Sứ Mệnh Của Giáo Hội Trong Thế Giới
Ngày Nay
(tiếp theo) |
Bản dịch Việt Ngữ của Giáo Hoàng Học
Viện Piô X
Prepared for Internet by Vietnamese
Missionaries in Asia
Chương IV: Gaudium Et Spes
Sứ Mệnh Của Giáo Hội Trong Thế Giới
Ngày Nay
(tiếp theo)
43. Sự trợ giúp mà Giáo Hội cố gắng nhờ
các Kitô hữu mang đến cho hoạt động nhân loại
47*. Công Ðồng khuyến khích các Kitô hữu, công dân của
cả hai đô thị, hãy nỗ lực chu toàn cách trung thành những bổn
phận trần thế của họ và chu toàn dưới sự hướng dẫn của tinh thần
Phúc Âm. Thực sai lầm cho những ai đang khi biết rằng chúng ta
không có một quê hương trường tồn ở trần thế và đang phải kiếm
tìm một quê hương hậu lai để rồi vì đó tưởng rằng mình có thể
xao lãng các bổn phận trần gian
13, như thế là không nhận thấy chính đức tin buộc phải
chu toàn các bổn phận đó hoàn hảo hơn, mỗi người tùy theo ơn gọi
của mình
14. Ngược lại, cũng sai lầm không kém đối với những ai
nghĩ rằng có thể dấn thân hoàn toàn vào công việc trần thế như
thể các công việc ấy hoàn toàn xa lạ với đời sống tôn giáo, vì
cho rằng đời sống tôn giáo chỉ còn hệ tại những hành vi phượng
tự và một vài bổn phận luân lý phải chu toàn. Sự phân ly giữa
đức tin mà họ tuyên xưng và cuộc sống thường nhật của nhiều
người phải kể vào số những sai lầm trầm trọng nhất của thời đại
chúng ta. Và gương mù này ngay trong Cựu Ước các Tiên Tri đã
mạnh mẽ tố cáo
15 và trong Tân Ước chính Chúa Giêsu Kitô còn ngăm đe
nhiều hơn nữa bằng những hình phạt nặng nề
16. Vậy, không được đem sinh hoạt nghề nghiệp và xã
hội mà đối nghịch cách giả tạo với đời sống tôn giáo. Ðối với
người Kitô hữu, xao lãng bổn phận trần thế tức là xao lãng bổn
phận đối với người lân cận và hơn nữa đối với chính Thiên Chúa,
khiến phần rỗi đời đời của mình bị đe dọa. Theo gương Chúa Giêsu
đã sống như một người thợ, các Kitô hữu hãy vui mừng vì có thể
thi hành mọi hoạt động trần thế mà đồng thời có thể liên kết
trong một tổng hợp sống động duy nhất, các cố gắng nhân loại,
gia đình, nghề nghiệp, khoa học hay kỹ thuật với các giá trị tôn
giáo. Dưới sự điều hướng tối cao của các giá trị tôn giáo này,
mọi sự được qui hướng về vinh danh Thiên Chúa.
Những phận vụ
và sinh hoạt trần thế thuộc lãnh vực riêng của giáo dân, tuy
không độc quyền thuộc về họ. Vì vậy, khi hoạt động, cá nhân hay
đoàn thể, với tư cách công dân trần thế, không những họ phải tôn
trọng các luật lệ riêng của mỗi ngành nhưng còn phải ra sức tự
luyện khả năng chuyên môn thực sự trong các lãnh vực ấy. Họ sẽ
sẵn lòng hợp tác với những người cùng theo đuổi những mục đích
chung. Nhìn nhận các đòi hỏi và hưởng nhờ sức mạnh của đức tin,
khi cần, họ sẽ không do dự đề nghị và thực hiện những sáng kiến
mới. Một khi được đào luyện cách thích hợp, lương tâm họ phải
đem luật Chúa thấm nhập cuộc sống của xã hội trần gian. Giáo dân
hãy mong đợi ánh sáng và sức mạnh tinh thần nơi các linh mục.
Tuy nhiên, họ đừng vì thế mà nghĩ rằng: các chủ chăn có đủ thẩm
quyền chuyên môn để có thể có ngay một giải pháp cụ thể cho mọi
vấn đề xảy ra, kể cả những vấn đề quan trọng. Cũng đừng lầm
tưởng các chủ chăn vốn có sứ mạng ấy. Nhưng tốt hơn là chính họ,
được đức khôn ngoan Kitô giáo soi dẫn và cẩn thận chú ý các giáo
huấn của Giáo Hội
17, hãy nhận lấy trách nhiệm của mình.
Thường thì
chính vũ trụ quan Kitô giáo sẽ hướng dẫn họ chọn một giải pháp
nhất định nào đó tùy hoàn cảnh. Tuy nhiên, cũng có những tín hữu
khác, dầu khá thực tâm, sẽ thẩm định cách khác về cùng một vấn
đề, như thường thấy xảy ra; và sự thẩm định đó vẫn được coi là
hợp lý như thường. Nhiều người dễ dàng gán ghép với sứ điệp Phúc
Âm những giải pháp mà họ đề ra, mặc dầu nhiều khi ngoài ý muốn
của họ. Nhưng nên nhớ trong các trường hợp trên, không ai được
độc quyền giành lấy thẩm quyền của Giáo Hội để biện minh cho lập
trường riêng
48*. Phải luôn luôn nỗ lực soi dẫn nhau bằng đối thoại
thành thực, bảo toàn tình tương ái và trước hết mưu cầu công
ích.
Người giáo dân
có những phận vụ tích cực phải chu toàn trong toàn thể đời sống
Giáo Hội. Không những họ phải đem tinh thần Kitô giáo thấm nhuần
thế giới nhưng còn được kêu gọi làm chứng cho Chúa Kitô trong
mọi hoàn cảnh, ngay giữa lòng cộng đoàn nhân loại.
Còn các Giám
Mục đã được ủy thác việc điều hành Giáo Hội Chúa hãy cùng các
linh mục của mình rao giảng sứ điệp của Chúa Kitô, sao cho mọi
hoạt động trần thế của các tín hữu thấm nhuần ánh sáng Phúc Âm.
Hơn nữa, tất cả các chủ chăn hãy nhớ rằng các Ngài sẽ biểu lộ
cho thế giới một khuôn mặt của Giáo Hội qua thái độ và ưu tư
hằng ngày của mình
18. Qua khuôn mặt ấy, người ta phán đoán về sức mạnh
và chân lý của sứ điệp Kitô giáo. Bằng đời sống và lời giảng,
hợp cùng các tu sĩ và giáo hữu của mình, các ngài hãy minh chứng
rằng Giáo Hội, nguyên bằng sự hiện diện và kho tàng ân huệ của
mình, đã là nguồn vô tận của những mãnh lực mà thế giới ngày nay
rất cần. Các Ngài hãy trau dồi khả năng bằng cách chuyên cần học
hỏi sao cho có thể đóng trọn vai trò trách nhiệm của mình trong
khi đối thoại với thế giới và những người thuộc bất cứ lập
trường nào. Nhưng, trước hết xin các ngài hãy ghi lòng những lời
sau đây của Công Ðồng: "Ngày nay, vì nhân loại ngày càng hiệp
nhất về dân sự, kinh tế và xã hội, nên các Linh Mục càng phải
loại trừ mọi mầm mống chia rẽ, phải nối kết cố gắng và khả năng
mình dưới sự hướng dẫn của các Giám Mục và Giáo Hoàng, để toàn
thể nhân loại hiệp nhất trong gia đình Thiên Chúa"
19.
Mặc dù Giáo
Hội, với sức mạnh của Chúa Thánh Thần, vẫn là hiền thê trung tín
của Chúa mình và không ngừng là dấu chỉ ơn cứu rỗi trong thế
giới, tuy nhiên Giáo Hội biết rõ rằng trải qua bao nhiêu thế kỷ
vẫn không thiếu những phần tử trong Giáo Hội
20, giáo dân hoặc giáo sĩ, sống bất trung cùng Thánh
Thần Chúa. Ngay trong thời đại chúng ta, Giáo Hội không quên sự
cách biệt lớn lao giữa sứ điệp do Giáo Hội công bố và sự yếu
đuối nhân loại của những người được giao phó rao giảng Phúc Âm.
Dầu lịch sử có phê phán thế nào về những khiếm khuyết ấy, chúng
ta cũng phải ý thức và mạnh mẽ khử trừ những thiếu sót để khỏi
phương hại đến việc rao giảng Phúc Âm. Cũng vậy, trong việc mở
rộng tương quan với thế giới, Giáo Hội biết mình phải luôn
trưởng thành nhờ kinh nghiệm qua các thế kỷ, Ðược Chúa Thánh
Thần hướng dẫn, Mẹ Giáo Hội không ngừng "khuyên giục con cái
thanh tẩy và canh tân, để ấn dấu của Chúa Kitô chiếu sáng rạng
ngời hơn trên khuôn mặt Giáo Hội"
21.
44. Sự trợ giúp mà Giáo Hội nhận được
nơi thế giới ngày nay
49*. Cũng như thế giới cần phải nhìn nhận Giáo Hội như
một thực thể xã hội lịch sử và như men của lịch sử, Giáo Hội
cũng biết mình đã nhận được rất nhiều nơi lịch sử và sự tiến hóa
của nhân loại.
Kinh nghiệm của
những thế kỷ đã qua, tiến bộ của khoa học, các kho tàng hàm chứa
trong những hình thức văn hóa nhân loại khác nhau, biểu lộ đầy
đủ hơn bản tính của chính con người và mở ra những con đường mới
dẫn đến chân lý: tất cả những điều ấy đều hữu ích cho Giáo Hội.
Thực vậy, chính Giáo Hội ngay từ buổi đầu của lịch sử mình đã ra
sức diễn tả sứ điệp của Chúa Kitô bằng những ý niệm và ngôn ngữ
của nhiều dân tộc. Hơn nữa, Giáo Hội còn cố gắng dùng sự khôn
ngoan của các triết gia để làm sáng tỏ sứ điệp ấy. Làm như thế,
nhằm thích nghi Phúc Âm, trong mức độ có thể, với tầm hiểu biết
của mọi người cũng như với những đòi hỏi của các nhà hiền triết.
Rao giảng lời mạc khải cách thích nghi như vậy còn phải là luật
lệ cho mọi công cuộc truyền giáo, bởi vì có như vậy mới khơi dậy
trong mọi quốc gia khả năng diễn tả sứ điệp Chúa Kitô theo lối
riêng của mình và đồng thời mới cổ võ được sự trao đổi linh động
giữa Giáo Hội và những nền văn hóa khác nhau của các dân tộc
22. Ðể xúc tiến những cuộc trao đổi như thế, nhất là
trong thời đại chúng ta, thời mà sự vật biến đổi rất nhanh và
lối suy tư rất nhiều khác biệt, Giáo Hội đặc biệt cần đến sự
đóng góp của những người sống trong thế giới và biết rõ các tổ
chức và bộ môn khác nhau, cũng như thấu triệt tinh thần các tổ
chức và bộ môn đó, dầu họ có đức tin hay không. Bổn phận của
toàn thể Dân Chúa, đặc biệt của các chủ chăn và các nhà thần học
là nhờ sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần, đón nghe, phân biệt và
giải thích các tiếng nói của thời đại, rồi phán đoán dưới ánh
sáng lời Chúa để Chân Lý mạc khải luôn được thấu triệt, được
hiểu rõ và trình bày cách thích hợp hơn.
Giáo Hội có một
cơ cấu xã hội hữu hình, dấu hiệu của sự hiệp nhất trong Chúa
Kitô, nên Giáo Hội cũng có thể được giàu có thêm và thực sự đang
được giàu có thêm nhờ sự tiến hóa của cuộc sống xã hội nhân
loại, không phải vì định chế do Chúa Kitô ban cho Giáo Hội như
thiếu một điều gì, nhưng là để định chế đó được hiểu biết sâu xa
hơn, được diễn tả trung thực hơn và được thích nghi hoàn hảo hơn
với thời đại chúng ta. Với lòng biết ơn, Giáo Hội nhận thấy rằng
Giáo Hội đã được nhiều người thuộc mọi giai cấp và hoàn cảnh
giúp đỡ nhiều cách cho chính cộng đoàn cũng như cho từng con cái
mình. Quả thực, tất cả những ai phát triển cộng đoàn nhân loại
trong phạm vi gia đình, văn hóa, kinh tế, xã hội, chính trị và
trên bình diện quốc gia, cũng như quốc tế, đều trợ giúp không ít
cho cộng đoàn Giáo Hội, theo như ý định của Thiên Chúa, trong
mức độ Giáo Hội lệ thuộc những yếu tố bên ngoài. Hơn nữa, Giáo
Hội còn nhìn nhận rằng chính sự chống đối của những kẻ công kích
hay bách hại Giáo Hội đã và còn đang có thể giúp ích cho Giáo
Hội
23.
45. Chúa Kitô, Alpha và Omega.
Khi trao đổi với thế giới những sự giúp đỡ hỗ tương, Giáo Hội
nhằm một mục đích duy nhất là: làm cho Nước Chúa trị đến và toàn
thể nhân loại được cứu rỗi. Mọi lợi ích mà Dân Chúa trong thời
gian hành trình tại thế có thể đem lại cho gia đình nhân loại
đều phát xuất từ sự kiện này: Giáo Hội là "bí tích phổ quát cứu
rỗi"
24, tỏ bày và đồng thời thực hiện mầu nhiệm tình yêu
Thiên Chúa đối với con người.
Quả thực, Ngôi
Lời Thiên Chúa, nhờ Người mà muôn vật được tạo thành, đã làm
người, là Con Người hoàn hảo, Người cứu rỗi mọi người và kết
thâu vạn vật nơi Người. Chúa là cùng đích của lịch sử nhân loại,
là điểm qui tụ mọi ước vọng của lịch sử và văn minh, là trung
tâm của nhân loại, là niềm vui của tâm hồn và đáp ứng mọi niềm
khao khát
25. Chính Người là Ðấng Chúa Cha đã phục sinh từ kẻ
chết, đã tôn vinh và cho ngự bên hữu, đặt làm thẩm phán kẻ sống
và kẻ chết. Ðược sống động và tụ họp trong Thánh Thần Ngài,
chúng ta đang hành trình hướng về chung cục lịch sử nhân loại,
phù hợp với ý định yêu thương của Ngài: "kết thâu tất cả trong
Chúa Kitô: mọi sự trên trời dưới đất" (Eph 1,10).
Chính Chúa đã
nói: "Vậy tiền công của ta sẵn đây rồi, này ta đến gấp mà trả
cho mỗi người tùy theo công việc họ làm. Ta là Alpha và Omega,
thứ nhất và sau chót, nguyên thủy và cứu cánh" (Kh 22,12-13)
50*.
Chú Thích:
(lưu ý:
những số ghi chú nhỏ hơn đã được đăng vào những số báo trước)
47*
Sống trong thế gian tín hữu phải tránh hai thái độ sai lầm: 1)
bỏ sót công việc trần thế để chỉ lo cho việc đạo đức; 2) chìm
đắm trong công việc trần thế và coi công việc này như không có
liên quan gì đến việc đạo đức.
Qua cả hai sự sai lầm trên, người ta tách biệt
đời sống tôn giáo và đời sống nghề nghiệp hay đời sống trần thế
nếu nói rộng hơn (cuộc giải trí, văn hóa...) và lại hành động
theo luân lý cá nhân (số 30).
Ðức tin phải ảnh hưởng trên cả đời sống và ta
phải đem tinh thần Phúc Âm vào công việc trần thế: vào nghề
nghiệp, vào giao thiệp với người khác, vào văn hóa, vào cuộc
giải trí v.v... "Ðối với người Kitô hữu, xao lãng bổn phận trần
thế tức là xao lãng bổn phận đối với những người lân cận và hơn
nữa đối với chính Thiên Chúa, khiến phần rỗi đời đời của mình bị
đe dọa": vì bổn phận trần thế là phương tiện để thực hành đức
mến đối với anh em và đối với Thiên Chúa. Không thực hành đức
mến tức là phạm đến toàn thể bộ luật (x. Gal 5,14). Cho nên kẻ
nào xao lãng bổn phận trần thế hay là tách rời nó khỏi ảnh hưởng
của tinh thần Phúc Âm tức là người không sống đạo, họ không phải
là người công giáo.
48*
"3) Sau khi nhắc lại những nguyên tắc tổng quát trên đây, Hàng
Giáo Phẩm Công Giáo Việt Nam chiếu theo những sự kiện lịch sử,
chính trị, xã hội, tôn giáo hiện tại trong nước, đồng thanh xác
định như sau: a) Không cho phép một đảng phái nào lấy tên là
"Công Giáo" hay là "Thiên Chúa Giáo", để rồi đảng ấy có thể xuất
hiện như là đảng phái của Giáo Hội Công Giáo tại Việt Nam. b)
Kêu mời giáo dân Công Giáo phải ý thức rằng: sức mạnh của họ
trước hết phải ở trong tinh thần Chúa Giêsu - tức là tinh thần
Phúc Âm được mọi người sống động và chiếu dọi chung quanh, như
đã trình bày trong những đoạn nói trên. c) Tuy nhiên để áp dụng
nguyên tắc số 2 ở trên, hết mọi người Công Giáo - với tư cách là
người công dân - đều có thể tự do ghi tên để gia nhập đảng này
hay đảng khác tùy ý, bất cứ là đảng ấy đã thành lập rồi, hay sẽ
được những công dân đầy đủ khả năng, can đảm thành lập về sau.
Ghi tên vào một đảng phái như thế, đồng bào Công
Giáo không cam kết Giáo Hội, nhưng chỉ cam kết cá nhân mình...
Ðồng bào Công Giáo hoạt động trong đảng phái
mình đã lựa chọn, tuy nhiên cả trong hoạt động chính trị (cũng
như đời sống cá nhân, gia đình, nghề nghiệp) họ phải là một nhân
chứng của Chúa Kitô. Họ phải tìm cách để in sâu vào trong các
tâm hồn những luật lệ, những qui chế, tinh thần Phúc Âm và học
thuyết xã hội của Hội Thánh.
1) Hiện nay không có một tờ báo Công Giáo nào,
hay là một tờ báo có xu hướng Công Giáo nào đã được Hàng Giáo
Phẩm chỉ định để làm tiếng nói chính thức cho Công Giáo...
2) Có những báo chí đã được thành lập do một số
giáo dân Công Giáo nhiệt thành, quảng đại; đó là quyền lợi riêng
của họ và chúng tôi thêm rằng: đó là nghĩa vụ của họ. Chúng tôi
để lời khen ngợi họ đã có sáng kiến tốt đẹp như thế, và chúng
tôi hết sức khuyên họ hãy tiếp tục bền vững".
(Thư luân lưu của H.Ð.G.M.V.N., ngày 22 tháng 1
năm 1964, x. trong báo Sacerdos, số 27, tháng 3 năm 1964, (trg
170-171; 172-173).
49*
Từ xưa tới nay, thế giới cũng đem lại rất nhiều lợi ích cho Giáo
Hội. Quả quyết như vậy là xác nhận một sự kiện lịch sử, nhưng có
lẽ chỉ gần đây tín hữu mới ý thức về sự kiện ấy. Giáo Hội lãnh
nhận nhiều:
1) Trong lãnh vực tư tưởng nhờ các kho tàng của
nhiều nền văn minh khác nhau. Tất cả những gì giúp ta hiểu biết
hơn về con người và thế giới đều giúp đỡ Giáo Hội: giáo dục, văn
hóa, khoa học...
2) Trong lãnh vực cơ cấu xã hội: từ đầu, Giáo
Hội đã chịu ảnh hưởng của nếp sống Do Thái, của pháp lý La Mã và
Ðức Quốc, và ít hay nhiều của phong tục các dân tộc khác nữa.
Pháp lý các xứ truyền giáo đã ảnh hưởng rất nhiều đến pháp lý
chung của Giáo Hội chẳng hạn. Hiện nay ta thấy ảnh hưởng của chế
độ dân chủ qua những phong trào phân quyền, nhiều cơ quan mới
như Thượng Hội Ðồng Giám Mục, Hội Ðồng Giám Mục, Hội Ðồng Linh
Mục, v.v...
3) Trong lãnh vực sinh hoạt: khi các Quốc Gia và
các Tổ Chức quốc tế kính trọng sự tự do của Giáo Hội, mời Giáo
Hội cộng tác, giúp Giáo Hội hoạt động, hay là mặc dầu không muốn
nhờ Giáo Hội, nhưng khi các Tổ Chức ấy cố gắng nâng cao con
người nhờ việc giáo dục, nhờ việc bảo đảm nhân quyền, v.v...
thực ra họ đã làm những công việc có chung mục đích với Giáo
Hội.
Là người Việt Nam hay làm việc ở Việt Nam, ta
phải nhấn mạnh câu "Rao giảng lời mạc khải cách thích nghi như
vậy còn phải là luật lệ cho mọi công cuộc truyền giáo". Sau hơn
ba thế kỷ từ khi Phúc Âm tới Việt Nam, phải chăng Ðạo chúng ta
còn thấm nhuần màu sắc ngoại quốc quá đáng? Người ngoại giáo có
cảm tưởng đó không?
50* Alpha và Omega là chữ
đầu và chữ cuối của mẫu tự Hy Lạp. Câu nói có nghĩa là khi dùng
các chữ trong mẫu tự, ta có thể viết ra tất cả những gì ta muốn.
Vậy thì, nói về Chúa (cũng như về Thiên Chúa Cha: Kh 1,8) có
nghĩa là Chúa có toàn quyền để phán xét nhân loại.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
TRUYỀN GIÁO |
Cách đây không lâu, tôi có đọc trên
Internet chứng từ do một Đức cha Việt Nam kể lại như sau :
Tại thôn làng nhỏ bé ở miền thượng du Bắc
Việt, tất cả đều là người công giáo. Thế nhưng, từ hơn hai mươi
năm qua, họ không có linh mục coi sóc. Dầu vậy, họ vẫn tổ chức
các buổi đọc kinh và hát thánh ca tại nhà thờ. Đây cũng là nơi
họ tổ chức các lễ cưới và rửa tội một cách trọng thể. Tuy gặp
nhiều khó khăn, nhưng họ vẫn sống trong an vui và bình thản.
Tiếng đồn về niềm vui của họ đến tai một
làng sơn cước. Do đó, dân làng sơn cước này yêu cầu những người
công giáo cho người đến dạy họ các bài kinh và thánh ca để họ
cũng tìm được niềm vui.
Nhưng dân làng công giáo không tìm được ai
: người lớn thì phải đi làm công việc đồng áng, trẻ em thì phải
đi học, còn người già cả thì không đủ sức băng rừng leo núi để
tới giúp dân làng sơn cước. Chỉ có một người thuộc kinh bổn,
thánh ca và biết các nghi thức tôn giáo. Nhưng đó lại là một
người mù.
Sau khi bàn bạc với nhau, dân làng sơn cước
đã đồng ý sai người dẫn hai con ngựa đi rước người mù. Người tín
hữu tật nguyền này đã ở lại với dân làng bốn tháng. Cứ mỗi tối,
sau khi làm việc trở về, dân làng tụ họp với nhau, nay nhà này,
mai nhà khác, để tập đọc kinh và hát thánh ca. Sau một thời
gian, người giảng viên giáo lý mù đã khảo sát và làm phép rửa
cho người dân làng đầu tiên. Rồi người tân tòng này lại rửa tội
cho những người khác và cứ như thế cho đến người cuối cùng.
Câu chuyện trên đã làm cho tôi suy nghĩ và
nhận ra trong đó cả một chương trình truyền giáo cần phải được
áp dụng cho cá nhân cũng như cho cộng đoàn. Thế nhưng trước hết,
truyền giáo là gì ?
TRUYỀN GIÁO
Đọc lại Phúc âm, hẳn chúng ta sẽ nhận ra
nỗi ưu tư số một của Chúa Giêsu khi còn ở trần gian, đó là phải
làm thế nào để người ta nhận biết tình thương của Ngài, nhờ đó
mà được cứu độ. Rất nhiều lần Ngài đã đề cập tới vấn đề này :
- Thày đã ném lửa vào mặt đất, và Thày
những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên. (Lc 12,49).
- Cả các anh nữa, hãy vào làm vườn nho cho
tôi đi. (Mt 20,4).
Và rõ rệt hơn cả đó là lệnh lên đường của
Ngài trước khi về trời :
- Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở nên
môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa
Thánh Thần, dạy cho họ tuân giữ những điều Thày đã truyền cho
anh em. (Mt 28,19-20).
Chính vì nỗi khắc khoải ấy, Ngài đã chọn
lựa các tông đồ và thiết lập Giáo hội để cộng tác với Ngài qua
giòng thời gian trong sứ mạng cứu chuộc nhân loại.
Ngày xưa, truyền giáo thường được hiểu là
Kitô hóa, nghĩa là làm sao rửa tội và đem vào Giáo hội càng
nhiều người càng tốt. Quan niệm như thế nhắm tới số lượng hơn là
nhắm tới chất lượng và đã tạo nên những Kitô hữu “hữu danh vô
thực”, nghĩa là chỉ mang tên gọi Kitô hữu, chứ chưa thực sự sống
niềm tin của mình.
Cụ thể tại các xứ đạo, phần đông những
người trở lại vì lý do hôn phối, cần phải rửa tội để lấy vợ lấy
chồng, hay để hợp thức hóa hôn nhân, nếu không có sự hỗ trợ của
những người thân yêu, thì khó mà sống đạo, nếu không muốn nói là
sẽ bỏ đạo, như chúng ta thường bảo :
- Con quì lạy Chúa Ba Ngôi,
Con lấy được vợ, con thôi nhà thờ.
Còn hiện nay, truyền giáo chủ yếu được hiểu
là phúc âm hóa, nghĩa là không chỉ nhằm đến việc rửa tội cho
nhiều người, mà quan trọng hơn là phải làm cho tinh thần yêu
thương của Đức Kitô thấm nhập vào tâm hồn mọi người cũng như ảnh
hưởng tới đời sống xã hội trong mọi lãnh vực, bằng chứng từ đời
sống của mình.
Thực vậy, đưa người khác vào Giáo hội là
điều cần thiết và quý hóa. Thế nhưng điều cần thiết và quí hóa
hơn chính là làm sao để họ biết thực sự sống tinh thần của Đức
Kitô. Rửa tội cho nhiều người mà thôi chưa đủ, mà còn phải giúp
họ đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa. Bởi đó, truyền giáo là
truyền một cách sống mới. Nếu chỉ lo dạy giáo lý và rửa tội,
chắc chắn chúng ta sẽ không thể nào chạy đua với thời gian.
Chẳng hạn chỉ tính riêng ở Việt Nam, với số dân gần 80 triệu,
trong đó có khoảng 6 triệu là công giáo. Và mỗi năm có chừng
20.000 người theo đạo, thì chúng ta phải mất 3.300 năm nữa mới
làm cho tất cả số đồng bào hôm nay được theo đạo.
Chính vì thế, Công đồng Vaticanô II đã nhấn
mạnh tới việc truyền giáo trong môi trường. Sắc lệnh Tông đồ
Giáo dân đã viết như sau :
- Làm tông đồ trong môi trường xã hội có
nghĩa là cố gắng đem tinh thần Kitô giáo thấm nhuần tư tưởng,
phong tục, luật lệ và cơ cấu của cộng đồng nơi họ sống. (TĐ số
13)
Việc truyền giáo trong môi trường phải khởi
đi từ chính cuộc sống, từ chính đời thường. Trong chiều hướng
đó, Đức Hồng y Cardin (?),người sáng lập phong trào Thanh Lao
Công, có nói :
- Khi tôi gặp những người lao động trẻ,
cũng như những người lao động lớn tuổi, tôi luôn hỏi họ : nhà
bạn ở đâu ? Bạn làm ở hãng nào ? Bạn lãnh lương bao nhiêu ? Bạn
có thời giờ rảnh rỗi để chăm sóc con cái không ? Chứ tôi không
hỏi : Bạn có đi lễ không ? Bạn vào hội đoàn công giáo nào ?
Muốn truyền giáo trong môi trường, chúng ta
phải chú ý đến trọng tâm của cuộc sống, của đời thường, nơi con
người thực sự sống cuộc sống của mình. Công đồng Vaticanô II,
trong hiến chế về Giáo hội cũng đã viết :
- Họ sống giữa trần gian, nghĩa là giữa tất
cả cũng như từng công việc và bổn phận ở đời, trong những cảnh
sống thường ngày ở gia đình hay ngoài xã hội. Tất cả những điều
đó như dệt thành cuộc đời của họ. Đó chính là nơi họ được Chúa
mời gọi thi hành sứ vụ riêng của họ. Sứ vụ đó là góp phần vào
việc thánh hóa thế giới từ bên trong như men nhờ có tinh thần
Tin mừng thúc đẩy. Họ còn làm cho người khác thấy Đức Kitô, nhất
là qua đời sống, qua lòng tin, lòng cậy và lòng mến của họ. (GH
số 31).
Việc truyền giáo trong môi trường đòi hỏi
phải kiên trì và dài hạn, bắt đầu từ những công việc nhỏ mọn như
hạt cải.
Trong một buổi chia sẻ kinh nghiệm sống,
sau khi nghe Lời Chúa phán dạy : các con là muối, là men…Tuyến,
giáo sinh sư phạm năm thứ nhất, cho biết trong kỳ thi cuối năm
vừa qua rất nhiều người đã “quay phim”, nhưng Tuyến đã cố gắng
tự làm bài chứ không gian lận.
Thu, học sinh lớp 12, cho biết trong lớp
các bạn hay xả rác. Để làm sạch cho lớp, mỗi lần thấy giấy vụn,
Thu lặng lẽ cúi xuống lượm và bỏ vào sọt rác. Thế nhưng, mấy lúc
sau này, để chọc quê Thu, các bạn đã xé giấy vụn thật nhỏ và vứt
bừa bãi làm Thu nhặt không xuể và thế là Thu chẳng thèm nhặt
nữa.
Qua cuộc kiểm điểm đời sống và với sự góp ý
của cộng đoàn, Tuyến và Thu đều thấy rằng vấn đề không phải là
làm gương sáng, làm anh hùng cá nhân, làm bông sen giữa bùn,
nhưng là làm muối trong thức ăn, làm men trong bột. Tuyến phải
làm sao cho các bạn cũng như cho cả lớp cùng thấy là không nên
gian lận, nhất là đối với giáo sinh, những nhà mô phạm sau này.
Thu phải làm sao cho các bạn khác cùng nhặt rác với mình hay làm
sao cho không còn ai xả rác nữa.
Như vậy, truyền giáo trong môi trường không
chỉ nhằm thiết lập giáo điểm để dần dần lôi kéo họ đến với Chúa,
mà còn phải nhằm thay đổi con người, để rồi chính con người sẽ
thay đổi xã hội. Truyền giáo hôm nay là hiện diện, làm chứng và
chia sẻ. Người truyền giáo là người được thôi thúc và hướng dẫn
bởi Tin mừng, nhưng đồng thời cũng là người sống giữa mọi người,
chia sẻ thân phận của mọi người và cùng với họ hướng cuộc đời về
những giá trị của Tin mừng.
Chính vì thế, trong phạm vi cá nhân cũng
như xã hội, chúng ta cần phải xóa bỏ quan niệm tách biệt đạo và
đời, hay chia cuộc sống thành những ngăn nhỏ hoàn toàn biệt lập
và đức tin cũng chỉ chiếm một trong số những ngăn nhỏ đó. Trái
lại, chúng ta cần phải đem đạo vào đời, tinh thần đức tin phải
thấm nhập mọi sinh hoạt của chúng ta, từ tư tưởng đến lời nói và
việc làm. Như trái đất xoay quanh mặt trời thế nào thì cuộc đời
chúng ta cũng phải xoay quanh Đức Kitô như vậy, để rồi chúng ta
có thể nói lên như thánh Phaolô :
- Dù ăn, dù uống, hay làm bất cứ việc gì,
anh em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa. (1Ccor 10,31)
- Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà
là Đức Kitô sống trong tôi. (Gal 2,20)
Mẹ Têrêxa Calcutta không nói nhiều, nhưng
cuộc đời của mẹ đã là bài giảng hùng hồn về một Thiên Chúa hiện
diện và yêu thương con người. Mẹ đã mang Đức Kitô đến với những
kẻ không chỗ tựa nương, những kẻ bị loại ra khỏi xã hội. Bằng
tình yêu phục vụ, mẹ đã đem sứ điệp Tin mừng đến với mọi người,
thuộc mọi quốc gia.
Tóm lại, chúng ta có thể định nghĩa một
cách đơn giản :
- Truyền giáo chính là loan báo Đức Kitô,
làm cho Tin mừng được thấm nhập vào từng tâm hồn, từng môi
trường bằng lời nói, bằng việc làm, hay nói cách khác, bằng cả
cuộc sống của mình.
Như thế, bổn phận truyền giáo phải là một
bổn phận gắn liền với bản tính của Giáo hội. Thực vậy, trong Sắc
lệnh về Truyền giáo, công đồng Vaticanô II đã viết :
- Tự bản tính, Giáo hội lữ hành phải truyền
giáo, vì chính Giáo hội bắt nguồn từ sứ mạng của Chúa Con và
Chúa Thánh Thần theo ý định của Thiên Chúa Cha. (TG số 2).
Cũng vậy, trong Sắc lệnh Tông đồ Giáo dân,
Công đồng đã xác quyết :
- Giáo hội được khai sinh là để làm cho
nước Chúa Kitô mở rộng trên khắp hoàn cầu, hầu làm vinh danh
Thiên Chúa Cha : tức là làm cho mọi người tham dự vào việc chuộc
tội và cứu rỗi, để rồi nhờ họ, toàn thể vũ trụ thực sự được qui
hướng về Chúa Kitô. (TĐ số 2).
Bổn phận truyền giáo là một bổn phận mang
tính cấp bách như lời Chúa đã nói :
- Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít, vậy
anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về. (Lc 10,2).
Theo thống kê của bộ Truyền giáo, dân số
trên thế giới vào đầu năm 2000 là 6.055.049.000 người trong đó
có 1.056.920.000 người công giáo, tỷ lệ gần 17%. Riêng tại châu
Á tỷ lệ mới được khoảng 3%. Còn ở Việt Nam là 7,5%. Từ đó, chúng
ta nhận thấy rất nhiều người còn ngồi trong tăm tối, chưa nhận
biết ánh sáng Tin mừng của Chúa.
Bổn phận truyền giáo là một bổn phận chung
cho mọi Kitô hữu, không phân biệt giáo sĩ, tu sĩ hay giáo dân.
Sở dĩ như vậy cũng là điều dễ hiểu, bởi vì bất kỳ chi thể nào
cũng có bổn phận phải làm cho thân thể được sống và phát triển
theo cách thức riêng của mình. Cũng vậy, sống trong lòng Giáo
hội và là phần tử của Giáo hội, chúng ta có bổn phận phải làm
cho Giáo hội được lớn lên. Công đồng Vaticanô II đã khẳng định :
- Mỗi Kitô hữu là một chi thể của Giáo hội,
được trao phó một nhiệm vụ độc đáo, không thể thay thế cũng
không thể ủy thác cho người khác được.
Trong sắc lệnh về “Tông đồ Giáo dân”, Công
đồng cũng viết :
- Trong nhiệm thể Đức Kitô tức Giáo hội,
toàn thân “tùy theo công dụng khả năng từng phần tử khiến thân
thể được phát triển” (Eph 4,16).
Hơn thế nữa, khi nhận được một tin vui,
chúng ta thường muốn nói cho người khác được biết để cùng chia
sẻ với chúng ta. Cũng vậy, sứ điệp Đức Kitô đem đến là một Tin
mừng. Một khi đã đón nhận Tin mừng của Ngài, chúng ta cũng có
bổn phận phải loan báo và chia sẻ Tin mừng ấy cho những người
chung quanh, bởi vì đã lãnh nhận nhưng không thì cũng phải cho
đi nhưng không.
Nếu thực sự gắn bó với Đức Kitô, chúng ta
sẽ phải cố gắng làm cho mọi người nhận biết và yêu mến Ngài. Đọc
lại Phúc âm, chúng ta thấy, sau khi nghe Gioan Tiền hô giới
thiệu về Chúa Giêsu :
- Đây là Chiên Thiên Chúa.
Andrê cùng với một môn đệ
khác đã đi theo Chúa Giêsu và ở lại với Ngài suốt ngày hôm ấy.
Sau đó, Andrê gặp anh mình là Simon và dẫn anh mình đến cùng
Chúa Giêsu. (Gio 1,35-42).
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô
II, trong sứ điệp ngày truyền giáo năm 2001, đã viết :
- Ai đã gặp được Đức Kitô
rồi, thì không thể chỉ giữ lại cho riêng mình mà thôi.
Có như vậy, ước nguyện của
Chúa mới trở thành sự thật :
- Xin làm cho danh thánh
Cha vinh hiển, triều đại Cha mau đến, ý Cha thể hiện dưới đất
cũng như trên trời. (Mt 6,9-10).
Để rồi cuối cùng chỉ còn
một đoàn chiên và một chủ chiên :
- Tôi còn có những chiên
khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ
nghe tiếng tôi, và sẽ chỉ còn một đoàn chiên và một mục tử. (Gio
10,16).
Tuy nhiên, để đạt tới mục
đích ấy, mỗi người chúng ta phải tích cực góp phần vào công cuộc
truyền giáo của Giáo hội, bởi vì như lời thánh Phaolô đã xác
quyết :
- Làm sao họ kêu cầu Đấng
họ không tin ? Làm sao họ tin Đấng họ không được nghe ? Làm sao
mà nghe, nếu không có ai rao giảng ? Làm sao mà rao giảng, nếu
không được sai đi ? Như có lời chép rằng : Đẹp thay những bước
chân sứ giả loan báo những tin mừng. (Rom 10,14-16).
Và như chúng ta đã nói :
- Có nhiều cách rao giảng.
Không phải chỉ rao giảng bằng lời nói, mà còn phải rao giảng
bằng việc làm, bằng chính cuộc sống của mình.
Con người thời nay có quá
nhiều những lời hào nhoáng của những chương trình quảng cáo,
những lời hứa hẹn của các chính khách khi mùa bàu cử trở về,
những lời giảng hùng hồn của các linh mục trong thánh lễ. Nói
thì nhiều mà làm chẳng được bao nhiêu. Trăm nghe không bằng một
thấy. Vì vậy, họ rất cần những chứng từ sống động xuất phát từ
lòng cuộc đời.
Đức Thánh Cha Phaolô VI
trong tông huấn “Loan báo Tin mừng” đã dạy :
- Tin mừng trước tiên phải
được loan báo bằng cách làm chứng.
Tuy nhiên, để trả lời cho
câu hỏi làm chứng là như thế nào, Đức Thánh Cha đã viết :
- Cứ xem một Kitô hữu hay
một nhóm Kitô hữu, đang sống giữa cộng đồng những con người, mà
tỏ ra khả năng thông cảm và đón nhận, thái độ chia sẻ cuộc đời
và vận mệnh với kẻ khác, tình liên đới trong các nỗ lực chung
nhằm tất cả những gì cao thượng và tốt lành. Cứ xem họ chiếu
tỏa, một cách thật đơn sơ và hồn nhiên, niềm tin của họ vào
những giá trị vượt xa những giá trị thông thường và lòng trông
cậy vào những gì người ta không trông thấy, không dám mơ tưởng.
Bằng cách làm chứng không lời như thế, những người Kitô hữu kia
gợi lên những câu hỏi không tránh được trong tâm trí những ai
nhìn thấy họ sống : Tại sao họ như thế ? Tại sao họ sống như
vậy ? Cái gì – hay ai – đang thôi thúc họ ? Tại sao họ ở giữa
chúng ta ? Làm chứng như thế đã là loan báo Tin mừng một cách
thầm lặng mà rất mạnh mẽ và hiệu quả. Đó là một cử chỉ khai mào
cho việc Phúc âm hóa. (số 21).
Loan báo Tin mừng bằng cách
làm chứng, nghĩa là bằng chính đời sống, bằng chính cách ăn nết
ở phù hợp với điều mình tin. Đơn giản chỉ có thế. Bởi đó, mỗi
người tín hữu đều có thể và phải thực hiện nơi cá nhân, nơi gia
đình và nơi cộng đoàn của mình, để góp phần nhỏ bé vào việc
chiếu tỏa ánh sáng Tin mừng.
còn tiếp
GSVN
|
VỀ MỤC LỤC |
|
Linh mục , người được thánh hiến
|
(29.6.2007, lễ trao tác vụ Linh Mục, Nhà Thờ Chính Tòa SG)
Anh Chị Em rất
thân mến,
1.
Quy tụ trong nhà Chúa hôm nay, gia đình giáo phận cùng nhau cử hành
lễ trao tác vụ LM cho 18 phó tế. Trước hết, tôi xin gởi lời chào
thân ái đến anh em linh mục, anh chị em tu sĩ và giáo dân, các phụ
huynh và các tiến chức. Đồng thời, với tư cách là người đứng đầu
trong gia đình, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đối với các
vị đồng hành với các tiến chức trong hành trình đào tạo, đối với quý
gia đình phu huynh và tất cả những ai đã góp phần vật chất và tinh
thần để cung những người thợ cho vườn nho của Chúa, đáp ứng nhu cầu
của đoàn chiên Chúa trong TP nầy.
Qua nghi thức trao tác vụ
LM, TC sẽ thánh hiến các tiến chức, sẽ trao ban cho họ ơn thánh
hiến. Xin mọi người hãy dành một ít phút để tâm suy nghĩ về ý nghĩa
của ơn thánh hiến nầy và tìm cách vun phân tưới nước cho ơn thánh
hiến đó phát triển và đơm bông kết trái cho cộng đồng dân Chúa.
2.
Ơn thánh hiến là ơn trao cho các tiến chức khả năng và trách nhiệm
trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô. Khả năng trở nên đồng
hình đồng dạng với CK nghĩa là gì? Thưa có nghĩa là trở nên giống
CK là Lời yêu thương của TC ngỏ với dân Người, trở nên giống CK là
tấm bánh bẽ ra vì sự sống con người, trở nên giống CK là Đấng thánh
thiện như Cha trên trời, là Đấng hiền lành và khiêm tốn phục vụ cho
Tin Mừng và phần rỗi của mọi người. Tóm lại, ơn thánh hiến là ơn
giúp cho LM khắc hoạ lại khuôn mặt CK Mục tử như lòng Chúa mong
ước.
3.
Vì phần rỗi của mọi người, ơn thánh hiến trao cho LM những nhiệm vụ
gì? Thưa ơn thánh hiến trao cho LM những nhiệm vụ rất cụ thể nầy:
(1) chiếu toả ánh sáng chân lý của CK khi giảng dạy, (2) mang lấy
tâm tình yêu thương và hy sinh của CK khi cử hành các bí tích, (3)
bày tỏ lòng nhân hậu và bao dung của CK khi giao tiếp với mọi người,
(4) mặc lấy phong cách hiền lành và khiêm tốn phục vụ của CK khi
đồng hành với cộng đoàn tín hữu trong mọi sinh hoạt, mặc lấy thái độ
của CK trân trọng và chăm lo cho sự sống và phẩm giá của mọi người,
đặc biệt người nghèo khổ, bất hạnh.
4.
Trên đường bước theo Chúa Kitô, trở nên giống CK, LM còn có bổn phận
thi hành Lời Chúa dạy hãy quên mình và bỏ mình.
(1) Quên mình có nghĩa là gì?
Thưa có nghĩa là phải từ bỏ cách suy nghĩ và hành động theo ý riêng
ích kỷ hẹp hòi, để tâm trí luôn tìm ý Chúa được thể hiện qua Lời
Chúa, qua giáo huấn và đời sống của Giáo Hội, và chuyên tâm thi hành
ý Cha trên trời trong mọi tình huống của cuộc đời.
(2) Bỏ mình có nghĩa là gì? Thưa
có nghĩa là phải rũ bỏ thói quen chiều theo lòng tham sân si, rập
khuôn theo thói đời và sự khôn ngoan thế gian, để tâm hồn luôn mở
rộng cho sự soi sáng và dẫn dắt của Chúa Thánh Thần trên Đường Giêsu
là đường dẫn đến chân lý và yêu thương phục vụ.
5.
Trong hành trình trở nên giống CK, LM luôn có CK đồng hành như Người
đã đồng hành với hai môn đệ về làng Eâmau. Ngoài ra, LM được CK ký
thác cho Mẹ Người, như đã ký thác người môn đệ thân yêu.
Giờ dây tôi cũng ký thác anh
em tiến chức cho sự phù trợ và giáo dục của Người Mẹ Hiền Maria, ký
thác cho sự nâng đỡ và lời cầu nguyện của cộng đoàn dân Chúa, của
hàng linh mục, của gia đình thân thuộc.
Anh em tiến chức hãy đón
Người Mẹ Hiền và mọi thành viên trong gia đình về nhà mình, hãy luôn
gần gũi với mọi người. Nếu được thế, tôi tin rằng cuộc đời của anh
em sẽ chan chứa bình an và niềm vui, anh em sẽ tìm gặp lẽ sống trong
công cuộc xây dựng niềm tin yêu và hy vọng cho gia đình thân thuộc
của mình, cho gia đình giáo xứ và giáo phận của chúng ta.
Xin TC hoàn tất việc Người
đã khởi sự nơi anh em. Xin TC chúc lành cho mọi người góp phần và
hỗ trợ cho việc hình thành và đào tạo những mục tử như lòng Chúa
mong ước.
+ HY. GB. Phạm Minh Mẫn
|
VỀ MỤC LỤC |
|
HAI CHỊ EM MÁC-TA VÀ MA-RI-A
|
“Trong
khi thầy trò đi đường, Chúa Giêsu vào làng kia. Có một người phụ
nữ tên là Mác-ta đón Người vào nhà. Cô có người em gái tên là
Ma-ri-a. Cô nầy cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người dạy. Còn
cô Mác-ta thì tất bật lo việc phục vụ.
Cô tiến
lại mà nói: ‘Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ mà Thầy
không để ý tới sao? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay!’ Chúa
đáp: ‘Mác-ta! Mác-ta ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện
quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Ma-ri-a đã chọn phần
tốt nhất và sẽ không bị lấy đi.’”
(Lc 10, 38-42)
***
Trước tiên,
tôi phải thú nhận rằng tôi có cảm tình với hai chị em nầy, có lẽ
vì hai trong số năm chị em của tôi có tên gọi là Mác-ta
và Ma-ri-a. Thôi bây giờ để chuyện đó sang một bên để tôi
có thể tiếp tục suy tư với một lương tâm thanh thản. Tôi muốn
nêu lên một câu hỏi. Ai trong hai chị em đó mà bạn cảm thấy buồn
cho họ? Tôi không có một chút nghi ngờ nào là bạn có cảm tình
với cô Mác-ta.
Quá rõ
ràng
Phúc Âm
thật chính xác cho cuộc sống, cuộc sống của bạn và của tôi.
Chúng ta đã rơi vào những hoàn cảnh tương tự. Bạn đã làm việc
tất bật, làm việc túi bụi và hết hơi, và ước mong phải chi có
thêm đôi cánh tay khác nữa. Tuy nhiên những người chung quanh
bạn không quan tâm đến những gì bạn đã phải làm.
Ban đầu bạn
chịu đựng trong thinh lặng nhưng chẳng mấy chốc bạn bị tổn
thương. Bạn bị cuốn lôi vào chỗ phản kháng như Mác-ta đã làm khi
chị nói: “Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ mà Thầy
không để ý tới sao? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay!”
(Lc 10, 40)
Rõ thật bất
công kinh khủng. Ngay cả một đứa con nít có thể nhận thấy
Ma-ri-a ngồi thừ ra đó và tán gẫu với khách, trong khi để người
chị làm tất cả mọi việc trong bếp một mình. Tuy nhiên Chúa Giêsu
nhận thấy điều đó như thế nào. Thay vì đứng về phía Mác-ta,
Chúa Giêsu đã theo phía Ma-ri-a. Điều đó xem ra không hợp
lý. Nhưng cuộc sống hợp lý từ khi nào? Bất cứ ai tưởng rằng cuộc
sống hợp lý thì đã nhầm lẫn nghiêm trọng.
Bị quấy
rầy và phiền nhiễu
Mác-ta,
Ma-ri-a và người em là La-da-rô ở trên Con Đường Chính (Main
Street) đi qua Bê-ta-ni. Mác-ta, Ma-ri-a và La-da-rô
không phải là những cộng sự viên, những người phụ tá hay những
môn đệ của Chúa Giêsu. Họ chỉ là những người bạn tốt.
Be-ta-ni ở
trên Con Đường Chính cách trung tâm Giê-ru-sa-lem khoảng một dặm
đường. Bất cứ khi nào Chúa Giêsu đi trên con đường lên
Giê-ru-sa-lem, Ngài không thể đi ngang qua cửa nhà họ mà không
ghé vào nhà và họ luôn mầng rỡ đón tiếp Ngài.
Trong
trường hợp nầy, Ngài đang trên đường đi lên kinh thành
Giê-ru-sa-lem lần cuối cùng. Đoạn chót cuộc đời của Ngài
đang gần kề. Chỉ còn trên tám ngày nữa thôi. Ngài bị quấy rầy và
bị phiền nhiễu bởi những người đang âm mưu giết Ngài. Ngài phải
làm việc kiên trì và kiệt sức. Vào ngày hôm đó, tất cả những gì
Ngài mong muốn là được thư giãn, trò chuyện và có thể,
nhấp một hai ly rượu hay bất cứ loại giải khát nào mà họ có.
Chính vào
thời điểm đó mà Mác-ta quyết định nhập cuộc, rối rít lên vì muốn
dọn một bữa ăn thịnh soạn. Do đó chị đã hối hả đi dọn bữa với
những chén dĩa lách cách và ăn nói rối rít. Một bữa ăn thịnh
soạn có thể không phải là điều cuối cùng mà Chúa Giêsu mong
muốn. Tất cả những gì Ngài ước ao hôm đó là trình bày không
úp mở với bạn bè trong một khung cảnh ấm cúng tương đắc.
Ma-ri-a đã
nhận ra điều đó, còn Mác-ta thì không. Vào những khi khác, có
thể Chúa Giêsu sẵn sàng chấp nhận một bữa ăn thịnh soạn, nhưng
lần nầy, Ngài mong được yên lặng và bình an. Ma-ri-a
hiểu, nhưng Mác-ta không hiểu.
Nhạy cảm
Tôi thiết
nghĩ đoạn Phúc Âm hôm nay nói về sự nhạy cảm. Rất
thường khi, chúng ta muốn tỏ ra ân cần với những người mình yêu
và có thể chúng ta rất ân cần nữa. Nhưng sự tử tế theo chúng ta
nghĩ và cũng như Mác-ta ở đây, cuối cùng đôi khi gây tai hại
cho người khác bởi lòng tử tế của chúng ta.
Một sự kết
thúc có tính cách lý tưởng cho câu chuyện nầy có lẽ là hai chị
em sẽ thay đổi công tác cho nhau sau bữa ăn. Ma-ri-a nên đi vào
nhà bếp, rửa chén bát, còn Mác-ta ngồi bên cạnh Chúa Giêsu, nín
thở, say đắm nghe mỗi lời Ngài nói.
Điều đó xem
như chấm dứt câu chuyện một cách hài hòa và xua tan cảm giác bất
công. Buồn thay, cuộc sống không phải luôn luôn rõ ràng ngăn nắp
như thế. Thông thường ai dọn ăn trưa, cũng dọn ăn tối luôn và ai
rửa chén bát ban trưa, cũng rửa chén bát ban tối.
Ở trong mỗi
người chúng ta đều có cả Mác-ta lẫn Ma-ri-a. Chúng ta có thể làm
nên một sự khác biệt đối với người thân cận và yêu thương nhất
của chúng ta là chúng ta biết tìm cách đạt được sự quân bình
hợp lý!
LM Vincent
Travers, OP
Hương Vĩnh
chuyển ngữ
|
VỀ MỤC LỤC |
|
TRÁNH PHÊ BÌNH – CHÚ TRỌNG ƯU
ĐIỂM HƠN LÀ KHUYẾT ĐIỂM |
Thông thường thì con người thích
phê bình người khác hơn là tán dương vì ai cũng muốn cho thấy mình
có một cái gì hơn người khác. Chúng ta có thể thấy được điều đó qua
phương cách chúng ta giáo dục con trẻ. Để tỏ ra là những con người
có hiểu biết hơn, khôn ngoan hơn, kinh nghiệm hơn, chúng ta thích
chú trọng đến những sai lỗi của con trẻ để sửa dạy hơn là chú trọng
đến những ưu điểm để khuyến khích. Nhưng đó là một phương cách không
thích hợp cho việc giáo dục của chúng ta.
Kỳ Vũ, 8 tuổi, vừa viết xong lá
thư cảm ơn cho bà nó. Mẹ nó bảo muốn coi thử. Một cách miễn cưỡng,
nó đưa thư cho bà mẹ coi. “Ô, Kỳ Vũ! Hãy coi lối viết văn kỳ cụïc
của con. Sao con lại viết chữ xiên xẹo vậy ? Có mấy chữ con viết sai
chính tả. Con không thể gởi một bức thư lộn xộn như vậy cho bà con!”
Bà mẹ viết ra những chữ sai và bảo cậu bé viết lại bức thư.
Nhưng càng viết cậu bé càng sai
nhiều hơn. Bỏ hết trang giấy nầy đến trang giấy khác, sau cùng cậu
bé bật khóc và ném bút xuống. “Con không thể viết đúng được nữa”, nó
hét lên. Bà mẹ ra lệnh: “Thôi đủ rồi. Con đi làm việc khác trong
vòng nửa tiếng đồng hồ, rồi trở lại viết.”
Sự nhấn mạnh đến các lỗi lầm là
một đại họa. Cậu bé thích thú viết lá thư cho bà và bà nó cũng sẽ
sung sướng với lá thư của nó. Nhưng bây giờ nó đâm ra ghét lá thư.
Khi bà mẹ tập trung sự chú ý vào những sai lỗi, bà đã làm cậu bé đổi
hướng từ cái tích cực sang cái tiêu cực. Nó trở thành sợ làm điều
sai lỗi. Sự sợ đó dày vò nó đến nỗi càng làm càng nhiều lỗi. Nó
thạät sự thất đảm và đó là một đại họa cho nó.
Khi chúng ta để ý đến những lầm
lỗi, chúng ta làm cho những con trẻ chúng ta mất hết tinh thần.
Chúng ta không thể xây dựng trên những khuyết điểm mà phải xây dựng
trên những ưu điểm.
Kỳ Vũ đã gặt hái được nhiều biết
bao nếu bà mẹ biết ca tụng tư tưởng của nó muốn viết thư cho bà nó.
Lẽ ra, bà nên nhấn mạnh đến phương diện tích cực và cho nó một sự
thích thú. Nó có khuynh hướng muốn làm nhiều điều cần có đầu óc suy
nghĩ. Bà mẹ nên tìm những mẫu viết thư hay, giới thiệu cho nó, và
khuyến khích nó với những lời lẽ: “Mẹ thấy con đã viết một lá thư
hay. Rất tốt. Con hãy cố gắng làm như vậy!” Cậu bé tất nhiên cảm
thấy được khích lệ, nên sẽ thích thú và cố gắng làm tốt hơn với sự
tự tin vào khả năng của nó. Bà mẹ không nên quá để ý vào việc viết
sai chính tả. Sự ước muốn liên hệ, đối thoại là điều quan trọng lúc
nầy. Không nên quá đòi hỏi nơi một đứa trẻ.
Chúng ta mất nhiều thời giờ với
con trẻ, canh chừng để xem chúng có làm điều gì sai lỗi và lập tức
chúng ta nhảy vào để cứu chúng. Hệ thống huấn luyện con trẻ chúng ta
xem ra dựa trên tư tưởng nầy là: chúng phải được huấn luyện ra khỏi
lỗi lầm và đi vào nhân đức. Chúng ta sống trong nỗi lo sợ rằng con
trẻ chúng ta sẽ lớn lên xấu, học thói xấu, phát triển những cử chỉ
thái độ không mấy tốt đẹp. Chúng ta canh chừng chúng và cố gắng ngăn
ngừa khỏi những sai lỗi. Một cách thức như thế cho thấy thiếu niềm
tin vào con trẻ chúng ta. Điều đó gây xúc phạm và làm chúng mất can
đảm. Với sự nhấn mạnh trên những tiêu cực, làm sao chúng ta có thể
mong đợi đứa trẻ cảm thấy có đủ năng lực để tiến tới sự hoàn thành
một công việc gì được?
Khi được sửa sai tức khắc, đứa
trẻ không những cảm thấy nó luôn sai lỗi mà con trở nên sợ sệt về
việc làm sai lỗi đó. Sự sợ như thế đưa đến việc không muốn làm bất
cứ một chuyện gì vì sợ có thể làm sai lầm. Sự sợ ám ảnh nó đến nỗi
làm mất khả năng hoàn thành công việc. Nó sẽ bị ấn tượng nầy là:
“ngoại trừ mình hoàn toàn, mình sẽ không có giá trị gì.” Tuy nhiên,
toàn vẹn là một điều không thể có được. Và cố gắng để được toàn vẹn
ít dẫn tới sự thăng tiến mà thường chỉ dẫn tới sự đầu hàng trong
thất vọng.
Tất cả chúng ta đều sai lỗi.
Nhiều lần chúng ta ngay cả không biết rằng hành động đó là một sai
lỗi cho đến khi chúng ta làm xong và nhìn thấy những kết quả xảy ra.
Thỉnh thoảng chúng ta ngay cả phải làm những lầm lỗi để khám phá ra
rằng đó là một sai lầm. Chúng ta phải có can đảm nhận là mình bất
toàn và cũng cho phép con trẻ chúng ta trở thành bất toàn. Chỉ trong
cách thế đó, chúng ta mới lớn lên, tiến lên, và hoàn thành công
việc. Con trẻ chúng ta sẽ có can đảm và cố gắng học hành hơn nếu
chúng ta bớt chú trọng đến những sai lỗi và chú ý đến những gì tích
cực hơn. Làm một lầm lỗi thì không quan trọng cho bằng điều chúng ta
cần làm để cải thiện ngay sau khi chúng ta nhận thức được.
lm.lêvănquảng,
tiến sĩ tâm lý
|
VỀ MỤC LỤC |
|
NHỮNG VẤN NẠN XUNG QUANH VẤN ĐỀ ĐỘC THÂN |
Tác phẩm Giáo Hội Cần Loại Linh Mục
Nào? (tiếp theo)
Lm Giuse Lê Công Đức chuyển ngữ từ bản
tiếng Anh:
PRIESTHOOD IMPERILED, Tác giả: Lm.
BERNARD HARING, C.SS.R.
Khi nói về sự độc thân vì Nước Trời,
chúng ta phải hết sức cẩn thận
để phân biệt giữa độc thân xét như một sự chọn lựa tự do nơi tự
thân nó và sự độc thân được chọn lựa như một điều kiện dứt khoát
để được truyền chức linh mục.
Những xem xét khẩn
trương
Những xem xét xa hơn nữa sẽ giúp chúng ta
phân biệt giữa sự chấp nhận tự do đích thực đối với đời độc
thân xét như là tiêu chuẩn được kỳ vọng cho chức linh mục
của đời tu và, đàng khác, sự chấp nhận tự do không chủ yếu cho
giá trị và hấp lực nội tại của chính nó - mà bởi vì đó là điều
kiện dứt khoát để trở thành một linh mục. Qua quá trình thời
gian, sự đồng ý vì luật đòi hỏi nó có thể trở thành một nguồn
vui với một nhận thức được đào sâu hơn về ý nghĩa và vẻ đẹp của
nó, hoặc đàng khác nó có thể ngày càng trở thành một gánh nặng
phải mang.
Mỗi linh mục sống đời độc thân của mình một
cách độc đáo trong bối cảnh văn hóa và xã hội riêng của mình.
Chúng ta sẽ nhận ra rằng bối cảnh xã hội tại phần lớn các quốc
gia ngày nay rất khác biệt với bối cảnh đã tồn tại vào thời mà
luật nối kết chức linh mục với đời độc thân xuất hiện trong Giáo
Hội.
May mắn
Việc so sánh giữa tình yêu và sự trung
thành trong đời hôn nhân đích thực với một đời sống độc thân
đích thực sẽ là khởi điểm của tôi cho cuộc thảo luận này, vì tôi
tin rằng một đời hôn nhân hạnh phúc là một hình ảnh thích đáng
để đối chiếu với một cuộc đời độc thân được sống cách chân thực
và thuyết phục.
Vợ chồng Eric và Dorothee, những người bạn
của tôi, mời tôi tham dự dịp họ cử hành ngân khánh hôn nhân. Vì
tôi không thể tham dự, sau đó Eric đã kể cho tôi mẩu đối thoại
giữa anh và vợ anh trong dịp đó. Trước mặt tất cả bạn bè và quan
khách, anh nói với vợ: “Thật may mắn em ạ! Hôm nay chúng ta
vẫn yêu nhau như chúng ta đã yêu nhau vào ngày đầu tiên của cuộc
sống vợ chồng.” Nghe tới đây, vẻ mặt Dorothee sa sầm, và Eric
kịp nhận ra mình đã nói tầm phào, anh lập tức đính chính:
Anh xin lỗi vì đã đánh giá chưa đúng về
cuộc sống chung giữa chúng ta. Một điều rất rõ ràng là tình yêu
của chúng ta đã được đào sâu và trở nên vững chắc hơn. Trong quá
trình đó, chúng ta đã học biết chấp nhận những mảng tối của nhau
– là cái làm cho ánh sáng trở nên rực rỡ hơn. Qua ngần ấy tháng
năm, chúng ta đã giúp nhau xử lý các điểm yếu của mình. Đành
rằng khi đi vào cuộc sống chung, chúng ta đã đủ trưởng thành,
nhưng quá trình học hỏi đã không phải lúc nào cũng lãng mạn.
Chúng ta đã thường cần phải xin nhau sự thứ tha. Và tình yêu của
chúng ta đã lớn lên biết bao khi chúng ta chia sẻ nó với bốn đứa
con của mình, nhất là trong quá trình học hỏi hết sức thiết yếu
để nuôi dạy Gerald, đứa con trai bệnh hoạn tội nghiệp của chúng
ta. Cám ơn em thật nhiều, Dorothee! Ngay từ đầu, em đã sẵn sàng
tín nhiệm vào anh – và em vẫn luôn luôn sẵn sàng tín nhiệm như
thế trong quá trình cả hai chúng ta ngày càng khám phá nhiều hơn
về các tiềm năng bên trong của mình. Chúng ta hãy hy vọng rằng,
trong những năm sắp đến, tình yêu của chúng ta sẽ tiếp tục lớn
lên, tiếp tục sinh hoa trái và chín muồi.
Những ý tưởng tuyệt vời ấy của anh bạn tôi
đã thường xuyên thúc đẩy tôi suy tư về cách sống và cách yêu đời
độc thân của chính mình trong và xuyên qua tình yêu không ngừng
lớn lên của Đức Kitô. Tôi cảm nghiệm Đức Kitô đã diễn tả tình
yêu của Ngài đối với tôi một cách vô cùng quảng đại và kiên
nhẫn. Rõ ràng chính bởi tình yêu mà Thiên Chúa đã chọn tôi vào
đời sống linh mục, và tôi có thể chân thành nói rằng cũng chính
bởi tình yêu mà tôi đã đáp trả lại tiếng gọi ấy. Chắc hẳn hơn cả
Eric và Dorothee, tôi đã phải học biết loại tình yêu này đòi hỏi
những gì và bao hàm những gì. Đó là một quá trình học tập lâu
dài, và tôi hoàn toàn nhận ra rằng quá trình này phải tiếp tục.
Tôi vuốt ve hy vọng rằng tôi sẽ luôn luôn là một học trò chăm
chỉ, biết mở ra đón nhận những ý tưởng mới và những khả năng
mới. Tạ ơn Chúa vì trên đường mình đi tôi đã không có một khủng
hoảng nghiêm trọng nào, nhưng chắc chắn đã có nhiều lỗi lầm và
thiếu sót. Cho phép ngọn lửa của Thánh Thần thanh luyện các động
cơ của mình và, đồng thời, đánh thức trong mình một tinh thần
khiêm tốn và quảng đại sâu xa hơn, tôi cảm nghiệm thấy việc đó
đã không phải bao giờ cũng “du dương lãng mạn”.
Chỉ dần dần tôi mới nhận biết rằng Đức
Kitô, Đấng Cứu Độ, đã gặp gỡ và đã trắc nghiệm mình nhất là qua
những con người trong hoàn cảnh khốn khổ, chẳng hạn những người
li dị – họ chìm đắm trong bao nỗi khó khăn, họ phải chịu đựng
bao thái độ phê phán và bài xích, ngay cả từ phía Giáo Hội. Mặc
dù nay tôi đã luống tuổi, tôi vẫn ý thức rằng mình chỉ là một
học trò bé bỏng mà thôi.
Sống độc thân và yêu thương trong tư cách
một con người độc thân trong thế giới hôm nay là một công việc
chỉ có thể đảm nhận trôi chảy khi chúng ta đặt sự tín thác của
mình không phải vào chính mình mà vào chỉ một mình Thiên Chúa,
và biết không ngừng mở lòng ra đón nhận sự hướng dẫn của Mầu
Nhiệm Thánh.
Cám ơn các bạn, Eric và Dorothee, vì đã
tặng cho tôi một bài học tuyệt vời! Mong sao bài học này sẽ sinh
hoa kết quả trong đời tôi và trong đời nhiều bạn bè linh mục độc
thân của tôi!
Bất chấp những khó khăn
Có lần tôi giảng tuần đại phúc cho những
người tị nạn. Vài ngày đầu, trong số những người lớn đến tham dự
chỉ có một người là đàn ông. Không rõ vì lý do gì, những người
đàn ông khác trong thị trấn hứa với nhau rằng họ sẽ không đến
nghe giảng. Tò mò muốn tìm hiểu, tôi gặp đôi vợ chồng duy nhất
vốn vẫn đến tham dự một cách đều đặn và sốt sắng. Trong cuộc
trao đổi ấy, người vợ đã kể cho tôi nghe câu chuyện riêng của
chị. Hồi còn là một thiếu nữ, chị từng có ý định trở thành một
nữ tu, nhưng rồi chị gặp Robert và phải lòng anh ấy. Bị giằng co
trong lòng, chị gặp cha giải tội và thố lộ nỗi băn khoăn: “Thưa
cha, giữa hai đàng: trở thành một nữ tu và chinh phục một người
đàn ông về với đức tin, đàng nào sẽ đẹp lòng Chúa hơn?” Chị tin
chắc rằng mình sẽ thuyết phục được Robert một cách khá dễ dàng,
vì anh ta là một chàng trai thật sự tuyệt diệu. Quả vậy, chị đã
hoàn toàn thành công trong việc đó.
Chính nhờ những cố gắng của người chồng rất
có khả năng và giàu nhiệt tâm của chị mà chúng tôi đã có thể lôi
kéo được hầu như tất cả nam giới Công Giáo của thị trấn ấy đến
với tuần đại phúc. Người vợ tuyệt vời của anh đã bắt đầu bằng
một cú liều lớn, và chị đã gặt hái được gấp trăm. Điều tương tự
cũng đúng đối với nhiều người trẻ cảm thấy viễn tượng sống độc
thân suốt đời là một cú liều. Nếu các linh mục thật sự yêu mến
Thiên Chúa và đoàn dân của Ngài, trong đó gồm cả những con người
khó khăn và khốn khổ nhất, tại sao họ không dám liều và – trong
ý thức về những giới hạn của con người mình – mạnh dạn xin được
giải chức trong trường hợp họ nhận ra rằng mình không thể sống
độc thân được nữa?
Một số người trẻ rất nhiệt thành với Thiên
Chúa và rất say mê việc chinh phục người ta cho Thiên Chúa,
nhưng họ không thích thú với đời độc thân, nhất là nếu họ sợ sự
nguyền rủa của những kẻ khác và lo ngại khả năng mình có thể bị
đối xử tệ hại trong trường hợp mình không sống cuộc đời độc thân
một cách trung thành. Những người trẻ này phải có đủ can đảm để
tự mình mạnh dạn chọn lựa. Không ai có thể nói cho ai khác biết
sự chọn lựa ấy liều lĩnh như thế nào.
Tuy nhiên, cần ghi nhận một điều ở đây.
Trong một số trường hợp cha giải tội hay người tư vấn có thể
phải vạch rõ rằng cú liều ấy có thể quá không cân xứng. Mặt
khác, người ta sẽ dễ dàng hơn và yên tâm hơn để quyết định chọn
lựa cú liều ấy nếu những người cầm quyền trong Giáo Hội có cái
nhìn cảm thông hơn khi xảy ra trường hợp có những linh mục – ở
mọi độ tuổi - dù nỗ lực hết sức mình nhưng vẫn đến lúc nhận ra
rằng mình không thể luôn luôn sống đời độc thân cách trọn vẹn.
Từ kinh nghiệm giảng dạy và giúp tĩnh tâm
cho hàng ngàn linh mục trên khắp thế giới, tôi được biết rất
nhiều linh mục là những người sau một thất bại ban đầu đã có thể
sống đời độc thân linh mục một cách khiêm tốn và nhiệt thành
thực sự. Cũng như trong hôn nhân, sự dấn thân sống đời độc thân
thường sẽ mãnh liệt hơn, hạnh phúc hơn và đích thực hơn sau một
cơn khủng hoảng.
Có nhiều linh mục thực sự rút ra được hạnh
phúc từ cuộc sống độc thân (chứ không phải họ vẫn hạnh
phúc được dù họ sống độc thân!) Cũng có nhiều linh mục rất
hạnh phúc trong đời độc thân song họ có thể còn hạnh phúc hơn
nữa và rực sáng hơn nữa nếu như họ được phép kết hôn hoặc nếu
như họ đã được truyền chức trong tư cách là những người kết hôn.
Có những linh mục có những phẩm chất nhân bản và tôn giáo tuyệt
vời song lại gặp rắc rối về những vấn đề tính dục, chẳng hạn
chuyện thủ dâm – một khó khăn mà họ không thể vượt qua, bất chấp
bao nỗ lực lớn lao mình đã thực hiện; những linh mục này càng
khốn đốn hơn nữa do bởi thái độ bi thảm hóa một cách quá quắt
của Giáo Hội đối với vấn đề thủ dâm. Thường thì thủ dâm không
phải là một vấn đề luân lý chút nào cả, mà đúng hơn đó là một
vấn đề tâm lý và có liên quan đến hoóc-môn.
Nếu các linh mục được giúp đỡ một cách
thuyết phục để bớt bi kịch hóa những khó khăn của họ, họ có thể
ngạc nhiên nhận ra rằng mình dần dần trở nên được tự do trọn
vẹn. Ngay cả dù điều đó không xảy ra, họ vẫn có thể trở thành
những linh mục tuyệt vời. Một số linh mục thực sự trở thành
những linh mục và những nhà chữa trị tuyệt vời chính nhờ các vấn
đề mà họ phải đương đầu và đang cố gắng vượt qua. Trong sự hiểu
biết và chấp nhận hoàn toàn những yếu đuối của mình, họ trở nên
khiêm tốn hơn, cảm thông hơn và nhân hậu hơn đối với những người
yếu đuối khác. Tôi cho rằng nhiều người trẻ rất có thể sẽ sẵn
sàng hơn để chọn lựa đời linh mục độc thân nếu như vấn đề thủ
dâm không bị thổi phồng và hiểu sai một cách quá đáng.
Trái lại, một linh mục sống thành công đời
độc thân của mình và có tài năng về giảng dạy, tư vấn ... vẫn có
thể bị cám dỗ nếu không bởi tính kiêu hãnh thì cũng bởi lòng tự
tôn. Khi lòng tự tôn này phát triển ngày càng lồ lộ hơn, vấn đề
của ông thậm chí có thể trở thành nghiêm trọng hơn nữa: ông dễ
dàng tiến tới chỗ tự mãn.
Một linh mục vui tính và cởi mở nọ có lần
kể cho tôi nghe cách mà anh ta giải quyết được tính tự tôn nơi
mình. Anh giải thích cho giáo dân của mình rằng việc phê bình
một cách trung thực thẳng thắn là một nhân đức, và anh cho họ
biết rằng lúc nào họ cũng có quyền – thậm chí có bổn phận – phê
bình chủ chăn của họ, đó chính là một hành vi bác ái. Một giáo
dân, thấm nhuần những lời đó của anh, đã gặp anh vào Chúa Nhật
sau đó và nói: “Thưa Cha, nghe bài giảng của Cha, con cứ tưởng
như mình đang nghe chú gà trống của Thánh Phê-rô đang gáy bài ca
tự khoe khoang mình bằng những ngôn từ hoa mỹ.” Anh bạn của tôi
nói rằng anh bị sốc kinh khủng bởi câu nói ấy, song anh cho biết
cũng chính nhờ đó mà anh đã bước xuống khỏi đỉnh núi cao ngạo
của mình. Trong câu chuyện này và trong những câu chuyện tương
tự khác, tôi tin rằng điều mà nhiều linh mục có thể rút ra là
rằng dù gì đi nữa thì mọi sự cũng đã diễn tiến tốt đẹp.
Độc thân trong so sánh
với một cuộc hôn nhân vô hiệu
Chỉ trong vài thập niên gần đây các chuyên
viên giáo luật và luân lý mới khám phá thấy và chấp nhận sự kiện
rằng rất nhiều cuộc hôn nhân trong Giáo Hội có thể được tuyên bố
là vô hiệu bởi vì, ngay từ đầu, những mối kết hợp này tự bộc lộ
cho thấy là quá yếu ớt và bệnh hoạn đến nỗi chẳng có mấy cơ hội
thành công, ngay cả khi một trong hai hoặc cả hai bên đều có ý
hướng ngay lành. Mặc dù những đôi bạn này được thấy cũng bình
thường thôi, song trong tính tình, cảm nghĩ và những khía cạnh
quan trọng khác, họ quá khác biệt nhau đến độ hoàn toàn lạ lẫm,
và rõ ràng họ không thể nào vượt qua được những phản ứng “dị
ứng” đối với nhau. Đành rằng chúng ta không phủ nhận những khác
biệt thường là yếu tố giúp cho người ta nên phong phú, song
chúng ta cũng phải thừa nhận rằng một số khác biệt quá lớn đến
nỗi việc sống chung với nhau suốt đời chỉ làm cho đôi bạn thành
bệnh hoạn kinh niên. Từ lâu rồi, Giáo Hội Chính Thống đã nhận ra
rằng điều này hoàn toàn có thể xảy ra, và rằng những cuộc hôn
nhân ấy có thể không những được coi như đã chết mà thậm chí có
thể được coi là không thành sự ngay từ đầu.
Cũng vậy, điều tương tự có thể xảy ra - và
đã rất thường xảy ra - trong đời sống độc thân không xì-căng-đan
hoặc ít nhất là không có xì-căng-đan nghiêm trọng. Làm sao một
chàng trai hai mươi ba tuổi có thể thấy trước được hết mọi vấn
đề khó khăn thực tế xung quanh đời sống độc thân của một ông cha
sở? Vấn đề càng khó hơn nữa khi chàng trai này vốn được niêm kín
trong hàng rào của tiểu chủng viện và đại chủng viện, hoàn toàn
cách ly khỏi cuộc sống bên ngoài.
Tất cả chúng ta đều từng biết những câu
chuyện đại loại như một linh mục tốt lành đáng kính nào đó bỗng
dưng làm mọi người phải ngạc nhiên khi ông xin được giải chức –
tức ‘hồi tục’, theo cách nói vẫn còn rất phổ biến ngày nay.
Trong một số trường hợp, đây không phải là vấn đề độc thân mà
đúng hơn đây là một kinh nghiệm thương tổn thâm sâu mà tôi xin
đặt cái tên là “tưởng vậy nhưng không phải là vậy”. Xin kể ở
đây một trường hợp – chắc hẳn không phải là một trường hợp
hi hữu.
Tại bữa ăn chung vào ngày Lễ Giáng Sinh,
ông cha sở độc đoán nọ mắng xối xả anh linh mục phụ tá hai mươi
chín tuổi của mình vì linh mục trẻ này duỗi thẳng hai cánh tay
khi đọc lời nguyện - (anh bắt chước điều này nơi một vị hồng
đáng kính). Cha sở nói: “Anh sẽ biết tay tôi nếu anh còn tiếp
tục làm gương xấu qua việc bất tuân phục các qui luật thánh của
phụng vụ.” Một cách từ tốn, anh linh mục trẻ lên tiếng: “Bất
tuân phục như đức hồng y, giám mục giáo phận chúng ta, phải
không thưa cha?” Câu nói đó quá đủ để cho cha sở lồng lộn lên,
ông phồng mang trợn mắt quát: “Bổn phận của anh là phải tuân
phục luật lệ của Giáo Hội, chứ không phải là bắt chước một hồng
y. Anh chỉ là một linh mục phụ tá quèn. Anh không là cái thá gì
cả, anh hiểu không?”
Chiều tối hôm ấy, gặp lại nhau chỗ chân cầu
thang, cha sở lại xả cơn hằn học của mình lên cha phụ tá một lần
nữa. Vài năm sau, anh linh mục trẻ này cho tôi biết rằng đó
chính là buổi tối mà anh thủ dâm lần đầu tiên – không phải để
tìm khoái cảm mà chỉ như một cách bày tỏ nỗi chán nản tột cùng.
Rồi, vì anh còn tiếp tục sống ở đó nên những cuộc ‘đụng độ’ với
cha sở vẫn còn tiếp tục - thế là, anh tiếp tục thủ dâm theo với
đà leo thang của nỗi chán nản trong lòng mình. Anh tìm sự giúp
đỡ của một nhà tâm lý trị liệu; qua trao đổi, vị y sĩ này xác
quyết rằng anh cần được giải phóng khỏi môi trường ngột ngạt và
độc hại ấy. Vị y sĩ khuyên anh xin giải chức, giải thích rằng đó
là điều kiện tiên quyết để mong có cơ hội chữa trị vấn đề của
anh.
Nhiều năm sau đó nữa, tôi gặp lại anh. Lúc
này anh đã kết hôn với một phụ nữ duyên dáng và đã có những đứa
con kháu khỉnh. Hơn nữa, anh kể rằng anh đang tham gia tích cực
vào giáo xứ trong tư cách một giảng viên giáo lý. Quả thật, cả
gia đình anh toát ra một tinh thần nhiệt tâm truyền giáo, và cả
nhà đều hạnh phúc. Thế nhưng, tôi vẫn trằn trọc băn khoăn rằng
biết đâu chức linh mục và đời độc thân của anh đã không bị đánh
mất, nếu như anh không vướng phải những kinh nghiệm nghiệt ngã
ấy. Điều gì sẽ xảy ra nếu như anh đã được trao cho cơ hội sống
với những linh mục tốt lành, những linh mục biết giúp nhau nên
phong phú bằng cách chấp nhận tính cách riêng của mỗi người? Vô
số người xung quanh chúng ta, kết hôn hay độc thân, đã từng là
nạn nhân của những thương tổn tương tự – duy chỉ vì những dị ứng
đối với sự khác biệt trong cá tính.
Luật hiện hành của Giáo Hội Công Giáo Rôma
qui định rằng độc thân là cửa ngõ duy nhất để bước vào chức linh
mục thừa tác. Một luật như thế thật độc hại cho nhiều người do
bởi kinh nghiệm của họ về một “Giáo Hội khác”, cắm rễ trong
những cơ cấu độc đoán và in đậm dấu những thái độ tiêu cực,
những phán xét và những pháp chế từ trên cao ban xuống. Ở đây
tôi không thể không nói lên quan điểm của mình đối với cách giải
quyết trong trường hợp các linh mục xin được giải chức – một
cách giải quyết rất giống với (đôi khi còn căng hơn) cách giải
quyết được áp dụng cho những người li dị. Nói tắt, đó là cách
giải quyết quá hà khắc!
Tôi đã có dịp trao đổi với Giáo Hoàng
Phao-lô VI về vấn đề này; và tôi nhận ra rằng ngài hết sức nhạy
cảm đối với vấn đề. Thậm chí ngài đã gửi các linh mục có chuyện
rắc rối đến gặp tôi để được tư vấn. Hơn nữa, ngài hứa sẽ xướng
xuất những thay đổi. Cho tới lúc bấy giờ, thỏa ước giữa Tòa
Thánh với chính phủ Ý qui định rằng những linh mục hồi tục để
kết hôn sẽ không được chính phủ cung cấp việc làm. Theo quan
điểm của Giáo Hội, một linh mục đã kết hôn và có con cái chỉ có
thể được nhận vào hiệp thông với Giáo Hội khi đương sự cung cấp
được bằng chứng rằng mình tiết dục hoàn toàn, sống chung với vợ
chỉ như anh em thôi. Nếu vị linh mục này ‘xé rào’ dù chỉ một
lần, đương sự sẽ mắc vạ và phải được thẩm quyền Tòa Thánh Rôma
giải quyết. Giáo Hoàng Phao-lô VI đã có những thay đổi dứt khoát
về vấn đề này.
Ngay đầu triều đại của mình, Giáo Hoàng
Gioan Phaolô II đã áp dụng một biện pháp nghiêm ngặt hơn nhiều
so với vị tiền nhiệm. Theo chỗ tôi ghi nhận, các kết quả chỉ có
bi đát hơn chứ không khích lệ chút nào. Thật vậy, người ta nhận
thấy nhiều cựu linh mục kết hôn theo thủ tục dân sự hay thậm chí
chỉ sống chung với người ‘bạn’ của họ mà không hề có hôn thú
theo pháp luật. Một sự kiện khác cũng nghiêm trọng không kém, đó
là tôi nghe một số bạn trẻ nói rằng họ không còn có đủ can đảm
để lãnh chức thánh và sống đời độc thân linh mục bởi vì họ sợ sẽ
gặp lôi thôi lớn nếu chẳng may sau này họ khám phá ra rằng mình
thực sự không thể sống độc thân được.
Hai nẻo đường khác biệt
Về mối ràng buộc vĩnh viễn của hôn nhân,
của độc thân, và – quả thật - của toàn bộ đời sống Kitôhữu, có
hai cách nhận hiểu và thực hành rất khác biệt. Một là nẻo đường
của Tin Mừng, từ lăng kính này Thánh Phao-lô nhìn thấy mọi sự
trong nhãn giới của ân sủng Thiên Chúa. Nẻo đường thứ hai là nẻo
đường thiên lệch về luật, về sự giữ luật và sự kiểm soát bởi
luật.
Hôn nhân, như được hiểu từ viễn tượng ân
sủng, có nghĩa là tín thác rằng Thiên Chúa sẽ ban ơn giúp sức
cho người ta để họ dám dấn thân vào giao ước hôn nhân trong viễn
tượng trung thành suốt đời với giao ước ấy. Ngay cả trong trường
hợp gặp những khó khăn và trắc trở, người ở trong giao ước hôn
nhân vẫn không bỏ cuộc. Nói đúng hơn, cũng như Thiên Chúa tiếp
tục không ngừng tín nhiệm trước đối với đôi bạn, đôi bạn được
mời gọi thể hiện cùng một sự quảng đại và lòng tín nhiệm như
thế. Sự tha thứ của Thiên Chúa được thực hiện bởi việc người ta
kêu xin và sẵn sàng cung ứng sự tha thứ về những lỗi lầm và
những vấp ngã của nhau. Chỉ khi một cuộc hôn nhân trở nên rõ
ràng không còn là một con đường cho hai người chia sẻ ơn cứu độ
nữa và trở thành mối nguy hại lớn cho tính thống nhất và sự lành
mạnh của cá nhân thì lúc ấy hai người mới có thể chia tay – dĩ
nhiên vẫn không bao giờ đánh mất niềm hy vọng rằng rồi sẽ đạt
được sự tha thứ lẫn nhau.
Trong khi đôi bạn không nên bước vào giao
ước hôn nhân một cách nông nổi hay một cách tùy tiện, thì sự
thành công vẫn không hoàn toàn được bảo đảm ngay cả trong trường
hợp họ đã quyết định một cách đầy cân nhắc. Bất chấp ý hướng
ngay lành vào ban đầu, có thể rồi đến một ngày đôi bạn khám phá
ra rằng mối kết hiệp giữa họ đã đổ vỡ không thể hàn gắn được.
Ngay cả lúc ấy, hay phải nói đặc biệt là lúc ấy, cả hai người
cần biết tín thác hơn nữa vào Thiên Chúa, Đấng luôn rộng ban cho
họ khả năng bắt đầu lại và khích lệ họ xem xét lại toàn cục vấn
đề để tìm ra giải pháp tốt nhất có thể.
Từ nhãn giới nệ luật, hôn nhân được đặt nền
trên một cái nhìn có tính khế ước rằng đó là một bí tích ràng
buộc vĩnh viễn, và sự ràng buộc vĩnh viễn này được tất định
chiếu theo luật. Ngay cả khi rõ ràng một cuộc hôn nhân đã đổ vỡ
và hoàn toàn không thể sửa chữa gì được, “bí tích” có tính khế
ước ấy vẫn treo trên đầu hai người như thanh gươm của Damocles.
Cách diễn giải này về bí tích đã đến lúc cần phải được dứt khoát
loại bỏ.
Sự độc thân, như được hiểu từ viễn tượng nệ
luật, có thể dẫn đến hiện tượng đối xử với một linh mục vấp ngã
như thể anh ta là một kẻ phản bội hay là một kẻ cùi hủi, thế
nhưng vẫn cương quyết buộc anh ta tiếp tục làm một linh mục
chiếu theo luật – ngay cả khi sự việc cho thấy rành rành rằng
luật không hề cứu anh ta. Trái lại, luật ấy không chỉ làm thương
tổn anh ta, mà còn có thể hủy diệt anh ta nữa.
Tuy nhiên, nếu theo quan điểm đích thực của
Thánh Phao-lô, chúng ta nhận thức đúng đắn rằng mọi Kitôhữu
không còn ở dưới chế độ Lề Luật nữa, nhưng là thuộc về ân sủng,
thì một người cảm thấy mình được mời gọi sống đời linh mục độc
thân sẽ đặt trọn niềm tín thác vào ân sủng Thiên Chúa, sẽ sống
đời sống thấm đẫm cầu nguyện, sẽ bước đi một cách sáng suốt, sẽ
không ngừng tỉnh thức. Tuy nhiên, chúng ta không thể loại bỏ khả
năng rằng rồi một ngày nào đó, rõ ràng độc thân được thấy không
phải là ơn gọi của đương sự. Trong trường hợp này, đương sự nên
được ân cần khích lệ xin giải chức mà không chút lo sợ bị Giáo
Hội trù dập hay khinh miệt.
Một thoáng nhìn qua hàng ngàn năm truyền
thống Phật giáo sẽ có thể hữu ích cho chúng ta trong vấn đề này.
Trong khi các phật tử rất đề cao đời sống độc thân, họ cũng hiểu
rằng trừ một số trường hợp đặc biệt ngoại lệ, người ta sẽ không
bao giờ đưa ra một lời cam kết không thể rút lại. Theo một
truyền thống Phật giáo, sự độc thân được sống tạm thời trong
một giai đoạn được coi như là một chuẩn bị tốt cho cuộc sống hôn
nhân sau này. Đành rằng tôi không hề đề xuất việc bắt chước cách
thực hành này, tôi vẫn nghĩ rằng chúng ta nên có một cái nhìn
mới mẻ hơn và nhân văn hơn về truyền thống của chúng ta, nhất là
khi các hoàn cảnh lịch sử đang thay đổi một cách rất thâm sâu và
nhanh chóng.
Độc thân trong bối cảnh
lịch sử
Nhà khoa học lừng danh Marcel Légaut, một
trong nhiều người tự nguyện chọn sống đời độc thân, đã hùng hồn
nhắc cho Giáo Hội ấy rõ giá trị và hoa quả của sự độc thân vì
Nước Trời. Những hoa quả này càng được gặt hái rõ rệt hơn nếu
người ta lưu ý đầy đủ đến toàn bộ bối cảnh trong đó cuộc sống
độc thân được thực hiện. Tuy nhiên, ông cũng xác nhận – và tôi
đồng ý - rằng không bao giờ được phép hiểu những luật liên quan
đến các đặc sủng đặc biệt như là cái gì có tính vượt thời gian,
cơ hồ như chúng là một thực tại trên trời, nằm ngoài cảnh vực
lịch sử không ngừng thay đổi.
Độc thân linh mục như
một biển báo trên đường
Sự độc thân linh mục – được sống một cách
trung thành và vui tươi – có thể là một sự giúp đỡ và là một
biển báo trên đường cho những ai, vì hoàn cảnh nào đó của cuộc
sống, bị buộc phải sống độc thân, ngay cả dù họ không tự nguyện
chọn lựa như thế. Tôi nghĩ đến những người li dị và rất nhiều
người, nam cũng như nữ, sống đời sống độc thân hoặc bởi vì không
có cơ hội để kết hôn hoặc vì những khó khăn về sức khỏe không
cho phép họ lập gia đình. Cảm thông với những người không thể
kết hôn – đó có thể là một cách giúp củng cố niềm khao khát nhận
hiểu sâu sắc hơn tiếng gọi độc thân của chính chúng ta. Hơn nữa,
chúng ta có thể học được nhiều điều từ những người độc thân đã
biết chấp nhận cuộc sống không do mình chọn lựa, và những người
đã khám phá ra không chỉ cách tạo ý nghĩa cho đời độc thân của
mình mà cả cách để sống đời độc thân của mình một cách đầy hiệu
quả.
Trong cuộc chiến tranh trước đây ở Nga, một
linh mục đứng tuổi thuộc Giáo Hội Chính Thống Nga đến gặp tôi để
xin giúp đỡ - vì ông bị bệnh. Sau khi chào ông, tôi hỏi ông câu
hỏi xã giao: “Ngài và bà nhà vẫn khỏe chứ?” Ông trả lời: “Vợ tôi
đang ở trên trời; và tất cả các con tôi cũng không còn. Bây giờ
tôi sống hoàn toàn một mình – một mình với Chúa và cho Chúa.”
Khuôn mặt ông rạng rỡ khi ông thốt lên những lời đó, một cách
hết sức đơn sơ chân thành đến nỗi tôi không nén được niềm cảm
kích sâu sắc. Tôi nghĩ rằng đó là bài giảng ngắn nhất và tuyệt
vời nhất trong tất cả những bài giảng mà mình nghe được về ơn
gọi độc thân của mình.
Nếu các linh mục chúng ta, với ơn Chúa, có
thể sống đích thực đời độc thân của mình, thì tự thân điều đó có
thể là một sứ điệp không lời song đầy sức tác động đối với nhiều
người phải sống độc thân vì họ không có sự lựa chọn nào khác.
Thế nhưng, việc suy tư về ý hướng này và về giá trị của sự độc
thân mà thôi thì không đủ. Sự độc thân phải đẩy ta tới nhiệt
tình cao hơn và sáng kiến mới mẻ hơn để nâng đỡ những con người
độc thân, nam cũng như nữ, bằng hết sức mình. Ít nhất, chúng ta
cũng phải khích lệ họ sống cuộc sống của họ một cách hiệu quả
hơn - bằng cách giúp họ cảm nghiệm được sự nâng đỡ của cộng
đoàn, nhất là bằng cách tạo các cơ hội cho họ phát triển những
tình bạn vững bền và đầy ý nghĩa.
Độc thân và các vấn đề
dân số
Có một mối nối kết rõ rệt giữa sự độc thân
và vấn đề dân số. Tôi sẽ đề cập đến hai khía cạnh có liên hệ đến
luật độc thân linh mục. Vào thời mà việc thực hành độc thân và
luật độc thân được thấy là điều rất tự nhiên và phổ biến, thì
tình trạng đông dân số chưa phải là một vấn đề. Con số gia đình
thời đó cũng không nhiều, và con số ấy không dễ tăng lên như
trong thời đại công nghiệp và đô thị hóa. Các gia đình quí tộc,
trung lưu và nhất là các gia đình thuộc tầng lớp nghèo cảm thấy
sung sướng khi con cái họ chọn đời sống trong cộng đoàn tu trì
có lời khấn hay chọn trở thành linh mục triều hoặc dòng. Mặc dù
đông dân số không phải là một vấn đề, nhưng các điều kiện kinh
tế lại khiến cho một số người không thể cưới vợ. Thường đây là
tình trạng của đại đa số các gia đình lớn. Kết quả là, một đời
sống độc thân trong các gia đình lớn được chấp nhận như chuyện
bình thường trong xã hội, và chắc hẳn rằng đời sống độc thân
linh mục đã đóng góp tích cực vào chiều hướng chấp nhận ấy.
Trong thế giới ngày nay, tình trạng đông
dân số rõ ràng là một vấn đề ngày càng gay cấn. Trước hết, đây
là vấn đề bảo toàn các điều kiện trên hành tinh chúng ta để sự
sống có thể tiếp tục. Nói cho ngay, cái đang lâm nguy nhất là
chính trái đất này; và sự sống còn của trái đất này là điều kiện
cần trước hết để nâng đỡ mọi dạng sự sống. Những ai tự nguyện
đảm nhận đời sống độc thân vì Nước Trời thì cũng đồng thời đang
đóng góp một cái gì đó cho thiện ích chung.
Các vấn đề dân số có thể có một ảnh hưởng
rất lớn đối với việc tuyển người vào đời sống độc thân linh mục
hoặc tu sĩ. Trong những điều kiện hiện nay của xã hội công
nghiệp và hậu công nghiệp Tây phương, quyền kết hôn được xem như
một trong những quyền căn bản nhất của con người. Tuy nhiên, nền
văn hóa hiện đại, nhận thức được các vấn đề gắn liền với tình
trạng đông dân số, có khuynh hướng ủng hộ mô hình gia đình chỉ
với một hay hai con. Trong một xã hội với những gia đình nhỏ như
vậy thì hẳn nhiên việc tuyển người vào chức linh mục sẽ gay go
hơn rất nhiều so với trong quá khứ.
Trong bối cảnh những khó khăn về dân số
hiện nay, ta thấy rất đáng ghi nhận một số kiểu sắp xếp của thời
trước. Một mô hình đã từng có thời rất quen thuộc, đó là ông cha
sở sống với bà mẹ góa bụa và một vài chị em gái của ông trong
nhà xứ – không chỉ đơn thuần là để họ giúp việc nội trợ, mà nhất
là để cha sở có bầu bạn, có một bầu khí gia đình. Cũng không nên
nghĩ rằng những chị em gái này tự nguyện từ khước đời sống hôn
nhân để phụ giúp cho người anh (hay em trai) linh mục của mình.
Thường thì đấy chỉ là vấn đề hoặc chọn đi tu hoặc chọn phụ giúp
các linh mục bởi vì đương sự không có cơ hội để kết hôn. Ngày
nay, dĩ nhiên, hiếm khi người ta còn gặp thấy một mô hình như
thế.
Hơn hai mươi năm cách đây, khi tôi giảng
dạy cho các giáo sĩ ở Malta, tôi nhận ra rằng ở đó có một truyền
thống các linh mục sống tại gia đình cha mẹ mình. Họ vô cùng
thoải mái và “tự nhiên như ở nhà”! Mô hình này có một hiệu ứng
phụ, đó là các linh mục cảm thấy nỗi mất mát lớn lao khi phải
rời bỏ gia đình để đi phục vụ Tin Mừng tại một nước khác.
Lần nọ tôi ghé thăm một giám mục ở Ý, tôi
rất ngạc nhiên nhận thấy vị giám mục này không có một người giúp
việc nào cả. Chính ngài phải tự sửa soạn bữa điểm tâm. Tôi hỏi
tại sao như thế; vị giám mục trả lời rằng mặc dù ngài có đủ khả
năng để thuê mướn một người giúp việc, nhưng ngài quyết định
không làm thế, vì đa số các linh mục của ngài không có khả năng
này. Rồi, tiếp tục khen ngợi các linh mục của mình, ngài nói
rằng nhiều người trong họ sống rất cô độc và dành vô số thời giờ
ngồi trước ti-vi.
Một chuyển biến văn hóa khác có liên hệ đến
sự độc thân là một chuyển biến về triết học. Dưới ảnh hưởng các
trường phái triết học khắc kỷ và Platon cổ xưa, đời sống kết hôn
được xem như một cái gì hạ cấp, trong khi đó việc tiết dục được
đánh giá là cao trọng. Một cách lệch lạc, truyền thống Augustin
hậu thuẫn cho quan điểm này, về sau trở thành giáo huấn luân lý.
Ngày nay, rất may là tất cả thế giới Kitô giáo và đa số các nền
văn hóa khác có một cái nhìn đúng đắn và lành mạnh hơn về tính
dục của con người, xuất phát từ nhãn quan tôn giáo hay những
nhãn quan nhân văn khác.
Một triết học hay một khoa tâm lý một chiều
nhấn mạnh đến sự thành toàn cá nhân thì hầu như không tìm thấy ý
nghĩa trong việc tiết dục. Dĩ nhiên, độc thân được hiểu trong
ánh sáng đức tin thì rõ ràng không chỉ là vấn đề tiết dục. Trước
hết, đó là niềm vui trong Chúa, cùng với lòng quảng đại phục vụ
Tin Mừng vì ích lợi của dân Thiên Chúa, điều này sẽ trao ý nghĩa
thâm sâu hơn cho sự tiết dục, qua đó làm cho nó trở thành một
kinh nghiệm tích cực. Tuy nhiên, chỉ những người có đức tin sâu
xa mới nhận ra được điều này.
Tìm kiếm các giải pháp
Không có giải pháp đơn giản nào cho những
vấn đề phức tạp, nhưng người ta có thể vạch ra một số con đường
để cố gắng vượt qua chúng. Một con đường như thế có liên quan
đến vấn đề thời sự về tình bạn giữa các linh mục ở các giáo xứ
gần nhau. Tôi biết một số linh mục tham gia những nhóm linh đạo
như phong trào Focolare, một phong trào theo mẫu thức của
Bartholomew Holzhauser. Những linh mục này chọn sống trong những
cộng đoàn nhỏ gồm ba hay bốn người, và thậm chí họ được khích lệ
bởi các giám mục vốn ủng hộ mô hình này bằng cách sắp xếp cho họ
làm mục vụ tại các giáo xứ gần nhau.
Cách đây ít lâu, tôi giảng tĩnh tâm cho hai
mươi linh mục vào dịp lễ ngân khánh của họ và tôi nhận ra rằng
tình bạn giữa họ thật tuyệt vời. Tôi rất phấn khởi khi nghe rằng
từ khi thụ phong linh mục, năm nào họ cũng tổ chức một tuần đi
nghỉ hè và cầu nguyện với nhau.
Một linh đạo xây dựng
cộng đoàn
Đối sách tốt nhất cho mối nguy hiểm của sự
cô độc là một linh đạo hướng nội dựa trên giáo huấn vững chắc
của Thánh Gioan Tác Giả Tin Mừng và Thánh Phao-lô – “Đức Kitô ở
trong chúng ta, chúng ta ở trong Đức Kitô.” Nếu hiểu đúng,
nhãn quan linh đạo này không dính dáng gì tới chủ nghĩa
thoát ly thực tế. Cảm nghiệm Đức Kitô ở trong mình một cách sâu
sắc, điều đó sẽ mở ra một chân trời kỳ diệu cho một tình bạn mở
rộng ra với tất cả. Đức Kitô, Đấng ở trong tôi, yêu tôi và
được tôi yêu, sẽ giúp tôi có thể tháp nhập với Ngài trong
tình yêu của Ngài đối với tất cả anh chị em tôi. Tình yêu và
lòng quan tâm của tôi dành cho họ chính là tình yêu của Đức Kitô
trong và xuyên qua tôi. Và đến lượt họ, sự đáp trả đầy yêu
thương của họ là một phần của chính tình yêu Đức Kitô đối với
tôi và đối với họ.
Thật rõ, mầu nhiệm thâm sâu này là một cái
gì lớn lao ngàn trùng - chứ đây không duy chỉ là vấn đề liệu
pháp chống lại nỗi cô độc. Tuy nhiên, mối nguy hiểm thật sự của
cô độc tự nó cũng đủ giúp chúng ta khám phá ra và nếm cảm những
tinh túy của một linh đạo Thánh Thể. Các vị chủ tọa tại các buổi
cử hành Thánh Thể cần phải thực hiện được cuộc khám phá và cảm
nếm này. Cũng rất cần thiết việc họ phải mời gọi những người
tham dự tự khám phá ra ý nghĩa ấy trong linh đạo xây dựng cộng
đoàn, một linh đạo luôn luôn tiên vàn được thúc đẩy bởi Thánh
Thần, Đấng đưa dẫn ta vào mầu nhiệm Thánh Thể kỳ diệu. Như thế,
độc thân không được cảm nhận như một hình thức tách ly khỏi các
tín hữu. Trái lại, độc thân - được thể hiện như “sự sống trong
Đức Kitô” và “tình yêu trong Đức Kitô” - chính là chóp đỉnh và
trung tâm của đời sống độc thân linh mục.
Sự mật thiết tuyệt diệu này của sự sống
trong Đức Kitô là phản đề hoàn toàn đối với tinh thần cá nhân
chủ nghĩa. Ở đây không chỉ những gọng cùm của cá nhân chủ nghĩa
bị tiêu diệt, mà mọi khả năng phát triển các mối quan hệ phong
phú, như được diễn tả trong lời nguyện Abba tại bữa Tiệc Ly, sẽ
được thiết lập lại. Sự sống mật thiết ngày càng hơn trong lời
nguyện Abba là một kinh nghiệm về Ba Ngôi Thiên Chúa và là một
kinh nghiệm có sức xây dựng những nhịp cầu trong nhân loại đã
được cứu độ. Chính Đức Giêsu, Đấng Cứu Chuộc của thế giới và là
Con Thiên Chúa, Đấng nhờ quyền năng của Thánh Thần, đang thưa
lên lời Abba nơi chúng ta – lời Abba ấy sẽ đồng thời vang âm
thành Abbuni (Lạy Cha chúng con). Vâng, Cha là Cha của Chúa
Giêsu, và là Cha của chúng ta hết thảy.
Cảm nghiệm về sự mật thiết theo mẫu thức Ba
Ngôi này sẽ khai phá mọi chân trời của sự liên đới có sức cứu
độ, của cộng đoàn ơn cứu độ, của tình huynh đệ, và của tất cả.
Trong sự mật thiết đó, chúng ta sẽ biết nhìn nhận và kính trọng
nhau như là các con trai con gái của một Cha chung. Chúng ta
cũng nhận ra và trân trọng tiếng gọi mời chúng ta cùng chia sẻ
và cùng trách nhiệm đối với mọi sự sống thụ tạo. Sức mạnh của
mối liên đới này tùy thuộc vào chiều sâu của sự mật thiết giữa
chúng ta. Từ nhận thức đó, chúng ta thấy rõ ràng các tín hữu
được ủy thác cho mình săn sóc mục vụ không bao giờ là đối tượng
(object) của sứ vụ linh mục. Đúng hơn, chúng ta là một
người ở giữa dân chúng, đón nhận từ họ nhiều không kém
chi trao tặng cho họ. Như vậy, ở đây không có chỗ cho sự tách
biệt “ta” và “họ”. Cùng với nhau, trong tư cách là những chủ
thể, tất cả đồng hành trên con đường với, trong, và hướng về Đức
Kitô, Đấng là xuất phát điểm và là kết điểm của hành trình chúng
ta.
còn tiếp |
VỀ MỤC LỤC |
|
ĐỐI THOẠI VỚI CỘNG
SẢN TRUNG QUỐC |
MẶC
GIAO
Ngày 30-06-2007, Đức Giáo
Hoàng Bênêđictô XVI đã gửi cho tín hữu Công Giáo Trung Hoa một
thư khá dài để nói lên sự quan tâm và lòng yêu thương của Ngài,
đồng thời khẳng định những nguyên tắc và giải pháp nhằm hiệp
nhất Giáo Hội Trung Quốc. Tôi không làm công việc tường thuật và
bình luận về lá thư của Đức Thánh Cha. Việc này có nhiều người
làm hay hơn tôi. Tôi chỉ xin nêu một số điểm trong lá thư có thể
coi như những bài học để suy nghĩ và áp dụng, chẳng những cho
Giáo Hội Trung Quốc mà còn cho Giáo Hội Việt Nam.
Trước hết, về sự liên hệ giữa
Giáo Hội và quyền lực chính trị, tức nhà nước, Đức Giáo Hoàng
nhắc lại những nguyên tắc đã được công bố trong Công Đồng
Vatican II qua Hiến Chế Gaudium et Spes: “Vì vai trò và quyền
hạn của mình, Giáo Hội không thể đồng hóa với bất cứ cộng
đồng chính trị nào, cũng không thể gắn bó với bất cứ một hệ
thống chính trị nào. Giáo Hội là chỉ dấu và là người bảo vệ
chiều kích siêu nhiên của nhân loại... Cộng đồng chính trị và
Giáo Hội tự lập và độc lập với nhau trong những lãnh vực riêng
của mình”.
Về nhiệm vụ xây dựng xã hội,
“Giáo Hội không thể và không phải thay thế nhà nước. Nhưng
đồng thời Giáo Hội cũng không thể và không phải đứng ở bên lề
của cuộc đấu tranh cho công lý. Giáo Hội phải đóng góp phần mình
trong việc đưa ra luận cứ hữu lý và làm thức tỉnh năng lực tinh
thần mà nếu thiếu, công lý luôn đòi hỏi sự hy sinh, sẽ không thể
thắng thế và triển nở ” (Gaudium et Spes , 76).
Đức Giáo Hoàng tóm kết phần
này như sau: “Dưới ánh sáng của những nguyên tắc không thể
chối bỏ này, giải pháp cho những vấn đề hiện hữu không thể được
theo đuổi bằng việc tranh chấp với chính quyền dân sự hợp pháp,
đồng thời, qua việc tùng phục chính quyền đó, cũng không thể
chấp nhận việc chính quyền can thiệp vô lý vào những vấn đề liên
quan đến đức tin và kỷ luật của Giáo Hội. Chính quyền dân sự cần
hiểu rõ rằng Giáo Hội, trong giáo huấn của mình, luôn mời gọi
các tín hữu trở thành những công dân tốt, tôn trọng và đóng góp
tích cực vào thiện ích chung của đất nước, nhưng cũng cần phải
nói rõ rằng Giáo Hội đòi hỏi nhà nước phải bảo đảm cho những
người công dân Công Giáo được thực thi đầy đủ đức tin của họ,
với sự tôn trọng quyền tự do tôn giáo chân chính”.
Chỉ với vài trích đoạn trên
đây, chúng ta đã nhìn thấy đường lối và chính sách rõ rệt của
Giáo Hội trong trong vấn đề tương quan cộng tác giữa Giáo Hội và
nhà nước, có thể được tóm tắt trong vài câu ngắn gọn:
-
Giáo Hội và nhà nước
là những thực thể riêng biệt và độc lập
-
Giáo Hội không gắn bó
cũng không chống đối một chính quyền nào
-
Giáo Hội không làm
giùm chính quyền nhưng không đứng ngoài cuộc tranh đấu cho công
lý
-
Giáo dân phải là những
công dân tốt nhưng dứt khoát phải đòi hỏi nhà nước không can
thiệp vào những vấn đề nội bộ của Giáo Hội, tôn trọng quyền hành
đạo và tự do tôn giáo đích thực.
Về việc bổ nhiệm các giám mục
tại quốc gia công sản, Đức Giáo Hoàng viết: “Như anh em đều
biết, vấn đề tế nhị nhất trong sự giao hảo giữa Tòa Thánh và
chính quyền của quê hương anh em là việc bổ nhiệm hàng giáo
phẩm. Một mặt có thể hiểu đươc rằng chính quyền rất quan tâm tới
việc lựa chọn những người sẽ hành xử một vai trò quan trọng
trong việc lãnh đạo và chăn dắt đoàn chiên của những cộng đoàn
Công Giáo địa phương... Mặt khác, Tòa Thánh thực hiện việc bổ
nhiện các giám mục một cách thận trọng đặc biệt vì việc này đụng
tới đúng tâm huyệt của Giáo Hội, quan trọng tới nỗi việc Giáo
Hoàng bổ nhiệm các giám mục là sự bảo đảm cho sự hiệp nhất của
Giáo Hội và sự hiệp thông của hàng giáo phẩm. Vì lý do đó, Giáo
Luật (Điều 1382) đã quy định những chế tài nặng nề cả cho giám
mục dám tự ý tấn phong không có ủy nhiệm của Giáo Hoàng lẫn
người nhận chức vị được phong. Việc truyền chức như thế thực sự
gây thương tích đau đớn cho sự hiệp thông của hàng giáo phẩm và
tạo nên một vi phạm trầm trọng kỷ luật được quy định”.
Trong khi cứng rắn về nguyên
tắc như thế, Đức Giáo Hoàng lại tỏ ra nhân từ và khoan dung với
những giám mục của Giáo Hội Ái Quốc (quốc doanh) Trung Hoa:
“Cuối cùng, có một số giám
mục, một số rất ít, đã được tấn phong không có sự chấp thuận của
Giáo Hoàng, họ cũng không xin hoặc chưa xin được chịu chức. Theo
tín lý của Giáo Hội Công Giáo, họ bị coi như bất hợp lệ, nhưng
đã được truyền chức một cách có giá trị chừng nào được xác nhận
rằng họ được truyền chức bởi những giám mục đã được tấn phong
hợp pháp và nghi thức Công Giáo của việc phong chức giám mục
được tôn trọng. Do đó, dù không hiệp thông với Giáo Hoàng, họ
vẫn thực thi sứ vụ một cách có giá trị trong việc ban các phép
bí tích, dù rằng họ làm việc này một cách bất hợp lệ. Sự phong
phú thiêng liêng sẽ to lớn biết bao cho Giáo Hội Trung Quốc nếu,
những điều kiện cần thiết được hội đủ, những vị mục tử này cũng
sẽ tham gia hiệp thông với người kế vị Thánh Phêrô và với toàn
thể hàng giáo phẩm Công Giáo”
Đức Giáo Hoàng đã tỏ thiện
chí và thái độ cởi mở để mời gọi và mở đường cho hàng giáo phẩm
Giáo Hội Ái Quốc trở về với đại gia đình Giáo Hội chính truyền,
đồng thời không là bẽ mặt chính quyền Trung Quốc bằng việc tiếp
đón trong tình thương yêu và hòa giải những chức sắc tôn giáo do
họ dựng nên. Dù vậy, chính quyền Trung Quốc vẫn muốn kiểm soát
hoàn toàn giáo hội Công Giáo trong nước. Theo Đức Hồng Y Joseph
Zen của Hồng Kông, những thành viên của của Hiệp Hội Công Giáo
Ái Quốc trong lòng vẫn hiệp thông với Tòa Thánh, nhưng chính phủ
không cho họ tự do. Đức Hồng Y cho biết, phó chủ tịch Công Giáo
Ái Quốc Liu Bai Nian là người có toàn quyền trong cơ chế này,
các giám mục chẳng là gì cả. Chính ông này là người đứng đằng
sau những vụ truyền chức giám mục bất hợp pháp.
Ngay trong ngày công bố thư
của Đức Giáo Hoàng gửi tín hữu Công Giáo Trung Quốc, Bộ Ngoại
Giao Trung Quốc ra thông cáo có nội dung phản bác thiện chí của
Đức Giáo Hoàng, khuyên Tòa Thánh không nên gây thêm những trở
ngại cho việc tiến tới bang giao, đưa điều kiện bang giao đòi
Tòa Thánh phải
1/ Cắt đứt liên lạc
ngoại giao với Đài Loan,
2/ Không can thiệp vào
việc nội bộ của Trung Quốc
Phát ngôn viên Qin của Bộ
Ngoại Giao phát biểu theo cung cách lưỡi gỗ: “Trung Quốc hy
vọng Vatican nhìn nhận sự việc rằng người Trung Quốc đang phấn
khởi với tự do tín ngưỡng, còn tình hình giáo dân Công Giáo đã
được cải thiện dưới nhiều quan điểm”. Đúng là cùng thầy, cùng
trường. Trung cộng và Việt cộng nói không khác nhau chút
nào. Việc chính phủ Trung Quốc cử hai nhân viên Bộ Ngoại Giao và
Tôn Giáo Vụ đến gặp Đức Hồng Y Phạm Minh Mẫn vào tháng 3 chắc
chỉ để thăm dò lập trường của Tòa Thánh khi biết Tòa Thánh đang
soạn thư gửi tín hữu Trung Hoa. Sứ mạng trung gian của Đức Hồng
Y qủa là gian truân. Dù Tòa Thánh có cởi mở và mềm dẻo cách mấy,
cộng sản vẫn giữ vững nguyên tắc kiểm soát mọi sự trong xã hội,
nhất là tôn giáo, vì tôn giáo có lòng tin và có tổ chức. Cộng
sản có thể thả lỏng một số biện pháp bề ngoài, nhưng căn bản vẫn
là nắm chặt mọi đường dây chỉ huy trong bàn tay duy nhất của
đảng. Tòa Thánh cũng đâu có dại để rơi vào bẫy “thả mồi bắt
bóng”. Đừng quên vị Giáo Hoàng đương nhiệm là “một ông già gân
thứ dữ”, dám nói thẳng làm thật, lại thêm kinh nghiệm đóng vai
số hai tại Vatican trên hai chục năm, đâu có ngán đối đầu với sự
dữ và với mọi tình huống khó khăn.
MẶC GIAO
LTS.
Dưới đây là một số ý kiến cũng của tác giả Mặc Giao dành cho
GHVN. Và BBT xin được lược ghi, nghĩa là chỉ giữ lại những ý
chính và quan trọng, ngoài ra BBT không tự ý thêm vào bất cứ
điều gì.
CHUYỂN MÌNH HAY CHỈ MỚI
NHÚC NHÍCH?
Dấu hiệu nhúc nhích được khởi đầu bằng một
bản tin đăng trong điện báo "Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam" số 44
ngày 28-06-2007, theo đó Ban Thường Vụ (mở rộng) của Hội Đồng
Giám Mục VN đã họp ngày 20 tháng 6 vừa qua tại Sài Gòn, dưới sự
chủ toạ của Đức Cha Nguyễn Văn Hòa, Chủ Tịch Hội Đồng, với sự có
mặt của Đức Hồng Y Phạm Minh Mẫn (Sài Gòn), Đức Tổng Giám Mục
Ngô Quang Kiệt (Hà Nội), cùng 11 giám mục khác và hai linh mục
thơ ký Nguyễn Ngọc Sơn và Phan Xuân Thanh. Mục đích chính của
buổi họp là bàn về chương trình nghị sự và những chuẩn bị cho
Đại Hội thường niên của Hội Đồng Giám Mục vào tháng 10 sắp tới.
Trong số những quyết định được đưa ra trong phiên họp này, có
một số điều đáng được ghi nhận sau đây (người viết tự ý đánh số
để dễ thảo luận):
1. Tìm
một phát ngôn viên chính thức của Hội Đồng Giám Mục nhằm tăng
cường cho văn phòng Tổng Thơ Ký,
2. Ủy
Ban Bác Ái Xã Hội theo dõi các hoạt động thời sự, tình hình xã
hội để giúp cho Hội Đồng Giám Mục có thể lên tiếng trước những
vấn đề xã hội,
3. Ban
Thường Vụ cũng bàn về một số vấn đề khác: vấn đề cha Nguyễn Văn
Lý, lập các chương trình kế hoạch đào tạo cho chủng sinh, các
thành phần dân Chúa tham dự trong những hội nghị của Hội Đồng
Giám Mục, vấn đề truyền giáo và giúp đỡ đồng bào dân tộc thiểu
số.
Về điểm 1, Khi Hội Đồng muốn kiếm phát ngôn
viên chính thức có nghiã Hôi Đồng đã quyết định lên tiếng nhiều
hơn trước.
Điểm 2, Hội Đồng giao công tác theo dõi và
lên tiếng về thời sự và xã hội cho một ủy ban, việc chưa từng có
từ trước tới nay. Có người thắc mắc tại sao chỉ có thời sự và xã
hội, còn những vấn đề khác như tôn giáo, nhân quyền, chính trị
thì sao? ...
Điểm 3, Lần đầu tiên Hội Đồng đặt vấn đề
thảo luận vụ cha Nguyễn Văn Lý, Điều lạ khác là dự tính cho giáo
dân tham gia những hội nghị của Hội Đồng Giám Mục. Có lẽ Hội
Đồng muốn chứng tỏ thiện chí lắng nghe quan điểm và tiếng nói
của giáo dân. Ngay Công Đồng Vatican II cũng có nhiều giáo dân
được mời làm cố vấn hay chuyên viên. Vấn đề là muốn giáo dân
tham gia thật tình hay chỉ làm một cử chỉ đẹp để vỗ về? Giáo dân
được mời tham dự là những ai, được tuyển chọn như thế nào? Mong
rằng không phải toàn những người thuộc loại "con xin phép (được)
lậy cha". Hội Đồng cũng nhắc tới vấn đề truyền giáo và giúp đỡ
đồng bào dân tộc thiểu số. Phải chăng đã đến lúc cần có những
biện pháp nhường cơm xẻ áo cho những anh chị em nghèo đủ thứ,
chấm dứt cảnh xây cất "hoành tráng", xa hoa lãng phí tại những
nơi có nhiều nguồn lợi từ trong và ngoài nước, nhắm mắt làm ngơ
trước sự thiếu thốn và những nhu cầu khẩn thiết của chính anh
chị em mình ở những nơi khác?
Những quyết định trên
đây đã gây niềm hy vọng. Mong sao niềm hy vọng đó được trở thành
hiện thực.
......
Một việc hy hữu nữa là Đức Hồng Y Phạm Minh
Mẫn cho phổ biến một thư đề ngày 10-07-2007 than phiền giới
truyền thông trong nước đã "chí ít" bốn lần loan báo sai lạc về
những hành động và lời nói của ngài và của Đức Cha Hòa, khiến
ngài phải rút ra hậu qủa: "Những kinh nghiệm đó dần dần biến
nhiều người thành Tào Tháo, thường xuyên sống trong đa nghi và
nghi kỵ lẫn nhau".
...
Nếu tuân theo giáo huấn của Giáo Hội, đặc
biệt theo Hiến Chế Lumen Gentium của Công Đồng Vatican II,
Chương IV về vai trò của giáo dân, ta thấy giáo dân được quyền
chia sẻ phần vụ xây dựng Giáo Hội với hàng giáo phẩm (LG, IV,
30) và hàng giáo phẩm "phải sẵn lòng xử dụng lời khuyên của giáo
dân" (LG, IV, 37)
....
Qua những sự việc kể trên, chúng ta nhận
thấy những lời lên tiếng của giáo dân hải ngoại đã được đáp ứng
một phần, đã tạo dịp cho một số người có trách nhiệm đặt lại vấn
đề thái độ và lương tâm. Hy vọng đây chỉ là những bước mở đầu.
Giáo Hội VN phải chuyển mình, không thể chỉ nhúc nhích để gọi là
có cử động. Chuyển mình để tìm lại mình, để đổi mới, để tiến về
phiá trước, để đưa tay nối kết với cộng đoàn dân Chúa khắp nơi,
từ trong ra ngoài nước, để tạo tình đoàn kết và sức mạnh xây
dựng Giáo Hội và quê hương. Chúng ta không tuyên chiến với ai,
nhưng không sợ hãi trước những đe dọa của những thế lực bất
chánh. Một số quyền lợi và tiện nghi có thể mất đi, nhưng sự đền
bù sẽ to lớn gấp bội. |
VỀ MỤC LỤC |
|
Nước, lửa và sự chia rẽ |
(Lc
12, 49-53)
Hành trình lên Giêrusalem của
Chúa Giêsu quả là một cuộc phiêu lưu và mạo hiểm. Chính vì thế, Chúa
Giêsu đã không ngần ngại đề cập đến những thử thách, những nguy cơ
và số phận của những ai mạo hiểm bước theo Người. Rồi đây những ai
bước theo Chúa Giêsu không thể không bước qua những gian nan khốn
khổ, những bách hại như Người đã đi qua…
Tâm sự với các môn đệ, Chúa Giêsu
thao thức về ngọn lửa mà Người đem đến thế gian phải chi đã bùng lên
để kiện toàn thế nhân. Chúa Giêsu muốn tâm sự với các môn đệ về ngọn
lửa nào đây?
Rất có thể đây là ngọn lửa phán
xét của Thiên Chúa công minh chính trực. Kinh thánh nói nhiều đến sự
hiện diện của Đấng sẽ đến xét xử trần gian là Đức Kytô. Thật thế,
trọn đời sống cùng với những giáo huấn của mình, Chúa Giêsu đã “ném”
vào thế gian ngọn lửa vạch trần những mưu mô thâm độc của ác thần,
những áp bức bất công, những mâu thuẫn xảy ra trong đời sống con
người. Tất cả những điều ấy như những tiếng chuông cảnh tỉnh lòng
người, giúp họ sớm quay về nẻo chính đường ngay mà phụng sự Thiên
Chúa.
Ngọn lửa đó cũng có thể là ngọn
lửa của tình yêu Thiên Chúa. Thiên Chúa là tình yêu. Và Người hằng
tha thiết mong chờ con người đáp lại tình yêu đó bằng ngọn lửa nồng
cháy. Ngọn lửa tình yêu đó chính là đời sống đức tin, đời sống chứng
nhân Tin mừng. Thiên Chúa ước mong ngọn lửa tình yêu đó ngày một
cháy lên trong tâm hồn mọi tín hữu để danh Chúa được hiển vinh.
Sau hết, đó cũng là ngọn lửa của
Thần Khí Thiên Chúa đến hâm nóng Giáo hội trong ngày lễ Ngũ Tuần.
Thật thế, Hội thánh Chúa khai sinh trong ngày Chúa Thánh Thần hiện
xuống- ngày mà các môn đệ đón nhận Chúa Thánh Thần dưới hình lưỡi
lửa ngự xuống trên đầu các ông. Nhờ ngọn lửa này, Giáo hội Chúa ngày
một lan rộng khắp hoàn cầu và sẽ còn lan rộng mãi cho đến ngày Chúa
lại đến.
Liền sau đó, Chúa Giêsu nói đến
phép rửa mà Người sắp phải chịu. Hành trình lên Giêrusalem của Chúa
chính là để lãnh nhận phép rửa này. Phép rửa đó chính là giờ phút
Người sẽ trải qua trong giờ tử đạo. Đồng thời, phép rửa này cũng là
cuộc vượt qua không chỉ cho Chúa Giêsu mà còn cho các môn đệ cũng
như cho hết những ai bước theo Người. Những ai theo Chúa trong đức
tin không thể không uống chén đắng mà Chúa sẽ uống và chịu phép rửa
mà Người sẽ phải chịu trong ngày khổ nạn. Như thế đã rõ, những gì
Chúa Giêsu phải trải qua trong sứ vụ của Người, đến lượt những ai
tiếp bước theo Người, cũng sẽ trải qua những thử thách như thế trên
lộ trình họ sẽ bước qua.
Sau hết, Chúa Giêsu đề cập đến sự
“chia rẽ” mà Người sẽ mang đến cho trần gian. Điều xem có vẻ nghịch
lý trong câu nói của Chúa Giêsu nhưng lại là chân lý cho những ai
chấp nhận giáo huấn và bước theo đời sống của Người. Thật vậy, bình
an mà Chúa Giêsu nói đến không phải là thứ bình an dễ dãi theo kiểu
trần thế mà các ngôn sứ giả không ngừng loan báo. Đó là bình an của
nước Thiên Chúa và con người chỉ có thể đạt đến thông qua khổ giá.
Con người được kêu mời lựa chọn thái độ sống của mình đối với Chúa
Kytô. Họ có thể bước theo hoặc chống lại đường lối của Chúa. Và, sự
lựa chọn này chắc chắn sẽ gây ra sự chia rẽ ngay trong chính gia
đình, trong mỗi cộng đoàn. Ngay chính con người và giáo huấn của
Chúa Giêsu cũng trở thành “cớ” gây nên sự chia rẽ và xáo trộn. Thật
thế, nếu lời giáo huấn của Chúa làm cho nhiều người tội lỗi tin theo
thì bao nhiêu ông Pharisêu lại ra sức chống đối Người bấy nhiêu; lời
giảng của Người về vấn đề giàu nghèo, công bình xã hội được giới bần
nông ủng hộ bao nhiêu thì các phú hộ giàu có lại nổi giận, xa lánh
Người bấy nhiêu. Hơn ai hết, các môn đệ cũng như Giáo hội tiên khởi
đã nếm trải kinh nghiệm này khi họ từ bỏ Dothái giáo để bước theo
Chúa Kytô, họ đã bị gia đình, bạn bè, láng giềng thù ghét thoá mạ.
Chắc một điều, vì Chúa Kytô, Giáo hội Chúa vẫn còn và sẽ mãi còn
những kiểu “chia rẽ” như vậy.
Khi cổ võ cho hoà bình và công
lý, khi cố gắng để xây dựng bình an đích thực trong trái tim con
người, môn đệ Chúa Kytô có thể sẽ bị thế gian thù ghét và gán cho
tội danh là kẻ phản nghịch. Nhưng chúng ta hãy an tâm và tin tưởng.
Vì chính sự thù ghét của thế gian lại là phần thưởng nước trời cao
quý nhất mà Chúa muốn ban tặng cho chúng ta trong đời sống mai sau.
Lm. Jos. Phạm Ngọc Ngôn, Csjb
|
VỀ MỤC LỤC |
|
TÌNH YÊU KHÔNG NGHĨ ĐIỀU XẤU |
(Tác Phẩm
13 Nét Mặt Tình Yêu)
Lm. Micae-Phaolo Trần
Minh Huy chuyển ngữ
Chương Chín
TÌNH YÊU KHÔNG NGHĨ ĐIỀU XẤU
1. Tình yêu là từ tâm :
Sự từ tâm mà thánh Phaolô liệt kê trong Gal 5,22 là một hoa quả
tốt đẹp của Thánh Thần :
"Còn hoa quả của Thánh Thần là bác ái, hoan lạc, bình
an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ.
Không có luật nào chống lại những điều như thế" (Gal 5,22).
Tất cả chúng ta đều có lúc gặp được những con người mà tấm lòng
thực sự là từ tâm, khoan dung. Họ luôn luôn tìm thấy nơi ông nầy
bà nọ mà chúng ta thấy cách thiên lệch những đức tính tiềm ẩn
vụt khỏi chúng ta. Họ nhìn thấy điều tốt ... và chỉ nổ lực để
nhấn mạnh hơn rằng chúng ta đã muốn thấy điều xấu trước hết.
Tình yêu của Thiên Chúa là từ tâm. Ngay từ đầu thư gởi Tín hữu
Êphêsô, thánh Phaolô đã :
"Chúc tụng Thiên Chúa là Thân phụ Đức Giêsu Kitô
Chúa chúng ta. Người đã thi ân giáng phúc cho chúng ta hưởng
muôn vàn ơn phúc của Chúa Thánh Thần... Người cho ta được biết
thiên ý nhiệm mầu : thiên ý nầy là kế hoạch yêu thương Người đã
định từ trước trong Đức Kitô. Đó là đưa thời gian tới hồi viên
mãn là qui tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh
là Đức Kitô" (Ep 1,3.9-10).
Niềm vui của chúng ta là để mình bị tình yêu từ tâm nầy bắt lấy,
đưa vào trong những kế hoạch khoan dung của Thiên Chúa và cộng
tác vào đó với tất cả sự dấn thân tự do của chúng ta. Thánh
Phaolô viết cho tín hữu Philipphê :
"Ấy vậy, là những người luôn vâng phục, khi tôi có mặt
cũng như nay vắng mặt, anh em hãy biết run sợ mà gắng sức lo sao
cho mình được cứu độ. Vì chính Thiên Chúa tác động đến ý chí
cũng như hành động của anh em do lòng yêu thương của Người. Anh
em hãy làm mọi việc mà đừng kêu ca hay phản kháng" (Phil
2,12-14).
Vậy chúng ta không ngạc nhiên thấy thánh Phaolô đặt sự từ tâm
vào đúng chỗ những hoa trái của Thánh Thần mà các môn đệ Chúa
Kitô phải biểu lộ ra. Chính vì thế Ngài viết cho Titô, người đại
diện trung tín của Ngài :
"Anh hãy nhắc nhở cho ai nấy phải phục tùng và tuân
lệnh các nhà chức trách, các người cầm quyền, phải sẵn sàng làm
mọi việc tốt và đừng chửi bới ai, đừng hiếu chiến, nhưng phải
hiền hòa, luôn luôn tỏ lòng nhân từ với mọi người. Thật vậy, cả
chúng ta nữa, xưa kia chúng ta cũng ngu xuẩn, không vâng lời,
lầm lạc, làm nô lệ cho đủ thứ đam mê và khoái lạc, sống trong
gian ác và ghen tị, đáng ghét và ghen ghét lẫn nhau" (Tt 3,1-3).
"Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa,
hiến thánh và yêu thương. Vì thế, anh em hãy có lòng thương cảm,
nhân hậu, khiêm nhu, hiền hòa và nhẫn nại" (Col 3,12).
"Lòng từ tâm là một thứ khởi đầu thuận lợi trong tương
quan với những ai chúng ta gặp gỡ, trong mọi hoàn cảnh chúng ta
sống. Do đó chúng ta phải học biết "đón nhận những lời nói và
hành động của tha nhân đúng như chúng đang diễn ra, không tìm
cắt nghĩa khác đi, nhưng với một thứ thông đạt ngây thơ loại bỏ
nghi ngờ, song phục hồi được lòng tín nhiệm trong sáng"[1]
2. Tình yêu không đoán xét :
Chúa Giêsu đòi hỏi cách rõ ràng đừng xét đoán :
"Anh em đừng xét đoán để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán,
vì anh em xét đoán thế nào thì anh em cũng sẽ bị Thiên Chúa xét
đoán như vậy; và anh em đong bằng đấu nào thì Thiên Chúa cũng sẽ
đong bằng đấu ấy cho anh em. Sao anh em thấy cái rác trong mắt
của người anh em mà cái xà trong mắt mình thì lại không để ý tới
?... Hỡi kẻ đạo đức giả, hãy lấy cái xà khỏi mắt mình trước đã,
rồi anh sẽ thấy rõ, để lấy cái rác ra khỏi mắt của người anh em"
(Mt 7,1-5).
Chính Chúa Giêsu đã không kết án ai cả (x. Jn 8, 2-12 nói về
người đàn bà ngoại tình). Ngài báo trước cho chúng ta :
"Anh em hãy có lòng nhân từ như Cha anh em là Đấng
nhân từ. Anh em đừng xét đoán thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa
xét đoán. Anh em đừng lên án thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án.
Anh em hãy tha thứ thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha. Anh em hãy
cho thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người sẽ đong cho anh em đấu
đủ lượng, đã dằn đã lắc và đầy tràn mà đổ vào vạt áo anh em, vì
anh em đong bằng đấu nào thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh rm
bằng đấu ấy" (Lc 6, 36-38).
Thánh Phaolô nhấn mạnh yêu sách nầy một cách cũng rất cương
quyết :
"Dù bạn là ai đi nữa mà bạm xét đoán thì bạn cũng
không thể tự bào chữa được. Vì khi bạn xét đoán người khác mà
bạn cũng làm như họ thì bạn tự kết án chính mình"
(Rm 2, 1).
Những lời nói xấu mà chúng ta có thể tung ra lẫn cho nhau đối
với Chúa Giêsu cũng nghiêm trọng như là giết chết lẫn nhau vậy :
thứ bạo lực nầy đòi hỏi phải được hòa giải trước khi tiến lại
gần Chúa :
"Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng 'chớ giết
người', ai giết người thì đáng bị đưa ra tòa. Còn Thầy, Thầy bảo
cho anh em biết : Ai giận anh em mình thì đáng bị đưa ra tòa. Ai
mắng anh em mình là đồ ngốc thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội
Đồng. Còn ai chửi anh em là quân phản đạo thì đáng bị lửa hỏa
ngục thiêu đốt. Vậy nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ,
mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì
hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hòa với người anh em
ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình" (Mt 5, 21-24).
Thánh Giacôbê trong thư của ngài đã nói toạc ra về cái lưỡi đầy
nọc độc chết người : "Anh em đừng nói xấu
nhau. Ai nói xấu hoặc xét đoán anh em mình là nói xấu và xét
đoán Lề Luật. Nếu anh xét đoán Lề Luật thì anh không còn là kẻ
vâng giữ mà là kẻ xét đoán Lề Luật. Chỉ có một Đấng ra Lề Luật
và xét xử, đó là Đấng có quyền cứu thoát và tiêu diệt. Còn anh
là ai mà dám xét đoán người thân cận ?" (Jc 4,11-12).
Chúng ta thấy được con đường còn phải trải qua... Ngay từ cảm
tưởng tức thời mà đã rút ra lời phán quyết chung cục là một lỗi
nặng. Việc đó giam chặt tha nhân trong một thái độ không có gì
là bền vững. Chúng ta cần phải từ chối "dán nhãn hiệu" cho người
khác và phải luôn canh chừng để cho tương lai được luôn rộng
mở... Không những tình yêu không giải thích về phía xấu, mà còn
phải luôn luôn giải thích về phí tích cực nhất.
Chị Céline của Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu thuật lại rằng :
"Têrêsa thường nói với tôi rằng chúng ta phải luôn luôn
phán đoán tha nhân với lòng bác ái, bởi vì rất thường xảy ra là
cái gì xem ra cẩu thả nơi mắt chúng ta thì lại là anh hùng nơi
mắt Chúa. Một người đang mệt mỏi, bị nhức đầu hay phải khổ đau
trong tâm hồn, chỉ hoàn thành được một nửa công việc lại làm
nhiều hơn một người khác, đang được tráng kiện thể xác và tinh
thần minh mẫn, làm trọn vẹn cả công việc. Vậy trong mọi trường
hợp, xét đoán của chúng ta phải thuận lợi cho tha nhân. Phải
luôn luôn nghĩ tới điều tốt, phải luôn luôn biện giải cho người"
(CSG, 107).
3. Tình yêu tha thứ :
Bản dịch động từ thánh Phaolô dùng cho ta có hai hướng suy nghĩ
:
·
Thứ nhất : Tình yêu không nghĩ đến điều xấu, không
giải thích về phía xấu.
·
Thứ hai : Tình yêu không để ý đến điều xấu, không
duy trì mối hiềm thù, không dừng lại ở điều xấu, không để ý đến
điều xấu đã phải chịu đựng.
Thái độ độc đáo của tình yêu là thái độ đã trao ban ngay từ đầu
bài ca bác ái: lòng hào hiệp. Tình yêu có con tim cao thượng :
nó không hề tính đếm những xúc phạm người ta đã làm cho nó. Chúa
Giêsu đã có lời dạy rất rõ ràng về đề tài nầy :
"Nếu người anh em của anh xúc phạm đến anh thì anh
hãy khiển trách nó, nếu nó hối hận thì hãy tha cho nó. Dù nó xúc
phạm đến anh một ngày đến bảy lần, rồi bảy lần nó trở lại nói
với anh : 'Tôi hối hận' thì anh cũng phải tha cho nó" (Lc 17,
3-4).
Cũng chính yêu sách nầy đã được đặt ra cho Phêrô khi ông hỏi
Chúa Giêsu :
"Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con thì
con phải tha đến mấy lần ? Có phải đến bảy lần không ? Chúa
Giêsu đáp : 'Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy
mươi lần bảy'" (Mt 18,21-22).
Giữ mãi trong ký ức điều xấu đã phải gánh chịu, cảm nhận nó dù
mình không muốn, không ngừng trách móc cùng những chuyện ấy bởi
vài lời châm chọc cố ý... đó là một thái độ có thể xuất phát từ
một vết thương nội tâm, nhưng cũng có thể do một sự thiếu tha
thứ, hay nói một cách khác là bởi một mối hiềm khích dai dẳng,
dù không muốn thú nhận ra như thế.
"Cộng đoàn là nơi của tha thứ. Bất chấp tất cả sự tín
nhiệm người ta có thể có đối với nhau, vẫn luôn luôn có những
lời nói gây thương tổn, những thái độ kẻ cả, những hoàn cảnh
đáng ngờ vực. Chính vì thế, việc sống chung bao hàm một thứ
thánh giá nào đó, một sự cố gắng liên lĩ và một sự chấp nhận tha
thứ cho nhau mỗi ngày. Thánh Phaolô đã nói : 'Anh em là những
người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương. Vì
thế, anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền
hòa và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong
anh em người nầy có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã
tha thứ cho anh em thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho
nhau'" (Col 3, 12-13).
"Một trong những tội lớn nhất trong một cộng đoàn có lẽ
là một hình thức của buồn phiền và ủ ê. Người ta dễ dàng đóng
khung trong mấy người bạn để chỉ trích kẻ khác, nói rằng 'chán
ngấy rồi', 'mọi thứ đều tồi tệ', 'không còn như trước nữa'.
Trạng thái tinh thần nầy là một thứ ung nhọt thực sự có thể lây
lan ra toàn cơ thể"[1]
Chính vì thế, tất cả những khuyến cáo của thánh Phaolô đều hữu
ích cho sự hoán cải các thái độ xã hội của chúng ta. Ngài nói
với chúng ta như thế nầy :
"Anh em phải đối xử tốt với nhau, phải có lòng thương
xót và biết tha thứ cho nhau, như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh
em trong Đức Kitô" (Ep 4,32).
Có người sẽ bảo "tôi không nhận thấy mình có kẻ thù...". Nhưng
rõ ràng khi Chúa Giêsu truyền lệnh yêu thương kẻ thù thì Ngài
muốn nói đến những người chung quanh chúng ta mà chúng ta biến
thành kẻ thù vì đã
dửng dưng với họ...
"Anh em hãy yêu thương kẻ thù, hãy làm ơn và cho vay
mà chẳng hy vọng được đền trả. Như vậy, phần thưởng dành cho anh
em sẽ lớn lao, và anh em sẽ là con Đấng Tối Cao, vì Người vẫn
nhân hậu với cả phường vô ân và quân độc ác" (Lc 6,35).
4. Tình yêu không báo thù :
"Trong khi liệt kê các công việc của xác thịt (x.Gal 5,19-21),
thánh Phaolô làm sáng tỏ các yêu sách của đức ái, từ đó mà phát
sinh các bổn phận cụ thể đối nghịch lại các khuynh hướng của
'con người cầm thú', nghĩa là nạn nhân của các dục vọng của
mình. Đặc biệt là tránh ghen tương và ham muốn, muốn điều tốt
cho tha nhân; tránh những hiềm khích, bất hòa, chia rẻ, chống
đối, bằng cách thăng tiến tất cả những gì đưa tới hiệp nhất. Câu
thơ của thánh Phaolô trong bài ca đức ái, theo đó đức ái "không
nghĩ tới điều xấu" (I Cor 13, 5), ám chỉ đến điều đó. Thánh Thần
gợi lên lòng quảng đại tha thứ đối với những xúc phạm đã nhận và
những thiệt hại phải chịu, và làm cho các tín hữu có khả năng
làm như vậy, và vì là Thánh Thần ánh sáng và tình yêu, Thánh
Thần giúp các tín hữu khám phá ra những yêu sách không giới hạn
của đức ái"[1]
Một đoạn Phúc Âm minh họa tính ưa quyền lực và thống trị nầy có
mặt bên trong ước muốn trả thù nầy. Các môn đệ Chúa Giêsu vào
một làng Samaria, ở đó các ông muốn chuẫn bị trạm nghỉ đêm cho
Chúa Giêsu đang đi sau :
"Nhưng dân làng không tiếp đón Người, vì Người đang
đi về hướng Giêrusalem. Thấy thế, hai môn đệ Người là ông
Giacôbê và ông Gioan nói rằng : 'Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng
con khiến lửa từ trời xuống thiêu hủy chúng nó không ?' Nhưng
Đức Giêsu quay lại quở mắng các ông : "Các con không biết mình
thuộc về tinh thần nào". Rồi Thầy trò đi sang làng khác" (Lc 9,
53-56).
Tình yêu Phúc Âm đòi hỏi phải giao lại cho Thiên Chúa những tình
huống trong đó người ta muốn tự mình đem lại công bằng cho mình
và uốn nắn lại những điều lỗi người khác làm cho mình. Sự bình
an tâm hồn và chứng tá đều phải trả bằng cái giá ấy :
"Khi chúng ta không được hiểu và bị xét đoán một cách
bất lợi, thì liệu có ích gì để tự bênh vực, để tự giải thích
không ? Chúng ta hãy để những thứ đó rơi xuống đi, đừng nói gì
hết. Thật là khỏe khoắn khi chẳng nói gì, khi để mặc cho người
ta muốn phê phán gì thì phê phán !... Ôi sự thinh lặng diễm phúc
đã mang lại bình an biết bao cho tâm hồn"[1]
Suy niệm để lần hạt
Mân Côi
1. Tình yêu không nghĩ đến điều xấu. "Anh hãy nhắc
nhở cho ai nấy phải phục tùng và tuân lệnh các nhà chức trách,
các người cầm quyền, phải sẵn sàng làm mọi việc tốt, và đừng
chửi bới ai, đừng hiếu chiến, nhưng phải hiền hòa, luôn luôn có
lòng nhân từ với mọi người. Thật vậy, cả chúng ta nữa, xưa kia
chúng ta cũng ngu xuẩn, không vâng lời, lầm lạc, làm nô lệ cho
đủ thứ đam mê và khoái lạc, sống trong gian ác và ghen tị, đáng
ghét và ghen ghét lẫn nhau" (Tt 3,1-3). Lạy
Chúa, xin ban cho chúng con một quả tim nhân hậu.
2. Tình yêu không nghĩ đến điều xấu. "Anh em là những
người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương. Vì
thế anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hòa
và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em
người nầy có điều gì phiền trách người kia. Chúa đã tha thứ cho
anh em thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau" (Col
3, 12-13). Lạy Chúa, xin ban cho chúng con tinh thần nhân hậu,
hằng tỏ ra thuận lợi cho tha nhân trong mọi hoàn cảnh.
3. Tình yêu không nghĩ đến điều xấu. "Anh em đừng xét
đoán để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán...Hỡi kẻ đạo đức giả ! Hãy
lấy cái xà ra khỏi mắt anh trước đã, rồi anh sẽ thấy rõ, để lấy
cái rác ra khỏi mắt người anh em" (Mt 5, 1. 5). "Anh em đừng nói
xấu nhau. Ai nói xấu hoặc xét đoán anh em mình là nói xấu và xét
đoán lề luật... Vậy anh là ai mà dám xét đoán người thân cận ?"
(Jc 4,
11-12). Lạy Chúa, xin giải thoát chúng con khỏi ý muốn quyền lực
thường tỏ lộ ra qua tinh thần xét đoán nầy.
4. Tình yêu không nghĩ đến điều xấu. "Thưa Thầy, nếu
anh em con cứ xúc phạm đến con thì con phải tha đến mấy lần ? Có
phải đến bảy lần không ? Chúa Giêsu đáp : Thầy không bảo là đến
bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy" (Mt 18, 21-22).
"Anh em phải đối xử tốt với nhau, phải có
lòng thương xót và biết tha thứ cho nhau, như Thiên Chúa đã tha
thứ cho anh em trong Đức Kitô"
(Ep 4, 32). Lạy Chúa Thánh Thần, xin gợi lên trong chúng con
tinh thần tha thứ không ngừng.
5. Tình yêu không nghĩ đến điều xấu. "Hãy yêu thương
kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em, hãy chúc lành cho kẻ nguyền
rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em. Ai vả anh má
bên nầy thì hãy giơ cả má bên kia nữa" (Lc 6, 27-29).
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã tha thứ cho các lý hình, xin ban cho
chúng con ơn tha thứ cho kẻ thù của chúng con và từ chối mọi thứ
trả thù.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
Cuộc đua
với tử thần |
“Cuộc đời mọc lên và
ngắt đi như một bông hoa”
Kinh Thánh
Tạo hóa dường như rất hay đùa bỡn với
số phận của con người. Có những người dư thừa đủ thứ: sức
khỏe sung mãn, tài năng tràn trề, của cải giàu nứt đố đổ
vách, con cháu đầy đàn vui vẻ sum vầy… ấy thế lại có những
người Thượng Đế đầy họ vào bể khổ để đợi đến ngày nghe tiếng
gọi của Người. Có vẻ hợp với câu: “Đời là bể khổ!”.
Một trong những nơi hiện thân của cái
triết lý đời đó chính là cái Xóm Chạy Thận ở giữa lòng Hà
Nội.
Phố Lê Thanh Nghị giống như bao khu phố
mới sầm uất của thủ đô.
Mặt phố là những khối nhà 4-5 tầng xây
dựng mới tinh, khá hiện đại. Phần lớn là những cửa hàng sầm
uất bày bán đủ thứ từ máy tính, điện thoại, thời trang, đến
cà phê, bia hơi giải khát v.v sớm tối nườm nượp khách hàng.
Phía sau cái lớp giàu sang rất mỏng ấy
là cả một khối chằng chịt những ngõ ngách ngoằn ngoèo, chật
trội, tinh những người là người. Trong những ngõ đó có “xóm
chạy thận”, nơi tá túc của hơn 200 con người đủ mọi hoàn
cảnh, lứa tuổi từ tứ xứ đổ về. Họ giống nhau, thứ nhất là
đều mắc trọng bệnh: suy thận mãn phải lọc máu nhân tạo, thứ
hai họ đều rất nghèo. Cũng có thể, có những người khá giả
mắc bệnh hao tiền tốn của rồi mới nghèo, nhưng cũng có người
nghèo, mắc trọng bệnh để rồi nghèo hơn…Không thể phân biệt
rạch ròi được ai là ai trong số họ, bởi bây giờ thì họ đều
nghèo khổ giống nhau.
Xóm “chạy thận” hình thành cũng có cái
lý do của nó.
Cách đây hơn chục năm, ở Hà Nội nói đến
trung tâm lọc máu, chỉ có Bạch Mai là số một. Cũng vì thế mà
bệnh nhân cả nước đổ hết về đây. Cái mảnh đất ao muống bên
đường, chỉ bước nhanh dăm bước chân là vào đến cổng viện,
bỗng trở nên đắc địa với những người đã nhận án chung thân
với những chiếc máy lọc máu. Họ tập hợp về đây, ban đầu chỉ
lèo tèo vài người, thế rồi họ rỉ tai nhau: “nhà trọ gần bệnh
viện giá bèo”. Mọc lên một xóm mà cư dân đa số là bệnh nhân
thận. Đúng là mảnh đất hội đủ thiên thời-địa lợi-nhân hòa.
Một nguyên tắc sống bất di bất dịch ở
đây là mọi cư dân trong xóm đều phải “chạy” để sống.
Chạy đua từng ngày, từng giờ để sinh tồn. Nếu họ ngừng chạy
vì bất cứ lý do gì ví như không đủ sức để chạy, không đủ
tiền để chạy nữa, thì gần như ngay lập tức, cuộc sống của họ
cũng chấm dứt.
“Lão làng” của xóm là một cô gái trẻ có
cái tên rất duyên dáng: Nguyễn Thị Hồng Công.
Gọi là lão làng vì tuổi đời cô chưa tới
30 nhưng đã có 1/3 quãng đời ở cái tuổi đôi mươi đẹp nhất,
chạy đua ở cái xóm này. Một thập kỷ ở đây, cũng có thể coi
Hồng Công là người duy nhất thuộc lứa cư dân đầu tiên của
xóm thận còn sống sót đến hôm nay. Mỗi năm
xóm có chừng 5 cư dân qua đời, coi như vị “trưởng
lão” chưa đến 30 tuổi đã dự tới hơn 50 đám ma trong 10 năm
thường trú ở xóm.
Mười năm trong cuộc đua giành giật sự
sống đã mang lại không ít kinh nghiệm.
Thưở ban đầu, thiết bị lọc máu còn hạn
chế, bệnh nhân trụ được lâu nhất là 2 năm. Lứa 2 năm đầu
tiên của xóm ra đi sang thế giới bên kia, ấy thế nhưng cô bé
Hồng Công chẳng hiểu sao lại vẫn trụ lại được. Phải chăng do
sức lực thanh xuân ở tuổi 18 đôi mươi, hay do số phận đã
chọn cô làm người chứng kiến sự sinh tồn ở xóm thận này?
Gia cảnh của Hồng Công khá điển hình
như nhiều gia đình thôn quê khác.
Bố là bộ đội hy sinh trong chiến tranh
biên giới 1979, khi đó Hồng Công mới 3 tháng tuổi. Mẹ, một
người nông dân hiền lành chất phác, đi bước nữa, theo chồng
mới vào lập nghiệp tại Hà Tĩnh.
Hồng Công được bà ngoại nuôi dưỡng.
Xinh xắn, chăm chỉ học hành, nhưng số phận đã đưa đẩy cuộc
đời cô bé ngoặt sang một hướng khác. Năm 14 tuổi, cô
bé mắc phải căn bệnh viêm cầu thận cấp, dẫn đến suy thận.
Và từ đó cuộc đời của cô bắt đầu gắn
liền với bệnh viện.
Bệnh viện đầu tiên Hồng Công làm quen
là Bệnh viện Nhi Trung Ương. Cô được bố mẹ đưa lên điều trị
tại đó 3 tháng, sau khi bệnh tình đã thuyên giảm cô lại tiếp
tục theo học cấp II còn đang dang dở. Mỗi tháng 1 lần, cô
học sinh nhỏ phải vào bệnh viện để làm các xét nghiệm, kiểm
tra sức khỏe và dùng thuốc theo chỉ định.
Ngày thi tốt nghiệp cấp III, ngay sau
khi đặt bút viết những dòng cuối cùng vào giấy thi, Hồng
Công đã phải lên xe cấp cứu chạy thẳng vào bệnh viện Bạch
Mai. Kể từ đó cô là thân chủ trung thành của viện. Như lời
tâm sự của cô: “Nếu như ra khỏi đây, chỉ có ra đi mãi mãi
mà thôi”.
Cuộc sống của một bệnh nhân suy thận
phải lọc máu nhân tạo có những đặc thù riêng. Mỗi tuần Hồng
Công phải vào lọc máu ba lần. May mắn Hồng Công là con liệt
sĩ, nên được bảo hiểm trả y phí, nhưng phải mua thuốc trợ
tim, hạ huyết áp…cần thiết cho việc lọc máu và cả chục thứ
thuốc bệnh khác. Bình thường, mỗi lần lọc máu tốn 400.000
đồng, vị chi là 4,5 triệu một tháng cho cả lọc máu lẫn thuốc
thang, một số tiền ước mơ của rất nhiều người lao động khỏe
mạnh, thậm chí cả những người được học hành tử tế. Trong
trường hợp nếu không có tiền thì… mọi thứ chấm dứt!
Nhưng không chỉ có vậy, “bệnh lại đẻ ra
bệnh”.
Hồng Công bây giờ đã quá quen với bệnh
khắp người. “Cháu có đủ thứ bệnh, bác ạ”, Hồng Công
cho biết. Nào là hậu quả của Lupus ban đỏ, u xương khớp (4
năm) đau khớp, viêm khớp hệ thống; mắt (4 năm) mờ (4/10)
viêm giác mạc; Điếc tiếp nhận 2 tai. Suy tim độ cuối.
Đau dạ dày, đại tràng co thắt. viêm thần kinh ngoại
vi, u nhũ hoa lành tính…v.v Ngoài Bạch Mai là chỗ
chung thân ra, cô là “khách quen” của Bệnh Viện K, viện Mắt
Trung Ương, Tai Mũi Họng, Cấp Cứu 115…v.v
Dài theo thời gian là sự đau đớn về thể
xác, mệt mỏi tinh thần. Của nả trong nhà bố mẹ đã đội nón
ra đi hết. Mà tiền vào nhà khó như gió vào nhà trống. Họ
hàng, bạn bè tránh mặt vì nợ cũ chưa trả, đã cất lời đi vay.
Đã vậy, mỗi năm dăm ba lần mẹ cô lại phải bỏ mọi công việc
dưới quê lên thăm nuôi con, khi bệnh nặng. “Chúng em vất
vả lắm, anh ạ. Nhưng thấy cháu xanh xao nằm đó mà lòng đau
như cắt, đâu dám quản ngại xa xôi”. Cô nhận ra mình là
nguyên nhân của tất cả những bất hạnh đó và hơn một lần cô
đã nghĩ đến cái chết…
Có lẽ chính vào những thời điểm khó
khăn nhất sau những “rượt đuổi” vô tiền khoáng hậu với thần
chết, cái “khát vọng sống để yêu” của cô mới bùng lên
dữ dội.
Cô lê ra đường làm đủ nghề để sống.
Đi bán bánh mỳ buổi sáng. Nhận vào 600
đ/chiếc bán ra 1000 đ/chiếc, ngày ít được vài ba cái, ngày
nhiều được chục chiếc. Rồi mua chè mạn, nhân trần về pha
nước đi bán rong trong bệnh viện.
Nhưng sức vóc của một bệnh nhân đã cạn
kiệt 87% qua những “trận chiến” với tử thần không cho phép
cô làm được hơn.
Có lẽ nghề “trông bệnh nhân ốm”
là nghề lâu nhất của cô.
Người ta hay nói, ốm lâu sẽ thành thầy
thuốc giỏi. Hồng Công đã quen với các y bác sĩ ở khoa lọc
máu Bạch Mai. Cô cũng thạo việc đo, nhìn huyết áp. Hơn nữa
bệnh nhân nằm lọc máu cũng cần xoa bóp, gãi ngứa chân tay vì
thế nhiều người đã thuê cô trông giúp người nhà đang nằm
điều trị. Cứ mỗi ca như thế (trông nom bệnh nhân 3-5 giờ) cô
được nhận thù lao 12.000 đ. Sáu tháng trời lăn lộn với chăm
sóc những người cùng cảnh ngộ để tìm cửa sống cho mình,
nhưng rồi những trận ốm “quen thuộc” đã kéo tuột cô trở về
với góc phòng trọ tối tăm.
Cô bắt đầu viết, viết như phát cuồng.
Cô viết như một cách để giải thoát cơn
khát sống.
Cô viết vào sách báo khi nằm bẹp ở
“hang ổ” của mình.
Cô viết vào chân tay khi đang lọc máu
trên giường bệnh.
Cô viết lên tường khi đang nấu cơm.
Viết, viết..viết tất cả những gì đã đến
với cô, những gì đang xảy ra xung quanh mình, viết về ký ức
xa xưa tươi đẹp, về một mối tình không trọn vẹn, về cuộc
sống khốn khó hiện tại…
Tác phẩm đầu tay của cô với cái tên “Khát
Vọng SốngĐể Yêu” đã ra đời như thế!. 1000 cuốn
sách bán hết veo. Người ta đang dự kiến sẽ dịch ra tiếng
Đức, tiếng Anh và chắc sẽ là nhiều thứ tiếng khác. Nhuận bút
của những bài báo và của cuốn sách là một dàn máy vi tính
hiện đại có kết nối internet. Cô bắt đầu tự học máy tính để
tiếp tục viết.
Lần này cô đang viết về những người có
cùng số phận với cô. Họ đang cùng nhau chạy đua với tử thần
để giành lấy cuộc sống của chính mình. Cô nhớ lại cuộc chia
tay vĩnh viễn với 3 cư dân trong xóm vào dịp tết vừa rồi. Cô
nhớ đến mối tình của đôi bạn bên hàng xóm, cũng vì bệnh tật
mà họ đến với nhau rồi nên vợ nên chồng… chuyện của cô còn
nhiều lắm.
Và cô sẽ viết, và tiếp tục viết nếu mỗi
sáng khi thức dậy thấy mình vẫn còn sống…
…Xóm thận với những ngõ nhỏ chằng chịt
như mạng nhện có vẻ bề ngoài giống hàng vô vàn những khu lao
động nghèo ở Hà Nội. Ở đó có hơn 200 con người đang vật lộn
với thần chết để giành lấy mạng sống. Có một cô gái nhỏ đang
ngồi bình thản viết với nụ cười trên môi. Cô viết và đợi 1
ngày…
Nguyễn Ánh-Ngọc /
Nguyễn Ý-Đức
Ghi chú:
Nguyễn Hồng Công:
Sinh: 23/10/1978. Lạng Giang (Bắc
Giang).
Bằng C Anh Ngữ. Tự học viết văn. Là
bệnh nhân chung thân tại khoa Lọc máu Bệnh viện Bạch Mai.
Thành viên lâu năm của Xóm chạy thận ngõ 121 Lê Thanh Nghị.
Tác phẩm: Tiểu thuyết “Khát Vọng Sống
Để Yêu”.
Là tác giả nhiều bài báo trên các tờ
báo lớn.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
KHI CHỒNG GIẬN Chuyện phiếm
của Gã Siêu. |
Nhìn vào vũ trụ, hẳn ai
cũng phải “tâm phục khẩu phục” Đấng Tạo Hóa. Ngài quả là tuyệt
vời, bởi vì vạn vật do Ngài dựng nên rất giản đơn, nhưng lại vô
cùng phong phú.
Thực vậy, theo quan niệm
của đông phương, thì thuở ban đầu chỉ có âm và dương. Hai thái
cực này hoàn toàn khác biệt và trái ngược nhau, nhưng lại luôn
thu hút lẫn nhau để nảy sinh vạn vật :
- Nhất âm, nhất dương chi
vi đạo.
Cũng thế, theo quan niệm
của Cựu ước, Đấng Tạo hóa đã dựng nên một người nam và một người
nữ. Cả hai kết hiệp thành vợ chồng mà sinh ra con đàn cháu đống,
kéo dài dòng giống con người trên mặt đất này cho đến tận cùng
thời gian.
Còn nói theo kiểu tân cổ
giao duyên, đông tây hòa hợp, thì người nam mang tính dương, còn
người nữ mang tính âm. Nam nữ tuy khác biệt nhưng lại hấp dẫn
lẫn nhau, để tạo thành một mái ấm gia đình.
Trong mái ấm này, cần phải
có sự hài hòa cân đối bởi vì nếu âm mà thịnh thì ắt dương phải
suy. Và ngược lại, nếu dương mà thịnh thì ắt âm phải suy. Chồng
mà hiền thì vợ thường….dữ. Chồng mà gầy thì vợ thường…mập!!!
- Thế gian được vợ hỏng
chồng,
Có đâu mà được tiên rồng cả
đôi.
Tự bản chất, đờn ông với
đờn bà vốn đã khác biệt. Thế nhưng, những khác biệt này không
phải để đối kháng và hủy diệt lẫn nhau, như nước với lửa, như
bóng tối với ánh sáng, nhưng là để bổ túc lẫn cho nhau. Chẳng
hạn người đờn bà vốn yếu đuối thì đã có cái sức mạnh của người
đờn ông bổ túc. Người đờn ông vốn nóng nảy thì đã có sự dịu hiền
của người đờn bà dập tắt.
Ngay cả giữa đờn ông với
đờn ông và giữa đờn bà với đờn bà cũng đã có những khác biệt,
bởi vì bá nhân bá tánh, mỗi người đều có một tính tình riêng.
Mỗi người là một mầu nhiệm, chẳng ai giống ai.
Hơn thế nữa, nhân vô thập
toàn, ai cũng có những sai lỗi khuyết điểm của mình. Cái rắc
rối, đó là con người không thể sống cô độc lẻ loi như một hòn
đảo giữa biển khơi, hay như một pháo đài biệt lập. Trái lại,
chúng ta sống là sống với người khác, nhất là với những người
thân yêu. Ngay từ ban đầu, Đấng Tạo hóa cũng đã tỏ rõ điều ấy
:
- Người đờn ông ở một mình
không tốt, Ta hãy dựng nên cho nó một người trợ giúp…
Hai thực thể khác biệt từ
bên trong đến bên ngoài, hai con người chẳng giống nhau từ tâm
hồn đến thân xác, thế mà bây giờ lại được nhốt chung trong cùng
một mái nhà để làm nên một gia đình, thì chắc hẳn sẽ không thể
nào tránh đi cho hết những va chạm, những bực bội, những hiểu
lầm, chả thế mà cha ông chúng ta ngày xưa đã bảo :
- Chén bát trong rổ còn có
lúc xô xát huống lọ là vợ chồng với nhau.
Hay như bọn con nít ngoài
đường vốn thường nghêu ngao :
- Anh như con chó, em như
con mèo, hai con cắn nhau…
Vì thế, hôm nay gã thử phân
tích xem khi anh chồng mà giận, thì chị vợ thường phản ứng như
thế nào ? Tuy nhiên trước khi mổ xẻ vấn đề, chúng ta cùng nhau
chiêm ngưỡng dung nhan anh chồng cái đã. Vậy bàn dân thiên hạ đã
nhìn anh chồng ra sao ? Và đã thế nào là một anh chồng ?
Thiên hạ vốn cho rằng anh
chồng là người đờn ông chung sống với người đờn bà sau khi đã
cưới hỏi theo phong tục và làm giá thú theo luật định, hoặc có
khi lờ tít, cứ việc ăn ở với nhau mà chẳng cần cưới hỏi, hay giá
thú giá thiếc nào sốt. Đó là cái định nghĩa chung chung về anh
chồng. Tuy nhiên, nếu đi vào lãnh vực chuyên môn, gã nhận thấy
những bậc chuyên gia mỗi vị lại hiểu anh chồng một cách khác
nhau theo sự méo mó nghề nghiệp của mình.
Đối với nhà khảo cổ, thì
anh chồng là một thứ đồ cổ ít có giá trị đối với chị vợ, nhưng
biết đâu lại vô giá đối với kẻ khác. Chính vì thế mà sơ hở một
tí là có thể mất chồng như chơi. Người ta cho rằng trên đời này
có ba thứ càng cũ lại càng quí, đó là rượu cũ, sách cũ và bạn
cũ. Nhưng mà anh chồng, dưới mắt chị vợ sau nhiều năm chung
sống, không chừng lại bị ngán tới cần cổ, như ngán cơm nếp nát
vậy. Thế nhưng, khi thò chân bước ra ngoài xã hội, anh chồng ấy,
nếu được trang bị bằng một tí tiền và một tí quyền, thị lại trở
thành vô giá, thiên hạ sẵn sàng nhào tới ăn có, như mèo mù vớ cá
rán, ngủ gật gặp được chiếu manh.
Đối với ông bác sĩ, thì anh
chồng là một thứ vi khuẩn đã nhờn thuốc nên rất khó trị. Đúng
thế, vào cái thuở ban đầu lưu luyến ấy, thì chị vợ nói gì anh
chồng cũng phải nghe, chỉ cần một liều thuốc nhẹ cũng chữa chạy
được. Đúng là :
- Lệnh ông không bằng cồng
bà.
- Vợ muốn là trời muốn.
Thậm chí có anh chồng còn
cảm thấy lương tâm áy náy và cắn rứt khi cãi lời vợ, vì thế đã
vào tòa giải tội mà xưng thú :
- Thưa cha, con đã trót
dại không vâng lời vợ con phỏng là mười lần.
Còn lâu ngày sau khi cưới,
loại vi khuẩn này đã quen với thuốc nên không còn phương thức
trị liệu. Nói năng cứ như dùi đục chấm nước mắn, rồi lại còn chủ
trương : nhất lý, nhì lì, tam ì, tứ ẩu nữa mới đáng ghét không
cơ chứ.
Đối với nhân viên ngân
hàng, thì anh chồng là kẻ chuyên môn vay nóng, nhưng lại không
có khả năng chi trả. Đúng thế, khi cần tiền thì cái miệng anh
ta dẻo quẹo, nhưng khi đòi lại thì cứ khất lần khất lượt, từ từ
cái đã, chẳng hiểu đến đời ông Bành Tổ nào mới trả cho xong.
Đối với nhà ngôn ngữ thì
trước khi cưới, anh chồng là người rất “chịu khó” nhưng sau khi
cưới anh ta trở thành một người rất…”khó chịu”. Thực vậy, trước
khi cưới anh chồng rất ư là ga lăng, từ lời ăn tiếng nói đến
cung cách chiều chuộng…tất tật đều dễ thương chi lạ. Tuy nhiên
hãy đợi đấy, sau ngày cưới anh ta mới để lộ chân tướng vũ phu
chi cục mịch của mình. Có những anh chồng, trước khi cưới qua
nhà vợ, hiền lành như con gái, rượu chẳng biết uống, thuốc chẳng
biết hút…Thế mà sau khi cưới anh ta hóa kiếp thành dân bợm nhậu,
uống rượu như hũ chìm. Có những anh chồng, trước khi cưới qua
nhà vợ, việc gì cũng lăn xả vào làm, còn sau khi cưới ấy hở,
lười chảy thây, chẳng muốn động ngón tay lay thử một ly, một tí
nào sốt. Quả thực trước khi cưới anh ta rất chịu khó, còn sau
khi cưới anh ta lại là người rất khó chịu.
Đối với bác nông dân, thì
anh chồng là loại thóc giống, nếu không tranh thủ “xạ” gấp, thì
có nguy cơ bị hàng xóm vay mất.
Dĩ nhiên còn rất nhiều định
nghĩa khác nữa, tùy theo góc độ của từng người. Tuy nhiên, bằng
đó mà thôi cũng đủ để cho thấy anh chồng là một thực thể rất ư
phức tạp. Nhưng xét cho cùng, đôi khi anh ta cũng là kẻ đáng
thương và tội nghiệp lắm lắm.
Cái đáng thương và tội
nghiệp thứ nhất, đó là anh ta phải lo lắng cho ngày mai, như
một câu danh ngôn đã bảo :
- Người đờn bà chỉ lo lắng
về tương lai cho đến khi chị ta lấy được anh chồng. Còn người
đờn ông thì ngược lại, anh ta chẳng bao giờ lo lắng về tương lai
cho đến khi anh ta lấy được chị vợ.
Điều đó có nghĩa là một khi
đã lấy vợ, anh chồng phải chí thú làm ăn, nai lưng ra mà xây đắp
tương lai. Đối với những anh thanh niên choai choai, hay phá
làng phá xóm, các cụ già thường khuyên cha mẹ chúng như sau :
- Cứ cưới vợ cho nó là xong
tuốt luốt.. Vợ nó sẽ dạy nó. Và nó chẳng còn quậy phá nữa.
Lo lắng về tương lai, thì
cũng có nghĩa anh chồng phải lao động đầu tắt mặt tối, đổ mồ hôi
sôi nước mắt để kiếm cho được nhiều tiền. Hay nói cách khác :
cơm áo gạo tiền chính là cái đáng thương và tội nghiệp thứ hai
cho các anh chồng.
Với tiêu chuẩn tiền bạc,
anh chồng bị đánh giá như sau :
- Anh chồng thành công là
anh chồng kiếm được số tiền lớn hơn số tiền chị vợ tiêu xài.
Cũng vì luôn bị tương lai
ám ảnh và tiền bạc xâu xé, nên anh chồng thường có những cơn
giận chẳng đâu vào với đâu, hay chẳng có lấy một lý do chính
đáng nào sốt. Cũng giống như cơn giận của anh chàng voi đực đối
với chị voi cái trong câu chuyện sau đây.
Có hai vợ chồng nhà voi
đang sống yên ổn và hạnh phúc trong một sở thú tại Nữu Ước. Thế
rồi một buổi sáng đẹp trời nọ, chú chuột nhắt bỗng xuất hiện.
Nhìn thấy chú chuột nhắt, chị voi cái bèn hoảng sợ, chạy tới
chạy lui và rống lên từng hồi. Anh voi đực tức giận trước cảnh
tượng ấy, nên đưa mắt nhìn trừng trừng. Cuối cùng, như không cầm
nổi cơn bực bội của mình, anh voi đực đã xông thẳng vào chị voi
cái và dùng cặp ngà của mình mà hất tung chị voi cái xuống một
cái hố bên cạnh đó, khiến cho mấy chục người phải vất vả, dùng
ván và xe mới trục được chị voi cái lên khỏi miệng hố. Lúc bấy
giờ, anh voi đực có vẻ hối hận, đứng nhìn mà cặp mắt lại ươn
ướt.
Chỉ vì một chú chuột nhắt
mà gia đình nhà voi suýt đi tới chỗ tan vỡ. Cũng vậy trong đời
sống vợ chồng, lắm khi chỉ vì những mâu thuẫn, những bất đồng
nho nhỏ, mà nếu không biết cư xử một cách khôn khéo, sẽ dẫn tới
những hậu quả nghiêm trọng.
Vậy mỗi khi anh chồng mà
giận, thì chị vợ thường phản ứng như thế nào ?
Phản ứng
thứ nhất :
Chồng giận thì vợ làm lơ,
Mặc cho bực bội, phe lờ như
không.
Có thể nói được rằng đây là
phản ứng của những chị vợ vừa ngây thơ lại vừa vô tư, hay nói
một cách khác, đây là phản ứng của những chị vợ “trẻ con”, chưa
muốn làm người lớn. Anh chồng bực bội tức tối cũng mặc kệ, chị
vợ vẫn cứ tỉnh bơ, vô tư cười nói, vô tư ca hát, vô tư ăn hàng,
làm như chẳng có gì xảy ra dưới mái nhà thân yêu. Lúc nào chị vợ
cũng tỏ ra ngây thơ như con nai vàng ngơ ngác. Cho dù nhà hàng
xóm có cháy, thì chị vợ vẫn cứ bình chân như vại.
Những chứng từ trong bài
này, gã trích dẫn ở báo “Phụ nữ Chủ nhật” để làm cho rõ những
phản ứng sẽ được trình bày.
“Anh H, một công chức, vốn
là người trầm tính, thường khi gặp phải điều gì phật ý, anh ít
nói ra. Không nói ra, nhưng vẻ bực dọc lại lộ rõ trên khuôn mặt
và cử chỉ của anh. Ngặt nỗi, cô vợ anh lại chẳng hề để ý cũng
chẳng nói chẳng rằng, cứ kiểu chồng giận thì vợ…làm lơ.
Vậy là mặc chồng, chồng
giận, mặc vợ, vợ…cứ tỉnh bơ. Chồng không thố lộ, vợ chẳng chịu
hỏi han, khiến gia đình như có chiến tranh lạnh, không khí nặng
nề kéo dài dăm bữa, nửa tháng là thường, cho đến khi cả hai chịu
hết xiết mới nhân một cớ nào đó mà lẳng lặng…giảng hòa.
Qua những lần giận nhau như
thế, cả hai vẫn chưa xác định được ai là người phải xuống
nước…trước ai. Đôi khi anh H lẩn thẩn nghĩ :
- Quái ! Bực dọc điều gì,
sao mình không chịu nói phứt ra cho nhẹ gánh ?
Cô vợ của H đôi lúc cũng
bần thần :
- Ừ, phải chi bữa đó mình
chịu quan tâm hỏi ảnh giận gì, thì đâu phải chịu cảnh lạnh lùng,
rồi trách ảnh…giận dai !”
Phản ứng
thứ hai :
Chồng giận thì vợ lầm lì,
Chẳng cần lý sự, cứ ì là
xong.
Có thể nói được rằng đây là
phản ứng của hàng cao thủ võ lâm, hay của những chị vợ dày dạn
kinh nghiệm trận mạc. Nó không còn vô tư đơn sơ và vô tư ngây
thơ nữa, nhưng là cả một chiến lược rất tinh vi, rất nặng đô
khiến cho phe địch bị sập bẫy, phải tự ý cầu hòa. Ấy là chưa nói
tới nhiều khi còn phải năn nỉ ỉ ôi tới gẫy cả lưỡi nữa là đàng
khác.
Anh chồng mà giận ấy hở,
chị vợ bèn lầm lì, chẳng nói chẳng rằng, sa sầm nét mặt và ủ dột
như chiếc bánh bao chiều, hay sưng thành, một cục, một đống. Cậy
miệng cũng chẳng nói được một chữ. Bất bạo động, nhưng cũng bất
hợp tác.
Có một chị vợ kia đã thẳng
thừng nói với anh chồng đang khoa chân múa tay, la hét om xòm,
như sau :
- Để xem mèo nào thắng mèo
nào. Liệu có chịu nổi sự được lạnh lùng của tôi thì hãy giận,
bằng không thì….biến đi cho rồi.
“Người ta thường được nghe
chị X kể lại một cách đầy kiêu hãnh là anh chồng chị lúc nào
cũng phải chịu lép vế trước sự “kiên cường” của vợ. Dù đúng dù
sai, mà sai thường nhiều hơn đúng, hễ chồng “lỡ giận”, là chị…đổ
lì, đổ bê tông bằng khuôn mặt lạnh dưới 0oC và thái độ dấm dẳng
chua lè, bất hợp tác trong mọi lãnh vực của đời sống vợ chồng.
Và để phục hồi cái không khí đầm ấm cho gia đình, anh X thường
phải xuống nước trước một cách thành khẩn, mới được vợ tha cho.
Chị X luôn tự hào về loại
vũ khí hiệu nghiệm của mình, đâu biết rằng anh X chồng chị lâu
dần như người bị dồn vào bước đường cùng, có lần thẩn thờ tâm sự
:
- Không thể nào và hình như
không còn cách nào góp ý vớ bả được, từ chuyện lớn đến chuyện
nhỏ. Tình trạng này cứ kéo dài, không biết rồi…sẽ dẫn tới đâu.”
Phản ứng
thứ ba :
Chồng giận thì vợ nổi xung,
Đổ dầu vào lửa, đùng
đùng…uỵch nhau.
Nếu hai phản ứng trên được
gọi là phản ứng ngầm và lạnh, thì phản ứng thứ ba này phải được
coi là phản ứng nổ và nóng. Chồng cũng ghê mà vợ cũng gớm. Quả
là xứng đôi vừa lứa.
Nếu chồng nóng như Trương
Phi, thì vợ cũng dữ chẳng kém gì sư tử Hà Đông. Nếu chồng nói
một, thì lập tức vợ cũng trả đũa, phản pháo lại gấp hai. Nếu
chồng quẳng nồi niêu, thì lập tức vợ cũng ném bát đĩa. Nếu chồng
mày với tao, thì lập tức vợ cũng tao với mày. Nếu chồng đấm với
đá, thì lập tức vợ cũng cào với cấu. Nếu chồng thượng cẳng chân,
thì lập tức vợ cũng hạ cẳng tay.
Nếu chồng hét, thì lập tức
vợ cũng gào và hậu quả đương nhiên sẽ xảy ra, đó là láng giềng
phải nghe. Cả hai đều hành động theo đúng cung cách mà ngày xưa
các cụ đã diễn tả :
- Chồng giận, vợ giận, thì
dùi nó quăng.
“Chuyện của vợ chồng anh
Bảy thợ hồ là một điển hình về chiến tranh nóng, chiến tranh…tóe
lửa giữa các vì sao, trong những gia đình mà hễ chồng giận thì
vợ cũng…nổi xung. Anh Bảy tính vốn nóng như lửa, ngặt nỗi chị
Bảy, vợ anh, cũng chẳng vừa, nên nhà họ thường xuyên nổ ra chiến
sự, khiến mấy đứa con bị văng miểng, mà hàng xóm cũng bị vạ lây.
Chuyện đĩa bay, chén bể,
nồi móp giữa họ là chuyện bình thường, xảy ra như cơm bữa. Chồng
một tiếng, thì vợ…ba tiếng. Chồng văng tục, thì vợ…tục văng, đốp
chát trả theo không kém cạnh.
Công bằng mà nói thì lắm
lúc nội vụ chỉ do anh Bảy vô cớ mắng chửi lãng òm, thế là chị
Bảy bụp lại ngay, đáp trả dữ dội bằng những lời lẽ nặng nề. Cả
hai đã phải mấy lần vác đơn ra tòa xin ly dị, rồi được hòa giải,
rồi lại…
Anh Bảy khi được hỏi thường
tìm cớ lảng tránh, còn chị Bảy thì thở ra :
- Tánh tui nó vậy, nhiều
lúc nghĩ cũng bậy, nhưng…sửa hổng đặng, biết sao bây giờ.
Có người bảo :
- Gẫm ra cũng chí lý.
Biết sai, thì phải biết
sửa. Sửa gấp không đặng, thì sửa từ từ, mỗi lần một chút. Vợ sửa
trước, mới mong chồng có cơ hội phục thiện để cùng nhau vun vén
hạnh phúc gia đình.”
Phản ứng
thứ tư :
Chồng giận thì vợ làm lành,
Miệng cười hớn hở, rằng anh
giận gì ?
Có thể nói được rằng đây là
loại phản ứng mang tính cách xây dựng hơn cả, khả dĩ hóa giải
được cơn giận của anh chồng.
Như trên chúng ta đã trình
bày : va chạm, xích mích, bất đồng là chuyện đương nhiên của
cuộc sống vợ chồng. Không va chạm, không xích mích, không bất
đồng mới là chuyện bất bình thường, cần phải xét lại.
Tuy nhiên điều quan trọng,
đó là phản ứng của chị vợ trong lúc “hữu sự”. Nếu biết cư xử một
cách tế nhị và khéo léo, thì sau cơn mưa trời lại sáng, sau cơn
giận, anh chồng sẽ yêu thương nhiều hơn. Thật đúng với chiến
thuật :
- Lùi một bước để tiến tới
hai bước.
Trong lúc anh chồng bị tẩu
hỏa nhập ma, cơn giận bốc lên đùng đùng, thì việc chị vợ cần
phải làm ngay, đó là hãy tiết kiệm lời nói, như người xưa đã
từng dạy :
- Chồng giận thì vợ bớt
lời,
Cơm sôi nhỏ lửa, một đời
chẳng khê.
Thực vậy, đạn bắn xuống
bùn, chẳng công phá được chi. Trước sự yên lặng của chị vợ, anh
chồng la hét mãi, quát tháo mãi cũng sẽ mỏi mồm, tới một lúc sẽ
tự động tắt đài, êm ru bà rù.
Sự yên lặng của chị vợ
trong hoàn cảnh này, quả là quí hơn vàng, hơn bạc. Bởi vì nếu
không yên lặng, thì chắc chắn hậu quả sẽ khó mà lường nổi. Sau
cơn giận, gia đình chỉ còn là một bãi chiến trường với những đổ
vỡ và tan hoang. Bởi vì :
- Bên thẳng thì bên phải
chùng,
Hai bên đều thẳng, thì cùng
đứt dây.
Tuy nhiên, yên lặng không
có nghĩa là cam lòng chịu vậy. Trái lại, trong những lúc thuận
tiện, chị vợ nên dùng những lời nói ôn tồn và thành thực để nhắc
bảo. Lúc bấy giờ, những lời nói êm dịu của chị vợ như rót vào
tai, khiến anh chồng dễ dàng chấp nhận, nhờ đó giúp nhau thăng
tiến bản thân, mà vẫn giữ được bàu khí hòa thuận cho gia đình.
Bởi vì :
- Mật ngọt thì chết ruồi.
Hay như một câu danh ngôn
cũng đã bảo :
- Người ta bắt được nhiều
ruồi chỉ bằng một giọt mật, còn hơn là bằng cả một thùng giấm
chua.
“Hạnh phúc biết bao cho
những ai được tắm mình giữa bàu khí gia đình trong ấm ngoài êm.
Và đó cũng là phần thưởng quí giá cho những người vợ biết khéo
léo, mềm mỏng và thông minh trước những cơn giận, dù đôi khi…kỳ
cục của chồng mình.
Ai đó đã từng nói rằng : nụ
cười của phụ nữ có thể làm thay đổi cả thế giới, huống hồ là đối
với…anh chồng bẳn tính của mình. Nhưng nói thế không có nghĩa
người vợ phải luôn lép vế, khuất phục trước chồng bởi bất cứ lý
do nào. Vì theo các chuyên gia về tình yêu hôn nhân và gia đình,
đồng thời cũng theo kinh nghiệm của các người chị, người mẹ có
một mái ấm tuyệt vời, thì cái sự làm lành cũng chính là thứ vũ
khí quan trọng để bảo vệ và tôn tạo hạnh phúc gia đình.”
Để kết luận, gã xin kể lại
một mẩu chuyện như sau :
Có hai vợ chồng nọ, hồi còn
trẻ họ sống rất yêu thương và hạnh phúc, nhưng khi đã về già,
thì lại thường xuyên lục đục và cãi vã nhau suốt ngày. Ông nói
một thì bà nói hai. Ông nói hai thì bà nói ba. Và ông nói ba thì
bà nói tới bảy, tám, chín, mười…Cuối cùng, chẳng ai chịu nhận
mình là kẻ có lỗi.
Người hàng xóm thấy vậy bèn
góp ý :
- Trên núi kia có một vị sư
bào chế được một thứ thuốc giúp cho nhiều gia đình được êm ấm
thuận hòa.
Bà nghe lời, bèn đi lên núi
tìm gặp vị sư. Sau khi nghe trình bày, vị sư liền trao cho bà
một chai thuốc và nói :
- Đây là một loại thuốc gia
truyền rất hiệu nghiệm. Hễ khi nào ông gây sự, bà chỉ cần ngậm
một ngụm ở trong miệng, không được nuốt và cũng chẳng được nhổ
ra, cho tới khi ông không còn nói nữa, rồi mọi chuyện sẽ được ổn
thỏa và tốt đẹp.
Bà hăm hở xuống núi. Thế
nhưng vừa về tới đầu ngõ, thì ông từ trong nhà vội chạy ra, nét
mặt hầm hầm và nói như quát :
- Bà rúc ở cái xó xỉnh nào
mà giờ này mới vác xác về. Đi mà lo cơm nước, không thì liệu hồn
đấy.
Nghe vậy, bà liền tợp một
ngụm thuốc, ngập ở trong miệng đúng như lời căn dặn của vị sư.
Thấy bà chẳng đáp lời, một lúc sau ông cũng lặng thinh.
Bà hết sức vui mừng và thầm
nghĩ :
- Đây quả là một thứ nước
thần rất hiệu nghiệm.
Khi bà bắt đầu vo gạo để
thổi cơm, thì ông lại la :
- Làm gì mà chậm như rùa
vậy.
Bà toan cãi lại, nhưng nhớ
tới lời căn dặn của vị sư, bèn tợp một ngụm thuốc trong miệng.
Thấy bà không cãi lại, ông đành phải im luôn. Từ đó hai ông bà
dần dần trở lại cuộc sống êm ấm và hạnh phúc của hồi còn trẻ.
Thứ nước thần hay thuốc gia truyền ấy, chẳng qua chỉ là nước lã
mà thôi.
Kinh nghiệm ngàn đời cho
chúng ta thấy :
- Một sự nhịn là chín sự
lành.
Trong cuộc sống vợ chồng,
nhiều lúc phải nhường. Mà đã nhường thì nhiều lúc cũng phải
nhịn. Mà đã nhịn thì nhiều lúc cũng phải cắn răng chịu nhục,
nhưng đó lại là chiếc chìa khóa để mở ra cánh cửa hạnh phúc.
Gã
Siêu
gasieu@gmail.com |
VỀ MỤC LỤC |
|
- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến,
bài vở..., xin gởi về địa chỉ
giaosivietnam@gmail.com
- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục
vụ của Giáo sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các
Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn
gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực
Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh
vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức
Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và
Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quí vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại
www.conggiaovietnam.net
Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị
Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã
sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác
nhau.
TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca
Phạm Quốc Sử
USA
|
|
*************
|
|