Hiến Chế Mục Vụ Về Giáo Hội Trong Thế Giới
Ngày Nay Gaudium Et Spes |
Bản dịch Việt Ngữ của Giáo Hoàng Học
Viện Piô X
Prepared for Internet by Vietnamese
Missionaries in Asia
Chương III
Hoạt Ðộng Của Nhân Loại Trong Vũ Trụ
36*
33. Ðặt vấn đề. Con
người đã luôn cố gắng phát triển thêm mãi đời sống của mình bằng
việc làm và tài năng. Ngày nay, nhất là với sự trợ giúp của khoa
học và kỹ thuật con người đã và còn đang không ngừng nới rộng sự
thống trị của mình gần như trên tất cả thiên nhiên, và đặc biệt
nhờ sự gia tăng đủ loại phương tiện trao đổi giữa các quốc gia,
gia đình nhân loại dần dần ý thức về mình và hợp thành gần như
một cộng đoàn duy nhất trong vũ trụ. Do đó, ngày nay con người
đã dùng sức cần lao tự cung ứng nhiều phẩm vật mà xưa kia họ
mong đợi trước nhất nơi các quyền lực thần linh.
Trước nỗ lực
lớn lao đang lan rộng tới tất cả nhân loại này, nhiều câu hỏi
đang được con người nêu lên. Ðâu là ý nghĩa và giá trị của hoạt
động cần lao ấy? Phải xử dụng tất cả các sự ấy ra sao? Ðâu là
mục đích của những cố gắng cá nhân cũng như tập thể? Dầu Giáo
Hội là quản thủ kho tàng lời Chúa để từ đó rút ra những nguyên
tắc luân lý và tôn giáo, nhưng không phải lúc nào Giáo Hội cũng
có ngay câu trả lời cho mỗi một vấn đề. Tuy nhiên bao giờ Giáo
Hội cũng ao ước nối kết ánh sáng mạc khải với sự khôn khéo của
mọi người để soi dẫn con đường mà nhân loại vừa bước chân vào
37*.
34. Giá trị của hoạt động nhân loại.
Ðối với các tín hữu, chắc chắn hoạt động cá nhân cũng như tập
thể của nhân loại, hoặc nỗ lực vĩ đại của con người vất vả qua
các thế kỷ nhằm cải thiện hoàn cảnh sinh sống, tự nó vốn phù hợp
với ý định của Thiên Chúa. Thực vậy, được tạo dựng giống hình
ảnh Thiên Chúa, con người đã nhận mệnh lệnh chinh phục trái đất
cùng tất cả những gì chứa đựng trong đó, cai quản vũ trụ trong
công bình và thánh thiện
1 và khi nhìn nhận Thiên Chúa là Ðấng tạo dựng mọi
loài, họ qui hướng về Người chính bản thân mình cũng như muôn
vật: như thế, khi con người chinh phục tất cả thì danh Chúa được
tôn vinh khắp địa cầu
2.
38*
Những điều nhận
định trên đây cũng ứng dụng được nơi những công việc hoàn toàn
thường nhật. Thực vậy trong khi mưu sinh cho mình và cho gia
đình, tất cả những người nam cũng như nữ hoạt động để phục vụ xã
hội một cách hữu hiệu đều có lý để tin rằng nhờ lao công của
mình, họ tiếp nối công trình của Ðấng Tạo Hóa, phụng sự anh em,
đóng góp công lao mình vào việc hoàn thành ý định của Thiên Chúa
trong lịch sử
3.
Người Kitô hữu
không những không coi các công trình do con người dùng tài năng
và sức lực riêng để thực hiện là chống đối quyền năng của Thiên
Chúa, không coi thụ tạo có lý trí như một địch thủ của Tạo Hóa,
mà lại xác tín rằng các thắng lợi của nhân loại là dấu hiệu biểu
dương Thiên Chúa cao cả và là kết quả của ý định khôn lường của
Ngài. Tuy nhiên, quyền lực con người càng gia tăng, trách nhiệm
cá nhân hay tập thể lại càng nới rộng. Do đó, chúng ta thấy sứ
điệp Kitô giáo không làm cho con người tránh né khỏi công cuộc
xây dựng thế giới hoặc khiến họ không còn thiết tha đến lợi ích
của đồng loại, nhưng trái lại bổn phận thực hiện những điều ấy
còn thúc bách họ hơn nữa
4.
35. Trật tự hoạt động con người.
Hoạt động của con người phát xuất từ con người nên qui hướng về
con người. Thật vậy, khi làm việc con người không những biến đổi
sự vật và xã hội mà còn cải thiện chính mình. Bởi vì khi làm
việc con người học biết được nhiều điều, phát triển tài năng
cũng như thoát ra và vượt khỏi chính mình. Nếu được hiểu cho
đúng thì sự tăng triển này đáng giá hơn mọi của cải có thể thu
tích được. Giá trị con người hệ tại ở "cái mình là" hơn hệ tại ở
"cái mình có"
5. Cũng vậy, tất cả cái gì con người làm để đạt tới
một mức độ công bình cao hơn, một tình huynh đệ rộng lớn hơn và
một trật tự nhân đạo hơn trong các tương quan xã hội, đều quí
trọng hơn các tiến bộ kỹ thuật, bởi vì, các tiến bộ ấy tuy có
thể cung cấp chất liệu cho việc thăng tiến con người, nhưng tự
chúng mà thôi không thể thực hiện được công cuộc thăng tiến ấy.
Vậy nên, đây là
tiêu chuẩn hoạt động của con người: mọi hoạt động của con người
phải phù hợp với lợi ích đích thực của nhân loại theo như ý định
và ý muốn của Thiên Chúa, lại phải giúp con người, cá nhân cũng
như tập thể, trau dồi và thực hiện ơn gọi toàn diện của mình.
36. Sự độc lập đúng mức của các thực
tại trần thế. Tuy nhiên, nhiều người đương thời
dường như e ngại rằng sự liên kết khá chặt chẽ giữa hoạt động
của con người và tôn giáo sẽ làm ngăn trở sự độc lập của con
người, của xã hội hoặc của khoa học
39*.
Nếu sự độc lập
của các thực tại trần thế có nghĩa là các tạo vật và các xã hội
đều có những định luật và những giá trị riêng mà con người phải
khám phá dần dần, xử dụng và điều hòa, thì đòi hỏi một sự độc
lập như thế là một việc hoàn toàn chính đáng: đó là điều không
những người đương thời đòi hỏi mà còn phù hợp với ý muốn của Tạo
Hóa. Thực vậy, chính vì được tạo dựng mà mọi vật đều có sự vững
chãi, chân thực và tốt lành cùng những định luật và trật tự
riêng. Con người phải tôn trọng tất cả những điều ấy, phải nhìn
nhận các phương pháp cá biệt của mỗi khoa học và kỹ thuật. Bởi
vậy, việc khảo sát có phương pháp trong mọi ngành, nếu tiến hành
một cách khoa học thực sự và theo các tiêu chuẩn luân lý, sẽ
không bao giờ thực sự trái nghịch với đức tin, vì các thực tại
trần thế và các thực tại đức tin đều bởi một Thiên Chúa mà ra
6. Hơn nữa, những ai kiên nhẫn và khiêm tốn cố gắng
nghiên cứu sâu xa những bí ẩn của sự vật, mặc dù không ý thức,
nhưng vẫn được bàn tay Chúa hướng dẫn, vì Ngài là Ðấng bảo trì
muôn loài và khiến chúng hiện hữu theo bản tính riêng của mỗi
loài. Do đó đôi khi chúng ta có thể phàn nàn một số tâm trạng cả
nơi các Kitô hữu, không hiểu rõ sự độc lập hợp lý của khoa học.
Những tâm trạng này gây nên nhiều cuộc tranh luận và bất đồng
khiến nhiều người nghĩ rằng đức tin và khoa học đối nghịch nhau
7.
40*
Nhưng, nếu "sự
độc lập của thực tại trần thế" có nghĩa là: các tạo vật không lệ
thuộc Thiên Chúa và con người có thể xử dụng chúng mà không cần
quy hướng về Ðấng Tạo Hóa thì không một ai nhìn nhận Thiên Chúa
lại không thấy rằng lập trường đó hết sức sai lầm. Thực vậy,
không có Tạo Hóa, tạo vật đều tiêu tan. Ngoài ra mọi tín hữu, dù
thuộc tôn giáo nào đi nữa, cũng luôn nghe tiếng Thiên Chúa và
thấy Ngài hiển hiện qua tiếng nói của tạo vật. Lại nữa, quên mất
Thiên Chúa, mọi tạo vật đều trở nên mờ tối.
Chú Thích:
(lưu ý:
những số ghi chú nhỏ hơn đã được đăng vào những số báo trước)
36* Khi chưa để ý đến sinh
hoạt của con người, ta chưa hiểu biết con người và phẩm giá của
họ. Qua lịch sử, con người đã nỗ lực để chế ngự thiên nhiên và
vũ trụ, hiện nay con người đã đạt tới một mức độ lớn lao trong
công việc ấy. Trước sự kiện này, Công Ðồng nêu ra ba thắc mắc:
1) Sinh hoạt có
giá trị nào? Và Công Ðồng trả lời: a) nó là phương tiện để phát
triển và tiến tới việc thích hợp với ý muốn của Ðấng Tạo Hóa.
Ðức tin không trái ngược với ý muốn tiến bộ đó (số 34); b) hơn
thế nữa, sinh hoạt làm cho con người lớn lên về nhân cách, do đó
chính con người trở nên tiêu chuẩn luân lý của sinh hoạt (số
35).
2) Sinh hoạt
như thế nào? a) Làm theo những đòi hỏi riêng và chính thức của
thực tại trần tục là không bao giờ đi ngược với đức tin (số 36);
b) đồng thời, tội lỗi, lòng kiêu ngạo và ích kỷ có thể làm cho
sinh hoạt ấy đổi ý nghĩa (số 37); c) nhưng ơn Chúa Cứu Thế thanh
luyện nó. Chính Chúa Giêsu, Thiên Chúa Nhập Thể, dạy con người
sinh hoạt: nhờ đức ái con người có thể xây dựng và đổi mới thế
giới (số 38).
3) Sinh hoạt
với mục đích gì? Thế giới cuối cùng sẽ đổi mới, chứ không hoàn
toàn hư mất. (số 39).
37* Ba câu hỏi trên của Công
Ðồng có lẽ chưa đủ để biểu lộ các vấn đề bao gồm trong chương
này. Hơn bao giờ hết, thần học hiện đại đang tìm hiểu thực tại
trần thế. Trong chương này ta sẽ tìm thấy một số nguyên tắc căn
bản để giải quyết nhiều vấn đề có thể đặt ra dưới nhiều khía
cạnh khác nhau:
1) Khía cạnh
tín lý thần học: a) Ta phải có quan niệm gì về vũ trụ, về lịch
sử, về sinh hoạt? b) Một thuyết thần học về thực tại trần thế
phải dựa trên nền tảng nào? c) Có một nhân bản chủ nghĩa Kitô
giáo không? d) Cần phải nhở thuyết "trần tục hóa" tân thời để có
một học thuyết thần học về thực tại trần thế không?
2) Khía cạnh
luân lý thần học: a) Giữa đòi hỏi của Nước Thiên Chúa và của
thực tại trần thế, con người phải có thái độ nào? Phải sống thế
mạt (chỉ hướng về đời sau) hay nhập thể? Hay là, đúng hơn: ta
phải làm thế nào để điều hòa hai cực đoan ấy một cách thực tế?
b) Các tín hữu có chỗ đứng ở giữa cộng đoàn nhân loại đang lo
việc xây dựng thế giới không? Hay là các tín hữu phải quay lưng
lại thế giới và tiến bước trên con đường khác biệt? c) Các tín
hữu có chung một thứ ngôn ngữ với người ngoại giáo và người vô
thần để mở cuộc đối thoại với họ được không?
3) Khía cạnh tu
đức: Căn cứ vào thực tại trần thế ta có thể lập ra một thuyết
nào về đời sống thiêng liêng không? Ðặc biệt về đời sống giáo
dân?
4) Khía cạnh
tranh luận: Ta phải trả lời như thế nào? a) trước những lời tố
cáo cho rằng đức tin làm cho các tín hữu tách biệt với thực tại
trần thế và với các vấn đề cụ thể của cuộc sống? b) Cũng như khi
người ta đồng hóa tôn giáo với những việc dị đoan phải bị khoa
học loại trừ?
38* Việc làm không phải là
sự trừng phạt vì tội lỗi, chỉ tính cách khó nhọc của việc làm
mới là kết quả của tội phạm. Do việc làm: 1) con người khắc phục
thiên nhiên, 2) kiện toàn vạn vật, 3) thể hiện nhân cách: đào
tạo quyền tự do, trí tuệ và ý chí cũng như sự khéo léo tinh thần
và thể xác, 4) nên chính con người hoàn thiện hóa bản thân, 5)
xây dựng xã hội, 6) cỗ võ sự hiệp nhất giữa nhân loại, 7) giúp
kiến tạo hòa bình (vì việc làm đòi hỏi sự cộng tác của nhiều
người). Do đó việc làm mưu ích riêng cho con người cũng như ích
chung cho xã hội và còn có thể nói là mưu ích cho cả vũ trụ nữa.
Ðức tin còn cho
ta biết những khía cạnh mới: 8) là nhờ việc làm ta thực hiện ý
muốn của Chúa Tạo Hóa, 9) và ta góp phần để làm sáng Danh Chúa,
10) khi làm việc, con người càng giống như hình ảnh của Thiên
Chúa Tạo Hóa, 11) và cộng tác với Ngài, 12) cũng như bắt chước
Ðấng Cứu Thế (x. GH 41e). 13) Ðồng thời, nhờ ơn Chúa, chính việc
làm của con người được một giá trị siêu nhiên, giống như công
việc của Ðấng Cứu Chuộc, để đền tội, để cầu xin, để giúp tha
nhân về cùng Chúa và thánh hóa bản thân cũng như người khác: như
vậy việc làm trở nên một phương tiện để thực hiện đức thương
yêu.
39* Ðây là thành kiến của
những hình thức nhân bản chủ nghĩa (xem trên, số 7c). Ðàng khác,
nó cũng có thể là kết quả do kinh nghiệm lịch sử không tốt đẹp
gây nên (xem cuối đoạn b trong số này).
40*
Các ngành nghệ thuật, văn chương, khoa học, kinh tế, chính trị,
xã hội học, v.v... đều có đối tượng riêng biệt, phương pháp
riêng biệt, kỹ thuật riêng biệt. Xét đoán một tài liệu văn
chương chẳng hạn, theo những tiêu chuẩn kinh tế mà thôi, hay là
theo kỹ thuật của khoa học chính xác, dĩ nhiên là vô nghĩa! Cũng
thế, xét các vấn đề tôn giáo với đầu óc mỹ thuật, văn chương,
khoa học..., khi chưa được đào tạo theo nguyên tắc tôn giáo cũng
không kém nguy hiểm. Bởi vậy, Công Ðồng nhấn mạnh rằng thật là
hết sức khôi hài, nếu chúng ta dựa trên những nguyên tắc tôn
giáo để quyết định phải áp dụng kỹ thuật nào cho các thực tại
trần thế. Các nhà sinh vật học, toán học, kinh tế học, chính
trị..., đều phải khám phá và áp dụng những nguyên tắc và kỹ
thuật riêng biệt của từng ngành. Ðức tin sẽ không giúp họ giải
quyết các vấn đề chuyên môn của họ.
Ðàng khác, chân lý không thể mâu thuẫn với chân
lý. Bởi thế những kết luận đúng sự thật của khoa học không thể
mâu thuẫn với đức tin được (về các thực tại trần thế khác cũng
phải lý luận một cách tương tự). Thiên Chúa, Ðấng đã mạc khải
các tín điều cũng là Ðấng đã tạo nên thực tại trần thế. Thiên
Chúa không thể mâu thuẫn với chính Ngài. Do đó, khi nào người ta
đạt tới kết luận khoa học có vẻ trái ngược với đức tin thì phải
xét lại: hoặc những kết luận đó chưa vững chắc (có thể chỉ là
những giả thuyết nhất thời), hoặc cách hiểu biết tín điều còn ở
trên bình diện thiếu sót, hoặc là cả hai.
Trong ghi chú, Công Ðồng nhắc lại vụ án Galileô
để chấp nhận phần trách nhiệm của Giáo Hội khi vội vã quyết đoán
rằng giữa kết luận khoa học (quả đất xoay chung quanh mặt trời)
và lời Thánh Kinh ("mặt trời dừng lại", chẳng hạn) có mâu thuẫn.
Hôm nay ai cũng hiểu câu nói như vậy không khác gì những câu nói
thông thường của chúng ta: "mặt trời mọc lên, lặn xuống". Về
phần trách nhiệm của chính ông Galileô khi ông vượt quá biên
giới khoa học để cắt nghĩa lời Thánh Kinh, thì ở đây Công Ðồng
không muốn nhắc đến làm gì.
còn tiếp |
VỀ MỤC LỤC |
|
NHỮNG PHƯƠNG THẾ SIÊU NHIÊN ĐỂ XÂY DỰNG
HIỆP THÔNG
(Con đường đi đến hiệp thông) |
1. Chúa Thánh Thần, nguồn mạch hiệp
nhất.
Thần khí kết hợp Đức Kitô với các tín hữu và là nguyên ủy hợp
nhất của mọi tín hữu (1 Cr 12, 13; cf. Rm 8, 9- 11).
Thánh Thần cầu nguyện trong các tín hữu (Rm 8, 26).
Hãy phát triển những hoa trái của Thánh Thần: bác ái, hoan lạc,
bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín hiền hòa, tiết
độ (Gl 5, 22).
Sự hiệp thông là hoa trái của Thánh Thần ban cho các môn đệ vào
lễ Ngũ tuần: họ có khả năng tuyên xưng một đức tin duy nhất cho
dù với những ngôn ngữ khác nhau (Cv 2, 4). Nền tảng của hiệp
thông là chính Đức Kitô tác động qua Thánh Thần. Nói cách khác,
Thánh Thần là nguyên nhân nội tại tạo nên sự hiệp thông trong
Thân Thể Đức Kitô (Ep 2, 18; 4, 4). Vì thế, bẻ gẫy sự hiệp thông
này là “phân chia Đức Kitô” (1Cr 1, 12t) và Thánh Linh (1Cr 6,
17).
Tất cả các môn đệ Chúa Kitô chỉ làm thành một thân mình, bởi vì
mọi người “đã được thanh tẩy trong Thần khí độc nhất,… đã được
cùng uống Thần khí độc nhất” (1Cr 12, 13). Tuy vậy, sự hiệp
thông này không phải là dễ dàng, vì khi đọc hai lá thư gởi tín
hữu Corintô, ta thấy có nhiều chia rẽ, lục đục trong cộng đoàn
được thánh Phaolô yêu qúi này. Do đó, ngài kết thúc lá thư thứ
hai với lời cầu chúc là “sự hiệp thông của Thánh Thần” ở với họ,
bởi vì Thần khí là sự hiệp thông và giúp thiết lập sự thông hiệp
giữa những kẻ đã lãnh nhận Người.
Thân Mình và Thần khí đi đôi với nhau, bởi vậy, thánh Augustinô
đã nói: “Thánh Thần có vai trò ở trong Hội thánh, Thân Mình Đức
Kitô, như linh hồn có vai trò trong thân xác chúng ta”. Chính
linh hồn mang lại sự sống cho toàn thể thân xác.
“Tất cả chúng ta đã lãnh nhận cùng một Thần khí duy nhất là
Thánh Thần, chúng ta hiệp nhất với nhau và với Thiên Chúa. Vì
chúng ta tuy nhiều người, nhưng Đức Kitô đã cho Thần khí của
Chúa Cha và của Ngài ngự trong mỗi người chúng ta. Thần khí duy
nhất và không thể phân chia này, qui tụ lại trong người những
con người riêng rẽ và làm cho mọi người nên một trong Người.
Cũng như quyền năng của nhân tính Đức Kitô làm cho những ai chia
sẻ nhân tính đó hợp thành một thân thể duy nhất, thì cũng vậy,
tôi nghĩ rằng, Chúa Thánh Thần duy nhất và không thể phân chia,
Đấng ngự trong mọi người, cũng đưa mọi người đến sự hiệp nhất
thiêng liêng” (Bản văn của Giáo phụ Syrilô thành Alexandria,
trích dẫn trong Sách Giáo lý của Hột thánh Công giáo, số 738).
Công đồng Vaticanô II quả quyết: “Thánh Thần, Đấng ngự trong các
tín hữu, tràn đầy và điều khiển Giáo hội, làm cho các tín hữu
hiệp thông với nhau cách kỳ diệu và liên kết tất cả họ lại với
nhau cách khắng khít trong Chúa Kitô, tới độ Ngài là nguyên lý
hiệp nhất của Giáo hội “ (HN số 2). Thần khí là nguyên lý của
hiệp thông, bởi vì do bản tính, Agapê tạo nên hiệp nhất: “Tình
yêu của Thiên Chúa được đổ tràn vào lòng chúng ta nhờ Thánh
Thần, Đấng đã được ban cho ta” (Rm 5, 5).
Tính cách duy nhất của Thánh Thần ngay trong sự đa dạng năng
động của các cách Thánh Thần biểu lộ ra, đòi hỏi mỗi người đã
được lãnh bí tích Thánh tẩy phải duy trì sự hiệp nhất của nhiệm
thể Chúa Kitô, tức Hội thánh. Mỗi cộng đoàn Kitô hữu họp nhau cử
hành bí tích tạ ơn là đang sống mầu nhiệm hiệp nhất này và trong
kinh tạ ơn, cộng đoàn kêu xin Thánh Thần: “Chúng con cúi xin Cha
cho Thánh Thần liên kết chúng con nên một khi chúng con dự tiệc
Mình và Máu Chúa Kitô” (Kinh Tạ ơn 2).
Giáo hội là dấu chỉ và phương thế cho sự hiệp nhất với Thiên
Chúa vì Giáo hội là dấu chỉ và khí cụ cho sự hiện diện và tác
động của Thánh Thần. Đồng thời Giáo hội cũng là “bí tích của sự
hiệp nhất nhân loại”. Đó là sự hiệp nhất mà nhân loại nhận từ
Thiên Chúa và có nơi Thiên Chúa.
Theo thánh Augustinô, tương quan Chúa Thánh Thần- Giáo hội được
diễn tả bằng phạm trù hiệp thông và lòng mến. Là tác phẩm của
Chúa Thánh Thần, Giáo hội là hồng ân của tình yêu Thiên Chúa
muốn hiệp nhất loài người trong thế giới này.
“Ngài đã cho thông dự vào Thánh Thần Ngài, cũng một Đấng duy
nhất hiện hữu nơi Đầu cũng như nơi các chi thể, làm cho sống,
hiệp nhất và hoạt động trong toàn thể thân mình, đến nỗi các
Thánh Phụ đã ví nhiệm vụ Chúa Thánh Thần với công việc mà nguyên
lý sự sống tức linh hồn hoàn thành trong thân xác” (LG, số 7).
Những hoạt động chính của Chúa Thánh Thần trong phụng vụ được
Sách Giáo lý tóm tắt như sau : Chuẩn bị cộng đoàn gặp gỡ Đức
Kitô; nhắc lại và bày tỏ Đức Kitô cho niềm tin của cộng đoàn;
hiện tại hóa công trình cứu độ của Đức Kitô bằng quyền năng biến
đổi; làm cho ơn hiệp thông sinh hoa kết quả trong Giáo hội (số
1092 và 1112).
Chúa Thánh Thần là Thần khí hiệp thông. Ngài thực hiện nơi chúng
ta sự hiệp thông mà Ngài đã thực hiện giữa Chúa Cha và Chúa Con:
“Vì tất cả đã lãnh nhận một Thần khí duy nhất, nên chúng ta, một
cách nào đó, kết hợp cách thâm sâu với nhau và với Thiên Chúa.
Chỉ có một Thần khí bất khả phân chia, Đấng qui tụ nơi mình
những tinh thần tách biệt nhau do sự hiện hữu duy nhất nơi Ngài,
nếu có thể nói được như thế” (Cyrille d’ Alexandrie).
Trong phụng vụ, chúng ta nài xin Chúa Thánh Thần giúp ta, thì
trong đời sống hằng ngày cũng phải như vậy : “Chúng ta cầu xin
Chúa Cha sai Chúa Thánh Thần đến để Ngài làm cho đời sống các
tín hữu trở thành một lễ vật sống động dâng lên Thiên Chúa bằng
sự biến đổi thiêng liêng theo hình ảnh Đức Kitô, bằng mối quan
tâm lo cho sự hiệp nhất của Giáo hội và bằng việc tham dự vào sứ
mệnh của Giáo hội bằng chứng từ và phục vụ bác ái” (SGL, số
1109). Như vậy, hoa quả của sự hiệp thông, mà chúng ta phải cộng
tác với Chúa Thánh Thần để phát huy, vừa liên hệ tới từng người,
vừa liên hệ tới Giáo hội và thế giới. Chúa Thánh Thần biến đổi
ta trong Đức Kitô cả trong mối tương quan của ta đối với Thiên
Chúa lẫn trong mối tương quan của ta đối với người khác.
Hoa quả của Thánh Thần là tình yêu, tình yêu là mối dây hiệp
thông. “Đâu có Giáo hội, đó có Thánh Thần, và đâu có Thánh Thần,
đó có Giáo hội và mọi ơn thánh” (thánh Irênê). Giáo hội gắn liền
với Chúa Thánh Thần. Giáo hội là đền thờ của Chúa Thánh Thần.
Giáo hội được khai sinh từ cuộc vượt qua của Đức Kitô , hoặc lúc
Thánh Thần được đổ xuống 50 ngày sau (CVTĐ 2, 32t). Giáo hội
được thành lập trong Thánh Thần của Đấng Phục sinh. Dưới hơi thở
của Thánh Thần, Giáo hội khai sinh tại Giêrusalem giữa những
người Do Thái. Giáo hội lớn lên từ đó, bằng cách sinh hạ không
ngừng dưới tác động này. Giáo hội sinh ra tại Samaria nơi những
người Do Thái lạc giáo và tại Xêsarê giữa dân ngoại, khi Thánh
Thần ngự xuống trên họ (CVTĐ 8, 14- 17; 10, 44- 48). Ở đâu có
Giáo hội khai sinh, ở đó có Thánh Thần làm việc. Ở đâu có cộng
đoàn Giáo hội mới được thành lập hoặc có tín hữu mới gia nhập,
thì chính Thánh Thần tháp nhập cộng đoàn ấy, tín hữu ấy vào Đức
Kitô, làm nên một thân mình duy nhất của Đức Kitô (1Cr 12, 13-
27).
Có Thánh Thần, chúng ta sẽ yêu mến Giáo hội, gắn bó với Giáo hội
và sẵn sàng phục vụ Giáo hội. Chúa Thánh Thần làm cho chúng ta
vui mừng tiếp xúc với Giáo hội, sống trong Giáo hội. Có Thánh
Thần, chúng ta sung sướng tiếp xúc với các Kitô hữu khác trong
Giáo hội. Có Thánh Thần, chúng ta cảm thấy thoải mái, hạnh phúc
trong cộng đoàn. Thánh Thần làm cho tâm hồn chúng ta nên quảng
đại, chấp nhận, tha thứ, qúi mến, muốn làm điều lành cho anh em.
Thánh Thần giúp chúng ta chiến thắng mọi trở ngại, phá đổ mọi
bức tường ngăn cách, giúp chúng ta đi đến, trao đổi, đối thoại
và tỏ lòng yêu thương anh chị em. Chúa Thánh Thần là dây liên
kết trong tình bác ái, là sức mạnh tình yêu hiệp thông, nối lết
chúng ta nên một. Thông thường, Chúa Thánh Thần nối kết chúng ta
với Chúa Kitô trước, rồi từ đó nối kết chúng ta với anh chị
em.
Được tác tạo trong Thánh Thần, con người có nhu cầu sống cùng,
sống với. Nhưng ở đỉnh cao của lịch sử cứu độ, trong Đức Kitô
Phục sinh, Thánh Thần kiến tạo một sự hiệp thông viên mãn, mà
người ta gọi là ơn cứu độ.
2. Bí tích Thánh Thể, trung tâm của
cộng đoàn.
Thánh Thể là một sở hữu chung của toàn Giáo hội, để làm như một
bí tích hiệp nhất của Giáo hội.
Việc bẻ bánh diễn tả một bữa tiệc huynh đệ, biểu hiện sự hiệp
thông của Hội thánh là Thân Thể Đức Kitô : “Khi ta nâng chén
chúc tụng mà cảm tạ Thiên Chúa, há chẳng phải là dự phần vào Máu
Đức Ki-tô ư ? Và khi ta cùng bẻ Bánh Thánh, đó chẳng phải là dự
phần vào Thân Thể Người sao? Bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất
cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng
ta cũng chỉ là một thân thể. Anh em hãy coi Israel xét theo
huyết thống. Những ai ăn tế phẩm, há chẳng phải là những kẻ được
chia lộc bàn thờ sao?” (1Cr 10, 16- 18).
Phép Thánh Thể biểu thị và thực hiện sự hiệp nhất các tín hữu
(LG, số 3). Trước hết, nhiệm tích này hiệp nhất tín hữu với Đức
Kitô nhờ việc kết hiệp thật sự với Mình và Máu bản thể của
Người; mà hậu quả có tính cách bí tích của việc kết hợp này là
đồng hóa giống trường hợp dinh dưỡng: Đức Kitô đồng hóa các chi
thể của Ngài bằng cách thông ban chính sự sống mình cho chúng
(Gl 2, 20) : “Không còn là tôi sống, nhưng Chúa Kitô sống trong
tôi”). Tất cả sống bằng cùng một sự sống, và là cùng một thân
thể : “Vì chỉ có một Bánh, nên tất cả chúng ta chỉ làm thành một
thân thể, vì tất cả chúng ta dự phần vào một tấm bánh duy nhất.”
(1Cr 10, 17). Và đó chính là sự hiệp nhất nhiệm mầu của Giáo
hội.
Nhưng Thánh Thể không phải chỉ liên kết các tín hữu với Đức Kitô
mà còn liên kết họ với nhau. Theo thánh truyền, hiệu quả đó được
tượng trưng trong tấm bánh, được kết thành bởi nhiều hạt lúa mì
hoặc trong chén rượu bởi nhiều trái nho : “Cũng như tấm bánh mà
chúng ta bẻ đây đã nằm rải rác trên các triền đồi và đã được gom
góp để làm thành một tấm bánh, cũng thế, (chúng con) nguyện xin
cho Giáo hội Chúa từ khắp nơi trên mặt đất được tụ họp trong
nước Chúa…”(Didakhé 9, 4). Thánh Thể gia tăng đức ái Giáo hội
(xã hội), vì thế cũng tạo dây liên kết tất cả những người đã
nhận lãnh: cũng một tình yêu trong một tâm hồn (cf. Rm 5, 5).
Chính vì thế mà Giáo hội được gọi là”Agape” (tình yêu), cũng có
nghĩa là tiệc Thánh Thể. Một tiếng khác: communio, vừa có nghĩa
là sự hiệp nhất giữa các Kitô hữu, và vừa có nghĩa là ăn thịt
Thánh Thể của Đức Kitô. Sự hiệp thông vào cùng một Thánh Thể là
tột đỉnh của sự hiệp nhất Giáo hội, và mọi hoạt động xây dựng
hiệp nhất đều phải dẫn vô đó (cf. HN, số 22).
Đứng trước sự cao cả của mầu nhiệm này, thánh Augustinô đã thốt
lên: “Ôi bí tích của lòng thương! Ôi dấu hiệu của hiệp nhất! Ôi
sợi dây ràng buộc của đức ái” (Serm, 272).
“Sự thông hiệp với Mình và Máu Chúa Kitô sẽ gia tăng sự hiệp
nhất của người hiệp lễ với Chúa Kitô, tha các tội mọn cho người
này và giữ người này khỏi sa phạm các tội trọng. Bởi vì mối liên
kết bác ái giữa người hiệp lễ và Chúa Kitô được tăng cường, cho
nên việc rước lễ củng cố sự hiệp nhất của Giáo hội, Nhiệm thể
Chúa Kitô” (SGL, số 1416).
Vì thế, dấu chỉ hữu hình rõ nhất của Giáo hội là việc cử hành
Thánh Thể (cf. PV, số 47, 48; GH, số 3, 11; HN, số 2). Trong
Thánh Thể, dân chúng họp quanh bàn thờ, có chủ chăn chủ tọa, cầu
nguyện cho Đức Giám mục của mình (đầu của Giáo hội địa phương)
và cho Đức Giáo hoàng (đầu của sự hiệp thông phổ quát). Trong
việc cử hành đó, ta thấy đủ mọi yếu tố của hiệp thông: một đức
tin, một phụng tự, một phẩm trật. Thánh Ignatio Antiokia còn nói
: không có Giám mục thì Thánh Thể không thành (Ad Smyr. 8, 1- 2;
cf. LG, số 26), vì chỉ có một Thánh Thể, một thân xác của Chúa,
một bàn thờ, một Giám mục … (Ad Philad 4).
Đối với Giáo hội phổ quát, chính việc đồng tế đã luôn luôn là
dấu chỉ của sự hiệp thông : khi hai Giám mục gặp nhau, chính
trong việc đồng tế mà các ngài tỏ sự kết hiệp với nhau; việc
đồng tế trong lễ tấn phong Giám mục minh chứng sự liên kết của
chức Giám mục phổ quát; việc đồng tế biểu lộ sự hiệp nhất phẩm
trật các linh mục (cf. LM, số 8; HN, số 15). Cử hành (hoặc tham
dự) chung cùng một Thánh Thể mà không có hiệp nhất thật sự là
một tội phạm thánh. “Luật Chúa cấm thông dự vào sự thánh có
phương hại đến vấn đề hiệp nhất của Giáo hội, hoặc đưa đến sai
lầm hay nguy cơ lệch hướng về đức tin, sinh ra gương mù gương
xấu và tạo nên thái độ lãnh đạm” (ĐP, số 26).
“Bằng các lời chuyển cầu (trong Thánh lễ), Giáo hội tỏ rằng
Thánh lễ được cử hành trong sự hiệp thông với toàn thể Giáo hội
trên trời và dưới đất, của các người sống và những người đã qua
đời, và trong sự hiệp thông với các vị chủ chăn của Giáo hội,
Đức Giáo hoàng, Đức Giám mục giáo phận, hàng linh mục của ngài,
và các phó tế của ngài, cũng như trong niềm hiệp thông với tất
cả các Giám mục hoàn cầu và các Giáo hội của các ngài” (SGL, số
1354).
“Thánh Thể nói lên và thực hiện sự hiệp thông vào sự sống của
Thiên Chúa và sự hiệp nhất của dân Thiên Chúa: nhờ hai điều này
mà Giáo hội là Giáo hội” (SGL, số 1325).
Nhờ bí tích Thánh Thể, các cá nhân và các cộng đoàn, dưới tác
động của Thần khí, học cho biết cách khám phá ra ý nghĩa thần
linh của đời sống con người mà Công đồng đã nhắc tới. Ý nghĩa đó
có được khi Đức Giêsu Kitô “mạc khải trọn vẹn về con người cho
con người”, bằng cách cho thấy có điểm “tương tự giữa sự hiệp
nhất của Ba Ngôi Thiên Chúa và sự hợp nhất của con cái Thiên
Chúa trong sự thật và trong tình yêu” (GH số 24). Một sự hợp
nhất như vậy được diễn tả và thực hiện cách đặc biệt nhờ bí tích
Thánh Thể, trong đó, khi con người tham dự vào lễ tế Thập giá
được tái hiện trong buổi cử hành, họ học được cách tìm lại mình
trong việc hiệp thông với Thiên Chúa và với người khác là anh em
của mình bằng sự tự hiến chính mình (GH số 24).
Thánh Thể là nguyên do, là biểu tượng và là dấu chỉ của sự hợp
nhất Giáo hội. Họp nhau quanh bàn thánh, Giáo hội thể hiện như
một thân thể, vừa kết hợp làm một với Đầu mình, vừa biệt hóa
trong các phận vụ khác nhau. Là bí tích hiệp nhất, bí tích Thánh
Thể gia tăng, xây dựng và đổi mới không ngừng sự hiệp thông giữa
các tín hữu và giữ họ hiệp nhất qua “mối dây đức ái”. Thừa tác
vụ tông đồ, công việc phục vụ của các giám mục, linh mục và phó
tế là phục vụ sự hiệp thông của Hội Thánh.
Qua bí tích Thánh Thể, Thánh
Thần củng cố con người nội tâm, dạy con người biết ơn gọi của họ
là cho đi chính mình và sống hiệp thông với Chúa và với anh em.
Chính vì vậy mà Giáo hội thuở ban đầu rất siêng năng “bẻ Bánh”.
Đấng đã lên trời, giờ đây đến với họ trong cộng đoàn Thánh Thể.
Được Thánh Thần hướng dẫn, ngay từ thuở ban đầu, Giáo hội tự
diễn tả và củng cố mình trong bí tích Thánh Thể.
3. Giới luật yêu thương.
Đức Giêsu đã truyền cho Giáo hội một giới răn mới (Ga 13, 34).
Mối dây liên kết Ba Ngôi chính là tình yêu, nên tình yêu cũng
phải kết hợp con người lại.
Chỉ yêu thương anh em thôi thì cũng có thể được xem là chu toàn
cả lề luật, vì lề luật không nhằm mục đích nào ngoài việc yêu
thương. Đức Giêsu đã tóm tắt lề luật: “Còn điều răn thứ hai,
cũng giống như điều răn thứ nhất, là ngươi phải yêu thương người
thân cận như chính mình” (Mt 22, 37- 40). Chấp nhận khác biệt
của nhau, yêu thương và tha thứ cho nhau, noi gương Đức Giêsu,
là những điều kiện tối thiểu để xây dựng cộng đoàn Giáo hội.
Đức Giêsu nhấn mạnh đến lòng yêu mến kẻ thù, để nên giống Cha
trên trời, là Đấng ban phát ơn lành cho mọi người không phân
biệt lành dữ (cf. Mt 5, 44- 45). Vì thế, chúng ta hiểu tại sao
giới răn này lại trở thành luật mới. Noi gương Cha trên trời,
hay nói khác đi, làm như chính Đức Giêsu đã làm; như Thầy đã yêu
thương các con.
Yêu thương như Thiên Chúa (cf. 1Ga 4, 11), yêu thương như Đức
Giêsu (Ga 15, 12). Đây là luật mới của Thánh Thần (Rm 8, 2; Gl
5, 25), là những đòi hỏi quá lớn đối với chúng ta, chúng ta
không cách nào thực hiện được. Chỉ có một cách duy nhất là, nhờ
Chúa Thánh Thần, là sức mạnh tình yêu của Thiên Chúa, của Đức
Kitô ở trong chúng ta, yêu mến chúng ta. Chúng ta yêu mến nhờ
Thánh Thần, bằng tình yêu của Thánh Thần. Chỉ khi nào có một cái
nhìn siêu nhiên về đức ái như thế, chúng ta mới hiểu được Bài ca
Đức ái trong 1Cr 13, 1- 13.
4. Mẹ Maria, gương mẫu của hiệp thông.
“Vai trò của Mẹ Maria đối với Giáo hội gắn liền với sự hiệp nhất
của Mẹ với Chúa Kitô và xuất phát từ đó.“ Sự hiệp nhất của Mẹ
Maria với Con mình trong công cuộc cứu độ thật là rõ ràng từ lúc
Mẹ cưu mang Chúa cách trinh tuyền cho tới khi Ngài chết” (GH số
58). Sự hiệp nhất này đã đặc biệt tỏ rõ vào giờ khổ nạn của Chúa
(SGL, số 964).
Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà (Lc 1, 35). Nhờ quyền năng
Thánh Thần, Mẹ đã cưu mang Ngôi Lời của Thiên Chúa, trao ban Đức
Giêsu cho nhân loại. Chúng ta muốn đem lại sự sống đích thực cho
người khác, cũng phải để cho Thần Khí hướng dẫn, thúc đẩy và uốn
nắn từ bên trong, hầu nên giống Đức Kitô hơn. Nhờ đó được biến
đổi để trở thành cộng đoàn chứng nhân.
Mẹ là mẫu gương của việc cầu nguyện: “ Bà Maria thì hằng ghi nhớ
mọi kỷ niệm ấy và suy đi, nghĩ lại trong lòng (Lc 2, 19). Mẹ là
nhà chiêm niệm trong biến cố dâng Con tại đền thờ (Lc 2, 51).
Mẹ là nhà truyền giáo đầu tiên khi đon đả đem Chúa đến cho Gioan
Tẩy giả, khi phục vụ tận tình và nhiều ngày cho Elizabeth (Lc 1,
56), là người phụ nữ có một tâm hồn rất tế nhị, quan tâm tới nhu
cầu của đôi tân hôn tại tiệc cưới Cana và cầu nguyện cho họ (Ga
2, 3).
Mẹ đã hiệp thông sâu xa với Đức Kitô (Lc 1,46- 55). Mẹ hát bài
Magnificat, ngợi khen Thiên Chúa, thay mặt cho dân Israel, liên
đới với những người nghèo khó của Giavê.
Mẹ đã sống mầu nhiệm thập giá Đức Kitô(Gio 19, 25). Mẹ đã can
đảm đón nhận lưỡi gươm đâm thâu tâm hồn và kiên trì đứng bên
thập giá để chia sẻ nỗi khổ đau, nhục nhã của Con yêu dấu.
5. Phụng vụ – Cầu nguyện.
Trong Phụng vụ, Thần khí quy tụ mọi tín hữu trong sự hợp nhất :
Phụng vụ, đặc biệt Lễ Tạ ơn, là synaxe, nghĩa là cộng đoàn các
tín hữu, trước kia tản mác và chia rẽ, nay tập họp lại với nhau
như các Tông đồ vào ngày Hiện xuống, “mọi người tề tựu ở một
nơi” (Cv 2, 1). Việc qui tụ trong hiệp nhất, nghĩa là trong Giáo
hội (cộng đoàn, dân hợp nhất) là công việc của Chúa Cha và thực
hiện bằng cách tạo thành Thân Thể của Chúa Kitô ; mà chính Thần
khí là Đấng phối hợp dân chúng ly tán trong sự hiệp nhất. Bởi
vì, khi đã thông ban chính mình cho mỗi người, Ngài biến đổi đám
đông thành thân thể sống động của Chúa Kitô. Như vậy, Ngài là
Đấng tác tạo dân Chúa, dân của nền phụng tự mới và không ngừng
tôn thờ Chúa Cha, Đền thờ sống động và nơi tuyệt vời để tôn vinh
Ba Ngôi. “Chính Ngài, Thần khí thông hiệp, tồn tại mãi mãi trong
Giáo hội, và chính vì lẽ đó, Giáo hội là bí tích cao cả của sự
hiệp thông thần linh, qui tụ mọi con cái của Thiên Chúa đã ly
tán. Hoa trái của Thần khí trong phụng vụ là sự hiệp thông với
Ba Ngôi cực thánh và sự hiệp thông huynh đệ, cả hai không thể
phân chia” (CEC, số 108).
Cộng đoàn phụng vụ không phải là một tập hợp tự nhiên, nhưng là
một mầu nhiệm, một dấu chỉ thánh, dấu chỉ của dân giao ước, bày
tỏ cách hữu hình và thể hiện trong lịch sử việc quy tụ những
người đã được cứu. Nó biểu thị chính Giáo hội Chúa Kitô. Cộng
đoàn được Lời Chúa triệu tập, để nghe lời giáo huấn, cầu nguyện
và cử hành giao ước mới. Vì là dấu chỉ Giáo hội, cộng đoàn là
mầu nhiệm hiệp thông giữa các tín hữu tụ họp lại với nhau, một
sự hiệp thông trong đức tin, như các chi thể hiệp nhất với nhau
và với đầu. Sự hiệp nhất này được thực hiện giữa mọi người trong
cộng đoàn, bất kể chủng tộc, màu da, phái tính, nghề nghiệp,…,
không phân biệt cũng không thiên vị, vì tất cả đã được thanh tẩy
trong cùng một Thần khí, để làm nên một thân thể (cf. SGL, số
1097, 1102).
Cộng đoàn phụng vụ có được sự hiệp nhất của mình là nhờ sự hiệp
thông của Chúa Thánh Thần, vì “Thánh Thần là nguyên lý quy tụ và
hiệp nhất” (LG 13), Đấng “tập họp các con cái Thiên Chúa trong
Thân Thể độc nhất của Chúa Kitô” (SGL, số 1097). Là sự hiệp
thông giữa Chúa Cha và Chúa Con trong Ba Ngôi, Thánh Thần làm
cho cộng đoàn phụng vụ được hiệp nhất, và nhờ Đức Kitô mà kết
hợp nó với Chúa Cha.
Cộng đoàn là hình ảnh Giáo hội hiệp thông trong cùng một đức
tin, đức cậy, đức mến, tham dự vào cùng một hy tế của Đức Kitô.
Chúng ta đã hợp tác với Chúa Thánh Thần góp phần kiến tạo và
chia sẻ sự hiệp nhất này trong phụng vụ, để có thể trở nên lễ
vật sống động, thì lại càng phải làm như thế trong đời sống. Một
trong những hành vi quan trọng nói lên mối quan tâm đó, và
thường xuyên được mời gọi thi hành, là cầu nguyện cho sự hiệp
nhất của Giáo hội “ (HN, số 8).
Lòng tin vào Thiên Chúa phải biểu hiện qua việc thờ phượng và
phụng tự. Nếu đức tin thuộc về một cộng đoàn, thì phụng tự nhất
thiết phải có tính cách xã hội. Công khai tuyên xưng đức tin là
một yếu tố hiệp thông trước mặt người khác. Như thế, hiệp thông
trong đức tin biểu lộ qua hiệp nhất các nghi thức. Trước hết,
thánh Phaolô kể ra “một phép rửa duy nhất” như là dấu chỉ và
nguyên nhân của sự hiệp nhất này (Ep 4, 4- 6; Gl 3, 26- 28; 1Cr
12, 13t). “Vậy phép rửa tạo ra mối dây hiệp nhất cách bí tích,
ràng buộc những kẻ đã được tái sinh. Nhưng phép rửa mà Đức Kitô
tháp nhập các chi thể vào mình, làm chúng nên một trong Ngài:
“Tất cả anh em chỉ còn là một…” (Gl 3, 28).
Tại Á Châu, quê hương của các tôn giáo lớn, nơi mà mọi người
thích sống trầm lặng với tâm hồn hướng thượng, Giáo hội được kêu
gọi trở nên một Giáo hội cầu nguyện. Các Kitô hữu cần một tu đức
truyền giáo thực sự gồm có cầu nguyện và chiêm niệm (Ecclesia in
Asia, số 23). “Việc công bình, bác ái và thương xót phải gắn bó
mật thiết với đời sống cầu nguyện và chiêm niệm đích thực, và
thật vậy, chính cũng một tu đức này là nguồn suối của mọi công
trình rao giảng Tin mừng của chúng ta” (Ecclesia in Asia, số
23).
Thánh Augustinô: “Chúa Kitô hiện diện nơi Giáo hội của Người khi
Giáo hội cầu nguyện, vì chính Ngài là Đấng cầu nguyện cho chúng
ta, trong chúng ta, và là Đấng mà chúng ta cầu nguyện với như
Thiên Chúa của mình”. “Ở đâu có hai hay ba người vì danh Thày mà
tụ họp lại, thì Thày ở giữa họ” (Mt 18, 20).
Thánh Thần là Đấng soi sáng, gợi hứng, thúc đẩy và là hoa trái
của lời cầu nguyện. Thiên Chúa ban Thánh Thần xuống cho những ai
tin Ngài.
Chúa hiện diện giữa chúng ta mọi ngày, đặc biệt là lúc chúng ta
cầu nguyện chung với nhau (cf. Mt 18, 19- 20), lúc chúng ta cử
hành mầu nhiệm Thánh Thể (cf. Lc 24, 30- 31), và khi chúng ta
cùng cộng tác với nhau để phục vụ những anh em ngèo khổ (cf. Mt
25, 40. 45). Người nghèo chính là con đường đưa chúng ta tới sự
gặp gỡ, kết hợp với Chúa và hiệp nhất với nhau.
Cộng đoàn cầu nguyện là biểu tượng của Hội thánh : Sau khi Chúa
lên trời, các Tông đồ trở về Giêrusalem, “đồng tâm nhất trí,
chuyên cần cầu nguyện, cùng với mấy người phụ nữ, với bà Maria
thân mẫu và với anh em của Đức Giêsu” (Cv 1, 14). Ở đây, tác giả
Tông đồ Công vụ không chỉ ghi chép những sự kiện xảy ra, nhưng
ông còn muốn vạch ra một ý tưởng cho cả cộng đoàn Hội thánh nữa,
đó là sự thông hiệp : đồng tâm nhất trí trong việc cầu nguyện.
Sự hiệp thông không những vượt lên trên những bất đồng do quan
điểm riêng tư hay chủng tộc, mà còn là biểu hiện của Hội thánh.
Hội thánh tiên khởi đã gặp nhiều nguy cơ chia rẽ và những mối
lục đục bất hòa, nên thánh Phalô đã khuyên các tín hữu: “Xin
Thiên Chúa là nguồn kiên nhẫn và an ủi, làm cho anh em được đồng
tâm nhất trí với nhau, như Đức Ki-tô Giê-su đòi hỏi. Nhờ đó, anh
em sẽ có thể hiệp ý đồng thanh mà tôn vinh Thiên Chúa, là Thân
Phụ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta” (Rm 15, 5- 6).
“Sứ mạng của Chúa Kitô và của Chúa Thánh Thần là loan báo, hiện
tại hóa và truyền đạt mầu nhiệm ơn cứu độ trong phụng vụ bí tích
của Giáo hội : sứ mạng này được tiếp tục trong tâm hồn những
người cầu nguyện. Các Giáo phụ tu đức đôi khi vẫn ví tâm hồn
người ta với một bàn thờ. Việc cầu nguyện sẽ nhập tâm và thấm
nhiễn lấy phụngvụ, trong khi và sau khi cử hành phụng vụ. Cả khi
diễn ra”trong nơi kín đáo” (Mt 6, 6). Lời cầu nguyện vẫn luôn
luôn là lời cầu nguyện của Giáo hội, và là 6, 6). Lời cầu nguyện
vẫn luôn luôn là lời cầu nguyện của Giáo hội, và là
Khung cảnh cầu nguyện làm nổi bật căn cước của Kitô giáo. Tại
đây, các tín hữu tuyên xưng đức tin cũng như dâng lời chúc tụng
Thiên Chúa vì đã ban ơn cứu độ cho nhân loại nhờ Đức Kitô, dưới
hình thức tuyên xưng, các thánh thi, thánh ca…Sự cầu nguyện
không chỉ là một hành vi của con người, nhưng còn là tác động
của Thiên Chúa ở nơi ta nhờ Thánh Thần. Thánh Luca nhiều lần
nhắc tới tác động của Thánh Thần trong lời cầu nguyện (1, 15t;
2, 25t; 4, 1. 14; 10, 21; 11, 13; Cv 2, 38; 10, 46t; cf. Rm 8,
15; 5, 6; 8, 26; Gl 4, 6).
Mọi lời cầu nguyện của Hội thánh được thực hiện trong Chúa Thánh
Thần, vì vậy là lời cầu nguyện của Thánh Thần. “Sự hiệp nhất của
Giáo hội đang cầu nguyện là công trình của Thánh Thần, Đấng ở
trong Đức Kitô, ở trong Giáo hội và ở trong mỗi người đã được
chịu phép rửa. Cùng một Thánh Thần đến giúp đỡ sự yếu đuối của
chúng ta” và “chuyển cầu cho chúng ta cách khẩn thiết bằng những
tiếng rên rỉ không thể diễn tả” (Rm 8, 26). Chính Ngài, với tư
cách là Thần khí của Con, đổ tràn xuống trên chúng ta”Thần khí
nghĩa tử, nhờ đó, chúng ta được kêu lên: Aùp- ba, Cha ơi!” (Rm
8, 15; cf. Gl 4, 6; 1Cr 12, 3; Ep 5, 18; Gđ 2, 10). “Vậy thì
không thể có một lời cầu nguyện Kitô giáo nếu không có tác động
của Thánh Thần liên kết toàn thể Hội thánh nhờ Chúa Con dẫn Hội
thánh đến với Chúa Cha” (Huấn thị Tổng quát về Phụng vụ Các Giờ
kinh, số 8).
Cầu nguyện là một chiều kích
thiết yếu của phụng vụ. Thái độ thờ phượng lắng nghe và đáp lại
làm thành cơ cấu thiết yếu của cầu nguyện trong Giáo hội, thái
độ này tràn ngập tất cả phụng vụ Thánh Thể cho tới khi đạt tới
đỉnh cao của chính kinh “Tạ ơn”, trong đó, Thánh Thần làm vọt
lên từ tâm hồn đang cầu nguyện của Giáo hội những kiểu nói độc
đáo nhất trong cuộc đối thoại đầy tình con thảo: tạ ơn, dâng
hiến, chuyển cầu, kêu xin. Tất cả được thực hiện trong Thánh
Thần: bài hát, sự thinh lặng, lời cầu nguyện của thừa tác viên
và tiếng A- men của cộng đoàn, lời tuyên xưng đức tin và lời
chuyển cầu phổ quát trong lời nguyện tín hữu.
GSVN
|
VỀ MỤC LỤC |
|
ĐAN VIỆN BIỂN
ĐỨC THIÊN PHƯỚC |
Tôi quen biết
một anh bạn vốn là người phục vụ đắc lực trong môi trường truyền
thông Công Giáo tại Việt Nam gần ba thập niên qua. Nay anh sắp sửa
gác bút để đi vào tuổi hồi hưu. Anh đang mong muốn trở thành hiến
sinh (oblat) Dòng Biển Đức.
Hằng tuần, mỗi
khi có thể được, vào chiều thứ năm, anh lên Đan Viện Biển Đức Thiên
Phước để tham dự giờ kinh chiều và chầu Thánh Thể. Và mỗi tháng, một
hai chiều thứ bảy, anh lại lên Đan Viện đó để đọc kinh chiều, ngủ
qua đêm và tham dự các giờ phụng vụ vào sáng Chúa nhật hôm sau.
Do lời yêu cầu
của tôi, anh đã chở tôi bằng xe gắn máy vào một chiều thứ năm thuộc
hạ tuần tháng 11/2006 để thăm viếng Đan Viện Biển Đức Thiên Phước:
tham dự giờ kinh chiều, chầu Thánh Thể và dùng bữa cơm tối tại đây.
TIẾT MỘT
THĂM ĐAN VIỆN
THIÊN PHƯỚC
Quang cảnh
Đan Viện
Vào chiều thứ
năm hôm đó, sau khi chạy xe gắn máy qua lối vào Đan Viện từ ngoài xa
lộ – một lối vào gồ ghề sỏi đá – chúng tôi băng qua một cổng sắt cũ
kỹ và rỉ sét để vào một cái cổng mới, cột xây bằng gạch, trên có mái
ngói che. Vào bên trong sân Đan Viện, nhìn quanh mới thấy quang cảnh
vắng lặng làm sao, khác với không khí nhộn nhịp xô bồ của Thành Phố
Saigon, bao quanh bởi những xa lộ tấp nập với hàng ngàn loại xe đua
nhau chạy.
Ở đây bày ra
những tòa nhà im lìm với những hàng cây cũng im lìm bất động. Đâu đó
phô bày một vài bồn hoa, bãi cỏ, nhưng có phần xơ xác tiêu điều vì
không đủ nước tưới cây. Đăc biệt, có một khoảnh ruộng khá rộng để
các đan sĩ trồng lúa. Vào tháng nầy khoảnh đất đó để lộ những vũng
bùn cỏ mọc um tùm vì không phải là mùa trồng lúa.
Cha Phó Bề
Trên
Cha Bề Trên Đan
Viện đi vắng nên chúng tôi được Cha Phó Bề Trên tiếp đón tại một căn
phòng đơn sơ. Quý danh của ngài là Cha Tôma Thiện Lê Thành Cát
có biệt tài về “cảm xạ khám bệnh”. Cha cho biết hằng ngày cha
đã giúp chữa bệnh cho nhiều người về các thứ bệnh khác nhau.
Ngoài ra cha
cũng có biệt tài giúp kiếm tìm mồ mả những người mất tích. Cha đã
giúp đỡ rất nhiều người ở phương xa và ở nước ngoài nữa. Việt kiều
chỉ cần biên thư hoặc gọi điện thoại cho cha biết vài chi tiết cần
thiết và gởi kèm một tấm ảnh. Cha chỉ hành động theo những kiến thức
về cảm xạ học còn sau đó cha hoàn toàn phó thác cho Chúa
để chính Ngài lo liệu.
Giờ Kinh
Thần Vụ Ban Chiều
Khi hoàng hôn
sắp xuống, các tu sĩ già trẻ lặng lẽ tiến về Nhà Nguyện để đọc kinh
chiều. Hôm đó là ngày lễ kính một vị Thánh Nữ đồng trinh
nên những thánh vịnh cũng như các bài đọc đều hướng về chủ đề “trinh
nữ”, ca tụng đức khiết tịnh nơi các vị Nữ Thánh Đồng Trinh.
Bỗng chốc trong
đầu óc tôi hiện lên những hình ảnh kiêu sa của đại đa số thiếu nữ
thời nay, đặc biệt ở Việt Nam, đang lao mình vào cơn lốc tiền tài
do hoàn cảnh xã hội thúc đẩy, chẳng khác nào những đám thiêu thân.
Đó là những thiếu nữ trẻ đẹp trên những đường phố Saigon, Huế, Hà
Nội, Bắc Kinh, Thượng Hãi, Thẩm Quyến, Quảng Châu và ở tận Cao
Nguyên Việt Nam nữa… Tôi đã nhìn thấy họ trên những đoạn đường du
lịch.
Tất cả đều có
một điểm chung là kiếm cho thật nhiều tiền bằng mọi phương cách hầu
hưởng thụ tối đa, bất chấp mọi cạm bẫy nguy hiểm đang bủa
giăng. Đối với họ, đó là sự thành công đích thực trong cuộc sống xô
bồ và đa tạp nầy.
Tôi nhớ lại vào
một buổi sáng mai tại một công ty du lịch lớn ở Saigon, trong khi
tôi đang cùng một cô bán vé du lịch trao đổi về hành trình du lịch ở
Trung Quốc, thình lình tất cả các cô khuyến mãi ở các quầy hàng đều
nhốn nháo, đứng lên, nhìn ra phía bên kia đường.
Thì ra lúc đó
hai cô người mẫu đang đứng trước một chiếc xe hơi bóng loáng, được
chụp hình lia lịa và quay phim tới tấp để quảng cáo mẫu xe hơi mới.
Tất cả các cô khuyến mãi của công ty du lịch đều tấm tắc khen ngợi
sắc đẹp “nghiêng nước nghiêng thành” của hai cô người mẫu và họ để
lộ lòng thèm muốn được trở nên như hai người mẫu đó hầu cuộc đời sớm
được lên hương!
Nhìn vào rất
đông những đan sĩ trẻ tuổi mặc tu phục và mấy em đang trong
thời kỳ “tìm hiểu”, mặc thường phục, quỳ phía trước nhà nguyện, tôi
cảm thấy dâng lên trong tâm hồn một niềm vui lớn lao! Những con
người năng động đó đang trong tuổi thanh xuân, đã có can đảm đeo
đuổi một lý tưởng tuyệt vời giữa thời đại văn minh vật chất nầy.
Tuy nhiên tôi
cảm thấy một chút lo âu vì tuổi thanh xuân của họ gợi lại
trong tôi hai câu thơ sau đây của một thi sĩ Tiền Chiến khi ông nhìn
thấy một đám thiếu nữ xinh đẹp xuất hiện trước mặt mình:
“Biết đâu
trong đám xuân xanh ấy,
Có kẻ yêu
mình chẳng nói ra”.
Tự nhiên bỗng
xuất phát trong đầu óc tôi hai câu thơ sau đây:
“Biết đâu
trong đám xuân xanh ấy,
Có kẻ rồi
đây trở lại trần…”
Nếu thực tế xảy
ra như thế, cũng không có gì lạ. Chúa Kitô ngày xưa đã trả lời cho
người thanh niên giàu có đến gặp Ngài để xin chỉ đường cứu rỗi thì
Ngài đã nói: “Nếu anh muốn được cứu rỗi thì hãy về bán hết tài
sản, phân phát cho người nghèo và trở lại theo tôi”. Chúa Kitô
đã dùng chữ “nếu”, như là một sự “tự do lựa chọn”
dành cho chàng thanh niên đó.
Điều nầy cũng
đã xảy ra với Đan Viện Biển Đức Thiên Phước trong quá khứ: trong ba
tập sinh đầu tiên, hiện nay chỉ còn một là Cha Michel Phạm Văn
Khoa.
Bữa cơm tối
Sau Kinh Thần
Vụ Ban Chiều và nửa giờ chầu Thánh Thể trong thinh lặng thật tuyệt
vời và sâu lắng, các tu sĩ lần lượt vào phòng ăn dùng cơm tối. Thức
ăn hôm đó gồm có canh rau và cá kho. Mọi người đều ăn trong
thinh lặng để nghe đài Radio VERITAS.
Tôi liên tưởng
đến những bữa ăn thịnh soạn trong những chuyến du lịch ở hải đảo Phú
Quốc, trên tuyến Xuyên Việt và ở bên Trung Quốc nữa. Tôi bỗng nhận
thấy sự tương phản giữa hai nếp sống và sự chua chát dâng lên trong
tâm hồn! Một chân lý thật đơn giản trong nếp sống tu đức là sự
thanh đạm. Điều nầy tìm thấy trong hết mọi Linh Đạo của các Dòng
Tu trong Giáo Hội Công Giáo.
Ra về
Trước khi về
lại đô thị, tôi được một linh mục trẻ của Dòng trao tặng tập sách
nhỏ, nhan đề “Cuộc Đời Của Thánh Biển Đức” và một tài
liệu vỏn vẹn hai trang giấy nói về “Ơn Gọi Dòng Biển Đức”
dùng cho các em thanh thiếu niên muốn đến tìm hiểu ơn gọi.
Sau khi giã từ
Đan Viện Thiên Phước, chúng tôi ra về lúc trời nhá nhem tối. Xe cộ
đã lên đèn trên các xa lộ đưa vào Thành Phố Saigon. Càng vào trung
tâm thành phố, cảnh tấp nập nhộn nhịp càng sinh động hơn lên.
Lúc bấy giờ tôi
mới nhận thấy Đan Viện Thiên Phước cũng như những đan viện chiêm
niệm khác được mang thêm chức năng mới là cống hiến cho đời môi
trường thuận lợi để những ai đang bị quay cuồng trong “cơn lốc
kinh tế” sẽ tìm được những giây phút thoải mái và thanh
thản nội tâm.
TIẾT HAI
ƠN GỌI BIỂN ĐỨC
Tiểu sử
Thánh Tổ Phụ Biển Đức
Thánh Biển Đức
sinh năm 480 tại Nursie (Trung Ý) cùng với người em gái song
sinh là Scolastica. Năm 14 tuổi, ngài đi học ở Roma. Để phản
ứng lại thời cuộc đồi phong bại tục và để thực hiện ước muốn là chỉ
yêu mến một mình Thiên Chúa, ngài đã bỏ học và lánh vào hang núi
Subiaco.
Khoảng năm 500,
do gương sống thánh thiện đạo đức, ngài được chọn làm Đan Viện Phụ
nhà Vicovaro, nhưng sau đó ngài đã rút lui. Năm
520, ngài lập Đan Viện Subiaco và dần dần phát
triển thêm 12 đan viện nữa, xung quanh Subiaco.
Năm 530, ngài
lập Đan Viện Monte-Cassino là nơi sau nầy trở thành
trung tâm đan tu, văn hóa, tôn giáo. Cũng tại nơi đây, năm 535 ngài
đã hoàn thành Bộ Tu Luật có chiều kích rộng lớn
và nội dung đầy đủ nhất so với các bộ luật đương thời.
Ngày 21-03-547,
Thánh Biển Đức qua đời tại Monte-Cassino, hưởng thọ 67 tuổi. Năm
670, hài cốt ngài được di chuyển và đặt tại Đan Viện Saint
Benoit-Sur-Loir (Pháp). Đức Thánh Cha Phaolô VI đã chọn ngài làm “Quan
Thầy Châu Âu” và kính hằng năm ngày 11/7. Các đan sĩ Biển
Đức mừng kính riêng sinh nhật trên trời của ngài ngày 21/3 và mừng
kính chung với toàn thể Giáo Hội ngày di chuyển hài cốt là 11/7.
Tu Luật Biển
Đức
“Tuyệt
đối không quí mến gì hơn Chúa Kitô” (Tu Luật 72, 11).
1.- Luôn nhấn
mạnh đến Chúa Kitô và Tin Mừng của Ngài. Linh đạo
Thánh Biển Đức xây dựng trên nền tảng Kinh Thánh,
trang nào cũng qui chiếu vào Lời Chúa, vì thế có giá trị bất
hủ và bao trùm mọi chiều kích: Ba Ngôi, Kinh Thánh, cánh chung,
con người, đại kết, Tin Mừng, tạ ơn. Tất cả đời sống của đan sĩ
được hấp dẫn nơi Chúa Kitô: thấy Chúa Kitô trong mọi
sự, đặc biệt nơi Đan Viện Phụ, nơi các anh em, nơi khách đến thăm,
nơi người nghèo khó bệnh tật.
2.- Đan
Viện là “Trường Học Phụng Sự Chúa”, trong đó
Thầy Dạy là Chúa Thánh Thần. Đan Viện Phụ là người đại
diện Chúa Kitô. Các đan sĩ phải từ bỏ ý riêng, mặc lấy khí giới rất
mạnh mẽ cao quí là sự tuân phục, để chiến đấu cho Chúa Kitô
là vua thật và sống Đức Tin, Cậy, Mến. Dù không trực tiếp viết nhiều
về Chúa Thánh Thần, nhưng hầu như trang nào cũng nở rộ hoa trái
Thánh Thần.
3.- Bộ
Luật mực thước và trong sáng
Luôn luôn Thánh
Biển Đức nhắc tới sự cẩn trọng chừng mực, tránh những thái
quá và bất cập trên đường tu, đồng thời quan tâm đến hết mọi sinh
hoạt của anh em. Sự quân bình được thể hiện qua cách
sắp xếp bố trí sinh hoạt của cộng đoàn, phân chia rõ ràng hợp lý các
phần vụ chính: thần vụ, lao tác, học vấn…
Lời lẽ bản văn
toát lên vẻ kỳ diệu vừa mạnh vừa êm, rất đòi hỏi yêu sách,
tận căn, triệt để đến mức tối đa như vang lại lời mời gọi của Chúa
Kitô: “Hãy nên hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện”
(Mt 5, 48).
Những nét
chính của Dòng Biển Đức
Dấu hiệu
Các người muốn
trở thành đan sĩ, phải thực tâm tìm Chúa qua việc ham thích thần
vụ, vâng phục mau lẹ, vui vẻ và đón nhận những thử
thách sỉ nhục theo gương Chúa Kitô.
Mục đích
Làm tất cả mọi
sự nhờ Chúa Kitô, trong Chúa Thánh Thần, qui hướng về Chúa Cha
để “Thiên Chúa được vinh danh trong mọi sự” (“UT IN
OMNIBUS GLORIFICETUR DEUS”).
Châm ngôn
Đó là “Cầu
nguyện và Lao Động” (“ORA ET LABORA”).
Tinh Thần
Đó là phụng
sự Chúa và phục vụ tha nhân. Luôn sống trong sự hiện
diện của Chúa để được vui sống bình an (PAX).
Đức tính
Phải có bốn đức
tính sau đây: khiêm nhường, thinh lặng, biệt thế và đời
sống huynh đệ.
Sinh hoạt
-
Cử hành
các Giờ Kinh Thần Vụ (Opus Dei).
-
Đọc
và suy niệm Kinh Thánh
(Lectio Divina).
-
Lao
động trí thức và lao
động chân tay tùy khả năng.
-
Đón
tiếp khách tĩnh tâm.
Tổng quan
Từ ngày thánh
lập đến nay đã hơn 15 thế kỷ, có khoảng 5 triệu đan sĩ Biển Đức và 1
triệu đan sĩ Xitô. Trong số đó, rất nhiều đan sĩ đã được phong Hiển
Thánh và Chân Phước, 25 vị Giáo Hoàng, nhiều vị Hồng Y, Tổng Giám
Mục và Giám Mục.
Ngày nay con số
các đan sĩ Biển Đức khoảng 50.000 vị. Riêng Việt nam có 20 linh mục
và hơn 250 đan sĩ sinh hoạt tại 5 nhà: Thiên An (Huế),
Thiên Hòa (Ban Mê Thuột), Thiên Bình (Long Thành),
Thiên Phước (Thủ Đức) và một Nữ Đan Viện Biển Đức (Thủ
Đức).
TIẾT BA
ĐAN VIỆN BIỂN ĐỨC
– THÁNH GIUSE – THIÊN PHƯỚC
Đầu tháng 05
năm 1972, tình hình thời cuộc ngày càng sôi động với “mùa hè đỏ
lửa” và việc “di tản chiến thuật” của quân đội miền Nam.
Ngày 13-5-1972, Nhà Mẹ Thiên An và cha
Đan Viện Trưởng là Tôma Châu Văn Đằng đã quyết định di chuyển
các đan sĩ trẻ và các tập sinh vào Saigon do cha tập sư Marian
Nguyễn Công Phương phụ trách. Điểm dừng chân đầu tiên là trụ sở
liên lạc của nhà Thiên An tại số 163/9 Hùng Vương, Thị
Nghè, Saigon.
Những ngày
đầu tiên
Cha Bêđa Ngô
Minh Thúy lúc bấy giờ đang học ở Saigon cũng được chỉ định cộng
tác với cha Marian để chuẩn bị nền móng ban đầu trên đất của ông
Tòa Trí tặng (do bà Hồng Thị Cúc đứng tên) gần Cầu Trắng thuộc
giáo xứ Tam Hải Thủ Đức, đặt cơ sở cho việc xây dựng Đan Viện Biển
Đức Thiên Phước.
Ngày
05-02-1976, Cha Bêda Ngô Minh Thúy được chỉ định làm
Bề Trên tiên khởi của Đan Viện Thiên Phước. Ngày 11-02-1976,
Đức cố Tổng Giám Mục Phaolô Nguyễn Văn Bình chính thức
chấp nhận Đan Viện Thiên Phước là Đan Viện giáo phận, thuộc Tổng
Giáo Phận Saigon. Tháng 03-1987, Cộng Đoàn chính thức nhận
Thánh Cả Giuse làm Bổn Mạng Đan Viện, mừng kính vào ngày
19-03 hằng năm.
Rồi niềm vui
của Cộng Đoàn Thiên Phước càng được nhân lên, ngày 03-09-1988,
Đan Viện được nâng lên hàng tự trị (sui juris),
mặc dù Cộng Đoàn còn rất nhiều khó khăn và thiếu thốn.
Phát triển
nhân sự
Ngày
08-12-1989,
Đan Viện tiếp nhận 3 tập sinh đầu tiên, hiện nay chỉ còn một là
Cha Michel Phạm Văn Khoa.
Ngày 11-07-1996
là lễ Thánh Tổ Phụ Biển Đức, Đan Viện tổ chức lễ Tạ Ơn và khánh
thành Nguyện Đường mới, mở ra một giai đoạn phát triển
của Cộng Đoàn.
Ngày càng có
nhiều người trẻ đến tham dự chia sẻ và tìm hiểu ơn gọi, nhờ đó tình
hình Đan Viện có nhiều tiến triển đáng kể. Đặc biệt giới trẻ của
Cộng Đoàn dưới 30 tuổi chiếm tỷ lệ trên 70% tổng số nhân sự. Ngày
11-07-1997, Cộng Đoàn đã tổ
chức lễ Ngân Khánh thành lập Đan Viện.
Sau bao ngày
gieo trồng, ơn gọi đan tu của Cộng Đoàn Thiên Phước đã đâm hoa kết
quả. Ngày 21-01-2000, Đan Viện có một linh mục trẻ đầu tiên là
Cha Michel Phạm Văn khoa (37 tuổi). Ngày 22-12-2000, một linh
mục trẻ thứ hai là Cha Phaolô Nguyễn Hữu Thanh (38 tuổi). Và
ngày 18-10-2002, một linh mục trẻ thứ ba là Cha Gioankim-Maria Lê
Văn Tấn (40 tuổi).
Tháng 03-2004,
Cha Đan Viện Phụ Chủ Tịch Thierry Portevin sang Việt Nam thăm
viếng Tỉnh Dòng Biển Đức Việt Nam lần thứ ba, đã chọn lựa và chỉ
định một linh mục trẻ Đan Viện Thiên Phước là Cha Phaolô
Nguyễn Hữu Thanh làm Bề Trên Cộng Đoàn Biển Đức Thiên Hòa,
Ban Mê Thuột.
Tính đến ngày
15-08-2006, nhân số Cộng Đoàn Thiên Phước là 73 thành viên, trong đó
khấn trọn đời 19 (linh mục 7), khấn tạm 28, tập sinh 14 và thỉnh
sinh 12. Bề Trên là linh mục Bêđa Ngô Minh Thúy.
ĐỊA CHỈ:
Đan Viện Biển
Đức Thiên Phước
18 Đường số 7,
Khu phố 2, Phường Tam Bình, Quận Thủ Đức
TP. HCM, Việt
Nam
Điện thoại:
(84-8) 729 4971
897 7512
Email:
thienphuocosb@vnn.vn
Phát triển
hạ tầng cơ sở
Sau Nhà
Nguyện, Đan Viện tiến hành việc xây dựng một Nhà Khách
nhỏ đổi công năng thành phòng ở cho các đan sĩ lớn
tuổi và tu sĩ khách của Đan Viện. Kế đó là một tòa nhà hai
tầng gồm 38 phòng ở cho các đan sĩ đã khấn, có
khu nhà vệ sinh, giặt giũ và tập thể dục trong nhà. Tiếp theo là một
tòa nhà tương tự được cất song song với tòa nhà khấn,
để làm chỗ ở cá nhân và tập thể cho những đối tượng chưa khấn
là tập sinh, thỉnh sinh, tìm hiểu nội trú…
Bước thứ hai là
khu nhà khách tĩnh tâm hiện đại, theo chức năng
và truyền thống Biển Đức đón tiếp khách hành hương như đón tiếp
chính Chúa Kitô và nhằm đáp ứng ba đối tượng về khách tĩnh tâm: ở
trong ngày, ở qua đêm, ở nhiều ngày (như các nhóm tu sĩ tĩnh tâm
trước khi tuyên khấn và các ứng viên linh mục trong giáo phận…).
Nhiều tiện nghi được dành cho khách tĩnh tâm: Nhà Nguyện, phòng họp
lớn, vừa hay nhỏ, căng tin 40 chỗ ngồi, phục vụ bếp riêng theo yêu
cầu, khi có đông người, có thể sử dụng bếp và phòng ăn của Cộng Đoàn
theo thỏa thuận trước.
Cuối cùng, kiến
trúc mới đây là một tòa nhà ba tầng nối liền hai dãy “nhà tập”
và “nhà khấn” nói trên, thành hình chữ U mang tên “thư
viện”. Ngoài chức năng thư viện (một tầng), còn có
công dụng tập trung các bộ phận phục vụ khác của Đan Viện như nhà
hội, lớp học, phòng họp, phòng vi tính, phòng học đàn, nhà may, nhà
sinh hoạt năng khiếu mỹ thuật, phòng y tế…
Hiện trạng
Đan Viện
Với nhịp độ đô
thị hóa cấp tốc và qui mô của Thành Phố Saigon, đã phát sinh
nhu cầu bồi dưỡng tâm linh ngày càng gia tăng của nhiều đối
tượng cư dân muốn tìm nơi thinh lặng, cô tịch. Đan Viện sẵn sàng
tiếp đón thân thiện, chân tình, vô vị lợi và không phân biệt, để
họ cầu nguyện riêng tư hoặc tham gia cầu nguyện với Cộng Đoàn, hoặc
với sự đồng hành tư vấn của các linh mục, tu sĩ của Đan Viện, để họ
có điều kiện thuận lợi tìm lại sự an bình nội tâm của chính mình,
hầu giải quyết những vấn đề tâm lý, tâm linh của họ.
Phần Cộng Đoàn
Đan Viện, nhờ những sự tiếp xúc giao lưu thường xuyên như thế
với nhiều giới bên ngoài nội vi Đan Viện mà nắm bắt được nhiều vấn
đề thiêng liêng, tâm linh của xã hội, để trên cơ sở đó, có nhiều
đề tài, mục tiêu, đối tượng cầu nguyện, van nài Thiên
Chúa cho những cá nhân, cho đất nước, cho thế giới khổ đau, tuyệt
vọng, mất phương hướng. Tất cả chỉ để “làm vinh danh Thiên Chúa
trong mọi sự”, như tôn chỉ của Dòng chiêm niệm Biển Đức.
Nhà văn Hương Vĩnh
(Trong tác phẩm Những Nẻo Đường Việt Nam)
|
VỀ MỤC LỤC |
|
VỀ DANH XƯNG “ĐẠO THIÊN CHÚA”
hay “ĐẠO CÔNG GIÁO”
NHỮNG KHÁC BIỆT GIỮA CÁC NHÁNH KITÔ GÍAO |
Phần Một: VỀ DANH XƯNG “ĐẠO THIÊN CHÚA”
hay “ĐẠO CÔNG GIÁO”
Hỏi:
xin cha giải thích :
1- Đạo Thiên
Chúa là gì và khác Đạo Công Giáo như thế nào ?
2- Có người dịch Đạo Công Giáo
là Public Religion và Tội Tổ
Tông là father’s sin có đúng hay không ?
Trả lời:
Trong thực tế, nhiều người đã lầm
lẫn khi dùng cụm từ “ Đạo Thiên Chúa” hay Thiên Chúa Giáo để chỉ Đạo
Công Giáo (Catholicism ) tức là Đạo thánh mà chính Chúa Kitô đã rao
giảng và thiết lập Giáo Hội như phương tiện để loan truyền và mang
ơn cứu độ của Chúa đến cho mọi dân mọi nước cho đến ngày mãn thời
gian. Đó là Đạo cứu rỗi mời gọi mọi người đón nhận để được sống hạnh
phúc đời đời với Thiên Chúa trong Vương Quốc tình yêu của ngài.
Xét về từ ngữ (terminology) thì
danh xưng Đạo Thiên Chúa nghe có vẻ hợp lý vì mục đích tôn thờ
Thiên Chúa là Chủ tể vạn vật và vũ trụ.Nhưng nếu đi sâu và nôïi
dung thần học, thì danh xưng này không phân biệt rõ đối tượng và mục
đích tôn thờ của các tín hữu có cùng niềm tin vào Thiên Chúa (God)
nói chung và Chúa Cứu Thế Giêsu nói riêng. Các tín hữu này hiện đang
phân tán trong các Giáo Hội hay Đạo có danh xưng khác nhau như sau
:
1- Do
Thái Giáo ( Judaism) , hay còn gọi là Đạo Mai Sen ( Mosaic Religion)
là Đạo tôn thờ Thiên Chúa Yahweh, là Cha của các Tổ Phụ Abraham,
Isaac và Israel (Jacob). Ngài cũng là Đấng, qua tay ông Mai Sen, đã
giải phóng cho dân Do Thái thoát ách thống khổ bên Ai Cập và mang
họ vượt Biển Đỏ trở về quê hương an toàn. Tín hữu DoThái thuộc Đạo
này cho đến nay vẫn chỉ tôn thờ một Thiên Chúa độc nhất mà thôi
(monotheism). Họ không có ý niệm gì về một Thiên Chúa Ba Ngôi ( The
Holy Trinity) vì họ không nhìn nhận Chúa Giêsu là Ngôi Hai Thiên
Chúa, đã xuống thế làm Người để cứu chuộc nhân loại cũng như không
biết gì về Chúa Thánh Thần trong niềm tin của họ. Vì thế, Kinh Thánh
của Do Thái Giáo chỉ có phần Cựu Ước mà thôi.ï
2-
Công Giáo La Mã ( Roman Catholicism)
chính là Kitôgíao,tức là Đạo tôn thờ Thiên Chúa Ba Ngôi nhưng cùng
một bản thể (substance) và uy quyền như nhau. Thiên Chúa của Đạo
Công Giáo là Thiên Chúa của Chúa Kitô (Christian God) và cũng là
Thiên Chúa của Tổ Phụ Do Thái. Do đó, Kinh Thánh của Giáo Hội Công
Giáo gồm cả hai phần Cựu Ước( Old Testament) và Tân Ước ( New
Testament).
3-
Chính Thống Giáo ( Eastern Orthodox) là
Nhánh Kitôgíao Đông Phương (Eastern Orthodox Churches) đã tách ra
khỏi Giáo Hội Công Giáo La Mã từ năm 1054 vì một số bất đồng về
tín lý thần học, phụng vụ và quyền bính. Cho đến nay , Nhánh này
vẫn chưa hiệp nhất trọn vẹn được với Giáo Hội Công Giáo La Mã dù cả
hai bên đã có nhiều thiện chí và cố gắng để xích lại gần nhau.
4-
Tin Lành ( Protestantism) là Nhánh
Kitôgíao đã ly khai khỏi Công Giáo và Chính Thốâng Giáo sau những
cuộc cải cách ( reformations) do Marin Luther chủ xướng tại Đức năm
1517, lan qua Pháp với John Calvin, Thuy sĩ với Ulrich Zwingli .
Nhưng chính nội bộ Nhánh này sau
đó cũng phân chia thành rất nhiều giáo phái khác nhau như Baptists,
Methodists, Lutherans, Presbyterians, Episcopalians, Pentecostals,
Quakers, Church of Christ .v.v Họ cũng tôn thờ một Thiên Chúa và
tin Chúa Kitô là Cứu Chúa (Savior) cũng như lấy Kinh Thánh làm căn
bản cho niềm tin và sứ vụ giảng dạy.(Preaching ministry), nhưng khác
biệt với Công Giáo và Chính Thống Giáo về nhiều điểm căn bản liên
quan đến thần học, bí tích, phụng vụ, quyền bính và kinh thánh. (họ
giải thích kinh thánh theo cách hiểu riêng của họ). Thêm vào đó, cả
hai Nhánh Chính Thống và Tin lành đều không công nhận vai trò và
quyền bính tối cao của Đức Giáo Hoàng La Mã.
5- Anh Giáo ( Anglicanism) từ
nhóm Kitôgíao đã tách khỏi Công Giáo La Mã vì sự bất mãn liên quan
đến vấn đề hôn nhân của Vua Henry VIII trong thế kỷ 16. Henry đã
tuyên bố ly khai khỏi Công Giáo La Mã và tự phong làm thủ lãnh Nhánh
ly khai này. Nhóm này có tên chung là Anglican Communion, tức là Anh
Giáo, hoàn toàn khác với Giáo Hội Anh Quốc (The Church of England)
là Giáo Hội Công Giáo của nước Anh hiệp thông với Giáo Hội Công Giáo
La Mã (Rome)
Ngoài ra, còn phải kể thêm một
tôn giáo lớn nữa cũng tôn thờ Thiên Chúa mà họ gọi là Đấng Allah. Đó
là Đạo Hồi (Islam) do Muhammad sáng lập vào năm A.D 622.Từ ngữ
Islam trong tiếng Ả Rập có nghĩa là “Tuân phục ý muốn của Thiên
Chúa= (Submission to the will of God) nhưng Đạo này khác xa Đạo Do
Thái và các Nhánh KitôGíao nói trên về nhiều mặt. Thí dụ họ chỉ coi
Chúa Giêsu là một người thường, một tiên tri như Abraham, Moses ,
Noah v.v và kinh thánh của họ là kinh Koran.
Như vậy, không có đạọ nào gọi là
Đạo Thiên Chúa ( Deism) đúng nghĩa với danh xưng này cả vì trong
thực tế thì tất cả các Nhánh hay Đạo mang các danh xưng riêng biệt
trên đây đều tôn thờ Thiên Chúa ( God) nhưng với nội dung thần học
khác nhau, kể cả khác biệt về phương thế thể hiện sự tôn thờ đó
(Liturgy). Nói khác đi , các Nhánh Kitôgiáo và Do Thái giáo nói
trên, tuy cùng tôn thờ Thiên Chúa, nhưng rất khác nhau về quan điểm
thần học, bí tích, phụng vụ, mục vụ và quyền bình . Do đó, không
thể gọi Đạo Công Giáo là Đạo Thiên Chúa cách chung được vì như vậy
sẽ lẫn lộn với các đạo cùng tôn thờ Thiên Chúa nhưng khác nhau về
nhiều điểm như đã nói trên đây.
TẠI SAO
PHẢI GỌI KITÔGÍAO LA MÃ LÀ ĐẠO CÔNG GIÁO ?
Để trả lới câu hỏi này, chúng ta
cần nhớ lại từ đầu Thiên Chúa (God) chỉ tỏ mình ra cho dân Do Thái
và chọn dân này làm dân riêng mà thôi :
“Vậy giờ
đây, nếu các ngươi thực sự nghe tiếng Ta và giữ
giao ước của Ta, thì giữa hết mọi dân, các ngươi sẽ là sở hữu riêng
của Ta.” (Xh 19:5)
Như thế ,trước khi Chúa Giêsu
xuống thế , chỉ có dân Do Thái được biết Thiên Chúa Yahweh là Cha
các Tổ Phụ của họ, là Đấng đã giải phóng họ và ban cho họ Mười Điều
Răn làm Giao ước (Covenant) mà thôi.Ngoài Dân Do Thái ra, các dân
khác đều là dân ngoại (gentiles) vì không biết Thiên Chúa Yahweh của
dân Do Thái.
Nhưng sau khi Chúa Giêsu giáng
sinh ở Bethlehem, Chúa đã tỏ mình ra cho các dân ngoại qua ánh sao
lạ ở Phương Đông, mời gọi ba đạo sĩ dân ngoại đầu tiên đến thờ lậy
Chúa.( x. Mt 2:1-12). Sự kiện này đã nói lên nét phổ quát
(universality) của ơn cứu độ.Nghĩa là ơn này được dành cho hết mọi
dân tộc, không chỉ riêng cho dân Do Thái. Vì thế , trước ngày về
trời Chúa Giêsu đã truyền cho các Tông Đồ :
“anh em hãy đi và làm cho muôn dân
trở thành môn đệ , rửa tội cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và
Chúa Thánh Thần..” (Mt 28:19). Đây là lý do vì sao Đạo của
Chúa Kitô (Christianity ) được gọi là Đạo Công Giáo vì
mục đích phổ quát của ơn cứu độ mà Chúa đã mang đến cho nhân loại
qua Hy Tế thập giá của Người. Vì thế từ ngử “Công giáo” ở đây có
nghĩa là chung, là phổ quát (universal), dành cho hết moi người
không phân biệt màu da, tiếng nói và văn hóa. Như vậy từ ngữ “công
giáo” (catholicam= catholique= catholic…..) không hề có nghĩa là
công cộng ( public) như có người không hiểu biết gì nhưng đã có ác ý
dịch ẩu Đạo Công Giáo sang tiếng Anh là Public Religion. Dịch như
vậy cũng tương tư như người mới học tiếng Anh đãø tự ý dịch nước đá
( ice) là “water stone”! Cũng vậy, nếu biết tiếng Anh đủ và có đọc
sách vở viết bằng Anh ngữ về các thuật ngữ (terms) của Kitôgíao, thì
tội tổ tông , người Anh Mỹ gọi là Original sin, người Pháp gọi là
Péché originel, ngưới Tây Ban Nha gọi là Pecado orginal’.. chứ không
ở đâu có từ ngữ “father’s sin” để chỉ tội tổ tông cả. Dịch kiểu
này thì người Anh Mỹ không thể nào hiểu đúng ý của người dịch được.
Tóm lại, danh xưng phải chính
xác về các vần đề tôn giáo để tránh hiểu lầm hay xuyên tạc mục đích.
Cụ thể, Đạo Công Gíao (Catholicism) là Đạo mà chính Chúa Giêsu đã
khai sinh và giảng dạy để mang ơn cứu độ của Thiên Chúa đến cho mọi
người thành tâm thiện chí muốn đón nhận để được cứu rỗi và sống đời
đời. Giáo Hội Công Giáo là Giáo Hội duy nhất Chúa Kitô đã thiết lập
để tiếp tục rao giảng và chuyển chở ơn cứu độ đó đến cho những ai
muốn tiếp nhận. Giáo Hội này được đặt dưới quyền lãnh đạo của Đức
Giáo Hoàng là Người duy nhất nối tiếp Sứ vụ chăn dắt đoàn chiên của
Chúa Kitô với sự hiệp thông và vâng phục trọn vẹn của các Giám mục
trong toàn Giáo Hội.
Đó là những nét đại cương để phân
biệt Đạo và Giáo Hội Công Giáo với các Đạo cùng tôn thờ Thiên Chúa
nhưng đang hoạt động bên ngoài Giáo Hội Công Giáo.
Phần 2.
NHỮNG KHÁC BIỆT GIỮA CÁC NHÁNH KITÔ GÍAO
Hỏi:
Trong bài trước cha đã nói đến các Đạo cùng tôn thờ Thiên
Chúa nhưng khác nhau về nhiều mặt thần học, tín lý, bí tích…, phụng
vụ .v.v
Xin cha nói rõ hơn về những
khác biệt này giữa Công Giáo, Chính Thống và Tin Lành.
Trả lời:
như đẵ giải thích trong bài trước, cả ba Nhánh trên đây
trước hết đều thuộc Đạo Thánh của Chúa Kitô gọi chung là Kitô Giáo
(Christianity). Nhưng với thời gian, đã có những biến cố gây ra tình
trạng rạn nứt hay ly giáo (schism) đáng tiếc khiến Kitô Giáo bị phân
chia thành 3 Nhánh chính trên đây; và cho đến nay, vẫn chưa có cơ
may hàn gắn được sự phân ly này. Nguyên nhân thì có nhiều, nhưng
giới hạn trong câu hỏi được đặt ra, tôi chỉ xin nêu sau đây những dị
biệt căn bản giữa ba Nhánh Kitôgíao lớn trên đây mà thôi.
I- Chính
Thống (orthodoxy) khác biệt với Công Gíáo ra sao ?
Trước hết, danh xưng Orthodoxy,
theo ngữ căn (etymology) Hy lap , có nghĩa là chân chính, đúng đắn
(correct) và lành mạnh (sound). Danh xưng này được dùng trước hết để
chỉ lập trường của các giáo đoàn đã tham dự các Công đồng đại kết
(ecumenical Councils) Nicêa I (325) Ephêsô (431) và Chalcedon (451)
trong đó họ đã chấp thuận và đề cao những giáo lý được coi là chân
chính tinh tuyền của Kitôgíao và cương quyết bác bỏ những gì bị coi
là tà thuyết hay lạc giáo (heresy). Nhưng về sau danh xưng này được
dùng để chỉ Nhánh KitôGíao Đông Phương (Easter Orthodox Churches) đã
tách khỏi Giáo Hội Công Giáo LaMã (Roman Catholic Church) sau năm
1054.
Trước khi xẩy ra cuộc ly giáo năm
1054, hai Nhánh Kitôgíao lớn nói trên vẫn hiệp thông trọn vẹn với
nhau về mọi phương diện vì cả hai Giáo Hội này đều là kết quả
truyền giáo ban đầu của các Thánh Tông Đồ Phêrô và Anrê. Lịch sử
truyền giáo cho biết là Thánh Phêrô đã rao giảng Tin mừng ở vùng
đất nay là lãnh địa của Giáo Hội Công Giáo La Mã (Roma) trong khi em
ngài, Thánh Anrê (Andrew) sang phía Đông để rao giảng trước hết ở
Hy lạp và sau đó trong phần đất nay là Thổ Nhĩ Kỳ (Turkey). Như thế,
cả hai Giáo Hội Kitôgiáo Đông Phương Constantinople và Tây Phương
(Roma) đều có nguồn gốc Tông đồ thuần túy. Sau này, Giáo Hội Đông
Phương, với Tòa Thượng Phụ (Patriarchate) ở Constantinople, nay là
Istanbul, đã tự cho mình là chính thống (orthodox), là trung thực
với giáo thuyết tinh tuyền của Chúa Kitô, nên đã tuyệt thông với
Giáo Hội Công Giáo Tây phương Roma từ năm 1054 vì những bất đồng
giữa hai bên về tín lý thần học, phụng vụ, bí tích và quyền bính.
Hai Giáo Hội đã ra vạ tuyệt thông (Anathemas = excommunication) cho
nhau ngày 16 tháng 7 năm 1054, khởi đầu cho cuộc ly giáo Đông Tây
kéo dài cho đến ngày nay.
1-
Cụ thể , về tín lý, Giáo Hội Chính Thống Đông Phương bất đồng với
Giáo Hội Công Giáo La Mã về từ ngữ “ Filioque” ( và Con) thêm vào
trong Kinh Tin Kính Nicêa tuyên xưng “ Chúa Thánh Thần bởi Chúa
Cha, và Chúa Con mà ra”.
Giáo Hội Chính Thông Đông Phương
cũng không công nhận các tín điều về Đức Mẹ Vô Nhiễm Thai
(Immaculate Conception) và Lên Trời cả hồn xác (Assumption) mặc dù
họ vẫn tôn kính Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa (Theotokos). Sở dĩ
thế, vì họ không công nhận vai trò lãnh đạo Giáo Hội của Đức Giáo
Hoàng, nên đã bác bỏ mọi tín điều được các Đức Giáo Hoàng công bố
với ơn bất khả ngộ ( Infallibility) mà Công Đồng Vaticanô I (1870)
đã nhìn nhận.
Chính vì họ không công nhận
quyền và vai trò lãnh đạo Giáo Hội hoàn vũ của Đức Giáo Hoàng Rôma
nên đây là trở ngại lớn nhất cho sự hiệp nhất (unity) giữa hai Giáo
Hội Chính Thống và Công Giáo cho đến nay, mặc dù hai bên đã tha vạ
tuyệt thông cho nhau sau cuộc gặp gỡ lịch sử giữa Đức Thánh Cha
Phaolô VI và Đức Thượng Phụ Giáo Chủ Constantinople Athenagoras I
năm 1966.
Giáo Hội Chính Thống có đủ bảy bí
tích hữu hiệu như Công Giáo. Tuy nhiên, với bí tích rửa tội thì
họ dùng nghi thức dìm xuống nước (immersion) 3 lần để nhấn mạnh ý
nghĩa tái sinh vào đời sống mới, trong khi Giáo Hội Công Giáo chỉ
dùng nước đổ trên đầu hay trán của người được rửa tội để vừa chỉ sự
tẩy sạch tội nguyên tổ và các tội cá nhân ( đối với người tân tòng)
và tái sinh vào sự sống mới , mặc lấy Chúa Kitô.
2-
Về phụng vụ, Giáo Hội Chính Thống dùng bánh có men ( leavened
bread) khi cử hành Thánh lể trong khi Giáo Hội Công Giáo dùng bánh
không men (unleavened bread).
Mặt khác, Giáo Hội Chính Thông
theo nghi thức Byzantine với ngôn ngữ chính là Hy lạp và cử hành rất
lâu (ít là 2 giờ mỗi thánh lể) trong khi Giáo Hội Công Giáo theo
nghi thức Latin, dùng hoàn toàn tiếng La-tinh trước Công đồng
Vaticanô II và nay là các ngôn ngữ địa phương.
3-
Sau hết, về mặt kỷ luật giáo sĩ: Giáo Hội Chính Thông cho phép
các phó tế và linh muc được kết hôn trừ Giám mục, trong khi kỷ luật
độc thân (celibacy) lại được áp dụng cho mọi cấp bậc trong hàng
giáo sĩ và tu sĩ Công giáo, trừ phó tế vĩnh viễn (pernanent
deacons).
Đó là những khác biệt căn bản
giửa Giáo Hội Chính Thốâng Đông Phương và Giáo Hội Công Giáo La Mã.
Tuy nhiên, dù có những khác biệt
và khó khăn trên đây, Giáo hội Công Giáo và Giáo Hội Chính Thống
Đông Phương đều rất gần nhau về nguồn gốc tông đồ và về căn bản đức
tin, giáo lý, bí tích và kinh thánh, vì thế giáo lý của Giáo Hội
Công Giáo đã dạy rằng: “Đối với các Giáo Hội Chính thống, sự hiêp
thông này sậu xa đến nỗi “chỉ còn thiếu một chút là đạt được mức đầy
đủ để có thể cho phép cử hành chung phép Thánh Thể của Chúa Kitô”
(x. SGLGHCG, số 838).
II- Tin
lành ( Protestantism) và những khác biệt với Công giáo.
Như đã nói trong bài trước, Tin
lành, nói chung, là Nhánh Kitôgíao đã tách ra khỏi Giáo Hội Công
Giáo sau những cuộc cải cách do Martin Luther, một linh mục Dòng
thánh Augustinô, chủ xướng vào năm 1517 tại Đức và lan sang Pháp và
các nước Bắc Âu sau đó.
1-
Ở góc độ thần học, những người chủ trương cải cách (reformations)
trên đã hoàn toàn bác bỏ mọi nền tảng thần học về bí tích và cơ cấu
tổ chức giáo quyền (Hierachy) của Giáo Hội Công Giáo. Họ chống lại
vai trò trung gian của Giáo Hội trong việc hòa giải con người với
Thiên Chúa qua bí tích tha tội hay hòa giải (reconciliation) vì họ
không nhìn nhận bí tích truyền chức thánh (Holy Orders) qua đó Giám
mục, Linh mục được truyền chức thánh và có quyền tha tội nhân danh
Chúa Kitô (in persona Christi) cũng như thi hành mọi sứ vụ
(ministry) thiêng liêng khác. (rửa tội, thêm sức, thánh thể, sức
dầu thánh, chứng hôn).
Điểm căn bản trong nền thần học
của họ là con người đã bị tội tổ tông phá hủy mọi khả năng hành
thiện rồi (làm việc lành), nên mọi nỗ lực cá nhân để được cứu rỗi
đều vô ích và vô giá trị. Chỉ cần có đức tin vào Chúa Kitô dựa trên
kinh Thánh là được cứu rỗi mà thôi. (Sola fide, sola scriptura).
Ngược lại, Giáo Hội Công Giáo tin rằng con người vẫn có trách nhiệm
cộng tác với ơn Chúa để được cứu rỗi. Nói khác đi, muốn được cứu độ,
con người phải cây nhờ trước hết vào lòng thương xót vô biên của
Thiên Chúa và công nghiệp cứu chuộc vô giá của Chúa Kitô, nhưng cũng
phải có thiện chí công tác với ơn thánh để sống và thực thi những
cam kết khi được rửa tội. Nếu không, Chúa không thể cứu ai được như
Chúa Giêsu đã nói rõ : “Không phải bất cứ
ai thưa với Thầy : lậy Chúa, lạy
Chúa là được vào Nước Trời cả đâu ! Nhưng chỉ có ai thi hành ý muốn
của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi.”
( x Mt 7:21).
Nói khác đi, không phải rửa tội
xong, rồi cứ hát Alleluia và kêu danh Chúa Kitô là được cứu độ. Điều
quan trong hơn nữa là phải sống theo đường lối của Chúa, nghĩa là
thực thi những cam kết khi được rửa tội : đó là mến Chúa, yêu người
và xa lánh tội lỗi. Nếu không, rửa tội và kêu danh Chúa thôi sẽ ra
vô ích.
Anh em tin lành không chia sẻ
quan điển thần học này, nên họ chỉ chú trọng vào việc đọc và giảng
kinh thánh nhưng không nhấn mạnh đến phần đóng góp của con người như
Chúa Giêsu đòi hỏi trên đây. Ngoài phép rửa và kinh thánh, họ không
tin và công nhận một bí tích nào khác. Điển hình, vì không công nhận
phép Thánh Thể, nên họ không tin Chúa Giêsu thực sự hiện diện trong
hình bánh và rượu, mặc dù một số Giáo phái Tin lành có nghi thức bẻ
bánh và uống rượu nho khi họ tụ họp để nghe giảng kinh thánh. Sứ vụ
quan trọng của họ chỉ là giảng kinh thánh mà thôi.
2-
Nhưng kinh thánh được cắt nghĩa theo cách hiểu riêng của
họ , nên có rất nhiều mâu thuẫn hay trái ngược với cách hiểu
và cắt nghĩa của Giáo hội Công giáo.
Thí dụ , câu Phúc Âm trong
Matthêu 22 : 8-9 trong đó Chúa Giêsu dạy các tông đồ “ không được
gọi ai dưới đất là cha là thầy vì anh em chỉ có một Cha là Cha
trên trời” mà thôi. Vì họ hiểu câu này hoàn toàn theo nghĩa đen
(literal meaning) nên đã chỉ trích Giáo hội Công giáo là ‘lạc
giáo=heretical” vì đã cho gọi Linh mục là “ Cha” (Father, Père,
Padre) !.
Thật ra, Giáo Hội cho phép gọi
như vậy vì căn cứ vào giáo lý của Thánh Phaolô, và dựa vào giáo lý
này, Công Đồng Vaticanô II trong Hiến Chế Tín lý Lumen Gentium đã
dạy rằng; “ Linh mục phải chăm sóc giáo dân như những người
cha trong Chúa Kitô vì đã sinh ra họ cách thiêng liêng nhờ phép
rửa và giáo huấn.” ( x, 1 Cor 4: 15; LG. số 28).
Một điểm sai lầm nữa trong cách
đọc và hiểu kinh thánh của Tin lành là câu Phúc Âm Thánh Marcô kể
lại một ngày kia Chúa Giêsu đang giảng dạy cho một đám đông người
thì Đức Mẹ cà các môn đệ của Chúa đến. Có người trong đám đông đã
nói với Chúa rằng : “ Thưa Thầy có mẹ và anh em,
chị em của Thầy ở ngoài kia đang tìm Thầy.” ( x. Mc 3:32)
. Anh em tin lành đã căn cứ vào câu này để phủ nhận niềm tin Đức Mẹ
trọn đời đồng trinh của Công Giáo và Chính thống, vì họ cho rằng Mẹ
Maria đã sinh thêm con cái sau khi sinh Chúa Giêsu. Nghĩa là họ chỉ
tin Đức Mẹ đồng trinh cho đến khi sinh Chúa Giêsu mà thôi. Thật ra
cụm từ “ anh chị em “ trong ngữ cảnh (context) trên đây chỉ là anh
chị em theo nghĩa thiêng liêng (spiritual brotherhood, sisterhood)
mà thôi và đây là cách hiểu và giải thích Kinh Thánh của Công Giáo
và Chính Thống, khác với Tin lành.
Sau hết, về mặt quyền bình, các
giáo phái Tin lành đều không công nhận Đức Giáo Hoàng là Đại Diện
duy nhất của Chúa Kitô trong sứ mạng chăn dắt đoàn chiên của Người
trên trần thế.
Đó là những khác biệt căn bản
giữa Công Giáo và Tin Lành nói chung. Tuy nhiên, Giáo Hội vẫn hướng
về các anh em ly khai này và mong ước đạt được sự hiệp nhất với họ
qua nỗ lực đại kết (ecumenism) mà Giáo hội đã theo đuổi trong nhiều
năm qua.
Chúng ta tiếp tục cầu xin cho mục
đích hiệp nhất này giữa những người có chung niềm tin vào Chúa Kitô
nhưng đang không hiệp thông (communion) với Giáo Hội Công Giáo, là
Giáo Hội duy nhất Chúa Giêsu đã thiết lập trên nền tảng các Tông đồ.
Lm. Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
|
VỀ MỤC LỤC |
|
CHỨC LINH MỤC TRONG BUỔI BAN ĐẦU |
Tác phẩm Giáo Hội Cần Loại Linh Mục
Nào? (tiếp theo)
Lm Giuse Lê Công Đức chuyển ngữ từ bản tiếng Anh:
PRIESTHOOD IMPERILED, Tác giả:
Lm. BERNARD HARING, C.SS.R.
“Họ đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến Đền Thờ. Khi
làm lễ bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ.
Họ ca tụng Thiên Chúa, và được toàn dân thương mến” (Cv
2,46-47). Chúng ta có thể hình dung và hiểu bản văn ấy như
thế nào đây? Có lẽ, thoạt đầu, chúng ta có thể mường tượng một
linh mục nam giới, mới được truyền chức bởi một trong số các
Tông Đồ, cử hành Thánh Lễ Tạ Ơn cho - và cùng với - cộng đoàn
qui tụ. Điều chắc chắn là những cộng đoàn non trẻ này của các
Tông Đồ, được hình thành bởi một nhóm các gia đình, biết rất rõ
lời di chúc của Đức Giêsu: “Anh em hãy làm việc này để tưởng nhớ
Thầy!”
Những
‘cộng đoàn dùng bữa’ ở Giê-ru-sa-lem
Khi quây quần với nhau,
những cộng đoàn dùng bữa thuở phôi thai này giữ hồi ức
đức tin của họ sống động bằng cách chia sẻ với nhau đức tin, đức
cậy, đức ái, niềm vui. Họ chia sẻ chính con người họ và những gì
mà họ sở hữu, nhưng nhất là họ chia sẻ đức tin và tâm tình ca
ngợi của mình hướng về Thiên Chúa. Họ chẳng mấy cần đến cơ cấu
và tổ chức, mặc dù qua các Thư của Phao-lô và qua Công Vụ Tông
Đồ chúng ta biết rằng vấn đề cảm thức tôn ti trật tự đã thu hút
nhiều sự quan tâm. Nghĩa là, cần có người canh chừng để bảo đảm
mọi sự được làm cách đúng đắn và không một điều thiết yếu nào bị
bỏ sót. Suy đi ngẫm lại, chúng ta có thể kết luận rằng như vậy
cần có một người nào đó ‘chủ tọa’ những buổi qui tụ này, nhưng
tất cả mọi người đều chịu trách nhiệm về sự trưởng thành thiêng
liêng và về chứng tá của cộng đoàn.
Các cộng đoàn nhỏ ở Phi Châu
hay các cộng đoàn cơ bản ở Châu Mỹ La Tinh có thể giúp chúng ta
mừơng tượng về những cộng đoàn dùng bữa thuở phôi thai này. Tuy
nhiên, chúng ta không nên bỏ qua tầm quan trọng của sự kiện rằng
các cộng đoàn đức tin sơ khai rất khác nhau về một phương diện.
Trong những cộng đoàn quá non trẻ, người ta không bao giờ bị mất
Thánh Lễ do thiếu vắng một linh mục được truyền chức. Cả Công Vụ
Tông Đồ và các Thư Phao-lô đều sử dụng thuật ngữ oikia, nghĩa là
Giáo Hội tại gia. Rất nhiều những Giáo Hội tại gia này được nhận
ra qua những cái tên phụ nữ. Chẳng hạn, chúng ta đọc thấy “gia
đình của Stephanas” (1Cr 16,15), và một đôi vợ chồng “Prisca
và Aquila ...
với toàn gia đình họ” (1Cr 16,19). Trong Thư gửi tín
hữu Rôma, Thánh Phao-lô nồng nhiệt chào “Phoebe, một phó tế
của Giáo Hội ở Cenchreae” (Rm 16,7), và ở cuối thư chúng ta
gặp thấy một danh sách dài những đàn ông và phụ nữ dấn thân phục
vụ cho Tin Mừng và cho các cộng đoàn đức tin bé nhỏ hay các Giáo
Hội tại gia của họ.
Không phải tôi là người duy
nhất nghĩ rằng các phụ nữ đôi khi đã chịu trách nhiệm toàn bộ
buổi qui tụ của cộng đoàn đức tin, việc ca ngợi, tưởng niệm tạ
ơn và huấn giáo tại nhà họ. Lúc ấy họ đã không – và không thể –
lường trước được những vấn đề của chúng ta hôm nay, họ càng
không hiểu được những cân nhắc chi li của chúng ta liên quan đến
“tính hiệu lực của các thứ bậc”, nhưng chắc chắn họ có quan tâm
đến lòng trung thành đối với Đức Kitô và – một mức nào đó – quan
tâm đến tính kỷ luật của các nghi lễ.
Việc suy tư về những Giáo
Hội tại gia nhỏ bé này phải thúc đẩy chúng ta hăng hái quay trở
về và nắm bắt lại sự tươi trẻ của buổi ban đầu Giáo Hội và phải
giúp chúng ta biết hình dung ra những viễn tượng đầy sáng tạo và
những khả năng khả thi cho thời đại chúng ta.
Tính
phong phú và đa dạng của các đặc sủng
Cả Công Vụ Tông Đồ lẫn các
Thư Phao-lô đều giới thiệu cho chúng ta những ý tưởng sống động
liên quan đến tính phong phú và đa dạng của các đặc sủng và các
sứ vụ trong Kitô giáo thuở sơ khai. Một điều hiển nhiên nhất, đó
là loại chức linh mục mà sau này Công Đồng Tridentinô phát triển
không hề có gốc rễ nào trong cảm nghiệm Thánh Kinh này. Cũng
không thấy có hướng chỉ nào về chiều hướng ấy trong cách hiểu và
cách thể hiện cử hành thời sơ khai. Ý niệm về nhóm “một người”
(“one-person” team) vốn không hề được ai tưởng nghĩ tới – tôi
muốn nói đến ý niệm về một cá nhân có năng lực đảm nhận hết
mọi sự cho mọi người! Thật vậy, nhóm “một người” tự thân nó là
phản Tin Mừng. Trong khi các mục tử tốt lành ngày nay phải
săn sóc một số người và một số nhóm chuyên biệt theo những khả
năng, đặc sủng, và mức độ sẵn sàng riêng của họ, thì chính toàn
thể cộng đoàn đảm nhận trách nhiệm quan tâm tới việc giáo
dục, cử hành, săn sóc các bệnh nhân, những người già, những
người neo đơn.
Thánh Phao-lô nói: “Vậy anh
em, anh em là thân thể Đức Kitô, và mỗi người là một bộ phận.
Trong Hội Thánh, Thiên Chúa đã đặt một số người, thứ nhất là các
Tông Đồ, thứ hai là các ngôn sứ, thứ ba là các thầy dạy, rồi đến
những người được ơn làm phép lạ, được những đặc sủng để chữa
bệnh, để giúp đỡ người khác, để quản trị, để nói các thứ tiếng
lạ” (1Cr 12,27-30). Trong ánh sáng này, chúng ta được thúc
đẩy để nhận ra, biện phân và – trong sự tự do đầy sáng tạo và
trong ý thức trách nhiệm – chúng ta sẽ ngày càng phát huy những
năng lực khác biệt và đa dạng ấy trong toàn thể Giáo Hội hôm
nay.
Các
trưởng lão của Giáo Hội sơ khai và các linh mục hôm nay
Theo từ nguyên, từ hiện đại “linh mục” (priest, prêtre,
presbitero, priester) có gốc ở từ Hi Lạp “presbyteroi”, nghĩa là
“những công dân lão thành”. Trong cộng đoàn Do Thái giáo truyền
thống, có một vị trí dành cho các công dân lão thành. Sự kiện
sống lâu không phải là yếu tố có tầm quyết định lắm; đúng hơn,
điều được người ta kỳ vọng ở đây là sự khôn ngoan và nhiệt tình
phục vụ. Trong truyền thống Do Thái giáo, người ta thấy một nhóm
trưởng lão làm việc sát cánh với các phẩm trật tư tế và Lê-vi
khác nhau. Không bao giờ có ai nghĩ đến chuyện gạt một trưởng
lão ra khỏi nhóm – vì tự bản chất, nhóm luôn luôn là một cơ chế
có tính tập đoàn. Cùng với nhau, các trưởng lão đưa ra những lời
khuyên và những hướng dẫn cho cộng đoàn trong việc hợp tác với
các tư tế.
Cũng thế, có một sự kiện hiển nhiên rằng trong cộng đoàn Kitô
giáo sơ khai, chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi truyền thống Do Thái
giáo, không một trưởng lão đơn độc nào đã từng đứng ra cai quản
cách đơn phương. Một cách thiết yếu, công việc cai quản là công
việc có tính cộng tác, chia sẻ sự khôn ngoan và quyền bính, mang
dấu ấn bởi một tinh thần quảng đại và nhiệt tâm phục vụ.
Các Thư Mục Vụ cho chúng ta một thoáng nhìn về sự phát triển
tính tổ chức của Giáo Hội vào khoảng năm 100. Một nhóm tương đối
nhỏ các trưởng lão (presbyteroi) thi hành một thứ chức vụ chủ
tọa có tính tập đoàn trong hội đồng, nhằm phục vụ cho thiện
ích của cộng đoàn. Một số trong họ cũng được cộng đoàn ủy
thác sứ vụ giảng thuyết và giáo huấn. Đành rằng những công việc
này được xem như là những công việc đầy vinh dự, nhưng những con
người thi hành các công việc ấy không bao giờ được coi là bề
trên của người ta , cũng không được ban tặng bất cứ tước hiệu
hay sự phân biệt nào theo chiều hướng đẩy họ lên cao hơn và tách
biệt họ khỏi cộng đoàn. “Những kỳ mục thi hành chức vụ chủ tọa
cách tốt đẹp, thì đáng được đãi ngộ gấp đôi, nhất là những người
vất vả phục vụ Lời Chúa và giảng dạy” (1Tm 5,17).
Như vậy, rõ ràng là không thể tưởng tượng việc tạo lập và phát
triển các cộng đoàn Kitô giáo mà không có một tập đoàn các
trưởng lão được thiết định, như chúng ta thấy trong các chỉ thị
mà Thánh Phao-lô đề ra cho Titô: “Tôi đã để anh ở lại đảo Crêta,
chính là để anh hoàn thành công việc tổ chức, và đặt những kỳ
mục trong mỗi thành, như tôi đã truyền cho anh ...” (Tt 1,5.
Ở giai đoạn này trong chặng đường phát triển của Giáo Hội, các
Thư Mục Vụ cũng đề cập đến sự tuyển chọn các giám mục. Mặc dù
những qui tắc hay những tiêu chuẩn cụ thể cho việc lựa chọn các
giám mục và các phó tế vốn đã có sẵn rồi, song các qui tắc ấy
luôn luôn được hiểu và được triển khai trong một bộ khung có
tính tập đoàn rộng lớn hơn. Hơn nữa, để phục vụ cho sự hòa thuận
và cho việc làm chứng, trật tự cũng được nhấn mạnh.
Mối quan tâm sâu xa và sự săn sóc ân cần đối với các bệnh nhân
là mối ưu tiên hàng đầu của những cộng đoàn Kitôhữu bé nhỏ này,
như được ghi nhận rất rõ trong Thư của Thánh Gia-cô-bê: “Ai
trong anh em đau yếu ư? Người ấy hãy mời các kỳ nục của Hội
Thánh đến; họ sẽ cầu nguyện cho người ấy, sau khi xức dầu nhân
danh Chúa” (Gc 5,14). Nói chung, bản văn này được hiểu trong
bối cảnh một tập đoàn tính trong đó nghi thức xức dầu được cử
hành bởi các trưởng lão. Đây đích thực là một kinh nghiệm phụng
vụ không có những áo mão cân đai của lễ nghi nặng nề.
Trên khắp thế giới ngày nay, người ta đang tha thiết mong muốn
giới cầm quyền trong Giáo Hội ủy trao việc trao ban Bí Tích Xức
Dầu Bệnh Nhân cho các y tá, bác sĩ, các hiệp hội mục vụ giáo dân
hay các nhóm người cao tuổi có năng lực – trong tính cách tập
đoàn, họ có thể thăm viếng và săn sóc các bệnh nhân và những
người già cả. Những người đã về hưu, cả nam lẫn nữ, là một kho
tàng dồi dào chưa được khai thác để đảm nhận những sứ vụ khác
nhau trong Giáo Hội. Nhiều người trong số này không những đã
nhận được sự đào tạo về thần học, mục vụ và lâm sàng, mà còn có
một căn bản linh đạo sâu sắc ngang bằng hoặc hơn cả một số linh
mục hay giám mục. Thật vô lý khi rả rích than thở rằng Giáo Hội
thiếu ơn gọi linh mục trong khi mà Chúa Quan Phòng cung cấp cho
chúng ta dư dật những con người vừa có khả năng vừa giàu nhiệt
tâm ngay trước mắt chúng ta! Những sứ giả đầy tiềm năng này của
Thiên Chúa cung cấp cho chúng ta không chỉ những cơ hội kịp thời
để bổ sung cho Giáo Hội và giải phóng Giáo Hội khỏi những khuôn
khổ cứng nhắc và não trạng nệ nghi lễ cũ rích, mà còn có thể
thăng tiến tính tập đoàn ở mọi cấp độ.
còn tiếp
|
VỀ MỤC LỤC |
|
LƯƠNG TÂM THỜI ĐẠI |
‘Thành thật xác tín’ phải chăng là tiêu chuẩn của lương tâm? Cứ
theo ‘lương tâm’ mà sống thì sẽ ra sao? Xin cống hiến bạn đọc
bản lược dịch cuộc phỏng vấn LM Vincent Twomey.
Nguyễn Kim Ngân
thực hiện
Maynooth, Ái Nhĩ Lan, 25 tháng 6 năm 2007 (Zenith.org)
‘Lương tâm,’ theo lối hiểu thời đại hôm nay, đã bị giản lược
thành một thứ động cơ mang tính chất bào chữa, không thể mắc sai
lầm, và điều người ta cho là đúng thì chắc chắn sẽ phải đúng. Đó
là ý kiến của cha Vinh Sơn Twomey, một cựu giáo sư thần học luân
lý tại Đại Học Giáo Hoàng St. Patrick, thành phố Maynooth, là
tác giả cuốn sách “Giáo Hoàng Bênêđichtô XVI: Lương Tâm của Thời
Đại” vừa được phát hành do Ignatius Press xuất bản. Trong cuộc
phỏng vấn dành cho ZENITH, ngài luận bàn về vai trò của Đức
đưong kim Giáo Hoàng trong việc vạch ra nẻo đường dẫn tới một
hiểu biết sâu xa hơn về lương tâm.
Hỏi (H): Được biết cha đã trình luận án Tiến Sĩ dưới sự hướng
dẫn của LM Giuse Ratzinger (nay là ĐGH Bênêđichtô XVI). Xin cha
cho biết kinh nghiệm ấy đã chuẩn bị cho cha một cách đặc biệt
như thế nào để viết ra tác phẩm mới này?
Đáp (Đ): Mùa xuân năm 1971, tôi gia nhập nhóm ứng sinh tiến sĩ
của Giáo Sư Ratzinger. Dưới sự hướng dẫn của ngài, tôi đã nghiên
cứu và hoàn thành luận án tiến sĩ vào năm 1979.
Kể từ năm 1977 khi được chọn làm Tổng Giám Mục Munich, hằng năm,
ngài vẫn gặp gỡ các sinh viên tiến sĩ haysau tiến sĩ trong dịp
hội luận cuối tuần. Đây là điều ngài vẫn tiếp tục làm cho dù đã
trở thành đương kim Giáo Hoàng.
Thiết tưởng, sự quen biết giữa ngài và tôi là một điều rất riêng
tư, và phải nói là có một không hai. Ngồi học dưới chân ngài,
nghiền ngẫm các tác phẩm của ngài, và tham dự các buổi bàn luận
trong suốt 36 năm trời đã cho tôi một cảm nghiệm sâu xa về tư
tưởng của ngài. Chính tư tưởng này đã ảnh hưởng sâu đậm đến quan
niệm thần học của tôi.
H: Xin cha cho biết đâu là những nét đặc trưng tiêu biểu nhất
trong các tác phẩm của Giuse Ratzinger, nay là ĐGH Bênêđichtô
XVI?
Đ: Những nét đặc trưng tiêu biểu nhất phải nói là nét tạo độc
đáo và phân minh, lối hành văn tuyệt vời thật khó mà chuyển dịch
sang một ngôn ngữ khác. Ratzinger vượt xa tầm vóc của một học
giả dù là ở cấp thế giới. Ngài là một nhà tư tưởng độc đáo.
Ngài có xúc giác của Midas, theo nghiã là, bất cứ cái gì ngài
chạm đến đều hoá thành vàng hết. Nói cách khác, bất cứ đề tài
nào ngài khảo sát thì đều có một cái gì mới mẻ và phấn khởi để
nói, dù đó là vấn đề tín lý của Hội Thánh, hay về một bức tranh
khảm trong ngôi giáo đường cổ tại Rôma, hoặc là đề tài về khoa
đạo đức sinh học. Lối viết của ngài khúc triết phân minh một
cách lạ lùng. Về cách hành văn, thì Hồng Y Gioakim Meisner thuộc
Giáo Phận Cologne cho rằng Ratzinger chính là Mozart của thần
học, bởi vì ngài viết ra các tuyệt phẩm một cách thật dễ dàng.
Còn về nội dung, thì chính Ratzinger đã công nhận rằng: “Thiên
Chúa mới chính là trọng điểm mọi nỗ lực của tôi.”
Khó mà tìm thấy một khía cạnh thần học nào mà ngài chưa khảo sát
tường tận, dù đó là tín lý, luân lý, chính trị, đạo đức sinh
học, phụng vụ, chú giái, hay âm nhạc, nghệ thuật. Và bất cứ điều
gì ngài khảo sát, có thể nói là ngài đều đứng từ quan điểm của
Thiên Chúa, nghĩa là ngài cố gắng khám phá ra nguồn ánh sáng mạc
khải nào—Thánh Kinh và Thánh Truyền—đã dọi chiếu vào vấn đề đang
được bàn cãi.
Mặt khác, suy tư thần học của ngài khởi phát vững chắc từ kinh
nghiệm hiện nay : đó là các vấn nạn cũng như các vấn đề hiện
sinh đang được đặt ra cho các tư tưởng gia hiện nay hay sau này,
hoặc của thời hiện đại, và là những biến cố thời sự đang làm nên
lịch sử.
Tuy nhiên, do trách nhiệm mục vụ và quản trị của một Tổng Giám
Mục và Hồng Y Tổng Trưởng Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin, ngài không
đủ thời giờ để viết theo thể thức khai triển, do đó, phần lớn
tác phẩm của ngài là những đúc kết từ nhiều nguồn vụn vặt. Thế
nhưng, đó lại là những vụn vặt, những đoản khúc tuyệt vời! Chúng
có khả năng chuyển tải cảm nhận của ngài và trở thành chân lý có
sức đánh động tâm trí người đọc—và đã thực sự xoay chuyển được
rất nhiều trái tim chai đá.
H: Cha mô tả Đức Bênêđichtô XVI là không ngại sai phạm, và
còn “có can đảm trở nên bất toàn.” Cha có thể khai triển thêm
được không?
Đ: Có can đảm trở nên bất toàn thì vượt xa hơn là ngại sai phạm,
cho dù nó có thể bao hàm ý đó. Căn bản thái độ sống và nền thần
học của ngài chính là thế này: Chỉ duy một mình Thiên Chúa mới
toàn hảo, còn con người thì bất toàn. Thái độ duy hoàn hảo thì
đối nghịch với con người, nhất là trong lãnh vực chính trị. Mọi
ý thức hệ chính trị đều nhằm tạo ra một thế giới hoàn hảo, một
xã hội toàn hảo, nhưng rốt cục lại đem hoả ngục đến cho địa cầu.
Đó là chủ đề thông thường khi ngài viết về đời sống chính trị,
nhưng cũng có thể áp dụng cho vấn đề làm thần học của con người.
Đây luôn là công trình bị bỏ dở, luôn có khả năng tiến bộ hơn
nữa, đào sâu hơn nữa, và cần tu chính hơn nữa.
Ta không thể hiểu biết mọi sự, càng ít hiểu biết về Thiên Chúa
và dự định của Ngài dành cho con người. Tôi đã mô tả các tác
phẩm của ngài là “vụn vặt.” Hầu hết tác phẩm của ngài đều dở
dang—y như cuốn sách “Dẫn vào Kitô Giáo” và cuốn mới đây nhất là
“Đức Giêsu thành Nazaret.” Thế nhưng ngài vẫn có can đảm xuất
bản nó trong tình trạng dở dang ấy.
Chính thái độ này đã giúp cho Giuse Ratzinger có được niềm bình
an và thanh thoát nội tâm mà hiện nay cả thế giới đang cảm nhận
được từ Đức Bênêđichtô XVI. Nhưng đó cũng có thể là bí quyết của
tính khôi hài và hóm hỉnh nhẹ nhàng nơi ngài.
H: Cha đã đề cập đến sự bóp méo của từ “lương tâm.” Sự bóp
méo này như thế nào và nó ảnh hưởng đến Hội Thánh ra sao?
Đ: Tất cả khởi sự từ khái niệm truyền thống về một lương tâm sai
lạc mọc lên từ lớp bụi mù của thời kỳ hậu Humanae Vitae (tức
Thông Điệp Sự Sống Con Người của ĐGH Phaolô VI), đã được giải
thích lạc điệu là: theo đại đa số, làm gì thì làm, nếu mình
thành thật xác tín điều mình làm là đúng, thì nó phải đúng.
Thành thật đã trở nên tiêu chuẩn của luân lý, và cứ theo kết
luận hợp lý, thì không thể nào lên án một Hitler hay một Stalin
được, bởi vì chính họ cũng hành xử theo “nhận định sáng suốt của
mình,” nghĩa là theo xác tín thành thật của họ.
Theo truyền thống, việc nhấn mạnh đến tính ưu tiên phải theo
lương tâm, cho dù là sai lạc, đã đưa đến khái niệm “lương tâm
bất khả ngộ.” Có nghĩa là lương tâm không thể sai lầm được: điều
bạn thành thật cho là đúng, thì tất nhiên phải đúng.
Lối hiểu này đã giản lược lương tâm trở thành một thứ động cơ
mang tính bào chữa. Khái niệm này nhận được sự hỗ trợ, nếu không
bảo là cảm hứng, từ chủ nghĩa duy tương đối hiện đang nổi bật
trong thời kỳ duy tân. Ngày nay, đôi khi người ta cho rằng có
thể chấp nhận bất kỳ nguyên tắc luân lý nào, miễn là thấy phù
hợp nhất với mình là được. Đó là thành quả của một chọn lựa theo
lương tâm, sau khi đã cân nhắc mọi lựa chọn.
Lý thuyết này xem ra thật hấp dẫn. Nhưng đó có nghĩa là mỗi
người đều có thể xác định cho mình điều gì đúng, điều gì sai; đó
chính là cơn cám dỗ của Adong và Eva trong vườn điạ đàng. Đôi
khi mang danh xưng là “chủ nghĩa công giáo đánh bài,” có nghĩa
là tuyển chọn và rút ra điều phù hợp với mình. Luân lý bị giản
lược trở thành một ưu tiên cá nhân ngoại lý tối hậu. Quan điểm
về lương tâm như thế đã tạo ra nhiều tai hại cho Hội Thánh và
đời sống Kitô giáo.
H: Cha mô tả Đức Bênêđichtô XVI như là hướng dẫn viên của
lương tâm thời đại. Làm sao cha có thể xác tín như thế?
Đ: Trước hết, với tư cách là thần học gia và Tổng Trưởng Thánh
Bộ Giáo Lý Đức Tin, Ratzinger đã trở thành tiếng nói của lương
tâm Hội Thánh khi xác quyết về chân lý khách quan vốn đã bị chối
bỏ, trên lý thuyết hay trong thực hành.
Điều gây kinh ngạc là các tư tưởng gia trần tục, những kẻ ở
ngoài Hội Thánh, lại sớm nhận ra điều này hơn là con cái trong
nhà. Tỉ như Viện Hàn Lâm Pháp đã vinh danh ngài như là người
xứng đáng kế vị cho Anrê Sacharov, là nhà vật lý nguyên tử bất
đồng trong thời kỳ độc tài Sôviết.
Họ đã công nhận ngài là một tư tưởng gia can đảm, có khả năng
đóng vai bất đồng dưới thời đại “độc tài của chủ nghĩa duy tương
đối” vốn đang hoành hành khắp Âu Châu và Mỹ Châu suốt nửa thế kỷ
qua.
Tiếp đến, dù lương tâm không phải là trọng điểm các tác phẩm của
ngài, nhưng ngài đã có nhiều đóng góp trong việc chỉnh đốn lối
hiểu biết sai lạc về lương tâm nói trên, mà tôi đã dành nguyên
một chương sách để bàn đến.
H: Kinh nghiệm lớn lên trong thời Phát Xít Đức đã giúp chuẩn
bị cho Ratzinger như thế nào để bước lên ngôi Giáo Hoàng? Đâu là
bài học ngài đã thuộc thời đó và nay vẫn còn được ngài áp dụng?
Đ: Để trả lời cho câu hỏi này, ta cần đọc đoạn bình luận của
ngài qua cuộc phỏng vấn năm 1999: “ Kinh nghiệm sống dưới thời
Đức Quốc Xã đã cho tôi có thái độ dè dặt đối với các ý thức hệ
đương quyền.” Ý thức hệ nói đây hiển nhiên cũng bao hàm những gì
được tìm thấy trong lòng Hội Thánh, vốn mang tính thời trang, do
bởi nó phản ảnh những trào lưu ý thức hệ trong xã hội hiện tại.
Kinh nghiệm sống dưới một ý thức hệ chính trị và lề lối cầm
quyền của nó đã làm cho ngài nhậy bén trước nhu cầu thực hành
trách nhiệm luân lý nơi mỗi con người, nhất là nơi những ai nắm
chức vụ trong Hội Thánh cũng như trong quốc gia. Trách nhiệm
luân lý chính là một từ ngữ khác để chỉ lương tâm.
Sự hoài nghi của ngài về các hội đồng giám mục là do kinh nghiệm
có được về hội đồng giám mục Đức Quốc, xét như một tập thể, đã
không ăn khớp với chứng từ được một vài cá nhân giám mục nêu
lên, tỉ như ĐGM Clemens von Galen, Giáo phận Muenster và ĐTGM
Micae Faulhaber, Giáo phận Munich. Ngài kêu mời tất cả mọi giám
mục hãy nêu lên chứng tá cá nhân của mình, chứ đừng chờ đợi nơi
tập thể hội đồng giám mục đóng dấu vào văn kiện đã được một ủy
ban nặc danh nào đó soạn thảo ra.
Cũng thế, nền thần học của ngài đã được đánh dấu bằng sự kiếm
tìm chân lý, một cách tư riêng, dưới sự thúc bách của lương tâm.
Ngài đã thực hành trách nhiệm luân lý cá nhân của mình suốt cả
đời, cho dù phải mang tiếng “rottweiler” (chó dữ) hay “thẩm tra
viên dữ dằn”—thậm chí còn bị một anh nhà báo gọi là “kẻ thù của
nhân loại.”
Nói lên sự thật bằng tình yêu có nghĩa là rất thường phải đi
ngược lại thói thời thượng để rồi phải chấp nhận tư thế “không
được quần chúng ưa chuộng.”
Hiện tại, với tư cách là đương kim giáo hoàng, Đức Bênêđichtô
XVI vẫn tiếp tục thực hành trách nhiệm luân lý của mình, ít nhất
là trong cách ngài tự viết ra hầu hết các bài diễn văn của mình,
những bài có sức đi thấu vào trái tim người nghe, bởi vì những
lời đó phát xuất từ trái tim của ngài, chứ không phải từ một cái
khung làm sẵn.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
PHẢI CỨNG RẮN NHƯNG KHÔNG THỐNG TRỊ |
Thật khó để hiểu những khác
biệt giữa sự cứng rắn và sự thống trị. Trẻ con cần cứng rắn. Nó
đòi hỏi sự giới hạn và nếu thiếu, chúng ta sẽ cảm thấy không
thoải mái. Nếu không có giới hạn, trẻ con cứ tiếp tục tiến tới
bao lâu nó có thể được. Kết quả thông thường là hạnh kiểm của nó
sẽ đi đến chỗ quá trớn và bấy giờ cơn thịnh nộ sẽ rơi xuống. Một
cảnh không mấy tốt đẹp đi theo sau và sự an bình không còn.
Khi người mẹ lái xe, Loan và
Liễu, hai đứa trẻ sinh đôi, 5 tuổi, chơi cách vui vẻ ở đằng sau
xe. Chúng nó mỗi lúc càng thêm ồn ào. Bà mẹ bảo chúng yên lặng
nhiều lần. Chúng ngưng được một phút rồi lại tiếp tục đùa giỡn
càng thêm náo động hơn. Thình lình bé Loan xô bé Liễu ngã nhào
vào vai của bà mẹ. Bà mẹ hét lên và dừng xe lại bên lề đường. Cả
hai đứa trẻ xem ra sợ hãi. Bà mẹ phết cho mỗi đứa một phát.
Chúng hết sức ngỡ ngàng vì bà mẹ rất ít khi dùng vũ lực.
Bà mẹ rất hiền lành và chịu
đựng nhưng cuối cùng thì không chịu nổi nữa. Nếu chúng ta cho
phép con trẻ phá luật một lần và rồi leo thang lần nữa, chúng ta
dạy cho chúng chỉ để ý đến chúng ta khi chúng ta nổi giận.
Chiếc xe không phải là chỗ để
chúng chơi những trò chơi như thế bất cứ lúc nào. Người mẹ có
thể thiết lập trật tự trong xe mà không cần phải dùng vũ lực. Bà
có thể cứng rắn mà không thống trị. Làm cách nào có thể thực
hiện được? Bí quyết nằm ở chỗ biết cách cứng rắn. Thống trị có
nghĩa là chúng ta cố gắng áp đặt ý muốn chúng ta trên con trẻ. Ở
đây, chúng ta chỉ cần cắt nghĩa cho nó điều nó nên làm. Nếu bà
mẹ cố gắng áp đặt ý muốn của bà trên hai đứa bé, bà sẽ chỉ thành
công trong việc khêu gợi sự nổi loạn của chúng. Trái lại, cứng
rắn diễn tả hành động riêng của ta. Bà mẹ luôn có thể quyết định
điều bà muốn làm và sẽ thực hiện. Bà mẹ có thể không lái khi con
cái không nghe lời. Mỗi lần chúng phá luật, bà ngừng xe lại. Bà
có thể nói với chúng rằng: “Mẹ sẽ không lái, bao lâu các con còn
quậy phá!” Bấy giờ bà nên ngồi yên lặng cho tới khi chúng tuân
giữ kỷ luật. Không cần cát nghĩa dài dòng. Người mẹ có uy thế
của mình và phải cứng rắn trong quyết định.
Cứng rắn mà không thống trị
đòi hỏi sự kính trọng hổ tương. Chúng ta phải kính trọng quyền
quyết định muốn làm gì của đứa trẻ, và sự kính trọng dành cho
chúng ta có được là nhờ sự cứng rắn không nhân từ đối với một
đứa trẻ không nghe lời.
Cu Nguyên, 7 tuổi, đứa giữa,
là một đứa trẻ rất kén ăn. Trong lúc người bố dọn cho nó một
phần thịt bò nấu nhừ, món mà gia đình thích ăn nhất, nó nhảy
xuống ghế và la lên: “Con không thích món thịt đó.” Bà mẹ năn
nỉ: “Cưng ơi! Con ăn thử đi. Mẹ biết con không thích những món
thịt như vậy.” Cậu bé hét lên: “Con không ăn nó.” “Thôi được, mẹ
làm cho con một miếng bánh mì xúc xích.” Trong lúc bà mẹ chuẩn
bị thức ăn cho nó, nó lấy đồ ra chơi. Ba nó và những đứa trẻ
khác ăn xong, rời khỏi bàn ăn. Mẹ nó và nó ngồi ăn, nói chuyện
về ngày học của nó.
Bé Nguyên xếp đặt mọi chuyện
để mẹ nó không những cho nó một cái gì đặc biệt nhưng còn cho nó
cả sự chú ý nguyên vẹn không chia xẻ. Nó bắt mẹ nó hoàn toàn
phục vụ cho nó.
Cậu bé có quyền khước từ
không ăn món thịt bò đó và người mẹ phải kính trọng quyền của
nó. Nhưng trong ước muốn trở nên một bà mẹ tốt, bà đã đóng vai
trò của kẻ nô lệ. Bà mẹ và người cha nên cứng rắn về điều họ sẽ
làm và để cho cậu bé lo lắng cho chính nó. Chúng ta hãy xem cái
gì sẽ xảy ra nếu bố mẹ cứng rắn.
Bé Nguyên tuyên bố nó không
thích món thịt bò đó. Ông bố đáp lại: “Được rồi, con ơi. Con
không phải ăn nó!” Ông tiếp tục phục vụ mọi người ngoại trừ cu
bé. Cậu bé sẽ hỏi: “Ba không lấy cho con một món gì sao?” “Tối
nay chúng ta chỉ có một món đó. Nếu con không muốn ăn, con có
thể ra ngoài coi Tivi.” Nó sẽ hét lên: “Nhưng con không thích
món thịt đó.” Bà mẹ lập lại: “Mẹ không làm gì khác ngoài món
đó.” Đến lúc đó, cả hai bố mẹ nên cứng rắn, tránh sự đấu khẩu
với nó. Họ nên làm ngơ trước những lời phê bình hay đòi hỏi của
cậu bé và thưởng thức bữa cơm tối của họ. Cậu bé sẽ rời khỏi bàn
cách giận dữ. Một lúc sau, cậu bé xuống bếp tìm sữa và bánh qui.
“Con ơi, mẹ xin lỗi vì mẹ không có mở quán ăn. Mẹ chỉ phục vụ
vào những giờ ăn.” Cậu bé không được cho gì để ăn cho đến bữa ăn
kế tiếp cho dẫu nó có càm ràm. Cả hai bố mẹ phải cứng rắn trong
tư thế đó. Không bao lâu cậu bé sẽ hòa nhập với gia đình để cùng
ăn món được phục vụ.
Lm. Lê Văn Quảng, tiến sĩ
Tâm lý
|
VỀ MỤC LỤC |
|
CÓ ĐẠO ,
SỐNG ĐẠO |
Tuần trước đi ngang qua một khu xóm, tôi nghe bài hát có lời ca
: Lạy Chúa con là người ngoại đạo, nhưng con tin có Chúa ngự
trên cao.
Tôi tự hỏi : Tại sao là người ngoại đạo mà lại tin là có Chúa
ngự trên cao ? Đã tin có Chúa ngự trên cao là có đạo rồi. Nếu
tin Chúa ngự trên cao mà vẫn là ngoại đạo thì chỉ có nghĩa là có
đạo mà không vào đạo đó thôi.
Tôi đã gặp nhiều người có đạo mà không sống đạo. Và tôi cũng đã
gặp nhiều người sống đạo mà không có đạo.
Nói về đạo và sống đạo, tôi thấy trong Phúc Aâm có nhiều câu
chuyện tường thuật về những người ngoại đạo nhưng lòng họ thì
lại có đạo.
- Khi Chúa Giêsu vác thập giá lên Núi Sọ, đường dài, sức nặng
của thập giá, kiệt sức vì bị hành hạ, Chúa Giêsu gục ngã ba lần.
Kẻ vác đỡ thập giá cho Chúa là ông Simon người xứ Kyrênê, một
người ngoại đạo.
- Khi Chúa Giêsu đến Caphanaum, Viên Bách Quản, một người ngoại
đạo đến gặp và van xin : Thưa Ngài, tên hầu của tôi nằm liệt bất
toại ở nhà đau đớn lắm. Chúa nói : Ta phải đến chữa nó. Viên
Bách Quản thưa lại: Thưa Ngài, tôi không đáng được Ngài vào nhà
tôi, nhưng Ngài hãy phán một lời, đứa hầu nhà tôi sẽ khỏi. Nghe
vậy Chúa Giêsu ngạc nhiên và nói với các kẻ theo Ngài : Quả
thật Ta bảo các ngươi, Ta chưa hề gặp được lòng tin lớn như
thế nơi một người nào trong Israel.
- Một lần khác Chúa Giêsu vào một làng kia, có mười người phong
hủi đến gặp Ngài. Từ đàng xa họ đã lên tiếng thưa : Lạy Thầy
Giêsu xin thương xót chúng tôi. Thấy vậy, Chúa bảo họ : Hãy đi
trình diện với hàng Tư Tế. Và xảy ra là khi họ đi thì họ được
lành sạch. Một người trong bọn họ thấy mình được lành liền quay
lại lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa và sấp mặt dưới chân Ngài
mà tạ ơn. Người ấy là một người Samari, người ngoại đạo. Chúa
Giêsu cất tiếng nói : Không phải là cả mười người được sạch cả
sao , chín người kia đâu không thấy họ quay trở lại mà chúc
vinh Thiên Chúa , trừ có người ngoại này?
- Bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, Chúa Giêsu kể dụ ngôn : một
người ở Giêrusalem xuống Giêricô, giữa đường bị bọn cướp trấn
lột, đánh cho nhừ tử, rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống nửa
chết. Thầy Tư Tế đi qua, thấy vậy liền lãng tránh. Thầy Lêvi đi
tới cũng chẳng ngó ngàng, bỏ mặc nạn nhân. Một người ngoại đạo
Samari đi ngang, thấy người lâm nạn, chạnh lòng thương liền băng
bó, đặt lên lưng lừa đưa về quán trọ, nhờ chủ quán săn sóc rồi
trả hết mọi phí tổn.
Thầy Tư Tế, Thầy Lêvi chẳng những là người trong đạo mà còn hơn
nữa họ còn là kẻ rao giảng về đạo. Họ ở trong đạo nhưng không
sống đạo. Người Samari,kẻ sống đạo lại là người không có đạo.
Như thế kẻ vác đỡ thập giá cho Chúa trên con đường dài với những
bước chân xiêu té cuối đời là người ngoại đạo. Kẻ tỏ lòng biết
ơn khi được Chúa chữa lành là người ngoại đạo. Ke ûthể hiện lòng
bác ái xót thương không phải là Tư Tế, là Lêvi, các chức sắc
trong đạo mà là người Samari, người ngoại đạo.
Khi băn khoăn tự hỏi : thế nào là người bên ngoài, thế nào là
người bên trong ? Thế nào là có đạo, thế nào là ngoại đạo ? Tôi
thấy trong Phúc Aâm có lần Chúa Giêsu nói : Ta bảo các ngươi,
nhiều kẻ từ Phương Đông, Phương Tây mà đến và được dự tiệc
với Abraham, Isaac và Giacop trong Nước Trời, còn chính con dân
trong nước lại sẽ bị đuổi ra ngoài tối tăm.
Vậy thì có một khoảng cách rất lớn giữa hiểu biết về đạo và sống
đạo. Đạo thì mênh mông vô bờ bến như đất trời, làm sao có thể
đem đạo vào một định nghĩa chật hẹp được ? làm sao có thể nhốt
đạo vào nhà thờ ? làm sao vẽ chân dung đạo bằng tờ giấy rửa tội
được ? bởi lẽ “Đạo khả đạo phi thường Đạo” ( Lão Tử)
Hiểu biết về đạo được thể hiện qua đời sống đạo. Có người nói
rằng : tôi tin đạo chứ tôi không tin người có đạo. Đạo thì tốt,
nhưng nhiều người có đạo lại xấu. Có nhiều người ngoại đạo lại
tốt hơn người có đạo. Họ nói như thế vì họ thấy nhiều người có
đạo mà lại không sống đạo của mình. Quả thật, con đường dài nhất
là con đường từ cái đầu đến bàn tay. Giữa suy nghĩ, lời nói và
việc làm, giữa hiểu biết và cuộc sống có một khoảng cách thật
lớn.
Đức Khổng Tử đã nói chí lý : Đạo bất viễn nhân, nhân chi vi đạo
nhi viễn nhân, bất khả dĩ vi đạo. Nghĩa là : đạo không xa cái
bản tính của người ta, nếu theo đạo để cho xa cái bản tính của
người ta thì không phải là đạo.
Đạo của Chúa Giêsu là Đạo Thiên Chúa làm người, rất gần gũi với
con người. Vì con người là con đường của Giáo hội ( ĐGH Phaolô
II). Người Đông Phương chúng ta lấy chữ nhân mà định nghĩa con
người : nhân là người, nhân là nhân ái là lòng thương người. Ai
không biết thương người khác là kẻ không xứng danh là người.
Nhân bản và nhân ái có quan hệ mật thiết với nhau.
Qua dụ ngôn Chúa Giêsu kể, tôi thấy rằng, cái khác biệt sâu xa
giữa Kitô giáo và Do Thái giáo đó là : một bên là đạo của tình
yêu, một bên là đạo của lề luật. Tư Tế và Lêvi tượng trưng cho
tinh thần vị luật của Cựu Ước. Người Samari tượng trưng cho
những người sống tình yêu. Những người tốt thì sống theo sự đòi
hỏi của lương tâm hơn là của lề luật thành văn. Thấy người bị
nạn, người Samari tốt lành đã động lòng xót thương. Lương tâm và
tình thương đồng loại thúc đẩy anh cứu giúp người bị nạn đến nơi
đến chốn bất chấp nạn nhân là người Do Thái thuộc dòng tộc có
hiềm khích với dòng tộc của anh. Cung cách hành xử đầy tình
thương này mới làm đẹp lòng Thiên Chúa.
Chúa Giêsu đã khéo léo lái vấn đề từ câu hỏi người thông luật :
ai là người thân cận của tôi ? sang gợi ý tuyệt vời của Ngài
: tôi là người thân cận của ai ? Trả lời câu hỏi này có lẽ
phải đi từ cuộc sống cụ thể của mình. Khi tôi đến gần ai để phục
vụ với tình yêu thì tôi trở thành người thân cận với kẻ ấy, và
kẻ ấy thành người thân cận với tôi. Ai cũng có thể trở thành
người thân cận của tôi nếu tôi yêu thương họ bằng tình yêu mà
Chúa đã thương yêu tôi.
Càng hiểu biết về đạo càng phải sống đạo. Chúa Giêsu dạy rằng: “
ai yêu mến Thầy sẽ giữ Lời Thầy”. Đạo của Thầy Giêsu là Đạo
tình yêu. Yêu Chúa, yêu người là hai mặt của một tình yêu
duy nhất. Yêu Chúa đích thực thì phải yêu người. Thánh Gioan đã
viết :ai nói mình yêu Chúa mà không yêu người thì là kẻ nói dối.
Đối với Thánh Phaolô : yêu thương là giữ trọn lề luật. Lề luật
không phải được lập nên cho người có tình yêu mà cho người không
có tình yêu. Nếu không có tình yêu thì việc làm theo lề luật có
tốt đến đâu cũng vô giá trị : giả như tôi có đem hết gia tài cơ
nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt,
mà không có đức mến thì cũng chẳng ích gì cho tôi. Thánh
Augustinô khuyên nhủ : cứ yêu đi rồi muốn làm gì thì làm. Tình
yêu sẽ cho biết ta phải làm gì.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa dạy chúng con rằng : không phải những
người cứ kêu lên “Lạy Chúa, Lạy Chúa...” là được vào Nước
Trời. Nhưng chỉ những ai thi hành ý muốn của Cha mới được vào mà
thôi. Xin cho Lời Chúa dạy in vào lòng trí chúng con, và Lời
Chúa được thể hiện trong đời sống đạo của chúng con hàng ngày.
Amen
Lm Giuse
Nguyễn Hữu An
|
VỀ MỤC LỤC |
|
TÌNH YÊU KHÔNG KHIẾM NHÃ |
(Tác Phẩm
13 Nét Mặt Tình Yêu)
1. Sự thẹn thùng mắc cỡ là niềm kính trọng thân xác của mọi nhân vị
:
Xã hội Hy-La vào thời thánh Phaolô chắc cũng suy đồi như xã hội
chúng ta đang sống... bởi vì những lời khuyên nhủ vẫn mang tính thời
sự trong bối cảnh của chúng ta ngày nay !
"Anh em biết chúng ta đang sống trong thời nào. Đã đến
lúc từ nay anh em phải thức dậy, vì hiện nay ngày Thiên Chúa cứu độ
chúng ta đã gần hơn trước kia, khi chúng ta mới tin Đạo. Đêm sắp
tàn, ngày gần đến. Vậy chúng ta hãy loại bỏ những việc làm đen tối,
và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu. Chúng ta hãy ăn ở cho
đứng đắn như người đang sống giữa ban ngày : không chè chén say sưa,
không chơi bời dâm đãng, cũng không cãi cọ ghen tương. Nhưng anh em
hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô, và đừng chiều theo tính xác thịt mà
thỏa mãn các dục vọng" (Rm 13,11-14).
"Vậy anh em hãy giết chết những gì thuộc về hạ giới
trong con người anh em, ấy là gian dâm, ô uế, đam mê, ước muốn xấu
xa và tham lam, mà tham lam cũng là thờ ngẫu tượng" (Col 3,5).
"Chuyện gian dâm, mọi thứ ô uế hay tham lam, thì dù
nói đến anh em cũng phải tránh, như thế mới xứng đáng là những người
trong dân thánh" (Eph 5,3).
Một cách sâu xa, thái độ nầy hệ tại việc sống một cách tích cực giá
trị kitô giáo về thân xác. Thân xác không phải là một vật để hưởng
lạc, nhưng là đền thờ của Chúa Thánh Thần :
"Anh em lại chẳng biết rằng thân xác anh em là đền thờ
của Thánh Thần sao? Mà Thánh Thần đang ngự trong anh em là Thánh
Thần chính Thiên Chúa đã ban cho anh em. Như thế, anh em đâu còn
thuộc về mình nữa, vì Thiên Chúa đã trả giá đắt mà chuộc lấy anh em.
Vậy anh em hãy tôn vinh Thiên Chúa nơi thân xác anh em" (I Cor
6,19-20).
Tình yêu đích thực không làm chi khiếm nhã, nghĩa là không thể lắng
nghe và chiều theo những cám dỗ đồi bại luân lý. Tình yêu đích thực
giữ mình không nhượng bộ cho những mời mọc khiêu dâm gây nên bởi
những hình ảnh trơ trẽn của phụ nữ và mối quan hệ đàn ông với đàn
bà. Những mời mọc cám dỗ đó được bày biện qua các bích chương quảng
cáo, truyền hình, truyền thanh, báo chí, nơi bãi biển...
Nếu chúng ta thực sự sống tình yêu Chúa, chúng ta sẽ thường xuyên
chiến đấu để tránh cho chúng ta khỏi bị thấm nhiễm bởi những khêu
gợi do các loại hình ảnh như vậy gây nên. Lòng bác ái không để cái
chi khiếm nhã đến gậm nhấm nó từ bên trong...
Đồng thời chúng ta sẽ sẵn sàng với hình ảnh mà nhân vị con người
trong phẩm giá là con Thiên Chúa trao ban cho chúng ta, qua chính
cách xử sự của chúng ta : Cách chúng ta và con cái chúng ta ăn
mặc... sự giữ gìn ý tứ của chúng ta trong những tình huống có thể
nguy hiểm... sự trong sạch trong cái nhìn của chúng ta... sự thanh
khiết trong các mối tương quan hằng ngày của chúng ta... sự từ chối
không nhìn những cảnh làm mất phẩm giá trên truyền hình hoặc trên
xinê, được dàn dựng để kích thích cảm giác dâm dục... tất cả những
việc đó được dẫn dắt nhờ sự mắc cỡ, thẹn thùng.
"Sự thẹn thùng mắc cỡ, là một yếu tố cấu tạo nền tảng
của nhân vị, trên bình diện đạo đức, có thể được xem như lương tâm
tĩnh thức bảo vệ cho phẩm giá con người và tình yêu đích thực. Sự
thẹn thùng mắc cỡ nhằm phản ứng lại trước một số thái độ nào đó và
phanh lại một số ứng xử nào đó làm tổn thương đến phẩm giá nhân vị.
Đó là một phương tiện cần thiết và hiệu nghiệm để chế ngự bản năng,
làm triển nở tình yêu đích thực, hội nhập cuộc sống tình cảm giới
tính trong một sự hòa điệu nào đó của nhân vị. Sự thẹn thùng mắc cỡ
có một tầm mức sư phạm rất quan trọng và vì thế phải được đánh giá
cao. Như thế, các trẻ con và thanh niên sẽ học kính trọng thân xác
mình như một ân ban của Thiên Chúa, chi thể của Chúa Kitô và đền thờ
của Chúa Thánh Thần. Họ sẽ học chống cự lại sự xấu bao quanh họ, học
cho có một cái nhìn và một trí tưởng tượng trong sáng, học tìm kiếm,
trong sự gặp gỡ tình cảm với tha nhân, cách biểu lộ của một tình yêu
đích thực con người với mọi yếu tố cấu tạo thiêng liêng của nó"[1]
"Tất cả những gì là chân thật, cao quý, những gì là
chính trực tinh tuyền, những gì là đáng mến và đem lại danh thơm
tiếng tốt, những gì là đức hạnh, đáng khen, thì xin anh em hãy để ý"
(Ph 4,8).
2. Tính lịch thiệp là sự tôn trọng giá trị của mọi nhân vị :
Tình yêu không nói điều gì khiếm nhã. Trong lãnh vực nầy, cần phải
làm hết sức để tránh cho mình khỏi bị lôi kéo bởi sự thô tục trong
lời nói, hầu giữ được cử chỉ lịch sự trong xã hội của chúng ta. Bảo
đảm tốt nhất là để cho Chúa Thánh Thần duy trì trong chúng ta sự tế
nhị và trong sạch tâm hồn.
"Đừng nói lời thô tục, nhảm nhí, cợt nhả. Đó là những
điều không nên. Trái lại, phải tạ ơn Thiên Chúa thì hơn" (Ep 5,4).
"Nhưng nay, cả anh em nữa, hãy từ bỏ tất cả những cái
đó : nào là giận dữ, nóng nảy, độc ác, nào là thóa mạ, ăn nói thô
tục" (Col
3,8).
Không phải chỉ liên quan đến lời nói, mà cũng còn liên quan đến các
cách ứng xử hôm nay dễ dàng tự do quá trớn, hỗn xược, trâng tráo, vô
liêm sỉ... Việc lái xe là một trắc nghiệm tốt để đánh giá những thứ
đó, dù không được ghi vào bằng để tính điểm...
Lịch sự trong cử chỉ được biểu lộ ra với người bên cạnh là phần nào
sự dịu dàng tình yêu của Trái Tim Chúa Cứu Thế đến đóng dấu ấn cho
các mối quan hệ tương hổ của chúng ta. Đó cũng là một cách quan tâm
đến giá trị của nhân vị, dù họ thế nào đi nữa, già cả, bại liệt,
khuyết tật, ấu trỉ, bệnh họan... Mọi hữu thể con người đều có một
giá trị vô cùng trước mặt Chúa và tính lịch sự biểu lộ cái giá mà
chúng ta gắn bó với mỗi con người.
3. Sự tế nhị và khéo xử là một cách yêu thương xứng nhân phẩm :
Tình yêu không làm gì khiếm nhã... cũng nói lên rằng tình yêu luôn
cố gắng làm và nói những gì thích hợp, là có một thái độ tốt. Thiên
Chúa ban cho chúng ta điều đó, nếu chúng ta vẫn luôn cầu nguyện và
không ngừng kêu xin Ngài. Ngài sẽ dẫn dắt chúng ta sửa chữa dần dần
những gì có thể là không đúng chỗ, không thích đáng, không đúng lúc,
kỳ cục, hay không nghiêm túc trong các mối quan hệ của chúng ta với
tha nhân.
Những gì thánh Phaolô viết liên quan đến những cách sống trong sự
hòan tòan nghịch đạo giúp chúng ta hiểu rõ điều đó :
"Vì họ đã không thèm nhận biết Thiên Chúa, nên Người
đã để mặc họ theo trí óc lệch lạc mà làm những điều bất xứng" (Rm
1,28).
Trái lại, sự nhận biết Thiên Chúa soi sáng trí khôn chúng ta, ban
cho trí khôn chúng ta sự khôn ngoan, biện phân, phán đoán để rồi
kiện toàn những gì là thích hợp...
Sự kiện luôn có một thái độ tốt trong mọi hoàn cảnh rất đa dạng và
với những người rất khác nhau đơn giản là dấu hiệu của trí tuệ hoặc
của một nền giáo dục tốt. Thiên Chúa muốn ban cho chúng ta nhiều hơn
nữa : sự tế nhị
tâm hồn, để đức ái của chúng ta được trở nên cao nhã
qua tất cả mọi việc nhỏ nhặt của cuộc sống thường ngày...
Nơi đó có cả một công trường đang xây dựng phải được mở ra trong các
mối quan hệ cộng đồng hay huynh đệ của chúng ta, hầu để Chúa Thánh
Thần kiến tạo trong chúng ta một thái độ xứng nhân phẩm, phù hợp với
cái nhìn của Thiên Chúa trên chúng ta. Thánh Phaolô thường nói đến
điều đó trong các thư của Ngài : Sống một cuộc sống xứng đáng với ơn
gọi đã nhận lãnh.
"Vậy tôi khuyên nhủ anh em hãy sống cho xứng với ơn
kêu gọi mà Thiên Chúa đã ban cho anh em. Anh em hãy ăn ở thật khiêm
tốn, hiền từ và nhẫn nại, hãy lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau.
Anh em hãy thiết tha duy trì sự hiệp nhất mà Thánh Thần mang lại,
bằng cách ăn ở thuận hòa gắn bó với nhau"
(Ep 4,1-4).
Trong chiều hướng ấy, chúng ta có thể đọc :
"Chỉ có một điều là anh em hãy ăn ở làm sao cho xứng
với Tin Mừng của Đức Kitô..." (Ph 1,27).
"Như vậy anh em sẽ sống được như Chúa đòi hỏi và làm
đẹp lòng Người về mọi phương diện, sẽ sinh hoa trái là mọi thứ việc
lành, và mỗi ngày một hiểu biết Thiên Chúa hơn" (Col 1,10).
Trong một lãnh vực khác, làm sao không nghĩ đến cách thức mà chúng
ta phải nói về bí tích Hòa giải và bí tích Thánh Thể. Khi phạm tội
nhiều, chúng ta liều mình rước lễ một cách quá trớn, nếu trước hết
không cấp thiết xin lãnh nhận bí tích Hòa giải. Chúng ta cần phải
tỉnh thức để lãnh nhận Chúa Giêsu Thánh Thể trong sự tế nhị của một
tâm hồn trong sạch chừng nào có thể đượ :
"... Chúa Giêsu được lãnh nhận trong bí tích Thánh Thể
phải tìm được một chỗ ở xứng đáng trong tâm hồn của mỗi người chúng
ta. Vấn đề nầy không những liên kết chặt chẽ với sự thực hành bí
tích sám hối, mà còn với sự biện phân rõ ràng thiện ác. Đối với mỗi
người tham dự bí tích Thánh Thể, sự biện phân thiện ác nầy trở thành
nền tảng của một phán đoán chính xác về bản thân trong sâu thẳm
lương tâm mình. Chúng ta biết rõ những lời nầy của Thánh Phaolô :
"Mỗi người hãy soát xét lương tâm mình". Phán đoán nầy là một điều
kiện không thể thiếu cho một quyết định cá nhân hầu tiến tới hiệp lễ
hoặc phải nhịn"[1]
Thẹn thùng mắc cỡ, lịch sự, tế nhị... Chúng ta đang sống trong một
thế giới bạo lực và cứng cõi. Chúa Giêsu nói lại cho chúng ta : "Các
con hãy học cùng
Thầy, vì Thầy dịu hiền và khiêm nhượng thật trong lòng"
(Mt 11,29).
Suy niệm
để lần hạt Mân Côi
1. Tình yêu không làm gì khiếm nhã. "Anh em lại chẳng
biết rằng thân xác anh em là Đền Thờ của Chúa Thánh Thần sao? Mà
Thánh Thần đang ngự trong anh em là Thánh Thần chính Thiên Chúa đã
ban cho anh em. Như thế anh em đâu còn thuộc về mình nữa, vì Thiên
Chúa đã trả giá đắt mà chuộc lấy anh em" (I Co 6,19-20). Chúng ta
hãy chiêm ngắm Mẹ Maria "thánh điện của Chúa
Thánh Thần" (Vaticanô II) và chúng ta hãy xin
ơn tôn vinh Thiên Chúa trong thân xác chúng ta.
2. Tình yêu không làm gì khiếm nhã. "Đã đến lúc anh
em phải thức dậy, vì hiện nay ngày Thiên Chúa cứu độ chúng ta đã gần
hơn trước kia, khi chúng ta mới tin Đạo. Đêm sắp tàn, ngày gần đến.
Vậy chúng ta hãy loại bỏ những việc làm đen tối, và cầm lấy vũ khí
của sự sáng để chiến đấu. Chúng ta hãy ăn ở cho đứng đắn như người
đang sống giữa ban ngày : không chè chén say sưa, không chơi bời dâm
đãng, cũng không cãi cọ ghen tương. Nhưng anh em hãy mặc lấy Chúa
Giêsu Kitô, và đừng chiều theo tính xác thịt mà thỏa mãn các dục
vọng" (Rm 13,11-14). Chúng ta
hãy cầu nguyện cho tất cả những ai làm nô lệ cho tính dục của họ và
hãy xin cho họ ơn tự do nội tâm.
3. Tình yêu không làm gì khiếm nhã. "Đừng nói lời thô
tục, nhảm nhí, cợt nhả, đó là những điều không nên. Trái lại, phải
tạ ơn Thiên Chúa thì hơn"
(Ep 5,4). "Cả anh em nữa, hãy từ bỏ những cái
đó : nào là giận dữ, nóng nảy, độc ác, nào là thóa mạ, ăn nói thô
tục" (Col 3,8). Chúng ta hãy cầu
xin ơn lịch sự, kính trọng giá trị bất khả nhượng của những người
chung quanh chúng ta.
4. Tình yêu không làm gì khiếm nhã. "Vậy tôi khuyên
nhủ anh em hãy sống cho xứng với ơn kêu gọi mà Thiên Chúa đã ban cho
anh em. Anh em hãy ăn ở thật khiêm tốn, hiền từ và nhẫn nại, hãy lấy
tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau. Anh em hãy thiết tha duy trì sự
hiệp nhất mà Thánh Thần mang lại, bằng cách ăn ở thuận hòa gắn bó
với nhau" (Ep 4,1-4). Lạy Chúa, nhờ lời Mẹ Maria
chuyển cầu, xin Thánh Thần đào luyện nơi chúng con cách ứng xử xứng
đáng của con cái Chúa.
5. Tình yêu không làm gì khiếm nhã. "Chúa Kitô được
lãnh nhận trong Bí tích Thánh Thể phải tìm được một chỗ ở xứng đáng
trong tâm hồn mỗi người chúng ta. 'Mỗi người hãy soát xét lưong tâm
mình' (Thánh Phaolô); phán đoán nầy là một điều kiện không thể thiếu
cho một quyết định cá nhân hầu tiến lên rước lễ hay là không được
rước lễ"
(Gioan-Phaolô II). Lạy Chúa, xin ban cho chúng con sự tế nhị tâm hồn
đối với Chúa Giêsu Thánh Thể, với sự hiện diện của Ngài và của anh
em chúng con.
Lm. Micae-Phaolo Trần Minh Huy
chuyển ngữ
|
VỀ MỤC LỤC |
|
TÂM BỆNH |
Tâm bệnh là gỉ?
Tâm bệnh hoặc bệnh
tâm lý là các rối loạn về chức năng của não bộ, gây ra những
thay đổi về suy nghĩ, nhận biết, tâm trạng, tính tình hoặc hành
vi của người bệnh. Các thay đổi này không phù hợp với quan niệm
bình thường của mọi người.
Trong đa số các
trường hợp, triệu chứng của bệnh đều tạo ra nhiều khó khăn cho
sức khỏe, đời sống và khả năng làm việc của con người.
Tâm bệnh đã được
biết tới từ nhiều ngàn năm về trước nhưng sự điều trị chưa hữu
hiệu lắm.
Ngày nay, sự tiến
bộ của y khoa học đã giúp hiểu rõ hơn về nguyên nhân của bệnh và
các phương thức điều trị. Do đó, đa số người mắc bệnh đã sẵn
sàng tìm kiếm điều trị, giúp đỡ.
Tâm bệnh và
bệnh Thần kinh có giống nhau không ?
Hai nhóm bệnh
đều có nhiều điểm khác nhau nhưng có liên hệ chặt chẽ với nhau.
Trong bệnh thần
kinh có tổn thương thực thể tại các phần khác nhau của hệ thần
kinh như não bộ, tủy sống, dây thần kinh ngoại vi. Người bệnh ít
có các hành vi kỳ dị, ý nghĩ bất bình thường nhưng có thể tê
liệt nửa người, khó khăn đi đứng, ăn nói...
Trong tâm bệnh,
các tổn hại thực thể của hệ thần kinh không rõ rệt. Ða số các
dấu hiệu bệnh là do rối loạn chức năng của não. Bệnh nhân có thể
đi lại bình thường nhưng tâm trạng, hành vi, suy nghĩ của họ đều
khác thường.
Tâm Bệnh còn
được gọi bằng từ “Bệnh Tâm Thần”. Tuy nhiên, khi nói tới “Bệnh
Tâm Thần” thì nhiều người hiểu là bệnh Điên. Cho nên các nhà
chuyên môn tâm lý học đề nghị danh từ “Tâm Bệnh”, tiếng Anh là
“Mental illness” và tiếng Pháp là “Maladie Mentale”.
Nguyên nhân nào gây ra tâm bệnh?
Nguyên nhân đích
thực gây ra một số bệnh tinh thần chưa được biết rõ. Tuy nhiên
đa số bệnh là do sự phối hợp của nhiều yếu tố khác nhau, như là:
- Sự mất thăng
bằng của một vài hóa chất đặc biệt ở não bộ
- Di truyền
- Ảnh hưởng xấu
lên thai nhi khi mẹ có thai hoặc khi sinh đẻ
- Tổn thương não
bộ vì nhiễm vi khuẩn, chấn thương...
- Yếu tố tâm lý
như biến cố đau thương, mất mát, bị bạc đãi, lạm dụng, căng
thẳng...
- Ảnh hưởng hóa
chất như lạm dụng thuốc, rượu, do ô nhiễm môi trường...
Có bao nhiêu
loại Tâm bệnh?
Tâm bệnh được
phân chia ra làm nhiều loại tùy theo những triệu chứng mà người
bệnh diễn tả và các dấu hiệu do quan sát phát hiện.
Sau đây là
các tâm bệnh thường thấy:
-
Rối loạn về tâm trạng như bệnh trầm cảm, bệnh lưỡng cực
- Lo
âu như bệnh hoảng loạn, ám ảnh tự kỷ, ám ảnh sợ hãi
-
Bệnh liên quan tới nghiện rượu, thuốc cấm, nicotine, caffein
-
Bệnh rối loạn tinh thần như tâm thần phân liệt
-
Rối loạn nhận thức như sa sút trí tuệ, mê sảng
-
Rối loạn hành vi, bạo động, đập phá, lạm dụng
-
Rối loạn về phát triển như Chậm phát triển trí tuệ
Xin cho biết các dấu hiệu chính của Tâm bệnh
Rối loạn tinh
thần được biểu lộ bằng một số dấu hiệu mà người khác có thể quan
sát thấy hoặc các triệu chứng mà bệnh nhân diễn tả. Ðó là:
1- Tâm trạng
buồn
Lúc nào người
bệnh cũng có vẻ buồn chán, ít cười nói, hay khóc thầm
2- Thay đổi
tính tình
Người bệnh hay
cáu kỉnh, bực bội, giận dỗi, than phiền, gây gổ với mọi người.
3- Giảm quan
tâm đến mọi sự việc và mọi người
Bệnh nhân không
còn thích thú và tham gia các sinh hoạt thường lệ, thích sống
một mình, tránh các sinh hoạt xã hội, bỏ hoạt động tình dục, nằm
lì trong giường, không coi TV, nghe radio, không muốn ra khỏi
nhà, bỏ học, bỏ sở làm...
4- Lên cân
hoặc xuống cân
Từ chối ăn uống
hoặc ăn quá nhiều, tăng hoặc giảm ký, dấu thức ăn...
5- Mất ngủ
hoặc ngủ quá nhiều.
Thường thường họ
khó đi vào giấc ngủ, thức dậy quá sớm, thức giấc giữa đêm, ngủ
nhiều ban ngày, nằm thu mình co ro ở góc nhà, hành lang. Một số
người lại hay ngủ quá nhiều vào ban đêm.
6- Thay đổi
tác phong, dáng điệu
Họ đi đứng chậm
chạp, giảm sinh lực, ít nói hoặc nói nhát gừng, tiếng một.
7- Mệt mỏi,
hay nẳm vật nằm vạ, ngồi yên một chỗ, không chịu đi ra ngoài,
không chăm sóc vệ sinh cá nhân, hay than phiền đau đầu, nhức
mình mẩy.
8- Cảm thấy
trở thành vô dụng, không có giá trị, cho là mình xấu xa, bất
bình thường
9- Giảm khả
năng suy nghĩ, không sáng suốt, hay quên, kém tập trung, dễ
bị chia trí.
10- Nghĩ tới
chuyện ma chay, chết chóc, dọa và có ý định tự tử, tự hủy
hoại thân xác
11- Có dấu
hiệu hoang tưởng, tin là có mà thực ra không có; có ảo giác,
ảo tưởng như nghe các âm thanh hoặc nhìn thấy sự vật vô hình.
Dấu hiệu thay đổi tùy theo loại bệnh.
Nếu có một hay
nhiều triệu chứng kể trên, nên tới các nhà chuyên môn để được
giúp đỡ, nhất là khi các triệu chứng đó gây ra ảnh hưởng không
tốt cho sinh hoạt hàng ngày.
Nhận ra bệnh sớm
và được trị liệu ngay, các thay đổi khó khăn này có thể hết đi.
Tâm bệnh có chữa được không?
Bệnh có thể chữa
được bằng dược phẩm và các phương thức trị liệu khác.
Nói là chữa được mà sao nhiều người không chịu đi chữa?
Có nhiều lý do
khiến người bị bệnh tinh thần, đặc biệt là đối với người Mỹ gốc
Á châu, ít đi các nhà chuyên môn điều trị vì:
- không
muốn bộc lộ cho người khác về chuyện tình cảm của mình,
- bản
chất chịu đựng, vì e ngại người khác biết chuyện riêng tư của
mình
- cho
rằng mắc tâm bệnh là điên khùng, là xấu, là yếu đuối
- sợ
bị cô lập trong bệnh viện tâm trí
- không
tin ở cách thức trị liệu hiện có
- giới hạn khả
năng Anh ngữ, không diễn tả được bệnh nên ngần ngại tới các nhà
chuyên môn
Ai có thể chữa được Tâm bệnh?
Các nhà chuyên
môn sau đây là những người đóng góp vào việc điều trị và tư vấn,
giải tỏa các rối loạn của bệnh nhân. Công việc của mỗi người có
khác nhau nhưng tập trung đều là để phục hồi sức khỏe của người
bệnh.
1- Bác sĩ Thần Kinh Tâm Trí (Psychiatrist).
Ðây là một y
khoa bác sĩ có thêm ít nhất 4 năm huấn luyện chuyên môn về tâm
bệnh lý, sau khi hoàn tất chương trình đại học y khoa.
Các bác sĩ này
có thể khám và chẩn đoán tất cả các loại tâm bệnh, biên toa cho
thuốc, áp dụng tâm lý trị liệu và nhận bệnh nhân vào bệnh viện
để điều trị.
Có bác sĩ chuyên
về bệnh tâm lý của trẻ em, người cao tuổi, lạm dụng thuốc rượu
và bác sĩ tâm lý tổng quát.
2- Nhà tâm lý học (Psychologist).
Ðây là các nhà
chuyên môn nghiên cứu khoa học về tâm lý, có học vị tiến sĩ
nhưng không phải về y khoa.
Họ được huấn
luyện về đánh giá, trắc nghiệm tâm lý, tư vấn, điều trị tâm bệnh
bằng lời nói với cá nhân hoặc một nhóm bệnh nhân.
Họ
làm việc tại trung tâm tư vấn, bệnh viện, trường học hoặc tại
phòng điều trị tư.
3- Ðiều dưỡng tâm lý (Psychiatric nurse)
Những chuyên
viên y tế này đã được huấn luyện về cách phòng chống, điều trị
và phục hồi khả năng cho bệnh nhân tâm lý.
Họ thực hiện trị
liệu cá nhân, nhóm hoặc với thân nhân người bệnh tại trung tâm
tư vấn, bệnh viện, trường học, các trung tâm xã hội...
4- Chuyên viên xã hội (Social Worker).
Là các nhà
chuyên môn đã được huấn luyện về tâm lý trị liệu, có thể tư vấn
từng người, đôi vợ chồng hoặc từng nhóm bệnh nhân. Họ cũng hướng
dẫn bệnh nhân về các vấn đề liên quan tới chính quyền, cộng đồng
và các cơ sở tư nhân khác.
5- Chuyên viên hỗ trợ (Case Managers and Outreach Workers).
Các chuyên viên
này hành động như người tranh đấu và tư vấn cho bệnh nhân giải
quyết các vấn đề phức tạp trong hệ thống y tế, giới thiệu người
đang bị bệnh trầm trọng, không nhà ở, không lợi tức... tới các
cơ quan chính quyền, cộng đồng để được giúp đỡ trong cuộc sống.
Ðôi khi, họ cũng tranh đấu để bảo vệ quyền lợi của người bệnh.
Ngoài ra còn các
chuyên viên khác như âm nhạc trị liệu, giải trí, hướng dẫn nghề
nghiệp...cũng có vai trò hỗ trợ cho việc trị bệnh tâm lý
Bệnh có chữa được bằng dược phẩm không?
Có nhiều loại
thuốc chuyên biệt để chữa từng loại tâm bệnh. Các thuốc này rất
công hiệu nhưng cũng có một số tác dụng phụ không muốn. Do có
bệnh nhân cần dùng thuốc theo chỉ định, hướng dẫn của bác sĩ,
không tự ý gia giảm liều lượng hoặc ngưng thuốc
Chữa tâm bệnh ở đâu?
Có nhiều cơ sở
công hoặc tư nhân chữa tâm bệnh như tại bệnh viện, trung tâm
bệnh tâm lý, phòng mạch các nhà chuyên môn tâm lý, phòng tư vấn
tại các tổ chức y tế xã hội, các trung tâm sinh hoạt cộng
đồng...
Xin kể những ngộ nhận về tâm bệnh
Một số ngộ nhận
về tâm bệnh mà ta cần để ý như:
Ngộ nhận 1.
Người mắc tâm
bệnh đều là điên khùng, nguy hiểm, cần phải nhốt riêng.
Sự thực: Tâm
bệnh không phải là điên, nguy hiểm như nhiều người thưởng nghĩ
và họ không đáng để được nhốt riêng.
Tuy nhiên, có
một số người mắc bệnh tâm lý có thể có khó khăn ứng phó với các
điệu kiện sống hàng ngày. Nếu khó khăn trở nên tột độ, họ có thể
trở thành nguy hiểm cho chính họ và cho người khác. Chỉ trong
trường hợp này họ mới cần ở riêng trong một thời gian ngắn.
Ngộ nhận 2.
Người mắc tâm
bệnh không bao giờ trở lại bình thường
Sự thực: Với
điều trị đúng đắn, giúp đỡ tận tình, bệnh nhân có thể trở lại
bình thường và tiếp tục đời sống lành mạnh, sản xuất tốt như mọi
người khác.
Ngộ nhận 3.
Chỉ nhìn vào mắt
là biết người đó bị tâm bệnh.
Sự thực: Mặc dù
có nhiều dấu hiệu, triệu chứng khi một người mắc tâm bệnh, nhưng
chẩn đoán bệnh không phải dễ dàng và cần có sự ước định của các
nhà chuyên môn tâm lý.
Ngộ nhận 4.
Chỉ có mấy người
điên mới đi bác sĩ chuyên về tâm bệnh học để khám và trị bệnh.
Sự thực: Mọi
người dù ở tuổi nào có khó khăn tinh thần đều có thể và đều nên
đi bác sĩ chuyên khoa để được khám nghiệm điều trị. Tìm kiếm và
nhận giúp đỡ là điều cần thiết và rất tốt, để tránh bệnh trầm
trọng hơn.
Ngộ nhận 5.
Nếu ai nói đến
tự hủy hoại thì chẳng bao giờ thực hiện
Sự thực: Nói đến
tự tử là điều quan trọng vì những người này thường có các dự
định, kế hoạch rồi thực hiện việc tự hủy hoại.
Vì thế, cần hỏi
họ cho rõ ràng để phòng ngừa chuyện chẳng lành có thể xẩy ra.
Kết luận
Tâm bệnh là bệnh
có thể chữa khỏi nếu chẩn đoán sớm, chữa đúng thầy, đúng thuốc
Bác sĩ Nguyễn Ý Ðức
Texas- Hoa Kỳ
|
VỀ MỤC LỤC |
|
CHỤP MŨ -
Chuyện phiếm của Gã Siêu. |
Ngày xửa ngày xưa, hồi còn bé tẹo bé teo, gã đã được thày giáo
trường làng dạy cho biết :
- Thân thể con người ta được chia làm ba phần : đầu, mình và tay
chân.
Tất cả ba phần này đều được bảo vệ kỹ càng để chống lại với
những khắc nghiệt của thời tiết. Chẳng hạn để bảo vệ cái đầu,
người ta đã sáng chế ra biết bao nhiêu thứ ô dù, mũ mão. Chẳng
hạn để bảo vệ cái mình, người ta đã tung ra thị trường biết bao
nhiêu thứ áo quần. Chẳng hạn để bảo vệ tay chân, người ta đã bày
bán biết bao nhiêu thứ giày dép, găng vớ…
Thế nhưng, người là một con vật có trí khôn, là một cây sậy biết
suy tư. Chính nhờ những suy tư của trí khôn mà con người không
ngừng cải tiến và phát triển trên mọi lãnh vực, chẳng hạn từ chỗ
ăn cho no đến chỗ ăn cho ngon, từ chỗ mặc cho ấm đến chỗ mặc cho
đẹp…Chính vì lẽ ấy mà các thứ mẫu mã thời trang thi nhau chào
đời như nấm mọc ào ào sau cơn mưa.
Hơn thế nữa, trên mỗi phần của thân thể lại có những bộ phận
khác nhau và mỗi bộ phận cũng đều có nhu cầu cần được bảo vệ và
làm đẹp. Chẳng hạn trên cái đầu thì có tóc, tai, mắt, mũi, môi…
Về cái tóc, chúng ta thấy các thứ kiểu cọ từ đầu trọc, đầu húi
cua ba phân đều đến đầu bù xù và các thứ đầu quái đản khác. Nhất
là đối với quí bà quí cô, thì các kiểu tóc, các màu tóc lại còn
thiên biến vạn hóa đến quỉ thần cũng không lường nổi.
Về cái tai, chúng tha thấy lủng lẳng các thứ vòng to vòng nhỏ,
hình nọ hình kia, thậm chí đến cả cây thập giá cũng đã được treo
toòng teng lúc lắc trên những đôi tai mỹ miều và dễ thương. Đúng
thực “cái tai cái tóc là góc người”.
Ngày nay, đối với dân chơi, không phải chỉ đờn bà con gái mới
xỏ, mà đờn ông con giai cũng xỏ. Không phải chỉ xỏ lỗ tai, mà
còn xỏ cả lỗ mũi, lỗ rốn cũng như xỏ cả cái lưỡi của mình nữa,
mà đôi khi gã được rùng mình chiêm ngưỡng trên phim ảnh.
Về cái mắt, chúng ta thấy nào là cạo hàng lông mày có từ lúc cha
sinh mẹ đẻ để tô vẽ lên đó theo đúng ý của mình, “lông mày lá
liễu đáng trăm quan tiền”. Hay xâm lên đó để có hàng “lông mày
vĩnh cửu”, từ nay khỏi mất công mất giờ điểm trang, vì “thời giờ
vốn dĩ là vàng bạc”. Còn lông mi ấy hả, nào là cấy thêm cho nó
dày đặc. Còn ví như không có tiền đi mỹ viện để cấy thêm, thì sẽ
phải chịu khó đeo lông mi giả, để mỗi khi đôi mắt chơm chớp, sẽ
tăng thêm phần đơn sơ “con nai vàng ngơ ngác”.
Về cái môi, cái miệng, cái cằm…người ta cũng rất chịu khó thẻo
bớt chỗ này, vá thêm chỗ kia để được hoàn toàn như ý. Nguyên son
tô môi mà thôi cũng có biết bao nhiêu thứ với biết bao nhiêu
“tông” màu khác nhau, từ tái nhợt như miếng thịt trâu ươn cho
đến đỏ chói như máu gà trống…
Bàn về những thứ phụ tùng lỉnh kỉnh ấy, chả biết đến bao giờ mới
hết. Hôm nay gã chỉ xin nói về những thứ được dùng để bảo vệ cho
cái đầu mà thôi.
Tất cả những thứ được đội để bảo vệ và làm đẹp cho cái đầu đều
được gọi là mũ hay nón. Tuy nhiên, đâu là điểm phân biệt giữa mũ
và nón, thì gã xin chịu, chưa thể đưa ra lời giải đáp thỏa đáng.
Rất có thể vì thói quen, người ta gọi cái này là mũ, còn cái kia
là nón. Hay do thiết kế mẫu mã của nó, chẳng hạn nón thì thường
to hơn mũ.
Người Việt Nam chúng ta có một loại nón đặc biệt, đó là chiếc
nón lá. Chiếc nón lá được trang điểm thêm thành chiếc nón bài
thơ cho các cô gái Huế và chiếc nón quai thao cho các cô gái Bắc
Ninh hát hò quan họ. Chiếc nón lá được các cô gái Việt Nam đội
trên đầu, đi theo với chiếc áo dài hay áo bà ba thì quả là tuyệt
vời. Những lúc cần tỏ ra e ấp thẹn thùng thì chỉ cần lấy chiếc
nón lá che khuất nửa khuôn mặt là…ăn tiền.
- Trời mưa thì mặc trời mưa,
Tôi không có nón, trời chừa tôi ra.
Tuy nhiên, có một loại nón gã rất thích, đó là chiếc nón sắt của
mấy anh lính. Chiếc nón này thật đa dụng. Có thể dùng làm ghế để
ngồi, có thể dùng làm thùng để múc nước, có thể dùng làm nồi để
nấu cơm và nhất là có thể dùng làm cối để giã cua, vừa nhẹ lại
vừa gọn. Đứa con nít bị mẹ bảo giã cua, giã xong lại còn phải
mang cối đi cọ rửa. Sức con nít làm sao có thể bưng nổi cái cối
đá, không khéo nó rớt vào chân thì thật…rách việc.
Trở lại với chủ đề chiếc mũ. Trải qua dòng thời gian chiếc mũ
cũng được biến đổi tùy theo vật liệu, tùy theo hình dáng và tùy
theo chức vụ…
Chẳng hạn về vật liệu, chúng ta thấy mũ dạ là loại mũ làm bằng
len để đội cho ấm khi mùa đông trở về, mũ rơm là cái vòng bện
bằng rơm có quấn vải trắng để con trai và cháu nội người chết
đội mà chịu tang, như ca dao đã diễn tả :
- Một mai bóng xế cội tùng,
Mũ rơm ai đội, áo thùng ai mang.
Chẳng hạn về hình dáng, chúng ta thấy mũ nồi hay mũ bê rê là
loại mũ tròn giống như cái nồi úp lên đầu, mũ trái bí là loại mũ
có khía giống như trái bí, mũ lưỡi trai là loại mũ có vành giống
như con sò, con hến, con trai để che mắt cho bớt nắng, mũ chào
mào là loại mũ giống như đầu con chim chào mào…
Chẳng hạn về chức vụ, chúng ta thấy mũ cử nhân hay mũ tiến sĩ là
loại mũ hình vuông, có tua phủ xuống, mà những người thi đỗ
thường đội khi lãnh nhận văn bằng. Trong ngày tốt nghiệp, những
cô cậu hay ông bà cử nhân và tiến sĩ đều đi thuê áo mão để chụp
cho mình những bức hình làm kỷ niệm lúc ra trường với bè bạn và
những người thân yêu. Đây quả thực là một dịp tốt để các bác phó
nhòm…hốt bạc.
Riêng trong phạm vi tôn giáo, chúng ta thấy bên Phật giáo có mũ
ni là loại mũ dành cho các vị sư sãi :
- Nào mũ ni, nào áo thâm,
Đi đâu chẳng đội, để ong châm.
Bên Công giáo có mũ gàu hay mũ cà cuống là loại mũ dành cho các
giám mục khi cử hành thánh lễ “đại trào”. Ngoài ra, ngày xưa còn
có thêm mũ ba khía là loại mũ vuông, phía trên có ba cái khía,
chẳng biết có phải là để kính Đức Chúa Trời Ba Ngôi hay không ?
Mũ này vốn được các linh mục đội khi cử hành thánh lễ.
Trong những năm gần đây tại Việt Nam, nhà nước đã qui định đòi
buộc tất cả những người cưỡi xe máy, phóng phom phom trên đường,
phải đội mũ an toàn. Đây cũng là một dịp hốt bạc cho những tay
chế tạo mũ giả cũng như cho các tay lái buôn. Có những lúc chiếc
mũ an toàn lên cơn sốt vì giá cả tăng vùn vụt. Nhưng rồi ba bảy
hai mươi mốt ngày, qui định trên lại chìm vào quên lãng, như hòn
đá chìm xuống đáy hồ. Ai đội thì cứ đội, ai không đội thì vẫn
không đội. Công an cảnh sát cũng nhắm mắt làm ngơ, mặc dù dọc
theo bên đường, không thiếu những tấm bảng ghi :
- Đoạn đường buộc phải đội mũ an toàn.
Vô phúc cho những ai không đội mũ an toàn vào những ngày nhà
nước phát động chiến dịch, hay vào những ngày anh công an cảnh
sát buồn tình và ngứa tay muốn biên phạt mà chớ.
Trong ngôn ngữ hằng ngày, người ta cũng thường dùng chữ mão và
chữ miện để chỉ về mũ.
Chẳng hạn mão bình thiên là loại mũ phía trên thẳng được nhà vua
đội khi cúng tế, mão cánh chuồn là loại mũ có hai tai dài như
cánh con chuồn chuồn được các quan văn đội, mão tì lư là loại mũ
dành cho các vị hòa thượng.
Còn miện được dùng để chỉ chung các loại mũ được đội trong những
lúc hành lễ, như gia miện, quan miện, triều miện…Riêng hai chữ
vương miện, gã không biết có phải là loại mũ của nhà vua hay
không, nhưng ngày nay nó là một món đồ trang sức được cài lên
đầu cô hoa hậu trong những cuộc thi sắc đẹp.
Thực vậy, để đoạt được cái vương miện, các cô gái đã phải trải
qua nhiều phen sất bất xang bang, lo đến toát cả mồ hôi hột, bởi
vì trong những cuộc thi sắc đẹp ngày nay trên cả và thế giới,
người ta không phải chỉ chú trọng đến ngoại hình, mà còn chú
trọng cả đến kiến thức và cách ứng xử nữa. Thành thử, mặc dù có
điểm cao với trang phục áo tắm, hay có những vòng số một, số hai
và số ba thật lý tưởng, thì cũng chưa ăn chắc cho lắm, bởi vì
còn phải trả lời những câu hỏi ấm ớ hội tề của ban giam khảo, để
trắc nghiệm về kiến thức và cách ứng xử.
Cũng trong phần thi trắc nghiệm này mà nhiều chuyện vừa buồn lại
vừa cười khiến vãi cả nước mắt đã xảy ra trong các cuộc thi sắc
đẹp tại Việt Nam, bởi vì có những câu trả lời thật ngây ngô ngốc
nghếc không thể chấp nhận được của những người vốn đã đẹp.
Chẳng hạn ban giám khảo hỏi :
- Trưng Trắc, Trưng Nhị là ai ?
Thí sinh đã trả lời :
- Đó là hai tài tử ăn khách của Hồng Kông !!!
Chẳng hạn ban giám khảo hỏi :
- Nếu đạt danh hiệu hoa hậu, em sẽ làm gì ?
Đây là một câu hỏi mà hầu như các “lò luyện thi hoa hậu” nào
cũng đều cài đặt sẵn cho những con gà của mình. Vì thế, khi được
hỏi, thì hầu như các thí sinh đều có một câu trả lời giống hệt
nhau :
- Em sẽ dành một số tiền để giúp đỡ những nạn nhân chất độc màu
da cam. Rồi sau đó, em sẽ hiến đời mình để phục vụ những con
người bất hạnh…
Và thực tế đã cho thấy nói vậy mà không phải vậy đâu, hay nói để
mà nói, còn làm lại là chuyện khác. Ta cứ nói vung nói vít để ăn
điểm của ban giám khảo cái đã, rồi mọi sự sau đó sẽ…hạ hồi phân
giải. Bởi vì trong đời thường không thiếu gì những cô hoa hậu,
những cô người mẫu lợi dụng sắc đẹp và tên tuổi của mình để làm
những việc não lòng như đi buôn lậu, hay đi làm…gái gọi !!!
Xét về lợi ích, như đã trình bày ở trên, chiếc mũ được dùng để
bảo vệ cho cái đầu, nó giúp chúng ta che nắng che mưa…Đồng thời
còn được dùng để làm đẹp nữa, vì thế đã có biết bao nhiêu kiểu
cọ và mẫu mã xuất hiện, nhất là những thứ mũ được dành cho đờn
bà con gái. Có chiếc mũ được hình thành như một một bông hoa, có
chiếc mũ được hình thành như một tổ quạ, có chiếc mũ được hình
thành như một cái đuôi con công…Thôi thì thiên hình vạn trạng
làm sao kể ra cho xiết !!!
Ngoài ra, chúng ta còn có thể ghi nhận được những lợi ích khác
nữa của chiếc mũ, tùy theo quan niệm của từng dân tộc.
Chẳng hạn người Việt Nam chúng ta thường bảo :
- Mũ ni che tai.
Chiếc mũ ni dành cho các vị sư sãi, thường được đan bằng len,
nếu kéo xuống có thể phủ kín cả đôi tai, để rồi chẳng còn nghe
thấy gì nữa. Cử chỉ này muốn nói lên thái độ “phớt tỉnh ăng lê”,
an phận thủ thừa trước những đổi thay và thăng trầm của cuộc
sống. Ta chui vào cái vỏ ốc của ta. Ta ngủ yên
trong tháp ngà của ta :
- Thế sự thăng trầm quân mặc vấn. Chuyện đời lên
xuống anh hỏi làm chi cho mệt.
Chảng hạn đối với người Pháp, trong một cuốn tự
điển thành ngữ, gã đọc được hai câu xin ghi lại đây để cùng suy
nghĩ xem đúng hay sai.
Câu thứ nhất :
- Ngồi trên ngai và đội mũ, người ta sẽ tỏ lộ
được nhiều tác phong của mình.
Theo ngu ý của gã thì câu này ý muốn nói lên
rằng hoàn cảnh bên ngoài cũng giúp chúng ta thể hiện được phần
nào con người của mình.
Câu thứ hai :
- Người ta sẽ đi xa với chiếc mũ cầm trên tay
hơn là với chiếc mũ đội trên đầu.
Cũng theo ngu ý của gã, thì với phép lịch sự,
người ta sẽ chiếm được nhiều cảm tình của những người chung
quanh.
Chả hiểu có đúng như vậy không ?
Sau khi đã xét về lợi ích của chiếc mũ, bây giờ
gã xin nói đến việc người ta đã dùng chiếc mũ như thế nào ?
Vì chiếc mũ là một đồ dùng để bảo vệ và làm đẹp
cho cái đầu, nên mỗi khi ra đường người ta vốn thường đội mũ.
Đây là một hành động tự ý. Do đó, người ta cũng có nhiều cách
đội mũ.
Có người thích đội mũ thật ngay thật thẳng. Có
người thích đội mũ lệch sang một bên. Và thậm chí có người thích
đội mũ ngược, đằng trước lộn ra đằng sau. Chẳng hạn như chiếc mũ
lưỡi trai, bình thường cái lưỡi trai ở phía trước để che bớt cho
cặp mắt, nhưng bây giờ người ta lại thích đội ngược, nghĩa là
cho cái lưỡi trai về phía đằng sau để bảo vệ cái ót, cái gáy của
mình. Đội ngược như vậy đôi khi cũng lợi, nhất là khi cần phải
cầm máy để chụp hình…
Vì chiếc mũ có liên quan tới địa vị và chức
tước, nên người ta rất lấy làm vinh dự khi lãnh nhận nó cùng với
những thứ phụ tùng lỉnh kỉnh khác nữa. Chẳng hạn khi được bổ
nhiệm làm quan, hẳn đương sự sẽ vô cùng hãnh diện khi lãnh nhận
“áo mão” vua ban. Chẳng hạn khi được tấn phong làm “vít vồ” tức
là làm giám mục, bậc đáng kính nom cũng oai phong lẫm liệt ra
phết khi tiến lên lãnh nhận…”mũ gậy”.
Tuy nhiên có một hành động xem ra chẳng mấy ai
ưa thích, đó là bị thiên hạ…chụp mũ. Vậy chụp mũ là gì ?
Theo gã nghĩ, bị chụp mũ là bị bó buộc đội phải
một chiếc mũ trên đầu, từ đó suy ra là bị gán cho một nhãn hiệu,
một tội trạng nào đó trước mặt bàn dân thiên hạ. Còn theo “Việt
Nam Tự Điển” của Lê Văn Đức, thì chụp mũ là tròng mũ lên đầu
người ta, từ đó suy ra là vu khống, gán ghép cho người ta một
việc làm phi pháp tưởng tượng, với dụng ý làm hại người ta,
khiến người ta, nếu không thân bại danh liệt, thì cũng mất toi
cái danh dự và uy tín vốn dĩ là những thí quí hiếm trên đời.
Nếu chịu khó “ngâm kíu” một tí, chúng ta sẽ thấy
thói chụp mũ đã được thịnh hành từ một thời rất xa xưa.
Chẳng hạn như tổ phụ Giuse của dân Do Thái, sau
khi bị bán sang Ai Cập, đã phải đi ở đợ cho nhà quan Putiphar.
Nhân lúc quan ông đi vắng, quan bà bèn dụ dỗ tổ phụ ăn ở với
mình, nhưng tổ phụ đã thẳng thừng từ chối. Bực bội và tức tối,
quan bà bèn chụp cho tổ phụ chiếc mũ cưỡng bức và tổ phụ liền bị
tống ngục.
Chẳng hạn như bà Suzana bị hai lão già giở trò
hãm hiếp, nhưng bà một mực cự tuyệt. Thấy ý đồ đen tối của mình
không thành, hai lão già bèn chụp cho bà chiếc mũ ngoại tình để
rồi kết án ném đá bà cho chết. Nhưng may thay, bà đã được cậu bé
Daniel cứu thoát.
Và nhất là Đức Kitô, có lẽ Ngài là người đã bị
chụp mũ nhiều nhất. Nào là chiếc mũ lộng ngôn phạm thượng dám
xưng mình bằng Thiên Chúa. Nào là chiếc mũ phá hoại lề thói tổ
tiên vì không tuân giữ ngày nghỉ lễ. Nào là chiếc mũ phản loạn
vì tự xưng là vua và xúi dân đừng nộp thuế…Cuối cùng Ngài đã bị
đóng đinh vào thập giá như một tử tội.
Chụp mũ cho cá nhân đã đành, nhiều khi người ta
còn chụp mũ cho cả một tập thể, cả một tổ chức. Và Giáo hội Công
giáo đã trở thành nạn nhân số một trong lãnh vực này.
Thực vậy, suốt ba thế kỷ đầu, Giáo hội đã bị
chụp cho chiếc mũ là nguyên nhân gây ra những tai ương hoạn nạn
để rồi các vua chúa giáng xuống những chiếu chỉ bắt bớ và cấm
cách. Bạo vương Nêrôn, chẳng hiểu vì muốn chỉnh trang lại thành
phố Rôma hay vì muốn lấy hứng làm thơ, bèn ngầm sai người phóng
hỏa đốt cháy kinh thành, rồi chụp cho người công giáo chiếc mũ
là thủ phạm rồi ra tay tàn sát đẫm máu.
Tại Việt Nam cũng thế, các ông vua nhà Nguyễn
như Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức cũng đã chụp cho người công
giáo chiếc mũ theo tây, chiếc mũ phản quốc, chiếc mũ phá hoại
truyền thống… rồi ra lệnh truy nã.
Trong phạm vi cá nhân, hằng ngày chúng ta cũng
đã được nghe biết hay chứng kiến bao nhiêu trường hợp đau buồn
đã xảy ra. Cách đây không lâu, một nữ sinh trẻ đẹp đã nhảy xuống
sông tự tử, làm xôn xao dư luận trong nước. Lý do thật đơn giản.
Số là có một chàng thanh niên hàng xóm thầm yêu trộm nhớ cô ta,
nhưng đã bị cô ta lờ tít và chối từ. Giận cá chém thớt. Không
được ăn thì đạp đổ. Anh chàng này đã tung tin, phao đồn rằng cô
ta là đã từng ăn cơm trước kẻng, đã từng quan hệ trên mức tình
cảm cho phép với anh ta. Và thế là cô nữ sinh trẻ đẹp liền bị
mọi người nhìn bằng cặp mắt khinh bỉ. Chịu không nổi sự khinh bỉ
ấy, cô ta đã mượn dòng nước để minh chứng cho cõi lòng trong
trắng của mình.
Xem ra nạn chụp mũ ngày càng gia tăng với cấp số
nhân. Gã còn nhớ sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, hình như nhà nước
Việt Nam rất khoái dùng biện pháp chụp mũ để thực hiện những mưu
toan của mình.
Thực vậy, hầu như tất cả các văn nghệ sĩ của chế
độ cũ đều bị chụp cho một trong hai chiếc mũ, nếu không đồi trụy
thì cũng phản động, để rồi cấm tiệt việc lưu hành các tác phẩm
cũng như cấm tiệt mọi hoạt động của giới này.
Muốn tịch thu một cơ sở nào đó, thì chỉ cần nhờ
kẻ lạ dấu vào đó một vài khẩu súng, rồi ra lệnh lục soát và thế
là cơ sở ấy lập tức bị đi đoong. Muốt bắt một người nào đó, thì
chỉ cần ném vào nhà người ấy một vài tờ truyền đơn rồi chụp cho
chiếc mũ phản động, thế là người ấy bèn tiêu tùng, đi đời nhà
ma.
Có một hồi, người ta bảo Giáo Hoàng Học Viện
tại Đalat do các cha dòng Tên điều khiển là cơ sở đào tạo nhân
viên CIA, còn cất giấu nhiều vũ khí, làm cho những người sống
trong đó cứ phập phồng lo âu.
Bản thân gã cũng vậy. Vì cắm dùi tại một vùng
sâu vùng xa, thư từ thường bị thất lạc, nên gã đã phải mượn địa
chỉ của một người bạn trên tỉnh. Chẳng hiểu sao mấy ông công an
biết được, bèn mời gã tới làm việc. Họ nói :
- Chúng tôi biết anh là xịa được gài lại để quấy
phá.
- Thưa cán bộ, tôi chẳng hiểu xịa là gì thì sao
làm xịa được.
- Nếu anh không phải là xịa thì tại sao anh lại
có một hòm thư bí mật trên tỉnh để liên hệ với những người nước
ngoài.
- Thưa cán bộ, nếu tôi là xịa, thì ngu gì tôi
liên hệ với người nước ngoài bằng thư từ qua bưu điện, vì chắc
chắn thế nào cũng bị kiểm soát. Như vậy chẳng khác chi thưa ông
tôi ở bụi này. Hơn nữa, bọn xịa chẳng nhẽ lại không trang bị cho
nhân viên của mình những phương tiện hiện đại để liên hệ một
cách mau chóng, chứ ngồi đó mà chờ bưu điện chuyển theo vận tốc
rùa bò thì tới bao giờ mới nhận được và còn đâu tính cách nóng
sốt của nó nữa.
Thế là tịt ngòi.
Và hiện nay, với sự bùng nổ của thông tin qua
việc nối mạng “internet”, người ta lại càng chịu khó chụp mũ cho
nhau một cách ồn ào. Thực vậy, nếu nói theo ngôn ngữ của Phúc
Âm, thì bây giờ không còn là thời buổi người ta lấm lét xì xầm
với nhau dưới gậm giường nữa, mà là thời buổi người ta công bố
trên mái nhà. Không những chỉ công bố trên mái nhà mà còn người
ta loan truyền cho cả và thiên hạ cùng biết.
Chỉ cần ngồi nhà, bấm“con-néc” một phát, tức
khắc người ta có thể xem mọi hình ảnh và đọc mọi thứ, từ tin tức
đến những chuyện giải buồn…Nhiều khi lượng thông tin ào ạt đổ
xuống, đến tối tăm mắt mũi, không kịp thở để mà coi nữa.
Đôi lúc, gã cũng lang thang trên mạng, hay nhận
được những cái “meo”, trong đó người ta chửi nhau búa xua và
chụp cho nhau đủ các thứ mũ. Qua những tài liệu ê hề ấy, gã ghi
nhận một vài điều như sau :
Điều thứ nhất, những kẻ thích chửi bới thường
thường tự phong cho mình là thông minh uyên bác vào bậc nhất
trong thiên hạ. Thế nhưng, sự thông minh uyên bác của họ cũng
chỉ là sự thông minh uyên bác của một con ếch ngồi đáy giếng coi
trời bằng vung mà thôi.
Điều thứ hai, một khi tự cảm thấy mình thông
minh uyên bác, họ liền cho rằng mọi ý nghĩ của mình đều là “sáng
kiến” còn những ý nghĩ của người khác chỉ là “tối kiến”. Mình
luôn luôn đúng, còn người khác luôn luôn sai. Vì thế, mặc sức mà
chửi bới vung vít, như vung gươm giữa cảnh nhà hoang vườn trống.
Điều thứ ba, đối với những kẻ cùng một lập
trường, họ không ngần ngại bốc thơm và nâng lên tới tận trời
xanh, còn đối với những người không cùng một đường lối, họ sẵn
sàng bốc thối và dìm xuống tận đất đen, bằng cách chụp mũ, nào
là thân cộng, nào là phản bội quê hương, vân vân và vân vân…
Điều thứ bốn, người ta thường dùng đao to búa
lớn mà phang nhau. Ngày xưa, gã thường rất dị ứng khi nghe đài
Hà Nội gọi thằng Ngụy, thằng Mỹ, thằng Thiệu, thằng Nixon, thằng
nọ và thằng kia…Bây giờ, họ cũng dùng thứ ngôn ngữ hàng cá hàng
thịt, lái trâu lái bò mà chửi nhau như vậy. Theo gã nghĩ, dù
chửi nhau thì cũng phải chửi cho có…văn hóa, bởi vì người Việt
Nam mình vốn thường tự hào là có những bốn ngàn văn hiến kia mờ.
Sau cùng điều thứ năm, một khi đã không ưa nhau,
họ sẵn sàng vạch áo cho người xem lưng, bới móc nhau từ chuyện
chính chị chính em đến chuyện đời tư, chẳng kiêng nể gì sốt. Mà
chuyện đời tư với những mảnh tình lem nhem mới câu khách và hấp
dẫn người đọc. Nếu không có, người ta cũng dư sức tưởng tượng mà
phệu ra…cho thêm phần giật gân và lâm ly bi đát.
Thậm chí, gã có anh bạn tính làm sui với người
kia, nhưng chuyện không thành. Thế là anh bạn ấy bèn nhảy vào
trang “web” mà hạch sách, mắng mỏ cho người kia một trận te tua.
Cái gì, chứ bắn lên mạng, tung lên “net”…bây giờ
quả là việc dễ dàng như trở bàn tay, mà hậu quả lại to lớn khôn
lường vì bàn dân thiên hạ đều biết đến.
Viết tới đây bỗng gã thở dài thườn thượt. Nếu là
kẻ bi quan, gã liền sắm cho mình một chiếc mũ ni che khuất hai
lỗ tai và hai con mắt, để trở thành người không không thấy và
không không nghe, như điệp viên không không bảy vậy.
Còn nếu là người yêu đời, gã sẽ tặc lưỡi mà lẩm
bẩm :
- Kệ bà nó. Ai khen ta
mà khen phải ấy là bạn ta, còn ai chửi ta mà chửi phải ấy là
thày ta. Chiếc mũ đâu có làm nên ông cử hay ông tú.
Gã Siêu
gasieu@gmail.com
|
VỀ MỤC LỤC |
|
- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến,
bài vở..., xin gởi về địa chỉ
giaosivietnam@gmail.com
- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục
vụ của Giáo sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các
Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn
gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực
Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh
vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức
Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và
Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quí vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại
www.conggiaovietnam.net
Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị
Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã
sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác
nhau.
TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca
Phạm Quốc Sử
USA
|
|
*************
|
|