Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam

 

 

 

ĐỰƠC CHỌN GIỮA LOÀI NGƯỜI
VÀ CHO LOÀI NGƯỜI  (x. Dt, 5.1)

 

GIÁO SĨ:

Xuất phát từ giáo dân, hiện diện vì giáo dân và cậy dựa vào giáo dân

 

ĐỂ CÙNG LÀM VINH DANH THIÊN CHÚA

 

www.conggiaovietnam.net                          giaosivietnam@gmail.com

Đặc San Điện Tử    Giáo Sĩ Việt Nam    Số 46, Chúa Nhật 29.07.2007


CÁC SỐ BÁO ĐÃ PHÁT HÀNH             MỤC LỤC 

Hiến Chế Mục Vụ Về Giáo Hội Trong Thế Giới Ngày Nay     Gaudium Et Spes     Vatican 2

NHỮNG PHƯƠNG THẾ TỰ NHIÊN ĐỂ XÂY DỰNG HIỆP THÔNG                                 GSVN

TỰ THUẬT CUỘC ĐỜI Linh Mục Giuse Lê Đức Triệu                                Nhạc sĩ Hoài Đức

KHUÔN MẶT NGƯỜI LINH MỤC QUA GIÒNG LỊCH SỬ       Lm. Lê Công Đức chuyển ngữ

Ý NGHĨA HIỆP THÔNG TRONG GIÁO HỘI                                  Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh

NHỮNG BÀO THAI BỊ GIẾT                                                                 Nhà Văn Hương Vĩnh

RỒI NGÀY MAI CÙNG MẸ Ở THIÊN ĐÀNG                             Bút Xuân TRẦN ĐÌNH NGỌC

HÃY TỎ RA TRỌNG KÍNH CON TRẺ                                Lm. Tiến sĩ tâm lý Lê Văn Quảng

TÌNH YÊU KHÔNG TÌM TƯ LỢI                  Lm. Micae-Phaolo Trần Minh Huy chuyển ngữ

Phòng Tránh Rủi Ro Té Ngã                                                                Bác sĩ Nguyễn Ý Ðức

ĐẠO VÀ ĐỨC                                                                             Chuyện phiếm của Gã Siêu


Hiến Chế Mục Vụ Về Giáo Hội Trong Thế Giới Ngày Nay     Gaudium Et Spes

Bản dịch Việt Ngữ của Giáo Hoàng Học Viện Piô X

Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia

 

Chương III

Hoạt Ðộng Của Nhân Loại Trong Vũ Trụ 36*

 


37. Tội lỗi làm hư hỏng hoạt động của nhân loại. Thánh Kinh cũng như kinh nghiệm nhiều thời đại dạy cho gia đình nhân loại biết rằng: tiến bộ tuy là một lợi ích lớn lao của con người, nhưng cũng đem theo một cám dỗ mãnh liệt. Thực vậy, khi bậc thang giá trị bị đảo lộn, khi ác và thiện lẫn lộn, thì cá nhân cũng như tập thể chỉ xét quyền lợi của mình chứ không để ý đến quyền lợi kẻ khác. Do đó, thế giới chưa phải là nơi có tình huynh đệ thật, và sự gia tăng quyền lực của con người lại đe dọa hủy diệt chính nhân loại.

Một cuộc chiến cam go chống lại quyền lực bóng tối tiếp diễn trong suốt lịch sử nhân loại, khởi đầu từ khi thế giới khai nguyên và sẽ kéo dài đến ngày cuối cùng như lời Chúa phán 8. Dấn thân vào cuộc chiến này, con người phải luôn luôn chiến đấu để gắn bó với sự thiện và chỉ tìm được sự thống nhất trong chính mình 41* sau khi hết sức cố gắng với sự trợ giúp của ơn Chúa.

Bởi vậy, Giáo Hội Chúa Kitô, tin tưởng vào ý định của Tạo Hóa, vẫn nhìn nhận rằng tiến bộ của nhân loại có thể phục vụ hạnh phúc chân chính của con người. Nhưng Giáo Hội không thể không lặp lại lời sau đây của Thánh Phaolô: "Ðừng theo thói thế trần này" (Rm 12,2) nghĩa là đừng buông mình ham chuộng hư danh và gian xảo khiến hoạt động con người vốn qui hướng về phụng sự Thiên Chúa và phục vụ con người, lại biến thành phương tiện phạm tội.

Vậy, nếu có ai hỏi phải làm gì để vượt qua tình trạng khốn khổ ấy 42*, người Kitô hữu sẽ tuyên xưng rằng: mọi hoạt động của con người hàng ngày đang lâm nguy vì kiêu ngạo và lòng vị kỷ thái quá, cần được thanh tẩy và hoàn thiện nhờ thập giá và sự sống lại của Chúa Kitô. Bởi vì đã được Chúa Kitô cứu chuộc và được biến đổi thành tạo vật mới trong Chúa Thánh Thần, nên con người có thể và phải yêu mến chính các tạo vật do Thiên Chúa dựng nên. Vì nhận được tạo vật do Chúa ban, nên con người coi chúng như xuất phát từ tay Chúa và kính trọng chúng. Ðang khi cảm tạ Thiên Chúa là Ðấng Ban Ơn vì các tạo vật ấy cũng như đang khi xử dụng và thụ hưởng chúng trong tinh thần khó nghèo và tự do, con người thực sự thi hành quyền làm chủ thế giới, như một kẻ không có gì hết nhưng lại sở hữu tất cả 9. "Vì mọi sự đều thuộc về anh em còn anh em thuộc về Chúa Kitô và Chúa Kitô thuộc về Thiên Chúa" (1Cor 3,22-23).

38. Kiện toàn hoạt động nhân loại trong mầu nhiệm phục sinh. Ngôi Lời Thiên Chúa, nhờ Người mà muôn vật được tạo thành, đã làm người và đến sống ở trên trái đất con người 10. Là con người hoàn hảo, Người đã đi vào lịch sử thế giới, đảm nhậm và thâu kết lịch sử ấy nơi Người 11. Chính Người mạc khải cho chúng ta "Thiên Chúa là tình thương" (1Gio 4,8) và dạy cho chúng ta biết rằng: luật căn bản để kiện toàn con người, và do đó để cải biến thế giới, là điều răn mới về tình yêu. Vậy, đối với những ai tin vào tình yêu Thiên Chúa, Người cho họ xác tín rằng con đường tình yêu mở rộng cho tất cả mọi người, và nỗ lực thiết lập tình huynh đệ đại đồng không bao giờ luống công. Người cũng nhắc nhở cho biết đức bác ái ấy không phải chỉ được thực hiện trong những việc vĩ đại, nhưng trước hết trong những hoàn cảnh thông thường của cuộc sống. Chịu chết cho tất cả chúng ta là những người tội lỗi 12, Người lấy gương sáng dạy chúng ta vác thập giá mà xác thịt và thế gian đặt nặng trên vai những kẻ mưu tìm hòa bình và công lý. Ðức Kitô được tôn làm Chúa khi sống lại và được lãnh nhận toàn quyền thống trị trên trời dưới đất 13; từ nay Người hoạt động trong lòng con người nhờ quyền năng Thánh Thần của Người không những bằng cách khơi dậy những khát vọng đời sau, nhưng còn từ những khát vọng đó cổ võ, tinh luyện và củng cố những ước vọng quảng đại thúc đẩy gia đình nhân loại biến cải cuộc sống của mình trở nên nhân đạo hơn và qui phục trái đất về cùng mục đích ấy. Quả thật ơn Chúa Thánh Thần tác động mỗi người một khác: có những người được gọi làm chứng nhân tỏ tường cho sự mong đợi quê trời bảo tồn chứng tá sống động trong gia đình nhân loại, một số khác được gọi để hiến thân phục vụ con người trong phạm vi thế trần, dùng sự phục vụ ấy chuẩn bị chất liệu cho nước trời. Người giải thoát tất cả, để sau khi từ bỏ lòng vị kỷ và tập trung mọi năng lực trần thế cho cuộc sống con người, tất cả hướng về ngày mai, ngày mà nhân loại trở nên của lễ đẹp lòng Thiên Chúa 14.

Chúa đã để lại cho những kẻ thuộc về Người bảo chứng cậy trông và lương thực đi đường trong bí tích đức tin; trong bí tích ấy, những yếu tố thế trần, kết quả của lao công con người, được biến thành Mình và Máu vinh hiển, nên bữa ăn hiệp thông huynh đệ và nếm hưởng trước bữa tiệc trên trời.

39. Trời mới và đất mới 43*. Chúng ta không biết được thời gian hoàn tất của trái đất và nhân loại 15, chúng ta cũng chẳng biết cách thức biến đổi vũ trụ. Chắc chắn hình ảnh của một thế gian lệch lạc vì tội lỗi sẽ qua đi 16, nhưng chúng ta được biết Thiên Chúa đã dọn sẵn một chỗ ở mới và một đất mới, nơi công bằng ngự trị 17. Hạnh phúc nơi ấy sẽ thỏa mãn và đắp đầy mọi ước vọng hòa bình trào dâng trong lòng con người 18. Khi ấy, sự chết sẽ bị đánh bại, con cái Thiên Chúa sẽ phục sinh trong Chúa Kitô và những gì được gieo vãi trong yếu hèn, mục nát, sẽ mặc lấy sự không hư nát 19; tình yêu và các hoạt động bác ái sẽ tồn tại 20 và toàn thể tạo vật mà Thiên Chúa đã dựng nên cho con người sẽ được giải thoát khỏi ách nô lệ phù vân 21.

Chúng ta đã được cảnh giác là lời lãi cả thế gian mà chính mình hư mất nào ích lợi gì 22. Nhưng sự trông đợi đất mới không được làm suy giảm, trái lại phải kích thích nỗ lực phát triển trái đất này, nơi mà Thân Thể gia đình nhân loại mới đang tăng trưởng và tiên báo một vài hình ảnh của thời đại mới. Bởi vậy, tuy phải phân biệt rõ rệt những tiến bộ trần thế với sự bành trướng Vương Quyền Chúa Kitô, nhưng những tiến bộ này trở thành quan trọng đối với Nước Thiên Chúa tùy theo mức độ chúng có thể góp phần vào việc tổ chức xã hội loài người cho tốt đẹp hơn 23.

Thực vậy, sau khi đã theo mệnh lệnh Chúa và nhờ Chúa Thánh Thần phổ biến trên trái đất các giá trị về nhân phẩm, về hiệp thông huynh đệ và tự do, nghĩa là mọi thành quả tốt đẹp do bản tính và hoạt động con người đem lại, chúng ta sẽ gặp lại chúng, nhưng là gặp lại sau khi chúng được thanh tẩy khỏi mọi tì ố, được chiếu sáng và biến đổi, nghĩa là khi Chúa Kitô giao hoàn lại Chúa Cha vương quốc vĩnh cửu và đại đồng: "Vương quốc của chân lý và sự sống, vương quốc thánh thiện và diễm phúc, vương quốc công bình, yêu thương và bình an" 24. Vương quốc ấy đã hiện diện cách mầu nhiệm ở trần gian này và sẽ được kiện toàn khi Chúa đến.

 


Chú Thích:

(lưu ý: những số ghi chú nhỏ hơn đã được đăng vào những số báo trước)

 

41* Công Ðồng nói về cuộc chiến đấu giữa sự lành và sự dữ, trước hết diễn ra tại nội tâm của con người. Con người ước ao sự lành nhưng bị sự dữ lôi cuốn, nên con người bị chia rẽ, như Công Ðồng đã nhắc ở phần trước (số 10a).

42* Trong đoạn này Công Ðồng phác họa chương trình sinh hoạt về thực tại trần thế:

1) Ðể tránh mối nguy cơ do lòng kiêu ngạo và tánh ích kỷ gây nên, ta phải ý thức mà chấp nhận thập giá, "nghĩa là hàng ngàn hình thức thất bại" và ngăn trở có thể xảy đến mặc dù ta đầy thiện chí và hết sức cố gắng. Thập giá đưa chúng ta đến sự phục sinh, sự thắng trận cuối cùng trên phạm vi cao hơn.

2) Ta phải yêu mến tạo vật với một lòng mến mới mẻ là kết quả của công cuộc chuộc tội. Mến tạo vật vì tạo vật là những quà tặng của Thiên Chúa.

3) Ta phải xử dụng và thụ hưởng tạo vật: nó là những phương tiện giúp ta đến cùng Thiên Chúa, đồng thời làm tròn sứ mệnh thống trị cũng như phát triển vũ trụ noí chung và bản thân nói riêng. Ta phải xử dụng và hưởng thụ tạo vật với tinh thần biết ơn, tinh thần khó nghèo (nghĩa là tinh thần siêu thoát) tạo nên sự tự do thiêng liêng, không để tạo vật buộc ta làm nô lệ nó, bất chấp những khía cạnh quyến rũ của tạo vật.

4) Thực tại trần thế có giá trị mới sau khi Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể; đức bác ái là điều răn mới của Chúa Kitô phải điều khiển các sinh hoạt thuộc về thực tại trần thế dưới ơn thúc đẩy của Chúa Thánh Thần (số 38a).

5) Trong thực tế, thái độ của tín hữu đối với thực tại trần thế sẽ khác nhau tùy theo ơn Chúa Thánh Thần đó: tuy rằng không hề khinh dể tạo vật nhưng một số người thoát tục và do đó làm chứng cho đời sau, trong khi người khác dấn thân để nhờ tạo vật phục vụ đồng loại (số 38a).

43* Trong số này Công Ðồng giải quyết thắc mắc sau đây: nếu thế giới, sau khi được xây dựng với biết bao nỗ lực, việc làm, vất vả, sẽ phải bị tiêu tan trong ngày tận thế, thì sinh hoạt về thực tại trần thế có phải thành vô nghĩa không? Công Ðồng dạy: a) Theo như Thánh Kinh cho biết, thế giới sẽ đổi mới, chứ không tan nát. b) Tuy chưa biết rõ như thế nào, nhưng việc làm của ta sẽ đem lại kết quả đời đời. Ðặc biệt những công việc bác ái, cũng như chính đức ái, sẽ tồn tại vĩnh viễn. c) Tuy rằng ta không thể đồng hóa sự tiến bộ trần thế của nhân loại với sự mở rộng nước Thiên Chúa, nhưng khi chúng ta phục vụ nhân loại và làm cho phẩm giá con người hay tình anh em và sự tự do, v.v... phát triển, tức là chúng ta đóng góp vào nước Thiên Chúa những điều sẽ tồn tại mãi mãi sau khi thế giới này được tẩy luyện và biến hình.

còn tiếp 

VỀ MỤC LỤC

NHỮNG PHƯƠNG THẾ TỰ NHIÊN ĐỂ XÂY DỰNG HIỆP THÔNG

(Con đường đi đến hiệp thông)

 

1. Cộng tác – Đối thoại.

Công đồng Vatican II đã nại đến việc hiệp nhất nhân loại và bổn phận của Giáo hội là làm thăng tiến sự hiệp nhất và yêu thương (NK số 1). Như vậy, việc đối thoại đã được đặt vào trong vị trí của thần học. Sự hiệp nhất của gia đình nhân loại không  chỉ được hiểu trong ý nghĩa sinh vật học, mà còn trong ý nghĩa thần học nữa: hiệp nhất trong nguồn gốc, hiệp nhất trong cùng đích của nó, hiệp nhất trong sự cứu độ của Đức Giêsu Ki tô, Đấng cứu độ duy nhất của nhân loại.

Giáo hội đã nhận ra một cách đầy đủ nhu cầu của đối thoại. Redemptoris Missio đã tóm tắt sự phát triển trong Giáo hội như sau : "Đối thoại không  phát xuất từ  những mối quan hệ có tính chiến thuật hay những tư lợi, nhưng nó là một hoạt động với những nguyên tắc hướng dẫn, những yêu cầu và giá trị riêng. Nó đòi hỏi một sự tôn trọng sâu xa đối với mọi việc mà Thần Khí, Đấng muốn thổi đâu thì thổi, đã đem đến cho con người. Qua đối thoại, Giáo hội nỗ lực khám phá "những hạt giống của Lời", và "tia sáng của chân lý chiếu soi cho tất cả mọi người". Những điều này được tìm thấy trong mỗi con người và trong các truyền thống tôn giáo của nhân loại. Đối thoại dựa trên niềm hy vọng và tình yêu, và sẽ mang lại hoa trái trong Thánh Thần" (RM 56).

Tiếp xúc, đối thoại và hợp tác với những người theo các tôn giáo khác là một trách nhiệm mà Công đồng Vaticanô II trối lại cho toàn thể Giáo hội, như là một bổn phận và một thách đố (Ecclesia in Asia, số 31). Đây là một bổn phận của tình yêu. Không ai có quyền xao lãng, vì đó là bổn phận của tất cả mọi Kitô hữu. Nó là hoa trái của tình yêu hiệp thông với Thiên Chúa và với anh chị em đồng loại. Giáo hội tại Á Châu phải cam kết thực hành những liên hệ đại kết và đối thoại liên tôn, phải công nhận rằng sự hiệp nhất, việc cổ võ sự hòa giải, tạo ra những sợi dây liên đới , đề xướng đối thoại các tôn giáo và văn hóa, phá bỏ những thành kiến và làm phát sinh sự tin tưởng giữa các dân tộc, tất cả cần cho sứ mạng rao giảng Tin mừng tại Á Châu (Ecclesia in Asia, số 24). Các tôn giáo và những nền văn hóa của nhân loại không xa lạ gì với mục đích cứu độ.

Với chúng, đặc biệt là trong lối sống và đạo đức, trong huấn giới và giáo thuyết cho dù có khác biệt với chúng ta, chúng cũng phản chiếu chân lý giải thoát. Những chân lý về luân lý và tinh thần, những giá trị văn hóa và xã hội ngoài Kitô giáo này phải được bảo tồn, khuyến khích và phát triển (NK, số 2). Tuy nhiên, việc đối thoại không miễn trừ nhu cầu loan báo về Đức kitô cũng như làm chứng về niềm tin của mình (NK , số 2, 4). Công đồng ghi nhận những ân sủng, không những Thiên Chúa đã gieo vào “trong tâm trí con người”, mà còn “nơi các lễ nghi và tập tục của các dân tộc” (GH số 17).

Phần lớn những cộng đoàn Giáo hội tại Á Châu được tạo thành bởi những nhóm chủng tộc, ngôn ngữ, văn hóa và xã hội khác nhau. 

Sự hiệp thông với những Giáo hội Kitô giáo khác để đem lại những chứng từ chung về Đức Kitô là điều rất quan trọng ngày nay. “Tại Á Châu ngày nay, dù chỉ là một “đoàn chiên bé nhỏ” ở nhiều nơi, được linh hoạt bởi Chúa Thánh Thần, là Đấng thu hồi mọi sự trong sự hiệp nhất, những người Kitô hữu được mời gọi đóng vai trò phục vụ và xúc tác làm cho việc cộng tác liên tôn được dễ dàng. Sự thách thức này đòi hỏi các Giáo hội càng làm chứng họ cùng phát triển chung, hướng tới một sự hiệp thông đại kết lớn lao hơn” (Cf. LHĐGMAC, Bureau d’ évangélisation, Hua Hin (Thailande), 3, 10/11/1991).

Đối thoại bằng cuộc sống và con tim: đối thoại bằng cuộc sống đòi hỏi phải có những tiếp xúc thân thiện, kính trọng, yêu thương và hợp tác với nhau. Đối thoại bằng con tim đòi hỏi phải có tấm lòng hiền lành và khiêm nhường của Đức Giêsu (Ecclesia in Asia số 31).

Đối thoại để đi đến tiếp xúc : những liên hệ và những cuộc tiếp xúc  liên tôn chỉ có thể phát triển tốt nhất trong khung cảnh cởi mở, muốn nghe, kính trọng và hiểu biết người  khác với các sự khác biệt của họ. Để đạt được như thế, cần phải yêu thương họ. Sự kiện này đưa tới hợp tác, hài hòa và làm giàu cho nhau (Ecclesia in Asia số 31).

Có nhiều cách thức đối thoại, nhưng đối với người Kitô hữu bình thường thì đối thoại bằng đời sống và hành động là thích hợp nhất. Đối thoại bằng đời sống là môi trường mà con người cố gắng sống trong tinh thần cởi mở và thân thiện láng giềng, cùng chia sẻ niềm vui, nỗi buồn, những khó khăn, vất vả trong cuộc sống. Đối thoại bằng hành động là cùng cộng tác với nhau trong việc phát triển và sự tự do của các dân tộc (cf. ĐP, số 42, 45, 46). Những cuộc tiếp xúc trong cuộc sống hằng ngày và nỗ lực hoạt động chung sẽ mở ra được con đường đưa đến việc cùng nhau thăng tiến các giá trị con người và siêu nhiên (cf. NK số 2).

Trong đối thoại cuộc sống, người nọ liên kết với người kia bằng sự tôn trọng và quan tâm đến tính khác biệt của người ấy để cùng nhau xây dựng một cộng đồng công bình, liên đới và hòa bình. “Mỗi thành viên và tất cả cộng đồng Kitô hữu được mời gọi để tham gia đối thoại, dù không luôn luôn ở cùng một trình độ hoặc một phương thức. Sự đóng góp của họ thực sự cần thiết trong lãnh vực này, bởi vì họ có thể cải thiện các mối quan hệ giữa các tín đồ của các tôn giáo khác nhau, qua gương sáng của họ trong những hoàn cảnh họ sống và trong những hoạt động của ho”ï (RM, số 57).

Bổn phận của Giáo hội là làm thăng tiến việc hiệp nhất và yêu thương (NK số 2).

“Tôi đã trở nên yếu với những người yếu, để chinh phục những người yếu. Tôi đã nên tất cả cho mọi người, để bằng mọi cách cứu được một số người. Vì Tin mừng, tôi làm tất cả những điều đó, ngõ hầu được thông chia phần phúc của Tin mừng” ( Cr 9, 22- 23). Thánh Phaolô đã hành xử như vậy ngay khi ngài bắt đầu rao giảng Tin mừng cho người Do Thái ở Đamas (CVTĐ  9, 20- 22), ở Antiôkia (CVTĐ 13,16- 41), hay cho lương dân ở Athêna (CVTĐ 17, 22-31). Không những thánh Phaolô đã rút tỉa những gì tích cực nơi nền văn hóa và tâm tình tôn giáo của họ nhằm phục vụ cho Tin mừng, ngài còn tôn trọng nền văn hóa và tôn giáo của người nghe. Tuy nhiên, Phaolô luôn xác quyết nền văn hóa và tôn giáo của họ dù có cao đến mấy đi nữa cũng không thể so sánh với sự khôn ngoan của Thiên Chúa, với tôn giáo của Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh (cf. Rm 16, 27; 1Cr 1, 17. 19- 16).

Giáo hội mời gọi con cái mình có tinh thần cởi mở, tôn trọng những giá trị tôn giáo và văn hóa của các dân tộc. Vấn đề đa tôn giáo và đa tộc thực sự trở thành một thách đố sống còn của Giáo hội hôm nay.    

Hiệp thông dẫn tới đối thoại. Đối thoại không phải là một chiến lược để chung sống hòa bình giữa các dân tộc, mà còn là một phần chủ yếu của sứ mạng Giáo hội, vì nó bắt nguồn từ cuộc đối thoại cứu rỗi yêu thương của Chúa  Cha với nhân loại qua Chúa Con, trong quyền năng Chúa Thánh Thần. Giáo hội đặt nền tảng cuộc đối thoại này trên logic của mầu nhiệm Nhập thể (Ecclesia in Asia, số 29).

Thật vậy, đối thoại đã bắt đầu với việc tạo dựng : lúc khởi thủy, Thiên Chúa “nói” và mọi sự liền có (x. St 1, 1-21). Sau đó, qua Ngôi Lời Nhập thể, Thiên Chúa đã đối thoại cách đặc biệt với con người, vốn được dựng nên theo hình ảnh của Người: “Thuở xưa, nhiều lần, nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua người Con” (Dt 1, 1).

Đó là cách thức mà Thiên Chúa đã hành động trong Đức Giêsu Kitô : trở nên người phàm, chia sẻ đời sống nhân loại chúng ta và nói bằng ngôn ngữ con người để rao truyền sứ điệp cứu rỗi của Người. Sau khi phục sinh, Chúa Con lại ban Thánh Thần xuống để tiếp tục cuộc đối thoại của Người với thụ tạo. Đối thoại của chúng ta là “đối thoại cứu độ” (Ecclesia in Asia, số 21), “đối thoại để Phúc âm hóa” (Ecclesia in Asia, số 31).

Chúng ta có một tấm gương về đối thoại vô cùng nổi bật : mầu nhiệm ba Ngôi (Ecclesia in Asia, số 31). Ngôi Con vốn ngự trong Ngôi Cha và Ngôi Cha vốn ngự trong Ngôi Con, cả hai Ngôi đều chia sẻ cho nhau những điều mình có và những gì là mình (đối thoại). Như thế, hai Ngôi đã ràng buộc vào nhau bằng mối hiệp thông yêu thương (Chúa Thánh Thần).  Điều này đã được mạc khải: “Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4, 8). “Thiên Chúa đã nuốn toàn thể nhân loại thành một dân của Chúa, làm nên một Thân Thể của Đức Kitô và được xây dựng thành một Đền thờ của Chúa Thánh Thần” (Ecclesia in Asia, số 24).    

Là dấu chỉ của sự hiệp nhất toàn thể nhân loại, Giáo hội không thể không đi vào sự hiệp nhất với các dân tộc. Đối thoại là một đặc tính của cuộc sống Giáo hội tại Á Châu (Ecclesia in Asia, số 3). Giáo hội tại Á Châu sống giữa lòng Á Châu, vì thế đối thoại đại kết và đối thoại liên tôn tạo thành một ơn gọi thực sự đối với Giáo hội tại Á Châu (Ecclesia in Asia, số 29). Không thể có đối thoại nếu tha nhân không có chỗ đứng trong tâm hồn chúng ta. Vì thế, Giáo hội tại Á Châu giữ một niềm kính phục sâu xa nhất đối với các truyền thống tôn giáo, văn hóa tại Á Châu và tìm cách đối thoại chân tình với họ.  

Giáo hội tại Á Châu sẽ đánh mất ơn gọi khi trở thành một Giáo hội đóng kín (ghetto). Giáo hội của Lễ Ngũ Tuần là kiểu mẫu cho Giáo hội tại Á Châu. Đó là Giáo hội mở cửa. Mở cửa để ra khỏi căn phòng tại lầu cao, mở cửa để được sai đi rao giảng Tin mừng phục sinh, mở cửa để đối thoại với các ngôn ngữ khác nhau, các nền văn hóa khác nhau.

Chính Chúa Thánh Thần là tác giả đầu tiên của việc đối thoại này (Cv 2, 1- 41). Cuộc đối thoại ngày nay giữa Đấng Cứu Thế và các dân tộc tại Á Châu vẫn tiếp tục nhờ quyền năng cũng một Chúa Thánh Thần hoạt động trong Giáo hội (Ecclesia in Asia, số 18). Hoạt động chủ yếu của Chúa Thánh Thần là chuẩn bị cho Chúa Kitô đến trong tâm hồn con người. Chúa Thánh Thần làm cho con người hoán cải và tin theo Chúa Kitô (cf. Cv 2, 37- 41). Việc chuẩn bị này, trong bối cảnh Á Châu, bắt đầu bằng đối thoại và ngang qua đối thoại với các truyền thống tôn giáo và văn hóa. 

Noi theo kiểu mẫu của Giáo hội Ngũ Tuần, Giáo hội tại Á Châu phải lắng nghe tiếng nói của Chúa Thánh Thần, để cho Ngài là tác giả hàng đầu của đối thoại, cũng là tác giả hàng đầu của sự hội nhập văn hóa tại Á Châu (Ecclesia in Asia, số 21). Đối thoại với người Á Châu là bước thứ nhất của hội nhập văn hóa, vì không có đối thoại thì không có hội nhập văn hóa.

“Để mạc khải mình, Thiên Chúa đã chọn lấy cho mình một dân tộc với một nền văn hóa đặc thù đã được Ngài thâm nhập, thanh lọc và làm cho phong phú” (Văn kiện của Hội đồng Giáo hoàng về văn hóa, 23/ 5/ 1999, số 5). Lời Thiên Chúa chính là việc đưa đức tin hội nhập vào văn hóa cách độc đáo. Ngôi Lời Nhập thể là sự hội nhập hoàn toàn của Thiên Chúa vào lịch sử nhân loại.

2- Hội nhập văn hóa 

Con đường của Giáo hội sơ khai, cách riêng của thánh Phaolô, và đặc biệt con đường Nhập thể của Ngôi Lời Thiên Chúa, phải là con đường độc nhất, khuôn mẫu để công bố Tin mừng cho muôn dân.  Giáo hội tại Á Châu phải làm thế nào để vừa trung thành với truyền thống của mình, vừa không phản bội cái hồn Á Châu. Mỗi chương trình mục vụ, mỗi bổn phận khác nhau trong sứ vụ của Giáo hội cần lưu tâm đến tinh thần đối thoại. Ngày nay, người ta bắt đầu nói tới việc xây dựng một nền văn hóa đối thoại.

Trong thế giới ngày nay, không có Giáo hội địa phương nào có thể tự cho mình được miễn trừ dấn thân vào việc đối thoại với các tôn giáo. Thật vậy, tình trạng đa tôn giáo đang gia tăng khắp nơi, và tất cả các Kitô hữu đang đối mặt với những cách tin và diễn tả niềm tin khác nhau. Được đào tạo đầy đủ về lịch sử  và bản chất của các tôn giáo khác là hết sức cần thiết, để có thể thấy được vị trí của chúng và để rèn luyện bổn phận truyền giáo của mình.

"Những người tham gia đối thoại phải trung thành với truyền thống và những xác tín tôn giáo của mình và luôn biết lắng nghe, cởi mở đối với truyền thống và xác tín của những tôn giáo khác để hiểu chúng, tránh thái độ tự phụ hoặc khép kín; tôn trọng sự thật, khiêm tốn và chân thành; vì biết rằng đối thoại có thể làm phong phú cho cả hai phía. Không từ bỏ những nguyên tắc hoặc tạo ra sự hợp nhất giả tạo, mà thay vào đó là làm chứng cho nhau để thúc đẩy lẫn nhau trên con đường tìm hiểu kinh nghiệm tôn giáo; đồng thời xóa bỏ thành kiến, sự bất khoan dung và sự hiểu lầm. Đối thoại dẫn đến sự thanh luyện nội tâm và nếu đi theo sự hướng dẫn của Thần Khí sẽ nẩy sinh hoa trái thiêng liêng" (RM 56). Do đó, chúng ta phải biết chấp nhận và tha thứ cho nhau. Đạo của Đức Giêsu là đạo tình thương, đạo của ơn tha thứ và hòa giải. “Ai làm cho người hòa thuận ấy là phúc thật, vì chưng sẽ được gọi là con Thiên Chúa vậy” (Mt 5, 9).

Tiến trình hội nhập văn hóa là một tiến trình hai chiều rõ ràng. Một bên có đời sống Kitô giáo và sứ điệp được truyền đạt bởi Giáo hội, bên kia có nhiều nền văn hóa nhân loại luôn thay đổi và phát triển. Phương diện đời sống Kitô giáo và sứ điệp ảnh hưởng đến bối cảnh văn hóa Giáo hội địa phương gọi là hội nhập văn hóa hướng ngoại. Tác động văn hóa vào lối sống Ki tô giáo và sứ điệp được diễn tả, sống và truyền đạt gọi là hội nhập văn hóa hướng nội. Tuy nhiên, trong cả hai chiều, chúng ta có thể phân biệt tính cách của tiến trình đối thoại này thành ba giai đoạn. Trước tiên, chúng ta sẽ trình bày ba giai đoạn chung này, sau đó xem xét những ảnh hưởng trong thực tế cụ thể của chúng cả về phía Giáo hội và nền văn hóa:

Ba giai đoạn của tiến trình hội nhập văn hóa :

+ Trong tiến trình hội nhập văn hóa, đời sống Ki tô giáo và sứ điệp hiện diện trong một nền văn hóa nhất định. Thông thường, giai đoạn này phù hợp với việc bắt đầu Phúc Âm hóa và thành lập một nhóm tín hữu trong một khu vực văn hóa nhất định. Đối với những người được sai đến rao giảng Tin Mừng, sự khởi đầu này chính là giai đoạn học hỏi về những giá trị của nền văn hóa mới, mở rộng cõi lòng đón nhận những giá trị này, để có thể chuyển dịch sứ điệp mà họ đem tới trong cách thức mà người nghe có thể hiểu được. Có như vậy, "Giáo hội mới trở thành dấu chỉ rõ rệt hơn và là khí cụ hữu hiệu hơn của sứ vụ" (RM 52).                                              

+ Khi Giáo hội địa phương đã có đủ khả năng am hiểu những yếu tố khác nhau của nền văn hóa địa phương, và cũng biết cách diễn tả sứ điệp Ki tô giáo trên những bình diện khác nhau của nền văn hóa đó :  giai đoạn biến đổi bắt đầu. Có nghĩa la ø: đối với "hội nhập văn hóa hướng ngoại", những hiệu quả của việc Phúc Âm hóa trên nền văn hóa lúc này đã rõ ràng; đối với "hội nhập văn hóa hướng nội", một tiến trình dài của sự biện phân, thanh lọc và sáng tạo những hình thức mới để giải thích và diễn tả thỏa đáng những yếu tố của truyền thống Giáo hội. Bởi đó, Giáo hội địa phương sống căn tính riêng của mình sao cho vừa trung thành với gia sản của Giáo hội phổ quát, đồng thời hòa điệu với nền văn hóa của dân tộc mình. Nhưng Giáo hội không bao giờ sao lãng vai trò tiên tri của mình đối với những yếu tố văn hóa phủ nhận hình ảnh xác thực của con người, được sáng tỏ trong Đức Giê su Ki tô (GH số 22). Về phương diện này, Giáo hội địa phương qua lối sống và sứ điệp của mình, trở thành tác nhân và qui tắc để định hướng lại, đổi mới và tạo sinh khí cho văn hóa địa phương.

+ Giai đoạn thứ ba của tiến trình bắt đầu bằng việc  thiết lập sự hiệp thông mới. Sự hiệp thông này phải được xây dựng trên bình diện Giáo hội địa phương với nền văn hóa của dân tộc mình, đồng thời để ý đến bản tính công giáo của Giáo hội. Sự hiệp thông này mở rộng tới cả nhân loại, nhắm tới công cuộc xây dựng cái mà Đức Phao-lô VI gọi là "nền văn minh tình thương".

Tóm lại, hội nhập văn hóa là sự hòa hợp kinh nghiệm Kitô giáo của Giáo hội địa phương vào nền văn hóa của dân tộc mình. Kinh nghiệm này không chỉ diễn tả chính nó trong những yếu tố của nền văn hóa, mà còn trở thành một sức mạnh có thể tạo ra sinh khí, định hướng và đổi mới nền văn hóa này. Nó tạo ra sự thống nhất và hiệp thông mới, không chỉ trong nền văn hóa liên hệ, mà còn làm phong phú cho Giáo hội toàn cầu.

Các lãnh vực hội nhập văn hóa : Trong hội nhập văn hóa hướng ngoại, đó là sự hội nhập vào toàn bộ lãnh vực văn hóa nhân loại (GH số 53-56). Cần nhớ rằng cuộc gặp gỡ giữa Tin Mừng và văn hóa diễn ra trong lịch sử hiện tại và cụ thể của nhân loại, xét về cả phương diện xã hội lẫn cá nhân. Do đó, "con người, trong chân lý đầy đủ về sự hiện hữu của mình, về con người mình, cộng đồng và xã hội mình, là con đường đầu tiên và cơ bản của Giáo hội" (RH số 14).

Qua dòng lịch sử , cuộc gặp gỡ giữa Tin Mừng và văn hóa, được chuẩn bị bởi "hạt giống của Lời", vốn hiện diện trong gia sản thiêng liêng của nhân loại và giúp tạo nên hình ảnh Ki tô giáo xác thực của nhân loại. Một mặt, hình ảnh đích thực này đã được hiển hiện trong mạc khải của Đức Giê su Ki tô; mặt khác, được thực hiện trong những nền văn hóa khác nhau của nhân loại. Hình ảnh này có thể được coi như điểm hẹn giữa Tin Mừng và văn hóa. Đó cũng là nguyên tắc và tiêu chuẩn cho sự phát triển trong những nền văn hóa khác nhau, của nhân sinh quan và thế giới quan, của những tiêu chuẩn và thể chế xã hội, của khoa học kỹ thuật và nghệ thuật. Trong tất cả sự phát triển này, điểm then chốt là phẩm giá và sự tự do của con người.

Trong tiến trình hội nhập văn hóa hướng nội, sắc lệnh về Hiệp nhất của  công đồng Vaticanô II đã nêu lên 4 lãnh vực : phụng vụ, linh đạo, thần học và kỷ luật. Mặc dù trong những lảnh vực này có những "sự dị biệt chính đáng" (HN số 17). Và chúng đáng được tôn kính vì đã được thiết lập lâu đời. Sắc lệnh về Truyền giáo cũng đã xác quyết : những lãnh vực này phải được "thích nghi với tinh thần và đặc tính của từng nền văn hóa" (TG số  22). Tuy nhiên, cả hai sắc lệnh có thể soi sáng cho nhau, giúp hiểu sứ vụ của Giáo hội hoàn vũ trong những bối cảnh lịch sử và văn hóa khác nhau.

Trong sứ vụ hội nhập văn hóa, tính duy nhất của một Giáo hội công giáo vẫn phải là điều thiết yếu. "Các Giáo hội trẻ phải duy trì mối thông hiệp mật thiết với toàn thể Giáo hội và phải liên kết những yếu tố của truyền thống Giáo hội với nền văn hóa riêng, để nhờ trao đổi sinh lực cho nhau mà phát triển đời sống Nhiệm Thể" (TG số 19).

Bởi vậy, những cách diễn tả lối sống Ki tô giáo và sứ điệp của các Giáo hội  là sự trình bày phong phú về tính duy nhất của Giáo hội đối với sứ vụ trong thế giới hiện nay : "Những sự khác biệt về phong tục, tập quán chẳng những rất ít cản trở sự hiệp nhất của Giáo hội, mà còn tăng thêm vẻ đẹp của Giáo hội và góp phần không  nhỏ vào việc chu toàn sứ vụ của Giáo hội" (HN số 16).

Trong các sách giáo khoa về đào tạo truyền giáo, cần lưu ý đến lãnh vực hội nhập văn hóa thần học. Công đồng Vaticanô II đã đề cập vấn đề "những khác biệt trong các cách diễn tả giáo thuyết thần học" của các Giáo hội Đông phương : "Trên con đường tìm kiếm chân lý mạc khải, bên Đông phương cũng như Tây phương, có nhiều phương pháp và tiến trình khác nhau để nhận thức và tuyên xưng những sự thần linh. Bởi đó, không đáng ngạc nhiên khi thấy có một số khía cạnh của mầu nhiệm mạc khải, đôi khi được một bên hiểu đúng và trình bày sáng sủa hơn bên kia, thành thử những công thức thần học khác nhau ấy phải được coi là bổ túc hơn là đối lập" (HN số 17).

Các Giáo hội trẻ được khuyến khích đẩy mạnh việc nghiên cứu thần học trong mỗi vùng rộng lớn, cùng chung một nền văn hóa- xã hội: "Để nhờ ánh sáng Thánh Truyền của toàn thể Giáo hội, khám phá thêm những gì Thiên Chúa đã mạc khải qua hành động là ngôn từ của Ngài, đã được ghi chép trong Sách Thánh và được các Giáo Phụ và Quyền Giáo huấn giải thích. Như vậy, sẽ nhận thấy rõ ràng hơn những đường lối nào giúp đức tin có thể tìm gặp lý trí, tùy theo triết học hay lẽ khôn ngoan của các dân tộc này" (TG số 22).

 

KẾT LUẬN

Chúng ta có thể thấy rằng, trong lãnh vực nghiên cứu thần học và đào tạo, cũng như trong các lãnh vực khác của đời sống Giáo hội, tiến trình hội nhập văn hóa dưới sự hướng dẫn của Thần Khí, sẽ đem đến sự hiệp nhất sâu xa và phổ quát hơn. "Các Giáo hội địa phương tuy khác nhau như thế , nhưng đều hướng về sự hiệp nhất, nên càng minh chứng rõ ràng đặc tính công giáo của một Giáo hội không phân chia" (GH số 23).

GSVN

VỀ MỤC LỤC

TỰ THUẬT CUỘC ĐỜI Linh Mục Giuse Lê Đức Triệu

(Nhạc sĩ Hoài Đức)

 

TIỂU SỬ SƠ LƯỢC TỰ THUẬT 

Tôi sinh vào ngày 01 tháng 7 năm 1922, nhưng trong giấy khai sinh lại ghi là năm 1923. Vì khi lên 7 tuổi tôi mới xin đi học tức là quá một tuổi học lớp vỡ lòng, nên phải khai rút tuổi đi thì mới được nhận vào lớp. Tôi sinh ra ở Xã Vỹ Nhuế, Phủ Nghĩa Hưng, Tỉnh Nam Định cũ, bây giờ đổi là Xã Yên Đồng, Huyện Ý Yên, Tỉnh Nam Hà.

Thân phụ tôi là Phaolô Lê Danh Kính, gia nhập quân đội, ngành "khố xanh", (garde indigène - tư­ơng tự như Bảo An Ninh), đã tiến tới chức Xuất Đội, đã từng làm Đồn trưởng ở Tam Tòa, Lạc Quần (thuộc Tỉnh Nam Định bấy giờ) sau về hưu trí, đư­ợc phong hàm Phó Quản Cơ, đư­ợc tưởng lục bằng sắc Tòng Tứ phẩm, hàm Tín Nghĩa Đô Úy, từ trần năm 1956, thọ 66 tuổi.

Thân mẫu là Anna Nguyễn Thị Tắng, nội trợ, từ trần ngày 01-12-1979, không rõ tuổi. Ông bà sinh được 9 người con, tôi là thứ năm.

Thuở ấu thời, vì phải đi theo cha mẹ nhiều nơi, mãi đến năm 11 tuổi, mới về quê nhà, . tức là Xã Vỹ  Nhuế, cũng gọi là giáo xứ Kẻ Nấp, mới được học giáo lý để xưng tội lần đầu. Bấy giờ về trình độ văn hóa, tôi đã đậu bằng Sơ Học yếu lược, tức là năm thứ ba bậc Tiểu học (hết lớp Élémentaire). Thời ấy, các làng xã chưa có  trư­ờng công, chỉ ở phủ, huyện mới có, nên cha mẹ cho theo học chữ Nho. Hai năm sau mới cho theo học trường Tiểu học ở phủ Nghĩa Hưng (cũ) cách xa làng tôi 6 cây số, sáng đi tối về. Đến năm 1938, tôi đi thi ở tỉnh Nam Định, đậu bằng Sơ Học Pháp Việt (Certificat d'étude complémentaire franco-indigène). Thi đậu rồi, không biết có được theo học tiếp nữa không, vì muốn theo học lên trên nữa, thì phải trọ học ở tỉnh Nam Định. Vừa khi ấy, thầy giáo xứ cũ ở Đại chủng viện Hà Nội là Nguyễn Văn Thuyết, về chơi, vì có quen biết gia đình tôi và đã từng dạy học cho tôi hai năm trước, liền giới thiệu cho tôi đi tu.

Tôi cũng bằng lòng đi tu, vì cũng hợp với ý nguyện từ lâu. Tôi liền được giới thiệu với Cha Phêrô Trần Tiến Đức, chính xứ Bút Đông, nhận làm Cha đỡ đầu.

Năm ấy, tôi được vào học ở Tiểu chủng viện Hoàng Nguyên ngay, không phải qua Trường Tập ở Hà Nội, vì tôi đã đậu bằng Sơ Học Pháp Việt rồi. Mãn hạn 6 năm học La tinh ở Tiểu chủng viện Hoàng Nguyên, tôi được cử về giúp Cha đỡ đầu Trần Tiến Đức, xứ Bút Đông.

Tôi được giao việc dạy học lớp 3 và lớp 4, trường Tiểu học Tư­ Thục Công giáo, phụ trách ca đoàn giáo xứ, phụ trách Đoàn Nghĩa Binh Thánh Thể (tức là Thiếu Nhi Thánh Thể), Đoàn Thanh nữ Công giáo và thành lập Đoàn Thanh Niên Nông Nghiệp Công giáo, lo mọi việc phụng vụ trong nhà thờ. Hết một năm theo qui định của Đức Giám Mục Địa phận, tôi không gặp gì trở ngại, tôi được gọi về học ở Đại chủng viện, vào tháng 7 năm 1945.

Tôi nhập Đại chủng viện Xuân Bích ngày 01 tháng 9 năm 1945. Ngày hôm sau, ngày mồng 02 tháng 9 năm 1945, tôi cùng với toàn thể các chủng sinh đi tham dự buổi lễ Tuyên Ngôn Độc Lập ở Quảng trường Ba Đình. Niên học được tiến hành bình thường được một tháng, thì tôi được lệnh phải sơ tán vì cơ sở Chủng viện bị trưng dụng cho quân đội Trung Hoa trú đóng.

Chính trong thời kỳ sơ tán này, tôi được Nguyễn Khắc Xuyên rủ tôi nghiên cứu về kỹ thuật sáng tác thánh ca. Lúc ấy Nguyễn Khắc Xuyên về giúp xứ Bút Đông thay thế tôi. Tôi tập sáng tác thánh ca, và bài đầu tiên của tôi là bài "Thánh Tâm Chúa Giêsu, Vua đất Việt" với ý nguyện là cầu cho nước Việt Nam được thái bình thoát nạn chiến tranh.

Rồi gặp mùa Giáng sinh tới, tôi sáng tác bài "Đêm đông âm u", tiếp theo là bài "Cao cung lên" cũng là do cảm hứng lúc nghe tiếng chuông nguyện ban chiều. Lúc đó, cùng với cộng đoàn giáo dân làm giờ Viếng Hang Đá buổi chiều vừa xong, tôi ra khỏi nhà thờ đang bước từ nền nhà thờ xuống sân, thì nghe tiếng chuông nguyện ban chiều, bỗng cảm thấy trong tâm trí một tứ nhạc phỏng theo tiếng chuông, cho tới khi xuống sân nhà thờ, thì đã hình thánh trong trí xong bản nhạc cả lời của điệp khúc và phiên khúc 1. Ngay lúc đó, tôi về phòng riêng chép lại thì nguồn cảm hứng đã tắt, không thể đặt tiếp những phiên khúc sau được nữa. Tôi liền cho Nguyễn Khắc Xuyên xem, và Nguyễn Khắc Xuyên nhận đặt tiếp mấy phiên khúc sau có văn phong hơi khác với điệp khúc và phiên khúc 1. Ít ngày sau đó, Nguyễn Khắc Xuyên và Bùi Vĩnh Phước (một chủng sinh học trên tôi một năm cũng đang sơ tán ở đó) cùng nhau sáng tác được điệu nhạc bài "Cùng đi Be-!em" như­ng cả hai không có hứng đặt lời. Tình cờ tôi đi qua, tạt vào xem, thấy thế liền nổi hứng cầm bản nhạc về phòng riêng, qua đêm đến sáng hôm sau đã đưa cho hai ngư­ời xem toàn bài, có một điệp khúc và ba phiên khúc. Hai người xem xong, cho là tuy ch­ưa hay lắm như­ng cũng hát được. Tuy thế nhưng bản thân chư­a muốn đi sâu vào ngành âm nhạc, vì lúc ấy chư­a có điều kiện học hỏi nghiên cứu sâu xa về âm nhạc, nên chỉ sáng tác ngẫu hứng thôi. Đến tháng 9 năm 1946, chúng tôi lại được lệnh nhập học tại Đại chủng viện Xuân Bích, vì cơ sở đã được trả lại. Cũng lúc này, theo lời Nguyễn Khắc Xuyên rủ, tôi chính thức gia nhập Nhạc Đoàn Lê Bảo Tịnh do mấy anh em chủng.. sinh Hà Nội, lớp trên tôi khởi xư­ớng thành lập, như Hùng Lân, Thiên Phụng, Tâm Bảo, Hùng Thái Hoan, Cao Phương, có cả Nguyễn Khắc Xuyên, Hoài Chiên...

Chúng tôi học được chừng 3 tháng, thì gặp ngày toàn quốc kháng chiến, toàn bộ giáo sư bị câu thúc vì toàn là các Linh mục ngư­ời Pháp cả, tất cả chủng sinh đư­ợc lệnh giải tán về các địa phương xa thành phố Hà Nội. Tôi lại trở về Bút Đông tạm sống với Cha Trần Tiến Đức. Cũng vì được sống lâu ngày với Cha Trần Tiến Đức như thế, nên tôi đã lấy bút hiệu là Hoài Đức, ý là mến thương Cha Đức, mỗi khi sáng tác được bài ca nào.

Trong 3 tháng học ở Đại chủng viện vừa qua, tôi đã sáng tác được bài "Giờ tử nạn" trong lúc tinh thần đang bị căng thẳng và tình hình an ninh của Hà Nội lúc ấy. Ở Bút Đông được chừng 6 tháng, thấy tình thế còn lâu mới có thể học lại ở Đại chủng viện được, tôi liền xin Cha xứ Bút Đông cho tôi trở về quê ở Vỹ Nhuế tạm sống cho tới khi có tin mới về Chủng viện.

Tôi trở về quê, giúp Cha xứ Vỹ Nhuế là Cha già Giuse Trịnh Ngọc Am, vì xứ quê tôi đang thiếu thầy giáo giúp xứ.

Tôi được Cha xứ giao cho việc dạy học mấy lớp Tiểu học, và việc thành lập Đoàn hội cầu nguyện, thoạt đầu là cho lớp tuổi thiếu nhi, gọi là Nghĩa Binh Thánh Thể, sau đến lớp tuổi cao niên, gọi là Trung Binh Thánh Thể, thành ra hầu hết giáo hữu đều ở trong Hội Cầu Nguyện. Cũng chính trong thời kỳ sơ tán này tôi lại có hứng sáng tác nhạc trở lại, cũng do nhu cầu cần có bài hát thánh ca cho các em thiếu nhi nữa. Những bài tôi sáng tác thời gian này là những bài "Kinh Truyền Tin", "Dâng mình" phỏng theo ý của kinh dâng mình buổi sáng của Nghĩa Binh Thánh Thể, "Lạy Mẹ Mân Côi", sau đổi thành "Lạy Mẹ khoan nhân", "Tiến hoa năm sắc" để cho các em Nghĩa Bình dâng hoa tháng Năm, "Con đã hiểu", "Phúc tử đạo", "Dưới vực sâu", "Ngày xuân cầu nguyện", "Thờ lạy Chúa", "Ngợi khen" (thánh vịnh Magnificat) dịch ra tiếng Việt hát theo điệu thánh vịnh La tinh cung thứ 8 trang trọng. Tôi cũng thử sáng tác một nhạc kịch về Thánh Lê Bảo Tịnh và Phaolô Bột với những bài "Thời tử đạo", "Á Thánh Tịnh", "Lời cầu nguyện" (diễn cảnh Á Thánh ngồi hát một mình trong tù), "Nỗi khổ lòng" diễn cảnh Phaolô Bột hát lúc thống hối tội lỗi đã trót quá khóa rồi lại quyết ra đi x­ưng đạo rồi chịu tử vì đạo, "Cảnh điêu tàn" diễn cảnh Á Thánh Tịnh than thở trước cảnh các xứ đạo bị tàn phá vì bị bách đạo. Những bài đó, tôi đã bỏ đi, vì e sợ tình thế sẽ gây bất lợi cho tôi lúc đó. Tôi có làm thêm một bài "Thiếu Nhi Công giáo Việt Nam" coi như bài Đoàn ca cho các em Nghĩa Binh hát trong khi đi dự những cuộc biểu tình với tư cách là Đoàn thiếu nhi Công giáo xứ Vỹ Nhuế. Những bài như­ thế về sau tôi bỏ đi tất cả.

Thời gian tản cư kéo dài khoảng 2 năm, từ tháng 12 năm 1946 đến tháng năm 1948, tôi nghe phong thanh tin Nhà Chung Hà Nội đã cho mở lại Đại chủng viện, tôi đánh bạo tìm cách đi lén về Hà Nội để được tiếp tục học. Tôi lại học tiếp khoa Triết học và Thần học cho đến 4 năm sau. Chính vào thời kỳ này, khi mới vào Hà Nội, phải lấy giấy căn cước mới, tôi xin cải tên là Lê Đức Triệu, và luôn tiện tôi cũng khai cả bút hiệu Hoài Đức trong căn cư­ớc. Sau khi chịu Bốn chức nhỏ xong, tôi phải nghỉ học vì bệnh suy tim, và được Đức Giám Mục Trịnh Như Khuê cử về giúp Cha Kỷ giáo xứ Chợ Nội, được vài tháng sau vì tình hình không được yên, tôi lại được cử về giúp Cha Vũ Tiên Tiến giáo xứ Sở Kiện, huyện Thanh Liêm, tỉnh Phủ Lý. Tôi được giao phụ trách trường Tiểu học Tư­ thục Công giáo Kiện Khê, ca đoàn và Thiếu nhi Thánh Thể tức là Đoàn Nghĩa Binh. Thời kỳ này tôi không sáng tác được nữa, vì bận nhiều việc, ngoại trừ việc phổ nhạc vào một bài thơ "Kính Thánh Phanxicô Assise" theo yêu cầu của linh mục Duy Ân Mai, dòng Phanxicô.

Đến năm 1954, khoảng tháng 2 hay tháng 3, chiến sự lan tới Sở Kiện, tôi lại phải di tản lần nữa lên Hà Nội, Đức Giám Mục lại cử tôi đi truyền giáo ở làng Cáo Đỉnh, thuộc giáo xứ Cổ Nhuế (tức là xứ Kẻ Noi, ngoại ô Hà Nội). Được chừng hơn 3 tháng, tôi được lệnh chuyển về dạy học ở Tiểu chủng viện Piô XII dưới quyền Cha Nguyễn Huy Mai là giám đốc (lúc ấy chưa làm giám mục), và cùng với toàn bộ Chủng viện di cư vào miền Nam. Vừa vào tới Sài gòn, cả Chủng viện tạm trú chân ở trường Taberd đường Nguyễn Du trong khoảng một tháng. Lúc ấy có một Sư­ Huynh nghe biết tôi có ở đấy, liền tìm đến nhờ tôi sáng tác hộ một bài ca dành riêng cho Đoàn học sinh Thánh Mẫu, và trao cho tôi một bản kinh riêng của Đoàn. Tôi nể tình nhận lời. Tối hôm đó, nhân trời sáng trăng, tôi một mình đi bách bộ dưới sân suy nghĩ. Sáng hôm sau tôi đã viết xong bài ca "Dâng Mình" đưa cho Sư Huynh. Tôi đã dựa vào những ý tưởng trong bài kinh riêng của Đoàn Thiếu nhi Thánh Mẫu. Tôi cũng không ngờ bài ca đó về sau được nhiều người ưa chuộng và trở nên quen thuộc. Cũng như bài ca "Cung chúc Trinh Vương" tôi cũng đã dựa theo những ý tưởng bài kinh của Đức Giám Mục Trịnh Như Khuê đã đặt ra khi Ngài dâng địa phận Hà Nội cho Đức Mẹ sau khi Ngài thụ phong Giám Mục Hà Nội, và bài ca ấy cũng được nhiều người ưa chuộng và quen hát cho đến ngày nay.

Một tháng sau, chúng tôi đã cho dựng xong mấy dãy nhà tôn ở trên sân cỏ đàng sau Hang Đá của nhà thờ Ngã Sáu Chợ Lớn của Cha xứ Bùi Văn Nho cho mượn. Vào những ngày xảy ra cuộc đụng độ giữa quân chính phủ Ngô Đình Diệm với quân Bình Xuyên, một vài trái đạn cỡ lớn đã rớt nổ trúng khu nhà chúng tôi làm cho Cha giám đốc bị trọng thư­ơng, phải nằm điều trị ở bệnh viện Grall một thời gian, còn toàn bộ chủng sinh phải tạm tránh lên xứ Hợp An trên Xóm Mới. Chừng một tháng sau, tình hình yên ổn, chúng tôi mới lại trở về tiếp tục sinh hoạt bình thư­ờng. Tôi được giao cho dạy môn La tinh, Toán, Lý, Hóa mấy lớp dư­ới, và phụ trách môn âm nhạc chung, chủ yếu là tập hát những nghi lễ phụng vụ. Bấy giờ hát Bình ca là chính, nên tôi phải nghiên cứu về Bình ca. Hai năm sau, toàn bộ Chủng viện lại dọn sang khu nhà kế cận của Nhà Nữ Tu Thánh Phaolô cho m­ượn, số 223 Nguyễn Tri Phư­ơng, tiện nghi hơn và khang trang hơn.

Đến niên học 1957, bệnh suy tim đã giảm nhiều, tôi lại được về Đại chủng viện Xuân Bích, ở Thị Nghè, để học nốt chương trình Thần học năm cuối cùng. Hết niên học đó, tôi lại trở về Tiểu chủng viện Piô XII dạy học tiếp.

Đến ngày 08 tháng 3 năm 1959, tôi thụ phong chức Phụ Phó Tế (chức Năm).

Rồi đến ngày 05 tháng 06 năm 1959, tôi thụ phong chức Phó Tế (chức Sáu).

Và ngày 06 tháng 6 năm 1959, tôi thụ phong chức Linh mục tại Nhà thờ Ngã Sáu Chợ Lớn, do Đức Giám Mục Sàigòn là Simon Hòa Nguyễn Văn Hiền chủ phong. Sau khi thụ phong Linh mục, tôi đư­ợc giao nhiệm vụ Giám Luật trong Chủng Viện trong khi vẫn phụ trách các môn học như trước.

Từ năm 1948 trở đi, tôi được gặp các anh em nhạc đoàn Lê Bảo Tịnh nhiều hơn, nên cũng có dịp để sáng tác nhiều hơn. Khi di cư vào Nam thì cũng có dịp gặp anh em nhạc đoàn nhiều, nhất là từ khi nhạc đoàn mời được đông nhạc sĩ mới tham gia, thì lại có nhiều cơ hội để sáng tác nhiều hơn. Lại cũng vì phụ trách môn âm nhạc trong Chủng viện, nên lại thêm điều kiện để đi sâu vào âm nhạc hơn. Sau khi tôi thụ phong Linh mục thì Hùng Lân từ trước đến nay vẫn giữ chức Đoàn Trưởng Nhạc đoàn, nay nhường lại chức vị đó cho tôi, để cho nhạc đoàn dễ bề phát triển, dù các việc đối với nhạc đoàn anh cũng vẫn đảm nhận như trước. Trong thời kỳ này, tôi biên soạn cuốn "Nhạc lý Ca điệu Grégorio" (Bình ca) để tiện dạy cho các chủng sinh. Tôi đã phải tham khảo các sách dạy về Bình ca của các nhạc sư Don Sunol, Dom Mocquereau, Don Gajard, Vincent d'indy, J. Perrodon, và một ít tài liệu giáo khoa của Cha cố Giám đốc Xuân Bích Yves Hémon đã cho tôi năm 1950.

Đến năm 1966, Tiểu chủng viện Piô XII chấm dứt hoạt động theo lệnh của Tòa Thánh, tôi được thuyên chuyển lên địa phận Kontum, bởi vì lúc thụ phong Linh mục, tôi đã nhận được Đức Giám Mục Kontum là Paul Seitz là Giám Mục bản quyền. Lúc ấy, Đức Giám Mục phụ trách Phụng Vụ và Thánh Nhạc là Phạm Văn Thiên muốn lưu giữ tôi ở lại Sàigòn để làm Thư ký thường trực Uỷ ban Thánh Nhạc toàn quốc, nhưng Đức Giám Mục Kontum muốn cho tôi lên dạy học Tiểu chủng viện Thừa sai Kontum ít lâu đã. Nên tháng 7 năm 1966 tôi lên Kontum, dạy học trong Tiểu chủng viện. Và sang năm sau, 1967, tôi được cử làm Phó bề trên kiêm Quản lý Chủng viện. Tư­ởng ở luôn phục vụ địa phận Kontum lâu dài như­ng đến hết niên học 1967-1968, Đức Giám Mục Kontum lại thuận theo đề nghị của Đức Giám Mục phụ trách Phụng Vụ và Thánh Nhạc, cho tôi chuyển về Sàigòn, giữ chức Thư ký thường trực Uỷ ban Thánh Nhạc toàn quốc, (Cha Nguyễn Văn Hoà – sau là Giám Mục Nha Trang) là thư ký chính thức của Uỷ Ban lúc ấy đang ở trên Đà Lạt. Cũng vào dịp đó, Toà Thánh thiết lập địa phận Banmêthuột trích từ tỉnh Banmêthuộc (BMT) của đại phận Kontum, và tỉnh Quảng Đức với tỉnh Phư­ớc Long của địa phận Phú Cư­ờng thành địa phận mới, đồng thời bổ nhiệm Đức Giám Mục Phêrô Nguyễn Huy Mai làm Giám đốc tiên khởi địa phận BMT. Lúc ấy, theo nguyên tắc, Linh mục nào đang làm nhiệm vụ ở đâu thì ở yên tại chỗ, trừ có tôi là đang ở ngoài địa phận bản quyền là Kontum, thì được tự do chọn địa phận bản quyền. Hai Đức Giám Mục Nguyễn Huy Mai và Paul. Seitz thỏa thuận với nhau để cho tôi gia nhập địa phận BMT và Cha Nhân đang ở BMT lên gia nhập địa phận Kontum. Tuy nhiên tôi vẫn ở lại Sàigòn làm việc cho Ban Thánh Nhạc toàn quốc, dưới quyền Đức Giám Mục Phạm Văn Thiên.

Trong thời gian tôi ở trên Kontum, tôi có phổ nhạc được một lễ An táng và Cầu hồn, một bộ kinh Xin Chúa thương xót theo âm điệu Bình ca theo bản văn của Sách Lễ Hiện Tại. Về sau ít lâu có bản văn Phụng vụ tiếng Việt chính thức, tôi bỏ các bản tôi đã làm, không cho phổ biến nữa.

Tuy vậy, tôi cũng không ở Sàigòn được lâu, chưa kịp nghiên cứu soạn thảo chương trình hoạt động của Uỷ Ban Thánh Nhạc toàn quốc, thì đến tháng 7 năm 1969, vì địa phận BMT khuyết người làm quản lý địa phận, nên Đức Giám Mục Nguyễn Huy Mai phải đề nghị với Đức Giám Mục Phạm Văn Thiên để cho tôi từ nhiệm chức vị Thư ký Thường trực Uỷ Ban Thánh nhạc toàn quốc và đề nghị tôi lên BMT đảm nhận chức vụ quản lý tài sản Nhà Chung BMT. Thế là tôi từ giã Sàigòn, giã từ ngành Thánh Nhạc, giã từ luôn cả Nhạc đoàn Lê Bảo Tịnh nữa, vì tôi biết chắc chắn rằng công việc tài chánh sẽ làm cản trở các hứng thú về âm nhạc. Quả đúng như vậy, lên tới Nhà Chung BMT ngày 4 tháng 7 năm 1969, lập tức tôi bị cuốn hút vào công việc quản lý, kiệm Giám đốc cơ quan từ thiện xã hội Caritas, kiêm luôn cả chức Chủ tịch phong trào Công lý và Hoà bình địa phận. Là quản lý Nhà Chung, tôi phải thường xuyên trông công hai đồn điền cà phê, mặc dầu lúc ấy có một Cha người Pháp tên là Romeur vẫn đang tiếp tục điều khiển mọi việc sản xuất, rồi trông coi các công việc xây dựng các cơ sở như Tiểu chủng viện, Tu viện Nữ Vương Hòa Bình; là Giám đốc Caritas, tôi phải lo việc điều hành tiếp nhận phẩm vật cứu trợ và phân phối những phẩm vật đó cho các đồng bào nghèo không phân biệt tôn giáo, rồi xây cất Viện dưỡng lão, xây dựng quán cơm xã hội; là Chủ tịch phong trào Công lý và Hoà bình, tôi phải lo điều hành sinh hoạt của phong trào trong địa phận, ngần ấy công việc đã ngốn hết cả thời giờ và công sức hằng ngày, không còn lúc nào nghĩ đến âm nhạc nữa. Địa phận BMT cũng có Uỷ Ban Thánh nhạc địa phận, và tôi cũng ở trong Uỷ Ban đó, do Đức Cha Nguyễn Văn Hòa phụ trách (khi ấy Ngài chưa làm Giám Mục), nhưng tôi chỉ giúp tổ chức cho Hội diễn Thánh Nhạc Giáng Sinh mỗi năm một lần trong dịp Noel, và cũng huấn luyện cho một ca đoàn Sion, chừng mười lăm ca viên để góp mặt trong buổi hội diễn.

Sinh hoạt đều đặn như vậy cho đến tháng 3 năm 1975, ngày 10, Cách mạng giải phóng BMT trong cơn dầu sôi lửa bỏng, mặc dù có nhiều cơn cám dỗ và nhiều cơ hội để tôi có thể đi khỏi BMT một mình, nhưng tôi đã gắn bó với BMT và với Đức Cha Nguyễn Huy Mai, vừa là vị Giám Mục của tôi, mà cũng là Thầy dạy cũ và là vị ân nhân của tôi,. nên tôi không nỡ bỏ đi đâu cả, một mình xoay xở chèo chống cho qua cơn khó khăn vật chất và tinh thần. Khi đã qua những ngày sôi động ấy rồi, tình thế đã ổn định trong chế độ mới, mà cơ sở Tập viện Nữ Vương Hòa Bình vẫn còn dang dang dở trong giai đoạn đầu, theo lời khuyên của Đức Giám Mục BMT, tôi lại tiếp tục công trình xây cất khu Tập viện. Tôi phải lo xoay xở kinh phí, mua bán vật liệu trong khi thủ tục đã trở nên khó khăn, như­gỗ, gạch, cát, xi măng, vôi ... đã rất khan hiếm, nên phải rút bớt chương trình xây dựng lúc ban đầu. Nhờ gặp được nhiều may mắn, nên hoàn thành vào ngày 15 tháng 8 năm 1976.

Tôi tiếp tục sinh hoạt bình thường như vậy, cho đến cuối năm 1976, thì tôi cảm thấy có nhiều dấu hiệu bất thường, đe dọa đến cuộc sống, mặc dầu tôi vẫn giao thiệp với các cơ quan chính quyền như thường, như ngân hàng, Ty Nông nghiệp, Ty vật tư, Hội Phụ nữ, Hợp tác xã chăn nuôi… theo đúng chức năng của một quản lý Nhà Chung, còn những việc dính dáng đến phong trào Công lý Hoà bình và cơ quan Caritas thì chấm dứt. Thậm chí, cơ sở quán cơm bị hư hại hơn 50 phần trăm trong những ngày chiến sự, tôi cũng không có điều kiện để khôi phục lại. Tỉnh uỷ Đắc Lắc cử cán bộ đến gặp tôi nhường lại cơ sở đó cho chính quyền để làm nhà thư viện tỉnh. Ông ấy có nói với tôi như sau: "Trước đây chúng tôi đã từng ăn ở quán cơm này, chúng tôi biết rõ quán cơm không nhằm mục đích kinh doanh mà chỉ nhằm mục đích từ thiện giúp đỡ dân chúng lao động. nghèo, chứ nếu Linh mục có ý kinh doanh kiếm lời thì chúng tôi đã liệt vào hạng tư bản và chúng tôi đã tịch thu rồi. Chúng tôi biết là tài sản của Nhà Chung, nhưng thấy Linh mục đã để lâu không sửa chữa lại mà dùng, nên chúng tôi đến xin Linh mục nhường lại cho chúng tôi làm Thư viện tỉnh, vì nó tọa lạc ngay trung tâm tỉnh, cũng là việc công ích thôi". Tôi trả lời: "Quả thực tôi không có điều kiện để sửa cơ sở đó, mà cũng không biết sửa chữa để làm gì, vì khi lập quán cơm xã hội ở địa điểm đó , thì tôi đã hứa với cơ quan hành chính cũ của Tỉnh rằng, tôi chỉ dùng cơ sở đó vào mục đích từ thiện thôi, còn nếu khi nào tôi không còn dùng vào việc từ thiện nữa, thì tôi sẽ giao cơ sở lại cho chính quyền mà không đòi hỏi một đồng bồi thường nào cả. Bây giờ với chính quyền cách mạng, tôi biết rằng theo chính sách thì chính quyền quản lý cả các việc từ thiện xã hội. Tôi không còn phải làm nữa, giữ lời đã hứa, tôi xin giao lại cơ sở đó cho chính quyền mà không đặt một điều kiện nào cả. Xin ông về báo cáo với cấp trên như thế." Hiện bây giờ, tôi được biết là cơ sở quán cơm xã hội cũ của tôi vẫn được dùng làm thư viện tỉnh.

Dù đã cảm nhận thấy những dấu hiệu bất tường như tôi nói ở trên, tôi vẫn không nao núng, cứ bình tĩnh với những công việc thường nhật: Thì vào ngày 12 tháng 1 năm 1977, Tòa Giám Mục BMT nhận được giấy báo, phải cho tôi trình diện với cơ quan công an tỉnh Đắc Lắc để đi cải tạo, với lý do là tôi đã từng có liên hệ với chính quyền chế độ cũ. Sự bất thường mà tôi cảm nhận trước đó đã đến, khó lòng tránh khỏi. Mà giả như tôi có ý muốn tránh thì cũng có thể được thôi. Nhưng như vậy thì sau này sẽ có nhiều điều kiện không hay xảy đến, mà lương tâm một vị Linh mục trung thành và ngay thẳng không cho phép, nên tôi vui lòng chấp nhận, sẵn sàng cắp gói ra đi theo lệnh chính quyền, trong bụng linh cảm thấy ngày trở về thực là xa xôi, cũng có thể là không có.

Ngày 14 tháng 1 năm 1977, tôi vào trại cải tạo Mê-van, thuộc tỉnh Đắc Lắc, ở chung với 2 anh em Linh mục khác cũng đang ở đó. Một tháng sau lại có thêm một Linh mục khác nữa cũng vào cải tạo chung với nhau. Hai tháng sau, tất cả 4 anh em chúng tôi cùng với một số anh em đồng cảnh khác được chuyển ra miền Bắc, tới trại CT 3 Tân Kỳ, Hà Tĩnh. Rồi sang năm sau. 1978, chúng tôi lại được chuyển ra trại Phú Sơn, Bắc Thái, giam chung với 12 Linh mục khác nữa theo chế độ "kiên giam" (suốt ngày giam trong một khu riêng biệt, cách ly với anh em đồng cảnh khác). Tới năm 1979, tất cả số anh em Linh mục ở đó lại đư­ợc chuyển về trại Thanh Cẩm, tỉnh Thanh Hóa, vẫn theo chế độ "kiên giam". Chừng một năm sau thì tất cả anh em Linh mục, chừng độ hơn hai chục, được đổi sang chế độ lao động như mọi anh em cải tạo khác.

Từ khi bước chân đi cải tạo, tôi vẫn giữ được sức khỏe bình thường, tuy rằng có sụt đi gần 20 ký. Nhưng đến ngày 25 tháng 2 năm 1985, tôi bị bệnh "tai biến mạch máu não", miệng không nói được nữa, liệt nửa người bên phải. Từ đó tôi không thể đi lao động với anh em được nữa, cả ngày nằm ở nhà, nhờ anh em biết cách chữa, mài dây đàn ghi ta làm dây châm cứu, chỉ cách cho tôi tự luyện tập vật lý trị liệu, 3 tháng sau, tôi đã có thể lò dò đi được, miệng đã có thể nói khá rõ, tay đã cầm đũa ăn được. Sau đó ít lâu, tại trạm xá của trại, có một trại viên người Hoa, vốn làm nghề lương y, cũng cải tạo ở đấy, làm nhiệm vụ y tá cho trại. Anh ấy tự nhiên có cảm tình và nể trọng tôi, nên đã tận tình điều trị cho tôi bằng thủ thuật châm cứu đặc biệt hơn một năm trời, cho đến khi tôi được tha. Lúc ấy có một Linh mục già yếu như tôi. Cả hai chúng tôi cùng đư­c kiểm tra bệnh tình và sức khỏe, có hy vọng được tha sớm. Nhưng Linh mục đó được tha về trư­ớc. Về sau tôi được biết là có cán bộ nói chuyện với nhiều anh em khác rằng: "Có những người trại đã đề nghị cho về nhà, nhưng vì khi hỏi ý kiến địa phương tiếp quản thì địa phương từ chối không nhận, nên chưa tha về được". Tôi đã ngờ rằng đó có thể là trường hợp của tôi chăng. Đến tháng 11 năm 1987, tôi được lệnh tha cùng với khoảng 50 anh em khác. Khi đọc lệnh tha tôi, thì chỉ định cho tôi về cư trú tại TP.HCM, chứ không cho tôi về Tòa Giám Mục BMT. Tôi có nêu thắc mắc với cán bộ giáo dục của trại, thì được hỏi lại rằng: "Thế thì anh muốn về đâu?" Tôi trả lời: "Trước tôi ở đâu thì tha tôi về đó, cán bộ ấy nói gọn một câu: "Trên quyết định như thế nào, thì anh cứ chấp hành như thế".

Bởi vì chúng tôi có một thời hạn là một tháng để về trình diện tại địa phương, nên đa số chúng tôi dùng thời gian đó để đi thăm bà con ở xa trước. Tôi cũng muốn về thăm quê nhà ngoài Bắc trước khi về TP.HCM, nhân tiện cũng muốn nhờ một người cháu tháp tùng đưa tôi đi, chứ tình trạng sức khoẻ của tôi không cho phép tôi đi một mình. May cho tôi là có hai người bạn cải tạo cùng được tha dịp ấy, một người gốc Hoa, một người dân tộc Mường vùng Cao Bằng, tình nguyện đi theo giúp đỡ tôi từ Thanh Hóa về Ninh Bình, ngày hôm sau mới  từ biệt tôi. Ở Ninh Bình, tôi đến nhà người cháu gái tôi là Lê thị Chính, gọi tôi là bác ruột, nghỉ vài ba ngày, rồi cháu tôi lấy xe đạp chở tôi về Vỹ Nhuế, cách Ninh Bình trên 7 cây số. Tôi dự tính ở quê nhà chừng vài ba tuần rồi sẽ về miền Nam. Khi rời khỏi trại cải tạo, cán bộ trại trao giấy tha cho chúng tôi và dặn rằng, khi đi đến đâu, cứ việc đưa trình giấy này cho chính quyền địa phương là được rồi, ở đó mấy ngày cũng đư­ợc, miễn là về trình diện địa phương đúng thời hạn ghi trong giấy là được. Ngờ đâu chính quyền địa phương xã Vỹ Nhuế, lúc ấy gọi là xã Yên Đồng, không cho phép, buộc tôi phải rời khỏi quê 3 ngày sau, lấy lý do là xã đang được ổn định về chính trị xã hội, nay nếu vì sự có mặt của tôi mà xảy ra sự gì bất ổn, thì tôi phải hoàn toàn chịu trách nhiệm, dù tôi đã rời khỏi đó rồi. Trong vài ngày ở lại quê, tôi không được phép đi đâu cả, không được ra khỏi nhà người chị dâu cả của tôi. Tôi muốn đi thăm người em ruột, phải xin phép trước, muốn đi viếng mộ song thân tôi, phải xin phép trước. Ban tối có quân dân rình ở ngoài vườn xem tôi có lén đi đâu không. Công an giữ giấy ra trại của tôi. Tôi phải bảo cháu tôi nhờ người xin lại, thì tối hôm trước ngày hết hạn, giấy ra trại mới được trả lại. Sáng sớm hôm sau, trước 7 giờ sáng, cháu tôi lấy xe đạp chở tôi ra khỏi làng, sang làng bên cạnh, là làng Vĩnh Trị, tên gọi mới là Yên Trị, cách làng quê tôi có hơn hai cây số. Một điều khó hiểu là cũng có mấy ng­ười bà con họ hàng, thì họ nói rằng: "Bác cứ ở chơi bao lâu cũng được, không có gì phải e ngại". Nhưng tôi không yên tâm, chỉ ở Vĩnh Trị có hai ngày rồi tôi lại bảo cháu tôi chở vào Ninh Bình ở nhà cháu Lê Thị Chính. Ba hôm sau, tôi nhờ cháu tôi và một người bà con tháp tùng tôi lên Hà Nội ở thăm một người cháu khác tên là Ngọc là cháu ngoại của bà chị cả tôi.

Tôi ở Hà Nội thăm Đức Hồng Y Trịnh Văn Căn trước cùng học một trường Lý Đoán với nhau, và thăm lại Nhà Chung Hà Nội, Đại chủng viện nơi tôi học Thần học mấy năm trời ngày trước. Niềm phấn khởi bừng lên trong tôi từ ngày ra trại đã bị dao động và giảm đi nhiều.

Cuối tháng 11 năm 1987, tôi được một người cháu gọi bằng cậu ruột và một người em họ tháp tùng tôi đi xe lửa vào TP.HCM cho kịp ngày trình diện. Tới đây, tôi lại gặp một vấn đề rắc rối nữa. Vì trong giấy ra trại của tôi đã chỉ định cho tôi về cư trú tại TP.HCM, số nhà 491/74A Lê Văn Sĩ - phường 22 - Quận 3 (nay là phường 12), của người em họ tôi là Lê Thị Đến, nhưng lại bắt tôi phải về trình diện tại Tòa Giám Mục BMT. Tôi thắc mắc hết sức, thế này thì đi trình diện ở nơi nào cho đúng. Trong một ngày mà đi trình diện ở mãi BMT rồi lại về TP.HCM trình diện thì làm sao cho kịp. Vả lại Tòa Giám Mục có phải là cơ quan chính quyền đâu mà phải đến trình diện. Đã hơn 10 năm sống cách biệt xã hội, tôi không hiểu các thủ tục hành chính hiện nay ra sao. Tôi đành cứ theo cô em họ là chủ hộ tôi đến cư trú mà ra trình diện cơ quan Công an phường 22 Quận 3 đúng ngày đã ấn định trong giấy ra trại xem ra sao đã. Người tiếp tôi ở văn phòng công an ghi nhận rồi bảo tôi phải lên BMT trình diện. Tôi trả lời rằng hiện nay sức khỏe không cho phép tôi đi lại mãi như vậy, vả lại cán bộ trại bảo tôi cứ chấp hành cho tốt như lệnh trên đã ghi trong giấy ra trại thì tôi cứ chấp hành, còn về Tòa Giám Mục BMT thì tôi sẽ viết thư báo cáo là tôi đã về và trình diện tại đây rồi, nếu có phải bó buộc tôi lên BMT, thì xin cơ quan tại đây điện ra trại Thanh Cẩm xin đổi cho tôi một giấy ra trại khác, trong đó ghi rõ nơi trình diện, thì tôi sẽ đi BMT. Đợi một lúc không thấy giải quyết gì, tôi ra về và không đi đâu nữa. Sau đó vài tuần lễ, một người bà con giới thiệu cho tôi được gặp một người công an đang làm việc ở Sở Công an Thành phố để hỏi về việc ấy, thì được giải thích rằng: đó là một cách của chính quyền "chỉ định cư trú cho từng đối tượng" không muốn cho đi đâu cả mà không cho biết. Người ấy lại nói thêm " Giả như cụ có muốn xin lên BMT, thì chính quyền BMT cũng sẽ từ chối thôi, không nhận cụ đâu. Thôi, cụ cứ yên tâm ở đây, chờ khi nào được cấp giấy tờ cư trú hợp pháp đã, rồi bấy giờ mới xin chuyển lên BMT sau. Tôi không thể giúp cụ được gì đâu, đành chịu vậy thôi". Lời khuyên có vẻ thành thật, thẳng thắn, không một chút "xã giao" nào, làm cho tôi chỉ còn biết thinh lặng, cam chịu, chờ đợi "một cái gì không biết" và xảy đến "lúc nào không hay". Trong khi ấy, tôi không biết phải giải thích cho những người quen thân trên BMT, nhất là chắc chắc có Đức Giám Mục BMT thắc mắc: "Tại sao tôi lại xin về TP.HCM mà không xin trở lại BMT?". Tôi biết Đức Giám Mục vẫn muốn cho tôi về BMT, vì giữa Ngài với tôi đã có một sự gắn bó mật thiết, lại nữa trước đây khi Ngài có dịp ra Hà Nội, Ngài đã từng nghe một cán bộ cao cấp trung ương hứa với các Đức Giám Mục rằng: "Các Linh mục đi cải tạo, khi được tha, thì sẽ được trả về các Tòa Giám Mục hết, chứ không bắt trở về gia đình riêng. Ngài nói thêm: "Thế mà bây giờ thì ... như Cha thấy đấy". Tôi đã hiểu thấu đàng sau câu nói bỏ lửng mà Ngài đã viết cho tôi ấy, tâm trạng Ngài chán chường biết chừng nào, có khi còn nhiều hơn tâm trạng tôi gấp bội. Quả thực là cho đến lúc này, ngồi đánh máy mấy dòng tự thuật, tôi cũng không hiểu lý do nào xui đẩy tôi vào hoàn cảnh như vậy, mà cho đến bây giờ tôi vẫn chưa được cấp hộ khẩu và chứng minh nhân dân ? mặc dầu tôi vẫn tuân thủ những qui định của nhà nư­ớc.

Tôi lại có thời gian để trở về với âm nhạc. Trong thời gian cải tạo, lợi dụng những thời gian rảnh rỗi, tôi đã tìm cách sáng tác, nhờ một cuốn sách Kinh Phụng Vụ bằng tiếng La tinh mà một anh em linh mục đã mang lén theo được, tôi dịch dần một số ca vịnh ra thơ Việt, rồi phổ nhạc vào những bài thơ đó. Tôi đã dịch được gần 30 bài ca vịnh và 5 bài thánh thi thì cuốn sách mất. Tôi đã làm được gần 30 bài ca vịnh lẫn thánh thi, chỉ sáng tác theo thể loại ca khúc chứ không theo thể loại đối ca. Nếu có dịp thì tôi sẽ ghi chép lại và cho phổ biến thử.

Sau gần 11 năm xa vắng, bây giờ tôi có dịp gặp lại anh em trong nhạc đoàn Lê Bảo Tịnh xưa. Sau bao nhiêu biến đổi, mấy bạn thân thích cũ đã về đời sau như Hùng Lân, Thiên Phụng, Tâm Bảo đã từ trần lúc tôi còn ở trại cải tạo Thanh Cẩm, thêm mấy anh em nữa đã di tản ra nước ngoài mà tôi chưa được biết tin tức. Những anh em còn lại vùng Sàigòn lần lượt đến thăm tôi, khiến tôi cũng được an ủi và khuây khỏa, như linh mục Phạm Minh Tri, LM Vương Diệu, LM Anh Kha, Duy Tân, Thiện Quang, Hải Ánh, Hiếu Anh ... Trong một lần gặp nhau đông đủ, anh em đều đề nghị tôi đứng ra triệu tập anh em để bàn cách làm cho nhạc đoàn sinh hoạt trở lại, vì từ ngày anh Hùng Lân khuất đi thì nhạc đoàn không còn điều kiện hoạt động nữa, và cử tôi giữ chức Đoàn Trưởng. Nể lòng anh em, tôi phải nhận lời, dù cảm thấy mình không đủ sức khỏe để làm việc nữa. Từ đó thỉnh thoảng anh em thường đến nhà tôi để làm việc, xem lại nhuận sắc các tác phẩm thánh ca của nhau, chờ cơ hội thuận tiện thì cho phổ biến. Ít lâu sau, có mấy nhạc sĩ trẻ nghe biết tin tôi có mặt tại TP.HCM, và nhạc đoàn Lê Bảo Tịnh sinh hoạt lại, liền tìm đến thăm tôi. Sau khi tìm hiểu tinh thần đường hướng và chủ trương của nhạc đoàn, liền nhận lời tôi mời gia nhập nhạc đoàn để chung nhau góp sức vào việc xây dựng nền Thánh Nhạc Việt Nam. Đến nay số đoàn viên lên tới trên 20 người, cả cũ lẫn mới. Tôi hy vọng nhạc đoàn Lê Bảo Tịnh sẽ có thời cơ sinh hoạt lại với nhịp độ nh­ư những năm về trư­ớc.

Nhưng cách đây ít lâu, sau một lần bị cảm, bệnh cũ tái phát, miệng lại trở nên á khấu, sức khỏe giảm sút đi nhanh chóng, trí óc không còn minh mẫn nữa, thì tôi cảm thấy rõ là mình không còn đủ sức đảm nhận vai trò Đoàn trưởng nữa, nên tôi đã ngỏ ý với anh em cho tôi được từ nhiệm.

Để tôi được thanh thản mà chuẩn bị cho cuộc hành trình cuối cùng của cuộc đời trong bàn tay của Đấng  TOÀN ÁI VÔ BIÊN.

Viết xong ngày 01 tháng 7 năm 2002

Joseph Lê Đức Triệu

HOÀI ĐỨC

VỀ MỤC LỤC

KHUÔN MẶT NGƯỜI LINH MỤC QUA GIÒNG LỊCH SỬ

 

Tác phẩm Giáo Hội Cần Loại Linh Mục Nào? (tiếp theo)

Lm Giuse Lê Công Đức chuyển ngữ từ bản tiếng Anh:

PRIESTHOOD IMPERILED,   Tác giả: Lm. BERNARD HARING, C.SS.R.

 

Khi tôi chọn trở thành một linh mục, khuôn mặt người linh mục (nhất là trong các dòng tu) không còn quá cứng nhắc như có thể ghi nhận trong các thế kỷ trước đây. Vào thời điểm đó, cũng như ngày hôm nay, cũng có một số một số dòng tu (của linh mục và giáo dân) với những linh đạo đặc sắc và đa dạng, những khả năng dồi dào để đáp ứng nhiều sứ vụ khác nhau.

Tuy nhiên, đối với chức linh mục triều, khuôn mặt của một vị mục tử ‘toàn năng’ vẫn tiếp tục được khẳng định. Một cách tiêu biểu, ông cha sở một chiều của Công Đồng Tridentinô được đặc trưng bởi tính đồng nhất, bởi sự vâng phục tối mặt, và thường bởi sự thiếu sáng tạo. Mặt khác, các cha sở, các phụ tá mục vụ, các tuyên úy trong khi hoàn toàn phục tùng giám mục của mình thì cũng được “bù lại” bằng một chế độ linh mục nặng tính kiểm soát trên các tín hữu. Một thoáng nhìn về quá khứ có thể giúp chúng ta nhận ra nguồn gốc của tình trạng này và cũng có thể giúp chúng ta đưa ra những dự án hợp lý cho tương lai – điều mà chúng ta có thể nói rằng vốn đã bắt đầu trong thực tế rồi.

giám mục và linh mục

trong tư cách là những vị tuẫn đạo

Từ “tuẫn đạo” (martyr) ban đầu có nghĩa là làm chứng cho đức tin. Theo nghĩa đó, các Tông Đồ, những người kế vị của các ngài, và quả thực tất cả các tín hữu trong mọi thời đại đều được mời gọi làm chứng cho Đức Giê-su Kitô, cho Tin Mừng của Ngài và cho kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Các giám mục thuở đầu tiên thường không có nhiều tín hữu trong địa phận của các ngài hơn so với một cha sở của thời nay. Tầm cỡ tương đối nhỏ ấy của các địa phận cho phép các giám mục gần gũi giáo dân hơn. Các ngài không sở hữu những ngôi nhà nguy nga lộng lẫy cũng không sống đời sống ưu đãi dư dật. Trong mọi khía cạnh bên ngoài, các giám mục thuở đầu tiên sống cùng một mức độ như các anh chị em Kitôhữu của các ngài. Điều thực sự phân biệt các ngài với đại đa số các tín hữu là chứng tá hữu hình của các ngài cho sự chết và sự Phục Sinh của Đức Giêsu qua thái độ các ngài sẵn sàng chấp nhận cái chết tuẫn đạo. Thật vậy, đây là yếu tố cốt yếu trong sự thánh hiến của các ngài.

Cho đến khoảng giữa thế kỷ thứ hai, các giám mục hay các giám quản là những vị lãnh đạo cùng với các trưởng lão trong địa phận của mình. Lúc đó chưa ngã ngũ rõ ràng về chuyện các ngài khác với các trưởng lão như thế nào. Tuy vậy, có một điều thật chắc chắn: không vị nào trong các ngài có khao khát hay có khuynh hướng trở thành quí phái, quí tộc. Trong suốt giòng lịch sử Giáo Hội, vẫn thường xuyên có những mẫu gương linh mục đầy sức thuyết phục trong tư cách là những chứng nhân tuẫn đạo. Trong những thập niên mới đây thôi, các mẫu gương này đặc biệt hiện lộ tại Châu Mỹ La Tinh, nơi mà nhiều – nếu không phải là tất cả – các giám mục và các linh mục đều đứng về phía người nghèo, dám liều lãnh cái chết tuẫn đạo dưới tay các thế lực giàu có. Chính phẩm chất này là nét phân biệt các vị ấy với những giám mục và hồng y khác vốn bám víu lấy tham vọng hão, bám víu những thái độ quí tộc, những tước vị sáo rỗng, và những cung cách độc đoán nhằm phục vụ cho lợi ích riêng.

các ông hoàng của Giáo Hội

trong thời đại Constantine

Với chiến thắng của Constantine và với mối liên minh tiếp theo đó giữa Giáo Hội với hoàng đế và với giới quí tộc, một kiểu thức mới và kỳ quặc về một Giáo Hội quân chủ đã phát sinh – kiểu thức này trở thành hiện thực đặc biệt do bởi các giám mục vui mừng đón nhận các bổng lộc về đặc quyền và đẳng cấp. Được thoát khỏi tình trạng nghèo khổ, bách hại và tuẫn đạo, thật oái ăm, các ngài xem ra lại đánh mất chính sự tự do mà Đức Kitô đã giải phóng tất cả chúng ta để đem lại cho chúng ta.

Constantine và các hoàng đế, các vua và hoàng thân tiếp theo sau biết rõ rằng một Giáo Hội mà các vị lãnh đạo được hưởng các đặc quyền do một sắc dụ của nhà nước - và do đó lụy thuộc vào nhà nước - sẽ có thể trở thành hết sức hữu ích cho quyền lực “được thần thánh hóa” một cách sai lạc của họ. Việc vị giám mục của đế quốc hay của vương quốc xức dầu các ông vua là một biểu tượng kinh khủng của cái gọi là “tư tế của các vua” trong một Giáo Hội đầy hào quang và vinh dự. Khi sự việc cứ diễn tiến theo lôgíc ấy, chúng ta chẳng có gì phải ngạc nhiên để nhận thấy rằng trên chóp đỉnh của khối liên minh ma quỉ này giữa các hoàng đế, các chức sắc của Giáo Hội, thậm chí cả các giáo hoàng, câu hỏi ai là người có quyền lực cao nhất là một câu hỏi thường xuyên âm ỉ. Và tất cả đều nhân danh Thiên Chúa trong Đức Giê-su Kitô! Trong khi các vị lãnh đạo Giáo Hội có thể nghĩ rằng như vậy vinh quang của Giáo Hội được tăng triển, thì trái lại, Giáo Hội đang suy sụp hoàn toàn, nếu hiểu trong ánh sáng lời mời gọi của Đức Giêsu trong tư cách là “Con Người” qua cuộc thánh hiến trong phép rửa của Ngài ở sông Gio-đan, và cuối cùng qua việc Ngài đổ máu ra trên Thập Giá.

Trong bất cứ tôn giáo nào, hễ có tồn tại thứ xung lực quái gở này đẩy tôn giáo tới chỗ chia sẻ quyền lực với thế tục, thì đó rõ ràng là những mưu chước cám dỗ của Satan – những mưu chước vốn bị Đức Kitô lật tẩy trong câu chuyện cám dỗ mà Tin Mừng Matthêu kể lại.

Tuởng chỉ cần nêu ra đây ba ví dụ để minh họa kiểu thức về chức linh mục quân chủ vốn tràn lan trong thời Constantine – đối nghịch với kiểu thức phép rửa của Người Tôi Tớ phi bạo lực của Thiên Chúa.

- Hệ Thống Danh Vọng: Một sinh viên trước đây của tôi – là một linh mục tuyệt vời – đã đến gặp tôi để xin ý kiến về việc có nên chấp nhận một đề xuất gia nhập ngành ngoại giao của Giáo Hội hay không. Đầu tiên, tôi ngần ngại trình bày quan điểm của mình, nhưng cuối cùng tôi nói thẳng rằng hình thức hiện tại của các cơ quan ngoại giao (trong Giáo Hội) không phản ảnh ánh sáng Tin Mừng lắm, nhưng một linh mục thông minh và khiêm tốn có thể làm nhiều việc hữu ích và có thể phòng tránh những cạm bẫy sừng sững. Vì thế, tại sao không tận dụng cơ hội này để cống hiến một sự phục vụ tốt nhất cho ngành ngoại giao – là ngành vốn tự bản chất không phải là xấu xa? Khi đưa ra ý kiến ấy, tâm trí tôi nhớ đến những con người vĩ đại như Gioan XXIII, cũng từng làm việc trong ngành ngoại giao, đã phục vụ cho Nước Thiên Chúa và cho thiện ích của nhiều người.

Thật lâu về sau, tôi mới có dịp đọc những gì Giuseppe Roncalli viết trong một lá thư đề ngày 24 tháng 11, 1928: “Tôi sung sướng rời khỏi Rôma. Bởi tôi thật phiền lòng khi phải chứng kiến tất cả những biểu hiện bần tiện. Ai cũng hăm hở phấn đấu để được bổ nhiệm, được danh vọng; và người ta không ngừng đồn đoán với nhau về chuyện thăng quan tiến chức. Ôi, một sự xuống cấp đáng buồn của đời  sống linh mục!”

Ít lâu sau đó, người bạn linh mục nói trên của tôi trở lại gặp tôi và cho biết rằng anh ta đã bỏ con đường sự nghiệp của mình sau khi đã tiến lên hết chức này đến chức khác và cuối cùng nghe có kẻ nói vào tai mình: “Rồi có ngày anh sẽ leo lên tới cả chức hồng y đấy!” Anh bạn tôi kể: “Một đêm nọ con bị sốc khi trong giấc mơ con thấy mình trở thành một hồng y.” Thật lòng, tôi phải thú nhận rằng mình đồng thời vừa mừng vừa tiếc – tiếc vì ngành ngoại giao bị mất con người tuyệt vời này, nhưng mừng vì anh ta đã đề kháng được những cám dỗ của chức quyền.

Hiện nay, có khoảng mười bảy tước hiệu và sự đề bạt sáo rỗng được ban tặng bởi Vatican. Trước đây, Thánh Philíp Nêri, một linh mục và là nhà hài hước tuyệt vời, đã cố dùng lối khôi hài và đôi khi châm chọc để làm nhụt chí các linh mục vốn bám víu vào những quyến rũ kệch cỡm này. Có lẽ đã đến lúc  chúng ta nên huy động khả năng trào lộng của mình để phản kháng một cách phi bạo lực cái hệ thống danh vọng mang tính phản Tin Mừng vẫn còn rất phổ biến hôm nay.

- Những Lễ Nghi Phô Trương Phù Phiếm: Hồi tôi đến Rôma trong tư cách là một giáo sư  trẻ, tôi đã giúp lễ trong một nghi lễ long trọng tại Đền Thờ Thánh Phê-rô. Giáo hoàng được kiệu trên ngai, được hộ tống bởi những người Ý có đẳng cấp cao trong trang phục quí phái. Theo sau giáo hoàng là các hồng y vận áo choàng đỏ tía, vạt rộng, với những đuôi tua dài cả chục mét được các chủng sinh cung kính nâng trên tay. Thật là một quang cảnh dị hợm! Hay nói đúng hơn, thật là một trò bắt chước lố bịch! Ít năm sau, khi Giáo Hoàng Piô XII quyết định cắt đuôi áo bớt đi ba mét, các vị hồng y uy phong kia đã thất vọng ra mặt. Tạ ơn Chúa, mọi sự đã được cải thiện kể từ đó.

- Tài Sản Và Quyền Lực: Vào năm 1870, khi Giáo Hoàng Piô IX bị mất các lãnh địa giáo hoàng, và đồng thời mất luôn cả quyền lực chính trị, ngài và các vị kế nhiệm của ngài đã tự  giam mình trong Vatican, hứa sẽ không bao giờ rời gót khỏi đây cho đến khi nắm lại được những bất động sản đồ sộ ấy. Gần sáu mươi năm sau, năm 1929, Giáo Hoàng Piô XI đã can đảm từ bỏ cuộc đấu tranh vô ích ấy, một cuộc đấu tranh quá dằng dai song chỉ hậu thuẫn cho một hệ thống đã tiêu vong và không còn hợp thời nữa. Mãi cho đến năm 1958, người ta mới thấy một giáo hoàng tên là Gioan XXIII đi ra khỏi lãnh thổ Vatican để thực hiện những cuộc viếng thăm mục vụ của ngài.

Những sự kiện nói trên và nhiều sự kiện khác nữa không có liên hệ gì với một lịch sử thù địch hay tội ác. Tuy nhiên, việc ôn lại những kinh nghiệm này có thể giúp ích nhiều cho Giáo Hội, đặc biệt là cho chức linh mục, trong chừng mực mà chúng ta rút tỉa được bài học từ những kinh nghiệm này và có đủ can đảm để – một lần dứt khoát - tháo gỡ khỏi Giáo Hội và chức linh mục tất cả những dấu vết của kiểu thức thời Constantine.

Ngoài ra, cũng cần ghi nhận rằng trong Giáo Hội luôn luôn có những phong trào hô hào một sự hồi sinh và tìm lại những nguồn gốc của chức linh mục cắm rễ trong lời kêu gọi của Đức Giêsu: “Hãy chỗi dậy, chúng ta hãy bước tới!” Tôi xin nhắc lại ở đây hai vị giám mục mẫu mực của Milan để làm ví dụ. Vào thế kỷ thứ tư, với lòng can đảm đến độ liều lĩnh, Thánh Ambrôsiô đã buộc hoàng đế phải ăn năn hối lỗi vì những sự đổ máu mà ông đã gây ra trước khi ông có thể được nhận trở lại vào Giáo Hội. Thánh Charles Borromeo, được tấn phong hồng y bởi giáo hoàng là cậu của mình, đã cắt giảm con số các người hầu xuống ‘chỉ’ còn mười hai người, và sự việc này đã suýt gây ra một xáo trộn lớn. Chưa hết, vào cuối đời ngài, Charles đã không chỉ cắt hết các biên chế người hầu của mình mà ngài còn tự vác trên vai chiếc giường của ngài, với một người nghèo đang nằm trên đó – một cử chỉ vừa có tính thực tại vừa có tính biểu tượng cho thấy nỗi niềm ăn năn thống hối của ngài về lối sống linh mục bất xứng của mình trước kia.

Quyền năng Chúa Thánh Thần và ánh sáng của Tin Mừng vẫn không ngừng canh tân bộ mặt của thế giới và của Giáo Hội. Một cách rõ ràng, quyền năng Chúa Thánh Thần đã biểu lộ trong thế kỷ này khi tất cả thế giới Kitô giáo đềàu tin rằng, qua sự khôn ngoan và sự hướng dẫn của Giáo Hoàng Gioan XXIII, sự thật và căn tính nguyên thủy của Tin Mừng đã vượt thắng trên những truyền thống méo mó của con người.

cuộc cách mạng phi bạo lực

của phong trào đan tu

Khi hòa bình được thiết lập giữa đế quốc Rôma và Giáo Hội, bắt đầu có những làn sóng đông đảo người ta ùn ùn gia nhập Giáo Hội. Tuy nhiên, hiện tượng ấy thật đáng ngờ, vì chẳng ai có thể biết bao nhiêu người trong số ấy hoán cải (converted) thực sự. Chọn trở thành một Kitôhữu không còn được thấy có nghĩa là chọn đau khổ và chọn liều mất mạng sống vì danh Đức Kitô nữa. Thay vào đó, bấy giờ đối với nhiều người, nhất là đối với các giám mục và linh mục, Kitô giáo trở thành một ‘vụ’ làm ăn béo bở!

Tuy nhiên, ba thế kỷ tuẫn đạo đã không hóa thành vô ích, bởi vì, từ đầu triều đại Constantine, vô số Kitôhữu đã nhận ra rằng mối liên minh giữa “ngai vàng và bàn thờ” thật rất nguy hiểm và có sức hủy hoại sự tinh tuyền của đức tin. Ngay cả ở Constantinople nơi mà những người kế vị Constantine ngự trị, cũng có những giám mục sáng suốt và kiên định như Gregory Nazianzus và John Chrysostom – là những người sống theo kiểu thức của Người Tôi Tớ phi bạo lực, khiêm nhường và đau khổ của Thiên Chúa bằng cách lật tẩy những quyền lực phô trương và những ưu đãi đội lốt thánh thiêng. Các vị ấy vẫn trung thành với phong trào đan tu ban đầu – và do bởi lập trường kiên vững của mình, các ngài đã phải chịu nhiều nỗi thống khổ.

Sự xuất hiện của phong trào đan tu vào thế kỷ thứ tư là một phản kháng có tính ngôn sứ và phi bạo lực chống lại mẫu thức Constantine của Giáo Hội và của chức linh mục. Đó là một phong trào mang tầm vóc một cuộc cách mạng. Trong khi các tu sĩ Đông phương và Tây phương không ly khai khỏi Giáo Hội dù dưới hình thức nào, thì họ vẫn đấu tranh một cách dứt khoát không khoan nhượng để vãn hồi cho Giáo Hội tiếng gọi trung thành bước theo và làm hiện thân của Đức Giêsu, Người Tôi Tớ phi bạo lực của Thiên Chúa. Thời ấy cũng không hề xảy ra tình trạng khan hiếm ơn gọi tu trì như trường hợp của chúng ta hôm nay. Trong chừng mực mà các Kitôhữu nhiệt thành ý thức mình là cộng đoàn Kitô giáo thấm đẫm trong tình yêu đối với Đức Giêsu và Giáo Hội Người - như sức sống của những cộng đoàn dùng bữa hồi thế kỷ đầu tiên - thì người ta ùn ùn kéo đến xin gia nhập.

Ban đầu, phần đông các tu sĩ là giáo dân, nhưng cũng có một số linh mục. Một vài tu viện trưởng được truyền chức thánh. Chẳng bao lâu, người ta ghi nhận rằng các tu viện nổi tiếng chính là những trường đào tạo tuyệt vời cho các giám mục tương lai. Việc chọn lựa các giám mục xuất thân từ các tu viện (nhất là ở phần phía đông của đế quốc) là một liều thuốc giải độc chống lại những hậu quả tai hại của mối liên minh giữa ngai vàng và bàn thờ.

Lịch sử đời sống đan tu là một nghiên cứu thú vị vén mở cho thấy những nhập nhằng giữa một bên là nhiệt tình cháy bỏng và bên kia là nỗi u ám phủ trùm trên Giáo Hội. Giáo Hội thời Constatine thường xâm chiếm các tu viện và cướp đi các của cải để làm nguồn biếu tặng cho giới vị vọng trong Giáo Hội và nhiều khi cũng là để cứu giúp người nghèo. Phải thành thật nhìn nhận rằng những cuộc cướp bóc ấy ngày càng trở nên một nguồn cám dỗ cho người linh mục. Trong suốt các thế kỷ cho đến thời Cải Cách, một mối căng thẳng lớn tồn tại giữa một bên là những cố gắng cải cách không ngừng của đời đan tu và bên kia là tình trạng hủ hóa ngày càng leo thang trong lòng Giáo Hội.

Giáo Hội xét như một toàn thể (bao gồm cả những phong trào cải cách dũng cảm nhất) luôn luôn cần đến những sự canh tân liên lỉ. Hoán cải không phải là một công việc được làm một lần thay cho tất cả. Nguyên tắc tu đức về sự “không ngừng hoán cải” và nguyên tắc giáo hội học về sự “không ngừng cải cách” (ecclesia semper reformanda) là hai nguyên tắc bổ sung để hoàn bị lẫn nhau. Luôn luôn cần phải có những cuộc lên đường trở lại – và cám ơn Chúa, những cuộc lên đường như thế vẫn xảy ra ngày càng nhiều hơn. Sự thay đổi nơi bản thân người linh mục và sự thay đổi trong cơ chế chức linh mục là những nỗ lực tương tác lẫn nhau, như trường hợp của các dòng tu và các cộng đoàn tông đồ vậy.

cuộc phản kháng phi bạo lực

của các dòng hành khất

Khi quyền lực và uy danh giáo hoàng lên đến mức cao nhất trong triều Giáo Hoàng Innocent III, không phải là hoàn toàn ngẫu nhiên việc bộc phát phong trào hành khất như một cơn lốc của Thánh Thần. Phong trào này thu hút hàng ngàn con người phi bạo lực, nam cũng như nữ, trong Giáo Hội lữ hành. Khuôn mặt quan trọng và hấp dẫn nhất của phong trào này là Thánh Phan-xi-cô Assisi, vị ngôn sứ vô song về tinh thần đơn sơ khó nghèo trong mọi phương diện, sống Tin Mừng của Người Tôi Tớ nghèo khó và phi bạo lực của Giavê. Cũng không phải ngẫu nhiên mà Phan-xi-cô tỏ ra vừa là một ngôn sứ phi bạo lực vừa là một con người vững tin vào lối sống giản dị, trung thực và nghèo khó.

Là một con người có căn bản tu đức thâm sâu, tại sao Thánh Phan-xi-cô không hướng đến chức linh mục? Rất may là ngài đã chấp nhận chức phó tế với niềm hy vọng rằng khuôn mặt của linh mục và giám mục sẽ được vãn hồi trong ánh sáng của Người Tôi Tớ Giavê, tương tự như niềm hy vọng của Thánh Đa-minh, vị sáng lập dòng hành khất thuyết pháp (dòng Đa-minh).

Chắc chắn đã đến lúc chúng ta cần nhìn ngắm lại dung mạo của chức linh mục vốn đã tác động mãnh liệt trên các linh mục thánh thiện trỗi vượt của quá khứ, nhất là các vị sáng lập các dòng tu. Thánh Inhaxiô Loyola và Thánh Anphongsô Liguori đã dành rất nhiều ưu tư tìm kiếm dung mạo đích thực của chức linh mục và của mối dây huynh đệ. Những lời khấn mà Thánh Anphongsô và các bạn đường đầu tiên của ngài đảm nhận đã đặc biệt cho thấy cụ thể nỗi ưu tư này. Các ngài đã khấn hứa sẽ không bao giờ phấn đấu kiếm tìm vinh dự, kiếm tìm các tước hiệu và ngay cả chức giám mục trong Giáo Hội. Hơn nữa, các ngài nguyện sẽ không chấp nhận bất cứ một vinh dự nào, trừ phi phải chấp nhận vì sự vâng phục minh nhiên và luôn luôn ở trong mối quan hệ với lời khấn ưu tiên phục vụ người nghèo khổ nhất và những kẻ bị bỏ rơi nhất.

xuất khẩu và

nhập khẩu các linh mục

Các nhà thực dân Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha mang theo với họ những linh mục từ đất nước quê hương và từ nền văn hóa của họ. Rõ ràng họ có ý định “cứu các linh hồn” qua phép rửa, nhưng họ cũng làm thế với mục đích giúp cho việc kiểm soát các vùng đất mới chinh phục được dễ dàng hơn.

Trước khi tôi đáp tàu đi Philippines để làm công tác giảng dạy và truyền giáo, tôi đã đọc và nghiên cứu nhiều sách vở được gửi tới cho tôi về đề tài này. Các nhà chinh phục người Tây Ban Nha đã mang các linh mục và các giám mục theo với họ, được hậu thuẫn bởi triều đình, với lệnh truyền không úp mở rằng phải giáo hóa để dân bản địa biết qui phục và trung thành với hoàng đế Tây Ban Nha.

Mọi người dân bản địa đều được yêu cầu phải học tiếng Tây Ban Nha, thứ tiếng trở thành ngôn ngữ duy nhất sử dụng trong phụng vụ. Hơn nữa, những người bản xứ không thể mơ tưởng đến chức linh mục ngay cả dù họ có cha hay mẹ là người Tây Ban Nha. Một lý do vì sao không cho người bản xứ làm linh mục, đó là vì người ta cho rằng họ không có khả năng sống đời độc thân. Ở Châu Mỹ La Tinh, tình hình cũng tương tự như thế.

Nhiều trong số những linh mục nhập khẩu tỏ ra chẳng phải là những linh mục lý tưởng lắm. Người ta phải rùng mình khi đọc những gì mà sử gia Bartolomé de Las Casas đã viết về họ. Nhiều linh mục nhiệt tâm đối với tiền bạc và của cải không kém chi sự nhiệt tâm “cứu các linh hồn”.

Tuy nhiên, trong số những vị thừa sai ấy có một số linh mục rất khôn ngoan và dũng cảm, dấn thân thực sự  cho Tin Mừng và cho dân chúng mà các ngài có trách nhiệm phục vụ – như Thánh Phao-lô,  các ngài sẵn sàng trở nên mọi sự cho mọi người. Thế nhưng lý tưởng của các ngài và phần lớn những việc tốt lành mà các ngài cố gắng thực hiện đều một mức nào đó bị cản trở bởi những bối cảnh chính trị và văn hóa trong đó các ngài sống và làm việc. Đọc lại lịch sử Giáo Hội Philippines, tôi sửng sốt bởi biết bao linh mục nhập khẩu và được trả thù lao đã có nhãn quan rõ ràng và có can đảm để bênh vực những người dân bản xứ, nhất là người nghèo, trong cuộc đấu tranh chống lại thực dân.

Khi phục vụ ở Phi Châu trong vài thập niên sau Công Đồng Vatican II, tôi đã học biết được rất nhiều về tính cách anh hùng của các nhà truyền giáo. Đi thăm nhiều nghĩa trang, tôi khám phá rằng rất nhiều linh mục được chôn tại đó là những chàng trai còn rất trẻ, đã chết chỉ sau vài năm sống và làm việc tại vùng đất nóng bức ấy – những con người trẻ ấy hoàn toàn ý thức về các nguy hiểm xảy đến cho họ, nhưng họ vẫn quảng đại tự nguyện đón nhận. Họ là những con người ra đi dấn thân mà không hề có một chút ý định nào nhằm giúp củng cố cho hệ thống thực dân của triều đình.

Chỉ sau giai đoạn phi thực dân hóa, Giáo Hội mới nhận ra rằng việc hợp tác với những đòi hỏi của hệ thống thực dân đã để lại những hậu quả nghiêm trọng và sâu rộng biết bao.

Tại hầu như mọi vùng ở Phi Châu, luật độc thân đã có những hệ quả tiêu cực – xét trong nhiều khía cạnh, nó cản trở không cho người ta hội nhập trọn vẹn vào nền văn hóa. Dĩ nhiên, lý do chính cũng bởi vì sau nhiều thời gian người ta vẫn thất bại không phát triển được một tầng lớp giáo sĩ bản địa. Tại nhiều bộ tộc Phi Châu ngày nay, đời sống độc thân đã hoàn toàn có thể, song tại nhiều bộ tộc khác – ít nhất là cho đến thời điểm hiện tại – độc thân vẫn còn là một cái gì mà người ta không thể hình dung được. Hơn nữa, việc nhập khẩu linh mục từ các bộ tộc khác là một sự sỉ nhục đối với lòng tự hào tự nhiên của họ.

Chỉ đến thế kỷ này, Giáo Hội mới tấn phong các giám mục Trung Hoa. Trước đây, những lý do chính chống lại việc ấy không nằm ở vấn đề độc thân nhưng đúng hơn nằm ở một mặc cảm tự tôn lì lợm của người Âu Châu. Ít nhất là người ta có ấn tượng như thế. May thay, thái độ tự tôn này đang biến đi dần. Có lần một thừa sai người Ý ở Nhật Bản nói với tôi: “Cám ơn Chúa, tôi phục vụ ở một xứ sở mà nền văn hóa của người dân bản xứ là cái chúng tôi không thể xem thường. Trái lại, phải nhìn nhận rằng có quá nhiều điều chúng tôi cần phải học hỏi từ dân tộc này.”

Cách đây bốn mươi năm, tôi nhớ mình có đọc trên tờ Osservatore Romano lời tuyên bố kinh khủng sau đây của một hồng y đầy quyền lực ở Roma: “Tiếng La Tinh phải được duy trì là ngôn ngữ của Giáo Hội, để giúp khai hóa các dân man di bằng nền văn hóa La tinh siêu đẳng.” Dĩ nhiên ngày nay chúng ta biết rằng một cái nhìn như thế hoàn toàn vô lý và hoàn toàn không thể hình dung được. Tuy nhiên, chúng ta phải mang lấy gánh nặng các hậu quả của hình thức kỳ thị này trong quá khứ.

Một thực tế hiện còn gây ngạc nhiên hôm nay, đó là do bởi nguyên tắc dứt khoát gắn kết chức linh mục trong “Nghi Lễ Latinh” với sự độc thân, nên phần đông người ta và các cộng đoàn ở Châu Mỹ Latinh, Châu Phi và nhiều nơi khác đã và vẫn đang còn trong tình trạng không có Thánh Lễ. Rõ ràng, đây chỉ là một trong những triệu chứng của một tình hình trục trặc, cần đến một cách nhìn táo bạo và mới mẻ. Sự tinh khôi của cảm nghiệm tâm linh về Thiên Chúa và năng lực giải phóng của Tin Mừng không thể bị ngăn chặn hay bưng bít bởi bất cứ hình thức nệ luật hay tôn thờ ngẫu tượng nào. <OJ>

còn tiếp

VỀ MỤC LỤC

Ý NGHĨA HIỆP THÔNG TRONG GIÁO HỘI

 

 

Bài viết dựa theo ánh sáng của Thông điệp THIÊN CHÚA LÀ TÌNH YÊU của Đức Benedicto XVI và bài thuyết giảng suy niệm  của ngài về màu nhiệm tưong giao giữa Đức Kitô và Giáo Hội  nhân dịp đại triều ngày 29-3-2006 tại công trường Thánh Phêrô, Roma.

                      

 ****

 

Hồi nhỏ lúc còn ở Việt Nam và bây giờ tôi rất thích bài hát vẫn thường được nghe hát trong các thánh lễ của Lm. nhạc sĩ Hoài Đức (?) mà lâu nay ít còn thấy hát nữa:

 

“… Này con là đá, trên viên đá này ta xây Giáo Hội muôn đời vinh quang…” 

Thế nào là muôn đời vinh quang?

 

HIỆP THÔNG TRONG GIÁO HỘI LÀ MỘT  MÀU NHIỆM

 

Đọc sứ vụ tông đồ chúng ta biết Giáo Hội là một cộng đồng được kết hợp bởi Con Thiên Chúa thực sự bằng xương bằng thịt. Giáo Hội sẽ trường tồn qua mọi thời đại nhờ sự hiệp thông trong Đức Kitô và Chúa Thánh Linh. Giáo Hội mời gọi tất cả mọi người chúng ta tham dự để cùng cảm nghiệm được ơn cứu độ của Đức Chúa Cha. Đức Giáo Hoàng Clemente, người kế vị thứ 3 thánh Phero vào cuối thế kỷ I đã nói trong thong điệp đầu tiên của ngài: Mười hai thánh tông đồ đã săn sóc và nưôi dưỡng những đấng kế vị các ngài ( cf.1 Clement 42, 4) để sứ mệnh của các ngài do Chúa trao phó được luôn luôn tiếp diễn sau khi các ngài qua đời. Vì vậy  nhờ sự lãnh đạo của các chủ chăn hợp pháp, Giáo Hội vẫn đang tiếp tục sinh tồn ở trần thế như một màu nhiệm hiệp thông, phản ảnh sự hiện diện của Thiên Chúa ba ngôi, một nhiệm màu về chính Thiên Chúa.

 

Câu chúc lành cho giáo dân của thánh Phaolo: “ Ân sủng của Đức Kito, Tình yêu Thiên Chúa và sự hiệp thông của Chúa thánh Thần ở cùng anh chị em” (2 Corinthians 13:13) đã nhắc nhở chúng ta về nguồn mạch ân sủng tối cao của Thiên Chúa ba ngôi. Lời chúc lành này là dư vang của Giáo Hội cho chúng ta thấy thế nào là tặng vật được Chúa Cha, qua đức Kitô, ban tặng nhưng không cho chúng ta, được hiện thực và biểu lộ qua sự hiệp thông Thánh thể bởi Chúa thánh Thần.

 

Lập luận này đặt căn bản trên mối tương quan trực tiếp giữa ba ngôi Thiên Chúa: Ân sủng của Đức Kitô, Tình yêu Thiên Chúa và sự hiệp thông của Chúa thánh thần. Sự hiệp thông Thánh Thể là biểu hiện một tặng phẩm đặc biệt của Chúa thánh Thần, thành quả của tình yêu Thiên Chúa Cha và ân sủng của Đức Kitô Thiên Chúa.

 

HIỆP THÔNG HUYNH ĐỆ

 

Sự hiệp thông còn phải được hiểu là hiệp thông huynh đệ. Nó giúp ta thấu triệt được ý nghĩa của cộng đoàn (koinonia) tiên khởi của Giáo Hội do Chúa thánh thần. Mỗi người, không chỉ là thông phần với đời sống thiên chúa của từng cá nhân theo cách riêng của mình, mà là cùng hiệp thông giữa các tín hữu với nhau đã được chính Chúa Thánh Thần là tác nhân  tràn đổ ân sủng xuống cho tất cả mọi người. (Philippians 2: 1).

 

Điều này chứng tỏ rằng Ân sủng của Đức Kito, Tình yêu Chúa Cha và sự hiệp thông của Chúa Thánh Thần là ba dạng thức tác động khác nhau của Thiện Chúa trong công cuộc cứu độ nhân loại đã tạo thành Giáo Hội như thánh Cyprian ở thế kỷ III đã nói:  “….Giáo Hội phổ quát xuất hiện như “một dân tộc được hiệp nhất nhờ sự hiệp nhất giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa thánh thần”( De Oratione Dominica 23:PL4, 536 / Lumen Gentium 4).

 

Ý nghĩa sự hiệp thông này đã được trình bày rõ ràng đặc biệt trong Tin Mừng thánh Gioan. Hiệp thông tức là dự phần vào đời sống ba ngôi Thiên Chúa. Tình yêu hiệp thông này đã kết hợp Chúa Con với Chúa Cha và loài người làm một, đồng thời và cùng một phương cách như sự hiệp thông huynh đệ giữa các tông đồ / môn đệ với nhau: “ Các con hãy thương yêu nhau như Thày đã thương yêu các con” (Ga 15:12; cf.13:34) “ để tất cả nên một,...Cha ở trong con và con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta” (Ga 17: 21, 22). Đó chính là sự hiệp thông giữa loài người và Thiên Chúa ba ngôi, hiệp thông giữa loài người với nhau. Do đó, trong cuộc lữ thứ trần gian, nhờ ơn hiệp thông với Chúa Con,  các môn đệ có thể thông phần vào sự sống thiên chúa Con và Chúa Cha: “Hiệp thông của chúng tôi là hiệp thông với Chúa Cha và Chúa Con là Đức Giêsu Kitô” (1Ga.1:3).

 

HIỆP THÔNG LÀ LOAN BÁO TIN MỪNG

 

Đời sống hiệp thông với Thiên Chúa và giữa chúng ta với nhau chính là mục đích cuối cùng của việc loan báo Tin Mừng Phúc Âm, nghĩa là chuyển đổi con người thành Kitô hữu: “ Điều chúng tôi đã thấy và đã nghe, chúng tôi cũng loan báo cho các anh em, để anh em cũng được hiệp thông với chúng tôi” (1Ga 1:3). Vì vậy sự hiệp thông với Chúa và giữa anh em chúng ta với nhau là một hiệp thông không thể chia cách được.

 

Do đó, bất cứ khi nào hiệp thông với Thiên Chúa bị gián đoạn thì hiệp thông với Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Linh, căn nguyên và nguồn suối hiệp thông giữa chúng ta với nhau cũng bị gián đoạn và hủy giệt. Khi nào sự hiệp thông giữa chúng ta với nhau không còn sinh động nữa thì hiệp thông với Thiên Chúa ba ngôi cũng không còn sức sống và đích thực như chúng ta “đã nghe và thấy”

 

HIỆP THÔNG THÁNH THỂ LÀ MỘT TẶNG VẬT,

PHƯƠNG THUỐC GIÚP TA THOÁT KHỎI CẢNH CÔ ĐƠN,

ÓC HẸP HÒI VỊ KỶ

 

Bây giờ xin nói rõ hơn về phép Thánh Thể. Khi chúng ta lên rước mình thánh Chúa là chúng ta được nuôi dưỡng bởi mình và máu thánh Chúa Kitô (1Corinthians 10: 16-17). Tác động đó nói lên tình liên đới huynh đệ, kỳ vọng ở đời sống mai sau. Nhờ phép Thánh Thể, Chúa Giêsu nuôi dưỡng chúng ta, kết hợp chúng ta làm một với Ngài, với Chúa Cha và Chúa thánh Linh và chúng ta với nhau. Mạng lưới hiệp nhất này bao trùm cả thế giới, báo hiêu  một đời sống  mai sau ngay trong thời đại chúng ta hiện giờ.

 

Cho là một viễn tượng về tương lai, nhưng rõ ràng hiệp thông thánh thể chính là một tặng vật Chúa ban đã thực sự sinh hoa kết trái. Thánh Thể giúp ta thoát khỏi cảnh cô đơn, dẹp bỏ đầu óc hẹp hòi vị kỷ, đồng thời cho chúng ta dự phần vào tình yêu Thiên Chúa là sức mạnh đã liên hợp chúng ta với Chúa và chúng ta với nhau.  Để dễ hiểu giá trị bao la vĩ đại của tặng vật này, thử hỏi nếu phân hóa và tranh chấp kèn cựa xẩy ra giữa cá nhân này với cá nhân nọ, phe này với phe kia, cộng đoàn này với cộng đoàn nọ, quốc gia này với quốc gia kia trên khắp thế giới thì cái gì sẽ xẩy ra? Nếu sự hiệp nhất với Chúa thánh Linh không còn thì sự phân hóa của loài người chắc chắn không thể tránh khỏi.

 

Phép Thánh Thể thực sự là Tin Mừng, là phương thuốc Chúa ban để chữa trị căn bệnh cô đơn thời đại đang đe dọa chúng ta. Tặng vật quí này giúp ta cảm nghiệm được Chúa chấp nhận và yêu thương, được hiệp nhất trong cộng đồng dân Chúa, cùng nhau tụ họp càu nguyện nhân danh Thiên Chúa ba ngôi. Đó là ánh sáng đang chiếu rọi lên Giáo Hội để Giáo Hội tỏa chiếu lại trên mọi quốc gia trên  toàn thế giới: “..Nếu chúng ta nói chúng ta hiệp thông với Chúa mà chúng ta đi trong sự tối thì chúng ta là đứa nói dối và không sống với sự thật. Ngược lại nếu ta đi trong sự sáng vì Người ở trong sự sáng thì chúng ta thực sự đang hiệp nhất với nhau” (1Ga 1: 6-7)

 

 

KẾT LUẬN:

 

Giáo Hội, mặc dù trong lịch sử có những yếu đuối của con người, nhưng vẫn luôn luôn kiến tạo và biểu hiện tình yêu thương mãi mãi, đem Chúa Kitô đến với tất cả mọi người nam cũng như nữ, cả già lẫn trẻ, những ai thực lòng muốn trông cậy vào Người. Trong Giáo Hội, Chúa vẫn luôn luôn là hiện tại. Tin Mừng Chúa không thuộc về quá khứ. Thiên Chúa không nói ở quá khứ nhưng đang nói ở hiện tại. Ngài nói với chúng ta ngày hôm nay, soi sáng chúng ta, chỉ dẫn chúng ta cách sống ở đời, cho chúng ta sự hiệp thông…. Ngài đang chuẩn bị và mở cửa dẫn đưa chúng ta vào ánh sáng muôn đời.

 

Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh

 

Pace Islands, Florida

April 2, 2006

VỀ MỤC LỤC
NHỮNG BÀO THAI BỊ GIẾT

 

Cha Lê Quang Uy là linh mục Dòng Chúa Cứu Thế, đặc trách Trung Tâm Mục Vụ của Dòng. Ngài được nhiều người biết đến qua các tờ báo điện tử “Ephata”, “Gospelnet”…Qua các phương tiện truyền thông nầy, ngài đã mạnh mẽ lên tiếng chống đối phong trào “phá thai” hiện đang xảy ra một cách dữ dội ở Việt Nam, nhất là trong giới trẻ.

 

TIẾT MỘT

GÓC XÓT THƯƠNG

 

Cha Lê Quang Uy đã mô tả “Góc Xót Thương” như dưới đây (đăng trong Ephata):

 

Địa điểm

 

Cứ lên lầu 1 Nhà Hiệp Nhất ở sân sau Đền Thờ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp Saigon, đi hết hành lang, ngang qua Văn Phòng Trung Tâm Mục Vụ Dòng Chúa Cứu Thế, người ta sẽ thấy một cái góc vừa quen vừa lạ: đó là “Góc Xót Thương”.

 

Trông thấy quen vì gắn trên vách rất nhiều những tấm bảng mica màu xanh dương đậm với nét chữ trắng, nhưng đến gần đọc kỹ từng tấm thì mới thấy lạ, vì nội dung không phải Tạ Ơn Đức Mẹ mặc dù ở đây có đặt tượng Đức Mẹ, cũng không phải Tạ Ơn Chúa cho dẫu ở đây có treo ảnh Lòng Chúa Thương Xót. Tất cả đều là những dòng tên Thánh và họ tên, họa hiếm có ghi thêm “Xin cầu cho linh hồn…”

 

Nơi “tập kết” các bào thai bị giết 

Ban đầu, khoảng năm 2005, ở góc hành lang này, chúng tôi có đặt một cái hũ sành lớn làm nơi “tập kết” các bào thai được các anh chị em trong Nhóm Bảo Vệ Sự Sống mỗi buổi chiều mang về từ 4 địa điểm y tế ở Sài-gòn có dịch vụ... phá thai. Dạo ấy, ngày ít được 50, ngày nhiều lên đến hơn 100 bào thai, ai nghe chuyện đã thấy nổi gai ốc, rùng mình.

Thế rồi một thầy trong Dòng xin được của anh Văn Chương một pho tượng Đức Mẹ Lên Trời, chúng tôi đặt Mẹ đứng ở góc hành lang ấy, lấy keo dán lên lòng bàn tay phải của Mẹ một tượng Chúa Giêsu Hài Đồng bé tý xíu, ngụ ý xin Mẹ lên Trời hãy mang theo các cháu bé nạn nhân nạo phá thai. 

Đã có khá nhiều người biết nơi đây tạm lưu giữ các bào thai đã chết, chuẩn bị đưa đi thiêu ở ngoại thành, họ tìm đến lúc này lúc khác, thắp mấy nén hương, đốt mấy ngọn nến. Chúng tôi trộm nghĩ không khéo đây là những người mẹ đã trót lỡ lầm nay ăn năn ray rứt. Chắc không sai! Vậy là dần dần chúng tôi phải đặt thêm một ít giỏ hoa, một bình cắm nhang và những khay thắp nến.

 

Lòng Thương Xót của Chúa Giêsu 

Cho đến một chiều cuối năm 2005, vợ chồng anh Bình tìm đến đưa cho chúng tôi hai tấm bảng mica ghi tên 4 em bé đã bị phá thai từ hơn 40 năm về trước, trong đó có 2 bào thai là anh và chị lớn của anh Bình, còn 2 bào thai còn lại là hai em bé bị mẹ trút bỏ, vứt lây lất bên vệ đường, rồi đưa đẩy thế nào mà lại xin đi theo hai em bé kia cho... vui! 

Chúng tôi hỏi làm sao lại biết rõ chi tiết như thế, anh chị Bình mới cho biết đầu đuôi câu chuyện là anh linh các cháu bé bị phá thai đã về với người trong gia đình anh chị ra sao. Em bé lớn nhất xin người nhà đặt tên là Phan-xi-cô Hoàng Vĩnh Thu, cô em kế là Ma-ri-a Hoàng Vĩnh Hạnh, còn hai chú “em kết nghĩa” là Giu-se Phúc và Đa-minh Nam. Vĩnh Thu còn căn dặn phải nhớ cắt 2 tấm bảng mica, một cho riêng Phúc, ba em kia chung tấm còn lại, mang tất cả lên đưa cho cha DCCT, nói cha dâng một Thánh Lễ cầu nguyện là xong! 

Nghe câu chuyện rồi, chúng tôi đã làm đúng như “di chúc” ấy. Vợ chồng anh Bình bây giờ sốt sắng đạo đức lắm, lại tham gia nhiệt thành vào các nhóm cầu nguyện Lòng Thương Xót Chúa 3 giờ chiều ngày thứ sáu mỗi tuần. Anh chị không ngại ngần chia sẻ sự thật xót xa về tội phá thai trong gia đình mình. Anh chị cũng làm chứng với mọi người một cách xác tín vào Lòng Thương Xót của Chúa Giê-su.

 

Cảnh tượng xảy ra nơi “Góc Xót Thương” 

Và từ dạo ấy, nhiều người biết chuyện đã tìm đến cầu nguyện ở góc hành lang mang tên Góc Xót Thương này. Các cha Giải Tội cũng có hướng mục vụ để khuyên các hối nhân sau khi đã giao hòa với Thiên Chúa, lãnh nhận ơn tha thứ và chữa lành, cũng hãy trở về tìm cách giao hòa với chính đứa con tội nghiệp của mình bằng cách đặt tên cho nó để nhìn nhận nó là con của mình. Và rất nhiều tấm bảng khác đã được gửi đến với lời khẩn khoản: “Xin các cha gắn lên tường nơi đây cho chúng con có thể lui tới cầu nguyện...” 

Cuối cùng thì chúng tôi mượn được của các anh chị bên Lớp Kinh Thánh Cầu Nguyện một tấm ảnh lớn về Lòng Thương Xót Chúa, bên dưới ghi:Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa”. Chúng tôi treo ảnh lên vách tường, chung quanh gắn các tấm bảng tên các thai nhi. Bên cạnh là bệ tượng Đức Mẹ, dưới chân là một cái khạp lớn để có thể tạm lưu giữ các bào thai đang ngày một tăng lên nhiều hơn, có lúc sau Tết Đinh Hợi vừa qua đã lên đến hơn 600 bào thai một ngày! 

Ngay gần đó là một chiếc bàn, kê thêm mấy chiếc ghế, làm nơi anh em Linh Mục chúng tôi trò chuyện thuyết phục các trường hợp muốn phá thai được các anh chị Nhóm Bảo Vệ Sự Sống đưa về từ các nơi. Các thai phụ đầm đìa nước mắt, cứ ngước nhìn lên là lại thấy ánh mắt Chúa thương xót đăm đăm nhìn mình, và thế là cháu bé đã được cứu vào giây phút cuối!

 

Góc Xót Thươngđã hình thành như thế đó...

 

TIẾT HAI

THĂM VIẾNG “GÓC XÓT THƯƠNG” VÀ MÁI ẤM

Tôi đến thăm cha Uy tại văn phòng Mục Vụ của cha vào một buổi xế trưa trong tuần, vào giữa tháng mười 2006. Sau khi trao đổi với cha đôi điều về hiện tình phá thai, cha dẫn tôi ra hành lanh trước văn phòng làm việc của cha. Đó là “Góc Xót Thương” – góc cuối hành lang – nơi mà cha đã cho xây cất một tượng đài Đức Mẹ là Nữ Vương Các Thánh Anh Hài, đặt bên tượng Lòng Thương Xót Chúa, như mô tả trên đây.

 

Những túi ny lông 

Mặc dù lúc đó chỉ khoảng một giờ trưa mà đã có năm sáu “túi ny lông” chứa đựng những thai nhi vừa mới bị phá và được các thiện nguyện viên đi nhặt lấy đem về tập trung nơi đây để đưa đi tống táng. Tôi đứng lặng người, ngậm ngùi nhìn các túi ny lông đó trong năm mười phút. Qua trí tưởng tượng, tôi nhìn thấy những nắm thịt bầy nhầy của các thai nhi xấu số đã bị móc ra khỏi tử cung người mẹ và chết thê thảm một cách rất thương tâm. Tôi tự hỏi tại sao con người tàn ác đến thế và chính các bà mẹ là người chủ mưu!

 

Mẹ ơi! Xin đừng giết con!!! 

Tôi ngồi suy tư năm mười phút, bỗng chốc sống lại trong tôi những tâm tình bộc phát mà trong một phút xúc động vào mùa đông năm 2005, tôi đã sáng tác thành bài thơ “MẸ ƠI! XIN ĐỪNG GIẾT CON!!!” khi những tin tức phá thai ở Việt Nam đưa tới một cách dồn dập:

 

Mẹ ơi!

Con là hòn máu đỏ lòm của Mẹ:

Một thai nhi tuy chưa cử động nói năng,

nhưng có đủ cơ phận con người…

 

Con vốn kết tinh bởi khí huyết mẹ cha

Trong một phút ân ái đậm đà:

Trong vòng lễ giáo hay vụng trộm,

Nhưng kết quả đâu có khác…

 

Con là mầm sống còn trong trứng nước.

Khi trọn tháng ngày sinh nở,

Con sẽ là một em bé mũm mĩm thiên thần!

 

Mẹ ơi!

Mẹ nỡ lòng nào lại muốn giết con???

 

……

 

Con hoàn toàn là hòn máu vô tội,

Con chưa thốt một lời khiến đau lòng Mẹ.

Con chưa xúc phạm đến Mẹ một lần!

Sao Mẹ nhẫn tâm muốn giết hại con!!!

 

Những oan trái cuộc đời của Mẹ

Trút xuống thân phận mỏng dòn

Và vô phương tự vệ của con.

Mẹ muốn bảo tồn hư danh của Mẹ

Bằng cách cất lấy mạng sống con đi!

 

Một phút lỡ lầm của Mẹ

đánh đổi bằng chính sinh mạng của con???

Những khó khăn trong cuộc sống thường nhật của Mẹ

được khỏa lấp bằng cái chết oan nghiệt của con???

 

Mẹ ơi!

Con đâu có tội tình gì

Mà phải phanh thây nát đầu,

Tay chân tả tơi…như bị xâu xé bởi mãnh thú???

 

……

 

Mãnh thú còn biết bảo vệ con thú nhỏ,

Mẹ làm người có lương tâm đạo lý,

Sao Mẹ nhẫn tâm đến độ ghê tởm:

Cho phép bác sĩ bầm dập thân con!!!

 

Khi con tan xương thịt nát,

Mẹ lê bước đến những phần mộ vô danh

Ở Nghĩa Trang Đồng Nhi Pleiku,

Hoặc Nghĩa Địa Các Thánh Anh Hài ở Huế…

 

Với nhang khói và hoa tàn trong tay

Mẹ khóc than trong ân hận,

Khi thể xác con trở thành cát bụi hư không,

Do chính bàn tay tàn ác của Mẹ!!!

 

……

 

Nếu Mẹ có ăn năn thì sự đã rồi!

Mẹ có ân hận suốt đời,

Tiếng nói lương tâm của Mẹ

Cũng sẽ không bao giờ im bặt!!!

 

Còn con đã đi vào cõi vĩnh viễn hư không

Của những cô hồn vất vưởng,

Để làm chứng tá

Cho những tội ác tày trời của Mẹ!!!

 

(Thai nhi bất hạnh của Mẹ)

 

Đi thăm mái ấm 

Khoảng ba giờ chiều hôm đó, nhân tiện cha Uy đi thăm mái ấm dành cho các thiếu nữ từ chối phá thai. Họ được đưa tới đây để các nam nữ tu sĩ cùng các giáo dân thiện nguyện giúp đỡ trước khi sinh nở, cũng như sau khi sinh xong. Cha Uy thỉnh thoảng đến đây thăm viếng và dâng Thánh Lễ cầu nguyện cho họ.

 

Đa số các thiếu nữ đó còn trẻ, khoảng ba mươi tuổi trở xuống. Có thiếu nữ còn non trẻ như đang lứa tuổi học sinh. Ở đây họ cũng được dạy nghề như may vá để rồi sau nầy may ra kiếm được việc làm nuôi thân và nuôi con.

 

Nhìn các cháu nhỏ mới sinh được vài tháng hay lên mấy tuổi, biết nói năng đi đứng và vui đùa, tôi cảm thấy vui lây. Nhưng đó chỉ là một số nhỏ, rất nhỏ, không biết được mấy phần ngàn, phần vạn, so với số khổng lồ thai nhi đã bị phá, nghĩ thật đau lòng! Việt Nam là một trong ba quốc gia có tỷ lệ phá thai lớn nhất thế giới, bên cạnh Trung Hoa và Ấn Độ.

 

Công việc của cha Uy cũng như của các nam nữ tu sĩ trẻ tuổi cùng nhóm thiện nguyện giáo dân chỉ như muối bỏ biển. Nhưng với thiện chí, cha Uy và quý thầy, quý Sơ cùng các giáo dân thiện nguyện cố gắng làm một cái gì đó, còn hơn không.

 

TIẾT BA

SỰ GHÊ RỢN CỦA VIỆC PHÁ THAI

 

Báo điện tử Ephata số 95 có đăng lại bài của Tú Anh - Nguyễn Quyên, Báo An Ninh Thế Giới, cuối tháng 7/2002: “Lời kêu cứu của những đứa trẻ không ra đời: Bể trầm luân, ai khóc?”, mô tả cảnh những thiếu nữ đi phá thai ở Hà Nội như sau:

 

Phòng nằm sau khi nạo thai 

Nhận được tin nhắn, tôi vội vào bệnh viện Phụ Sản Hà Nội ngay. Cô em họ (đang là sinh viên, có thai với bạn trai, đã không thể vượt qua rào cản của dư luận, một mình đẻ con) đã nhập viện để nạo thai. Hai phòng chờ chật chội với những khuôn mặt non choẹt, ngơ ngác và sợ hãi. Cô nào cũng mặc một chiếc váy hoa đỏ trùm kín tới gót chân nên rất khó nhận ra.

 

Nhìn lướt qua các ô cửa, tôi bước vào một phòng rộng có mười giường bệnh. Mỗi giường có một cô gái trẻ nằm thiêm thiếp như chết và bên cạnh là một cậu trai cũng ngơ ngác và sợ sệt không biết làm gì khác, ngoài việc cúi gằm mặt xuống. Khuôn mặt các cô tái ngắt không còn sinh khí, vệt máu còn dây ra cả chiếu. Tôi rùng mình. Đó là phòng nghỉ của những người đã nạo thai xong.

 

Một chàng trai cỡ 17 tuổi cúi xuống bạn: “Về đi, ai trông thấy thì chết!” Tiếng cô gái thều thào, đứt quảng: “Em nghỉ tí đã!” Sau 20 phút từ khi bạn nạo thai, cậu ta xốc nách cô gái dìu nhau ra khỏi viện, hầu như không có một sự chăm sóc y tế nào đối với những cô gái đã xong việc và chuyển tới nằm nghỉ ở đây. Khoảng 10 phút sau, lại tiếng bánh xe cáng nghiến rền rĩ, một cô vừa nạo xong được bác sĩ chuyển đến.

 

Cảnh tượng nạo thai

Nhìn khắp không thấy cô em gái, tôi chạy tiếp phòng khác. Khuôn mặt em tôi tái mét như không còn hạt máu, ngồi rúm ró trong một góc phòng. Cái thai đã được 4 tháng, bác sĩ dọa rằng: to lắm, phải để đẻ thôi, chứ không làm cô-vắc được đâu. Hầu hết các cô gái có thai to đều bị đe dọa một câu như thế.

 

Bác sĩ biết, những cô gái nầy phải tìm đến đây thì không lời đe dọa nào có tác động bằng lời đe dọa ấy. Và tất nhiên lời đe dọa nào cũng có mục đích cả, nhất là lời đe dọa ấy lại từ miệng của những người sẽ giúp đỡ mình.

 

Trong số khoảng 2 triệu ca nạo thai mỗi năm thì số các cô gái chưa chồng đi nạo thai chiếm đến 90%. Bác sĩ bơm thuốc thẳng vào tử cung để ép quá trình sinh đẻ đến thật nhanh. Thành bụng co ép, đẩy cái thai ra ngoài.

 

Có cô gái 16 tuổi, lần đầu mang thai, sau khi dùng thuốc khoảng 2 tiếng là lên bàn… đẻ ngay. Như vậy liều thuốc dùng phải cực mạnh và đặc biệt hại trực tiếp đến tử cung của người phụ nữ. Chính điều nầy khiến nhiều người phải vô sinh.

 

Làm mẹ một giây! 

Làm xong, cô em tôi cũng được đẩy về phòng nghỉ. Trong nỗi đau đớn tột cùng, nó không còn biết mình vừa làm gì. Linh cảm người mẹ trỗi dậy, nó thốt lên gần như không ra hơi: “Trai hay gái?” rồi thiếp đi. Đấy, giây khắc thốt lên ba từ ngắn ngủi nầy, nó trở thành người mẹ. Điều nầy ngay cả khi trên bàn đẻ nó cũng không có được, vì thuốc và bác sĩ đã “sinh” hộ nó rồi.

 

Sau khi nạo thai 

Những cô gái đến bệnh viện đa số được bạn trai, người cùng gây ra hậu quả đưa đi. Có những cô vì bạn trai đã “chạy mất” nên đành phải đi một mình. Nạo xong, nghỉ được vài chục phút là vội vã đưa nhau về.

 

Nếu ở thành phố thì giấu kín bố mẹ, còn là sinh viên thì tấp vào một nhà trọ nào đó. Hiển nhiên, những cô gái đó không bao giờ, dù nhỏ tuổi nhất, lại được chăm sóc y tế hay sức khỏe sau khi nạo thai. Hầu hết các cô phải gắng gượng đi lại, lao động như bình thường. Do đẻ ép trái với tự nhiên và do dùng một liều thuốc quá lớn, cộng với tâm lý cực kỳ nặng nề, nên mỗi ca nạo thai tổn hao sinh lực sản phụ gấp năm lần một ca đẻ bình thường.

 

Có một ngàn cách để giữ người đàn ông lại, nhưng chỉ có một cách khiến họ thật sự yêu mình. Đó là yêu họ bằng một tình yêu chân thành nhất. Mà tình yêu chân thành thì nhạo báng và rũ bỏ mọi mưu mô.

 

Tuy nhiên, khi đã 4, 5 tháng tuổi, lúc đó thai nhi đã mang hình hài con người. Có thể thai nhi 4 tháng tuổi chưa đủ hình vóc của một con người, nhưng về mặt tinh thần của đứa trẻ ấy, của thai nhi ấy đã tồn tại từ khi người mẹ bắt đầu mang thai. Tinh thần đó là một tinh thần còn ẩn khuất và nó sẽ xuất hiện giữa thế giới con người khi đứa bé chào đời. Chính vì vậy, những đứa trẻ đó phải được sống cuộc sống mà tự nhiên đã ban cho nó.

 

TIẾT BỐN

NGHĨA TRANG CỦA HƠN 30.000 LINH HỒN BỊ CHỐI BỎ

 

Ephata (số 322) có trích lại bài viết của Hoàng Văn Minh, báo Lao Động, ngày 25/06/2007, mô tả “Nghĩa Trang của hơn 30.000 linh hồn bị chối bỏ” như dưới đây: 

Tại làng Ngọc Hồ, xã Hương Hồ, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên – Huế, có một nghĩa trang chôn cất hơn 30.000 đứa trẻ chưa kịp nên hình hài đã bị cha mẹ chối bỏ, tước đoạt sự sống. Đó là kết quả sau hơn 15 năm âm thầm đi gom các hài nhi về chôn cất của hai người đàn ông có một thân phận bình thường. Họ gọi công việc của mình bằng một cái tên đầy ẩn dụ và đau xót: Phần việc cuối cùng của những người Bảo Vệ Sự Sống!

 

Lẩn thẩn với những linh hồn bé bỏng... 

Nghĩa trang đương nhiên là buồn, nhưng hình như nghĩa trang ở làng Ngọc Hồ là nghĩa trang buồn và cô quạnh nhất. Tôi mồ hôi đầm đìa vì nắng nóng, nhưng vẫn cảm được sự gợn lạnh của một cõi âm hình như đã lâu vắng mùi nhang khói. Bởi vậy, người bạn đồng hành đã không cầm được những tiếng thở dài và nước mắt khi nhìn thấy cỏ mọc um tùm giữa hàng trăm ngôi mộ nằm san sát nhau, cùng một kiểu và diện tích giống nhau. 

Mới nhìn thoáng qua, cứ ngỡ những linh hồn bé bỏng đang yên nghỉ ở đây đã tìm thấy được sự công bằng, nhưng đó mới chỉ là sự công bằng về diện tích và kiểu dáng. Bởi trên những khoảnh đất hiếm hoi ở giữa những ngôi mộ, không hiểu sao nơi lại rực rỡ sắc hoa, nơi lại ngút ngàn cỏ dại và chỉ lác đác một vài ngôi mộ, dù có nguội lạnh ngả nghiêng, nhưng vẫn có được cái bát nhang như thường thấy. 

Anh Trương Văn Năng – một trong hai chủ nhân của nghĩa trang – chỉ lý giải được vế sau của sự thắc mắc: "Những ngôi mộ có bát nhang là do một trong những em nằm dưới đó đã được bố mẹ tìm đến nhìn nhận. Rằm và mồng một hàng tháng, họ thường đến đây thắp nhang và dọn dẹp mộ phần cho con cái. Hôm nay mấy anh lên không đúng dịp, chờ nán lại thêm mấy hôm nữa, đến cuối tháng sẽ gặp được rất nhiều người". Nhưng "làm sao họ lại biết người nằm dưới mộ là con họ?" – tôi hỏi.  

Anh Năng trả lời: "do để tiết kiệm đất cho lâu dài nên mỗi ngôi mộ chúng tôi chôn chung khoảng 6, 7 em, mỗi em được bỏ trong một cái om nhỏ như cái ấm đất. Còn chuyện các ông bố, bà mẹ sau bao nhiêu lâu vẫn tìm được đúng mộ của con mình là do khi nhặt và chôn cất, mỗi hài nhi đều được chúng tôi làm hồ sơ rất kỹ về ngày và địa điểm nhặt xác, nguồn gốc nếu có... Những thông tin đó chúng tôi lưu giữ vào những cuốn sổ riêng, còn những con số trên mộ chỉ là những thông tin về ngày chôn cất...

Rồi anh thở dài: "Các em không may bị cha mẹ chối bỏ sự sống nhưng vẫn còn may là được họ nghĩ lại để tìm đến. Tuy nhiên số đó rất ít. Phần lớn các em ở đây vẫn mang phận mồ côi. Ai ở gần những hàng xóm có người thân thì thỉnh thoảng còn hưởng nhờ chút khói nhang, hoa quả..." 

Anh Năng dẫn chúng tôi đến một khu nghĩa trang khác trong khuôn viên ngọn đồi, nơi có những ngôi mộ vừa mới chôn chưa kịp "xây nhà", vẫn còn nguyên mùi đất, và cả những ngôi mộ vừa mới đào xong chưa có xác. Anh nói: "Đây là 3 ngôi mộ vừa chôn tuần trước, còn đây là những ngôi mộ tui đào sẵn cho những ngày sắp tới. Hôm nay nếu không hẹn với các anh, tôi đã về Huế để nhận các em về".

 

Việc cuối cùng của những người "Bảo Vệ Sự Sống" 

Để có được một nghĩa trang bề thế và đầy ý nghĩa như bây giờ, hơn 15 năm nay, hai anh Trương Văn NăngTống Viết Hiếu, ở thôn Ngọc Hồ của xã Hương Hồ, thành viên của nhóm "bảo vệ sự sống", thuộc Hội Bác Ái địa phận Huế, đã âm thầm đi lại như con thoi giữa Hương Hồ – Huế (khoảng 15km) để gom về từng cái xác. Nhóm "Bảo Vệ Sự Sống" có rất nhiều người tham gia với nhiều phần việc khác nhau, như gặp và động viên những bà mẹ trẻ lỡ dại tiếp tục giữ, sinh và nuôi. 

Bà mẹ nào sinh con ra nhưng không nuôi được với nhiều lý do khác nhau thì hội nhận và giao cho các cơ sở khác thuộc Hội Bác Ái nuôi. Thiết lập quan hệ với các bệnh viện, những y bác sĩ chuyên về nạo phá thai, để xin những thai nhi bất hạnh đem về chôn cất... "Tui và anh Hiếu chỉ phụ trách việc nhận thai nhi ở những địa điểm cố định để đem về đây chôn, còn việc tiếp nhận thai nhi từ các cơ sở nạo phá thai thì đã có một nhóm khác lo liệu. Nói cách khác, phần việc của chúng tôi là phần việc cuối cùng của những người bảo vệ sự sống" – anh Năng nói, ánh mắt đầy chua xót. 

Hiện trung bình mỗi tháng, hai anh Năng và Hiếu tiếp nhận, chôn cất khoảng từ 120 – 140 hài nhi. Đó là một con số kinh hoàng đối với một địa phương nổi tiếng là lành và gia giáo như ở Huế. Tuy nhiên, theo anh Năng thì "con số đó vẫn chưa phản ánh được hết thực chất của việc nạo phá thai trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên – Huế, bởi chắc đã và sẽ còn rất nhiều vụ phá thai mà chúng tôi không thể nào biết được. Một điều tôi không thể nào hiểu được là tại sao càng ngày, đời sống kinh tế của người dân càng khấm khá thì tỉ lệ nạo phá thai lại càng tăng đến chóng mặt. Đặc biệt, ngày trước cứ 10 người nạo phá thai thì có đến 8 – 9 là người sống ở thành phố, còn bây giờ, cứ 10 người thì lại có đến 3 – 4 sống ở nông thôn". 

Tôi băn khoăn không biết những thai nhi không được đưa vế đây có được ai đó quan tâm để chôn cất tử tế hay không? Anh Năng chùng giọng: “Có lẽ là không, bởi hiện ở Thừa Thiên – Huế chỉ duy nhất chúng tôi làm việc nầy.” Về việc những thai nhi bị chối bỏ, nếu không được chôn cất thì sao, anh Năng không trả lời thẳng mà chỉ gần xa, nhưng đủ để tôi rung mình và bất chợt nhớ tới những thai nhi được dùng để vỗ béo súc vật như trong truyện ngắn “Tướng về hưu” xôn xao một dạo…

 

Nhóm Bảo Vệ Sự Sống

Nhóm "Bảo Vệ Sự Sống" được hình thành và hoạt động từ năm 1992, và sau này trở thành một mô hình kiểu mẫu cho nhiều địa phương khác làm theo như Nha Trang, Đà Nẵng...  

Lúc đầu, tôi cứ đinh ninh là các anh được trả tiền để làm việc này, nhưng hoá ra không phải. "Nhiều năm nay, chúng tôi làm việc này một cách tự nguyện. Chỉ có tiền cho việc mua áo quan và xây mộ là Hội Bác Ái cho, còn lại mọi chi phí đi lại, chúng tôi phải tự lo. Tuy vậy, chúng tôi lấy điều đó làm vui bởi đã làm được việc gì đấy có ý nghĩa để các em được an ủi phần nào. Hiện thu nhập chính của gia đình tôi là làm ruộng và trồng rừng, còn anh Hiếu là đi dạy thêm tiếng Anh cho người ta. Làm công việc này mà nghĩ đến tiền bạc là thất đức lắm. Vả lại nếu có tiền thì thiên hạ người ta tranh nhau làm hết rồi, đâu tới lượt mình" – anh Năng nói.  

Điều bất ngờ là anh Năng có 6 người con, nhưng tất cả 4 người con lớn của anh hiện đang theo học đại học và phổ thông ở Huế đều rất ủng hộ và đang "theo nghề" của anh. "Có những lúc bận quá không về Huế nhận xác được, rứa là các cháu nhân dịp đi học về ghé qua nhận và mang về giúp tôi. Cũng may là đứa nào cũng thấy bình thường và vui vì được làm công việc này. Như rứa là sau này tôi có người nối nghiệp rồi" – anh kể và đầy tự hào về các con mình. 

Cuộc trò chuyện của chúng tôi diễn ra tại nghĩa trang. Anh Năng vừa tranh thủ làm vệ sinh một ngôi mộ phủ đầy cỏ dại vừa thầm thì, hình như không phải với tôi: "Bao năm nay ở đây chỉ toàn nghe tiếng khóc và thở dài, phải lâu lắm rồi mới có nhiều tiếng người cười nói". Anh khoe: "Mỗi lần có chuyện buồn bực, chuyện khó khăn, tôi đều lên đây tâm sự với các em và sau đó thấy lòng rất nhẹ nhõm. Ở đời, chỉ có đối diện với người đã khuất, đặc biệt với những hài nhi như các em, người ta mới dám rũ bỏ và nói thật lòng mình". 

Chia tay anh, tôi và người bạn đồng hành nán lại chút xíu để thử "tâm sự với các em". Bởi là lần đầu tiên rơi vào cảnh ngộ này nên cho đến chập choạng tối vẫn không biết nên tâm sự những gì và bắt đầu từ đâu? Đành rời nghĩa trang và tự an ủi mình bằng một niềm vui nho nhỏ: "Mình được sinh ra trên cõi đời này đã là một niềm hạnh phúc vô bờ bến!"

 

Nhà văn Hương Vĩnh

VỀ MỤC LỤC

RỒI NGÀY MAI CÙNG MẸ Ở THIÊN ĐÀNG


Maria! Mẹ là bà có phúc!

Mẹ đồng trinh, Mẹ Thiên Chúa Ngôi Hai

Mẹ giúp con trên những nẻo đường dài

Ban bình an những ngày con sóng gió!

 

Mẹ ủi an những cảnh nghèo cảnh khó!

Mẹ xót thương, chia sẻ cảnh lầm than

Mẹ mẫu thân của những kẻ cơ hàn

Mẹ ban phúc những cảnh đời túng thiếu!

 

Mẹ là nguồn sáng soi thật kì diệu!

Mẹ chỉ đàng, soi lối bước con đi

Mẹ  an bình,  mẹ nhân ái từ bi

Mẹ là chốn  tựa nương con ẩn náu!

 

Maria! Chính Ngôi Hai Mẫu Hậu!

Mẹ cầu bầu cho khắp chúng tội nhân

Mẹ yêu thương hết thảy cả nhân quần

Mẹ là hướng Sao Mai con tìm đến!

 

Mẹ ơi Mẹ! Thuyền con trôi lạc bến!

Nẻo đường lành xin Mẹ hướng con đi

Biển đêm đen, sóng nổi, chẳng thấy chi

Con lo sợ thuyền con chìm, tan tác!

 

Con phó dâng vào tay Mẹ hồn xác

Mẹ chỉ đường con đến bến bình an

Rồi ngày mai cùng Mẹ ở thiên đàng

Con có Mẹ, muôn đời con hạnh phúc!

Bút Xuân TRẦN ĐÌNH NGỌC

VỀ MỤC LỤC
HÃY TỎ RA TRỌNG KÍNH CON TRẺ

 

Cuộc sống dân chủ đặt căn bản trên sự trọng kính hổ tương. Nếu chỉ có một người được kính trọng, không có sự bình đẳng. Chúng ta phải chắc chắn rằng chúng ta cần tỏ ra trọng kính con trẻ và các quyền lợi của chúng. Điều nầy đòi hỏi sự nhạy cảm trong việc đạt được sự quân bình giữa hai thái cực: quá nhiều và quá ít.

Bà mẹ và ông bố rất hảnh diện về cậu bé Chiến, đứa con đầu của ho,ï mới vừa sinh ra được 2 tháng. Bất cứ khi nào có dịp, họ đều đánh thức cậu bé dậy để nó nhìn những người bạn của họ. Bé Chiến có quyền ngủ. Cả bố mẹ tỏ ra thiếu kính trọng nó khi họ quên mất quyền lợi của nó. Vì thế cu bé thường ngủ ít và hay khóc. Nó được cho bú khi nó khóc ngay cả khi nó vừa được cho bú chỉ một giờ trước. 

Sức khỏe và sự lớn lên của cu bé tùy thuộc vào thức ăn và sự nghỉ ngơi điều độ của nó. Với sự điều độ, bao tử thích nghi vào mẫu mực của việc tiêu hóa cũng như sự nghỉ ngơi. Điều đó giúp cho sự tiêu hóa các thức ăn được dễ dàng và thiết lập một trật tự căn bản kéo dài suốt đời. Thời gian đầu, đứa bé được xem là cái bao tử. Sự giao tiếp đầu tiên của nó với hệ thống trật tự đến nhờ sự cho ăn uống điều độ. Đứa bé và bao tử của nó có quyền đòi hỏi sự điều độ và nếp sống trật tự. Nó có thể tham dự vào việc xếp đặt chương trình cho những lần ăn uống. 

Bác sĩ chuyên về nhi đồng có sự thay đổi trong lời khuyên của họ về thời biểu cho trẻ ăn. Bà mẹ thực hiện chương trình cho ăn theo như bác sĩ yêu cầu, sẽ cảm thấy rằng đứa bé sẽ phát triển một cách điều độ giữa những bữa được cho ăn nếu bà cảm thấy thoải mái và tự tin vào điều bà đang làm. Tuy nhiên, nếu bà cảm thấy lo lắng mỗi khi đứa bé động đậy, bà không giúp nó phát triển theo một  chương trình mà còn khiến nó có những đòi hỏi không mấy thích hợp. Chương trình cho ăn uống bất thường cho thấy sự thiếu trọng kính đứa bé và thiếu tôn trọng trật tự.

Bé Tuyên 9 tuổi, con một và muốn làm vui lòng bố mẹ. Bố mẹ có tiêu chuẩn rất cao cho hành vi xử sự và cho sự học vấn của đứa trẻ. Một chương trình hoạt động được sắp đặt cho nó và một sự hoàn thành tuyệt vời trong nhiều lãnh vực được hy vọng nơi nó. Nếu không đạt được điểm tối đa là một đại họa cho nó. Nó phải là một lãnh đạo trong ngành Hướng Đạo, một ngôi sao trong ngành Thể Dục, một tay Piano cự phách trong ngành Âm Nhạc. Bé Tuyên được xem là một đứa trẻ chói sáng và ngoại hạng bỡi tất cả những người biết nó. Nhưng nó có một lỗi lầm mà bố mẹ nó không thể sửa được là: nó hay cắn móng tay. Nó cũng thường hay có ác mộng và thói quen nhún vai. 

Bố mẹ thật độc ác một cách vô tình trong những mong đợi của họ. Vì cậu bé bị thúc đẩy bỡi ước muốn làm vui lòng bố mẹ, nó dễ dàng được hướng dẫn làm theo những yêu sách đó. Vì nó thông minh hơn bình thường và chịu khó học hành nữa nên có thể thỏa mãn những ước vọng của họ. Nhưng nó tỏ cho thấy những phản loạn bên trong. Nó cảm thấy rằng nó chỉ có ý nghĩa bao lâu nó làm vui lòng bố mẹ và đó là điều ưu tiên hàng đầu của nó. Nó không dám làm mất vị trí của nó bỡi sự phản loạn công khai chống lại những yêu sách của họ. Nó chỉ có thể phản đối trong giấc ngủ. Bố mẹ tỏ ra thiếu sự kính trọng đối với cậu bé như là một con người. Họ dùng nó như một phương tiện để làm vẻ vang danh tiếng họ. Cậu bé không thể kính trọng chính mình khi suốt cuộc đời được hướng dẫn để phục vụ cho ước muốn của bố mẹ cho dẫu là muốn con mình nên vĩ đại.

Chỉ khi chúng ta tin tưởng vào đứa trẻ và khả năng của nó, chúng ta mới tỏ ra kính trọng nó. Nhưng điều nầy không có nghĩa là chúng ta có thể làm những đòi hỏi phục vụ cho những tham vọng của chúng ta.

Bé Kim Chi 18 tháng tuổi, cố gắng leo lên chiếc ghế trong phòng coi Tivi. Cô bé trợt xuống, đụng vào cằm, giập môi. Bà mẹ giữ im lặng khi thấy môi cô bé bắt đầu rướm máu. Bà vẫn vui vẻ nói: “Cưng ơi! Cứ ráng đi con. Con có thể làm được điều đó”. Cô bé liếm môi rướm máu và trở lại chiếc ghế cố gắng tập leo lần nữa. 

Bà mẹ ác phải không? Không chút nào. Nếu bà mẹ đã gây ra vết thương, cô bé đã mất hết can đảm. Và nhờ bà mẹ không bị ấn tượng, cũng không sợ máu, nên bé Kim Chi đã được khuyến khích để cố gắng. Một bài học rất quí giá.

lm.lêvănquảng.

VỀ MỤC LỤC

TÌNH YÊU KHÔNG TÌM TƯ LỢI

 

(Tác Phẩm 13 Nét Mặt Tình Yêu) 

Lm. Micae-Phaolo Trần Minh Huy chuyển ngữ

Người ta có thể tưởng rằng yêu thương là luôn luôn cho đi. Thường chúng ta tìm chính mình trong mối tương giao với tha nhân và với Chúa. Đó là một trong những khuyết điểm của tội lỗi : tính ích kỷ. Do đó Thánh Phaolô có lý để lôi kéo chúng ta lưu ý đến sự cần thiết của ân ban nhưng không, khi dạy chúng ta về tình yêu đích thực.

1. "Ai yêu mạng sống mình thì sẽ mất nó !"

"Ai yêu qúi mạng sống mình thì sẽ mất nó, còn ai coi thường mạng sống mình ở đời nầy thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời. Ai phục vụ Thầy thì hãy theo Thầy, và Thầy ở đâu thì kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó với Thầy. Ai phục vụ Thầy, Cha Thầy sẽ quí trọng người ấy" (Jn 12,25-26).

Ngày nay, một khẳng định như thế khó mà "qua được"... Có lẽ người ta sẽ nói rằng Chúa Giêsu không làm việc ở trên mây ! Tuy nhiên, khía cạnh sắc bén trong đòi hỏi của Chúa Giêsu có đủ trọng lượng tình yêu của Ngài đối với chúng ta. Và đáp trả của chúng ta cũng phải có trọng lượng tình yêu đối với Ngài...

Đây không phải là lúc mổ xẻ chi tiết thế nào là lòng yêu mình, nhưng chúng ta cũng phải cương quyết chống lại những thái độ tập trung triệt để vào lợi ích riêng của chúng ta :

·        Lòng quá tự say mê mình : Sự chú ý thái quá đến mình, đến độ làm cho nó trở thành một sự gắn chặt tình cảm... Tính ích kỷ có thể trở thành một thứ lấy mình làm trung tâm không thể chấp nhận được khi chúng ta để mặc cho nó triển nở.

·        Những tính toán, những cách thức để bảo vệ bằng mọi giá tính ích kỷ của mình bị đe dọa... đến độ tránh né cái mình cho là "có giá" trong cái phải cho... vấn đề không phải là tự hỏi xem mình có vừa ý nếu thích hay không thích, hơn một chút hoặc kém một chút... song là trèo lên cây thập giá đang được gởi đến...

·        Làm bật nổi ý riêng của mình trong mọi hoàn cảnh : Tôi làm cái tôi thích, cái tôi ưa, cái tôi yêu... ngay cả viện lý do phụng sự Thiên Chúa hay tha nhân... Và Thánh Phaolô đánh bật ra cho chúng ta : "Mỗi người đừng tìm lợi ích cho riêng mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác" (Ph 2,4).

"Đừng ai tìm lợi ích cho riêng mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác" (I Co 10,24).

"Tôi không thể tự ý mình làm gì. Tôi xét xử theo như tôi được nghe, và phán quyết của tôi thật công minh, vì tôi không tìm cách làm theo ý riêng tôi, nhưng theo ý Đấng đã sai tôi" (Jn 5,30).

"Bác ái không tìm tư lợi; bác ái không tìm lợi ích cho nó, nhưng cho Thiên Chúa. Cái mà bác ái yêu thích thì nó yêu thích trong Chúa và cho Chúa, và ngoài Chúa ra, thì bác ái không muốn có gì hết. Trong mọi hoàn cảnh bác ái gặp phải, nó tận dụng hết thời gian để thực hiện ý Chúa... Đây là lúc phải đành mất chính mình, không còn tìm mình cho chính mình nữa mà là cho Chúa, yêu thương tha nhân vì Chúa, và yêu mến Chúa vì Chúa, vì Chúa là Sự Tốt Lành vĩnh cửu và tối thượng, vì Chúa đáng được chúng ta yêu mến, phụng sự và khao khát"[1]

2. Yêu thương một cách nhưng không ?

Vào lúc mà mọi thứ đều được mua bán và trả giá thì thật khó mà quan niệm về tính nhưng không. Tuy nhiên, Chúa Giêsu vẫn mời gọi chúng ta sống một tình yêu vô vị lợi, bởi vì một tình yêu không vô vị lợi sẽ tìm kiếm tha nhân là vì lợi ích mà người đó mang lại thôi... Có lẽ do đó mà có nhiều điều phải nói liên quan đến cách sống mối tương quan bạn bè hay phu thê.

Chúng ta lưu ý ngay rằng "thuyết vị lợi" không hẳn vắng bóng khỏi mối quan hệ với những người gần, cũng như với các kẻ xa hơn của chúng ta đâu. Người ta thường nói "không ai cho không cái gì bao giờ !" Có thể xảy ra là tôi giúp người khác với hy vọng một ngày nào đó họ sẽ trả lại cho tôi tiền. Tạo cho mình những mối quan hệ luôn luôn là tốt !

Chúa Giêsu cảnh giác chống lại thứ động lực đó :

"Khi nào ông đãi khách ăn trưa hay tối, thì đừng mời bạn bè, anh em hay bà con, hoặc láng giềng giàu có, kẻo họ cũng mời lại ông, và như thế ông được đáp lễ rồi. Trái lại, khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì đáp lễ, và như  thế ông mới thật có phúc, vì ông sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại" (Lc 14,12-14).

Chúa Giêsu khuyến khích chúng ta tính nhưng không bằng cách giải thoát chúng ta khỏi luật "cho để được cho lại", "ăn miếng trả miếng", "hòn đất ném đi hòn chì ném lại", "có qua có lại mới toại lòng nhau" : Ngài muốn chúng ta hành động mà không chờ đợi được trả lại gì hết.

"Anh em muốn người ta làm gì cho mình thì cũng hãy làm cho người ta như vậy. Nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình thì có gì là ân với nghĩa ? Ngay cả người tội lỗi cũng yêu thương kẻ yêu thương họ. Và nếu anh em làm ơn cho kẻ làm ơn cho mình thì còn gì là ân với nghĩa? Ngay cả người tội lỗi cũng làm như thế. nếu anh em cho vay mà hy vọng đòi lại được thì còn gì là ân với nghĩa ? Cả người tội lỗi cũng cho kẻ tội lỗi vay mượn để được trả lại sòng phẳng. Trái lại, anh em hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn và cho vay mà chẳng hề hy vọng được đền trả. Như vậy phần thưởng dành cho anh em sẽ lớn lao, và anh em sẽ là con Đấng Tối Cao, vì Người vẫn nhân hậu với cả phường vô ân và quân độc ác" (Lc 6,31-35.

3. "Cho thì hạnh phúc hơn là nhận" :

Thánh Luca mang lại lời nầy của Chúa Giêsu[1] qua miệng thánh Phaolô : "Tôi luôn tỏ cho anh em thấy rằng phải giúp đỡ những người đau yếu bằng cách làm lụng vất vả như thế, và phải nhớ lại lời Chúa Giêsu đã dạy : Cho thì có phúc hơn là nhận" (Ac 20,35). Trong việc chúng ta không ngừng tìm kiếm hạnh phúc, lời nầy mời gọi chúng ta đi bước đầu tiên hơn là chờ đợi người ta đến phục vụ mình.

Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta : "Thầy ở giữa anh em như người phục vụ" (Lc 22,27). Chính vì vậy đôi khi Ngài không ngần ngại truyền lệnh cho chúng ta, chẳng hạn trong Lc 6, 27-38 : "Hãy yêu thương - Hãy làm việc thiện - Hãy chúc lành - Đừng xét đoán - Đừng kết án - Hãy tha thứ - Hãy cho đi, vì anh em dùng đấu nào mà đong thì người ta sẽ đong trả lại cho anh em bằng đấu ấy".

Thay vì than khóc tội lỗi của mình, tốt hơn chúng ta nên chấp nhận một thái độ tích cực : làm việc lành, khuyến khích nhau làm việc thiện, cho đi và còn cho đi nữa. Và trả lại mọi sự cho ân sủng của Chúa. "Yêu thương, chính là cho đi tất cả và cho đi chính mình"[1]

Đó là những cử chỉ nhỏ nhặt trong cuộc sống thường ngày phải được Phúc âm hóa và chúng chứng tỏ rằng chúng ta đang nổ lực đưa việc hoán cải vào hành động : không tự phục vụ đầu tiên, mĩm cười nhân hậu, nhường chỗ, ân cần lắng nghe, tiếp đón nồng hậu, kiềm chế sự mĩa mai, im lặng khi lời nói gây tổn thương, xin lỗi... ai có thể liệt kê hết cả một danh sách ? Trong tất cả những cái đó, chúng ta nên giao phó sự bất lực của chúng ta cho Chúa, và cầu xin Chúa Thánh Thần làm phát sinh công trình của Ngài nơi chúng ta.

"Công việc nhỏ bé nhất, ẩn khuất nhất, được thực hiện vì tình yêu thường có giá trị lớn hơn những công trình vĩ đại. Không phải giá trị hay vẻ thánh thiện bên ngoài của hành động là quan trọng đâu, nhưng chỉ tình yêu được đặt để ở đó mới thực sự quan trọng, và không ai có thể bảo rằng mình không thể cho Chúa những điều nhỏ mọn như thế, bởi vì chúng ở trong tầm tay của tất cả mọi người".[1]

4. Chúa Giêsu là gương mẫu tối hậu của mọi tình yêu đích thực của con người:

Trong bài giáo lý ngày thứ Tư 31/8/1998, Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II trình bày Chúa Kitô cho chúng ta như gương mẫu tình yêu trọn hảo, và chú giải bài ca đức ái như sau :

"Một đặc tính khác được tán dương trong bài ca đức ái của thánh Phaolô là "tình yêu không tìm tư lợi". Chúng ta biết rằng Chúa Giêsu đã để lại cho chúng ta mẫu gương trọn hảo về tình yêu vô vị lợi nầy. Thánh Phaolô đã nói lên điều đó cách rõ ràng ở một đoạn văn khác: "Mỗi người chúng ta hãy chiều theo sở thích của người khác, vì lợi ích của họ và để xây dựng. Thực vậy, Đức Kitô đã không chiều theo sở thích của mình, trái lại như có lời chép 'lời kẻ thóa mạ Ngài, nầy chính con hứng chịu'"(Rm 15,2-3). Chính trong tình yêu của Chúa Giêsu mà tính triệt để Phúc âm của Tám Mối Phúc Thật Ngài đã công bố được cụ thể hóa và đạt tới đỉnh cao của nó: sự anh hùng của Chúa Kitô sẽ luôn là gương mẫu cho các nhân đức anh hùng của các thánh.

... Thánh Gioan viết trong thư của ngài : "Căn cứ vào điều nầy, chúng ta biết được tình yêu là gì, đó là Đức Kitô đã thí mạng vì chúng ta. Như vậy, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng thí mạng vì anh em" (I Jn 3,16). Tình yêu của Chúa Kitô, đã được bộc lộ cách dứt khoát trong hy tế thập giá, nghĩa là trong sự hiến dâng mạng sống vì anh em mình, là gương mẫu tối hậu của mọi tình yêu đích thực của con người".

5. "Những gì anh em làm cho một trong những    kẻ bé nhỏ nhất trong các anh em của Thầy đây là anh em đã làm cho chính Thầy vậy" (Mt 25,40) :

"Phần Thầy, Thầy đã yêu thương anh em, trước khi được anh em yêu thương, và từ đó, mọi tình yêu anh em có cho Thầy là một món nợ mà anh em phải trả, chứ không phải là một ân huệ mà anh em làm cho Thầy đâu, trong khi tình yêu mà Thầy có cho anh em là một hồng ân mà Thầy ban cho anh em, chứ Thầy không phải nợ anh em đâu. Vậy anh em không thể trả cho Thầy tình yêu mà Thầy đòi hỏi anh em. Nhưng Thầy đã đặt để anh em ở bên cạnh tha nhân, ngõ hầu anh em có thể làm cho tha nhân điều mà anh em không thể làm cho Thầy : yêu thương tha nhân bằng ân huệ và với lòng vô vị lợi, không chờ đợi từ họ một lợi lộc nào cả. Bấy giờ Thầy kể như là làm cho Thầy tất cả những gì anh em đã làm cho tha nhân".[1]

 

Suy niệm để lần hạt Mân Côi

1. Tình yêu không tìm tư lợi. "Ai yêu quí mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai coi thường mạng sống mình ở đời nầy thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời. Ai phục vụ Thầy thì hãy theo Thầy, và Thầy ở đâu thì kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha Thầy sẽ quí trọng người đó" (Jn 12,25-26). Thường chúng ta tìm chính mình trong quan hệ với tha nhân và với Chúa. Chúng ta hãy xin ơn được giải thoát khỏi sự lấy mình làm trung tâm nầy và đi vào niềm vui ban tặng.

2. Tình yêu không tìm tư lợi. "Mỗi người đừng tìm lợi ích cho riêng mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác" (Ph 2,4). "Đừng ai tìm ích lợi cho riêng mình, nhưng hãy tìm ích lợi cho người khác" (I Co 10,24). Chúa Giêsu nói : "Tôi không thể tự ý mình làm gì. Tôi xét xử theo như tôi được nghe, và phán quyết của tôi thật công minh, vì tôi không tìm cách làm theo ý riêng tôi, nhưng theo ý Đấng đã sai tôi" (Jn 5,30). Lạy Chúa, xin dạy chúng con biết lưu tâm đến tất cả những người chung quanh chúng con, để yêu thương họ với tinh thần phục vụ.

3. Tình yêu không tìm tư lợi. "Anh em muốn người ta làm gì cho mình thì cũng hãy làm cho người ta như vậy. Nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình thì có gì là ân với nghĩa ? Ngay cả người tội lỗi cũng yêu thương kẻ yêu thương họ. Và nếu anh em làm ơn cho kẻ làm ơn cho mình thì còn gì là ân với nghĩa? Ngay cả người tội lỗi cũng làm như thế. Nếu anh em cho vay mà hy vọng đòi lại được thì còn gì là ân với nghĩa ? Cả người tội lỗi cũng cho kẻ tội lỗi vay mượn để được trả lại sòng phẳng. Trái lại, anh em hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn và cho vay mà chẳng hề hy vọng được đền trả. Như vậy phần thưởng dành cho anh em sẽ lớn lao, và anh em sẽ là con Đấng Tối Cao, vì Người vẫn nhân hậu với cả phường vô ân và quân độc ác" (Lc 6,31-35). Chúa Giêsu khuyến khích chúng ta về tính nhưng không bằng cách giải thoát chúng ta khỏi luật "cho để được cho lại" : Chớ gì chúng ta hành động mà không mong được trả lại.

4. Tình yêu không tìm tư lợi. "Cho thì hạnh phúc hơn là nhận" (Ac 20,35). Trong việc chúng ta không ngừng tìm kiếm hạnh phúc, lời nầy của Chúa Giêsu mời gọi chúng ta cất bước đầu tiên trong chiều hướng trao hiến, hơn là luôn luôn tìm cách lãnh nhận. Nhờ lời cầu bàu của Mẹ Maria, xin Chúa Thánh Thần - Tình yêu trao hiến, dẫn dắt chúng con theo bước Chúa Giêsu.

5. Tình yêu không tìm tư lợi. "Mỗi người chúng ta hãy chiều theo sở thích kẻ khác, vì lợi ích của họ và để xây dựng, vì Đức Kitô đã không chiều theo sở thích của mình..." (Rm,15,2-3). Chúng ta biết rằng Chúa Giêsu đã để lại cho chúng ta gương mẫu hòan hảo nhất về tình yêu vô vị lợi nầy. Nhờ lời cầu bàu của Mẹ Maria, xin Chúa Thánh Thần - Tình yêu trao hiến, dẫn dắt chúng con theo bước Chúa Giêsu.

 

VỀ MỤC LỤC

Phòng Tránh Rủi Ro Té Ngã

 

Té ngã là sự mất thăng bằng ngoài ý muốn khiến cho cơ thể bất ngờ rơi xuống mặt đất, sản nhà.

Với người cao tuổi, té ngã là chuyện thường thấy. Cứ 3 vị trên 65 tuổi thì 1 vị bị té ngã ít nhất một lần trong năm. Tai nạn thường xảy ra tại căn nhà tưởng như quen thuộc, bình an mà họ đã sống nhiều chục năm.

Sau khi ngã, dù không có thương tích, các cụ rất sợ di chuyển, trở nên mất tự tin, đời sống thể chất và tinh thần suy giảm mau lẹ, dễ dàng đưa tới mất tự chủ, phải phụ thuộc vào người khác.

Gẫy xương hông sau té ngã xẩy ra khoảng 90% các trường hợp. Tại Hoa Kỳ, hàng năm có đến gần 200,000 người cao tuổi gẫy xương hông vì ngã, nhiều người thiệt mạng trong khi điều trị ỏ bệnh viện. Tử vong 5 năm sau thương tích lên khá cao, tới 50%, đặc biệt là ở cụ ông và khi các cụ lại có thêm vài bệnh kinh niên.

Nhiều trường hợp té ngã có thể phòng tránh được

 

Nguy cơ Té ngã

Nguy cơ đưa tới té ngã có thể là từ môi trường bên ngoài hoặc từ trong cơ thể.  

A- Nguyện nhân nội tại:

1- Vấn đề sức khỏe

Một số bệnh kinh niên như tiểu đường, tai biến mạch máu não, Parkinson, kinh phong, phong thấp, bệnh tim, cao huyết áp là những nguyên nhân thường xuyên gây té ngã.

Ðôi khi chỉ một rối loạn nhẹ trong nhịp đập của tim, một lên xuống bất thường của huyết áp, một viêm nhiễm dị ứng của tai trong cũng có thể khiến các cụ thấy chóng mặt, mất thăng bằng đi đứng rồi ngã.

 2- Giảm thị lực, không nhìn rõ đường đi và đồ vật xung quanh, vấp rồi té ngã. Thị lực còn có vai trò quan trọng trong sự thăng bằng của cơ thể.

3- Một số thuốc an thần, thuốc ngủ, thuốc trị cao huyết áp, bệnh tim, thần kinh tâm trí, hoặc do dùng nhiều dược phẩm khác nhau cùng một lúc thường đưa tới cảm giác lâng lâng, ngây ngất đi đứng không vững rồi té ngã xảy ra.

4- Giảm sức lực và chức năng của tuổi cao như rối loạn cảm giác ngoài da, cứng khớp xương, teo yếu cơ bắp teo, dáng đi không vững, mất thăng bằng cơ thể.

5- Trầm cảm buồn phiền, sống cô đơn, kém nhận thức, mất định hướng, không tập trung, chậm phản ứng hoặc quá hấp tấp vội vàng cũng là rủi ro gây ra té ngã.

6- Ám ảnh sợ té ngã làm cho các cụ rụt rè không dám di chuyển.

7- Không vận động cơ thể khiến cho các bắp thịt yếu, khớp xương cứng, đi lại khó khăn

8- Tuổi càng cao, rủi ro té ngã càng nhiều, nữ nhiều hơn nam

9- Lạm dụng rượu: rượu có tác dụng ức chế chức năng thần kinh, giảm sự phối hợp các cử  động, phản ứng chậm chạp, dáng đi lảo đảo, loạng choạng.

10- Thiếu dinh dưỡng hoặc dinh dưỡng không hợp lý đưa tới suy nhược chung của cơ thể.

 

B- Nguyên nhân từ bên ngoài:

Ða số té ngã xảy ra khi đang làm các công việc thường lệ trong nhà

- Sàn nhà trơn, dây điện, đồ chơi trẻ em vướng chân.

- Sàn nhà không bằng phẳng, thảm lỏng lẻo, trơn.

- Cầu thang quá cao, bậc thang không vững, không có tay vịn.

- Bàn ghế thấp, lung lay, ghế không có dựa lưng, đỡ tay, giường quá cao hay quá thấp

- Kém ánh sáng hoặc đèn làm chóa mắt

-Ðứng trên ghế với lấy đồ trên cao dễ bị mất thăng bằng cơ thể

- Bồn tắm không có tấm thảm chống trơn trượt, cầu tiêu quá thấp ngồi xuống đứng lên khó khăn, không tay vịn

- Mang giầy dép lỏng lẻo, gót giầy quá cao, đế giầy bằng chất dễ trượt

- Sử dụng gậy chống, xe lăn không đúng cách hoặc không ở trong tình trạng tốt.

 Khi đã bị té ngã thì tai nạn sẽ trở lại nhiều hơn tới ba lần.

Với người không đi lại được, té ngã thường xảy ra khi họ tuột khỏi ghế ngồi hoặc chuyển mình từ ghế sang giường.

 

  Đối phó với té ngã

 Khi bị té ngã, hãy bình tĩnh đối phó.

Nếu thấy rằng có thể bị thương ở chân hay xương sống thì không nên cố ngồi dậy. Bị thương tích ở cột sống mà cử động có thể ảnh hưởng tới não tủy, hậu quả sẽ trầm trọng hơn.

Nên nằm yên rồi kêu giúp đỡ.  

Trái lại, khi trong người không đau đớn, cố ngồi dậy theo cách sau đây:

1- Nếu té nằm ngửa, hãy chuyển sang thế nằm sấp bằng cách: quay mặt về phía định lăn, đầu gối và khuỷu tay hướng về phía đối nghịch, sau đó chuyển chúng qua thân mình về phía đó đồng thời chuyển mình nằm sấp.

2- Khi đã nằm sấp, dùng bàn tay và đầu gối để đẩy cao người lên rồi bò tới phía trước một cái ghế ở gần đâu đó.

3- Đặt bàn tay lên mặt ghế, ngả người xuống để thân mình được tay chống đỡ.

4- Co đầu gối nào mạnh, dùng bàn chân phía đó đẩy người nhổm lên, đầu gối bên kia chống dưới sàn, quay nhẹ người rồi ngồi xuống ghế.

Sau khi nghỉ thở một lúc để lấy lại sức rồi sẽ kêu cấp cứu.

 

Phòng tránh té ngã

- Ðể tránh té ngã, nên cho bác sĩ hay những cơn chóng mặt, mất thăng bằng đã xẩy ra. Bác sĩ sẽ tìm nguyên nhân rồi điều trị.

- Nên đi khám tai khám mắt theo định kỳ để duy trì thính thị giác tinh tường. Bị cườm mắt, cao áp nhãn hoặc mang kính không đúng nhu cầu đều giảm thị lực, đưa tới té ngã. Rối loạn cơ quan tiền đình ở tai trong đưa tới mất thăng bằng cơ thể, té ngã.

- Tập luyện cơ thể đều đặn. Ðời sống tĩnh tại đều tăng rủi ro té ngã. Trong khi đó, tập luyện các cử động làm tăng sức mạnh cơ bắp, tăng chức năng của tim, giữ thăng bằng cơ thể đều rất tốt để phòng tránh té ngã.

Các chuyên viên Vật lý trị liệu, Chức năng trị liệu có thể hướng dẫn cho các cụ lựa chọn chương trình tập thể dục thể thao thích hợp cho mỗi cá nhân.

- Yêu cầu bác sĩ hoặc dược sĩ kiểm soát tất cả dược phẩm đang dùng, loại bỏ hoặc thay thế dược phẩm có thể gây chóng mặt.

Dùng thuốc theo lời dặn và không dùng chung thuốc với rượu hoặc uống quá nhiều rượu.

- Tạo sự an toàn nhà ở:

- Cất bỏ các chướng ngại vật trên lối đi như giầy dép, sách báo, đồ chơi

- Cất vật dụng thường dùng ở mức vừa tầm tay để khỏi phải đứng lên ghế cao.

- Giường ngủ không cao quá hoặc thấp quá để lên xuống thoải mái

- Gắn tay cầm ở bồn tắm và cầu tiêu

- Nâng mặt cầu tiêu cao để đứng lên ngồi xuống dễ dàng

- Ðặt thảm không trơn trong bồn tắm hoặc chỗ đứng để tắm.

- Gắn đèn đủ sáng cho các phòng, hành lang, cầu thang lên xuống

- Luôn luôn mang giầy, dù ở trong nhà hoặc đi ra ngoài.

- Không mang tất khi đi lại trên sàn nhà hoặc cầu thang gỗ đánh bóng, trơn.

- Giữ nhiệt độ phòng ngủ đừng quá lạnh để phòng ngừa khớp xương co cứng vì lạnh trong đêm.

- Té ngã khi đứng lên ngồi xuống nhanh có thể ngăn ngừa bằng cách mang tất ôm sát chân để máu khỏi tụ ở hạ chi.

- Trước khi đứng dậy, nắm chặt bàn tay, cọ quậy đầu ngón chân để máu dồn về trung tâm cơ thể. Ðứng lên chậm chậm.

- Học cách hóa giải cảm giác sợ té như đứng lên từ từ, ngồi ở cạnh giường trước khi đứng dậy, đứng một lúc trước khi cất bước đi, sử dụng gậy chống đúng cách

- Tránh các ý nghĩ không hợp lý như:

     a- Dùng gậy trở nên phụ thuộc vào gậy.

Thực ra gậy chống, walker đều giúp cơ thể thăng bằng, thực hiện các động tác thường lệ và di chuyển dễ dàng, giúp ta trở nên độc lập hơn.

     b- Ngồi lâu đâu còn bị té ngã.

Tọa triều, tĩnh tại quá lâu khiến cho xương khớp cứng nhắc, cơ bắp yếu, té ngã dễ dàng khi đi đứng.

     c- Người già ai chẳng té ngã.

Té ngã không là một phần của sự hóa già. Già chỉ là một rủi ro nhỏ trong té ngã. Sự bất cẩn, bệnh hoạn...mới là nguyên nhân. Và một số nguyên nhân đó có thể phòng tránh được

Bác sĩ Nguyễn Ý Ðức, Texas- Hoa Kỳ

VỀ MỤC LỤC

ĐẠO VÀ ĐỨC Chuyện phiếm của Gã Siêu.


 

Trong những năm gần đây, nhiều người đã lớn tiếng than ngắn thở dài về tình trạng đạo đức bị xuống cấp một cách trầm trọng,  không phải chỉ ở Việt Nam mà thôi, mà còn ở nhiều nơi trên khắp  thế giới.

Đối với những người đã có tí tuổi, thì cứ việc lấy nhau, rồi lôi nhau ra tòa ly dị, bỏ nhau cái một. Người ta thay đổi vợ chồng như thay đổi áo quần, khiến cho gia đình bị lung lay tận gốc rễ, không còn là một tổ ấm, mà chỉ còn là một nơi đày đọa và đay nghiến lẫn nhau. Vì thế, anh đi đường anh, tôi đi đường tôi, sớm ngày nào hay ngày ấy, mặc cho con cái sất bất xang bang, long đong vất vưởng.

Không phải chỉ bỏ nhau một cách thoải mái, mà còn bỏ cả con cái một cách vô tư. Người ta loan truyền những cách thức ngừa thai và phá thai, người ta vẽ ra một tương lai ảm đạm cho những gia đình đông con, khiến cho các đôi vợ chồng cảm thấy con cái là như một gánh nặng, chứ không còn là một hồng ân. Đã là gánh nặng thì cứ việc tìm cách để loại trừ, hơi đâu mà quàng vào cổ cho thêm phần cực nhọc, lo âu suốt bao nhiêu ngày tháng.

Ấy là trong gia đình, còn ngoài xã hội thì hỡi ôi, hễ có tí chức tí quyền thì vội vã lợi dụng mà vơ vét về cho đầy túi tham của mình, mặc cho đất nước tan hoang, quê hương xiêu đổ…Lớn thì xơi miếng to, nhỏ thì đớp miếng bé. Có tiền thì phải tiêu tiền. Vì thế, bèn tung tiền vào những vụ ăn chơi vung vít, đèo bòng bồ nhí…cho đến lúc khuynh gia bại sản, thân bại danh liệt,  mới mở con mắt dậy bỗng thấy mình tay không, nằm trong nhà tù mà đếm lịch từng ngày.

Còn đối với xấp nhỏ, lắm khi miệng còn hoi mùi sữa, đã thích chơi trò bạo lực, xách súng đến trường bắn xối xả vào bè bạn, cũng như thượng cẳng chân hạ cẳng tay mà hỏi thăm sức khỏe thày cô, còn đâu nữa truyền thống “tôn sư trọng đạo” của người xưa.

Lớn hơn một chút thì đã vội vã nếm mùi đời bằng cách chơi xì ke ma túy, hay vướng vào cái vòng tình ái cong cong. Chẳng thế mà con số những “đấng” vị thành niên tìm cách phá thai, giải quyết sốt sột cái “bầu tâm sự” của riêng mình vì đã trót lỡ dại, mỗi ngày một gia tăng…

Còn nhiều nữa, nhưng nếu viết ra, thì gã sẽ bị kê tủ đứng là một kẻ “cả tiếng lại dài hơi” mà than van oán trách. Trong khi đó, việc cần làm ngay, là phải tìm ra một giải pháp tích cực để cứu vãn tình thế. Suy nghĩ về vấn đề này, gã bèn nhớ tới một câu danh ngôn, đại khái như sau :

- Thà thắp lên một ngọn nến, còn hơn là ngồi đó mà rủa xả bóng đêm.

Một nhà hùng biện được mời tới sân vận động để nói chuyện với bàn dân thiên hạ. Ông đã bắt đầu bài thuyết trình của mình bằng cách tắt hết mọi đèn đóm, khiến sân vận động tối thui, thậm chí ngồi bên cạnh mà cũng chẳng nhìn thấy khuôn mặt của nhau.

Sau đó, ông bật một que diêm, giơ lên cao và hỏi :

- Quí vị có nhìn thấy không ?

Mọi người đều trả lời :

- Thấy…Thấy.

Khi mọi người đã yên lặng, ông liền yêu cầu :

- Bây giờ, ai mang theo diêm hay quẹt, thì vui lòng bật lên.

Chỉ trong giây lát, sân vận động như bừng sáng với ánh lửa của những que diêm và những chiếc quẹt, khiến mọi người nhìn rõ khuôn mặt của nhau. Rồi ông bắt đầu “Giô…đề” :

- Quí vị thấy đấy, nếu mỗi người chúng ta cố gắng làm những công việc tốt, cho dù là nhỏ bé và tầm thường, thì những công việc tốt ấy cũng sẽ dư sức đẩy lui bóng tối.

Mẩu chuyện và câu danh ngôn trên khiến gã phải giật mình, bởi vì rất có thể bản thân đã chẳng thắp nổi một ngọn nến, đã chẳng đánh nổi một que diêm hay đã chẳng bật nổi một hộp quẹt, nên đêm vốn dĩ đã tối lại càng tối hơn.

Đang miên man suy nghĩ, bỗng tình cờ gã đọc được mấy hàng chữ sau đây trong một bài viết :

“Có biết bao nhiêu người rất trung thành với những biểu dương tôn giáo, nhưng lại hoàn toàn sống xa lạ với những đòi hỏi của tôn giáo. Có biết bao nhiêu người có đạo mà không có đức…”

Lời nhận xét này lại càng làm cho gã thêm bối rối đến toát cả mồ hôi hột khi tự hỏi :

- Mình là dân có đạo, nếu xét kỹ lý lịch, không chừng còn là dân đạo dòng, đạo gốc…thế nhưng, liệu mình đã thực sự có đức hay chưa ?

Như có lần đã thú nhận với bàn dân thiên hạ rằng gã rất lấy làm tâm phục khẩu phục cha ông thuở trước vì cách chơi chữ và ghép chữ, hầu như chẳng một dân tộc nào trên trái đất này sánh nổi. Chẳng hạn : đã nhường thì phải nhịn, đã nhịn thì phải nhục, đã khôn thì phải ngoan, đã học thì phải hành…Và hôm nay, đã có đạo thì cũng phải có đức.

Và thế là gã bắt đầu tìm hiểu thế nào là đạo và thế nào là đức. Đâu là mối liên hệ giữa đạo và đức ?

Đạo có nghĩa là đường. Đường được mở ra với mục đích dẫn tới một địa điểm nào đó. Tuy nhiên, muốn đến nơi định đến,  chúng ta phải biết chọn đúng con đường và phải cố gắng bước đi trên con đường ấy. Bằng không, thà rằng ngồi chơi xơi nước ở nhà cho khỏe vẫn hơn.

Từ đó, người ta đã đưa ra những định nghĩa khác nữa về đạo, tùy theo phạm vi của nó rộng hay hẹp. Trước hết, theo nghĩa rộng, đạo là lề lối phải theo, là lẽ phải mọi người đều tuân giữ.

Nếu trong thực tế, chúng ta thấy có nhiều loại đường khác nhau : Đường bộ, đường thủy, đường hàng không. Nguyên đường bộ mà thôi cũng đã có biết bao nhiêu thứ : đường mòn, đường hẻm, đường đất, đường đá, đường bê tông, đường trải nhựa, đường cao tốc…thì đối với đạo cũng vậy. Đạo theo nghĩa rộng cũng có nhiều thứ, nhiều loại khác nhau.

Chẳng hạn đạo làm quan là phải biết thương dân và hành sử theo sự liêm chính.

Dương Chấn được bổ làm thái thú quận Đông Lai. Lúc đi phó nhậm, qua đất Xương Ấp. Quan huyện ở đấy là Vương Mật, trước được ông đề bạt cho, vào yết kiến. Rồi đợi đêm khuya, đem vàng đến lễ.

Dương Chấn bảo :

- Trước tôi biết ông là người khá mới cử ông lên, thế mà ông vẫn chưa biết bụng tôi, còn đem vàng đến cho tôi ư ?

Vương Mật cố nài, thưa rằng :

- Xin ngài cứ nhận cho. Bây giờ đêm khuya không ai biết.

Dương Chấn nói :

- Trời biết, đất biết, ông biết, tôi biết, sao lại bảo là không ai biết ?

Vương Mật nghe nói, xấu hổ lui ra. Dương Chấn thật là một ông quan thanh liêm, chỉ biết chăm lo việc dân việc nước, không tham nhũng, không làm giàu cho mình. Ông thường nói :

- Làm quan mà để được cái tiếng thanh bạch cho con cháu, chẳng quí hơn là để lại tiền của, ruộng nương cho chúng ư ?

Chẳng hạn đạo làm con là phải hiếu thảo, vâng lời cha mẹ.

Thày Tử Lộ vào hầu đức Khổng Tử, nói rằng :

- Đội nặng đi đường xa, thì tiện đâu nghỉ đấy, không đợi chọn chỗ, rồi mới nghỉ. Nhà nghèo, cha mẹ già, thì con làm nên thế nào, hay thế ấy, không đợi khi có quyền cao chức trọng mới chịu làm. Ngày trước Lộ này, lúc song thân còn, cơm thường dưa muối, đường xa trăm dặm, phải đội gạo về nuôi song thân. Lúc song thân mất, làm quan ở nước Sở, xe ngựa hàng trăm, lương bổng hàng vạn, ăn những miếng ngon, mặc những của tốt, mỗi khi nhớ đến song thân, lại muốn dưa muối, đội gạo nuôi các ngài như trước, thì không sao được nữa. Cha mẹ tuổi già như bóng qua cửa sổ. Cây muốn lặng mà gió chẳng đừng. Con muốn nuôi mà cha mẹ không còn sống.

Đức Khổng Tử nói :

- Nhà ngươi cư xử với song thân như thế là rất phải. Lúc các ngài còn, thì hết lòng phụng dưỡng. Lúc các ngài mất thì hết lòng thương tiếc.

Chẳng hạn đạo làm vợ, làm chồng thì phải trung thành cùng nhau trong suốt cả cuộc đời, bất kể trẻ hay già, đẹp hay xấu, lên voi hay xuống chó.

Vua Cảnh Công có cô con gái yêu muốn gả cho Án Tử. Một hôm đến ăn tiệc tại nhà Án Tử, thấy vợ của Án Tử, vua bèn hỏi :

- Phu nhân đấy phải không ?

Án Tử thưa :

- Vâng, phải đấy.

Vua nói :

- Ôi ! Phu nhân người trông sao vừa già lại vừa xấu ! Trẫm  có đứa con gái đẹp muốn cho về hầu, khanh nghĩ sao ?

Án Tử đứng dậy thưa rằng :

- Vợ tôi  thật vừa già lại vừa xấu, nhưng lấy tôi và cùng tôi ăn ở đã lâu, kể từ lúc còn trẻ và đẹp. Xưa nay đàn bà lấy chồng lúc trẻ cốt để nhờ cậy lúc già, lúc đẹp lấy cốt để cậy nhờ lúc xấu. Vợ tôi thường nhờ cậy tôi, mà tôi cũng đã nhận sự nhờ cậy ấy. Nay nhà vua, tuy muốn ban ơn, chắc cũng không nỡ để cho tôi ăn ở bội bạc với những điều vợ tôi đã nhờ cậy  bấy lâu nay.

Nói đoạn, Án Tử lạy hai lạy, xin từ không lấy.

Mỗi đấng, mỗi bậc đều có cái đạo của mình, đều có cái lề lối phải tuân giữ, cho ra môn ra khoai, cho ra trên ra dưới, cho tôn ti trật tự hẳn hoi, chứ không hầm bà lằng, cá mè một lứa.

Thế nhưng, suy cho cùng cái đạo quan trọng nhất, theo gã nghĩ, đó là cái đạo làm người. Đây chính là cái gốc, gốc có mạnh thì cành lá mới phát triển sum xuê. Đây chính là cái nền, cái  móng, nền móng có vững thì mới xây được tòa nhà cao cao.

Phải làm người trước đã, rồi sau đó mới thêm vào những thứ phụ tùng lỉnh kỉnh như : người cha, người mẹ, người vợ, người chồng, người con, người thày, người thợ…

Cái đạo làm người hệ tại việc biết sống với mình bằng cách tự lập và biết sống với người khác bằng yêu thương hòa thuận.

Thày Nhan Uyên hỏi đức Khổng Tử :

- Hồi này nghèo mà cũng được như giàu, hèn mà cũng được như sang, không phải khỏe là có oai, chơi với người ta suốt đời không lo sợ gì, muốn như vậy có nên không ?

Đức Khổng Tử nói :

- Ngươi hỏi thế phải lắm. Nghèo mà cũng muốn được như giàu, thế là biết bằng lòng với số phận, không ham mê gì. Hèn mà cũng muốn được như sang, thế là biết nhún nhường và có lễ độ. Không khỏe mà cũng muốn có oai, thế là biết thận trọng, cung kính, không lầm lỗi gì. Chơi với mọi người mà  muốn suốt đời không lo sợ, thế là biết chọn lời rồi mới nói.

Tác giả “Cổ học tinh hoa” đã thêm lời bàn như sau : Không cần công danh phú quí, thế là biết giữ thiên tước hơn nhân tước. Không để ai khinh lờn được, thế là biết trọng phẩm giá mình. Không muốn đeo cái lo vào mình, thế là biết giữ thân không phiền lụy ai. Ở đời mà giữ trọn vẹn được mấy điều như thế, thiết tưởng thật là một cách vui thú rất cao thượng vậy.

Theo nghĩa thông thường, đạo được đồng hóa với tôn giáo, là con đường tu dưỡng dựa theo một thần quyền, có một giáo lý rõ rệt để tin theo, cũng như có một tổ chức chặt chẽ, luôn khuyên nhủ làm lành tránh dữ để đạt tới cõi phúc mai sau.

Hiểu theo nghĩa này, thì từ đông sang tây, từ cổ chí kim đã xuất hiện trên mặt đất này nhiều đạo khác nhau, chẳng hạn như đạo Phật, đạo  Bà La Môn, đạo Hồi, đạo Cao Đài, đạo Hòa Hảo, Đạo Thiên Chúa, đạo Tin Lành…Mục đích của các đạo là thúc đẩy con người ăn ngay ở lành, xây dựng xã hội mỗi ngày một tốt đẹp, để rồi nhờ đó được siêu thoát, được bước vào cõi phúc trường sinh.

Tuy nhiên, có một điều làm gã ngạc nhiên không ít, đó là trong một nghĩa hẹp, không biết từ đời thưở nhà nào, người bình dân Việt Nam vốn đã dùng chữ đạo để ám chỉ Công giáo. Vì thế, người ta thường nói :

Bên lương bên giáo. Bên lương là người thờ cúng ông bà, còn bên giáo là người theo Công giáo. Người có đạo chính là người theo Công giáo. Cố đạo là linh mục. Làm phép đạo là cử hành theo nghi thức Công giáo. Đạo dòng là theo đạo Công giáo từ đời ông bà.

Sau khi đã bàn về chuyện đạo, bây giờ gã xin bàn đến chuyện đức.

Ngày nay, tại Việt Nam mọi đồng tiền lớn nhỏ người ta đều in hình bác Hồ. Vì thế, bàn dân thiên hạ thường bảo :

- Có bác là có tất cả. Với bác thì chỗ nào cháu chui cũng lọt.

Câu nói này có nghĩa là :

- Có tiền là có mọi sự, từ chức tước uy quyền cho đến những tiện nghi vật chất như nhà lầu xe hơi. Có tiền thì  việc khó mấy cũng xong.

Nhưng trước năm 1975, gã còn nhớ mang máng đồng tiền 500 hay 1000 chi đó được in hình đức thánh Trần Hưng Đạo,  Vì thế, bàn dân thiên hạ cũng hay nói :

- Vấn đề đầu tiên là phải có đức.

Câu nói này được diễn giải như sau :

- Vấn đề đầu tiên, có nghĩa là vấn đề tiền đâu ? Phải có đức, hiểu ngầm đức thánh Trần, có nghĩa là phải có tiền.

Tuy nhiên, đây không phải cái nghĩa gã muốn bàn tới. Gã cũng không đề cập đến đức như là cái quả về sau của những công việc từ thiện đã làm, như tục ngữ ca dao đã khuyên nhủ :

- Cha mẹ hiền lành để đức cho con.

- Người trồng cây hạnh người chơi,

Ta tu lấy đức để đời cho con.

Mạnh Thường Quân nhà giàu, cho nhiều người vay mượn. Một hôm sau Phùng Huyên sang đất Tiết đòi nợ. Lúc sắp đi, Phùng Huyên   hỏi :

- Tiền nợ thu được, có định mua gì về không ?

Mạnh Thường Quân nói :

- Ngươi xem trong nhà ta còn thiếu thứ gì thì mua.

Khi đến đất Tiết, Phùng Huyên cho gọi dân lại bảo rằng :

- Các ngươi công nợ bao nhiêu. Thường Quân đều cho cả.

Rồi đem văn tự ra đốt sạch. Lúc về, Phùng Huyên thưa với Mạnh Thường Quân :

- Nhà Tướng công châu báu đầy kho, chó ngựa đầy chuồng, người đẹp đầy nhà, không còn thiếu thứ gì nữa. Chỉ còn thiếu một cái “đức”, tôi trộm phép vì Tướng công đã mua về.

 Mạnh Thường Quân nghe nói thế, cũng không hỏi gì đến tiền nữa. Sau Mạnh Thường Quân bị bãi quan về ở đất Tiết, dân đất Tiết nhớ đến ơn xưa, ra đón rước đầy đường. Mạnh Thường Quân bấy giờ mới ngoảnh lại bảo Phùng Huyên rằng :

- Trước tiên sinh vì tôi mua “đức”, đức ấy hôm nay tôi mới trông thấy.

Gã cũng không muốn nói tới đức như danh xưng dành cho các bậc đáng tôn kính, như khi chúng ta nói :

- Đức Chúa, Đức Mẹ, Đức Bà, Đức Trinh Nữ, Đức Thánh Cha, Đức Giám mục, Đức Ông…

Theo gã, đức là toàn bộ cách ăn ở hiền lành, hợp với đạo lý, hay nói cách khác, đức là tất cả những điều tốt đẹp mìnnh đạt được nhờ sự tu dưỡng tính tình.

Hiểu như vậy, thì giữa đạo và đức có một mối liên hệ chặt chẽ và gắn bó cùng nhau :  cái đạo sẽ giúp thực hiện cái đức, còn cái đức sẽ làm sáng cái đạo.

Trước hết, cái đạo sẽ giúp thực hiện cái đức.

Thực vậy, chúng ta thường nói :

- Niềm tin thắp sáng cuộc đời.

Trong những hoàn cảnh đen tối, hay trong những lúc gặp phải gian nan thử thách, nhiều khi chúng ta chán nản, muốn buông xuôi, mặc cho “con tạo xoay vần đến đâu”, thì niềm tin tôn giáo sẽ thổi vào tâm hồn tuyệt vọng của chúng ta một nguồn sinh lực mới, khiến chúng ta có đủ can đảm vượt qua mọi khó khăn chồng chất.

Hơn thế nữa, tôn giáo nào cũng dạy chúng ta ăn ngay ở lành, khuyên nhủ chúng ta làm lành tránh dữ. Tất cả những điều ấy có ý nghĩa gì, nếu không phải là thôi thúc chúng ta tập luyện các nhân đức.

Đồng thời tôn giáo còn cung cấp cho chúng ta những phương tiện để thực hiện mục đích tốt đẹp ấy, chẳng hạn như giảng dạy, khích lệ, nhắc bảo…Ấy là gã chưa nói tới những phương tiện siêu nhiên, những nâng đỡ của ơn thánh, khiến chúng ta dễ dàng cất bước trên con đường trọn lành.

Vì thế, đã có đạo thì cũng phải có đức, hay ít nữa đã có đạo thì cũng phải cố gắng tập luyện cho mình những nhân đức để trở thành một người tốt lành, trước khi trở thành người con cái Chúa, như niềm tin hằng mong mỏi.

Đồng thời trong khi tập luyện các nhân đức, chúng ta sẽ trở thành những chứng nhân cho niềm tin. Và như vậy, cái đức sẽ làm sáng cho cái đạo.

Trên một chuyến xe đò, gã đang thiu thiu ngủ, thì bỗng nghe thấy mấy bà ngồi phía sau tranh luận một cách sôi nổi.

Bà thì nói :

- Thật chán chết chồng với con, hở một tí là bồ nhí với bia ôm.

Bà thì bảo :

- Thật tức đến hộc cả máu, mà  đành phải cắn răng chịu vậy, bởi vì nói ra thì tan hoang cửa nhà.

Bà thì phê bình :

- Mà cái con gà móng đỏ ấy có hơn gì mình đâu ?

Cuối cùng một bà lên tiếng :

- Chỉ có mấy bà bên đạo là sướng. Đạo của họ chỉ cho phép một vợ một chồng và phải trung thành với nhau cho đến chết, nên mấy ông bên đạo hết dám tơ tưởng, léng phéng gì ráo trọi. Tôi ấy à, hễ có con gái là tôi cứ nhè  mấy anh bên đạo mà gả phứt đi cho rồi.

Tôi bỗng mỉm cười. Thì ra cái đức chung thủy của mấy ông chồng đã làm cho đạo Công giáo thêm phần sáng giá.

Tư tưởng thì trừu tượng khó mà kiểm chứng. Lời nói thì lắm lúc trở thành bôi bác giả hình, theo kiểu :

- Khẩu Phật tâm xà.

- Miệng nam mô, bụng bồ dao găm.

Chỉ những hành động cụ thể mới có sức hấp dẫn, làm sáng tỏ cho niềm tin. Chẳng thế mà, đức thánh “Pha Pha”  đã có lần phát biểu :

- Thế giới ngày nay rất cần đến những chứng tá, hơn là cần đến những thày dạy.

Hay như tục ngữ cũng bảo :

- Lời nói như gió lung lay,

Việc làm như tay lôi kéo.

Hãy biến xác tín thành hành động. Hãy biến niềm tin thành việc làm. Bởi vì niềm tin không có việc làm thì chỉ là một niềm tin đã chết. Chính hành động, chính việc làm, chính cuộc sống gương mẫu mới là một bài giảng hùng hồn có sức lôi cuốn người khác. Biết bao nhiêu người đã trở lại chỉ vì đã thực sự xúc động trước một hành động bác ái yêu thương nào đó của một người có đạo.

Như trên gã đã nói :

- Đã có đạo thì cũng cần phải có đức. Và cái đức sẽ làm sáng cho cái đạo.

Thế nhưng, thực tế lại không đơn giản chút nào, bởi vì rất nhiều người có đạo mà lại chẳng có đức. Họ nói về đạo rất hay. Họ thuộc lòng mọi kinh sách. Nhưng cuộc sống của họ lại ngập tràn những bê bối. Họ chỉ sống đạo trong nhà thờ, chứ không hề sống đạo giữa lòng cuộc đời.

Phải, trong nhà thờ, họ là những con chiên ngoan, nhưng bước xuống cuộc đời, họ liền hóa kiếp thành một loài lang sói. Trong nhà thờ, họ ăn năn sụt sùi đến vãi cả nước mắt, nhưng bước xuống cuộc đời, họ lại vội vã gian tham, vội vã thù oán, vội vã ghen tị…

Người ngoài nhìn vào họ đã phải lắc đầu ngao ngán :

- Có đạo mà cũng như vậy à ?

Và rồi những người ấy đã kết luận một cách chua chát :

- Tin đạo, nhưng đừng tin kẻ có đạo.

Bổn phận của chúng ta, những người có đạo, là phải đảo ngược lại câu kết luận ấy, đó là :

- Chúng ta phải sống cho có đức, để rồi qua bản thân chúng ta, những kẻ có đạo, người ngoài sẽ tin vào đạo.

Gã Siêu    gasieu@gmail.com

VỀ MỤC LỤC

- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến, bài vở..., xin gởi về địa chỉ

giaosivietnam@gmail.com

- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:

Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục vụ của Giáo sĩ;  Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh vực; Mỗi  Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)

- Quí vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại

www.conggiaovietnam.net

Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị

Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác nhau.

TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam

Lm. Luca Phạm Quốc Sử  USA

 

 

Được chọn giữa loài người và cho loài người; GÍAO SĨ: Xuất phát từ gíao dân, hiện diện vì gíao dân và cậy dựa vào gíao dân, để cùng làm VINH DANH THIÊN CHÚA

*************