ còn trên tám ngày nữa thôi. Ngài bị quấy rầy và bị phiền nhiễu bởi những người đang âm mưu giết Ngài. Ngài phải làm việc kiên trì và kiệt sức. Vào ngày hôm đó, tất cả những gì Ngài mong muốn là được thư giãn, trò chuyện và có thể, nhấp một hai ly rượu hay bất cứ loại giải khát nào mà họ có.

Chính vào thời điểm đó mà Mác-ta quyết định nhập cuộc, rối rít lên vì muốn dọn một bữa ăn thịnh soạn. Do đó chị đã hối hả đi dọn bữa với những chén dĩa lách cách và ăn nói rối rít. Một bữa ăn thịnh soạn có thể không phải là điều cuối cùng mà Chúa Giêsu mong muốn. Tất cả những gì Ngài ước ao hôm đó là trình bày không úp mở với bạn bè trong một khung cảnh ấm cúng tương đắc.  

Ma-ri-a đã nhận ra điều đó, còn Mác-ta thì không. Vào những khi khác, có thể Chúa Giêsu sẵn sàng chấp nhận một bữa ăn thịnh soạn, nhưng lần nầy, Ngài mong được yên lặng và bình an. Ma-ri-a hiểu, nhưng Mác-ta không hiểu.

Nhạy cảm

Tôi thiết nghĩ đoạn Phúc Âm hôm nay nói về sự nhạy cảm. Rất thường khi, chúng ta muốn tỏ ra ân cần với những người mình yêu và có thể chúng ta rất ân cần nữa. Nhưng sự tử tế theo chúng ta nghĩ và cũng như Mác-ta ở đây, cuối cùng đôi khi gây tai hại cho người khác bởi lòng tử tế của chúng ta. 

Một sự kết thúc có tính cách lý tưởng cho câu chuyện nầy có lẽ là hai chị em sẽ thay đổi công tác cho nhau sau bữa ăn. Ma-ri-a nên đi vào nhà bếp, rửa chén bát, còn Mác-ta ngồi bên cạnh Chúa Giêsu, nín thở, say đắm nghe mỗi lời Ngài nói.

Điều đó xem như chấm dứt câu chuyện một cách hài hòa và xua tan cảm giác bất công. Buồn thay, cuộc sống không phải luôn luôn rõ ràng ngăn nắp như thế. Thông thường ai dọn ăn trưa, cũng dọn ăn tối luôn và ai rửa chén bát ban trưa, cũng rửa chén bát ban tối.

Ở trong mỗi người chúng ta đều có cả Mác-ta lẫn Ma-ri-a. Chúng ta có thể làm nên một sự khác biệt đối với người thân cận và yêu thương nhất của chúng ta là chúng ta biết tìm cách đạt được sự quân bình hợp lý! 

LM Vincent Travers, OP

Hương Vĩnh chuyển ngữ

VỀ MỤC LỤC
TRÁNH PHÊ BÌNH – CHÚ TRỌNG ƯU ĐIỂM HƠN LÀ KHUYẾT ĐIỂM

  

Thông thường thì con người thích phê bình người khác hơn là tán dương vì ai cũng muốn cho thấy mình có một cái gì hơn người khác. Chúng ta có thể thấy được điều đó qua phương cách chúng ta giáo dục con trẻ. Để tỏ ra là những con người có hiểu biết hơn, khôn ngoan hơn, kinh nghiệm hơn, chúng ta thích chú trọng đến những sai lỗi của con trẻ để sửa dạy hơn là chú trọng đến những ưu điểm để khuyến khích. Nhưng đó là một phương cách không thích hợp cho việc giáo dục của chúng ta.

Kỳ Vũ, 8 tuổi, vừa viết xong lá thư cảm ơn cho bà nó. Mẹ nó bảo muốn coi thử. Một cách miễn cưỡng, nó đưa thư cho bà mẹ coi. “Ô, Kỳ Vũ! Hãy coi lối viết văn kỳ cụïc của con. Sao con lại viết chữ xiên xẹo vậy ? Có mấy chữ con viết sai chính tả. Con không thể gởi một bức thư lộn xộn như vậy cho bà con!” Bà mẹ viết ra những chữ sai và bảo cậu bé viết lại bức thư. 

Nhưng càng viết cậu bé càng sai nhiều hơn. Bỏ hết trang giấy nầy đến trang giấy khác, sau cùng cậu bé bật khóc và ném bút xuống. “Con không thể viết đúng được nữa”, nó hét lên. Bà mẹ ra lệnh: “Thôi đủ rồi. Con đi làm việc khác trong vòng nửa tiếng đồng hồ, rồi trở lại viết.” 

Sự nhấn mạnh đến các lỗi lầm là một đại họa. Cậu bé thích thú viết lá thư cho bà và bà nó cũng sẽ sung sướng với lá thư của nó. Nhưng bây giờ nó đâm ra ghét lá thư. Khi bà mẹ tập trung sự chú ý vào những sai lỗi, bà đã làm cậu bé đổi hướng từ cái tích cực sang cái tiêu cực. Nó trở thành sợ làm điều sai lỗi. Sự sợ đó dày vò nó đến nỗi càng làm càng nhiều lỗi. Nó thạät sự thất đảm và đó là một đại họa cho nó. 

Khi chúng ta để ý đến những lầm lỗi, chúng ta làm cho những con trẻ chúng ta mất hết tinh thần. Chúng ta không thể xây dựng trên những khuyết điểm mà phải xây dựng trên những ưu điểm.

Kỳ Vũ đã gặt hái được nhiều biết bao nếu bà mẹ biết ca tụng tư tưởng của nó muốn viết thư cho bà nó. Lẽ ra, bà nên nhấn mạnh đến phương diện tích cực và cho nó một sự thích thú. Nó có khuynh hướng muốn làm nhiều điều cần có đầu óc suy nghĩ. Bà mẹ nên tìm những mẫu viết thư hay, giới thiệu cho nó, và khuyến khích nó với những lời lẽ: “Mẹ thấy con đã viết một lá thư hay. Rất tốt. Con hãy cố gắng làm như vậy!” Cậu bé tất nhiên cảm thấy được khích lệ, nên sẽ thích thú và cố gắng làm tốt hơn với sự tự tin vào khả năng của nó. Bà mẹ không nên quá để ý vào việc viết sai chính tả. Sự ước muốn liên hệ, đối thoại là điều quan trọng lúc nầy. Không nên quá đòi hỏi nơi một đứa trẻ.

Chúng ta mất nhiều thời giờ với con trẻ, canh chừng để xem chúng có làm điều gì sai lỗi và lập tức chúng ta nhảy vào để cứu chúng. Hệ thống huấn luyện con trẻ chúng ta xem ra dựa trên tư tưởng nầy là: chúng phải được huấn luyện ra khỏi lỗi lầm và đi vào nhân đức. Chúng ta sống trong nỗi lo sợ rằng con trẻ chúng ta sẽ lớn lên xấu, học thói xấu, phát triển những cử chỉ thái độ không mấy tốt đẹp. Chúng ta canh chừng chúng và cố gắng ngăn ngừa khỏi những sai lỗi. Một cách thức như thế cho thấy thiếu niềm tin vào con trẻ chúng ta. Điều đó gây xúc phạm và làm chúng mất can đảm. Với sự nhấn mạnh trên những tiêu cực, làm sao chúng ta có thể mong đợi đứa trẻ cảm thấy có đủ năng lực để tiến tới sự hoàn thành một công việc gì được?

Khi được sửa sai tức khắc, đứa trẻ không những cảm thấy nó luôn sai lỗi mà con trở nên sợ sệt về việc làm sai lỗi đó. Sự sợ như thế đưa đến việc không muốn làm bất cứ một chuyện gì vì sợ có thể làm sai lầm. Sự sợ ám ảnh nó đến nỗi làm mất khả năng hoàn thành công việc. Nó sẽ bị ấn tượng nầy là: “ngoại trừ mình hoàn toàn, mình sẽ không có giá trị gì.” Tuy nhiên, toàn vẹn là một điều không thể có được. Và cố gắng để được toàn vẹn ít dẫn tới sự thăng tiến mà thường chỉ dẫn tới sự đầu hàng trong thất vọng. 

Tất cả chúng ta đều sai lỗi. Nhiều lần chúng ta  ngay cả không biết rằng hành động đó là một sai lỗi cho đến khi chúng ta làm xong và nhìn thấy những kết quả xảy ra. Thỉnh thoảng chúng ta ngay cả phải làm những lầm lỗi để khám phá ra rằng đó là một sai lầm. Chúng ta phải có can đảm nhận là mình bất toàn và cũng cho phép con trẻ chúng ta trở thành bất toàn. Chỉ trong cách thế đó, chúng ta mới lớn lên, tiến lên, và hoàn thành công việc. Con trẻ chúng ta sẽ có can đảm và cố gắng học hành hơn nếu chúng ta bớt chú trọng đến những sai lỗi và chú ý đến những gì tích cực hơn. Làm một lầm lỗi thì không quan trọng cho bằng điều chúng ta cần làm để cải thiện ngay sau khi chúng ta nhận thức được.

lm.lêvănquảng, tiến sĩ tâm lý

VỀ MỤC LỤC
NHỮNG VẤN NẠN XUNG QUANH VẤN ĐỀ ĐỘC THÂN

 

Tác phẩm Giáo Hội Cần Loại Linh Mục Nào? (tiếp theo)

Lm Giuse Lê Công Đức chuyển ngữ từ bản tiếng Anh:

PRIESTHOOD IMPERILED,   Tác giả: Lm. BERNARD HARING, C.SS.R. 

 

Khi nói về sự độc thân vì Nước Trời, chúng ta phải hết sức cẩn thận để phân biệt giữa độc thân xét như một sự chọn lựa tự do nơi tự thân nó và sự độc thân được chọn lựa như một điều kiện dứt khoát để được truyền chức linh mục.

Những xem xét khẩn trương

Những xem xét xa hơn nữa sẽ giúp chúng ta phân biệt giữa sự chấp nhận tự do đích thực đối với đời độc thân xét như là tiêu chuẩn được kỳ vọng cho chức linh mục của đời tu và, đàng khác, sự chấp nhận tự do không chủ yếu cho giá trị và hấp lực nội tại của chính nó - mà bởi vì đó là điều kiện dứt khoát để trở thành một linh mục. Qua quá trình thời gian, sự đồng ý vì luật đòi hỏi nó có thể trở thành một nguồn vui với một nhận thức được đào sâu hơn về ý nghĩa và vẻ đẹp của nó, hoặc đàng khác nó có thể ngày càng trở thành một gánh nặng phải mang.

Mỗi linh mục sống đời độc thân của mình một cách độc đáo trong bối cảnh văn hóa và xã hội riêng của mình. Chúng ta sẽ nhận ra rằng bối cảnh xã hội tại phần lớn các quốc gia ngày nay rất khác biệt với bối cảnh đã tồn tại vào thời mà luật nối kết chức linh mục với đời độc thân xuất hiện trong Giáo Hội.

May mắn

Việc so sánh giữa tình yêu và sự trung thành trong đời hôn nhân đích thực với một đời sống độc thân đích thực sẽ là khởi điểm của tôi cho cuộc thảo luận này, vì tôi tin rằng một đời hôn nhân hạnh phúc là một hình ảnh thích đáng để đối chiếu với một cuộc đời độc thân được sống cách chân thực và thuyết phục.

Vợ chồng Eric và Dorothee, những người bạn của tôi, mời tôi tham dự dịp họ cử hành ngân khánh hôn nhân. Vì tôi không thể tham dự, sau đó Eric đã kể cho tôi mẩu đối thoại giữa anh và vợ anh trong dịp đó. Trước mặt tất cả bạn bè và quan khách, anh nói với vợ: “Thật may mắn em ạ!  Hôm nay chúng ta vẫn yêu nhau như chúng ta đã yêu nhau vào ngày đầu tiên của cuộc sống vợ chồng.” Nghe tới đây, vẻ mặt Dorothee sa sầm, và Eric kịp nhận ra mình đã nói tầm phào, anh lập tức đính chính:

Anh xin lỗi vì đã đánh giá chưa đúng về cuộc sống chung giữa chúng ta. Một điều rất rõ ràng là tình yêu của chúng ta đã được đào sâu và trở nên vững chắc hơn. Trong quá trình đó, chúng ta đã học biết chấp nhận những mảng tối của nhau – là cái làm cho ánh sáng trở nên rực rỡ hơn. Qua ngần ấy tháng năm, chúng ta đã giúp nhau xử lý các điểm yếu của mình. Đành rằng khi đi vào cuộc sống chung, chúng ta đã đủ trưởng thành, nhưng quá trình học hỏi đã không phải lúc nào cũng lãng mạn. Chúng ta đã thường cần phải xin nhau sự thứ tha. Và tình yêu của chúng ta đã lớn lên biết bao khi chúng ta chia sẻ nó với bốn đứa con của mình, nhất là trong quá trình học hỏi hết sức thiết yếu để nuôi dạy Gerald, đứa con trai bệnh hoạn tội nghiệp của chúng ta. Cám ơn em thật nhiều, Dorothee! Ngay từ đầu, em đã sẵn sàng tín nhiệm vào anh – và em vẫn luôn luôn sẵn sàng tín nhiệm như thế trong quá trình cả hai chúng ta ngày càng khám phá nhiều hơn về các tiềm năng bên trong của mình. Chúng ta hãy hy vọng rằng, trong những năm sắp đến, tình yêu của chúng ta sẽ tiếp tục lớn lên, tiếp tục sinh hoa trái và chín muồi.

Những ý tưởng tuyệt vời ấy của anh bạn tôi đã thường xuyên thúc đẩy tôi suy tư về cách sống và cách yêu đời độc thân của chính mình trong và xuyên qua tình yêu không ngừng lớn lên của Đức Kitô. Tôi cảm nghiệm Đức Kitô đã diễn tả tình yêu của Ngài đối với tôi một cách vô cùng quảng đại và kiên nhẫn. Rõ ràng chính bởi tình yêu mà Thiên Chúa đã chọn tôi vào đời sống linh mục, và tôi có thể chân thành nói rằng cũng chính bởi tình yêu mà tôi đã đáp trả lại tiếng gọi ấy. Chắc hẳn hơn cả Eric và Dorothee, tôi đã phải học biết loại tình yêu này đòi hỏi những gì và bao hàm những gì. Đó là một quá trình học tập lâu dài, và tôi hoàn toàn nhận ra rằng quá trình này phải tiếp tục. Tôi vuốt ve hy vọng rằng tôi sẽ luôn luôn là một học trò chăm chỉ, biết mở ra đón nhận những ý tưởng mới và những khả năng mới. Tạ ơn Chúa vì trên đường mình đi tôi đã không có một khủng hoảng nghiêm trọng nào, nhưng chắc chắn đã có nhiều lỗi lầm và thiếu sót. Cho phép ngọn lửa của Thánh Thần thanh luyện các động cơ của mình và, đồng thời, đánh thức trong mình một tinh thần khiêm tốn và quảng đại sâu xa hơn, tôi cảm nghiệm thấy việc đó đã không phải bao giờ cũng “du dương lãng mạn”.

Chỉ dần dần tôi mới nhận biết rằng Đức Kitô, Đấng Cứu Độ, đã gặp gỡ và đã trắc nghiệm mình nhất là qua những con người trong hoàn cảnh khốn khổ, chẳng hạn những người li dị – họ chìm đắm trong bao nỗi khó khăn, họ phải chịu đựng bao thái độ phê phán và bài xích, ngay cả từ phía Giáo Hội. Mặc dù nay tôi đã luống tuổi, tôi vẫn ý thức rằng mình chỉ là một học trò bé bỏng mà thôi.

Sống độc thân và yêu thương trong tư cách một con người độc thân trong thế giới hôm nay là một công việc chỉ có thể đảm nhận trôi chảy khi chúng ta đặt sự tín thác của mình không phải vào chính mình mà vào chỉ một mình Thiên Chúa, và biết không ngừng mở lòng ra đón nhận sự hướng dẫn của Mầu Nhiệm Thánh.

Cám ơn các bạn, Eric và Dorothee, vì đã tặng cho tôi một bài học tuyệt vời! Mong sao bài học này sẽ sinh hoa kết quả trong đời tôi và trong đời nhiều bạn bè linh mục độc thân của tôi!

Bất chấp những khó khăn

Có lần tôi giảng tuần đại phúc cho những người tị nạn. Vài ngày đầu, trong số những người lớn đến tham dự chỉ có một người là đàn ông. Không rõ vì lý do gì, những người đàn ông khác trong thị trấn hứa với nhau rằng họ sẽ không đến nghe giảng. Tò mò muốn tìm hiểu, tôi gặp đôi vợ chồng duy nhất vốn vẫn đến tham dự một cách đều đặn và sốt sắng. Trong cuộc trao đổi ấy, người vợ đã kể cho tôi nghe câu chuyện riêng của chị. Hồi còn là một thiếu nữ, chị từng có ý định trở thành một nữ tu, nhưng rồi chị gặp Robert và phải lòng anh ấy. Bị giằng co trong lòng, chị gặp cha giải tội và thố lộ nỗi băn khoăn: “Thưa cha, giữa hai đàng: trở thành một nữ tu và chinh phục một người đàn ông về với đức tin, đàng nào sẽ đẹp lòng Chúa hơn?” Chị tin chắc rằng mình sẽ thuyết phục được Robert một cách khá dễ dàng, vì anh ta là một chàng trai thật sự tuyệt diệu. Quả vậy, chị đã hoàn toàn thành công trong việc đó.

Chính nhờ những cố gắng của người chồng rất có khả năng và giàu nhiệt tâm của chị mà chúng tôi đã có thể lôi kéo được hầu như tất cả nam giới Công Giáo của thị trấn ấy đến với tuần đại phúc. Người vợ tuyệt vời của anh đã bắt đầu bằng một cú liều lớn, và chị đã gặt hái được gấp trăm. Điều tương tự cũng đúng đối với nhiều người trẻ cảm thấy viễn tượng sống độc thân suốt đời là một cú liều. Nếu các linh mục thật sự yêu mến Thiên Chúa và đoàn dân của Ngài, trong đó gồm cả những con người khó khăn và khốn khổ nhất, tại sao họ không dám liều và – trong ý thức về những giới hạn của con người mình – mạnh dạn xin được giải chức trong trường hợp họ nhận ra rằng mình không thể sống độc thân được nữa?

Một số người trẻ rất nhiệt thành với Thiên Chúa và rất say mê việc chinh phục người ta cho Thiên Chúa, nhưng họ không thích thú với đời độc thân, nhất là nếu họ sợ sự nguyền rủa của những kẻ khác và lo ngại khả năng mình có thể bị đối xử tệ hại trong trường hợp mình không sống cuộc đời độc thân một cách trung thành. Những người trẻ này phải có đủ can đảm để tự mình mạnh dạn chọn lựa. Không ai có thể nói cho ai khác biết sự  chọn lựa ấy liều lĩnh như thế nào.

Tuy nhiên, cần ghi nhận một điều ở đây. Trong một số trường hợp cha giải tội hay người tư vấn có thể phải vạch rõ rằng cú liều ấy có thể quá không cân xứng. Mặt khác, người ta sẽ dễ dàng hơn và yên tâm hơn để quyết định chọn lựa cú liều ấy nếu những người cầm quyền trong Giáo Hội có cái nhìn cảm thông hơn khi xảy ra trường hợp có những linh mục – ở mọi độ tuổi - dù nỗ lực hết sức mình nhưng vẫn đến lúc nhận ra rằng mình không thể luôn luôn sống đời độc thân cách trọn vẹn.

Từ kinh nghiệm giảng dạy và giúp tĩnh tâm cho hàng ngàn linh mục trên khắp thế giới, tôi được biết rất nhiều linh mục là những người sau một thất bại ban đầu đã có thể sống đời độc thân linh mục một cách khiêm tốn và nhiệt thành thực sự. Cũng như trong hôn nhân, sự dấn thân sống đời độc thân thường sẽ mãnh liệt hơn, hạnh phúc hơn và đích thực hơn sau một cơn khủng hoảng.

Có nhiều linh mục thực sự rút ra được hạnh phúc từ cuộc sống độc thân (chứ không phải họ vẫn hạnh phúc được dù họ sống độc thân!) Cũng có nhiều linh mục rất hạnh phúc trong đời độc thân song họ có thể còn hạnh phúc hơn nữa và rực sáng hơn nữa nếu như họ được phép kết hôn hoặc nếu như họ đã được truyền chức trong tư cách là những người kết hôn. Có những linh mục có những phẩm chất nhân bản và tôn giáo tuyệt vời song lại gặp rắc rối về những vấn đề tính dục, chẳng hạn chuyện thủ dâm – một khó khăn mà họ không thể vượt qua, bất chấp bao nỗ lực lớn lao mình đã thực hiện; những linh mục này càng khốn đốn hơn nữa do bởi thái độ bi thảm hóa một cách quá quắt của Giáo Hội đối với vấn đề thủ dâm. Thường thì thủ dâm không phải là một vấn đề luân lý chút nào cả, mà đúng hơn đó là một vấn đề tâm lý và có liên quan đến hoóc-môn.

Nếu các linh mục được giúp đỡ một cách thuyết phục để bớt bi kịch hóa những khó khăn của họ, họ có thể ngạc nhiên nhận ra rằng mình dần dần trở nên được tự do trọn vẹn. Ngay cả dù điều đó không xảy ra, họ vẫn có thể trở thành những linh mục tuyệt vời. Một số linh mục thực sự trở thành những linh mục và những nhà chữa trị tuyệt vời chính nhờ các vấn đề mà họ phải đương đầu và đang cố gắng vượt qua. Trong sự hiểu biết và chấp nhận hoàn toàn những yếu đuối của mình, họ trở nên khiêm tốn hơn, cảm thông hơn và nhân hậu hơn đối với những người yếu đuối khác. Tôi cho rằng nhiều người trẻ rất có thể sẽ sẵn sàng hơn để chọn lựa đời linh mục độc thân nếu như vấn đề thủ dâm không bị thổi phồng và hiểu sai một cách quá đáng.

Trái lại, một linh mục sống thành công đời độc thân của mình và có tài năng về giảng dạy, tư vấn ... vẫn có thể bị cám dỗ nếu không bởi tính kiêu hãnh thì cũng bởi lòng tự tôn. Khi lòng tự tôn này phát triển ngày càng lồ lộ hơn, vấn đề của ông thậm chí có thể trở thành nghiêm trọng hơn nữa: ông dễ dàng tiến tới chỗ tự mãn.

Một linh mục vui tính và cởi mở nọ có lần kể cho tôi nghe cách mà anh ta giải quyết được tính tự tôn nơi mình. Anh giải thích cho giáo dân của mình rằng việc phê bình một cách trung thực thẳng thắn là một nhân đức, và anh cho họ biết rằng lúc nào họ cũng có quyền – thậm chí có bổn phận – phê bình chủ chăn của họ, đó chính là một hành vi bác ái. Một giáo dân, thấm nhuần những lời đó của anh, đã gặp anh vào Chúa Nhật sau đó và nói: “Thưa Cha, nghe bài giảng của Cha, con cứ tưởng như mình đang nghe chú gà trống của Thánh Phê-rô đang gáy bài ca tự khoe khoang mình bằng những ngôn từ hoa mỹ.” Anh bạn của tôi nói rằng anh bị sốc kinh khủng bởi câu nói ấy, song anh cho biết cũng chính nhờ đó mà anh đã bước xuống khỏi đỉnh núi cao ngạo của mình. Trong câu chuyện này và trong những câu chuyện tương tự khác, tôi tin rằng điều mà nhiều linh mục có thể rút ra là rằng dù gì đi nữa thì mọi sự cũng đã diễn tiến tốt đẹp.

Độc thân trong so sánh với một cuộc hôn nhân vô hiệu

Chỉ trong vài thập niên gần đây các chuyên viên giáo luật và luân lý mới khám phá thấy và chấp nhận sự kiện rằng rất nhiều cuộc hôn nhân trong Giáo Hội có thể được tuyên bố là vô hiệu bởi vì, ngay từ đầu, những mối kết hợp này tự bộc lộ cho thấy là quá yếu ớt và bệnh hoạn đến nỗi chẳng có mấy cơ hội thành công, ngay cả khi một trong hai hoặc cả hai bên đều có ý hướng ngay lành. Mặc dù những đôi bạn này được thấy cũng bình thường thôi, song trong tính tình, cảm nghĩ và những khía cạnh quan trọng khác, họ quá khác biệt nhau đến độ hoàn toàn lạ lẫm, và rõ ràng họ không thể nào vượt qua được những phản ứng “dị ứng” đối với nhau. Đành rằng chúng ta không phủ nhận những khác biệt thường là yếu tố giúp cho người ta nên phong phú, song chúng ta cũng phải thừa nhận rằng một số khác biệt quá lớn đến nỗi việc sống chung với nhau suốt đời chỉ làm cho đôi bạn thành bệnh hoạn kinh niên. Từ lâu rồi, Giáo Hội Chính Thống đã nhận ra rằng điều này hoàn toàn có thể xảy ra, và rằng những cuộc hôn nhân ấy có thể không những được coi như đã chết mà thậm chí có thể được coi là không thành sự ngay từ đầu.

Cũng vậy, điều tương tự có thể xảy ra - và đã rất thường xảy ra - trong đời sống độc thân không xì-căng-đan hoặc ít nhất là không có xì-căng-đan nghiêm trọng. Làm sao một chàng trai hai mươi ba tuổi có thể thấy trước được hết mọi vấn đề khó khăn thực tế xung quanh đời sống độc thân của một ông cha sở? Vấn đề càng khó hơn nữa khi chàng trai này vốn được niêm kín trong hàng rào của tiểu chủng viện và đại chủng viện, hoàn toàn cách ly khỏi cuộc sống bên ngoài.

Tất cả chúng ta đều từng biết những câu chuyện đại loại như một linh mục tốt lành đáng kính nào đó bỗng dưng làm mọi người phải ngạc nhiên khi ông xin được giải chức – tức ‘hồi tục’, theo cách nói vẫn còn rất phổ biến ngày nay. Trong một số trường hợp, đây không phải là vấn đề độc thân mà đúng hơn đây là một kinh nghiệm thương tổn thâm sâu mà tôi xin đặt cái tên là “tưởng vậy nhưng không phải là vậy”. Xin kể ở đây một trường hợp – chắc hẳn không phải là một trường hợp hi hữu.

Tại bữa ăn chung vào ngày Lễ Giáng Sinh, ông cha sở độc đoán nọ mắng xối xả anh linh mục phụ tá hai mươi chín tuổi của mình vì linh mục trẻ này duỗi thẳng hai cánh tay khi đọc lời nguyện - (anh bắt chước điều này nơi một vị hồng đáng kính). Cha sở nói: “Anh sẽ biết tay tôi nếu anh còn tiếp tục làm gương xấu qua việc bất tuân phục các qui luật thánh của phụng vụ.” Một cách từ tốn, anh linh mục trẻ lên tiếng: “Bất tuân phục như đức hồng y, giám mục giáo phận chúng ta, phải không thưa cha?” Câu nói đó quá đủ để cho cha sở lồng lộn lên, ông phồng mang trợn mắt quát: “Bổn phận của anh là phải tuân phục luật lệ của Giáo Hội, chứ không phải là bắt chước một hồng y. Anh chỉ là một linh mục phụ tá quèn. Anh không là cái thá gì cả, anh hiểu không?”

Chiều tối hôm ấy, gặp lại nhau chỗ chân cầu thang, cha sở lại xả cơn hằn học của mình lên cha phụ tá một lần nữa. Vài năm sau, anh linh mục trẻ này cho tôi biết rằng đó chính là buổi tối mà anh thủ dâm lần đầu tiên – không phải để tìm khoái cảm mà chỉ như một cách bày tỏ nỗi chán nản tột cùng. Rồi, vì anh còn tiếp tục sống ở đó nên những cuộc ‘đụng độ’ với cha sở vẫn còn tiếp tục - thế là, anh tiếp tục thủ dâm theo với đà leo thang của nỗi chán nản trong lòng mình. Anh tìm sự giúp đỡ của một nhà tâm lý trị liệu; qua trao đổi, vị y sĩ này xác quyết rằng anh cần được giải phóng khỏi môi trường ngột ngạt và độc hại ấy. Vị y sĩ khuyên anh xin giải chức, giải thích rằng đó là điều kiện tiên quyết để mong có cơ hội chữa trị vấn đề của anh.

Nhiều năm sau đó nữa, tôi gặp lại anh. Lúc này anh đã kết hôn với một phụ nữ duyên dáng và đã có những đứa con kháu khỉnh. Hơn nữa, anh kể rằng anh đang tham gia tích cực vào giáo xứ trong tư cách một giảng viên giáo lý. Quả thật, cả gia đình anh toát ra một tinh thần nhiệt tâm truyền giáo, và cả nhà đều hạnh phúc. Thế nhưng, tôi vẫn trằn trọc băn khoăn rằng biết đâu chức linh mục và đời độc thân của anh đã không bị đánh mất, nếu như anh không vướng phải những kinh nghiệm nghiệt ngã ấy. Điều gì sẽ xảy ra nếu như anh đã được trao cho cơ hội sống với những linh mục tốt lành, những linh mục biết giúp nhau nên phong phú bằng cách chấp nhận tính cách riêng của mỗi người? Vô số người xung quanh chúng ta, kết hôn hay độc thân, đã từng là nạn nhân của những thương tổn tương tự – duy chỉ vì những dị ứng đối với sự khác biệt trong cá tính.

Luật hiện hành của Giáo Hội Công Giáo Rôma qui định rằng độc thân là cửa ngõ duy nhất để bước vào chức linh mục thừa tác. Một luật như thế thật độc hại cho nhiều người do bởi kinh nghiệm của họ về một “Giáo Hội khác”, cắm rễ trong những cơ cấu độc đoán và in đậm dấu những thái độ tiêu cực, những phán xét và những pháp chế từ trên cao ban xuống. Ở đây tôi không thể không nói lên quan điểm của mình đối với cách giải quyết trong trường hợp các linh mục xin được giải chức – một cách giải quyết rất giống với (đôi khi còn căng hơn) cách giải quyết được áp dụng cho những người li dị. Nói tắt, đó là cách giải quyết quá hà khắc!

Tôi đã có dịp trao đổi với Giáo Hoàng Phao-lô VI về vấn đề này; và tôi nhận ra rằng ngài hết sức nhạy cảm đối với vấn đề. Thậm chí ngài đã gửi các linh mục có chuyện rắc rối đến gặp tôi để được tư vấn. Hơn nữa, ngài hứa sẽ xướng xuất những thay đổi. Cho tới lúc bấy giờ, thỏa ước giữa Tòa Thánh với chính phủ Ý qui định rằng những linh mục hồi tục để kết hôn sẽ không được chính phủ cung cấp việc làm. Theo quan điểm của Giáo Hội, một linh mục đã kết hôn và có con cái chỉ có thể được nhận vào hiệp thông với Giáo Hội khi đương sự cung cấp được bằng chứng rằng mình tiết dục hoàn toàn, sống chung với vợ chỉ như anh em thôi. Nếu vị linh mục này ‘xé rào’ dù chỉ một lần, đương sự sẽ mắc vạ và phải được thẩm quyền Tòa Thánh Rôma giải quyết. Giáo Hoàng Phao-lô VI đã có những thay đổi dứt khoát về vấn đề này.

Ngay đầu triều đại của mình, Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã áp dụng một biện pháp nghiêm ngặt hơn nhiều so với vị tiền nhiệm. Theo chỗ tôi ghi nhận, các kết quả chỉ có bi đát hơn chứ không khích lệ chút nào. Thật vậy, người ta nhận thấy nhiều cựu linh mục kết hôn theo thủ tục dân sự hay thậm chí chỉ sống chung với người ‘bạn’ của họ mà không hề có hôn thú theo pháp luật. Một sự kiện khác cũng nghiêm trọng không kém, đó là tôi nghe một số bạn trẻ nói rằng họ không còn có đủ can đảm để lãnh chức thánh và sống đời độc thân linh mục bởi vì họ sợ sẽ gặp lôi thôi lớn  nếu chẳng may sau này họ khám phá ra rằng mình thực sự không thể sống độc thân được.

Hai nẻo đường khác biệt

Về mối ràng buộc vĩnh viễn của hôn nhân, của độc thân, và – quả thật - của toàn bộ đời sống Kitôhữu, có hai cách nhận hiểu và thực hành rất khác biệt. Một là nẻo đường của Tin Mừng, từ lăng kính này Thánh Phao-lô nhìn thấy mọi sự trong nhãn giới của ân sủng Thiên Chúa. Nẻo đường thứ hai là nẻo đường thiên lệch về luật, về sự giữ luật và sự kiểm soát bởi luật.

Hôn nhân, như được hiểu từ viễn tượng ân sủng, có nghĩa là tín thác rằng Thiên Chúa sẽ ban ơn giúp sức cho người ta để họ dám dấn thân vào giao ước hôn nhân trong viễn tượng trung thành suốt đời với giao ước ấy. Ngay cả trong trường hợp gặp những khó khăn và trắc trở, người ở trong giao ước hôn nhân vẫn không bỏ cuộc. Nói đúng hơn, cũng như Thiên Chúa tiếp tục không ngừng tín nhiệm trước đối với đôi bạn, đôi bạn được mời gọi thể hiện cùng một sự quảng đại và lòng tín nhiệm như thế. Sự tha thứ của Thiên Chúa được thực hiện bởi việc người ta kêu xin và sẵn sàng cung ứng sự tha thứ về những lỗi lầm và những vấp ngã của nhau. Chỉ khi một cuộc hôn nhân trở nên rõ ràng không còn là một con đường cho hai người chia sẻ ơn cứu độ nữa và trở thành mối nguy hại lớn cho tính thống nhất và sự lành mạnh của cá nhân thì lúc ấy hai người mới có thể chia tay – dĩ nhiên vẫn không bao giờ đánh mất niềm hy vọng rằng rồi sẽ đạt được sự tha thứ lẫn nhau.

Trong khi đôi bạn không nên bước vào giao ước hôn nhân một cách nông nổi hay một cách tùy tiện, thì sự thành công vẫn không hoàn toàn được bảo đảm ngay cả trong trường hợp họ đã quyết định một cách đầy cân nhắc. Bất chấp ý hướng ngay lành vào ban đầu, có thể rồi đến một ngày đôi bạn khám phá ra rằng mối kết hiệp giữa họ đã đổ vỡ không thể hàn gắn được. Ngay cả lúc ấy, hay phải nói đặc biệt là lúc ấy, cả hai người cần biết tín thác hơn nữa vào Thiên Chúa, Đấng luôn rộng ban cho họ khả năng bắt đầu lại và khích lệ họ xem xét lại toàn cục vấn đề để tìm ra giải pháp tốt nhất có thể.

Từ nhãn giới nệ luật, hôn nhân được đặt nền trên một cái nhìn có tính khế ước rằng đó là một bí tích ràng buộc vĩnh viễn, và sự ràng buộc vĩnh viễn này được tất định chiếu theo luật. Ngay cả khi rõ ràng một cuộc hôn nhân đã đổ vỡ và hoàn toàn không thể sửa chữa gì được, “bí tích” có tính khế ước ấy vẫn treo trên đầu hai người như thanh gươm của Damocles. Cách diễn giải này về bí tích đã đến lúc cần phải được dứt khoát loại bỏ. 

Sự độc thân, như được hiểu từ viễn tượng nệ luật, có thể dẫn đến hiện tượng đối xử với một linh mục vấp ngã như thể anh ta là một kẻ phản bội hay là một kẻ cùi hủi, thế nhưng vẫn cương quyết buộc anh ta tiếp tục làm một linh mục chiếu theo luật – ngay cả khi sự việc cho thấy rành rành rằng luật không hề cứu anh ta. Trái lại, luật ấy không chỉ làm thương tổn anh ta, mà còn có thể hủy diệt anh ta nữa.

Tuy nhiên, nếu theo quan điểm đích thực của Thánh Phao-lô, chúng ta nhận thức đúng đắn rằng mọi Kitôhữu không còn ở dưới chế độ Lề Luật nữa, nhưng là thuộc về ân sủng, thì một người cảm thấy mình được mời gọi sống đời linh mục độc thân sẽ đặt trọn niềm tín thác vào ân sủng Thiên Chúa, sẽ sống đời sống thấm đẫm cầu nguyện, sẽ bước đi một cách sáng suốt, sẽ không ngừng tỉnh thức. Tuy nhiên, chúng ta không thể loại bỏ khả năng rằng rồi một ngày nào đó, rõ ràng độc thân được thấy không phải là ơn gọi của đương sự. Trong trường hợp này, đương sự nên được ân cần khích lệ xin giải chức mà không chút lo sợ bị Giáo Hội trù dập hay khinh miệt.

Một thoáng nhìn qua hàng ngàn năm truyền thống Phật giáo sẽ có thể hữu ích cho chúng ta trong vấn đề này. Trong khi các phật tử rất đề cao đời sống độc thân, họ cũng hiểu rằng trừ một số trường hợp đặc biệt ngoại lệ, người ta sẽ không bao giờ đưa ra một lời cam kết không thể rút lại. Theo một truyền thống Phật giáo, sự độc thân được sống tạm thời trong một giai đoạn được coi như là một chuẩn bị tốt cho cuộc sống hôn nhân sau này. Đành rằng tôi không hề đề xuất việc bắt chước cách thực hành này, tôi vẫn nghĩ rằng chúng ta nên có một cái nhìn mới mẻ hơn và nhân văn hơn về truyền thống của chúng ta, nhất là khi các hoàn cảnh lịch sử đang thay đổi một cách rất thâm sâu và nhanh chóng.

Độc thân trong bối cảnh lịch sử

Nhà khoa học lừng danh Marcel Légaut, một trong nhiều người tự nguyện chọn sống đời độc thân, đã hùng hồn nhắc cho Giáo Hội ấy rõ giá trị và hoa quả của sự độc thân vì Nước Trời. Những hoa quả này càng được gặt hái rõ rệt hơn nếu người ta lưu ý đầy đủ đến toàn bộ bối cảnh trong đó cuộc sống độc thân được thực hiện. Tuy nhiên, ông cũng xác nhận – và tôi đồng ý - rằng không bao giờ được phép hiểu những luật liên quan đến các đặc sủng đặc biệt như là cái gì có tính vượt thời gian, cơ hồ như chúng là một thực tại trên trời, nằm ngoài cảnh vực lịch sử không ngừng thay đổi.

Độc thân linh mục như một biển báo trên đường

Sự độc thân linh mục – được sống một cách trung thành và vui tươi – có thể là một sự giúp đỡ và là một biển báo trên đường cho những ai, vì hoàn cảnh nào đó của cuộc sống, bị buộc phải sống độc thân, ngay cả dù họ không tự nguyện chọn lựa như thế. Tôi nghĩ đến những người li dị và rất nhiều người, nam cũng như nữ, sống đời sống độc thân hoặc bởi vì không có cơ hội để kết hôn hoặc vì những khó khăn về sức khỏe không cho phép họ lập gia đình. Cảm thông với những người không thể kết hôn – đó có thể là một cách giúp củng cố niềm khao khát nhận hiểu sâu sắc hơn tiếng gọi độc thân của chính chúng ta. Hơn nữa, chúng ta có thể học được nhiều điều từ những người độc thân đã biết chấp nhận cuộc sống không do mình chọn lựa, và những người đã khám phá ra không chỉ cách tạo ý nghĩa cho đời độc thân của mình mà cả cách để sống đời độc thân của mình một cách đầy hiệu quả.

Trong cuộc chiến tranh trước đây ở Nga, một linh mục đứng tuổi thuộc Giáo Hội Chính Thống Nga đến gặp tôi để xin giúp đỡ - vì ông bị bệnh. Sau khi chào ông, tôi hỏi ông câu hỏi xã giao: “Ngài và bà nhà vẫn khỏe chứ?” Ông trả lời: “Vợ tôi đang ở trên trời; và tất cả các con tôi cũng không còn. Bây giờ tôi sống hoàn toàn một mình – một mình với Chúa và cho Chúa.” Khuôn mặt ông rạng rỡ khi ông thốt lên những lời đó, một cách hết sức đơn sơ chân thành đến nỗi tôi không nén được niềm cảm kích sâu sắc. Tôi nghĩ rằng đó là bài giảng ngắn nhất và tuyệt vời nhất trong tất cả những bài giảng mà mình nghe được về ơn gọi độc thân của mình.

Nếu các linh mục chúng ta, với ơn Chúa, có thể sống đích thực đời độc thân của mình, thì tự thân điều đó có thể là một sứ điệp không lời song đầy sức tác động đối với nhiều người phải sống độc thân vì họ không có sự lựa chọn nào khác. Thế nhưng, việc suy tư về ý hướng này và về giá trị của sự độc thân mà thôi thì không đủ. Sự độc thân phải đẩy ta tới nhiệt tình cao hơn và sáng kiến mới mẻ hơn để nâng đỡ những con người độc thân, nam cũng như nữ, bằng hết sức mình. Ít nhất, chúng ta cũng phải khích lệ họ sống cuộc sống của họ một cách hiệu quả hơn - bằng cách giúp họ cảm nghiệm được sự nâng đỡ của cộng đoàn, nhất là bằng cách tạo các cơ hội cho họ phát triển những tình bạn vững bền và đầy ý nghĩa.

Độc thân và các vấn đề dân số

Có một mối nối kết rõ rệt giữa sự độc thân và vấn đề dân số. Tôi sẽ đề cập đến hai khía cạnh có liên hệ đến luật độc thân linh mục. Vào thời mà việc thực hành độc thân và luật độc thân được thấy là điều rất tự nhiên và phổ biến, thì tình trạng đông dân số chưa phải là một vấn đề. Con số gia đình thời đó cũng không nhiều, và con số ấy không dễ tăng lên như trong thời đại công nghiệp và đô thị hóa. Các gia đình quí tộc, trung lưu và nhất là các gia đình thuộc tầng lớp nghèo cảm thấy sung sướng khi con cái họ chọn đời sống trong cộng đoàn tu trì có lời khấn hay chọn trở thành linh mục triều hoặc dòng. Mặc dù đông dân số không phải là một vấn đề, nhưng các điều kiện kinh tế lại khiến cho một số người không thể cưới vợ. Thường đây là tình trạng của đại đa số các gia đình lớn. Kết quả là, một đời sống độc thân trong các gia đình lớn được chấp nhận như chuyện bình thường trong xã hội, và chắc hẳn rằng đời sống độc thân linh mục đã đóng góp tích cực vào chiều hướng chấp nhận ấy.

Trong thế giới ngày nay, tình trạng đông dân số rõ ràng là một vấn đề ngày càng gay cấn. Trước hết, đây là vấn đề bảo toàn các điều kiện trên hành tinh chúng ta để sự sống có thể tiếp tục. Nói cho ngay, cái đang lâm nguy nhất là chính trái đất này; và sự sống còn của trái đất này là điều kiện cần trước hết để nâng đỡ mọi dạng sự sống. Những ai tự nguyện đảm nhận đời sống độc thân vì Nước Trời thì cũng đồng thời đang đóng góp một cái gì đó cho thiện ích chung.

Các vấn đề dân số có thể có một ảnh hưởng rất lớn đối với việc tuyển người vào đời sống độc thân linh mục hoặc tu sĩ. Trong những điều kiện hiện nay của xã hội công nghiệp và hậu công nghiệp Tây phương, quyền kết hôn được xem như một trong những quyền căn bản nhất của con người. Tuy nhiên, nền văn hóa hiện đại, nhận thức được các vấn đề gắn liền với tình trạng đông dân số, có khuynh hướng ủng hộ mô hình gia đình chỉ với một hay hai con. Trong một xã hội với những gia đình nhỏ như vậy thì hẳn nhiên việc tuyển người vào chức linh mục sẽ gay go hơn rất nhiều so với trong quá khứ.

Trong bối cảnh những khó khăn về dân số hiện nay, ta thấy rất đáng ghi nhận một số kiểu sắp xếp của thời trước. Một mô hình đã từng có thời rất quen thuộc, đó là ông cha sở sống với bà mẹ góa bụa và một vài chị em gái của ông trong nhà xứ – không chỉ đơn thuần là để họ giúp việc nội trợ, mà nhất là để cha sở có bầu bạn, có một bầu khí gia đình. Cũng không nên nghĩ rằng những chị em gái này tự nguyện từ khước đời sống hôn nhân để phụ giúp cho người anh (hay em trai) linh mục của mình. Thường thì đấy chỉ là vấn đề hoặc chọn đi tu hoặc chọn phụ giúp các linh mục bởi vì đương sự không có cơ hội để kết hôn. Ngày nay, dĩ nhiên, hiếm khi người ta còn gặp thấy một mô hình như thế.

Hơn hai mươi năm cách đây, khi tôi giảng dạy cho các giáo sĩ ở Malta, tôi nhận ra rằng ở đó có một truyền thống các linh mục sống tại gia đình cha mẹ mình. Họ vô cùng thoải mái và “tự nhiên như ở nhà”! Mô hình này có một hiệu ứng phụ, đó là các linh mục cảm thấy nỗi mất mát lớn lao khi phải rời bỏ gia đình để đi phục vụ Tin Mừng tại một nước khác.

Lần nọ tôi ghé thăm một giám mục ở Ý, tôi rất ngạc nhiên nhận thấy vị giám mục này không có một người giúp việc nào cả. Chính ngài phải tự sửa soạn bữa điểm tâm. Tôi hỏi tại sao như thế; vị giám mục trả lời rằng mặc dù ngài có đủ khả năng để thuê mướn một người giúp việc, nhưng ngài quyết định không làm thế, vì đa số các linh mục của ngài không có khả năng này. Rồi, tiếp tục khen ngợi các linh mục của mình, ngài nói rằng nhiều người trong họ sống rất cô độc và dành vô số thời giờ ngồi trước ti-vi.

Một chuyển biến văn hóa khác có liên hệ đến sự độc thân là một chuyển biến về triết học. Dưới ảnh hưởng các trường phái triết học khắc kỷ và Platon cổ xưa, đời sống kết hôn được xem như một cái gì hạ cấp, trong khi đó việc tiết dục được đánh giá là cao trọng. Một cách lệch lạc, truyền thống Augustin hậu thuẫn cho quan điểm này, về sau trở thành giáo huấn luân lý. Ngày nay, rất may là tất cả thế giới Kitô giáo và đa số các nền văn hóa khác có một cái nhìn đúng đắn và lành mạnh hơn về tính dục của con người, xuất phát từ nhãn quan tôn giáo hay những nhãn quan nhân văn khác.

Một triết học hay một khoa tâm lý một chiều nhấn mạnh đến sự thành toàn cá nhân thì hầu như không tìm thấy ý nghĩa trong việc tiết dục. Dĩ nhiên, độc thân được hiểu trong ánh sáng đức tin thì rõ ràng không chỉ là vấn đề tiết dục. Trước hết, đó là niềm vui trong Chúa, cùng với lòng quảng đại phục vụ Tin Mừng vì ích lợi của dân Thiên Chúa, điều này sẽ trao ý nghĩa thâm sâu hơn cho sự tiết dục, qua đó làm cho nó trở thành một kinh nghiệm tích cực. Tuy nhiên, chỉ những người có đức tin sâu xa mới nhận ra được điều này.

Tìm kiếm các giải pháp

Không có giải pháp đơn giản nào cho những vấn đề phức tạp, nhưng người ta có thể vạch ra một số con đường để cố gắng vượt qua chúng. Một con đường như thế có liên quan đến vấn đề thời sự về tình bạn giữa các linh mục ở các giáo xứ gần nhau. Tôi biết một số linh mục tham gia những nhóm linh đạo như phong trào Focolare, một phong trào theo mẫu thức của Bartholomew Holzhauser. Những linh mục này chọn sống trong những cộng đoàn nhỏ gồm ba hay bốn người, và thậm chí họ được khích lệ bởi các giám mục vốn ủng hộ mô hình này bằng cách sắp xếp cho họ làm mục vụ tại các giáo xứ gần nhau.

Cách đây ít lâu, tôi giảng tĩnh tâm cho hai mươi linh mục vào dịp lễ ngân khánh của họ và tôi nhận ra rằng tình bạn giữa họ thật tuyệt vời. Tôi rất phấn khởi khi nghe rằng từ khi thụ phong linh mục, năm nào họ cũng tổ chức một tuần đi nghỉ hè và cầu nguyện với nhau.

Một linh đạo xây dựng cộng đoàn

Đối sách tốt nhất cho mối nguy hiểm của sự cô độc là một linh đạo hướng nội dựa trên giáo huấn vững chắc của Thánh Gioan Tác Giả Tin Mừng và Thánh Phao-lô – “Đức Kitô ở trong chúng ta, chúng ta ở trong Đức Kitô.” Nếu hiểu đúng, nhãn quan linh đạo này không dính dáng gì tới chủ nghĩa thoát ly thực tế. Cảm nghiệm Đức Kitô ở trong mình một cách sâu sắc, điều đó sẽ mở ra một chân trời kỳ diệu cho một tình bạn mở rộng ra với tất cả. Đức Kitô, Đấng ở trong tôi, yêu tôi và được tôi yêu, sẽ giúp tôi có thể tháp nhập với Ngài trong tình yêu của Ngài đối với tất cả anh chị em tôi. Tình yêu và lòng quan tâm của tôi dành cho họ chính là tình yêu của Đức Kitô trong và xuyên qua tôi. Và đến lượt họ, sự đáp trả đầy yêu thương của họ là một phần của chính tình yêu Đức Kitô đối với tôi và đối với họ.

Thật rõ, mầu nhiệm thâm sâu này là một cái gì lớn lao ngàn trùng - chứ đây không duy chỉ là vấn đề liệu pháp chống lại nỗi cô độc. Tuy nhiên, mối nguy hiểm thật sự của cô độc tự nó cũng đủ giúp chúng ta khám phá ra và nếm cảm những tinh túy của một linh đạo Thánh Thể. Các vị chủ tọa tại các buổi cử hành Thánh Thể cần phải thực hiện được cuộc khám phá và cảm nếm này. Cũng rất cần thiết việc họ phải mời gọi những người tham dự tự khám phá ra ý nghĩa ấy trong linh đạo xây dựng cộng đoàn, một linh đạo luôn luôn tiên vàn được thúc đẩy bởi Thánh Thần, Đấng đưa dẫn ta vào mầu nhiệm Thánh Thể kỳ diệu. Như thế, độc thân không được cảm nhận như một hình thức tách ly khỏi các tín hữu. Trái lại, độc thân - được thể hiện như “sự sống trong Đức Kitô” và “tình yêu trong Đức Kitô” - chính là chóp đỉnh và trung tâm của đời sống độc thân linh mục.

Sự mật thiết tuyệt diệu này của sự sống trong Đức Kitô là phản đề hoàn toàn đối với tinh thần cá nhân chủ nghĩa. Ở đây không chỉ những gọng cùm của cá nhân chủ nghĩa bị tiêu diệt, mà mọi khả năng phát triển các mối quan hệ phong phú, như được diễn tả trong lời nguyện Abba tại bữa Tiệc Ly, sẽ được thiết lập lại. Sự sống mật thiết ngày càng hơn trong lời nguyện Abba là một kinh nghiệm về Ba Ngôi Thiên Chúa và là một kinh nghiệm có sức xây dựng những nhịp cầu trong nhân loại đã được cứu độ. Chính Đức Giêsu, Đấng Cứu Chuộc của thế giới và là Con Thiên Chúa, Đấng nhờ quyền năng của Thánh Thần, đang thưa lên lời Abba nơi chúng ta – lời Abba ấy sẽ đồng thời vang âm thành Abbuni (Lạy Cha chúng con). Vâng, Cha là Cha của Chúa Giêsu, và là Cha của chúng ta hết thảy.

Cảm nghiệm về sự mật thiết theo mẫu thức Ba Ngôi này sẽ khai phá mọi chân trời của sự liên đới có sức cứu độ, của cộng đoàn ơn cứu độ, của tình huynh đệ, và của tất cả. Trong sự mật thiết đó, chúng ta sẽ biết nhìn nhận và kính trọng nhau như là các con trai con gái của một Cha chung. Chúng ta cũng nhận ra và trân trọng tiếng gọi mời chúng ta cùng chia sẻ và cùng trách nhiệm đối với mọi sự sống thụ tạo. Sức mạnh của mối liên đới này tùy thuộc vào chiều sâu của sự mật thiết giữa chúng ta. Từ nhận thức đó, chúng ta thấy rõ ràng các tín hữu được ủy thác cho mình săn sóc mục vụ không bao giờ là đối tượng (object) của sứ vụ linh mục. Đúng hơn, chúng ta là một người ở giữa dân chúng, đón nhận từ họ nhiều không kém chi trao tặng cho họ. Như vậy, ở đây không có chỗ cho sự tách biệt “ta” và “họ”. Cùng với nhau, trong tư cách là những chủ thể, tất cả đồng hành trên con đường với, trong, và hướng về Đức Kitô, Đấng là xuất phát điểm và là kết điểm của hành trình chúng ta.

còn tiếp

VỀ MỤC LỤC
ĐỐI THOẠI VỚI CỘNG SẢN TRUNG QUỐC

 

MẶC GIAO

Ngày 30-06-2007, Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI đã gửi cho tín hữu Công Giáo Trung Hoa một thư khá dài để nói lên sự quan tâm và lòng yêu thương của Ngài, đồng thời khẳng định những nguyên tắc và giải pháp nhằm hiệp nhất Giáo Hội Trung Quốc. Tôi không làm công việc tường thuật và bình luận về lá thư của Đức Thánh Cha. Việc này có nhiều người làm hay hơn tôi. Tôi chỉ xin nêu một số điểm trong lá thư có thể coi như những bài học để suy nghĩ và áp dụng, chẳng những cho Giáo Hội Trung Quốc mà còn cho Giáo Hội Việt Nam.

Trước hết, về sự liên hệ giữa Giáo Hội và quyền lực chính trị, tức nhà nước, Đức Giáo Hoàng nhắc lại những nguyên tắc đã được công bố trong Công Đồng Vatican II qua Hiến Chế Gaudium et Spes: “Vì vai trò và quyền hạn của mình, Giáo Hội không thể đồng hóa với bất cứ cộng đồng chính trị nào, cũng không thể gắn bó với bất cứ một hệ thống chính trị nào. Giáo Hội là chỉ dấu và là người bảo vệ chiều kích siêu nhiên của nhân loại... Cộng đồng chính trị và Giáo Hội tự lập và độc lập với nhau trong những lãnh vực riêng của mình”.

Về nhiệm vụ xây dựng xã hội, “Giáo Hội không thể và không phải thay thế nhà nước. Nhưng đồng thời Giáo Hội cũng không thể và không phải đứng ở bên lề của cuộc đấu tranh cho công lý. Giáo Hội phải đóng góp phần mình trong việc đưa ra luận cứ hữu lý và làm thức tỉnh năng lực tinh thần mà nếu thiếu, công lý luôn đòi hỏi sự hy sinh, sẽ không thể thắng thế và triển nở ” (Gaudium et Spes , 76).

Đức Giáo Hoàng tóm kết phần này như sau: “Dưới ánh sáng của những nguyên tắc không thể chối bỏ này, giải pháp cho những vấn đề hiện hữu không thể được theo đuổi bằng việc tranh chấp với chính quyền dân sự hợp pháp, đồng thời, qua việc tùng phục chính quyền đó, cũng không thể chấp nhận việc chính quyền can thiệp vô lý vào những vấn đề liên quan đến đức tin và kỷ luật của Giáo Hội. Chính quyền dân sự cần hiểu rõ rằng Giáo Hội, trong giáo huấn của mình, luôn mời gọi các tín hữu trở thành những công dân tốt, tôn trọng và đóng góp tích cực vào thiện ích chung của đất nước, nhưng cũng cần phải nói rõ rằng Giáo Hội đòi hỏi nhà nước phải bảo đảm cho những người công dân Công Giáo được thực thi đầy đủ đức tin của họ, với sự tôn trọng quyền tự do tôn giáo chân chính”.

Chỉ với vài trích đoạn trên đây, chúng ta đã nhìn thấy đường lối và chính sách rõ rệt của Giáo Hội trong trong vấn đề tương quan cộng tác giữa Giáo Hội và nhà nước, có thể được tóm tắt trong vài câu ngắn gọn:

-         Giáo Hội và nhà nước là những thực thể riêng biệt và độc lập

-         Giáo Hội không gắn bó cũng không chống đối một chính quyền nào

-         Giáo Hội không làm giùm chính quyền nhưng không đứng ngoài cuộc tranh đấu cho công lý

-         Giáo dân phải là những công dân tốt nhưng dứt khoát phải đòi hỏi nhà nước không can thiệp vào những vấn đề nội bộ của Giáo Hội, tôn trọng quyền hành đạo và tự do tôn giáo đích thực. 

Về việc bổ nhiệm các giám mục tại quốc gia công sản, Đức Giáo Hoàng viết: “Như anh em đều biết, vấn đề tế nhị nhất trong sự giao hảo giữa Tòa Thánh và chính quyền của quê hương anh em là việc bổ nhiệm hàng giáo phẩm. Một mặt có thể hiểu đươc rằng chính quyền rất quan tâm tới việc lựa chọn những người sẽ hành xử một vai trò quan trọng trong việc lãnh đạo và chăn dắt đoàn chiên của những cộng đoàn Công Giáo địa phương...  Mặt khác, Tòa Thánh thực hiện việc bổ nhiện các giám mục một cách thận trọng đặc biệt vì việc này đụng tới đúng tâm huyệt của Giáo Hội, quan trọng tới nỗi việc Giáo Hoàng bổ nhiệm các giám mục là sự bảo đảm cho sự hiệp nhất của Giáo Hội và sự hiệp thông của hàng giáo phẩm. Vì lý do đó, Giáo Luật (Điều 1382) đã quy định những chế tài nặng nề cả cho giám mục dám tự ý tấn phong không có ủy nhiệm của Giáo Hoàng lẫn người nhận chức vị được phong. Việc truyền chức như thế thực sự gây thương tích đau đớn cho sự hiệp thông của hàng giáo phẩm và tạo nên một vi phạm trầm trọng kỷ luật được quy định”.

Trong khi cứng rắn về nguyên tắc như thế, Đức Giáo Hoàng lại tỏ ra nhân từ và khoan dung với những giám mục của Giáo Hội Ái Quốc (quốc doanh) Trung Hoa:

“Cuối cùng, có một số giám mục, một số rất ít, đã được tấn phong không có sự chấp thuận của Giáo Hoàng, họ cũng không xin hoặc chưa xin được chịu chức. Theo tín lý của Giáo Hội Công Giáo, họ bị coi như bất hợp lệ, nhưng đã được truyền chức một cách có giá trị chừng nào được xác nhận rằng họ được truyền chức bởi những giám mục đã được tấn phong hợp pháp và nghi thức Công Giáo của việc phong chức giám mục được tôn trọng. Do đó, dù không hiệp thông với Giáo Hoàng, họ vẫn thực thi sứ vụ một cách có giá trị trong việc ban các phép bí tích, dù rằng họ làm việc này một cách bất hợp lệ. Sự phong phú thiêng liêng sẽ to lớn biết bao cho Giáo Hội Trung Quốc nếu, những điều kiện cần thiết được hội đủ, những vị mục tử này cũng sẽ tham gia hiệp thông với người kế vị Thánh Phêrô và với toàn thể hàng giáo phẩm Công Giáo”

Đức Giáo Hoàng đã tỏ thiện chí và thái độ cởi mở để mời gọi và mở đường cho hàng giáo phẩm Giáo Hội Ái Quốc trở về với đại gia đình Giáo Hội chính truyền, đồng thời không là bẽ mặt chính quyền Trung Quốc bằng việc tiếp đón trong tình thương yêu và hòa giải những chức sắc tôn giáo do họ dựng nên. Dù vậy, chính quyền Trung Quốc vẫn muốn kiểm soát hoàn toàn giáo hội Công Giáo trong nước. Theo Đức Hồng Y Joseph Zen của Hồng Kông, những thành viên của của Hiệp Hội Công Giáo Ái Quốc trong lòng vẫn hiệp thông với Tòa Thánh, nhưng chính phủ không cho họ tự do. Đức Hồng Y cho biết, phó chủ tịch Công Giáo Ái Quốc Liu Bai Nian là người có toàn quyền trong cơ chế này, các giám mục chẳng là gì cả. Chính ông này là người đứng đằng sau những vụ truyền chức giám mục bất hợp pháp.

Ngay trong ngày công bố thư của Đức Giáo Hoàng gửi tín hữu Công Giáo Trung Quốc,  Bộ Ngoại Giao Trung Quốc ra thông cáo có nội dung phản bác thiện chí của Đức Giáo Hoàng, khuyên Tòa Thánh không nên gây thêm những trở ngại cho việc tiến tới bang giao, đưa điều kiện bang giao đòi Tòa Thánh phải

      1/ Cắt đứt liên lạc ngoại giao với Đài Loan,

      2/ Không can thiệp vào việc nội bộ của Trung Quốc

Phát ngôn viên Qin của Bộ Ngoại Giao phát biểu theo cung cách lưỡi gỗ: “Trung Quốc hy vọng Vatican nhìn nhận sự việc rằng người Trung Quốc đang phấn khởi với tự do tín ngưỡng, còn tình hình giáo dân Công Giáo đã được cải thiện dưới nhiều quan điểm”. Đúng là cùng thầy, cùng trường. Trung cộng và Việt cộng nói không khác nhau chút nào. Việc chính phủ Trung Quốc cử hai nhân viên Bộ Ngoại Giao và Tôn Giáo Vụ đến gặp Đức Hồng Y Phạm Minh Mẫn vào tháng 3 chắc chỉ để thăm dò lập trường của Tòa Thánh khi biết Tòa Thánh đang soạn thư gửi tín hữu Trung Hoa. Sứ mạng trung gian của Đức Hồng Y qủa là gian truân. Dù Tòa Thánh có cởi mở và mềm dẻo cách mấy, cộng sản vẫn giữ vững nguyên tắc kiểm soát mọi sự trong xã hội, nhất là tôn giáo, vì tôn giáo có lòng tin và có tổ chức. Cộng sản có thể thả lỏng một số biện pháp bề ngoài, nhưng căn bản vẫn là nắm chặt mọi đường dây chỉ huy trong bàn tay duy nhất của đảng. Tòa Thánh cũng đâu có dại để rơi vào bẫy “thả mồi bắt bóng”. Đừng quên vị Giáo Hoàng đương nhiệm là “một ông già gân thứ dữ”, dám nói thẳng làm thật, lại thêm kinh nghiệm đóng vai số hai tại Vatican trên hai chục năm, đâu có ngán đối đầu với sự dữ và với mọi tình huống khó khăn.

MẶC GIAO

 

LTS. Dưới đây là một số ý kiến cũng của tác giả Mặc Giao dành cho GHVN. Và BBT xin được lược ghi, nghĩa là chỉ giữ lại những ý chính và quan trọng, ngoài ra BBT không tự ý thêm vào bất cứ điều gì.

CHUYỂN MÌNH HAY CHỈ MỚI NHÚC NHÍCH?

Dấu hiệu nhúc nhích được khởi đầu bằng một bản tin đăng trong điện báo "Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam" số 44 ngày 28-06-2007, theo đó Ban Thường Vụ (mở rộng) của Hội Đồng Giám Mục VN đã họp ngày 20 tháng 6 vừa qua tại Sài Gòn, dưới sự chủ toạ của Đức Cha Nguyễn Văn Hòa, Chủ Tịch Hội Đồng, với sự có mặt của Đức Hồng Y Phạm Minh Mẫn (Sài Gòn), Đức Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt (Hà Nội), cùng 11 giám mục khác và hai linh mục thơ ký Nguyễn Ngọc Sơn và Phan Xuân Thanh. Mục đích chính của buổi họp là bàn về chương trình nghị sự và những chuẩn bị cho Đại Hội thường niên của Hội Đồng Giám Mục vào tháng 10 sắp tới. Trong số những quyết định được đưa ra trong phiên họp này, có một số điều đáng được ghi nhận sau đây (người viết tự ý đánh số để dễ thảo luận):

1. Tìm một phát ngôn viên chính thức của Hội Đồng Giám Mục nhằm tăng cường cho văn phòng Tổng Thơ Ký, 

2. Ủy Ban Bác Ái Xã Hội theo dõi các hoạt động thời sự, tình hình xã hội để giúp cho Hội Đồng Giám Mục có thể lên tiếng trước những vấn đề xã hội, 

3. Ban Thường Vụ cũng bàn về một số vấn đề khác: vấn đề cha Nguyễn Văn Lý, lập các chương trình kế hoạch đào tạo cho chủng sinh, các thành phần dân Chúa tham dự trong những hội nghị của Hội Đồng Giám Mục, vấn đề truyền giáo và giúp đỡ đồng bào dân tộc thiểu số.  

Về điểm 1, Khi Hội Đồng muốn kiếm phát ngôn viên chính thức có nghiã Hôi Đồng đã quyết định lên tiếng nhiều hơn trước. 

Điểm 2, Hội Đồng giao công tác theo dõi và lên tiếng về thời sự và xã hội cho một ủy ban, việc chưa từng có từ trước tới nay. Có người thắc mắc tại sao chỉ có thời sự và xã hội, còn những vấn đề khác như tôn giáo, nhân quyền, chính trị thì sao? ... 

Điểm 3, Lần đầu tiên Hội Đồng đặt vấn đề thảo luận vụ cha Nguyễn Văn Lý, Điều lạ khác là dự tính cho giáo dân tham gia những hội nghị của Hội Đồng Giám Mục. Có lẽ Hội Đồng muốn chứng tỏ thiện chí lắng nghe quan điểm và tiếng nói của giáo dân. Ngay Công Đồng Vatican II cũng có nhiều giáo dân được mời làm cố vấn hay chuyên viên. Vấn đề là muốn giáo dân tham gia thật tình hay chỉ làm một cử chỉ đẹp để vỗ về? Giáo dân được mời tham dự là những ai, được tuyển chọn như thế nào? Mong rằng không phải toàn những người thuộc loại "con xin phép (được) lậy cha". Hội Đồng cũng nhắc tới vấn đề truyền giáo và giúp đỡ đồng bào dân tộc thiểu số. Phải chăng đã đến lúc cần có những biện pháp nhường cơm xẻ áo cho những anh chị em nghèo đủ thứ, chấm dứt cảnh xây cất "hoành tráng", xa hoa lãng phí tại những nơi có nhiều nguồn lợi từ trong và ngoài nước, nhắm mắt làm ngơ trước sự thiếu thốn và những nhu cầu khẩn thiết của chính anh chị em mình ở những nơi khác?  

Những quyết định trên đây đã gây niềm hy vọng. Mong sao niềm hy vọng đó được trở thành hiện thực.  

...... 

Một việc hy hữu nữa là Đức Hồng Y Phạm Minh Mẫn cho phổ biến một thư đề ngày 10-07-2007 than phiền giới truyền thông trong nước đã "chí ít" bốn lần loan báo sai lạc về những hành động và lời nói của ngài và của Đức Cha Hòa, khiến ngài phải rút ra hậu qủa: "Những kinh nghiệm đó dần dần biến nhiều người thành Tào Tháo, thường xuyên sống trong đa nghi và nghi kỵ lẫn nhau".

...

Nếu tuân theo giáo huấn của Giáo Hội, đặc biệt theo Hiến Chế Lumen Gentium của Công Đồng Vatican II, Chương IV về vai trò của giáo dân, ta thấy giáo dân được quyền chia sẻ phần vụ xây dựng Giáo Hội với hàng giáo phẩm (LG, IV, 30) và hàng giáo phẩm "phải sẵn lòng xử dụng lời khuyên của giáo dân" (LG, IV, 37)  

.... 

Qua những sự việc kể trên, chúng ta nhận thấy những lời lên tiếng của giáo dân hải ngoại đã được đáp ứng một phần, đã tạo dịp cho một số người có trách nhiệm đặt lại vấn đề thái độ và lương tâm. Hy vọng đây chỉ là những bước mở đầu. Giáo Hội VN phải chuyển mình, không thể chỉ nhúc nhích để gọi là có cử động. Chuyển mình để tìm lại mình, để đổi mới, để tiến về phiá trước, để đưa tay nối kết với cộng đoàn dân Chúa khắp nơi, từ trong ra ngoài nước, để tạo tình đoàn kết và sức mạnh xây dựng Giáo Hội và quê hương. Chúng ta không tuyên chiến với ai, nhưng không sợ hãi trước những đe dọa của những thế lực bất chánh. Một số quyền lợi và tiện nghi có thể mất đi, nhưng sự đền bù sẽ to lớn gấp bội.

VỀ MỤC LỤC
Nước, lửa và sự chia rẽ
 

(Lc 12, 49-53)

Hành trình lên Giêrusalem của Chúa Giêsu quả là một cuộc phiêu lưu và mạo hiểm. Chính vì thế, Chúa Giêsu đã không ngần ngại đề cập đến những thử thách, những nguy cơ và số phận của những ai mạo hiểm bước theo Người. Rồi đây những ai bước theo Chúa Giêsu không thể không bước qua những gian nan khốn khổ, những bách hại như Người đã đi qua…

Tâm sự với các môn đệ, Chúa Giêsu thao thức về ngọn lửa mà Người đem đến thế gian phải chi đã bùng lên để kiện toàn thế nhân. Chúa Giêsu muốn tâm sự với các môn đệ về ngọn lửa nào đây?

Rất có thể đây là ngọn lửa phán xét của Thiên Chúa công minh chính trực. Kinh thánh nói nhiều đến sự hiện diện của Đấng sẽ đến xét xử trần gian là Đức Kytô. Thật thế, trọn đời sống cùng với những giáo huấn của mình, Chúa Giêsu đã “ném” vào thế gian ngọn lửa vạch trần những mưu mô thâm độc của ác thần, những áp bức bất công, những mâu thuẫn xảy ra trong đời sống con người. Tất cả những điều ấy như những tiếng chuông cảnh tỉnh lòng người, giúp họ sớm quay về nẻo chính đường ngay mà phụng sự Thiên Chúa.

Ngọn lửa đó cũng có thể là ngọn lửa của tình yêu Thiên Chúa. Thiên Chúa là tình yêu. Và Người hằng tha thiết mong chờ con người đáp lại tình yêu đó bằng ngọn lửa nồng cháy. Ngọn lửa tình yêu đó chính là đời sống đức tin, đời sống chứng nhân Tin mừng. Thiên Chúa ước mong ngọn lửa tình yêu đó ngày một cháy lên trong tâm hồn mọi tín hữu để danh Chúa được hiển vinh.

Sau hết, đó cũng là ngọn lửa của Thần Khí Thiên Chúa đến hâm nóng Giáo hội trong ngày lễ Ngũ Tuần. Thật thế, Hội thánh Chúa khai sinh trong ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống- ngày mà các môn đệ đón nhận Chúa Thánh Thần dưới hình lưỡi lửa ngự xuống trên đầu các ông. Nhờ ngọn lửa này, Giáo hội Chúa ngày một lan rộng khắp hoàn cầu và sẽ còn lan rộng mãi cho đến ngày Chúa lại đến.

Liền sau đó, Chúa Giêsu nói đến phép rửa mà Người sắp phải chịu. Hành trình lên Giêrusalem của Chúa chính là để lãnh nhận phép rửa này. Phép rửa đó chính là giờ phút Người sẽ trải qua trong giờ tử đạo. Đồng thời, phép rửa này cũng là cuộc vượt qua không chỉ cho Chúa Giêsu mà còn cho các môn đệ cũng như cho hết những ai bước theo Người. Những ai theo Chúa trong đức tin không thể không uống chén đắng mà Chúa sẽ uống và chịu phép rửa mà Người sẽ phải chịu trong ngày khổ nạn. Như thế đã rõ, những gì Chúa Giêsu phải trải qua trong sứ vụ của Người, đến lượt những ai tiếp bước theo Người, cũng sẽ trải qua những thử thách như thế trên lộ trình họ sẽ bước qua.

Sau hết, Chúa Giêsu đề cập đến sự “chia rẽ” mà Người sẽ mang đến cho trần gian. Điều xem có vẻ nghịch lý trong câu nói của Chúa Giêsu nhưng lại là chân lý cho những ai chấp nhận giáo huấn và bước theo đời sống của Người. Thật vậy, bình an mà Chúa Giêsu nói đến không phải là thứ  bình an dễ dãi theo kiểu trần thế mà các ngôn sứ giả không ngừng loan báo. Đó là bình an của nước Thiên Chúa và con người chỉ có thể đạt đến thông qua khổ giá. Con người được kêu mời lựa chọn thái độ sống của mình đối với Chúa Kytô. Họ có thể bước theo hoặc chống lại đường lối của Chúa. Và, sự lựa chọn này chắc chắn sẽ gây ra sự chia rẽ ngay trong chính gia đình, trong mỗi cộng đoàn. Ngay chính con người và giáo huấn của Chúa Giêsu cũng trở thành “cớ” gây nên sự chia rẽ và xáo trộn. Thật thế, nếu lời giáo huấn của Chúa làm cho nhiều người tội lỗi tin theo thì bao nhiêu ông Pharisêu lại ra sức chống đối Người bấy nhiêu; lời giảng của Người về vấn đề giàu nghèo, công bình xã hội được giới bần nông ủng hộ bao nhiêu thì các phú hộ giàu có lại nổi giận, xa lánh Người bấy nhiêu. Hơn ai hết, các môn đệ cũng như Giáo hội tiên khởi đã nếm trải kinh nghiệm này khi họ từ bỏ Dothái giáo để bước theo Chúa Kytô, họ đã bị gia đình, bạn bè, láng giềng thù ghét thoá mạ. Chắc một điều, vì Chúa Kytô, Giáo hội Chúa vẫn còn và sẽ mãi còn những kiểu “chia rẽ” như vậy.

Khi cổ võ cho hoà bình và công lý, khi cố gắng để xây dựng bình an đích thực trong trái tim con người, môn đệ Chúa Kytô có thể sẽ bị thế gian thù ghét và gán cho tội danh là kẻ phản nghịch. Nhưng chúng ta hãy an tâm và tin tưởng. Vì chính sự thù ghét của thế gian lại là phần thưởng nước trời cao quý nhất mà Chúa muốn ban tặng cho chúng ta trong đời sống mai sau.

Lm. Jos. Phạm Ngọc Ngôn, Csjb

VỀ MỤC LỤC
TÌNH YÊU KHÔNG NGHĨ ĐIỀU XẤU

 

(Tác Phẩm 13 Nét Mặt Tình Yêu) 

Lm. Micae-Phaolo Trần Minh Huy chuyển ngữ

Chương Chín

TÌNH YÊU KHÔNG NGHĨ ĐIỀU XẤU

1. Tình yêu là từ tâm :

Sự từ tâm mà thánh Phaolô liệt kê trong Gal 5,22 là một hoa quả tốt đẹp của Thánh Thần :

"Còn hoa quả của Thánh Thần là bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ. Không có luật nào chống lại những điều như thế" (Gal 5,22).

Tất cả chúng ta đều có lúc gặp được những con người mà tấm lòng thực sự là từ tâm, khoan dung. Họ luôn luôn tìm thấy nơi ông nầy bà nọ mà chúng ta thấy cách thiên lệch những đức tính tiềm ẩn vụt khỏi chúng ta. Họ nhìn thấy điều tốt ... và chỉ nổ lực để nhấn mạnh hơn rằng chúng ta đã muốn thấy điều xấu trước hết.

Tình yêu của Thiên Chúa là từ tâm. Ngay từ đầu thư gởi Tín hữu Êphêsô, thánh Phaolô đã :

"Chúc tụng Thiên Chúa là Thân phụ Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta. Người đã thi ân giáng phúc cho chúng ta hưởng muôn vàn ơn phúc của Chúa Thánh Thần... Người cho ta được biết thiên ý nhiệm mầu : thiên ý nầy là kế hoạch yêu thương Người đã định từ trước trong Đức Kitô. Đó là đưa thời gian tới hồi viên mãn là qui tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức Kitô" (Ep 1,3.9-10).

Niềm vui của chúng ta là để mình bị tình yêu từ tâm nầy bắt lấy, đưa vào trong những kế hoạch khoan dung của Thiên Chúa và cộng tác vào đó với tất cả sự dấn thân tự do của chúng ta. Thánh Phaolô viết cho tín hữu Philipphê :

"Ấy vậy, là những người luôn vâng phục, khi tôi có mặt cũng như nay vắng mặt, anh em hãy biết run sợ mà gắng sức lo sao cho mình được cứu độ. Vì chính Thiên Chúa tác động đến ý chí cũng như hành động của anh em do lòng yêu thương của Người. Anh em hãy làm mọi việc mà đừng kêu ca hay phản kháng" (Phil 2,12-14).

Vậy chúng ta không ngạc nhiên thấy thánh Phaolô đặt sự từ tâm vào đúng chỗ những hoa trái của Thánh Thần mà các môn đệ Chúa Kitô phải biểu lộ ra. Chính vì thế Ngài viết cho Titô, người đại diện trung tín của Ngài :

"Anh hãy nhắc nhở cho ai nấy phải phục tùng và tuân lệnh các nhà chức trách, các người cầm quyền, phải sẵn sàng làm mọi việc tốt và đừng chửi bới ai, đừng hiếu chiến, nhưng phải hiền hòa, luôn luôn tỏ lòng nhân từ với mọi người. Thật vậy, cả chúng ta nữa, xưa kia chúng ta cũng ngu xuẩn, không vâng lời, lầm lạc, làm nô lệ cho đủ thứ đam mê và khoái lạc, sống trong gian ác và ghen tị, đáng ghét và ghen ghét lẫn nhau" (Tt 3,1-3).

"Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương. Vì thế, anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hòa và nhẫn nại" (Col 3,12).

"Lòng từ tâm là một thứ khởi đầu thuận lợi trong tương quan với những ai chúng ta gặp gỡ, trong mọi hoàn cảnh chúng ta sống. Do đó chúng ta phải học biết "đón nhận những lời nói và hành động của tha nhân đúng  như chúng đang diễn ra, không tìm cắt nghĩa khác đi, nhưng với một thứ thông đạt ngây thơ loại bỏ nghi ngờ, song phục hồi được lòng tín nhiệm trong sáng"[1]

2. Tình yêu không đoán xét :

Chúa Giêsu đòi hỏi cách rõ ràng đừng xét đoán :

"Anh em đừng xét đoán để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán, vì anh em xét đoán thế nào thì anh em cũng sẽ bị Thiên Chúa xét đoán như vậy; và anh em đong bằng đấu nào thì Thiên Chúa cũng sẽ đong bằng đấu ấy cho anh em. Sao anh em thấy cái rác trong mắt của người anh em mà cái xà trong mắt mình thì lại không để ý tới ?... Hỡi kẻ đạo đức giả, hãy lấy cái xà khỏi mắt mình trước đã, rồi anh sẽ thấy rõ, để lấy cái rác ra khỏi mắt của người anh em" (Mt 7,1-5).

Chính Chúa Giêsu đã không kết án ai cả (x. Jn 8, 2-12 nói về người đàn bà ngoại tình). Ngài báo trước cho chúng ta :

"Anh em hãy có lòng nhân từ như Cha anh em là Đấng nhân từ. Anh em đừng xét đoán thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha. Anh em hãy cho thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng, đã dằn đã lắc và đầy tràn mà đổ vào vạt áo anh em, vì anh em đong bằng đấu nào thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh rm bằng đấu ấy" (Lc 6, 36-38).

Thánh Phaolô nhấn mạnh yêu sách nầy một cách cũng rất cương quyết :

"Dù bạn là ai đi nữa mà bạm xét đoán thì bạn cũng không thể tự bào chữa được. Vì khi bạn xét đoán người khác mà bạn cũng làm như họ thì bạn tự kết án chính mình" (Rm 2, 1).

Những lời nói xấu mà chúng ta có thể tung ra lẫn cho nhau đối với Chúa Giêsu cũng nghiêm trọng như là giết chết lẫn nhau vậy : thứ bạo lực nầy đòi hỏi phải được hòa giải trước khi tiến lại gần Chúa :

"Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng 'chớ giết người', ai giết người thì đáng bị đưa ra tòa. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết : Ai giận anh em mình thì đáng bị đưa ra tòa. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. Còn ai chửi anh em là quân phản đạo thì đáng bị lửa hỏa ngục thiêu đốt. Vậy nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hòa với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình" (Mt 5, 21-24).

Thánh Giacôbê trong thư của ngài đã nói toạc ra về cái lưỡi đầy nọc độc chết người : "Anh em đừng nói xấu nhau. Ai nói xấu hoặc xét đoán anh em mình là nói xấu và xét đoán Lề Luật. Nếu anh xét đoán Lề Luật thì anh không còn là kẻ vâng giữ mà là kẻ xét đoán Lề Luật. Chỉ có một Đấng ra Lề Luật và xét xử, đó là Đấng có quyền cứu thoát và tiêu diệt. Còn anh là ai mà dám xét đoán người thân cận ?" (Jc 4,11-12).

Chúng ta thấy được con đường còn phải trải qua... Ngay từ cảm tưởng tức thời mà đã rút ra lời phán quyết chung cục là một lỗi nặng. Việc đó giam chặt tha nhân trong một thái độ không có gì là bền vững. Chúng ta cần phải từ chối "dán nhãn hiệu" cho người khác và phải luôn canh chừng để cho tương lai được luôn rộng mở... Không những tình yêu không giải thích về phía xấu, mà còn phải luôn luôn giải thích về phí tích cực nhất.

Chị Céline của Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu thuật lại rằng :

"Têrêsa thường nói với tôi rằng chúng ta phải luôn luôn phán đoán tha nhân với lòng bác ái, bởi vì rất thường xảy ra là cái gì xem ra cẩu thả nơi mắt chúng ta thì lại là anh hùng nơi mắt Chúa. Một người đang mệt mỏi, bị nhức đầu hay phải khổ đau trong tâm hồn, chỉ hoàn thành được một nửa công việc lại làm nhiều hơn một người khác, đang được tráng kiện thể xác và tinh thần minh mẫn, làm trọn vẹn cả công việc. Vậy trong mọi trường hợp, xét đoán của chúng ta phải thuận lợi cho tha nhân. Phải luôn luôn nghĩ tới điều tốt, phải luôn luôn biện giải cho người" (CSG, 107).

3. Tình yêu tha thứ :

Bản dịch động từ thánh Phaolô dùng cho ta có hai hướng suy nghĩ :

·        Thứ nhất : Tình yêu không nghĩ đến điều xấu, không giải thích về phía xấu.

·        Thứ hai : Tình yêu không để ý đến điều xấu, không duy trì mối hiềm thù, không dừng lại ở điều xấu, không để ý đến điều xấu đã phải chịu đựng.

Thái độ độc đáo của tình yêu là thái độ đã trao ban ngay từ đầu bài ca bác ái: lòng hào hiệp. Tình yêu có con tim cao thượng : nó không hề tính đếm những xúc phạm người ta đã làm cho nó. Chúa Giêsu đã có lời dạy rất rõ ràng về đề tài nầy :

"Nếu người anh em của anh xúc phạm đến anh thì anh hãy khiển trách nó, nếu nó hối hận thì hãy tha cho nó. Dù nó xúc phạm đến anh một ngày đến bảy lần, rồi bảy lần nó trở lại nói với anh : 'Tôi hối hận' thì anh cũng phải tha cho nó" (Lc 17, 3-4).

Cũng chính yêu sách nầy đã được đặt ra cho Phêrô khi ông hỏi Chúa Giêsu :

"Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con thì con phải tha đến mấy lần ? Có phải đến bảy lần không ? Chúa Giêsu đáp : 'Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy'" (Mt 18,21-22).

Giữ mãi trong ký ức điều xấu đã phải gánh chịu, cảm nhận nó dù mình không muốn, không ngừng trách móc cùng những chuyện ấy bởi vài lời châm chọc cố ý... đó là một thái độ có thể xuất phát từ một vết thương nội tâm, nhưng cũng có thể do một sự thiếu tha thứ, hay nói một cách khác là bởi một mối hiềm khích dai dẳng, dù không muốn thú nhận ra như thế.

"Cộng đoàn là nơi của tha thứ. Bất chấp tất cả sự tín nhiệm người ta có thể có đối với nhau, vẫn luôn luôn có những lời nói gây thương tổn, những thái độ kẻ cả, những hoàn cảnh đáng ngờ vực. Chính vì thế, việc sống chung bao hàm một thứ thánh giá nào đó, một sự cố gắng liên lĩ và một sự chấp nhận tha thứ cho nhau mỗi ngày. Thánh Phaolô đã nói : 'Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương. Vì thế, anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hòa và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người nầy có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau'" (Col 3, 12-13)[1].

"Một trong những tội lớn nhất trong một cộng đoàn có lẽ là một hình thức của buồn phiền và ủ ê. Người ta dễ dàng đóng khung trong mấy người bạn để chỉ trích kẻ khác, nói rằng 'chán ngấy rồi', 'mọi thứ đều tồi tệ', 'không còn như trước nữa'. Trạng thái tinh thần nầy là một thứ ung nhọt thực sự có thể lây lan ra toàn cơ thể"[1]

Chính vì thế, tất cả những khuyến cáo của thánh Phaolô đều hữu ích cho sự hoán cải các thái độ xã hội của chúng ta. Ngài nói với chúng ta như thế nầy :

"Anh em phải đối xử tốt với nhau, phải có lòng thương xót và biết tha thứ cho nhau, như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Đức Kitô" (Ep 4,32).

Có người sẽ bảo "tôi không nhận thấy mình có kẻ thù...". Nhưng rõ ràng khi Chúa Giêsu truyền lệnh yêu thương kẻ thù thì Ngài muốn nói đến những người chung quanh chúng ta mà chúng ta biến thành kẻ thù vì đã dửng dưng với họ...

"Anh em hãy yêu thương kẻ thù, hãy làm ơn và cho vay mà chẳng hy vọng được đền trả. Như vậy, phần thưởng dành cho anh em sẽ lớn lao, và anh em sẽ là con Đấng Tối Cao, vì Người vẫn nhân hậu với cả phường vô ân và quân độc ác" (Lc 6,35).

4. Tình yêu không báo thù :

"Trong khi liệt kê các công việc của xác thịt (x.Gal 5,19-21), thánh Phaolô làm sáng tỏ các yêu sách của đức ái, từ đó mà phát sinh các bổn phận cụ thể đối nghịch lại các khuynh hướng của 'con người cầm thú', nghĩa là nạn nhân của các dục vọng của mình. Đặc biệt là tránh ghen tương và ham muốn, muốn điều tốt cho tha nhân; tránh những hiềm khích, bất hòa, chia rẻ, chống đối, bằng cách thăng tiến tất cả những gì đưa tới hiệp nhất. Câu thơ của thánh Phaolô trong bài ca đức ái, theo đó đức ái "không nghĩ tới điều xấu" (I Cor 13, 5), ám chỉ đến điều đó. Thánh Thần gợi lên lòng quảng đại tha thứ đối với những xúc phạm đã nhận và những thiệt hại phải chịu, và làm cho các tín hữu có khả năng làm như vậy, và vì là Thánh Thần ánh sáng và tình yêu, Thánh Thần giúp các tín hữu khám phá ra những yêu sách không giới hạn của đức ái"[1]

Một đoạn Phúc Âm minh họa tính ưa quyền lực và thống trị nầy có mặt bên trong ước muốn trả thù nầy. Các môn đệ Chúa Giêsu vào một làng Samaria, ở đó các ông muốn chuẫn bị trạm nghỉ đêm cho Chúa Giêsu đang đi sau :

"Nhưng dân làng không tiếp đón Người, vì Người đang đi về hướng Giêrusalem. Thấy thế, hai môn đệ Người là ông Giacôbê và ông Gioan nói rằng : 'Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu hủy chúng nó không ?' Nhưng Đức Giêsu quay lại quở mắng các ông : "Các con không biết mình thuộc về tinh thần nào". Rồi Thầy trò đi sang làng khác" (Lc 9, 53-56).

Tình yêu Phúc Âm đòi hỏi phải giao lại cho Thiên Chúa những tình huống trong đó người ta muốn tự mình đem lại công bằng cho mình và uốn nắn lại những điều lỗi người khác làm cho mình. Sự bình an tâm hồn và chứng tá đều phải trả bằng cái giá ấy :

"Khi chúng ta không được hiểu và bị xét đoán một cách bất lợi, thì liệu có ích gì để tự bênh vực, để tự giải thích không ? Chúng ta hãy để những thứ đó rơi xuống đi, đừng nói gì hết. Thật là khỏe khoắn khi chẳng nói gì, khi để mặc cho người ta muốn phê phán gì thì phê phán !... Ôi sự thinh lặng diễm phúc đã mang lại bình an biết bao cho tâm hồn"[1]

 

Suy niệm để lần hạt Mân Côi

1. Tình yêu không nghĩ đến điều xấu. "Anh hãy nhắc nhở cho ai nấy phải phục tùng và tuân lệnh các nhà chức trách, các người cầm quyền, phải sẵn sàng làm mọi việc tốt, và đừng chửi bới ai, đừng hiếu chiến, nhưng phải hiền hòa, luôn luôn có lòng nhân từ với mọi người. Thật vậy, cả chúng ta nữa, xưa kia chúng ta cũng ngu xuẩn, không vâng lời, lầm lạc, làm nô lệ cho đủ thứ đam mê và khoái lạc, sống trong gian ác và ghen tị, đáng ghét và ghen ghét lẫn nhau" (Tt 3,1-3). Lạy Chúa, xin ban cho chúng con một quả tim nhân hậu.

2. Tình yêu không nghĩ đến điều xấu. "Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương. Vì thế anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hòa và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người nầy có điều gì phiền trách người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau" (Col 3, 12-13). Lạy Chúa, xin ban cho chúng con tinh thần nhân hậu, hằng tỏ ra thuận lợi cho tha nhân trong mọi hoàn cảnh.

3. Tình yêu không nghĩ đến điều xấu. "Anh em đừng xét đoán để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán...Hỡi kẻ đạo đức giả ! Hãy lấy cái xà ra khỏi mắt anh trước đã, rồi anh sẽ thấy rõ, để lấy cái rác ra khỏi mắt người anh em" (Mt 5, 1. 5). "Anh em đừng nói xấu nhau. Ai nói xấu hoặc xét đoán anh em mình là nói xấu và xét đoán lề luật... Vậy anh là ai mà dám xét đoán người thân cận ?" (Jc 4, 11-12). Lạy Chúa, xin giải thoát chúng con khỏi ý muốn quyền lực thường tỏ lộ ra qua tinh thần xét đoán nầy.

4. Tình yêu không nghĩ đến điều xấu. "Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con thì con phải tha đến mấy lần ? Có phải đến bảy lần không ? Chúa Giêsu đáp : Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy" (Mt 18, 21-22). "Anh em phải đối xử tốt với nhau, phải có lòng thương xót và biết tha thứ cho nhau, như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Đức Kitô" (Ep 4, 32). Lạy Chúa Thánh Thần, xin gợi lên trong chúng con tinh thần tha thứ không ngừng.

5. Tình yêu không nghĩ đến điều xấu. "Hãy yêu thương kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em, hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em. Ai vả anh má bên nầy thì hãy giơ cả má bên kia nữa" (Lc 6, 27-29). Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã tha thứ cho các lý hình, xin ban cho chúng con ơn tha thứ cho kẻ thù của chúng con và từ chối mọi thứ trả thù.


[1] Jean Vanier, La Communauteù lieu du pardon et de la feâte, Fleurus 1979, p.16-17

VỀ MỤC LỤC
Cuộc đua với tử thần

 

“Cuộc đời mọc lên và ngắt đi như một bông hoa”     Kinh Thánh

Tạo hóa dường như rất hay đùa bỡn với số phận của con người. Có những người dư thừa đủ thứ: sức khỏe sung mãn, tài năng tràn trề, của cải giàu nứt đố đổ vách, con cháu đầy đàn vui vẻ sum vầy… ấy thế lại có những người Thượng Đế đầy họ vào bể khổ để đợi đến ngày nghe tiếng gọi của Người. Có vẻ hợp với câu: “Đời là bể khổ!”.

Một trong những nơi hiện thân của cái triết lý đời đó chính là cái Xóm Chạy Thận ở giữa lòng Hà Nội.

Phố Lê Thanh Nghị giống như bao khu phố mới sầm uất của thủ đô.

Mặt phố là những khối nhà 4-5 tầng xây dựng mới tinh, khá hiện đại. Phần lớn là những cửa hàng sầm uất bày bán đủ thứ từ máy tính, điện thoại, thời trang, đến cà phê, bia hơi giải khát v.v sớm tối nườm nượp khách hàng.

Phía sau cái lớp giàu sang rất mỏng ấy là cả một khối chằng chịt những ngõ ngách ngoằn ngoèo, chật trội, tinh những người là người. Trong những ngõ đó có “xóm chạy thận”, nơi tá túc của hơn 200 con người đủ mọi hoàn cảnh, lứa tuổi từ tứ xứ đổ về. Họ giống nhau, thứ nhất là đều mắc trọng bệnh: suy thận mãn phải lọc máu nhân tạo, thứ hai họ đều rất nghèo. Cũng có thể, có những người khá giả mắc bệnh hao tiền tốn của rồi mới nghèo, nhưng cũng có người nghèo, mắc trọng bệnh để rồi nghèo hơn…Không thể phân biệt rạch ròi được ai là ai trong số họ, bởi bây giờ thì họ đều nghèo khổ giống nhau. 

Xóm  “chạy thận” hình thành cũng có cái lý do của nó.

Cách đây hơn chục năm, ở Hà Nội nói đến trung tâm lọc máu, chỉ có Bạch Mai là số một. Cũng vì thế mà bệnh nhân cả nước đổ hết về đây. Cái mảnh đất ao muống bên đường, chỉ bước nhanh dăm bước chân là vào đến cổng viện, bỗng trở nên đắc địa với những người đã nhận án chung thân với những chiếc máy lọc máu. Họ tập hợp về đây, ban đầu chỉ lèo tèo vài người, thế rồi họ rỉ tai nhau: “nhà trọ gần bệnh viện giá bèo”. Mọc lên một xóm mà cư dân đa số là bệnh nhân thận. Đúng là mảnh đất hội đủ thiên thời-địa lợi-nhân hòa.

Một nguyên tắc sống bất di bất dịch ở đây là mọi cư dân trong xóm đều phải “chạy” để sống. Chạy đua từng ngày, từng giờ để sinh tồn. Nếu họ ngừng chạy vì bất cứ lý do gì ví như không đủ sức để chạy, không đủ tiền để chạy nữa, thì gần như ngay lập tức, cuộc sống của họ cũng chấm dứt.

“Lão làng” của xóm là một cô gái trẻ có cái tên rất duyên dáng: Nguyễn Thị Hồng Công.

Gọi là lão làng vì tuổi đời cô chưa tới 30 nhưng đã có 1/3 quãng đời ở cái tuổi đôi mươi đẹp nhất, chạy đua ở cái xóm này. Một thập kỷ ở đây, cũng có thể coi Hồng Công là người duy nhất thuộc lứa cư dân đầu tiên của xóm thận còn sống sót đến hôm nay. Mỗi năm xóm có chừng 5 cư dân qua đời, coi như vị “trưởng lão” chưa đến 30 tuổi đã dự tới hơn 50 đám ma trong 10 năm thường trú ở xóm. 

Mười năm trong cuộc đua giành giật sự sống đã mang lại không ít kinh nghiệm.

Thưở ban đầu, thiết bị lọc máu còn hạn chế, bệnh nhân trụ được lâu nhất là 2 năm. Lứa 2 năm đầu tiên của xóm ra đi sang thế giới bên kia, ấy thế nhưng cô bé Hồng Công chẳng hiểu sao lại vẫn trụ lại được. Phải chăng do sức lực thanh xuân ở tuổi 18 đôi mươi, hay do số phận đã chọn cô làm người chứng kiến sự sinh tồn ở xóm thận này?

Gia cảnh của Hồng Công khá điển hình như nhiều gia đình thôn quê khác.

Bố là bộ đội hy sinh trong chiến tranh biên giới 1979, khi đó Hồng Công mới 3 tháng tuổi. Mẹ, một người nông dân hiền lành chất phác, đi bước nữa, theo chồng mới vào lập nghiệp tại Hà Tĩnh.

Hồng Công được bà ngoại nuôi dưỡng. Xinh xắn, chăm chỉ học hành, nhưng số phận đã đưa đẩy cuộc đời cô bé ngoặt sang một hướng khác. Năm 14 tuổi, cô bé mắc phải căn bệnh viêm cầu thận cấp, dẫn đến suy thận.

Và từ đó cuộc đời của cô bắt đầu gắn liền với bệnh viện. 

Bệnh viện đầu tiên Hồng Công làm quen là Bệnh viện Nhi Trung Ương. Cô được bố mẹ đưa lên điều trị tại đó 3 tháng, sau khi bệnh tình đã thuyên giảm cô lại tiếp tục theo học cấp II còn đang dang dở. Mỗi tháng 1 lần, cô học sinh nhỏ phải vào bệnh viện để làm các xét nghiệm, kiểm tra sức khỏe và dùng thuốc theo chỉ định.

Ngày thi tốt nghiệp cấp III, ngay sau khi đặt bút viết những dòng cuối cùng vào giấy thi, Hồng Công đã phải lên xe cấp cứu chạy thẳng vào bệnh viện Bạch Mai. Kể từ đó cô là thân chủ trung thành của viện. Như lời tâm sự của cô: “Nếu như ra khỏi đây, chỉ có ra đi mãi mãi mà thôi”. 

Cuộc sống của một bệnh nhân suy thận phải lọc máu nhân tạo có những đặc thù riêng. Mỗi tuần Hồng Công phải vào lọc máu ba lần. May mắn Hồng Công là con liệt sĩ, nên được bảo hiểm trả y phí, nhưng phải mua thuốc trợ tim, hạ huyết áp…cần thiết cho việc lọc máu và cả chục thứ thuốc bệnh khác. Bình thường, mỗi lần lọc máu tốn 400.000 đồng, vị chi là 4,5 triệu một tháng cho cả lọc máu lẫn thuốc thang, một số tiền ước mơ của rất nhiều người lao động khỏe mạnh, thậm chí cả những người được học hành tử tế. Trong trường hợp nếu không có tiền thì… mọi thứ chấm dứt!

Nhưng không chỉ có vậy, “bệnh lại đẻ ra bệnh”.

Hồng Công bây giờ đã quá quen với bệnh khắp người. “Cháu có đủ thứ bệnh, bác ạ”, Hồng Công cho biết. Nào là hậu quả của Lupus ban đỏ, u xương khớp (4 năm) đau khớp, viêm khớp hệ thống; mắt (4 năm) mờ (4/10) viêm giác mạc; Điếc tiếp nhận 2 tai. Suy tim độ cuối. Đau dạ dày, đại tràng co thắt. viêm thần kinh ngoại vi, u nhũ hoa lành tính…v.v Ngoài Bạch Mai là chỗ chung thân ra, cô là “khách quen” của Bệnh Viện K, viện Mắt Trung Ương, Tai Mũi Họng, Cấp Cứu 115…v.v

Dài theo thời gian là sự đau đớn về thể xác, mệt mỏi tinh thần.  Của nả trong nhà bố mẹ đã đội nón ra đi hết. Mà tiền vào nhà khó như gió vào nhà trống. Họ hàng, bạn bè tránh mặt vì nợ cũ chưa trả, đã cất lời đi vay. Đã vậy, mỗi năm dăm ba lần mẹ cô lại phải bỏ mọi công việc dưới quê lên thăm nuôi con, khi bệnh nặng. “Chúng em vất vả lắm, anh ạ. Nhưng thấy cháu xanh xao nằm đó mà lòng đau như cắt, đâu dám quản ngại xa xôi”. Cô nhận ra mình là nguyên nhân của tất cả những bất hạnh đó và hơn một lần cô đã nghĩ đến cái chết… 

Có lẽ chính vào những thời điểm khó khăn nhất sau những “rượt đuổi” vô tiền khoáng hậu với thần chết, cái “khát vọng sống để yêu” của cô mới bùng lên dữ dội.

Cô lê ra đường làm đủ nghề để sống.

Đi bán bánh mỳ buổi sáng. Nhận vào 600 đ/chiếc bán ra 1000 đ/chiếc, ngày ít được vài ba cái, ngày nhiều được chục chiếc. Rồi mua chè mạn, nhân trần về pha nước đi bán rong trong bệnh viện.

Nhưng sức vóc của một bệnh nhân đã cạn kiệt 87% qua những “trận chiến” với tử thần không cho phép cô làm được hơn.

Có lẽ nghề “trông bệnh nhân ốm” là nghề lâu nhất của cô.

Người ta hay nói, ốm lâu sẽ thành thầy thuốc giỏi. Hồng Công đã quen với các y bác sĩ ở khoa lọc máu Bạch Mai. Cô cũng thạo việc đo, nhìn huyết áp. Hơn nữa bệnh nhân nằm lọc máu cũng cần xoa bóp, gãi ngứa chân tay vì thế nhiều người đã thuê cô trông giúp người nhà đang nằm điều trị. Cứ mỗi ca như thế (trông nom bệnh nhân 3-5 giờ) cô được nhận thù lao 12.000 đ. Sáu tháng trời lăn lộn với chăm sóc những người cùng cảnh ngộ để tìm cửa sống cho mình, nhưng rồi những trận ốm “quen thuộc” đã kéo tuột cô trở về với góc phòng trọ tối tăm. 

Cô bắt đầu viết, viết như phát cuồng.

Cô viết như một cách để giải thoát cơn khát sống.

Cô viết vào sách báo khi nằm bẹp ở “hang ổ” của mình.

Cô viết vào chân tay khi đang lọc máu trên giường bệnh.

Cô viết lên tường khi đang nấu cơm.

Viết, viết..viết tất cả những gì đã đến với cô, những gì đang xảy ra xung quanh mình, viết về ký ức xa xưa tươi đẹp, về một mối tình không trọn vẹn, về cuộc sống khốn khó hiện tại…

Tác phẩm đầu tay của cô với cái tên “Khát Vọng SốngĐể Yêu” đã ra đời như thế!. 1000 cuốn sách bán hết veo. Người ta đang dự kiến sẽ dịch ra tiếng Đức, tiếng Anh và chắc sẽ là nhiều thứ tiếng khác. Nhuận bút của những bài báo và của cuốn sách là một dàn máy vi tính hiện đại có kết nối internet. Cô bắt đầu tự học máy tính để tiếp tục viết.

Lần này cô đang viết về những người có cùng số phận với cô. Họ đang cùng nhau chạy đua với tử thần để giành lấy cuộc sống của chính mình. Cô nhớ lại cuộc chia tay vĩnh viễn với 3 cư dân trong xóm vào dịp tết vừa rồi. Cô nhớ đến mối tình của đôi bạn bên hàng xóm, cũng vì bệnh tật mà họ đến với nhau rồi nên vợ nên chồng… chuyện của cô còn nhiều lắm.

Và cô sẽ viết, và tiếp tục viết nếu mỗi sáng khi thức dậy thấy mình vẫn còn sống…

…Xóm thận với những ngõ nhỏ chằng chịt như mạng nhện có vẻ bề ngoài giống hàng vô vàn những khu lao động nghèo ở Hà Nội. Ở đó có hơn 200 con người đang vật lộn với thần chết để giành lấy mạng sống. Có một cô gái nhỏ đang ngồi bình thản viết với nụ cười trên môi. Cô viết và đợi 1 ngày…

 

Nguyễn Ánh-Ngọc / Nguyễn Ý-Đức

Ghi chú: Nguyễn Hồng Công:

Sinh: 23/10/1978. Lạng Giang (Bắc Giang).

Bằng C Anh Ngữ. Tự học viết văn. Là bệnh nhân chung thân tại khoa Lọc máu Bệnh viện Bạch Mai. Thành viên lâu năm của Xóm chạy thận ngõ 121 Lê Thanh Nghị.

Tác phẩm: Tiểu thuyết “Khát Vọng Sống Để Yêu”.

Là tác giả nhiều bài báo trên các tờ báo lớn.

VỀ MỤC LỤC

KHI CHỒNG GIẬN Chuyện phiếm của Gã Siêu.

 

Nhìn vào vũ trụ, hẳn ai cũng phải “tâm phục khẩu phục” Đấng Tạo Hóa. Ngài quả là tuyệt vời, bởi vì vạn vật do Ngài dựng nên rất giản đơn, nhưng lại vô cùng phong phú.

Thực vậy, theo quan niệm của đông phương, thì thuở ban đầu chỉ có âm và dương. Hai thái cực này hoàn toàn khác biệt và trái ngược nhau, nhưng lại luôn thu hút lẫn nhau để nảy sinh vạn vật :

- Nhất âm, nhất dương chi vi đạo.

Cũng thế, theo quan niệm của Cựu ước, Đấng Tạo hóa đã dựng nên một người nam và một người nữ. Cả hai kết hiệp thành vợ chồng mà sinh ra con đàn cháu đống, kéo dài dòng giống con người trên mặt đất này cho đến tận cùng thời gian.

Còn nói theo kiểu tân cổ giao duyên, đông tây hòa hợp, thì người nam mang tính dương, còn người nữ mang tính âm. Nam nữ tuy khác biệt nhưng lại hấp dẫn lẫn nhau, để tạo thành một mái ấm gia đình.

Trong mái ấm này, cần phải có sự hài hòa cân đối bởi vì nếu âm mà thịnh thì ắt dương phải suy. Và ngược lại, nếu dương mà thịnh thì ắt âm phải suy. Chồng mà hiền thì vợ thường….dữ. Chồng mà gầy thì vợ thường…mập!!!

- Thế gian được vợ hỏng chồng,

Có đâu mà được tiên rồng cả đôi.

Tự bản chất, đờn ông với đờn bà vốn đã khác biệt. Thế nhưng, những khác biệt này không phải để đối kháng và hủy diệt lẫn nhau, như nước với lửa, như bóng tối với ánh sáng, nhưng là để bổ túc lẫn cho nhau. Chẳng hạn người đờn bà vốn yếu đuối thì đã có cái sức mạnh của người đờn ông bổ túc. Người đờn ông vốn nóng nảy thì đã có sự dịu hiền của người đờn bà dập tắt.

Ngay cả giữa đờn ông với đờn ông và giữa đờn bà với đờn bà cũng đã có những khác biệt, bởi vì bá nhân bá tánh, mỗi người đều có một tính tình riêng. Mỗi người là một mầu nhiệm, chẳng ai giống ai.

Hơn thế nữa, nhân vô thập toàn, ai cũng có những sai lỗi khuyết điểm của mình. Cái rắc rối, đó là con người không thể sống cô độc lẻ loi như một hòn đảo giữa biển khơi, hay như một pháo đài biệt lập. Trái lại, chúng ta sống là sống với người khác, nhất là với những người thân yêu. Ngay từ ban đầu, Đấng Tạo hóa cũng đã tỏ rõ  điều   ấy :

- Người đờn ông ở một mình không tốt, Ta hãy dựng nên cho nó một người trợ giúp…

Hai thực thể khác biệt từ bên trong đến bên ngoài, hai con người chẳng giống nhau từ tâm hồn đến thân xác, thế mà bây giờ lại được nhốt chung trong cùng một mái nhà để làm nên một gia đình, thì chắc hẳn sẽ không thể nào tránh đi cho hết những va chạm, những bực bội, những hiểu lầm, chả thế mà cha ông chúng ta ngày xưa đã bảo :

- Chén bát trong rổ còn có lúc xô xát huống lọ là vợ chồng với nhau.

Hay như bọn con nít ngoài đường vốn thường nghêu ngao :

- Anh như con chó, em như con mèo, hai con cắn nhau…

Vì thế, hôm nay gã thử phân tích xem khi anh chồng mà giận, thì chị vợ thường phản ứng như thế nào ? Tuy nhiên trước khi mổ xẻ vấn đề, chúng ta cùng nhau chiêm ngưỡng dung nhan anh chồng cái đã. Vậy bàn dân thiên hạ đã nhìn anh chồng ra sao ? Và đã thế nào là một anh chồng ?

Thiên hạ vốn cho rằng anh chồng là người đờn ông chung sống với người đờn bà sau khi đã cưới hỏi theo phong tục và làm giá thú theo luật định, hoặc có khi lờ tít, cứ việc ăn ở với nhau mà chẳng cần cưới hỏi, hay giá thú giá thiếc nào sốt. Đó là cái định nghĩa chung chung về anh chồng. Tuy nhiên, nếu đi vào lãnh vực chuyên môn, gã nhận thấy những bậc chuyên gia mỗi vị lại hiểu anh chồng một cách khác nhau theo sự méo mó nghề nghiệp của mình.

Đối với nhà khảo cổ, thì anh chồng là một thứ đồ cổ ít có giá trị đối với chị vợ, nhưng biết đâu lại vô giá đối với kẻ khác. Chính vì thế mà sơ hở một tí là có thể mất chồng như chơi. Người ta cho rằng trên đời này có ba thứ càng cũ lại càng quí, đó là rượu cũ, sách cũ và bạn cũ. Nhưng mà anh chồng, dưới mắt chị vợ sau nhiều năm chung sống, không chừng lại bị ngán tới cần cổ, như ngán cơm nếp nát vậy. Thế nhưng, khi thò chân bước ra ngoài xã hội, anh chồng ấy, nếu được trang bị bằng một tí tiền và một tí quyền, thị lại trở thành vô giá, thiên hạ sẵn sàng nhào tới ăn có, như mèo mù vớ cá rán, ngủ gật gặp được chiếu manh.

Đối với ông bác sĩ, thì anh chồng là một thứ vi khuẩn đã nhờn thuốc nên rất khó trị. Đúng thế, vào cái thuở ban đầu lưu luyến ấy, thì chị vợ nói gì anh chồng cũng phải nghe, chỉ cần một liều thuốc nhẹ cũng chữa chạy được.  Đúng là :

- Lệnh ông không bằng cồng bà.

- Vợ muốn là trời muốn.

Thậm chí có anh chồng còn cảm thấy lương tâm áy náy và cắn rứt khi cãi lời vợ, vì thế đã vào tòa giải tội mà xưng thú :

-  Thưa cha, con đã trót dại không vâng lời vợ con phỏng là mười lần.

Còn lâu ngày sau khi cưới, loại vi khuẩn này đã quen với thuốc nên không còn phương thức trị liệu. Nói năng cứ như dùi đục chấm nước mắn, rồi lại còn chủ trương : nhất lý, nhì lì, tam ì, tứ ẩu nữa mới đáng ghét không cơ chứ.

Đối với nhân viên ngân hàng, thì anh chồng là kẻ chuyên môn vay nóng, nhưng lại không có khả năng chi trả. Đúng thế, khi  cần tiền thì cái miệng anh ta dẻo quẹo, nhưng khi đòi lại thì cứ khất lần khất lượt, từ từ cái đã, chẳng hiểu đến đời ông Bành Tổ nào mới trả cho xong.

Đối với nhà ngôn ngữ thì trước khi cưới, anh chồng là người rất “chịu khó” nhưng sau khi cưới anh ta trở thành một người rất…”khó chịu”. Thực vậy, trước khi cưới anh chồng rất ư là ga lăng, từ lời ăn tiếng nói đến cung cách chiều chuộng…tất tật đều dễ thương chi lạ. Tuy nhiên hãy đợi đấy, sau ngày cưới anh ta mới để lộ chân tướng vũ phu chi cục mịch của mình. Có những anh chồng, trước khi cưới qua nhà vợ, hiền lành như con gái, rượu chẳng biết uống, thuốc chẳng biết hút…Thế mà sau khi cưới anh ta hóa kiếp thành dân bợm nhậu, uống rượu như hũ chìm. Có những anh chồng, trước khi cưới qua nhà vợ, việc gì cũng lăn xả vào làm, còn sau khi cưới ấy hở, lười chảy thây, chẳng muốn động ngón tay lay thử một ly,  một tí nào sốt. Quả thực trước khi cưới anh ta rất chịu khó, còn sau khi cưới anh ta lại là người rất khó chịu.

Đối với bác nông dân, thì anh chồng là loại thóc giống, nếu không tranh thủ “xạ” gấp, thì có nguy cơ bị hàng xóm vay mất.

Dĩ nhiên còn rất nhiều định nghĩa khác nữa, tùy theo góc độ của từng người. Tuy nhiên, bằng đó mà thôi cũng đủ để cho thấy anh chồng là một thực thể rất ư phức tạp. Nhưng xét cho cùng, đôi khi anh ta cũng là kẻ đáng thương và tội nghiệp lắm lắm.

Cái đáng thương và tội nghiệp thứ nhất, đó là anh ta phải lo lắng cho ngày mai,  như một câu danh ngôn đã bảo :

- Người đờn bà chỉ lo lắng về tương lai cho đến khi chị ta lấy được anh chồng. Còn người đờn ông thì ngược lại, anh ta chẳng bao giờ lo lắng về tương lai cho đến khi anh ta lấy được chị vợ.

Điều đó có nghĩa là một khi đã lấy vợ, anh chồng phải chí thú làm ăn, nai lưng ra mà xây đắp tương lai. Đối với những anh thanh niên choai choai, hay phá làng phá xóm, các cụ già thường khuyên cha mẹ chúng như sau :

- Cứ cưới vợ cho nó là xong tuốt luốt.. Vợ nó sẽ dạy nó. Và nó chẳng còn quậy phá nữa.

Lo lắng về tương lai, thì cũng có nghĩa anh chồng phải lao động đầu tắt mặt tối, đổ mồ hôi sôi nước mắt để kiếm cho được nhiều tiền. Hay nói cách khác : cơm áo gạo tiền chính là cái đáng thương và tội nghiệp  thứ hai cho các anh chồng.

Với tiêu chuẩn tiền bạc, anh chồng bị đánh giá như sau :

- Anh chồng thành công là anh chồng kiếm được số tiền lớn hơn số tiền chị vợ  tiêu xài.

Cũng vì luôn bị tương lai ám ảnh và tiền bạc xâu xé, nên anh chồng thường có những cơn giận chẳng đâu vào với đâu, hay chẳng có lấy một lý do chính đáng nào sốt. Cũng giống như cơn giận của anh chàng voi đực đối với chị voi cái trong câu chuyện sau đây.

Có hai vợ chồng nhà voi đang sống yên ổn và hạnh phúc trong một sở thú tại Nữu Ước. Thế rồi một buổi sáng đẹp trời nọ, chú chuột nhắt  bỗng xuất hiện. Nhìn thấy chú chuột nhắt, chị voi cái bèn hoảng sợ, chạy tới chạy lui và rống lên từng hồi. Anh voi đực tức giận trước cảnh tượng ấy, nên đưa mắt nhìn trừng trừng. Cuối cùng, như không cầm nổi cơn bực bội của mình, anh voi đực đã xông thẳng vào chị voi cái và dùng cặp ngà của mình mà hất tung chị voi cái xuống một cái hố bên cạnh đó, khiến cho mấy chục người phải vất vả, dùng ván và xe mới trục được chị voi cái lên khỏi miệng hố. Lúc bấy giờ, anh voi đực có vẻ hối hận, đứng nhìn mà cặp mắt lại ươn ướt.

Chỉ vì một chú chuột nhắt mà gia đình nhà voi suýt đi tới chỗ tan vỡ. Cũng vậy trong đời sống vợ chồng, lắm khi chỉ vì những mâu thuẫn, những bất đồng nho nhỏ, mà nếu không biết cư xử một cách khôn khéo, sẽ dẫn tới những hậu quả nghiêm trọng.

Vậy mỗi khi anh chồng mà giận, thì chị vợ thường phản ứng như thế nào ?

Phản ứng thứ nhất :

Chồng giận thì vợ làm lơ,

Mặc cho bực bội, phe lờ như không.

Có thể nói được rằng đây là phản ứng của những chị vợ vừa ngây thơ lại vừa vô tư, hay nói một cách khác, đây là phản ứng của những chị vợ “trẻ con”, chưa muốn làm người lớn. Anh chồng bực bội tức tối cũng mặc kệ, chị vợ vẫn cứ tỉnh bơ, vô tư cười nói,  vô tư ca hát, vô tư ăn hàng, làm như chẳng có gì xảy ra dưới mái nhà thân yêu. Lúc nào chị vợ cũng tỏ ra ngây thơ như con nai vàng ngơ ngác. Cho dù nhà hàng xóm có cháy, thì  chị vợ vẫn cứ bình chân như vại.

Những chứng từ trong bài này, gã trích dẫn ở báo “Phụ nữ Chủ nhật” để làm cho rõ những phản ứng sẽ được trình bày.

“Anh H, một công chức, vốn là người trầm tính, thường khi gặp phải điều gì phật ý, anh ít nói ra. Không nói ra, nhưng vẻ bực dọc lại lộ rõ trên khuôn mặt và cử chỉ của anh. Ngặt nỗi, cô vợ anh lại chẳng hề để ý cũng chẳng nói chẳng rằng, cứ kiểu chồng giận thì vợ…làm lơ.

Vậy là mặc chồng, chồng giận, mặc vợ, vợ…cứ tỉnh bơ. Chồng không thố lộ, vợ chẳng chịu hỏi han, khiến gia đình như có chiến tranh lạnh, không khí nặng nề kéo dài dăm bữa, nửa tháng là thường, cho đến khi cả hai chịu hết xiết mới nhân một cớ nào đó mà lẳng lặng…giảng hòa.

Qua những lần giận nhau như thế, cả hai vẫn chưa xác định được ai là người phải xuống nước…trước ai. Đôi khi anh H lẩn thẩn nghĩ :

- Quái ! Bực dọc điều gì, sao  mình không chịu nói phứt ra cho nhẹ gánh ?

Cô vợ của H đôi lúc  cũng bần thần :

- Ừ, phải chi bữa đó mình chịu quan tâm hỏi ảnh giận gì, thì đâu phải chịu cảnh lạnh lùng, rồi trách ảnh…giận dai !”

Phản ứng thứ hai :

Chồng giận thì vợ lầm lì,

Chẳng cần lý sự, cứ ì là xong.

Có thể nói được rằng đây là phản ứng của hàng cao thủ võ lâm, hay của những chị vợ dày dạn kinh nghiệm trận mạc. Nó không còn vô tư đơn sơ và vô tư ngây thơ nữa, nhưng là cả một chiến lược rất tinh vi,  rất nặng đô khiến cho phe địch bị sập bẫy, phải tự ý cầu hòa. Ấy là chưa nói tới nhiều khi còn phải năn nỉ ỉ ôi tới gẫy cả lưỡi nữa là đàng khác.

Anh chồng mà giận ấy hở, chị vợ bèn lầm lì, chẳng nói chẳng rằng, sa sầm nét mặt và ủ dột như chiếc bánh bao chiều, hay sưng thành, một cục, một đống. Cậy miệng cũng chẳng nói được một chữ. Bất bạo động, nhưng cũng bất hợp tác.

Có một chị vợ kia đã thẳng thừng nói với anh chồng đang khoa chân múa tay, la hét om xòm, như sau :

- Để xem mèo nào thắng mèo nào. Liệu có chịu nổi sự được lạnh lùng của tôi thì hãy giận, bằng không thì….biến đi cho rồi.

“Người ta thường được nghe chị X kể lại một cách đầy kiêu hãnh là anh chồng chị lúc nào cũng phải chịu lép vế trước sự “kiên cường” của vợ. Dù đúng dù sai, mà sai thường nhiều hơn đúng, hễ chồng “lỡ giận”, là chị…đổ lì, đổ bê tông bằng khuôn mặt lạnh dưới 0oC và thái độ dấm dẳng chua lè, bất hợp tác trong mọi lãnh vực của đời sống vợ chồng. Và để phục hồi cái không khí đầm ấm cho gia đình, anh X thường phải xuống nước trước một cách thành khẩn, mới được vợ tha cho.

Chị X luôn tự hào về loại vũ khí hiệu nghiệm của mình, đâu biết rằng anh X chồng chị lâu dần như người bị dồn vào bước đường cùng, có lần thẩn thờ tâm sự :

- Không thể nào và hình như không còn cách nào góp ý vớ bả được, từ chuyện lớn đến chuyện nhỏ. Tình trạng này cứ kéo dài, không biết rồi…sẽ dẫn tới đâu.”

Phản ứng thứ ba :

Chồng giận thì vợ nổi xung,

Đổ dầu vào lửa, đùng đùng…uỵch nhau.

Nếu hai phản ứng trên được gọi là phản ứng ngầm và lạnh, thì phản ứng thứ ba này phải được coi là phản ứng nổ và nóng. Chồng cũng ghê mà vợ  cũng gớm. Quả là xứng đôi vừa lứa.

Nếu chồng nóng như Trương Phi, thì vợ cũng dữ chẳng kém gì sư tử Hà Đông. Nếu chồng nói một, thì lập tức vợ cũng trả đũa, phản pháo lại gấp hai. Nếu chồng quẳng nồi niêu, thì lập tức vợ cũng ném bát đĩa. Nếu chồng mày với tao, thì lập tức vợ cũng tao với mày. Nếu chồng đấm với đá, thì lập tức vợ cũng cào với cấu. Nếu chồng thượng cẳng chân, thì lập tức vợ cũng hạ cẳng tay.

Nếu chồng hét, thì lập tức vợ cũng gào và hậu quả đương nhiên sẽ xảy ra, đó là láng giềng phải nghe. Cả hai đều hành động theo đúng cung cách mà ngày xưa các cụ đã diễn tả :

- Chồng giận, vợ giận, thì dùi nó quăng.

“Chuyện của vợ chồng anh Bảy thợ hồ là một điển hình về chiến tranh nóng, chiến tranh…tóe lửa giữa các vì sao, trong những gia đình mà hễ chồng giận thì vợ cũng…nổi xung. Anh Bảy tính vốn nóng như lửa, ngặt nỗi chị Bảy, vợ anh, cũng chẳng vừa, nên nhà họ thường xuyên nổ ra chiến sự, khiến mấy đứa con bị văng miểng, mà hàng xóm cũng bị vạ lây.

Chuyện đĩa bay, chén bể, nồi móp giữa họ là chuyện bình thường, xảy ra như cơm bữa. Chồng một tiếng, thì vợ…ba tiếng. Chồng văng tục, thì vợ…tục văng, đốp chát trả theo không kém cạnh.

Công bằng mà nói thì lắm lúc nội vụ chỉ do anh Bảy vô cớ mắng chửi lãng òm, thế là chị Bảy bụp lại ngay, đáp trả dữ dội bằng những lời lẽ nặng nề. Cả hai đã phải mấy lần vác đơn ra tòa xin ly dị, rồi được hòa giải, rồi lại…

Anh Bảy khi được hỏi thường tìm cớ lảng tránh, còn chị Bảy thì thở ra :

- Tánh tui nó vậy, nhiều lúc nghĩ cũng bậy, nhưng…sửa hổng đặng, biết sao bây giờ.

Có người bảo :

- Gẫm ra cũng chí lý.

Biết sai, thì phải biết sửa. Sửa gấp không đặng, thì sửa từ từ, mỗi lần một chút. Vợ sửa trước, mới mong chồng có cơ hội phục thiện để cùng nhau vun vén hạnh phúc gia đình.”

Phản ứng thứ tư :

Chồng giận thì vợ làm lành,

Miệng cười hớn hở, rằng anh giận gì ?

Có thể nói được rằng đây là loại phản ứng mang tính cách xây dựng hơn cả, khả dĩ hóa giải được cơn giận của anh chồng.

Như trên chúng ta đã trình bày : va chạm, xích mích, bất đồng là chuyện đương nhiên của cuộc sống vợ chồng. Không va chạm, không xích mích, không bất đồng mới là chuyện bất bình thường, cần phải xét lại.

Tuy nhiên điều quan trọng, đó là phản ứng của chị vợ trong lúc “hữu sự”. Nếu biết cư xử một cách tế nhị và khéo léo, thì sau cơn mưa trời lại sáng, sau cơn giận, anh chồng sẽ yêu thương nhiều hơn. Thật đúng với chiến thuật :

- Lùi một bước để tiến tới hai bước.

Trong lúc anh chồng bị tẩu hỏa nhập ma, cơn giận bốc lên đùng đùng, thì việc chị vợ cần phải làm ngay, đó là hãy tiết kiệm lời nói, như người xưa đã từng dạy :

- Chồng giận thì vợ bớt lời,

Cơm sôi nhỏ lửa, một đời chẳng khê.

Thực vậy, đạn bắn xuống bùn, chẳng công phá được chi. Trước sự yên lặng của chị vợ, anh chồng la hét mãi, quát tháo mãi cũng sẽ mỏi  mồm, tới một lúc sẽ tự động tắt đài, êm ru bà rù.

Sự yên lặng của chị vợ trong hoàn cảnh này, quả là quí hơn vàng, hơn bạc. Bởi vì nếu không yên lặng, thì chắc chắn hậu quả sẽ khó mà lường nổi. Sau cơn giận, gia đình chỉ còn là một bãi chiến trường với những đổ vỡ và tan hoang. Bởi vì :

- Bên thẳng thì bên phải chùng,

Hai bên đều thẳng, thì cùng đứt dây.

Tuy nhiên, yên lặng không có nghĩa là cam lòng chịu vậy. Trái lại, trong những lúc thuận tiện, chị vợ nên dùng những lời nói ôn tồn và thành thực để nhắc bảo. Lúc bấy giờ, những lời nói êm dịu của chị vợ như rót vào tai, khiến anh chồng dễ dàng chấp nhận, nhờ đó giúp nhau thăng tiến bản thân, mà vẫn giữ được bàu khí hòa thuận cho gia đình. Bởi vì :

- Mật ngọt thì chết ruồi.

Hay như một câu danh ngôn cũng đã bảo :

- Người ta bắt được nhiều ruồi chỉ bằng một giọt mật, còn hơn là bằng cả một thùng giấm chua.

“Hạnh phúc biết bao cho những ai được tắm mình giữa  bàu khí gia đình trong ấm ngoài êm. Và đó cũng là phần thưởng quí giá cho những người vợ biết khéo léo, mềm mỏng và thông minh trước những cơn giận, dù đôi khi…kỳ cục của chồng mình.

Ai đó đã từng nói rằng : nụ cười của phụ nữ có thể làm thay đổi cả thế giới, huống hồ là đối với…anh chồng bẳn tính của mình. Nhưng nói thế không có nghĩa người vợ phải luôn lép vế, khuất phục trước chồng bởi bất cứ lý do nào. Vì theo các chuyên gia về tình yêu hôn nhân và gia đình, đồng thời cũng theo kinh nghiệm của các người chị, người mẹ có một mái ấm tuyệt vời, thì cái sự làm lành cũng chính là thứ vũ khí quan trọng để bảo vệ và tôn tạo hạnh phúc gia đình.”

Để kết luận, gã xin kể lại một mẩu chuyện như sau :

Có hai vợ chồng nọ, hồi còn trẻ họ sống rất yêu thương và hạnh phúc, nhưng khi đã về già, thì lại thường xuyên lục đục và cãi vã nhau suốt ngày. Ông nói một thì bà nói hai. Ông nói hai thì bà nói ba. Và ông nói ba thì bà nói tới bảy, tám, chín, mười…Cuối cùng, chẳng ai chịu nhận mình là kẻ có lỗi.

Người hàng xóm thấy vậy bèn góp ý :

- Trên núi kia có một vị sư bào chế được một thứ thuốc giúp cho nhiều gia đình được êm ấm thuận hòa.

Bà nghe lời, bèn đi lên núi tìm gặp vị sư. Sau khi nghe trình bày, vị sư liền trao cho bà một chai thuốc và nói :

- Đây là một loại thuốc gia truyền rất hiệu nghiệm. Hễ khi nào ông gây sự, bà chỉ cần ngậm một ngụm ở trong miệng, không được nuốt và cũng chẳng được nhổ ra, cho tới khi ông không còn nói nữa, rồi mọi chuyện sẽ được ổn thỏa và tốt đẹp.

Bà hăm hở xuống núi. Thế nhưng vừa về tới đầu ngõ, thì ông từ trong nhà vội chạy ra, nét mặt hầm hầm và nói như quát :

- Bà rúc ở cái xó xỉnh nào mà giờ này mới vác xác về. Đi mà lo cơm nước, không thì liệu hồn đấy.

Nghe vậy, bà liền tợp một ngụm thuốc, ngập ở trong miệng đúng như lời căn dặn của vị sư. Thấy bà chẳng đáp lời, một lúc sau ông cũng lặng thinh.

Bà hết sức vui mừng và thầm nghĩ :

- Đây quả là một thứ nước thần rất hiệu nghiệm.

Khi bà bắt đầu vo gạo để thổi cơm, thì ông lại la :

- Làm gì mà chậm như rùa vậy.

Bà toan cãi lại, nhưng nhớ tới lời căn dặn của vị sư, bèn tợp một ngụm thuốc trong miệng. Thấy bà  không cãi lại, ông đành phải im luôn. Từ đó hai ông bà dần dần trở lại cuộc sống êm ấm và hạnh phúc của hồi còn trẻ. Thứ nước thần hay thuốc gia truyền ấy, chẳng qua chỉ là nước lã mà thôi.

Kinh nghiệm ngàn đời cho chúng ta thấy :

- Một sự nhịn là chín sự lành.

Trong cuộc sống vợ chồng, nhiều lúc phải nhường. Mà đã nhường thì nhiều lúc cũng phải nhịn. Mà đã nhịn thì nhiều lúc cũng phải cắn răng chịu nhục, nhưng đó lại là chiếc chìa khóa để mở ra cánh cửa hạnh phúc.

Gã Siêu     gasieu@gmail.com

VỀ MỤC LỤC

- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến, bài vở..., xin gởi về địa chỉ

giaosivietnam@gmail.com

- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:

Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục vụ của Giáo sĩ;  Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh vực; Mỗi  Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)

- Quí vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại

www.conggiaovietnam.net

Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị

Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác nhau.

TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam

Lm. Luca Phạm Quốc Sử  USA

 

 

Được chọn giữa loài người và cho loài người; GÍAO SĨ: Xuất phát từ gíao dân, hiện diện vì gíao dân và cậy dựa vào gíao dân, để cùng làm VINH DANH THIÊN CHÚA

*************