Hiến Chế Mục Vụ Về Giáo Hội Trong Thế Giới Ngày Nay
Gaudium Et Spes |
Bản dịch Việt Ngữ của Giáo Hoàng Học
Viện Piô X
Prepared for Internet by Vietnamese
Missionaries in Asia
Chương II
Cộng Ðoàn Nhân Loại
28. Kính trọng và yêu thương đối thủ.
Cũng phải kính trọng và yêu thương những người không cùng một
cảm nghĩ hoặc cùng một hành động với chúng ta trong những vấn đề
xã hội, chính trị hay cả tôn giáo nữa. Thực vậy, càng lấy sự
nhân ái và yêu thương mà tìm hiểu sâu xa hơn những cách cảm nghĩ
của họ, chúng ta càng dễ dàng có thể đi tới đối thoại với họ
hơn.
Thực ra, đức ái
và lòng nhân hậu này không bao giờ cho phép chúng ta trở thành
dửng dưng với điều chân và thiện. Hơn thế nữa, chính đức ái thúc
bách các môn đệ Chúa Kitô loan báo cho mọi người chân lý cứu
rỗi. Nhưng phải phân biệt lầm lỗi, điều luôn luôn phải loại bỏ,
với người lầm lỗi
32* vì những người lầm lỗi vẫn còn giữ được nhân phẩm,
ngay cả khi họ có những ý niệm sai lầm hoặc hơi lệch lạc về tôn
giáo
10. Chỉ có mình Thiên Chúa là quan tòa và là Ðấng thấu
suốt mọi tâm hồn: bởi vậy Ngài ngăn cấm chúng ta xét đoán tội
lỗi bên trong của bất cứ người nào
11.
Giáo lý của
Chúa Kitô cũng đòi chúng ta phải tha thứ những xúc phạm và giáo
lý ấy nới rộng giới răn yêu thương đối với tất cả kẻ thù, đó
chính là giới răn trong Luật Mới: "Các ngươi có nghe lời truyền
dạy hãy thương yêu thân nhân mà ghét thù địch mình. Còn Ta, Ta
dạy các ngươi: hãy thương yêu kẻ thù nghịch mình, cứ làm ơn cho
kẻ ghét mình, lại cầu nguyện cho những người bắt bớ vu vạ cho
ngươi nữa" (Mt 5, 43-44)
12.
29. Bình đẳng căn bản giữa mọi người
với nhau và công bình xã hội. Càng ngày càng phải
nhận thức sự bình đẳng căn bản giữa mọi người hơn, bởi vì mọi
người đều có một tâm linh và được dựng nên giống hình ảnh Thiên
Chúa nên có cùng một bản tính và cùng một nguồn gốc, hơn nữa vì
được Chúa Kitô cứu chuộc nên họ đều được mời gọi như nhau và
cùng hưởng chung một cùng đích nơi Thiên Chúa.
Dĩ nhiên mọi
người không bằng nhau vì không có khả năng thể chất như nhau và
những năng lực trí tuệ và tinh thần như nhau. Tuy nhiên phải
vượt lên trên và loại bỏ mọi hình thức kỳ thị về những quyền lợi
căn bản của con người, hoặc trong phạm vi xã hội hoặc trong phạm
vi văn hóa, kỳ thị vì phái tính, chủng tộc, màu da, địa vị xã
hội, ngôn ngữ hay tôn giáo, vì như vậy là trái với ý định của
Thiên Chúa. Do đó thực đáng buồn khi những quyền lợi căn bản của
nhân vị cho đến nay vẫn chưa được bảo đảm toàn vẹn ở mọi nơi.
Thí dụ người ta không nhìn nhận phụ nữ có quyền tự do chọn lựa
người chồng hay quyền tự do chọn bậc sống, hoặc quyền được giáo
dục và có văn hóa như nam giới
33*.
Hơn nữa, dù có
những khác biệt chính đáng giữa con người với nhau, tuy nhiên
nhân phẩm như nhau của mọi người cũng đòi hỏi người ta phải tiến
tới mức sống nhân đạo hơn và xứng hợp với con người hơn. Thực
vậy, những chênh lệch quá đáng về kinh tế và xã hội giữa những
thành phần hay giữa những dân tộc trong cùng một gia đình nhân
loại thực là những gương xấu và đi ngược với công bằng xã hội,
lẽ phải,
34* nhân phẩm và nền hòa bình xã hội cũng như quốc tế.
Còn các tổ chức
của con người hoặc tư hoặc công hãy nỗ lực phục vụ phẩm giá cũng
như cứu cánh của con người, đồng thời hãy mạnh mẽ chống lại bất
cứ hình thức nô lệ nào trên phương diện xã hội hay chính trị và
bảo vệ những quyền lợi căn bản của con người trong trong bất cứ
một chính thể nào. Hơn nữa, các tổ chức ấy còn phải dần dần phù
hợp với những việc thiêng liêng là những việc cao cả hơn hết, dù
đôi khi phải trải qua một thời gian khá lâu để đạt tới mục đích
hằng mong mỏi đó.
30. Cần phải vượt ra khỏi thứ luân lý
cá nhân chủ nghĩa. Hoàn cảnh biến đổi sâu rộng và
nhanh chóng đòi hỏi cấp bách đừng ai chủ trương một thứ luân lý
duy cá nhân mà không lưu tâm hoặc không màng chi tới diễn tiến
thời cuộc
35*. Bổn phận công bình và bác ái được chu toàn mỗi
ngày một hơn là do mỗi người biết, tùy theo những khả năng của
mình và nhu cầu của kẻ khác mà mưu ích chung, bằng cách cổ võ và
trợ giúp những tổ chức công hay tư nhằm cải thiện những điều
kiện sống của con người. Lại có những người ngoài miệng thì chủ
trương rộng rãi và đại lượng, mà thực tế họ luôn luôn sống như
chẳng quan tâm gì tới những nhu cầu của xã hội. Hơn nữa tại
nhiều nơi có nhiều người còn coi thường các luật lệ và những qui
định của xã hội. Một số người không ngần ngại dùng những hình
thức gian lận và lừa đảo để trốn những thuế vụ chính đáng hoặc
trốn tránh những gì xã hội đòi buộc. Có người lại coi nhẹ một số
luật lệ trong cuộc sống xã hội, chẳng hạn những luật lệ liên hệ
tới việc bảo vệ sức khoẻ, hoặc việc xe cộ lưu thông, bởi vì họ
không nhận thức được rằng do bất cẩn như thế sẽ gây nguy hiểm
cho tính mạng của họ và của những người khác.
Mỗi người đều
phải nhìn nhận và tôn trọng những liên đới xã hội như một trong
những nghĩa vụ chính yếu của con người thời nay. Bởi vì thế giới
càng hợp nhất thì hiển nhiên những bổn phận của con người càng
vượt trên những nhóm riêng rẽ hơn và dần dần sẽ lan rộng tới
toàn thế giới. Ðiều ấy chỉ thể hiện được một khi mỗi người và
mỗi cộng đoàn trau dồi nơi chính họ những đức tính luân lý và xã
hội, đồng thời đem những đức tính ấy gieo rắc ngoài xã hội. Như
vậy, với sự trợ giúp cần thiết của ơn thánh Chúa sẽ có những con
người thật sự mới và là những người kiến tạo một nhân loại mới.
31. Trách nhiệm và tham gia.
Ðể mỗi người chu toàn một cách cẩn thận hơn nghĩa vụ của họ đối
với mình hay đối với những cộng đoàn mà họ là thành phần, thì
với những phương thế phong phú của nhân loại ngày nay, họ phải
được giáo dục chu đáo để có văn hóa sâu rộng hơn. Trước hết cần
phải tổ chức việc giáo dục những người trẻ thuộc bất cứ thành
phần nào trong xã hội, làm sao để đào tạo được những người nam
và nữ không những tài giỏi về văn hóa mà còn có một tâm hồn cao
thượng, bởi vì thời đại chúng ta đang khẩn thiết đòi phải có
những người như vậy.
Nhưng con người
khó mà nắm được ý nghĩa trách nhiệm này nếu những hoàn cảnh sinh
sống không cho phép họ ý thức về phẩm giá của mình cũng như
không cho phép họ đáp lại sứ mệnh của mình bằng cách hiến thân
phục vụ Thiên Chúa và người khác. Ngoài ra, sự tự do của con
người nhiều lúc suy giảm đi, một khi con người rơi vào cảnh quá
cùng cực, cũng như tự do ấy bị hạ giá một khi buông thả theo
những dễ dãi quá mức trong cuộc sống, con người dường như tự
khép mình trong thứ lâu đài cô đơn ngà ngọc. Trái lại tự do ấy
được củng cố khi con người chấp nhận những ràng buộc không thể
tránh được trong cuộc sống xã hội, coi những nhu cầu muôn mặt
của tình liên đới nhân loại là của mình và tự buộc mình phải
phục vụ cho cộng đoàn nhân loại.
Vì thế, thiện
chí muốn góp phần vào những công việc chung cần được cổ võ nơi
mọi người. Ngoài ra phải ca tụng đường lối của những quốc gia
đang để cho càng đông công dân càng tốt được tham gia việc nước
trong sự tự do đích thực. Tuy nhiên cần phải lưu ý tới hoàn cảnh
thực tế của mỗi dân tộc cũng như tới uy quyền cần thiết của
quyền bính quốc gia. Hơn nữa, để mọi công dân phấn khởi tham dự
vào cuộc sống của các đoàn thể tạo nên cơ cấu xã hội, thì họ cần
phải tìm được trong những tổ chức ấy, những lợi ích lôi cuốn họ
và giúp họ sẵn sàng phục vụ người khác. Chúng ta có thể nghĩ một
cách hợp lý rằng số phận mai sau của nhân loại nằm trong tay
những người có khả năng trao cho hậu thế những lý do để sống và
để hy vọng.
32. Ngôi Lời Nhập Thể và tình liên đới
nhân loại. Thiên Chúa đã dựng nên con người không
phải để sống riêng rẽ nhưng để tạo nên sự liên kết xã hội. Cũng
thế "... Thiên Chúa không muốn thánh hóa và cứu rỗi loài người
cách riêng rẽ, thiếu liên kết, nhưng Ngài muốn qui tụ họ thành
một dân tộc để họ nhận biết chính Ngài trong chân lý và phụng sự
Ngài trong thánh thiện"
13. Ngay từ khởi đầu lịch sử cứu rỗi chính Ngài đã
chọn con người, không phải với tính cách như những cá nhân,
nhưng như những phần tử của một cộng đoàn. Thực thế, trong khi
Thiên Chúa biểu lộ ý định của Ngài, Ngài cũng đã gọi những người
được chọn là "dân Ngài" (Xac 3,7-12), hơn nữa còn ký kết giao
ước với dân ấy tại Sinai
14.
Tính chất cộng
đoàn này nhờ công nghiệp của Chúa Giêsu Kitô được kiện toàn và
hoàn tất. Chính Ngôi Lời Nhập Thể đã muốn chia sẻ tình liên đới
nhân loại. Người đã hiện diện tại tiệc cưới Cana, đã vào nhà
Giakêu, đã ăn uống với những người thu thuế và những người tội
lỗi. Người đã mạc khải tình yêu thương của Chúa Cha và sứ mệnh
cao cả của con người, khi Người nhắc tới những điều hết sức
thông thường trong xã hội và dùng những kiểu nói cũng như những
hình ảnh hoàn toàn thuộc cuộc sống thường nhật. Tự ý tuân phục
những luật lệ trong quốc gia Người, Người đã thánh hóa những mối
liên hệ của con người, nhất là những liên hệ thuộc về gia đình
là nguồn gốc phát sinh những liên hệ xã hội. Người đã muốn sống
cuộc sống của những thợ thuyền với người đương thời nơi quê
hương Người.
Trong khi rao
giảng, Người đã truyền dạy rõ ràng cho con cái Thiên Chúa phải
cư xử với nhau như anh em. Lúc cầu nguyện, Người đã xin cho tất
cả các môn đệ Người được nên "một". Hơn nữa, là Ðấng Cứu Chuộc
mọi người, chính Người đã tự hiến thân chết cho mọi người.
"Chẳng ai có lòng thương yêu hơn kẻ liều mạng sống mình vì bạn
hữu" (Gio 15,13). Người còn ra lệnh cho các Tông Ðồ rao giảng sứ
điệp Phúc Âm cho muôn dân để nhân loại trở nên gia đình của
Thiên Chúa, trong đó sự sung mãn của lề luật chính là đức ái.
Là trưởng tử
của một đoàn anh em đông đúc, sau khi chết và sống lại, Người đã
thiết lập nhờ hồng ân của Thánh Thần Người một sự kết hiệp huynh
đệ mới giữa tất cả những kẻ đón nhận Người với đức tin và đức ái
trong chính Thân Thể của Người tức là Giáo Hội, ở đấy mọi người
là chi thể với nhau, tùy theo những ơn đã lãnh nhận mà phục vụ
lẫn nhau.
Tình liên đới
này cần phải được gia tăng luôn mãi cho tới ngày nó được hoàn
tất, và ngày đó nhờ được ơn thánh cứu thoát, loài người như một
gia đình được Thiên Chúa và Chúa Kitô là Anh yêu thương, sẽ dâng
lên Thiên Chúa lời chúc tụng toàn hảo.
Chú Thích:
(lưu ý:
những số ghi chú nhỏ hơn đã được đăng vào những số báo trước)
33* Ðây chỉ là một thí dụ về
việc kỳ thị căn cứ vào giới tính. Trong xã hội
thấm nhuần văn minh Nho Giáo và Phật Giáo, sự kỳ thị này có ít
hay nhiều, tùy trường hợp (coi sau này: số 60c).
34*
Ðức công bằng giúp ta trả cho mọi người của riêng họ. Từ xưa đã
có thói quen phân biệt công bằng giao hoán đối với từng phần tử
xã hội, giúp mỗi người trao trả cho người khác tất cả những gì
mà kẻ ấy có quyền đòi hỏi; công bằng pháp lý đối với chính cộng
đoàn xã hội, khiến mọi cá nhân hoạt động theo những đòi hỏi của
ích chung; công bằng phân phối của xã hội (nhờ các đại diện của
xã hội) đối với mọi phần tử cộng đoàn, thúc đẩy xã hội phân chia
nhiệm vụ cũng như quyền lợi giữa phần tử của cộng đoàn một các
chính đáng. Theo văn kiên của Tòa Thánh (Ðức Piô XI và XII):
công bằng xã hội phải được hiểu như công bằng pháp lý tổng quát,
nghĩa là nhân đức khiến mọi phần tử của xã hội thực hiện mọi
nhân đức khác mỗi khi ích chung đòi hỏi như vậy (theo như Thánh
Tôma dạy, II-II, q. 58, a a. 5-7 (x. Calvez-Perrin, Eglise et
Société économique. L?Enseignement social des Papes de Léon XIII
à Pie XII, Paris 1959, trg 192-203 và 543-567).
"Aequitas" (lẽ phải) là danh từ có nghĩa gần
giống danh từ công bằng, nhưng phong phú hơn: không chỉ dựa trên
nguyên tắc pháp lý để giải quyết một vấn đề, mà còn cố gắng cân
nhắc các hoàn cảnh chủ quan cũng như khách quan. Sự trọng tài
giữa người phá hoại và nạn nhân có lẽ không thỏa mãn đòi hỏi của
nguyên tắc công bằng giao hoán, nhưng trong hoàn cảnh thực tế
rất có thể là giải pháp tốt nhất: thích hợp cho con người.
35* Phải chăng đây là điều
hơi lạ khi Công Ðồng chỉ nêu ra lý do nhất thời của những xu
hướng hiện đại? Nếu con người có bản tính xã hội (Công Ðồng đã
xác nhận điều này ở trên, số 24-25), phải chăng con người không
thể chỉ hoạt động tuân theo một luân lý cá nhân? Ngoài ra, đức
tin lại không nhấn mạnh rằng đức bác ái là trên hết hay sao? ...
Tố cáo Giáo Hội chỉ mới bắt đầu lưu tâm đến các vấn đề xã hội từ
cuối thế kỷ 19, nghĩa là sau cuộc cách mạng kỹ thuật và theo sau
các phong trào xã hội chủ nghĩa, tố cáo như thế chỉ là không
biết lịch sử mà thôi (ví dụ như từ trong CvTđ 2, 44-45; 4,32-35
đến các nhà Dòng chuyên lo chuộc lại những người bị tù hay
chuyên săn sóc bệnh nhân v.v...). Nhưng đàng khác không thể phủ
nhận được rằng những triết thuyết từ thời cải cách tin lành trở
đi đã ảnh hưởng tới quan niệm tôn giáo rất nhiều đến nỗi có
nhiều tín hữu đạo đức trong các bổn phận cá nhân mà lại không
biết tôn trọng công bằng và bác ái xã hội chút nào. "Tôi không
giết người, không cướp của người" là những câu năng được nghe và
chúng đã tỏ lộ thứ quan niệm ấy. Thế thì làm thiệt hại cho tha
nhân, không kính trọng quyền lợi của tha nhân không phải là cách
giết và cướp của người ta hay sao? Ngoài ra họ có lo gì cho
những đòi hỏi của ích chung không?... Vả lại trước đây trong các
lớp dạy giáo lý và luân lý thần học cũng gần như chỉ biết nhấn
mạnh thái độ cá nhân về các bổn phận luân lý. Dạy về bổn phận cá
nhân đối với cá nhân tương đối là dễ; trái lại dạy về bổn phận
đối với tha nhân vô danh và đối với ích chung thì khó. Chắc chắn
là cần phải nhấn mạnh đến các nguyên tắc và đào tạo lương tâm
của mọi giáo dân để họ trưởng thành và biết tự xét đoán mọi hoàn
cảnh, hơn là tiếp tục để cho họ chỉ biết hoạt động theo những
giải quyết từng chi tiết của các giáo sĩ. Số 31 phác họa một
chương trình căn bản về việc giáo dục xã hội.
còn tiếp |
VỀ MỤC LỤC |
|
Xin Hiệp thông cầu nguyện cho Giáo Hội Việt Nam |
HỌP BAN THƯỜNG VỤ (MỞ
RỘNG)
HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC
VIỆT NAM
Ngày 20-6-2007 vừa qua, tại Trung tâm Công
giáo số 72/12 Trần Quốc Toản, P.8, Q.3, Tp.HCM đã diễn ra buổi
họp Ban thường vụ mở rộng của Hội đồng Giám mục Việt Nam. Tham
dự buổi họp có Đức cha Phaolô Nguyễn Văn Hòa chủ tịch Hội đồng
Giám mục Việt Nam, Đức Hồng y G.B Phạm Minh Mẫn phó chủ tịch,
Đức Tổng Giám mục Giuse Ngô Quang Kiệt phó Tổng Thư ký thay Đức
cha Tổng Thư ký Phêrô Nguyễn Soạn bị đau. Ngoài ra có còn sự
hiện diện của Đức cha Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, Phaolô Bùi Văn Đọc,
Giuse Vũ Duy Thống, Stêphanô Tri Bửu Thiên, Phêrô Nguyễn Văn Đệ,
Giuse Võ Đức Minh, Giuse Châu Ngọc Tri, Giuse Hoàng Văn Tiệm,
Antôn Vũ Huy Chương, Phaolô Nguyễn Văn Hoan, Giuse Nguyễn Văn
Yến (phụ trách Ban Bác ái Xã hội các giáo phận miền Bắc) và hai
cha thư ký Phêrô Phan Xuân Thanh (Huế) và Antôn Nguyễn Ngọc Sơn
(Tp.Hồ Chí Minh).
Đúng 8 giờ sáng, sau lời Kinh khai mạc của Đức cha chủ tịch, các
Uỷ ban bắt đầu báo cáo công việc của mình trong 8 tháng qua. Văn
phòng Thư ký Hội đồng Giám mục cũng báo cáo tổng kết các công
tác như liên lạc, nghiên cứu, in các bộ sách mới nhất là Bộ Giáo
luật 1983 với phần mục lục phân tích chủ đề rất công phu dành
cho mọi thành phần dân Chúa.
Sau phần báo cáo tổng kết, Đức cha Giuse Vũ Duy Thống trình bày
phác thảo bố cục nội dung Thư Chung 2008 với chủ đề “Giáo dục
Kitô giáo”..
Hội nghị cũng bàn việc chuẩn bị cho Đại hội Thường niên của Hội
đồng Giám mục Việt Nam sẽ được tổ chức ở Hà Nội từ ngày 08-12/10
với những nội dung quan trọng:
- Bầu lại nhân sự Ban Thường Vụ và các Uỷ ban.
- Bàn về mối tương quan giữa các Hội đồng Giám mục, nhất là các
Hội đồng Giám mục trong vùng Đông Nam Á và dự tính mời đại biểu
Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ sang thăm Việt Nam.
- Bàn cơ cấu Hội đồng Giám mục: hoàn thiện Quy chế Hội đồng Giám
mục và tìm ra một Tổng thư ký không phải là Giám mục để có nhiều
thời gian, toàn tâm toàn ý điều hành công việc. Bên cạnh đó
chuẩn bị tìm phát ngôn viên chính thức của Hội đồng Giám mục
nhằm tăng cường cho Tổng Văn phòng Thư ký.
- Bàn về chương trình dài hạn của Hội đồng Giám mục với các dự
án La Vang (Huế), Toà Khâm sứ (Hà Nội) và Giáo hoàng viện (Đà
Lạt).
- Hội nghị cũng thấy cần lập thêm Uỷ ban Giáo dục chuyên lo về
Giáo dục Kitô giáo cho Hội đồng Giám mục.
- Ban Thường vụ xin Uỷ ban Bác ái Xã hội theo dõi các hoạt động
thời sự, tình hình xã hội để giúp cho Hội đồng Giám mục có thể
lên tiếng trước những vấn đề xã hội.
- Uỷ ban Bác ái Xã hội đang hoàn thành bản thảo và sẽ xuất bản
quyển Giáo huấn Xã hội của Giáo hội Công giáo để giúp cho các
linh mục, tu sĩ và giáo dân vấn đề về xã hội.
- Năm 2010 là năm kỷ niệm 50 năm thành lập hàng giáo phẩm tại
Việt Nam. Hội đồng Giám mục Việt Nam dự tính tổ chức Synode
(Công đồng) để tổng kết hoạt động trong 50 năm qua và đề ra bước
tiến mới cho Giáo hội Việt Nam. Synode sẽ có sự tham gia của mọi
thành phần Dân Chúa.
- Văn phòng Thư ký giới thiệu với các Giám mục “Kế hoạch phát
triển Giáo hội Việt Nam từ 2008-2010 và mở rộng tới năm 2020 qua
các tài liệu nghiên cứu.
- Bên cạnh đó Ban Thường vụ cũng bàn về một số vấn đề khác: vấn
đề cha Nguyễn văn Lý, lập các chương trình kế hoạch đào tạo cho
chủng sinh, các thành phần dân Chúa tham dự trong những hội nghị
của Hội đồng Giám mục, vấn đề truyền giáo và giúp đỡ đồng bào
dân tộc thiểu số…
Buổi họp Ban Thường vụ mở rộng kết thúc vào lúc 14 giờ cùng
ngày. Sau đó các Giám mục dùng bữa cơm thân mật tại trung tâm
Công giáo.
Nguồn: VPTK/HĐGMVN |
VỀ MỤC LỤC |
|
Việc Đào tạo chủng sinh
trong các Đại chủng viện
tại Việt Nam |
Kính thưa Quí Độc giả
GSVN
Đặc san GSVN rất trân trọng sự quan tâm của Quí
vị muốn biết thực sự việc Đào tạo chủng sinh trong các Đại chủng
viện tại Việt Nam như thế nào, giữa một hoàn cảnh khá phức tạp
và nhiều thách đố. Đặc biệt là hai chi tiết đang được chú ý :
Các chủng sinh có được giảng dạy về « Học thuyết xã hội của Giáo
hội » hay không ? Và ngược lại, bộ môn được cán bộ nhà nước trực
tiếp giảng dạy trong các ĐCV như thế nào ?
Sau khi xin ý kiến của những Linh mục uy tín, đã
nhiều chục năm miệt mài với công việc đào tạo chủng sinh trong
cả 3 miền đất nước. GSVN xin chuyển đến quí Độc giả một vài
thông tin đáng tin cậy:
Chủng viện nào cũng dạy môn « Học thuyết xã hội
của Giáo Hội », còn việc áp dụng thì không luôn đuợc như lòng
mong muốn và đồng bộ như nhau cho mọi nơi và mọi hoàn cảnh.
Việc cán bộ nhà nước vào dạy môn "Công dân giáo
dục" cho chủng sinh là sự thật, nhưng không gây trở ngại nhiều.
Nhất là chúng ta hoàn toàn có thể tín nhiệm vào sự quan phòng kỳ
diệu của Thiên Chúa, cộng với sự trưởng thành của các chủng sinh
(mà hầu hết đã phải sống thời gian “tiền chủng viện” hàng chục
năm…)
Các Đức Giám Mục và các Ban đào tạo luôn cố
gắng hết sức để có thể chu toàn trách nhiệm của mình dù trong
hoàn cảnh khó khăn hay thuận lợi.
Việc đào tạo chủng sinh tại Việt Nam hiện
nay, có nhiều khó khăn như thiếu nhân sự (giáo sư), thiếu cơ sở
vật chất do số lượng chủng sinh tăng, và rất cần được xã hội
chấp nhận đổi mới hơn nữa trong các cơ chế hiện hành.
GSVN xin trích một đọan trong cuốn "Đào
Tạo và Tự Đào Tạo Thiêng Liêng Của Các Linh Mục Tương Lai Trong
Bối Cảnh Việt Nam Ngày Nay"
Nguyên bản tiếng Anh của Lm. Micae-Phaolô
TRẦN MINH HUY, Xuân Bích.
Bản dịch Việt ngữ của Lm. Vincentê Trần Minh
Thực, Lm. Gioan Baotixita Nguyễn văn Hào, Ứng viên Xuân Bích.
Tác phẩm này đã được Xuất bản bởi Học Viện
Đời Sống Thánh Hiến tại Á Châu
Institute for Consecrated Life in Asia (ICLA)
Quí độc giả có thể tham khảo trọn vẹn tác
phẩm tại
http://www.conggiaovietnam.net/
Hoặc cũng có thể yêu cầu GSVN gởi trực tiếp
qua email cho từng cá nhân.
Hội Nghị Các Đại Diện Chủng Viện Hai Năm Một Lần
1. Hoạt Động Của Các Đại Diện Tại Các Cuộc Họp
Dù có nhiều khó
khăn, việc đào tạo linh mục tại Việt Nam cho thấy có nhiều hứa
hẹn. Các cấp chính quyền đã cho phép các đại diện thường trú của
sáu đại chủng viện được tổ chức họp mặt hai năm một lần, luân
phiên tại sáu đại chủng viện. Các cấp chính quyền cho những cuộc
họp mặt này một tầm quan trọng đặc biệt khi nhận ra rằng các
chủng viện đang đào tạo những nhà lãnh đạo tương lai cho Giáo
Hội.
Trong những
cuộc họp mặt này, các vị đại diện chủng viện nhìn lại những gì
đã diễn ra qua việc xem xét những báo cáo thường niên của mỗi
chủng viện. Các ngài suy nghĩ và thảo luận về một trong bốn
chiều kích của Pastores Dabo Vobis (nhân bản, thiêng liêng, tri
thức và mục vụ). Các tham dự viên cũng chia sẻ một số những khó
khăn mà các ngài trải nghiệm trong những khía cạnh khác nhau của
việc đào tạo tại chủng viện. Qua những chia sẻ và những tương
tác như thế, các ngài nâng đỡ và khích lệ lẫn nhau trong sứ vụ
khó khăn này. Sau những cuộc họp mặt này, các nhà đào tạo nắm
bắt và lượng định một cách rõ ràng hơn những nhu cầu cụ thể của
việc đào tạo ở chủng viện đối với mỗi Giáo Hội địa phương. Những
nhu cầu này sẽ được ưu tiên tuỳ theo mức độ cấp thiết.
2. Đề Nghị của Các Đại Diện Đối Với Chính Quyền
Trong những
cuộc họp mặt này, một phái đoàn của Ban Tôn Giáo Trung Ương và
Ban Tôn Giáo tỉnh tới thăm và nói chuyện với các tham dự viên.
Các tham dự viên trình bày cho phái đoàn này những kiến nghị.
Những kiến nghị đó bao gồm: giảm thời
gian dành cho môn giáo dục công dân, xoá bỏ việc hạn chế con số
các ứng viên vào chủng viện, và xoá bỏ việc thẩm tra lý lịch
những chủng sinh tốt nghiệp chủng viện.
Các ngài cũng
trình bày với phái đoàn của chính quyền một số đề xuất như: mỗi
giáo phận được phép mở một nhà đào tạo tiền chủng viện; các giáo
phận được phép tuyển lựa các ứng viên hằng năm thay vì hai năm
một lần; có thêm một năm nữa cho tiến trình đào tạo tại chủng
viện để dành cho việc thực tập mục vụ; cuộc họp mặt các nhà đào
tạo mở rộng ra với cả đội ngũ giảng dạy không thường trú tại
chủng viện; xoá bỏ việc những ai tới
dạy chủng viện phải được chính quyền chấp thuận trước; và các
linh mục và những vị dạy tại chủng viện được theo học những khoá
dài hạn hoặc cập nhật ở ngoại quốc.
Các ngài cũng bày tỏ hy vọng thường xuyên nhận được các tài liệu
của Toà Thánh; rằng thủ tục nhập cảnh sách vở và báo chí dùng
trong chủng viện được đơn giản hoá.
Các ngài cũng quan tâm lo lắng về sự trì hoãn chấp thuận cho mở
phân hiệu của chủng viện Thành Phố Hồ Chí Minh, và
cần tạo nhiều điều kiện thuận lợi để
mời những người Việt Nam ở hải ngoại và các giáo viên người nước
ngoài tới dạy hoặc thuyết trình tại các chủng viện.
3. Đề Nghị Của Các Đại Diện Với Lãnh Đạo Giáo Hội
Đối với các vị
lãnh đạo Giáo Hội, đại diện các chủng viện cũng trình lên những
mong đợi. Các ngài xin các Giám Mục làm cho toàn thể mọi người
Công giáo, đặc biệt là các cha xứ, ý thức được rằng mọi thành
phần Hội Thánh đều có trách nhiệm trong công tác đào tạo các
linh mục tương lai, bao gồm cả việc thực tập mục vụ của các
chủng sinh.
Nhu cầu khẩn
thiết hiện nay là cần nhiều nhà đào tạo chất lượng, và nhu cầu
cho các nhà đào tạo nâng cao kiến thức của mình qua việc trao
đổi giữa Giáo Hội Việt Nam với các Giáo Hội trong khu vực, và
bằng các cuộc hội thảo cũng như các khoá đào tạo ngắn hạn, cũng
được đề xuất.
GSVN
|
VỀ MỤC LỤC |
|
MỘT CÁI NHÌN MỚI
GIÁO XỨ LÀ MỘT CỘNG ĐOÀN HIỆP THÔNG |
GIÁO XỨ
Chúng ta không thể nào sống cô độc lẻ loi
như một hòn đảo giữa biển khơi, hay như một pháo đài biệt lập.
Trái lại, chúng ta sống là sống với người khác trong một cộng
đoàn, trong một xã hội. Về phương diện tôn giáo, cộng đoàn đầu
tiên, xã hội đầu tiên chúng ta sống với, đó là gia đình, tiếp
đến là giáo xứ. Vậy giáo xứ là gì ?
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã đưa ra một
định nghĩa như sau :
“Giáo xứ là nơi thông thường cho tín hữu
qui tụ lại để được lớn lên trong đức tin, để sống màu nhiệm hiệp
thông Giáo hội và tham gia vào sứ mạng của Giáo hội.” (Ecclesia
in Asia số 25).
Vậy chúng ta phải sống tinh thần hiệp thông
trong giáo xứ như thế nào, hay nói cách khác, chúng ta phải làm
gì để giáo xứ trở thành một cộng đoàn hiệp thông ?
CHỦ CHĂN HIỆP THÔNG VỚI
GIÁO DÂN
Như chúng ta đã biết : giáo xứ là một cộng
đoàn, là một xã hội vì thế phải có những người đứng đầu, những
vị lãnh đạo. Người đứng đầu và lãnh đạo trong giáo xứ thường là
các linh mục, chúng ta gọi chung bằng một danh từ đó là những vị
chủ chăn. Để tạo được một bàu khí hiệp thông, những vị chủ chăn
cần lưu ý tới một số điểm sau đây :
- Tinh thần phục vụ :
Hẳn chúng ta còn nhớ, trong Phúc âm có lần
Chúa Giêsu đã xác quyết với các môn đệ : “Ai muốn làm lớn giữa
anh em, thì phải làm người phục vụ anh em. Và ai muốn làm đầu
anh em thì phải làm đầy tớ anh em”. (Mt 20,26-28). Vì thế, mọi
chức vụ trong Giáo hội là để phục vụ, kể cả chức vụ Linh mục :
“Các chủ chăn trong Giáo hội noi gương Chúa
phải phục vụ lẫn nhau và phục vụ các tín hữu khác.” (GH số 32).
“Giáo dân cũng có quyền được các chủ chăn
có chức thánh ban phát dồi dào các ơn trợ lực chứa đựng trong
các kho tàng thiêng liêng của Giáo hội, đặc biệt là Lời Thiên
Chúa và các bí tích.” (GH số 37).
- Tinh thần cha con.
Tinh thần phục vụ này được biểu lộ trong
mối liên hệ cha-con giữa các chủ chăn và các tín hữu :
“Linh mục phải săn sóc các tín hữu như
những người cha trong Chúa Kitô, vì đã sinh họ cách thiêng
liêng nhờ phép Thánh tẩy và giáo huấn (1Cor 5,15 và 1P 1,23).
(GH số 28)
- Nêu gương cho đoàn chiên.
“Nêu gương cho đoàn chiên (1P 5,3), Linh
mục phải làm sao hướng dẫn và phục vụ cộng đoàn địa phương của
mìnnh để họ xứng đáng mang danh hiệu Giáo hội Thiên Chúa (1Cor
1,2; 2Cor 1,1), là danh hiệu riêng biệt của toàn thể dân Thiên
Chúa, là dân duy nhất.
- Tinh thần cộng tác.
Để tạo được một sự cộng tác chân thành, các
vị chủ chăn phải :
* Chấp nhận vai trò của giáo dân trong cộng
đoàn Dân Chúa :
“Phần các vị chủ chăn có chức thánh, các
ngài phải nhìn nhận và nâng cao phẩm giá và trách nhiệm của
giáo dân trong Giáo hội…” (GH số 37).
* Chấp nhận những ý kiến đóng góp :
“Các ngài nên sẵn sàng chấp nhận những ý
kiến khôn ngoan của họ.” (GHI số 37).
* Xem xét những khát vọng của họ để đưa ra
những chương trình mục vụ thích hợp :
“Với tinh thần cha con, các ngài hãy cẩn
thận xem xét, trong Chúa Kitô, những kế hoạch, thỉnh cầu và khát
vọng của họ.
* Giáo dân ngày nay tương đối đã trưởng
thành, chứ không còn thái độ “gọi dạ bảo vâng”, vì thế chủ chăn
cần phải tôn trọng sự tự do :
“Đàng khác, chủ chăn phải nhìn nhận và tôn
trọng sự tự do chính đáng của mọi người trong lãnh vực trần
thế.” (GH số 37).
Đặc biệt phải tín nhiệm họ và trao cho họ
những công việc cụ thể cần phải làm :
“Các ngài nên tin cẩn giao cho họ những
công tác để họ phục vụ Giáo hội, cho họ tự do và quyền hạn để
hành động. Hơn nữa, các ngài cũng nên khuyến khích họ tự đảm lấy
trách nhiệm.” (GH số 37)
- Những người cần được quan tâm.
Các chủ chăn cần tìm ra những phương cách
hữu hiệu để hướng dẫn mọi thành phần Dân Chúa, nhất là người
nghèo :
“Thế nên, các nghị phụ Thượng Hội Đồng thúc
giục các vị chủ chăn hãy nghĩ ra những phương cách mới mẻ và hữu
hiệu để chăn dắt các tín hữu, làm sao cho mỗi người, nhất là
người nghèo cảm nhận được mình là một thành phần thực thụ của
giáo xứ và của toàn thể Dân Chúa.” (Ecclesia in Asia số 25).
* Tuy nhiên, các vị chủ chăn cũng nên lưu
tâm đến giới trẻ :
“Thượng Hội Đồng lưu ý đặc biệt hơn nữa
giới trẻ là thành phần mà giáo xứ cần phải tạo nhiều điều kiện
hơn để họ hiệp thông và cộng tác.” (Ecclesia in Asia số 25).
* Những người bỏ đạo :
“Như mục tử tốt lành, linh mục còn phải đi
tìm (Lc 15,4-7) những người đã lãnh nhận phép thanh tẩy trong
Giáo hội công giáo, nhưng đã xao lãng không lãnh nhận các bí
tích hay đã mất đức tin.” (GH số 28).
Đồng thời đặc biệt giúp đỡ những nhóm,
những cộng đoàn “nhỏ và đẹp” :
“Các nghị phụ Thượng Hội Đồng nhấn mạnh tới
giá trị của các cộng đoàn Giáo hội cơ bản như một phương thế hữu
hiệu để đẩy mạnh sự hiệp thông và cộng tác trong các giáo xứ và
giáo phận như một lực lượng thực sự cho công cuộc phúc âm hóa.
Những tập thể này còn giúp các đoàn viên Tin mừng trong tinh
thần yêu thương huynh đệ và phục vụ, từ đó trở thành điểm khởi
hành vững chắc cho một xã hội mới, biểu hiện một nền văn minh
tình thương.” (Á Châu số 95).
GIÁO DÂN HIỆP THÔNG VỚI
CHỦ CHĂN.
Công đồng đã định nghĩa :
“Giáo dân là tất cả những Kitô hữu không
thuộc hàng giáo sĩ và bậc tu trì được Giáo hội công nhận; nghĩa
là những Kitô hữu đã được tháp nhập vào Thân thể Chúa Kitô nhờ
phép Thanh tẩy, đã trở nên dân Thiên Chúa và tham dự vào chức vụ
tư tế, tiên tri và vương giả của Chúa Kitô theo cách thức của
họ. Họ là những người đang thực hiện sứ mệnh của toàn dân Kitô
giáo trong Giáo hội và trên trần gian theo phận vụ riêng của
mình.” (GH số 31).
Là phần tử của Giáo hội, người giáo dân
cũng có bổn phận vào sự phát triển của Giáo hội : “mọi người
cùng góp phần vào công cuộc chung, tùy theo cách thức của mình.”
(GH số 30). Thực vậy, nét đặc sắc của người giáo dân đó là họ
sống giữa trần gian : Tính cách trần thế là tính cách riêng biệt
và đặc thù của giáo dân (GHI số 31). Họ đem lại nhiều lợi ích
cho Giáo hội : “Các chủ chăn của Dân thánh biết rõ giáo dân giúp
ích rất nhiều cho toàn thể Giáo hội.” (GH số 30). Nhưng theo
phương thế riêng của mình bởi vì họ sống giữa lòng cuộc đời :
“Vì ơn gọi riêng, giáo dân có bổn phận tìm
kiếm nước Thiên Chúa bằng cách làm các việc trần thế và xếp đặt
chúng theo ý Thiên Chúa. Họ sống giữa trần gian, nghĩa là giữa
tất cả cũng như trong từng công việc và bổn phận trần thế, giữa
những cảnh sống thường ngày trong gia đình và ngoài xã hội : tất
cả những thứ đó dệt thành cuộc sống của họ. Đó là nơi Thiên Chúa
gọi họ, để dưới sự hướng dẫn của tinh thần Phúc âm, như men bên
trong, họ thánh hóa thế giới bằng việc thi hành những nhiệm vụ
của mình…” (GH số 31).
“Giáo dân được đặc biệt kêu mời làm cho
Giáo hội hiện diện và hoạt động nơi và trong những hoàn cảnh mà
nếu không có họ, thì Giáo hội sẽ không trở thành muối của thế
gian.” (GH số 33).
Họ làm chứng bằng chính cuộc sống cá nhân
và gia đình của họ :
“Công cuộc rao giảng Phúc âm đó, nghĩa là
sự loan báo Chúa Kitô bằng đời sống, chứng tá và lời nói, mang
một sắc thái và một hiệu quả đặc biệt vì được thể hiện trong
những hoàn cảnh chung của trần gian.” (GH số 35).
“Có một bậc sống rất giá trị để thể hiện
nhiệm vụ đó, bậc sống được một bí tích đặc biệt thánh hóa, đó là
đời sống hôn nhân và gia đình. Gia đình là môi trường hoạt động
và trường học tuyệt diệu cho việc tông đồ giáo dân. Từ gia đình,
Kitô giáo thấm nhập vào các tổ chức cuộc sống và dần dần biến
đổi các tổ chức ấy.” (GH số 35).
Như vậy, “trước mặt nhân loại, mỗi giáo dân
phải là chứng nhân của sự phục sinh và sự sống của Chúa Giêsu,
đồng thời là dấu hiệu của Thiên Chúa hằng sống. Tất cả và mỗi
người góp phần nuôi dưỡng thế giới bằng những hoa trái thiêng
liêng và truyền bá cho thế gian tinh thần của những người nghèo
khó, hiền lành và hiếu hòa, những người mà Phúc âm Chúa đã tuyên
bố là có phúc. Tóm lại, người Kitô hữu hãy làm cho thế giới sống
như linh hồn làm cho thân xác sống.” (GH số 33).
Người giáo dân phải khéo léo tìm hiểu sâu
xa hơn chân lý Chúa mạc khải, để khả dĩ có thể hiệp thông và
giúp nhau nên thánh :
“Giáo dân phải giúp nhau sống đời thánh
thiện, nhờ những việc trần thế, để thế gian thấm nhuần tinh thần
Chúa Kitô và đạt đến cùng đích một cách hữu hiệu hơn trong công
lý, bác ái và hòa bình.” (GH số 36).
Đồng thời, họ còn có bổn phận phải liên kết
với chủ chăn. Như trong một thân thể, mỗi chi thể tuy khác biệt
những vẫn hiệp nhất để đem lại sức sống cho toàn thân :
“Thực vậy, nếu Chúa phân biệt những thừa
tác viên có chức thánh với các thành phần khác của Dân Thiên
Chúa, thì sự phân chia này vẫn hàm chứa một sự hiệp nhất, vì chủ
chăn và các tín hữu khác liên kết với nhau do những mối dây liên
hệ chung.” (GH số 32).
“Phần các tín hữu phải sẵn lòng hợp tác với
các chủ chăn và những người giảng dạy.” (GH số 32).
“Giáo dân còn được mời gọi góp phần trực
tiếp bằng nhiều cách và công cuộc tông đồ của hàng giáo phẩm.”
(GH số 33).
Để sự cộng tác được tốt đẹp và mang lại lợi
ích, người giáo dân cần phải :
* Thẳng thắn trình bày những ý kiến xây
dựng của mình :
“Như con cái Thiên Chúa và như anh em trong
Chúa Kitô, họ cũng sẽ trình bày với các vị ấy những nhu cầu và
khát vọng của mình một cách tự do và tin cẩn. Nhờ sự hiểu biết,
khả năng chuyên môn và uy tín của họ, họ có thể và đôi khi còn
có bổn phận phải bày tỏ cảm nghĩ mình về những việc liên quan
đến lợi ích của Giáo hội.
* Chấp nhận những quyết định của các vị chủ
chăn :
“Như mọi tín hữu khác, với tinh thần vâng
lời của người Kitô hữu, giáo dân cũng hãy mau mắn chấp nhận
những điều mà các chủ chăn có nhiệm vụ thánh đại diện Chúa Kitô
đã quyết định với tư cách những thày dạy và những nhà lãnh đạo
trong Giáo hội; làm như thế, họ đã theo gương Chúa Kitô đấng đã
vâng lời cho đến chết để mở đường hạnh phúc của sự tự do con cái
Thiên Chúa cho tất cả mọi người.” (GH số 37).
KẾT LUẬN
Chính sự cộng tác chân thành giữa chủ chăn
và giáo dân sẽ mang lại những hoa trái tốt đẹp cho Giáo hội :
“Hy vọng rằng sự liên lạc mật thiết giữa
giáo dân và chủ chăn sẽ đem lại rất nhiều lợi ích cho Giáo hội :
Thực vậy, nhờ sự liên lạc đó, giáo dân ý thức trách nhiệm mình
một cách vững vàng hơn; lòng hăng say của họ được phát triển, và
họ góp sức dễ dàng hơn vào công việc của các chủ chăn. Phần các
chủ chăn, nhờ sự trợ lực kinh nghiệm của giáo dân, các ngài có
thể phán đoán minh bạch và đúng đắn hơn về những vấn đề thiêng
liêng cũng như trần thế; như vậy, toàn thể Giáo hội được vững
mạnh nhờ tất cả mọi chi thể, sẽ chu toàn hữu hiệu hơn sứ mệnh
mình đối với sự sống của thế gian.” (GHK số 242).
GSVN |
VỀ MỤC LỤC |
|
NHẬN HIỂU Ý NGHĨA VÀ MỤC ĐÍCH SÂU XA HƠN CỦA ƠN GỌI LINH MỤC |
Tác phẩm Giáo Hội Cần Loại Linh Mục
Nào? (tiếp theo)
Lm Giuse Lê Công Đức chuyển ngữ từ bản tiếng Anh:
PRIESTHOOD IMPERILED, Tác giả:
Lm. BERNARD HARING, C.SS.R.
Tiếng gọi đặc biệt dành
cho Matthêu (Lêvi) là một ví dụ hùng hồn về ơn gọi nhưng không
đối với giáo dân cũng như giáo sĩ. Khi Đức Giêsu đi ngang qua,
Ngài trông thấy một người đàn ông tên là Matthêu đang ngồi ở bàn
thu thuế; và Ngài nói với ông: “Hãy theo Ta”. Và ông đứng dậy đi
theo Ngài. Và khi Đức Giêsu ngồi dùng bữa tối trong nhà, nhiều
người thu thuế và những kẻ tội lỗi cùng dùng bữa với Ngài và các
môn đệ Ngài (Mt 9,9-10).
tiếng gọi dành cho Lêvi
và bữa ăn Messianic
Lêvi là một thiên tài tôn
giáo thực sự ở chỗ ông nhận ra và diễn tả tính nhưng không này
một cách sáng tạo ngay từ đầu: “Nếu Thầy mời tôi, một kẻ xấu,
một tên thu thuế bị khinh bỉ, lẽ nào Ngài không tiếp đón các
bạn cũ của tôi nhỉ?” Cùng ngày hôm ấy, Lêvi dọn bữa cho Đức
Giêsu và cho các bạn hữu của ông. Lêvi có nhận ra rằng hành động
ấy của ông là biểu tượng của bữa ăn Messianic và của tính mới mẻ
của Nước Trời không? Đối với chúng ta, hành động ấy của Lêvi là
một diễn tả rất thuyết phục về ý nghĩa ơn gọi của chính chúng
ta.
Lòng hiếu khách của Lêvi,
đã phá đổ các rào chắn của con người và tất cả những thói trịch
thượng ngạo mạn, đã không tránh được sự dòm ngó của những người
Pharisêu. Nhóm Pharisêu hỏi các môn đệ Đức Giêsu: “Tại sao
Thầy của các anh ăn uống cùng với những người thu thuế và những
kẻ tội lỗi? “ (Mt 9,11). Cũng vậy, cả lịch sử câu chuyện
chúng ta được chấp nhận cách ưu biệt vào kết hợp với Thánh Thể
được chứng minh trong câu hỏi của những người Pharisêu, một câu
hỏi phát xuất từ thái độ loại trừ. Cốt lõi của lòng thương xót
và của tình yêu đầy sức chữa trị của Đức Giêsu trong bối cảnh
này được tóm kết trong câu trả lời đầy thách đố của Ngài: “Những
người lành mạnh không cần đến thầy thuốc, nhưng những người
đau yếu mới cần. Hãy đi và học biết điều này: ‘Ta muốn lòng nhân
từ chứ không muốn hy lễ’. Vì Ta đến không phải để kêu gọi những
người công chính nhưng là những tội nhân” (Mt 9,12-13).
Có lẽ thời nào cũng có một
tầng lớp linh mục nào đó không học biết được và không thể hiện
được nhãn quan căn bản về tình thương và lòng khiêm nhường đầy
sức chữa trị của Đức Giêsu, thay vào đó, các vị linh mục ấy sẽ
cổ xúy một cái nhìn sai lạc về “hy lễ”. Tuy nhiên, cũng như
Mátthêu, các linh mục đích thực không thể tìm thấy hạnh phúc
chân thực trong việc bước theo Đức Giêsu nơi sự phân loại và
loại trừ bất cứ ai ra khỏi bữa ăn Messianic với luận cứ rằng:
“Họ ở trong tình trạng tội trọng một cách khách quan”.
Về vấn đề này, cũng như
trong các vấn đề khác, những ai sống một đời sống đạo đích thực
sẽ không giấu được nỗi thảng thốt, niềm thích thú và một cảm
nhận bên trong về tấm lòng nhân hậu tuyệt vời của Đức Kitô, tấm
lòng ấy giúp họ có thể bẻ gãy mọi rào chắn của con người chống
lại thói tự cho mình là công chính. Dĩ nhiên, những phẩm chất
này cũng bao gồm một khả năng biện phân Kitô giáo rành mạch tiên
vàn giúp cho tất cả chúng ta là những linh mục biết cảnh giác
đừng loại chính mình ra khỏi niềm vui của bữa ăn Messianic do
bởi nhãn quan tự cho mình là công chính và thiếu vắng một tấm
lòng. Chúng ta đừng bao giờ nghĩ hay nói điều gì có tính qui kết
người khác là tội nhân trước khi thú nhận rằng cả chúng ta nữa
cũng là những tội nhân đáng thương. Trong bối cảnh này, chúng ta
tự hỏi các linh mục có nên luôn luôn cố trao ấn tượng rằng mình
là những con người thánh thiện hay ít nhất mình là những con
người không có gì sai quấy? Rõ ràng câu hỏi ấy cần được trả lời
sáng tỏ.
Nhà văn nữ Ba Lan Mary
Winowska kể câu chuyện sau đây về một cha sở. Trước mắt tất cả
giáo dân trong xứ, vị linh mục này là một mục tử tốt lành thánh
thiện tuyệt vời. Dường như không ai có thể chê ngài về bất cứ
điều gì cả. Ngày nọ, một công an chìm của Gestapo đến gặp ngài,
tự giới thiệu, và đưa ra với ngài một đề nghị bất ngờ: “Chúng
tôi tin rằng ông sẵn lòng hợp tác với chúng tôi bằng cách đều
đặn cung cấp cho chúng tôi những thông tin trong nội bộ Giáo
Hội. Công việc này không ai có thể làm tốt hơn ông, vì ông rất
được tín nhiệm bởi các giám mục và các linh mục khác.” Cha sở
trả lời không do dự: “Không được. Chúa không cho phép tôi làm
điều đó!” Viên công an chìm rút trong túi ra một tấm ảnh, chìa
cho cha sở xem. Đó là ảnh một phụ nữ đang ẵm đứa con nhỏ trên
tay. Anh ta nhìn thẳng vào mắt vị linh mục, hỏi gằn từng tiếng:
“Ông không phải là cha của đứa trẻ này đấy chứ?”
Hoàn toàn bất ngờ trước
tang chứng ấy, vị linh mục trầm ngâm giây lát, rồi xin viên công
an cho mình có thêm thời gian để suy nghĩ về đề nghị trên kia
của anh ta: “Anh cho phép tôi khất đến Chúa Nhật tới.”
Chúa Nhật tuần ấy, mọi
người tề tựu đến nhà thờ để tham dự Thánh Lễ như thường lệ. Và
một sự kiện hết sức bất ngờ đã xảy ra. Vào đầu Thánh Lễ, thay vì
đọc Kinh Cáo Mình theo nghi thức thông thường, vị linh mục xưng
thú tất cả những tội lỗi của mình trước mặt toàn thể cộng đoàn
giáo dân, kể cả những tội mà Gestapo không hề biết. Trà trộn
giữa các tín hữu trong nhà thờ hôm ấy, có hai viên công an chìm
của Gestapo. Trong nước mắt, vị linh mục xin cộng đoàn giáo dân
tha thứ cho mình và cho phép mình xin chuyển đi nơi khác để đền
tội. Sau một thoáng im bặt, cả nhà thờ bắt đầu xôn xao lên. Mọi
người đều sa lệ vì cảm kích. Họ nhất tề la lên: “Xin cha đừng đi
đâu cả, xin cha tiếp tục ở lại săn sóc chúng con. Chúng con vốn
kính mến cha, hôm nay chúng con càng kính mến cha và cảm thấy
cha gần gũi hơn bao giờ!” Nhờ sự thú nhận công khai của mình, vị
linh mục nói trên, qua tình trạng tội lỗi của ông, đã tỏ ra ông
là “một người trong chúng ta” với các giáo dân của ông.
Để trả lời cho câu hỏi căn
cơ trên kia, rõ ràng người linh mục phải hiểu rõ mình được gọi
sống thánh thiện tới mức trở thành một nguồn khích lệ cho mọi
người trên con đường tiến tới sự hoàn thiện Kitô giáo. Tuy
nhiên, bất cứ sự ngụy tạo nào của sự thánh thiện cũng sẽ là một
mô ụ gây cản trở cho nỗ lực trên. Linh mục nào không thể nhận ra
rằng mình cũng sống nhờ vào sự thứ tha của Chúa và rằng mình
cũng sai lầm thì linh mục ấy sẽ không thể nhận được một sự tín
nhiệm nào cả.
Sẽ thật có ý nghĩa việc
chúng ta chọn Lêvi Matthêu như một vị quan thầy. Làm thế, chúng
ta có thể trở nên những linh mục có hiệu năng nhiều hơn, trong
chừng mực chúng ta sẵn sàng hơn để mời những kẻ bên ngoài bước
vào bàn ăn Messianic của Đức Giêsu; và làm thế, chúng ta sẽ thấy
mình được đón nhận niềm nở hơn bởi chính Đức Giêsu. Cũng như
Lêvi, chúng ta cần nhận hiểu sâu xa hơn và hiện thực hóa lời của
Đức Giêsu: “Ta không đến để xét xử nhưng là để cứu độ thế gian”
(Ga 12,47).
Càng khiêm tốn ca ngợi
tình yêu chữa trị của Thiên Chúa đối với mọi con người, chúng ta
càng có thể – nhờ ân sủng Thiên Chúa - trở thành những “thầy
thuốc bị thương” đầy hiệu năng. Rõ ràng, các linh mục không
bao giờ được phép coi bất cứ ai thuộc trách nhiệm săn sóc
của mình là “hết thuốc chữa”. Mọi cảm quan và hoạt động mục vụ
của chúng ta phải được thấm nhuần bởi ý thức ngày càng hơn về
tình yêu đi bước trước của Thiên Chúa, một tình yêu vô hạn và
chúng ta chỉ là những kẻ bất xứng - ngay cả khi chúng ta cảm
nghiệm về sự thiếu thốn của mình. Tất cả những gì chúng ta có
thể làm chỉ là tiếp tục sẵn sàng để cho tấm lòng quảng đại của
Thiên Chúa hành động và, khi nhìn nhận tấm lòng ấy, chúng ta thể
hiện sự quảng đại của Thiên Chúa trong thái độ mục vụ của chúng
ta, trong việc khích lệ người khác một cách không mệt mỏi. Chúng
ta hãy để cho Lêvi hướng dẫn mình!
việc rửa chân
tại Bữa Tiệc Ly
Biến cố phép rửa của Đức
Giêsu ở sông Giođan và việc Ngài rửa chân cho các tông đồ tại
Bữa Tiệc Ly là hai sự kiện hoàn thành lẫn nhau. Khi nâng việc
rửa chân ấy lên hàng nghi lễ, Đức Giêsu muốn diễn tả phép rửa mà
Ngài tự nguyện lãnh nhận trong máu của chính Ngài để thứ tha tội
lụy và để cho tình yêu phi bạo lực được khải thắng. Khi chọn làm
công việc rửa chân, một công việc thường được gán cho các tôi tớ
thấp hèn nhất, Đức Giêsu muốn xác nhận rằng hành động khiêm
nhường này – vốn soi sáng cho toàn bộ cuộc sống và cái chết của
Ngài – phải được coi là chuẩn mực cao nhất, đặc biệt đối với
những ai được gọi để chia sẻ sứ mạng loan báo Tin Mừng của Ngài
và sứ mạng hiệp nhất tất cả các môn đệ trong tình yêu của Ngài.
Mặc dù Tin Mừng Gioan mang
sắc thái nổi bật là một Tin Mừng về Thánh Thể, nó vẫn không đưa
ra một trình thuật minh nhiên nào về cơ chế của Thánh Thể. Cũng
như nhiều học giả Thánh Kinh khác, tôi xem bản trình thuật rửa
chân trong bối cảnh của nó là một trình thuật tuyệt vời về Thánh
Thể. Đó là một chìa khóa không thể thiếu để nhận hiểu sâu xa hơn
về cả Thánh Thể lẫn chức linh mục.
Sau khi rửa chân cho các
môn đệ, Đức Giêsu mạc khải cho chúng ta mối quan hệ độc đáo của
Ngài với Chúa Cha. Hơn nữa, Ngài mạc khải cho chúng ta biết Cha
là ai qua nghi thức rửa chân này, qua việc Ngài tự hiến trở
thành bánh ban sự sống và, cuối cùng, qua việc Ngài đổ máu trao
ban nguồn sống. Gioan đã nhấn mạnh mạc khải này trong lời cầu
nguyện của Đức Giêsu: “Lạy Cha, giờ đã đến! Xin Cha tôn vinh
Con Cha để Con Cha tôn vinh Cha. Thật vậy, Cha đã ban cho Người
quyền trên mọi phàm nhân là để Người ban sự sống đời đời cho tất
cả những ai Cha đã ban cho Người. Mà sự sống đời đời đó là nhận
biết Cha là Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng
Cha đã sai đến, là Giêsu Kitô“ (Ga 17,1-3).
Có một số người kiên quyết
chống lại việc truyền chức linh mục cho phụ nữ dựa vào giả
thuyết rằng không có phụ nữ nào hiện diện tại Bữa Tiệc Ly, và do
đó họ kết luận rằng chức linh mục Tân Ước rõ ràng chỉ dành riêng
cho nam giới. Có lẽ không có phụ nữ nào hiện diện ở đó, nhưng đó
là điều ta chỉ có thể giả đoán thôi. Điều quan trọng hơn, đó là
sự kiện rằng phụ nữ có hiện diện với Đức Giêsu, có liên hệ một
cách tích cực trong đời sống sứ vụ của Ngài, và phụ nữ tiếp tục
liên hệ tích cực như thế bằng những cách thế đầy ý nghĩa và có
sắc thái linh mục trong quá trình xây dựng Hội Thánh.
Các phụ nữ không chỉ đi
theo Đức Giêsu trong tư cách là những người tôi tớ khiêm nhường,
mà họ còn trung thành ở lại dưới chân thập giá khi những người
khác đã bỏ đi mất. Người đầu tiên gặp thấy Chúa Phục Sinh vào
sáng sớm ngày đầu tuần và loan báo tin mừng đó chính là một phụ
nữ. Biến cố này chúng ta chỉ cử hành trong Thánh Lễ một cách
xứng đáng khi chúng ta biết từ chối mọi thái độ trịch thượng và
biết tự biến mình – cùng với những phụ nữ ấy – trở thành những
tôi tớ của Người Tôi Tớ Giavê.
Gioan, người môn đệ được
Chúa yêu mến và người bạn trung thành của Phê-rô, đã cho thấy rõ
rằng Phê-rô phải khó khăn biết bao để cho phép mình đi vào trong
trung tâm của mầu nhiệm Đức Kitô nơi hành động rửa chân. Dĩ
nhiên, nghi lễ này chẳng có ý nghĩa gì đối với bất cứ ai không
thể đón nhận nó như luật nền tảng của đời sống Kitôhữu và nhất
là của sứ vụ tông đồ của người linh mục. Khi Phê-rô hỏi phải
chăng Đức Giêsu sắp rửa chân cho ông, Đức Giêsu trả lời: “Bây
giờ anh không hiểu điều Thầy sắp làm, nhưng rồi anh sẽ hiểu.”
Bị sốc, Phê-rô nói: “Không đời nào Thầy lại rửa chân cho
con.” Đức Giêsu đáp: “Nếu Thầy không rửa chân cho anh, anh sẽ
không được đồng bàn với Thầy” (Ga 13,7-8). Phê-rô chỉ đầu
hàng khi nhận được tối hậu thư đó, dù ông không nhận ra tầm mức
đầy đủ ý nghĩa của nó đối với mình. Cũng như Phê-rô, chúng ta
chỉ ý thức mơ hồ về ý nghĩa của tối hậu thư nói trên khi chúng
ta đang trên hành trình tiến đến một nhận thức hiện sinh trọn
vẹn hơn.
Một phần nào đó, nguyên
nhân của sự bối rối nơi Phê-rô cũng như nơi những người khác là
do bởi hình ảnh sai lệch về Đấng Mêsia vốn rất phổ biến thời ấy.
Vào thời của Đức Giêsu, những người anawim, tức những con cái
It-ra-en khó nghèo và hèn mọn – như Maria và Giu-se – hát và rao
giảng những Bài Ca của Người Tôi Tớ với hết tâm hồn họ. Tuy
nhiên, đối lập với niềm hy vọng của những người anawim, nơi giới
thượng lưu có tồn tại một ngưỡng vọng về một vị anh hùng dân tộc
đầy uy lực sẽ giải phóng It-ra-en khỏi ách thống trị Rôma.
Suy nghĩ về Tin Mừng
Maccô, chúng ta sẽ ngạc nhiên khi đầu tiên nhận thấy rằng trong
nhiều trường hợp, Đức Giêsu được mô tả như một Đấng yêu cầu các
tông đồ không được tiết lộ Ngài là Mêsia. Maccô có lý do chính
đáng để trình bày như thế. Vì Phê-rô và những người theo Đức
Kitô bám chặt vào một Mêsia quyền lực, nên dường như vào thời
điểm ấy họ không thể tin tưởng rằng Con Người, rằng “một người
trong chúng ta” ấy chính là Đấng Mêsia. Chỉ khi các tông đồ trở
nên hoàn toàn vỡ mộng với ý niệm về quyền lực như nói trên, họ
mới có thể – trong niềm tin sâu xa vào Người Tôi Tớ của Thiên
Chúa – nhận hiểu Ngài là Đấng Mêsia đích thực và đầy sức mạnh.
Khi áp dụng sự thật này
cho chính mình, tôi nhận ra rằng chỉ trong mức độ tôi “biết”
Người Tôi Tớ của Thiên Chúa, tức Con Người, và chỉ trong toàn
thể con người và cách sống của tôi trong tư cách là người tôi tớ
của Người Tôi Tớ ấy, mới có thể có bất cứ ý nghĩa nào trong
lời ca ngợi Đức Giêsu là Đấng Mêsia. Trong mức độ mà bất cứ linh
mục, phó tế hay người được đào tạo mục vụ nào còn bám chặt vào
đặc quyền đặc lợi, chức quyền, vinh dự thế gian hay cố níu giữ
một thói trịch thượng nào đó, thì bất cứ gì được nói về “địa vị”
của chức linh mục thừa tác và chức linh mục phổ quát cũng đều
trở thành rỗng tuếch, sai lạc và hoàn toàn giả trá.
Trong mọi thời đại, Thiên
Chúa đã gửi các tư tế có năng lực ngôn sứ đích thực đến cho Giáo
Hội và cho thế giới. Các vị này – với lòng khiêm nhường sâu thẳm
và với sự sáng suốt tuyệt vời – đã qui hướng lòng trí vào phép
rửa của Người Tôi Tớ Giavê, vào sự kiện Con Người rửa chân cho
các môn đệ, vào tình yêu mãnh liệt của Ngài đối với những người
nghèo khổ và bất lực nhất trên mặt đất này, và cuối cùng, vào
thái độ Ngài sẵn sàng đảm nhận thập giá. Tất cả những tiêu điểm
ấy được cử hành trong bữa ăn Thánh Thể – nơi mà Đức Kitô Phục
Sinh hiện diện một cách thâm sâu.
sự kệch cỡm
của những cuộc
tranh giành địa vị
cao thấp
Nếu chúng ta không lột
trần những khuynh huớng kiếm tìm vinh dự và mọi hình thức tự đề
cao mình, chúng ta sẽ bị sốc trước sự thật khi đọc trình thuật
Thánh Kinh về cuộc tranh luận lố bịch giữa các tông đồ trong đó
các ông cãi nhau xung quanh vấn đề ai là người lớn nhất. Thật là
không thể tưởng tượng! Liền sau việc Đức Giêsu rửa chân cho các
môn đệ và giải thích về ý nghĩa thâm sâu của hành động đó, chúng
ta đọc thấy:
“Các ông còn cãi nhau
sôi nổi xem ai trong Nhóm được coi là người lớn nhất. Đức Giêsu
bảo các ông: “Vua các dân thì dùng uy mà thống trị dân, và những
ai cầm quyền thì tự xưng là ân nhân. Nhưng anh em thì không phải
như thế, trái lại, ai lớn nhất trong anh em, thì phải nên như
người nhỏ tuổi nhất, và kẻ làm đầu thì phải nên như người phục
vụ. Bởi lẽ, giữa người ngồi ăn với kẻ phục vụ, ai lớn hơn ai?
Hẳn là người ngồi ăn chứ? Thế mà, Thầy đây, Thầy sống giữa anh
em như một người phục vụ” (Lc 22, 24-27).
Cũng vậy, chính Giacôbê và
Gioan, qua mẹ các ông, đã xin chỗ vinh dự bên cạnh Đức Giêsu.
Phải chăng họ không nhận ra rằng lời yêu cầu ti tiện ấy của họ
làm đau lòng Đức Giêsu biết bao? Đức Giêsu đã trả lời họ: “Các
ngươi không biết các ngươi xin gì. Các ngươi có thể uống chén Ta
uống, và nhận phép rửa mà Ta nhận không?” (Mc 10,38).
Bản văn này rất quan trọng
cho chúng ta, bởi vì ở đây Đức Giêsu yêu cầu chúng ta hiểu phép
rửa của chính chúng ta trong quan hệ với phép rửa của Ngài trong
tư cách là Người Tôi Tớ phi bạo lực – một phép rửa bằng máu. Ở
đây đặt ra cho các Kitôhữu và nhất là cho các linh mục một nhận
thức hết sức quan trọng: đó là, mọi sự phải được cân nhắc lại.
Hoặc chúng ta chấp nhận sự chọn lựa nền tảng để bước theo
Đấng-Mêsia-Người-Tôi-Tớ một cách trung thành, khiêm tốn và can
đảm, dù phải chịu đau khổ cho đến chết nếu cần, hoặc chúng ta
vẫn tiếp tục làm nô lệ cho thói kỳ thị và lòng kiêu ngạo.
Maccô 9, 30-37 là một kiệt
tác về văn chương và sư phạm. Dưới ngòi bút của Maccô, Đức Giêsu
trình bày sứ điệp căn bản của Ngài cho các tông đồ như sau: “Con
Người sẽ bị nộp trong tay người ta, họ sẽ giết Người, và ba ngày
sau, Người sẽ sống lại“ (Mc 9,31).
Lúc ấy Đức Giêsu bước đi
trước các ông - tiến về sự hoàn thành những gì Ngài đã giải
thích. Trên đường đi, các tông đồ giữ một khoảng cách với Ngài
để Ngài không nghe những gì họ bàn tán. Nhưng Ngài biết tỏng!
Khi thầy trò quây quần trong nhà ở Carphanaum, Đức Giêsu hỏi:
“Anh em tranh luận với nhau về điều gì khi đi đường?” Họ im
lặng, vì chủ đề cuộc tranh luận của họ là ai lớn nhất giữa
họ. Phải chăng các ông có một lương tâm tệ hại đến nỗi các ông
ước mong rằng Đức Giêsu, Đấng vừa mạc khải số phận thê thảm của
Ngài, không biết những gì họ đang suy nghĩ trong đầu óc mình?
Sau hai mươi thế kỷ của
lịch sử Giáo Hội, chúng ta có khôn ngoan hơn chút nào chăng? Nếu
chúng ta thành thật, thì người tốt nhất trong chúng ta cũng sẽ
phải nhìn nhận rằng có những lúc mình rơi vào cám dỗ muốn đề cao
chính mình. Tại Công Đồng Vatican II, đã thường xuyên vang lên
những cảnh giác chống lại thói hãnh thắng của Giáo Hội. Trong
chính phiên họp cuối cùng, một số hồng y, thượng phụ, giám mục
và một số nhà thần học – kể cả tôi – đã qui tụ lại với nhau để
thảo luận một đề nghị cuối cùng cho Công Đồng, đó là: Chúng tôi
đã kiến nghị rằng các Nghị Phụ Công Đồng sẽ không trở về với các
giáo phận của mình mà trước hết không trịnh trọng cam kết theo
tinh thần khó nghèo của người tông đồ - và trước hết là theo
tinh thần đơn sơ tông đồ bằng cách tháo gỡ mọi tước hiệu đối
nghịch với Tin Mừng vốn vẫn còn rất phổ biến trong tầng lớp
lãnh đạo Giáo Hội. Vài trăm giám mục đã sẵn sàng cho bước này.
Tuy nhiên, do thời gian gấp rút lúc bấy giờ, đề nghị ấy đã không
bao giờ được thông qua. Tôi xác tín rằng rất có thể chúng ta đã
tránh được cho Giáo Hội rất nhiều rắc rối sau Công Đồng nếu
chúng ta đã chính thức biểu quyết và trung thành tuân giữ một
quyết định rõ ràng về vấn đề này.
Một cách vô cùng sáng tỏ,
câu chuyện Đức Giêsu chịu cám dỗ (Mt 4, 1-11) hoàn toàn lột trần
mưu chước Satan cám dỗ người ta sử dụng tôn giáo để vụ lợi, để
đề cao chính mình, để tranh thủ quyền lực thế gian; và những cám
dỗ này được thấy là trực tiếp đối nghịch với ơn gọi của
Đấng-Mêsia-Người-Tôi-Tớ. Những cám dỗ khủng khiếp ấy nguy hiểm
một ngàn lần hơn so với – chẳng hạn – việc thủ dâm, việc quan hệ
tình dục tiền hôn nhân, việc ngừa thai ... và bất cứ ưu tư nào
khác liên quan đến lãnh vực tính dục mà Giáo Hội thường xuyên
xôn xao bàn luận và khắc ghi sâu trong tâm trí người tín hữu.
Tình trạng phóng thể tôn
giáo và nhất là tình trạng xuống cấp của mạc khải trọn vẹn về
Đức Giêsu, Người Tôi Tớ của Thiên Chúa, xuyên qua lòng kiêu hãnh
và cao ngạo của con người, xuyên qua lòng tham quyền lực, ...
tất cả đều là công trình của ma quỉ. Chúng ta cần không ngừng
dốc sức để lột trần những quyến rũ ấy – trước hết nơi chính
chúng ta và rồi nơi Giáo Hội và thế giới. Công việc vạch mặt
những cám dỗ này chỉ có thể thực hiện được trong mức độ mà lòng
trí chúng ta gắn chặt với Đức Giêsu, Người Tôi Tớ Giavê.
Đức Giêsu – người thợ mộc
Trong nhiệm cục cứu độ,
Đức Giêsu ngay từ đầu được sinh ra và lớn lên trong khung cảnh
nghèo. Được gọi là “con trai của bác thợ mộc”, hay đơn giản hơn:
“anh chàng thợ mộc”, Ngài quen với công việc vất vả – và
chúng ta có thể hình dung Đức Giêsu vui vẻ làm việc cho
người ta, giúp dựng nhà cửa, đóng bàn ghế cho họ ... Khuôn mặt
người thợ Giêsu ăn khớp với khuôn mặt lớn hơn của
Đức-Giêsu-Người-Tôi-Tớ-Giavê, “Con Người”. Cuối cùng, khuôn mặt
người thợ này cũng rất am hợp với hình ảnh Đức Giêsu chịu phép
rửa ở sông Giođan giữa đám đông những người bình thường, những
người đón nhận lời Gioan kêu gọi hoán cải.
Tôi còn nhớ hồi cuối thập
niên 1950, nhiều người trong chúng ta đã bị sốc khi Hồng Y
Giuseppe Pizzardo, vị lãnh đạo có nhiều quyền hành trong tòa
thánh, đã cấm các sáng kiến về linh mục thợ với luận cứ kỳ quặc
rằng vị trí của một người công nhân hạng quèn sẽ không phù hợp
với phẩm cách của chức linh mục. Dĩ nhiên, phong trào này mâu
thuẫn với cái nhìn của vị hồng y nói trên về chức linh mục, một
cái nhìn được kết tinh từ cả một lịch sử dài của những linh mục
mơ tưởng sự nghiệp, những linh mục ngay từ đầu bận tâm săn đuổi
các tước vị và các đặc quyền trong Giáo Hội - những bận tâm này
dẫn họ tiến thẳng đến chiếc mũ hồng y! Ý niệm linh mục thợ chắc
hẳn đã làm sững sờ những giáo sĩ này, những người đầy tham vọng
phấn đấu tranh thủ áo mão cân đai cũng như bao thứ rác rưởi vốn
hão huyền và ngớ ngẩn hơn cả những thứ đang nằm trong tay bao kẻ
cường hào trên thế gian này.
Thật mỉa mai, khi tôi viết
những dòng này, một lá thư nặc danh vừa mới được gửi tới với
lệnh truyền: “Ông hãy ngừng ngay chuyện phê bình Giáo Hội! Cả
ông nữa cũng có thể được mặc áo tía đó.” Buồn nhất là sự thật
trần trụi mà tác giả của lá thư này muốn nói lên: có một mối
liên quan giữa sự vâng phục tối mặt và con đường tiến thân vốn
đặc trưng một thời và hiện nay vẫn còn thúc đẩy mạnh mẽ nhiều kẻ
săn tìm sự nghiệp trong Giáo Hội! Thật hoàn toàn tương phản với
Đức Giêsu Người Thợ Mộc và các tông đồ của Ngài – phần đông
trong họ là những ngư phủ. Ngay cả Phao-lô, người thợ dệt bố,
vẫn tiếp tục công việc của mình trong khi thi hành tất cả các
trách nhiệm của người tông đồ, hay như anh bạn thầy thuốc Luca
vẫn duy trì công việc chữa bệnh trên đường đồng hành với Phao-lô
trong sứ vụ loan báo Tin Mừng.
Khi nhìn lại chương trình
cứu độ của Thiên Chúa, chúng ta thấy rằng cuộc Nhập Thể của Ngôi
Lời Thiên Chúa vào trong thân phận khó nghèo, vào trong cảnh vực
bần cùng hạ cấp của xã hội là một sự đối nghịch hoàn toàn với
mọi hình thức cầu quyền cầu danh. Hơn tất cả các ngôn sứ trước
Ngài, và ăn khớp với tôn chỉ độc đáo của Ngài là “tôn thờ Thiên
Chúa trong tinh thần và chân lý”, Đức Giêsu vạch mặt và tố
giác mọi sự lạm dụng tôn giáo để tranh thủ tư lợi cá nhân.
Ở đây, cần phải nhấn mạnh
lại danh hiệu duy nhất mà Đức Giêsu tự gán cho mình: “Con Người”
(ben adam). Thư Do Thái giải thích rõ ràng điều này như sau:
“Người đã phải nên giống anh em mình về mọi phương diện, để
trở thành một vị Thượng Tế nhân từ và trung tín trong việc thờ
phượng Thiên Chúa” (2,17). Sau đó, cũng trong Thư này, ta
đọc thấy: “Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng
như ta, nhưng không phạm tội” (4,15).
Trong cảnh vực đức tin
Công Giáo hay trong bất cứ truyền thống Kitô giáo nào, hễ bất cứ
ở đâu có tồn tại một giai cấp giáo sĩ vị vọng được đúc nặn từ
một hệ thống đặc quyền phân biệt hẳn họ khỏi đại chúng, thì tầng
lớp ấy sẽ trở thành một thứ muối đạo đức giả nhạt nhẽo và trở
thành sự mâu thuẫn trực tiếp với châm ngôn của Tin Mừng vốn tha
thiết mời gọi chúng ta trở thành muối đất và ánh sáng cho đời.
Như thế, trong ánh sáng của Tin Mừng, bất cứ sự phân biệt nào
giữa giáo sĩ và giáo dân dựa trên đẳng cấp và đặc quyền đều hoàn
toàn thô bỉ.
Ngay trong Giáo Hội sơ
khai, sự phản đối việc thi hành quân dịch đã trở thành một dấu
hiệu rõ ràng của tất cả các tín hữu bước theo Người Tôi Tớ phi
bạo lực. Tuy nhiên, khi Giáo Hội thích nghi với những thay đổi
xảy ra do sắc dụ của Constantine năm 313, một sự phân biệt mới
kỳ quặc đã xuất hiện giữa các linh mục (lúc bấy giờ thật sự là
“giáo sĩ”) và giáo dân. Việc từ chối thi hành quân dịch dựa trên
tinh thần phi bạo lực bỗng trở thành một đặc quyền cho chỉ một
tầng lớp người – đó là tầng lớp giáo sĩ – trong khi đó quần
chúng thường dân được kỳ vọng là phải thi hành quân dịch nếu họ
được lệnh trưng binh.
Một đàng, việc miễn quân
dịch cho các linh mục có vẻ như bảo đảm cho các ngài thi hành
vai trò của giáo sĩ là làm chứng cho Đức Kitô Đấng Kiến Tạo Hòa
Bình, Người Tôi Tớ phi bạo lực của Giavê; nhưng đàng khác, các
linh mục và các giám mục đã để mình được sử dụng nhằm khuyến
khích việc thi hành quân dịch của các Kitôhữu “thường dân”. Ở
đây, toàn bộ ý nghĩa của việc được rửa nhân danh Đức Giêsu,
Đấng Cứu Độ phi bạo lực - vốn là đặc điểm của toàn dân tư tế của
Thiên Chúa - đã hoàn toàn bị phá sản. Làm sao tôi, trong tư cách
là một linh mục, có thể đòi rằng vai trò làm chứng và sự đồng
hình dạng của tôi với Đức-Kitô-Đấng-Kiến-Tạo-Hòa-Bình không cho
phép tôi thi hành quân dịch trong khi đồng thời tôi, trong tư
cách là linh mục, lại bảo các anh em Kitôhữu của tôi rằng họ
phải chấp hành một sắc luật nhà nước yêu cầu họ thi hành quân
dịch?
Là một linh mục lính cứu
thương trong Chiến Tranh Thế Giới Thứ Hai, tôi đã hưởng lợi từ
sự miễn chuẩn này hết mức độ mà mình có thể. Nếu không có chế độ
miễn chuẩn, rất có thể tôi đã phải đương đầu với một khủng hoảng
luân lý nghiêm trọng, vì trong lương tâm mình, tôi không bao giờ
có thể cầm súng trong cuộc chiến tranh bẩn thỉu ấy. Nói ‘hưởng
lợi’, song tôi thấy cũng cần phải chỉ rõ rằng chính sách miễn
chuẩn cho linh mục ấy đã đòi trả giá đắt, bởi vì trong số các
đơn vị quân đội khác nhau, con số tử vong cao nhất đã thuộc về
các lính cứu thương là linh mục. Tuy nhiên, sự sẵn sàng chết
trong tư thế không vũ trang để phục vụ cho sự sống là một cái gì
đó hoàn toàn khác với thái độ cảm tử trong khi tham gia vào việc
giết đồng loại. Theo nghĩa đó, tôi đã hưởng lợi rất nhiều. Tôi
có thể thêm rằng gần như mọi thành viên của Giáo Hội Hòa Bình
Mennonite ở Đức đã dứt khoát từ chối tham gia quân đội, và điều
xảy ra là nhiều người trong họ đã chấp nhận bị xử tử theo lệnh
của Hitler để kiên trung làm chứng cho tinh thần phi bạo lực.
Dọc theo bao thế kỷ cho
đến thời đại chúng ta, nhiều giám mục và giáo sĩ Công Giáo ở cả
hai phía của các cuộc chiến tranh đã đóng một vai trò quị lụy
rất đáng buồn – họ cổ súy sự vâng phục đối với Xê-da trong khi
lẽ ra cần phải vâng phục Đức Kitô. Chỉ cần nêu ra ở đây một ví
dụ của chính thế kỷ này: Khi Jagerstatter, anh bõ nhà thờ người
Aùo, từ chối thi hành quân dịch “theo sự điều động của một tên
tội phạm như Hitler”, cả cha sở lẫn giám mục của anh đều cố
thuyết phục anh rằng thà chịu tòng quân một cách cưỡng bách hơn
là phải chết. Tuy nhiên, anh ta đã tỏ ra khôn ngoan hơn và dũng
cảm hơn các giáo sĩ ấy.
Trong ánh sáng của phép
rửa, cuộc sống và cái chết của Đức Kitô, tôi xác tín rằng sự dấn
thân thâm sâu cho tinh thần phi bạo lực và cho hòa bình là một
cái gì rất cơ bản của ơn gọi Kitôhữu và ơn gọi linh mục. Trong
mọi nghề nghiệp và mọi lãnh vực của đời sống, luôn cần phải chú
ý thăng tiến một cơ chế công lý, tình yêu, hòa bình và phi bạo
lực.
Tôi hơi ngần ngại đối với
câu hỏi thường được đặt ra rằng phải chăng các linh mục nên có
những quan điểm chính trị nhằm thăng tiến hòa bình, công lý, và
tinh thần phi bạo lực. Dù sao, trong tư cách là linh mục và đặc
biệt trong tư cách là những nhà thần học, chúng ta phải cố gắng
hết sức mình để cổ võ các ơn gọi hoạt động chính trị. Đàng khác,
những linh mục nào tin rằng họ phải hiện diện và hoạt động trong
mọi đấu trường cuộc sống sẽ cho thấy khả năng thất bại của họ
trong ơn gọi rao giảng và làm chứng cho cốt lõi tinh thần của
Đức Giêsu, Người Tôi Tớ Giavê.
Trong suốt giòng lịch sử
Giáo Hội, vô số nam nữ Kitôhữu hoàn toàn dấn thân cho các giá
trị hòa bình và phi bạo lực của Tin Mừng đã phục vụ cho người
nghèo, cho những người bệnh hoạn tật nguyền, những người bị bỏ
rơi bằng những cách thức đầy sáng tạo và với tinh thần mục vụ
sâu sắc. Thử nghĩ, phải chăng Giáo Hội không thể cho phép những
thừa tác viên này của Đức Kitô thi hành các chức năng chuyên
biệt mà cho đến nay vẫn chỉ dành riêng cho những người được
truyền chức? Và nếu những người nam nữ ấy được ban quyền như vậy
– như trong trường hợp chức phó tế được tái lập (tuy nhiên rất
đáng tiếc là chỉ dành riêng cho nam giới!) – thì phải chăng họ
không thể được truyền chức thánh nếu họ khao khát điều đó?
làm chứng cho Chúa Phục Sinh
Ngay trước khi bầu chọn Matthia để bổ sung
đầy đủ con số các tông đồ, Phê-rô đưa ra một mô tả sắc nét về
những yêu cầu của một tông đồ như ta đọc thấy trong Sách Công
Vụ: “Vậy phải làm thế này: có những anh em đã cùng chúng tôi
đi theo Chúa Giêsu suốt thời gian Người sống giữa chúng ta, kể
từ khi Người được ông Gioan làm phép ưủa cho đến ngày Người lìa
bỏ chúng ta và được rước lên trời. Một trong những anh em đó
phải cùng với chúng tôi lam chứng rằng Người đã Phục Sinh.” (1,21-22).
Tôi thấy thật là một điều rất có ý nghĩa
khi Phê-rô nhắc các tông đồ nhớ lại tầâm quan trọng của sự kiện
Chúa Giêsu chịu phép rửa bởi Gioan, vì biến cố phi thường ấy cho
thấy rằng Đức Giêsu, trong tư cách là Người Tôi Tớ phi bạo lực
của Giavê, vui lòng đón nhận những gánh nặng của chúng ta. Đối
với mọi Kitôhữu và, một cách đặc biệt khẩn thiết, đối với tất cả
các giám mục và linh mục, mầu nhiệm này phải trở thành khuôn mẫu
cho chứng tá của họ về lòng khiêm nhường và tinh thần phi bạo
lực của Đức Giêsu cũng như cho chứng tá về việc Ngài chuyển hóa
kẻ thù thành bạn hữu xuyên qua tình yêu vô điều kiện của Ngài.
Yêu cầu thứ hai là phải có sự thân mật gần
gũi với Đức Giêsu qua việc đồng hành với các môn đệ Ngài. Điều
này có nghĩa rằng phải nhận biết Đức Kitô là Con Thiên Chúa và
là Con Người, là “một người trong chúng ta”. Nhận biết Đức Kitô
như chính Ngài biết Ngài là ai, điều đó sẽ thúc giục chúng ta –
cũng như Ngài – luôn dõi mắt hướng về Giê-ru-sa-lem. Luôn luôn
hướng vọng những gì sẽ được hoàn thành ở Giê-ru-sa-lem, đó là
cách mà các tác giả Tin Mừng giải thích về yêu cầu này, và đó
cũng được ghi nhận là đặc điểm của nhóm tông đồ Đức Giêsu. Đó là
một con đường gập ghềnh sỏi đá, đầy những bất trắc và bất ngờ.
Tại sao Phê-rô không nói thẳng với vị ứng
viên tông đồ kia rằng anh ta phải là một người có mặt với Đức
Kitô cho đến khi Ngài chết trên thập giá? Không kể Gioan, ai
trong họ sẽ đáp ứng được điều kiện này! Nếu Phê-rô cố đòi rằng
người được tuyển chọn phải là một chứng nhân trực tiếp về cuộc
khổ nạn và cái chết của Đức Kitô, rất có thể các tông đồ sẽ giới
thiệu một phụ nữ trong nhóm họ. Vì như các Sách Tin Mừng cho
thấy, có nhiều phụ nữ đi theo Đức Giêsu trên con đường đến
Can-vê và đứng đó với Ngài đến cùng. Các Kitôhữu trong mọi thời
đại đã tôn vinh những phụ nữ thánh thiện và can đảm này – họ,
cùng với Đức Maria và Gioan, là những chứng nhân trực tiếp về
cái chết của Đức Giêsu. Hơn nữa, chính Maria Ma-đa-lê-na là
người đầu tiên trông thấy Chúa Phục Sinh và loan tin mừng này
cho các tông đồ. Thế nhưng, vị tông đồ mới được tuyển chọn lại
là một nam nhân, vì đối với các tông đồ, vốn chìm sâu trong
truyền thống tổ phụ Do Thái, con số mười hai mang ý chỉ mười hai
người con trai của Gia-cóp. Và theo cách hiểu ấy, một nam nhân
đã được chọn.
Dù sao đi nữa, sự nhấn mạnh chính yếu của
Phê-rô cũng đặt vào việc làm chứng cho cuộc Phục Sinh của Đức
Kitô chịu đóng đanh, Người Tôi Tớ đau khổ của Giavê. Làm chứng
cho Chúa Phục Sinh, đó là cốt lõi của ơn gọi Kitôhữu và là đặc
điểm sâu xa của những ai được gọi để rao giảng Tin Mừng một cách
đặc biệt. Tôi hy vọng rằng tất cả những ai đọc quyển sách này sẽ
nhận ra mọi khía cạnh khác nữa mà tôi đề cập đến trong ánh sáng
này. Tôi sẽ chỉ ra ở đây rằng những linh mục không làm chứng một
cách thuyết phục cho cuộc Phục Sinh của Đức Kitô và của mọi
người tin thì đều chỉ là những đại diện giả danh của Đức Kitô mà
thôi.
Vì việc làm chứng cho cuộc Phục Sinh của
Người Tôi Tớ đau khổ là trọng tâm của cuộc khảo sát lương tâm
không ngừng của chúng ta và là cuộc trắc nghiệm căn tính linh
mục, nên câu hỏi nền tảng luôn luôn đặt ra cho chúng ta là:
Chúng ta có sẵn sàng để với trọn lòng mình thể hiện khuôn mặt
Người Tôi Tớ đau khổ, khiêm nhường và trắc ẩn trong một tinh
thần hân hoan tuôn trào từ niềm tin của chúng ta vào cuộc Phục
Sinh của Đức Kitô và của chính chúng ta hay không? Người xung
quanh có nhận ra rằng chính đức tin sống động của chúng ta là
nguồn nghị lực giúp chúng ta kiên nhẫn và hân hoan giữa bao nỗi
thống khổ, bao bệnh tật, căng thẳng, bất đồng không? Chắc chắn
việc suy tư về chiều sâu của đức tin chúng ta vào Đức Kitô
Phục Sinh sẽ không ngừng thúc đẩy chúng ta chú ý đến phép rửa
của mình trong Đức Kitô, Người Tôi Tớ khiêm nhường và hiền lành
của Giavê.
một cử hành tạ ơn
Thánh Thể đứng ở vị trí trung tâm của đoàn
dân mới Thiên Chúa trong cuộc hành trình dương thế tiến về điểm
tận thời. Thánh Thể là cuộc cử hành (trong tâm tình tạ ơn) phép
rửa bằng nước của Đức Giêsu trong Thánh Thần và phép rửa bằng
lửa của Ngài trong cuộc khổ nạn, cái chết và cuộc Phục Sinh. Đó
là một cử hành sự khải thắng của Ngài trong tư cách là Người Tôi
Tớ khiêm nhường – Đấng mà chúng ta ký thác niềm hy vọng hằng
sống. Nếu đời sống Kitôhữu được hiểu và được sống trong nhãn
giới về nhiệm cục hiện diện cứu độ của Thiên Chúa, thì việc cử
hành Thánh Thể là tột đỉnh của sự hiện diện ấy – một chóp đỉnh
mà ở đó chúng ta gặp gỡ và hiện diện với Đấng Cứu Độ và Đấng Cứu
Chuộc của lịch sử nhân loại.
Việc gắn kết khoảnh khắc hiện tại và lịch
sử quá khứ của chúng ta vào trong lịch sử cứu độ của Đức Kitô sẽ
làm nên thời gian kairos – một thời gian hồng phúc, một cơ hội
độc đáo nối kết quá khứ với tương lai. Việc cử hành với một hồi
tưởng tạ ơn đích thực sẽ làm cho tất cả lại trở thành kho tàng
hoạt động cứu độ của Thiên Chúa trong lịch sử và nối kết chúng
với cả những nỗ lực có sức trao ban sự sống lẫn những thất bại
của chính chúng ta. Những nỗ lực và những thất bại của chúng ta
sẽ nhận được ý nghĩa trọn vẹn của chúng trong mối tương giao ấy
với Chủ Tể của lịch sử. Ở đây, trong khoảnh khắc của sự hiện
diện của Đức Kitô Phục Sinh, chúng ta được trao ban nguồn năng
lực sự sống của Ngài để tiếp tục cuộc hành trình cùng với Ngài
tiến về tương lai – một tương lai có cả đau khổ lẫn niềm vui mời
gọi chúng ta đương đầu với những thách đố mới và những trách
nhiệm mới trong niềm hy vọng kiên vững đợi chờ sự hoàn thành
chung cuộc vào Ngày của Chúa. Đó chính thật là giờ phút chúng ta
gặp “rồi” Đấng mà chúng ta hy vọng cử hành cuộc chiến thắng trọn
vẹn của tình yêu của Ngài – và tình yêu của chúng ta nữa – vốn
còn ở phía trước.
Việc cử hành Thánh Lễ với tâm tình tạ ơn
đích thực sẽ tuôn trào trong chúng ta niềm vui và niềm tín thác,
và thường khơi dậy trong chúng ta thái độ sẵn sàng hơn và tỉnh
thức hơn. Những năng lực của cuộc tưởng niệm tạ ơn sẽ cho phép
chúng ta tiếp tục bước đi trên con đường lên Giê-ru-sa-lem, đảm
nhận tất cả những đòi hỏi và những khó khăn của cuộc sống mà
không bao giờ lạc mất dấu vết của Đấng Phục Sinh. Hoa quả của
phút giờ hiện tại ở trong sự hiện diện của vị Chúa Tể lịch sử
trổ sinh từ những năng lực quá khứ cũng dồi dào không kém chi so
với hoa quả trổ sinh từ niềm hy vọng hiện tại của chúng ta, một
niềm hy vọng có sức làm sống họat và đào sâu cảm thức trách
nhiệm cá nhân cũng như tập thể của mình. Sức mạnh và sức bền của
chúng ta được củng cố trong nghi thức hiệp lễ - qua đó chúng ta
được kết hiệp mật thiết với Đức Kitô, Đấng đã có, đang có và sẽ
đến.
Trong khi tất cả những gì được nói về
Thánh Lễ đều đúng cho mọi Kitôhữu, thì cách riêng, những điều ấy
đặt ra một số câu hỏi rất cơ bản cho các vị chủ tọa hèn mọn của
Lời Chúa và Thánh Thể. Trong vai trò linh mục của mình, chúng ta
có ngày càng trở nên những dấu hiệu sống động của các động lực
lịch sử không? Trong tư cách là những tôi tớ của Đức Kitô, chúng
ta có sẵn sàng cho phép Đức Kitô Phục Sinh đưa chúng ta ngày
càng sâu hơn vào cộng đoàn lữ hành của Ngài không? Chúng ta có
ngày càng nhận thức hơn về tầm quan trọng của sự cộng tác và
tinh thần đồng trách nhiệm với cộng đoàn tín hữu qui tụ lại
trong tư cách là những người cùng cử hành đức tin không?
Từ những gì tôi đã chia sẻ cho tới đây,
các tiêu chuẩn cho người chủ tế Thánh Lễ rõ ràng đã hiện lộ ra.
Tôi cho rằng mỗi và tất cả những đòi hỏi đặt ra cho đời sống
linh mục như đã thảo luận trên đây thì có tầm quan trọng hơn
nhiều so với vấn đề hạn hẹp có tính sinh học và chẳng có mấy cơ
sở là vấn đề phái tính.
Thánh Lễ là giờ phút vượt qua, là sự vận
động và chuyển hóa của Chúa. Đó là khoảnh khắc nghỉ ngơi? Đúng
thế, nhưng còn hơn thế nữa, đó là khoảnh khắc để lên đường lần
nữa, để vào chuyến phiêu du vĩ đại hơn nhiều so với những gì mà
Môsê và dân It-ra-en đã kinh nghiệm. Trong mỗi cuộc cử hành
Thánh Lễ, chính Đức Kitô lại mờøi gọi chúng ta: “Hãy chỗi dậy!
Chúng ta hãy đi!” (Mt 26,46).
Đức Giêsu mời gọi chúng ta nghỉ ngơi, điều
đó không có nghĩa là chúng ta trở thành những con người “ngồi
ì”. Ai là những con người “ngồi ì”? Để trả lời cho câu hỏi này,
cần phải đặt nó trong câu hỏi nền tảng của chúng ta: Giáo Hội
cần có loại linh mục nào? Những con người “ngồi ì” là những
người nam cũng như nữ thường xuyên uể oải, thiếu lý tưởng và cảm
hứng, những con người không thể thu nhận sức mạnh của Chúa Thánh
Thần để khích động người khác. Con người ngồi ì là con người
không thể nội tâm hóa lời mời gọi của Đức Giêsu: “Hãy chỗi
dậy, chúng ta hãy bước tới!” – nhất là khi việc bước tới có
bao hàm nguy cơ phải chịu đau khổ, chịu thay đổi, chịu bất ổn
trong nhất thời. Con người ngồi ì là con người bất động, tự thỏa
mãn với mình, tự hài lòng với những thành quả đạt được trong quá
khứ và tránh né những trách nhiệm đầy thách đố đòi mình phải dám
liều. Nói tắt, con người ngồi ì là con người nhút nhát.
Rất thường, những kẻ tự thỏa mãn với mình
là những kẻ có não trạng cố chấp (fundamentalists), dị ứng với
những cách nghĩ mới mẻ đầy sáng tạo và bám chặt vào những chuẩn
mực và những qui tắc của quá khứ. Đó là những nhà bảo vệ truyền
thống cách cứng nhắc – nếu có năng lực, họ sẽ tích cực sử dụng
năng lực của mình để vãn hồi và củng cố một trật tự của quá khứ.
Những người ngồi ì là những người bám dính vào những chiếc ngai
do mình tự tạo ra, không sẵn sàng tiến lên phía trước – bởi vì
việc tiến lên như thế sẽ có nghĩa là họ phải từ bỏ những hấp dẫn
và những đặc quyền của chủ nghĩa giáo sĩ trị trong mọi dạng thức
và ở mọi cấp độ của nó.
Thời đại của chúng ta, với những đổi thay
nhanh chóng và với bao phát triển mới mẻ, mở ra một khó khăn rất
đặc thù. Giáo Hội hôm nay phải khổ sở nhiều vì những linh mục và
giám mục - bám chặt vào các địa vị, các chức tước của mình –
khuyến khích các tín hữu quay ngược chiều kim đồng hồ, hướng
vọng về lớp bụi mờ quá khứ. Các vị đó không hề ý thức rằng làm
thế là biến tất cả chúng ta – như trường hợp của vợ ông Lót –
trở thành những cột muối! Chỉ khi chúng ta cùng sống với Đức
Giêsu, Chủ Tể của lịch sử, Đấng đã đến, đang đến và sẽ đến lại,
thì chúng ta mới có thể cùng nhau tiến về phía trước. Thật vậy,
trong cái nhìn của nhiều người, việc tiến lên phía trước cùng
với Đức Giêsu trong cuộc tưởng niệm tạ ơn là một hồi ức và thách
đố quá nguy hiểm. Nếu Đức Kitô Phục Sinh của lịch sử có thể chọn
hiện diện trọn vẹn với chúng ta trong hành vi bẻ bánh và chia sẻ
chén rượu, thì phải chăng Ngài không thể biến đổi những con
người ngồi ì trở thành những khách hành hương hăng hái và những
người tiên phong của lịch sử? Đây là một phép lạ vĩ đại mà chúng
ta khát khao và cầu xin.
Cố gắng định hình lịch sử tương lai trong
tư cách là những nhà kiến tạo hòa bình phi bạo lực và dũng cảm,
đó rõ ràng là cuộc phiêu lưu vĩ đại của thời đại chúng ta. Nếu
cảm nghiệm về Bài Giảng Trên Núi có thể gây cảm kích lớn lao cho
những con người nam và nữ như Mahatma Gandhi, Martin Luther
King, Jr., Dorothy Day và các vị sáng lập đầy dũng cảm của các
cộng đoàn tu trì, và có thể chuyển hóa họ trở thành những nhà
tiên phong luôn luôn lao về phía trước, thì tại sao thời nay xem
ra thiếu vắng những khuôn mặt lãnh đạo như thế?
Trong ánh sáng này, chúng ta thấy rõ rằng
mình cần một cuộc canh tân phụng vụ. Nhưng một nền phụng vụ canh
tân mà chúng ta cần đến phải vượt quá tiêu điểm hiện nay vốn đặt
trên những tranh luận về nghi lễ. Tiên vàn, một cách lột xác
triệt để, chúng ta cần trở thành những con người đầy niềm tin và
hy vọng hơn, biết rộng mở đôi tai, quả tim và trí óc hơn để sẵn
sàng đón nhận và hưởng ứng lời mời gọi tiến lên đầy thách đố của
Đức Kitô: “Hãy chỗi dậy! Chúng ta hãy bước tới!”
“tất cả họ đều
đầy tràn Thánh Thần” (Cv 2,4)
Đáp lại lời kêu gọi của Đức Kitô: “Hãy
chỗi dậy! Chúng ta hãy đi!”, Phê-rô, con người tự tin thái
quá, đã trả lời: “Thưa Thầy, con sẵn sàng đi với Thầy dù
phải tù tội hay phải chết” (Lc 22,23). Tuy nhiên, như tất cả
chúng ta đều biết, sự dũng cảm ấy của Phê-rô đã dẫn ông ta
trôi tụt xuống chỗ thê thảm. Khi Charles de Gaulle đang cầm
quyền ở Pháp, các nhà báo Pháp vì muốn châm biếm đã dựng nên câu
chuyện rằng có lần De Gaulle đọc kinh cầu ở Montmartre trong đó
có câu như sau: “Rất Thánh Trái Tim Đức Chúa Giêsu, hãy tin
tưởng vào con!” Trong khi các giám mục và các linh mục biết
rõ sự cảnh giác về việc quá tin vào chính mình, tôi vẫn e rằng
có rất nhiều người trong chúng ta – nhất là những ai đã thành
công trong việc leo lên các nấc thang trong Giáo Hội – cũng cơ
hồ muốn thốt lên lời nguyện pha trò rất ư hàm súc ấy.
Không phải những người có quyền lực và
giàu tài năng trong chúng ta là những người bị cám dỗ đặc biệt
đó sao? Không có thuốc chữa trị nào khác cho căn bệnh này ngoài
việc đặt trọn niềm tín thác vào sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần,
vào lời hứa của Lễ Ngũ Tuần. Chính Chúa Thánh Thần – Đấng đã
thay đổi triệt để Phê-rô và các tông đồ khác vốn trước đó đã vấp
ngã trước ‘bài trắc nghiệm’ là cuộc khổ nạn và cái chết của Đức
Kitô – cũng sẽ biến đổi chúng ta.
Nếu trong đức tin sâu thẳm, chúng ta suy
ngẫm những lời này: “Tất cả họ được đầy tràn Thánh Thần”, thì
những tước hiệu như ‘Đức Cha, Đức Ông, Đức Thánh Cha’... và tất
cả các tước hiệu sáo rỗng khác sẽ xẹp như bong bóng xì. Vì trong
Vương Quốc của Thiên Chúa, Vương Quốc của những mối quan hệ
chính trực, thì chính những người bé nhỏ nhất, vô danh nhất, hèn
kém nhất là những người mang trong mình sức mạnh đầy tác động
của Chúa Thánh Thần.
Toàn thể trình thuật về biến cố Hiện Xuống
hướng sự chú ý của chúng ta về lời tiên tri của Ngôn Sứ Giôen:
“Ta sẽ tuôn đổ Thánh Thần của Ta trên mọi xác phàm / con trai
con gái các ngươi sẽ nói tiên tri ... Ngay cả các nô lệ của Ta,
nam và nữ, cũng sẽ được đầy tràn Thánh Thần của Ta trong những
ngày đó, và họ sẽ nói tiên tri” (Cv 2,17-18). Rõ ràng, ở đây
không hề muốn nói rằng các tôi trai tớ gái sẽ trở thành linh
mục, vì ý niệm này (= linh mục) không tồn tại trong Giáo Hội
sơ khai của các tông đồ. Chỉ đến thời hậu tông đồ thuật ngữ
‘linh mục’ mới được vận dụng lại trong liên hệ đến Đức Kitô, Vị
Linh Mục Thượng Phẩm đích thực.
Cộng đoàn Hiện Xuống, được đánh dấu cả bởi
nhãn giới về Đức Kitô Ngôn Sứ lẫn bởi niềm xác tín sâu sắc về
nhu cầu phải ngoan ngoãn và tín thác vào Chúa Thánh Thần, đã tin
tởng rằng cả đàn ông lẫn phụ nữ đều được đánh dấu để trở thành
những người thông dự cách khiêm tốn vào sứ vụ ngôn sứ của Đức
Kitô. Nói một cách nôm na hơn, mọi Kitôhữu đích thực, dù nam hay
nữ, đều là những con người ngôn sứ, những con người được giải
phóng và đầy tràn Thần Khí do tác động của Thánh Thần Đức Kitô;
và họ được trao ban một sứ mạng giải phóng, sứ mạng mà trong
thời đại chúng ta luôn luôn đòi hỏi phải tỉnh thức và sáng suốt
biện phân. Như vậy, câu hỏi mãi còn cho chúng ta trong tư cách
là Kitôhữu và là thành viên của Nhiệm Thể Đức Kitô là: Chúng ta
có sẵn sàng mở lòng ra – bằng bất cứ giá nào – để đón nhận sự
thúc đẩy của Chúa Thánh Thần nơi chúng ta và nơi những người
khác không? <OJ>
còn tiếp |
VỀ MỤC LỤC |
NGƯỜI ĐÀN BÀ GÓA |
“Trong
lúc giảng dạy, Chúa Giêsu nói rằng: ‘Anh em phải coi chừng
những ông kinh sư ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng,
thích được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng. Họ ưa chiếm
ghế danh dự trong hội đường, thích ngồi cỗ nhất trong đám tiệc.
Họ nuốt hết tài sản của các bà goá, lại còn làm bộ đọc kinh cầu
nguyện lâu giờ. Những người ấy sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn.’
Chúa
Giêsu ngồi đối diện với thùng tiền dâng cúng cho Đền Thờ. Người
quan sát xem đám đông bỏ tiền vào đó ra sao. Có lắm người bỏ
thật nhiều tiền. Cũng có một bà goá nghèo đến bỏ vào đó hai đồng
tiền kẽm, trị giá một phần tư đồng xu Rô-ma. Chúa Giêsu liền gọi
các môn đệ lại và nói: ‘Thầy bảo thật anh em: bà goá nghèo
nầy đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết. Quả vậy, mọi người
đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó; còn bà nầy
thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản,
tất cả những gì bà có để nuôi sống mình.’”
( Mc 12, 38-44)
***
Câu chuyện
người đàn bà góa trong Phúc Âm Thánh Mác-cô trích dẫn trên đây,
gợi cho tôi dòng chữ dễ mến của C.S. Lewis: “Điều gì
bạn nghe và thấy phần lớn tùy thuộc chỗ bạn đứng và tùy bạn
thuộc hạng người nào.”
Câu chuyện
trong Phúc Âm, tự bản chất, không phải là một câu chuyện người
đàn bà góa cho đi hết tiền bạc của mình. Cũng không phải là một
câu chuyện về đức hạnh. Người đàn bà đó không nhận được một lời
cám ơn hay một sự tưởng thưởng nào đối với lòng quảng đại của
mình. Chúa Giêsu cũng không ca ngợi tán dương bà.
Thiên
Chúa nhận biết
G.K.
Chesterton định nghĩa
“thiên tài như là khả năng quan sát
điều gì minh bạch hiển nhiên”. Căn cứ trên sự
nhận xét đó, Chúa Giêsu là một thiên tài. Cặp mắt quan sát của
Ngài không nhìn nơi cao xa quyền quý thuộc thế giới nầy mà ở đó
thường xuất hiện những nhân vật được mọi người chú ý.
Đúng hơn,
đôi mắt quan sát của Ngài nhìn xuống một người mà bất kỳ ai cũng
không để ý tới. Ngài nhận ra người đàn bà góa không ai trông
thấy, vì không có gì nổi bật nơi bà – một người rất khó nhận
diện, ở tột cùng nấc thang xã hội. Ngài nhận thấy cử chỉ âm thầm
của lòng quảng đại nơi bà – một thứ xúc tác làm cho cuộc nhân
sinh trở nên tốt đẹp hơn.
Chúa
Giêsu ghi nhận điều đó và đã bình phẩm thêm.
Đó chính là trọng điểm của đoạn Phúc Âm nầy. Trọng điểm đó, đối
với chúng ta, là phải cân nhắc để “sống như chúng ta phải
sống”, trong một thế giới xem ra vô nghĩa và dễ lạc mất
trong đám “quần chúng đang điên loạn lên” rồi!
Người
cha tôi yêu
Tôi biết
một ông cụ bị bệnh Alzheimer. Cụ góa vợ. Người con gái sống với
cụ cũng góa chồng. Chị cảm thấy không dễ dàng chút nào khi phải
chăm sóc một người cha như thế. Chị bộc lộ tâm tình:
“Cha tôi cứ
đi thẩn thờ một mình ngoài đường phố và cứ tưởng mình đang trên
đường trở về ngôi nhà xa xưa nơi xóm cũ. Vào một buổi sáng sớm
tháng ba, nhằm lúc mùa đông lạnh lẽo, cảnh sát đã nhặt ba tôi ở
ngoại biên thành phố. Ba tôi nói với cảnh sát là đi xem lễ Giáng
Sinh nửa đêm.
Tôi không
biết còn tiếp tục được bao lâu nữa để thay áo quần cho ba tôi,
tắm rửa và cho ăn uống. Tôi đã mỏi mệt lắm rồi. Cuộc sống thật
quá khắt khe, quá đòi hỏi! Và tôi cảm thấy tội lỗi khi suy nghĩ
như thế về một người cha mà tôi rất mực thương yêu.”
Tôi nói phụ
họa vào: “Đúng thế! Cuộc sống thật quá đòi hỏi khắt khe. Tôi
không biết rồi đây chị phải ứng phó như thế nào, nhưng tôi biết
chị sẽ tiếp tục cuộc sống như thế bao lâu có thể được, miễn là
chị còn mạnh mẽ và sức khỏe tốt. Tôi thông cảm với chị. Khó khăn
của chị hoàn toàn bị đóng khung trong thân phận con người.”
Sau đó,
trước khi lái xe về nhà, tôi đã vẫy tay chào. Cả chị và cha chị
đứng trước cổng ra vào, cũng vẫy tay lại. Người cha – không phải
do lỗi lầm nào của chính mình – hoàn toàn không nhận biết sự tận
tâm tận lực của người con gái yêu quý.
Khi đang
lái xe về nhà, tôi nhớ lại một tù nhân ở Lao Xá Mountjoy
thường nói với tôi câu nầy: “Khi con làm điều tốt, không ai
nhắc nhở tới; khi con làm điều bậy, không ai quên được.”
Hai loại
giả dối
Câu nói của
tù nhân trên đây cho thấy một nan đề: ở mỗi một người trong
chúng ta, đều có pha lẫn cái xấu và cái tốt. Chúng ta đã có kinh
nghiệm xung đột đó ở bên trong chúng ta. Chúng ta vừa “lương
thiện”, vừa “bất lương”.
Tôi thường
hay nói: “Chỉ những kẻ tội lỗi mới đến nhà thờ Chúa nhật để
xem lễ.” Thật đúng như thế! Chúa không bao giờ khó chịu với
kẻ tội lỗi. Tôi biết khi nói điều đó sẽ làm cho một số người
sửng sốt. Chúa chỉ khó chịu với những ai nghĩ mình không phải là
kẻ tội lỗi.
Nếu bạn
không tin lời tôi, xin bạn hãy đọc lại Thánh Kinh. Tất cả chúng
ta đều giả dối. Có hai hạng người giả dối. Có người biết mình
giả dối và có người phủ nhận mình giả dối. Hy vọng chúng ta là
những kẻ giả dối nhưng cố gắng sống Tin Mừng, ngược lại
với những kẻ không cố gắng sống theo Tin Mừng chút nào.
Tôi thường
chỉ cho những tù nhân ở Lao xá Mountjoy thấy sự khác biệt lớn
lao giữa họ và tôi: đó là họ nhận thấy điều đó còn chính tôi thì
không nhận ra.
Tất cả
đều bại lộ
Nếu tất cả
những thời gian đen tối trong đời sống chúng ta cũng như những
tâm tư xấu xa của chúng ta được phô bày, chắc chắn những người
quen biết chúng ta sẽ sửng sốt, ngay cả công phẫn nữa. Nhưng tất
cả cốt chuyện không nằm ở chỗ đó.
Nếu tất cả
những việc thiện giấu kín của chúng ta, những sự hy sinh cũng
như những việc đạo đức của chúng ta được gia đình và bạn bè biết
đến, chắc chắn họ sẽ ngạc nhiên và có thể thán phục nữa về lòng
hào hiệp ẩn tàng nơi chúng ta.
Vì vậy
chúng ta không nên quan tâm đến tội lỗi mình cũng như tội lỗi
người khác không bị ai hay biết, và chỉ “nên sống lương thiện
một cách âm thầm”, như người đàn bà góa trong câu chuyện
nầy. Không ai cả, ngoại trừ Chúa ra! Chúa biết rõ như thế, và
một ngày nào đó kẻ trộm cắp sẽ được tha thứ, cũng như tất cả
những việc lành giấu kín rồi đây sẽ được tỏ bày cho mọi người
trông thấy.
Bàn tay
của Chúa
Cho phép
tôi đan kết lại với nhau về những gì mà tôi đang chia sẻ với quý
bạn bằng một câu chuyện liên quan đến một đôi tân hôn bị lâm vào
trận bão tố trên con đường heo hút ở Rặng Núi Đá miền Tây
Canada.
Vì không
thể đi xa được nữa, họ bắt buộc phải bỏ xe hơi lại. May mắn
thay, có một trang trại gần đó. Một ánh đèn le lói từ nơi cửa sổ
trang trại phóng ra đã đưa họ đến đó để được giúp đỡ.
Chủ nhà là
một đôi vợ chồng già nua, khi nghe tiếng gõ cửa, họ đã vội vàng
mở. Đôi vợ chồng trẻ giải thích với họ về tình trạng ngặt nghèo
của mình và xin ngủ tạm qua đêm. Họ nói: “Xin cho chúng tôi
ngủ nhờ nơi nào cũng được, trên tấm thảm nơi sàn nhà…”
Khi họ đang
nói, một vài hạt thóc dính trên đầu tóc bạc phơ của bà già rơi
xuống. Lập tức, cặp vợ chồng già nhận biết họ là đôi tân hôn.
Cặp vợ chồng già đưa mắt nhìn nhau rồi nói: “Được rồi, anh
chị cứ ngủ lại di. Hãy ngủ trong phòng dành cho khách khứa.”
Đêm hôm đó,
đôi tân hôn đã sử dụng phòng dành cho khách. Sáng hôm sau, họ đã
thức dậy sớm và ra đi thật lặng lẽ để khỏi quấy rầy chủ nhà. Họ
vội vã mặc quần áo và để lại một tờ giấy năm chục đô-la trên bàn
trang điểm.
Họ cúi mình
để xuống thang lầu và trong khi nhón gót đi qua phòng khách, họ
rất đỗi ngạc nhiên thấy ông cụ già đang co cụm trên chiếc ghế
bành, còn bà cụ già đang cuộn mình lại trên ghế trường kỷ.
Cặp vợ
chồng già đó không có phòng dành cho khách. Họ đã dành giường
ngủ của họ cho đôi tân hôn xa lạ kia. Họ không muốn làm hỏng
thời gian trăng mật của đôi tân hôn đó.
Cặp vợ
chồng già đó cũng giống như người đàn bà góa ở trong Phúc Âm. Họ
đã “cho đi những gì tốt đẹp nhất” trong hoàn cảnh của họ.
Đến lượt đôi tân hôn, họ cũng “cho lại những gì tốt đẹp nhất”
mà họ có được trong cảnh ngộ đó của họ.
Chúng ta
cần một linh đạo nối kết chúng ta lại với cuộc sống, khà dĩ giúp
chúng ta nhận thấy bàn tay của Chúa trong cuộc sống thường
nhật.
Câu chuyện
đáng chú ý về người đàn bà góa không nhằm mục đích đề cập tới
đức độ hay lòng quảng đại, nhưng nhằm cho chúng ta thấy điều kỳ
diệu trong cuộc đời thường. Đó là:
Chúng ta
phải quan tâm hằng ngày;
Chúng ta
phải quan tâm tất cả những gì Chúa nhìn thấy hết
Và Ngài
không thể quên được!
LM Vincent
Travers, OP
Hương Vĩnh
chuyển ngữ
|
VỀ MỤC LỤC |
|
CỨ ĐỂ NHỮNG HẬU QUẢ
CỦA NÓ XẢY RA (bài 2) |
Giờ cơm trưa mỗi ngày luôn là một cuộc chiến
đấu đối với người mẹ vì sau giờ cơm bà phải đưa cô bé Mỹ Tiên, 6
tuổi, đến trường mẫu giáo. Bà có nghe về cách thế áp dụng chiến
thuật mà người ta đã chỉ cho bà. Đối với bà, cô bé đến đúng giờ là
một vinh dự cho bà vì thật sự không dễ để làm cho cô bé đi học đúng
giờ. Một ngày kia, bà chỉ cho cô bé biết đã đến giờ cô bé phải rời
nhà đi học, nhưng rồi bà lại phải ngồi xuống ăn trưa với cô bé. Cô
bé cứ nhẩn nha không thiết gì giờ giấc đến trường. Bà mẹ cảm thấy
khó chịu nhưng không biết làm cách nào. Sau khi ăn xong, bà rời khỏi
nơi đó và đi vào phòng khách xem Tivi và xem ra bà chỉ chú trọng vào
công việc của bà. Cuối cùng thì cô bé đến trường trễ nửa giờ. Khi cô
bé trở về, bà mẹ để ý xem có gì khác biệt xảy ra không, như kết quả
của việc đi trễ. Nhưng mọi sự vẫn bình thường không có gì xảy ra.
Tuy nhiên, bà mẹ tiếp tục với phương cách đó cho ngày hôm sau. Vào
ngày thứ 3, bà viết một vài hàng ghi chú cho cô giáo và xin cô cộng
tác. Ngày hôm đó cô bé đi trễ 40 phút. Khi cô bé về nhà, cô bé khóc
nức nở, hậu quả của việc đi trễ. Bà mẹ an ủi: “Cưng, mẹ xin lỗi vì
con đã đi trễ. Con có thể đi học sớm hơn vào ngày mai”. Từ ngày hôm
đó trở đi, cô bé luôn coi giờ để đi học, và bà mẹ không còn phải
quan tâm đến việc nhắc nhở cô bé đi học đúng giờ nữa.
Cũng phương cách đó, chúng ta có thể áp dụng
cho các trẻ con thức dậy và đến trường vào lúc sáng. Bố mẹ nên cho
chúng những đồng hồ báo thức. Bố mẹ nên cắt nghĩa cho chúng biết
rằng bố mẹ sẽ không còn trách nhiệm gọi chúng thức dậy và đến trường
đúng giờ nữa. Bố mẹ nên ngưng làm những chuyện đó và cứ để cho chúng
chịu trách nhiệm nếu chúng muốn nhẩn nha, ham chơi, quên mang sách,
hay quên làm bài tập. Ngay cả việc trễ xe buýt của trường, hãy để
chúng nó tự đi bộ tới trường, chúng có đủ năng lực.
Chúng ta cứ tự hỏi: cái gì sẽ xảy ra nếu chúng
ta không can thiệp vào những chuyện ấy? Đi học trễ hoặc không làm
bài sẽ khiến các cô giáo giận dữ. Các đồ chơi bị phá hủy sẽ không
còn để chơi. Quần áo dơ không cho vào giỏ giặt đồ, sẽ không được
giặt. Và cứ như thế, những hậu quả do việc làm của chúng tất nhiên
sẽ xảy ra, và rồi chúng phải đối diện với những hậu quả đó.
Yến Vi 3 tuổi đang ở trong sân nhưng cứ muốn
chạy ra đường chơi. Bà mẹ cứ phải canh giữ và mang nó trở lại trong
sân. Bà rầy la và phết đít nó, nhưng cũng chỉ vô ích.
Trong trường hợp nầy, chúng ta phải xử sự thế
nào? Dĩ nhiên chúng ta không nên để đứa trẻ tự do chạy nhảy kẻo nó
bị xe tung vì đó là kết quả đương nhiên của việc chạy chơi ngoài
đường. Vì thế, chúng ta phải xếp đặt một kết quả làm sao để thích
hợp với một trật tự đã bị phá vỡ. Lần đầu tiên cô bé chạy ra đường,
bà mẹ dĩ nhiên là bắt nó lại và nên hỏi cô bé có muốn chơi ở trong
sân không? Nếu nó còn thích chạy rông ra đường, bà mẹ không cần nói
năng gì cả, chỉ việc yên lặng bế nó và đem nó vào trong nhà. Hành
động của bà như muốn nói: vì con không thích chơi ngoài sân nên con
không được phép ra ngoài nữa. Chỉ khi nào con chấp nhận chơi ở trong
sân mà thôi, con được phép làm điều đó. Điều đó có nghĩa là nó có
quyền lựa chọn làm theo ý muốn của nó. Bà mẹ không nên áp đặt, nhưng
bà có thể thiết lập một giới hạn và kết quả theo đó. Bất cứ khi nào
cô bé tỏ ý muốn chấp nhận điều đó, nó có thể chạy ra sân chơi. Nhưng
nếu nó vẫn thích chạy lung tung ra ngoài đường, nó sẽ bị bắt và bị
mang vô nhà cho suốt thời gian còn lại của ngày hôm đó. Nhưng để đề
phòng, đừng để việc đó trở nên một cuộc chiến tranh giữa 2 mẹ con vì
vấn đề quyền bính, sau lần thứ 3 bà mẹ nên để nó ở trong nhà một vài
ngày. Điều quan trọng là cho nó có cơ hội làm lại cuộc đời. Cô bé có
thể phản đối việc bắt nó đem vào trong nhà và tỏ vẻ muốn nổi loạn vì
không được làm theo sở thích. Vào những lúc đó, bà mẹ nên lặng yên.
Bà không nên phản ứng gì về việc cô bé muốn làm loạn, vì ở đây chúng
ta chỉ cần ứng phó với riêng vấn đề nầy mà thôi.
Bé Duyên 3 tuổi quên đánh răng. Để làm công
việc đó, bà mẹ phải đi với nó và ép nó đánh răng mỗi lần bà thấy
cần. Lần nầy, cả 2 mẹ con đều cảm thấy bực bội, nên bà mẹ nghĩ đến
phương cách mà bà vừa được học hỏi. Bà bảo với cô bé rằng cô bé
không cần phải đánh răng nếu cô bé không muốn. Nhưng vì kẹo và đồ
ngọt sẽ làm hại những răng không được đánh, nên nó không được phép
ăn đồ ngọt nữa. Trong vòng một tuần, cô bé không đánh răng nhưng
cũng không có kẹo để ăn. Những đứa khác thì có kẹo và có kem để ăn
nữa. Vào một buổi chiều kia, cô bé tuyên bố với mẹ rằng cô bé muốn
đánh răng và muốn có kẹo để ăn. “Không phải bây giờ cưng ơi! Con
phải đánh răng vào buổi sáng và sau khi ăn”. Cô bé chấp nhận ngay mà
không phàn nàn. Sáng hôm sau, khi thức giấc cũng như sau những bữa
ăn, cô bé vui vẻ đi đánh răng như đã thõa thuận.
Nhiều chuyện như thế đã được dùng theo phương
cách nầy và đã thành công.
lm.lêvănquảng, Tiến sĩ tâm
lý |
VỀ MỤC LỤC |
|
NIỀM RIÊNG
|
(Lc 7:36-8:3)
Sao em không nói một lời,
ngày xưa áo tím, chợ đời xôn
xao,
niềm riêng biết gởi nơi nao,
nỗi lòng vời vợi, cơn đau chập
chùng.
Gót chân Ai đẹp lạ lùng,
nghe trong suối lệ cõi lòng ăn
năn
tóc mây vấn vít đôi chân,
dầu thơm hay vạn hoa ngàn ngát
bay
Dù đời vẫn trắng đôi tay,
dù đang sống kiếp đọa đầy lao
lung,
quyết tâm vẹn nghĩa thủy chung,
vững tin Lượng Cả bao dung hải
hà
Chúa yêu em, Chúa thứ tha,
từ nay cuộc sống chan hòa niềm
vui ...
vân thanh
17.06.2007
|
VỀ MỤC LỤC |
|
CHÍNH TRỊ
THEO QUAN ĐIỂM CỦA GIÁO HỘI |
Nhiều người Việt chúng ta
hiện nay, ở hải ngoại cũng như tại quê nhà, mỗi khi có ai nói
đến hai tiếng CHÍNH TRỊ, là không muốn nghe nữa. Chúng ta, hàng
ngày vẫn phải sống, va chạm với những vấn đề chính trị mà tại
sao lại "kỵ" nó như vậy ? Phải chăng chính trị là cái gì lôi
thôi, làm phiền chúng ta, gây khó khăn cho chúng ta, tạo cho
chúng ta những điều khó nói khó giải quyết, có khi không nói
được những điều mà mình nghĩ trong tâm, hoăc sơ đụng chạm đến
người khác, gây phiến toái cho cả người nghe lẫn người nói. Đất
nước chúng ta qua bao thế hệ từ ông cố bà cố nội ngoại, ông bà
cha mẹ, cả con cái chúng ta đã trải qua những thời kỳ chiến
tranh điêu linh từ 1940, 1950 đến 1954, 1975..... Rồi từ 1975
đến nay, tuy đất nước đã ngưng tiếng súng nhưng lòng chúng ta
vẫn còn "chiến tranh". Chúng ta vẫn đang bị lưu đầy nơi đất
khách quê người xa xôi ngàn dậm. Vì "chính trị" mà chúng ta
phải rời bỏ quê hương đất tổ. Vậy chính trị là gì?
CHÍNH TRỊ LÀ GÌ?
Ở đây chúng tôi không muốn
đào sâu về chính trị một cách hàn lâm khoa bảng (academic), chỉ
xin nói một cách khái quát và thực dụng vào những câu chuyện,
cuộc sống hàng ngày của con người từ gia đình đến xã hội, quốc
gia. Theo Littré viết từ năm 1870 thì chính trị là một
khoa học cai trị các quốc gia. Robert viết năm 1962 thì
cho Chính trị là một nghệ thuật và thực hành cách cai trị
các xã hội loài người. Như vậy thì cả hai
định nghĩa, mặc dù viết cách nhau gần thế kỷ, đều qui về hai
chữ "CAI TRỊ" tức ám chỉ trong đó một QUYỀN
HÀNH.
Các nhà chuyên môn hiện còn đang tranh luận
về điểm này. Một vài người cho rằng Chính trị là một khoa học
chính thể các quyền hành có tổ chức trong các đoàn thể quốc gia.
Trái lại phần đông cho đó là khoa học các quyền hành có tổ chức
trong một đoàn thể. Thực vậy, muốn cai trị phải có quyền hành,
dù trong một tổ chức xã hội loài người còn sơ khai. Nhưng thế
nào là QUYỀN HÀNH và dùng quyền hành thế nào để mưu cầu công
ích? Làm sao có thể dung hòa giữa quyền hành và nhu cầu của hai
phía: cai trị và bị trị? Như vậy chúng ta thấy có hai thái độ
căn bản về chính trị. Một đàng cho Chính trị là một cuộc đấu
tranh, cá nhân hay nhóm nào nắm được quyền hành là nắm được
quyền thống trị để thủ lợi. Một đàng cho chính trị là một nỗ lực
duy trì trật tự và công lý. Quyền hành là để bảo vệ quyền lợi
chung, ích lợi chung chống lại áp bức của các quyền hành riêng
biệt phe nhóm. Đối với những người trên, chính trị dùng để duy
trì đặc quyền đặc lợi của một thiểu số trên đa số. Đối với những
người sau, chính trị là một phương tiện để thực hiện một xã hội
công bằng, hòa bình, tự do kiểu đô thị của Aristote và kiểu
Khổng Tử thời Nghiêu Thuấn.
Tuy nhiên, dù dựa vào thuyết
nào đi nữa thì một phần cũng còn tùy thuộc vào tình trạng xã
hội. Con người ở giai cấp bị áp bức, nghèo đói, khổ sở, bất mãn
cho rằng quyền hành không thể đảm bảo một trật tự thật sự mà
chẳng qua chỉ là một trò hề bịp bợm để che đậy sự thống trị của
những kẻ có ưu thế. Đối với những người này thì chính trị là đấu
tranh. Còn giai cấp giàu sang, quyền quí hả hê thì cho rằng xã
hội là hòa hợp và quyền hành là để duy trì một nền trật tự chân
chính. Đối với họ, chính trị là liên kết tất cả mọi người ở mọi
giai tầng lại với nhau thành một xã hội hòa hợp, tự do và thanh
bình. Hai lập luận trên bề ngoài xem có vẻ trái ngược nhau,
nhưng đặc chất ý nghĩa thực của nó lại bổ túc cho nhau, nghĩa là
bất cứ lúc nào, ở đâu nó cũng có tính lưỡng ứng, hai bộ mặt,
diễn tả một thực trạng xấu xa nhất, xác thực nhất của "nhà nước"
hay "xã hội". Nói rõ hơn, cái quyền hành thiết lập trong xã hội
hay quốc gia, dù ở đâu hay lúc nào thì cũng vẫn là một lợi khí
của Thống Trị. Nhưng chính trị vẫn thường được mô tả bằng những
mỹ từ đầy lý tưởng. Chính trị là một khoa hoc hay nghệ thuật
điều hành, cai tri một quốc gia sao cho mọi guồng máy của nhà
nước được ổn định, có trật tự kỷ cương, sinh hoạt điều hòa thông
suốt, để người dân được sống giàu sang, an bình hạnh phúc yêu
thương nhau, đồng thời chính quyền hay người làm chính trị có
được uy quyền phú quí. Nhưng làm sao để có thể dung hòa được
quyền lực và nhu cầu của cả hai phía?
Trong một cộng đồng, đoàn thể hay một quốc
gia thì người dân, con người là đối tượng của chính quyền hay
người cầm đầu một tổ chức. Khi hội viên hoặc dân số càng đông,
đất càng rộng thì trách nhiệm và uy quyền của người cầm đầu càng
lớn. Con người là một sinh vật có trí khôn, thông minh, năng
động, có óc cải tiến không ngừng để mưu cầu hạnh phúc. Do đó khi
con người càng văn minh thăng tiến thì nhu cầu càng nhiều và
đa dạng. Lúc đó sự đòi hỏi phải thỏa mãn của người dân nơi chính
quyền trở nên phức tạp, tạo thành xung khắc quyền lợi của hai
bên. Đấu tranh phát sinh từ đó.
Chính trị là đấu tranh, dùng con người làm PHƯƠNG TIỆN:
BAO LỰC
Dù nấp dưới danh nghĩa nào đi nữa, ngưới
làm chính trị vẫn nhân danh con người để đứng lên, dùng con
người làm PHƯƠNG TIỆN đấu tranh hầu cướp chính quyền và bảo vệ
quyền lực. Người ta kêu gọi Tự do, Dân chủ, Nhân quyền và Bình
đẳng xã hội, nhưng kết cuộc cũng là để nắm giữ và bảo vệ quyền
lực hầu mưu cầu lợi ích cá nhân hoăc phe nhóm. Các hình thức đấu
tranh của chính trị cũng sẽ tùy thuộc ở những yếu tố tâm lý, dân
số, địa dư, văn hóa, xã hội, kinh tế cũng như ở ngay sự hiện hữu
của các mâu thuẫn gây ra chính trị. Mâu thuẫn bao giờ cũng phát
sinh và biểu lộ trong một khung cảnh nào đó và các yếu tố phát
sinh ra nó lại ảnh hưởng đến các hình thức đấu tranh trong hoàn
cảnh đó để rồi cuối cùng đưa đến BẠO LỰC. Bạo lực có thể là
tiền, các phương tiện truyền thông báo chí, kỹ thuật....không kể
vũ lực được biểu hiện bằng súng đạn hoặc giáo mác, nắm tay / quả
đấm. Đa số các phong trào đấu tranh chính trị đều đưa đến và kết
thúc bằng bạo lực. Có người nói: " Ông vua đầu tiên là một
quân nhân may mắn". Phải chăng câu nói khẩy này ngụ ý
rằng Vũ khí là nguồn gốc của quyền hành và quyền hành trước hết
dựa vào vũ lực. Chủ nghĩa Cộng Sản đã chẳng đề cao tự do dân
chủ, bình đẳng xã hội, tranh đấu cho lớp người nghèo khổ thiệt
thòi thợ thuyền, bần nông và dùng bạo động đấu tranh giai cấp
cướp chính quyền để rồi chủ trương độc tài toàn trị ôm cứng lấy
quyền hành độc đảng ? Quyền hành đồng nghĩa với vũ lực. Kẻ nào
mạnh về quân sự kẻ đó thắng. Stalin đã từng thách thức Đức Giáo
hoàng: "Ông có bao nhiêu sư đoàn?"
Giáo
Hội lấy con người làm CỨU CÁNH
:
BÁC ÁI, NHÂN HÒA thuần hóa BẠO LỰC
Giáo hội công giáo có lập
trường và đường lối hoàn toàn khác. Giáo hội không chủ trương
làm chính trị phe nhóm hay đảng phái, cũng không chủ trương đứng
về phe này hay phe kia hoặc tranh dành lấy quyền lực cho
mình.(Hiến chế mục vụ trong thế giới ngày nay). Chính trị,
theo giáo huấn của Giáo hội, lấy con người làm CỨU CÁNH, và
phương tiện tranh đấu là NHÂN HÒA / BÁC ÁI. Những chỉ dẫn này ta
thấy đầy dẫy trong Tin Mừng Phúc Âm là bản "hiến pháp" tuyệt vời
của Giáo Hội công giáo và các học thuyết xã hội của Giáo Hội là
bản nội qui hướng dẫn người công giáo hành sử quyền con người
của mình.
Vì lấy con người làm cứu
cánh, nên tất cả những gì liên quan đến con người Giáo Hội đều
nâng đỡ, che chở, bảo tồn và ủi an. Sinh mạng và phẩm giá con
người vì vậy đã được đặt lên hàng đầu, phải luôn luôn được tôn
trọng bởi lẽ con người là hình ảnh của Thiên Chúa (St 9, 6),
và được cứu chuộc bằng máu châu báu của Đức Kitô, được
làm con trong con người, làm đền thờ của Chúa Thánh Thần và được
dành cho sự sống đời đời trong sự kết hợp với hồng ân Thiên Chúa
(Christi fideles Laici, 37). Giáo Hội đòi hỏi mọi người phải
sống với niềm tin Tin Mừng. Chỉ có sống thực với Tin Mừng với
tất cả tâm hồn yêu thương vị tha mới có thể cứu gỡ phẩm giá con
người khỏi mọi lôi cuốn không ngừng của đam mê dục vong, hoặc
khinh rẻ hoặc tôn sùng thái quá thân xác con người. Không có một
luật lệ trần thế nào có thể bảo đảm nhân vị và tự do con người
thích đáng bằng Tin Mừng Chúa Kito, đã được trao phó cho Giáo
Hội. (Rm 8, 14). Tin Mừng này xác tín sự Tự Do của con cái Thiên
Chúa, phủ nhận mọi hình thức nô lệ, vì mọi ách nô lệ đều do tội
lỗi mà ra. Tin Mừng tôn trọng triệt để phẩm giá và quyết định tự
do của lương tâm, đồng thời cũng luôn luôn nhắc nhở phát huy mọi
tài năng để phụng sự Thiên Chúa và mưu ích cho mọi người. Sau
hết, Tin Mừng còn dạy mọi người phải thương yêu nhau. Yêu tha
nhân và cả kẻ thù như chính mình vậy ( Mt.22, 39).
Nhân Quyền là quyền của con
người: quyền sống, quyền được trọn vẹn thể xác, quyền được hưởng
những phương tiện cần và đủ để sống xứng đáng là con người có
nhân phẩm như quyền sống an toàn trong lúc bệnh hoạn, khuyết
tật, già yếu, thất nghiệp...Ngoài nhân quyền thể xác con người
còn cần phải có nhân quyền tinh thần như quyền tìm kiếm chính
trị, quyền tự do tư tưởng, quyền tự do tôn giáo, quyền bình đẳng
không bị kỳ thị.
Tự Do cũng là một đặc tính
căn bản trân quí của con người, nhưng Tự Do phải gắn liền với đi
tìm Chân Lý. "Con người quay về điều thiện luôn luôn trong
tình trạng tự do"(Gaudium & Spes, 11 ). Do đó tự do không có
nghĩa là muốn làm gì thì làm nhưng là có quyền làm những điều
thuộc bổn phận của mình mà Thiên Chúa đã khắc ghi trong tâm mỗi
người.
Song song với việc giải phóng
con người khỏi mọi áp bức là việc cần thiết phải bảo tồn tự do
và tất cả những quyền cơ bản khác của con người, trong đó quyền
tự do tôn giáo chiếm vị thế quan trọng nhất. (Evangelii
Nuntiandi, 39). Quyền này không thể bị lệ thuộc dưới bất cứ một
áp lực nào, dù cá nhân, đoàn thể, quốc gia hay bất cứ một quyền
bính trần thế nào khác. Do đó, về phương diện tôn giáo, không ai
có thể bị ép buộc hành động trái với lương tâm hoặc theo lương
tâm mình dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, không gian và thời gian
nào. (Dignitalis Humanae, 2). Hạn chế quyền tự do tôn giáo rõ
ràng là xúc phạm đến phẩm giá con người kéo theo những vi phạm
về tôn giáo. (Redemptoris Hominis, 17).
Tóm lại, tất cả những vấn đề
thuộc về con người được tranh cãi và giải quyết đều liên quan
đến TỰ DO của CON NGƯỜI, trong đó Tự Do Tôn giáo là trên hết và
là một đòi hỏi bất khả nhượng. Nó là một tảng đá ở trong góc nhà
của tòa lâu đài NHÂN QUYỀN. Tự Do Tôn giáo là một nhân tố
thiết yếu không thể thiếu vì lợi ích và sự phát triển của từng
cá nhân cũng như toàn thể xã hội. Nhờ nó mà việc sống chung hòa
bình giữa con người với nhau được hài hòa xung mãn. (Sứ điệp
ngày Thế giới Hòa Bình 1988, Nhập đề). Người công giáo không thể
đóng cửa ở trong nhà thờ. Đức Phaolo VI đã từng tự giới thiệu
tại diễn đàn LHQ như là một "chuyên viên về nhân bản" và tuyên
bố "Phát triển là tên gọi mới của hòa bình". Còn Đức Gioan
Phaolo II biện hộ cho nhân quyền, cho người nghèo, cho các nước
nghèo thế nào thì cả thế giới đều đã biết
SỐNG
- CHÍNH -TRI
: Tu sửa bản thân, dấn
thân.
Chúng ta thường hiểu chính
trị theo nghĩa thông thường, chính trị là phe phái, tranh dành,
chiếm đoạt và bảo vệ quyền lực với mọi thủ đoạn lưu manh gian ác
miễn sao đạt được ý nguyện. Đó là chính trị dơ bẩn, chính trị BÁ
ĐẠO. Nhưng không phải ai cũng làm chính trị bá đạo cả. Chúa
Giêsu cũng làm "chính trị", nhưng Ngài không dùng thủ đoan lưu
manh để lừa gạt. Ngài lấy Từ bi, Bác ái, lòng Nhân mà thuyết
phục con người để mọi người thương yêu nhau và sống an bình hạnh
phúc. Đó là chính trị VƯƠNG ĐẠO. Thí dụ về Chúa thì nhiều vô kể.
Toàn thể TIN MỪNG là cả một kho tàng, là một hiến pháp siêu
chính trị mà chúng ta phải noi theo. Nhưng chỉ xin nêu một thí
dụ về Đức Khổng.
-Ông Tử Lộ hỏi Đức Khổng:
"Nếu vua nước Vệ mời thầy ra giúp vua cai tri, thày làm gì
trước?"
-Khổng Tử đáp: "Ắt phải
lấy chính danh làm trước vậy."
Thuyết chính danh như thế nào, có thể đa số
chúng ta đã biết, xin không bàn nhiều ở đây. Chúng ta thường
nghe nói: Danh Chính Ngôn thuận, nghĩa là Danh bất
chính tắc ngôn bất thuận, ngôn bất thuận tắc sự bất thành
, thuyết căn bản của triết học họ Khổng. Đãng CSVN, chế độ tự do
tại Hoa Kỳ này đang áp dụng loại chính trị nào? Chắc không phải
là chính trị vương đạo. Nếu vương đạo, chính danh thì đã chẳng
có hơn 3 triệu người Việt, trong đó có chúng ta, đã liều chết
rời bỏ quê hương lang thang nơi xứ người như hiện nay. Nếu vương
đạo thì Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ đã không cần phải nhắc nhở
người công giáo dấn thân vào chính trị, chú ý đến những vấn đề
xã hội, Sự sống / Sự chết, Chiến tranh / Hòa bình....ở đất nước
Hoa Kỳ này. Phải chăng khi nói dấn thân, các ngài muốn chúng ta
sống với chính trị.
Con người sinh ra, sống và
chết trong môi trường chính trị. Con người là con vật chính trị.
Vì thế sống chính trị là điều kiện căn bản để thực hiện một cuộc
sống đầy đủ của con người, cả về thể xác lẫn tinh thần. Sống
chính trị không phải là làm chính trị. Làm chính trị nhắm mục
tiêu tranh dành quyền lực. Sống chính trị cốt yếu ở chỗ thực
hành những đức tính chính trị bắt đầu ngay từ bản thân mình và
ngay trong đời sống thừơng nhật của mình. Tu sửa bản thân mình
trước khi tu sửa xã hội.
Đức tính chính trị là những
nỗ lực cải thiện các mối liên hệ giữa mình với người khác và
rộng dần ra tới toàn thể xã hội, quốc gia.... Muốn làm tốt hơn
những mối tương quan này, tất nhiên phải tìm hiểu đâu là những
trở ngại, phía mình, phía người, tính chất của những trở ngại
này rồi tìm ra những phương hướng giải quyết vấn đề dựa trên
những điều kiện cơ bản, thích hợp với Tin Mừng.
Đức tính chính trị là những
đức tính có tính cách cộng đồng, nằm trong các mối tương quan xã
hội. Để luyện tập những đức tính này không thể đóng cửa tu thân
hàm dưỡng trong phòng kín, mà phải dấn thân vào các sinh hoạt
đoàn thể / cộng đồng. Phải cùng với nhiều người khác tạo ra một
môi trường tập thể tu thân, tạm gọi là CỘNG TU. Giáo hội sơ khai
của các tông đồ phải chăng cũng là những cộng đồng cộng tu, mọi
người quây quần sống chung với nhau để cầu nguyện, ăn chay hãm
mình và tu luyện.
Chính trị luôn luôn có tính
cách bành trướng, tạo ra một mối tương quan mật thiết giữa phần
tử với toàn thể. Vì thế việc thực hiện các đức tính chính trị
tuy bắt đầu từ đời sống thường nhật của mình nhưng lại bắt buộc
phải kết thúc ở toàn thể xã hội. Nếu không, sinh hoạt chính trị
sẽ bị bóp méo hay bẻ gẫy. Đời sống con người và xã hội cũng bị
xáo trộn theo.
Chính trị là sự áp đặt của toàn thể vào cá
nhân. Nhưng đức tính chính trị lại là sự phản hồi từ cá nhân vào
toàn thể. Khi sự phản hồi này được thể hiện, thì tính chất áp
đặt không còn nữa, mà đã trở thành tự do dân chủ....đem lại phúc
lợi chung cho mọi người. Mỗi người công giáo chúng ta, nếu sống
đúng tinh thần Tin Mừng Chúa sẽ là những hạt nhân có tính phản
hồi vào môi trường xã hội làm đẹp chính trị. ( Mt.5, 13-16).
Trong thực tế, làm được điều
đó không phải là dễ . Chúa dạy "chúng ta phải thương
yêu nhau như yêu chính mình vậy"( Mt. 22, 39) đã hơn 2000
năm nay mà bây giờ, hàng ngày Giáo Hội và các cha vẫn còn phải
nhắc nhở chúng ta. So kè những vấn đề khác nhau của đất nước là
thực hiện một đức tính chính trị. Không đồng quan điểm về một
vấn đề gì nhưng vẫn tiếp tục hợp tác trong các sinh hoạt của
cộng đồng xã hội, lại là một đức tính chính trị khác.
Mỗi cá nhân tín hữu không tự
cô lập trên ngọn núi của mình, mà phải xuống núi, xắn tay hợp
tác với người khác, khép mình vào một kỷ luật làm việc tập thể,
đó là đức tính chính trị.
Tạo được sự hợp tác giữa
những bất đồng trong cùng một hệ phái, một cộng đồng đã là việc
khó, tạo sự hợp tác này giữa những hệ phái / cộng đồng khác nhau
lại còn khó hơn bội phần, đòi hỏi nhiều tập luyện các đức tính
chính trị khác nhau, không thể chỉ nói xuông.
Nguyên do chính tạo ra những
bất ổn trong xã hội là sự xung đột quyền lợi giữa người này với
người khác, giữa nhóm này với nhóm khác. Giải quyết những vấn đề
này mà phải dùng tới các thủ đoạn man trá và tàn độc thì thật ra
không phải là giải quyết, mà chỉ triển hạn, đẩy lui vấn đề đi xa
hơn bằng cách tạo ra nhiều vấn đề khác. Nước đang đục, khuấy cho
đục thêm.
Để giải quyết những vấn đề có
tính cách toàn diện này, không thể chỉ dựa vào sự luyện tập các
đức tính chính trị nơi một số người, mà phải cần tới những sửa
sang dự bị từ nền tảng trong mọi tương quan của toàn thể xã hội.
Xã hội nào, chính quyền đó. Toàn thể gọi toàn thể. " Muối sẽ
làm mặn môi trường. Ánh sáng sẽ xua đuổi bóng tối."(Mt. 5,
13-16). Một cuộc cách mạng chỉ thành công trong một môi
trường đã dọn sẵn. Một chế độc tài cũng chỉ thành công trong một
môi trường thích hợp với nó. Một chế độ không bỗng nhiên từ trời
rơi xuống. Một chế độ bao giờ cũng là con đẻ của một tình trạng
xã hội. Mà xã hội là do chính chúng ta tạo nên. Sống chính trị
càng lan rộng thì mọi não trạng của xã hội sẽ thay đổi theo. Các
tương quan sẽ từ từ thay đổi bản chất. Khi trái cây chín mùi đủ
chỉ một cơn gió nhẹ cũng làm nó rụng xuống.
LỜI
KẾT :
Để sáng tỏ ý nghĩa hai tiếng
Chính trị theo quan điểm của Giáo Hội, tôi mượn mẩu đối thoại
giữa một nhà báo Ý và Đức Thánh cha Gioan Phaolo II:
- Thưa Ngài, Ngài có làm
chính trị không?
- Đừng hiểu chính trị theo
nghĩa hẹp. Giáo Hoàng có bổn phận rao giảng phúc âm, mà trong
phúc âm có con người, tức có nhân quyền, tự do, nhân phẩm và
lương tâm cùng tất cả những gì thuộc về con người. Nếu tất cả
những cái đó có một giá trị chính trị thì tôi làm chính trị.
Vì tôi bênh
vực con người. (Ezio Mauro e Paolo Mieli.G.P.II , La stampa
04.03.91,2).
Nguyễn Tiến Cảnh,
MD. Ph.D. |
VỀ MỤC LỤC |
|
TÌNH YÊU KHÔNG KIÊU CĂNG |
Tác phẩm 13 Nét Mặt Tình Yêu -
Dominique AUZENET
Lm
Micae-Phaolô Trần Minh Huy chuyển
ngữ
1. Tình yêu không phồng lên (kiêu ngạo) :
Ngoại động từ phồng lên thánh Phaolô dùng ở đây làm chúng ta liên
tưởng đến ngụ ngôn La Fontaine "Con
nhái muốn phồng to bằng con bò", và để rõ hơn, người ta
dịch thêm phồng to kiêu ngạo : "Sự hiểu biết đó phồng to
(sinh) lòng kiêu ngạo, còn lòng bác ái thì xây dựng" (I Cor 8,1).
Kiêu ngạo, khoe khoang, kênh kiệu là
những biểu lộ của lòng mến mộ chính mình, chứ không phải là của đức
ái, vốn là tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân.
"Kẻ nào yêu bản thân bằng một tình yêu vô trật tự thì
chẳng có đức ái nơi mình, bởi vì nó không yêu mến Chúa... Lòng tự ái
lột bỏ đức ái khỏi tâm hồn để mặc cho nó tính xấu kiêu ngạo. Và
chính vì thế mà mọi tội lỗi đều bắt nguồn từ lòng tự ái"[1]
Lòng tự ái được nhận diện bởi sự thích nghĩ đến mình hơn là nghĩ đến
Chúa Kitô và Giáo Hội của Ngài. Hay còn bởi ước muốn làm cho các
quan điểm riêng của mình được vượt trổi trong vấn đề nầy hoặc vấn
nạn kia... Thánh Phaolô không dịu dàng với những người Côlossê :
"... Họ chìm đắm trong những thị kiến của mình, vênh
váo vì những suy nghĩ theo lối người phàm. Họ không gắn chặt với Đầu
là Đức Kitô..." (Col
2,18-19).
Thánh nhân còn gọi cái đó là sự hỗn láo ngạo mạn trong một bản liệt
kê mà Ngài gọi là mớ lộn xôn : "chia rẽ,
ghen tương, oán ghét, cạnh tranh, vu khống, nói hành, kiêu căng, hỗn
loạn" (II Co 12,20). Đọc những điều
như thế, có lẽ chúng ta không khỏi nghĩ rằng cả đến các cộng đoàn,
giáo xứ chúng ta cũng chẳng hơn gì cộng đoàn Corintô !
2. Anh em đừng cho mình là khôn ngoan :
Đó là lời khuyên của thánh Phaolô vào cuối thư gởi tín hữu Rôma :
"Hãy đồng tâm nhất trí với nhau, đừng tự cao tự đại,
nhưng ham thích những gì hèn mọn. Anh em đừng cho mình là khôn
ngoan" (Rm 12,16).
Tito Colliander, một tín hữu Chính Thống có gia đình đã viết :
" Quả thật làm sao một người có thể nhận được những
lời khuyên, sự đào tạo, giúp đỡ, nếu y nghĩ rằng mình biết hết mọi
sự, có thể làm mọi thứ và chẳng cần lời khuyên bảo nào cả ? Không
một tia sáng nào có thể xuyên qua được một bức tường tự mãn như thế
: 'Khốn thay những kẻ coi mình là khôn ngoan, và cho mình là thông
minh' (Is 5,21)...
Vậy chúng ta hãy lột bỏ sự tín nhiệm thái quá mà chúng ta có cho
chính mình. Nó thường cắm rễ sâu trong mình mà chúng ta chẳng nhận
thấy, ngay cả sự chế ngự mà nó thi thố trên tâm hồn chúng ta. Rõ
ràng chính sự ích kỷ, sự quá lo lắng cho bản thân và lòng tự ái của
chúng ta là nguyên nhân các khó khăn, sự thiếu tự do nội tâm trong
cơn thử thách, những phật ý, những nỗi bứt rứt tâm hồn và thể xác
của chúng ta.
Bạn hãy nhìn vào chính bạn, và bạn sẽ thấy bạn bị ràng buộc đến độ
nào bởi ước muốn làm thỏa mãn "cái tôi" của bạn, và chỉ một mình nó
thôi. Tự do của bạn đã bị trói buộc bởi những mối giây chật hẹp của
lòng yêu bạn, và như thế vô tình bạn bị đu đưa như cái xác không ý
thức từ sáng sớm đến chiều tối : 'Bây giờ tôi muốn uống, bây giờ tôi
muốn đi ra ngoài, bây giờ tôi muốn đọc báo...' Trong mỗi khoảnh
khắc, các ước muốn riêng của bạn xỏ mũi lôi kéo bạn như thế, và nếu
có gì gây trở ngại là bạn nổi tam bành lên tức thì, vì phật ý, thiếu
nhẫn nại hay tức giận.
Nếu bạn thăm dò trong sâu thẳm lương tâm mình, bạn sẽ khám phá ra
những điều tương tự. Cảm giác khó chịu mà bạn cảm nhận khi có ai đó
nói nghịch lại với bạn cho phép bạn dễ dàng thấy rõ điều đó. Chúng
ta sống như vậy như những tên nô lệ. Nhưng 'ở đâu có Thánh Thần là ở
đó có tự do' (2 Cor 3,17)"[1]
3. Anh em đừng đánh giá mình cao quá :
"Sự tự do mà Thánh Thần ban cho chúng ta đi qua một
tình yêu đúng đắn đối với bản thân, nó dựa trên một sự hiểu biết
đích thực về mình. 'Nếu con muốn đạt được sự hiểu biết hoàn hảo, nếu
con muốn thưởng thức Chân lý vĩnh cửu là chính Chúa, thì đây là con
đường : con đừng bao giờ ra khỏi sự hiểu biết chính con và luôn hạ
mình trong thung lũng khiêm nhường. Con sẽ nhận ra chính Chúa ở
trong con, và từ sự hiểu biết nầy con kéo ra được mọi thứ cần thiết.
Không một nhân đức nào có thể có sự sống trong chính mình, ngoại trừ
bởi đức ái và bởi đức khiêm nhường, vốn là mẹ nuôi của đức ái. Sự
hiểu biết về chính con sẽ gợi lên cho con đức khiêm nhường, khi con
khám phá ra được rằng con chẳng hiện hữu, và hữu thể mà con cũng như
những người khác đã lãnh nhận từ nơi Chúa là Đấng yêu thương các
con, trước khi các con có mặt trên đời"[1]
Nhân những ân ban thiêng liêng được trao cho cộng đoàn xuyên qua mỗi
người chúng ta (việc nầy khêu lên các cám dỗ về kiêu ngạo), thánh
Phaolô khuyến cáo sự đánh giá đúng đắn dựa trên một hiểu biết chân
thật về chính mình nhu sau :
"Anh em đừng quá mức khi đánh giá chính mình, nhưng
hãy đánh giá mình cho đúng mức, mỗi người tùy theo lượng đức tin
Thiên Chúa đã phân phát cho"
(Rm 12,3).
Lời kêu gọi đến đức khiêm tốn nầy là cần thiết cho chúng ta : chúng
ta sẽ không bao giờ nhỡ phô trương sự hơn người của chúng ta, trong
thái độ hay trong lời nói... Trong thư gởi tín hữu thành Philiphê,
thánh Phaolô còn đi xa hơn :
"Đừng làm chi vì óc bè phái, vì hư danh, nhưng mỗi
người hãy khiêm nhường đánh giá người khác trổi vượt hơn mình" (Phil
2,3).
4. Thiên Chúa chống lại những kẻ kiêu ngạo :
Chúng ta biết rõ lời cầu nguyện của Trinh Nữ Maria trước sự hiện
diện của bà chị họ
Elizabeth
: Kinh Magnificat, linh hồn tôi ngợi khen Chúa. Mẹ hát lên Chúa đã
đoái nhìn sự nghèo khó của nữ tỳ Ngài thế nào.
Xuyên qua ân sủng dạt dào của Mầu nhiệm Nhập Thể nầy, Mẹ cũng nhận
thấy rằng Chúa đến phân tán những kẻ
kiêu ngạo bởi chính những tính toán của lòng họ.
Cha Laurentin chú giải :
"Những người nghèo sống trong chân lý : họ biết yếu
đuối của họ và sự cao cả của Thiên Chúa. Còn những kẻ kiêu ngạo
phồng mình lên, tự cho mình những vẽ bề ngoài cao hơn những gì thực
sự là họ.Hảnh diện về bản thân và sự độc lập hơn người của mình, họ
tự phụ phong cho mình làm địch thủ với Thiên Chúa. Tình yêu ảo tưởng
về bản thân của họ làm cho họ trở nên thù nghịch với chân lý, và thù
địch với những người nghèo mà họ thống trị để vươn lên.
... Thiên Chúa làm thất bại những ý định xảo trá không để các mánh
khóe của chúng thành tựu. Ngài bắt những kẻ khôn ngoan ngay trong
các mánh khóe của họ : 'Mưu đồ của hạng tinh khôn, Người phá vỡ,
khiến tay chúng chẳng làm nên công trạng gì. Người bắt kẻ khôn ngoan
bằng chính những xảo kế của chúng, và đi trước mưu toan của phường
quỷ quyệt' (Job 5,12-13). Châm ngôn nầy thường được kiểm chứng qua
dòng lịch sử : Những kẻ kiêu ngạo mà tham vọng và ảo tưởng vượt quá
phương tiện của mình đang chuẫn bị cho sự suy tàn của chính chúng"[1]
Ở đây, trong lời cầu nguyện của mình, Mẹ Maria nêu lại một sự hiển
nhiên xuyên suốt cả Kinh Thánh. Chẳng hạn thánh Phêrô trong thư thứ
nhất :
"Anh em hãy lấy đức khiêm nhường mà đối xử với nhau,
vì Thiên Chúa chống lại những kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho những
người khiêm nhường" (I Pet
5,5).
"Nhưng ân sủng Người ban còn mạnh hơn, vì thế có lời
Kinh Thánh nói : 'Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn
cho kẻ khiêm nhường' (Jc 4,6).
5. Mỗi người đều có sự kiêu ngạo của mình :
Dù hình thức thế nào đi nữa, sự kiêu ngạo của mỗi người đều có một
điểm chung là sự đánh giá cao thái quá về bản thân mình. Nó được
biểu lộ ra trong sự thỏa mãn hảo huyền về các tài năng hay ân ban
của mình.
Người kiêu ngạo thích mình hơn kẻ khác và tự so sánh mình tốt hơn,
được phú bẩm hơn kẻ khác. Người kiêu ngạo quên đi hay từ chối nhìn
nhận những gì mình có, những gì mình là, đều bởi Thiên Chúa mà đến.
Sự kiêu ngạo mặc nhiều hình thức khác nhau :
·
Tính
khoe khoang : một sự hảnh diện thái quá để đi
tìm kiếm những danh dự, những sự cao trọng ; ưa xuất hiện, ưa thành
công để thỏa mãn bản thân...
·
Sự thỏa
mãn hảo huyền trong các tài năng và ân ban
của mình,... tắt một lời là tự lấy làm thỏa mãn.
·
Ao ước
biết hết mọi sự hay luôn luôn muốn biết
nhiều hơn, nhiều hơn cả những gì Thiên Chúa đã muốn cho chúng ta
biết (một số những tò mò nào đó là nguyên nhân của kiêu ngạo).
·
Tính tự
phụ : chính là quá tự tín ở mình, có một ý
kiến quá đề cao bản thân, hoặc còn hơn nữa là tìm kiếm một tình
trạng cao hơn hiện trạng mà Thiên Chúa muốn cho chúng ta.
·
Tính tự
ái : một tình yêu thái quá cho mình được
biểu lộ qua việc tìm kiếm thoải mái, và được diễn tả ra trong việc
thỏa mãn trước lời khen tặng ; trái lại, không thể chịu đựng nổi lời
phê bình và từ chối không nhìn nhận các lầm lỗi của mình...
·
Tính
quá nhạy cảm : Phật ý về một chuyện chẳng ra
chi, không chấp nhận lời khiển trách... lòng tự ái bị dày vò.
·
Tính
ích kỷ : Tính ích kỷ quơ tất cả về cho mình, tìm
mình trong mọi sự, gặp lại mình ở khắp mọi nơi. Tất cả chúng ta đều
hơn kém có hình thức kiêu ngạo nầy len lỏi vào cả những ý hướng tốt
nhất.
·
Kiêu sa
: một thứ bảo đảm ngạo mạn được biểu lộ ra
trong dáng vẻ, kiểu cách ; một thứ kiêu hảnh gần như khinh bỉ...
"Ở đây không thể nêu hết mọi chi tiết các hoa trái của
kiêu ngạo trong đời sống hằng ngày của chúng ta : nói dối, chán nãn,
buồn bã, độc lập, ghen tương, rụt rè...Quả thật, kiêu ngạo "là một
ngọn gió rất nhẹ nhàng, rất tinh tế, nó thấâm nhập vào trong hầu hết
mọi hoạt động của chúng ta... và nó là sợi giây buộc chặt cả chuỗi
các tật xấu"[1]
6. "Hãy học cùng Thầy, vì Thầy khiêm nhượng thật trong lòng"
Chúa Giêsu nhấn mạnh điều đó : Sự kiêu ngạo đến từ trong lòng :
"Chính là từ bên trong, từ lòng dạ con người mà xuất ra
những ý định tà vạy... kiêu ngạo, ngông cuồng. Tất cả những điều xấu
xa đó đều từ bên trong xuất ra và làm cho con người ra ô uế" (Mc
21-23).
Và kiêu ngạo :
·
đóng lòng chúng ta với đức tin : "Làm sao anh em có
thể tin được, khi anh em chỉ biết nhận lãnh vinh quang lẫn cho nhau
?" (Jn 5,44).
·
làm chúng ta ra mù quáng : "...người lên mặt kiêu
căng không biết gì cả, nhưng mắc bệnh ham tranh luận và thích cãi
chữ. Do đó sinh ra ganh tỵ, tranh chấp, lộng ngôn, nghĩ xấu" (I Tm
6,4). "... sẽ có những lúc gay go, người ta sẽ ra ích kỷ, ham tiền
bạc, khóac lác, kiêu ngạo, nói lộng ngôn, không vâng lời cha mẹ, vô
ơn bạc nghĩa, phạm thượng, vô tâm vô tình, tàn nhẫn, nói xấu, thiếu
tiết độ, hung dữ, ghét điều thiện, phản trắc, nông nổi, lên mặt kiêu
căng, yêu khoái lạc hơn yêu Thiên Chúa" (II Tm 3,1-4).
·
làm cho chúng ta quay đầu lại : "... kẻo lên mặt kiêu
căng mà bị kết án như ma quỷ" (I Tm 3,6)
·
làm cho chúng ta lầm lạc : "Lòng kiêu ngạo của ngươi
đã đánh lừa ngươi" (Ovadia 3).
"Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, và ai hạ mình xuống
sẽ được nâng lên" (Lc 14,11 và 18,14). Vậy lòng
chúng ta cần được thanh tẩy bởi ân huệ của Chúa Thánh Thần mà Chúa
Cha đã hứa và Chúa Giêsu phái đến.
"Cha giới thiệu với các con một nhân đức rất thiết thân
với lòng Chúa Cứu Thế. Ngài nói : 'Hãy học cùng Thầy vì Thầy dịu
hiền và khiêm nhượng thật trong lòng' (Mt 11,29). Cha liều mình nói
một điều dại dột, nhưng cha vẫn nói ra là Chúa quá yêu thương nhân
loại đến đỗi đôi khi Ngài cho phép xảy ra những tội trọng. Tại sao ?
Để những kẻ đã phạm các tội ấy vẫn ăn ở khiêm nhường, sau khi đã
thống hối. Không ai muốn tự coi mình là thánh thiên khi ý thức được
mình đã phạm những lỗi nặng. Chúa Cứu Thế đã khuyên nhũ nhiều về
điều đó : "Hãy ăn ở khiêm nhường !" Ngay cả khi các con làm được
những việc trọng đại, hãy nói : chúng tôi là những đầy tớ vô dụng.
Thế nhưng tất cả chúng ta đều có khuynh hướng làm ngược lại và tìm
cách làm cho mình nổi bật. Hãy trở nên bé nhỏ, đó là nhân đức kitô
giáo có liên quan đến mỗi người chúng ta"[1]
Đức khiêm nhường, vốn là một cái nhìn khách quan và chân thật về bản
thân, sẽ thắng thế trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta, khi nó
làm phát sinh trong chúng ta những hoa trái của một sự trưởng thành
thiêng liêng lớn lao hơn : giản dị khiêm tốn, nhu cầu huynh đệ giúp
nhau, chấp nhận bản thân, sự dửng dưng liên quan đến danh tiếng của
mình, việc không bao giờ ngã lòng, bình an và niềm vui nội tâm, tìm
kiếm chân lý... Chúng ta hãy ao ước và cầu xin đức khiêm nhường
trong kinh nguyện hằng ngày của chúng ta.
"Sự tiến bộ trong đời sống thiêng liêng được biểu lộ ra
qua một hiểu biết luôn luôn được tích tụ thêm về chính sự bất xứng
của mình, theo nghĩa đầy đủ và mặt chữ, ngay khi chúng ta tự cho
mình giá trị nào đó, dù bằng cách nào đi nữa, thì điều đó chứng tỏ
các việc không xuôi. Cái đó cũng nguy hiểm nữa, bởi vì Kẻ Thù sẽ
tiến lại gần và bắt đầu làm chúng ta mất cảnh giác về cách nó đặt
trở ngại trên đường chúng ta đi. Linh hồn có ý nghĩ quá cao về mình
giống như con quạ trong chuyện ngụ ngôn, thích nghe những lời nịnh
hót của con cáo, và để chứng tỏ giọng hát hay của mình, nó đã để rơi
mất miếng phó mát. Xin Chúa giúp bạn thực hiện cách ý thức hơn cái
bổn phận không được gán giá trị gì cho các công trình của bạn"[1]
Suy niệm
để lần hạt Mân Côi
1. Tình yêu không kiêu căng. "Sự hiểu biết sinh lòng
kiêu ngạo, còn lòng bác ái thì xây dựng" (I Cor
8,1). Chúng ta hãy cầu nguyện cho sự hiểu biết nơi mỗi người chúng
ta được nên cơ hội chia sẻ, chứ không phải để phô trương lòng tự phụ
là mình hiểu biết hơn người.
2. Tình yêu không kiêu căng. "Anh em hãy đồng tâm
nhất trí với nhau, đừng tự cao tự đại, nhưng ham thích những điều
hèn mọn. Anh em đừng cho mình là khôn ngoan" (Rm 12,16). Trong khi
cùng Mẹ Maria chiêm ngắm Chúa Giêsu đã sống thế nào, chúng ta hãy
xin ơn được lôi kéo bởi những
gì là khiêm nhường.
3. Tình yêu không kiêu căng. "Đừng đi quá mức trong
khi đánh giá mình, nhưng hãy đánh giá mình cho đúng mức, mỗi người
tùy theo lượng đức tin Thiên Chúa đã phân phát cho"(Rm 12,3).
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con biết đón nhận những cơ hội phải sống
tầm thường và bé nhỏ như đến từ bàn tay Chúa.
4. Tình yêu không kiêu căng. "Anh em hãy lấy đức
khiêm nhường mà đối xử với nhau, vì Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu
ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường" (I Pet 5,5 - Jc 4,6). Lạy
Chúa, xin
ban cho con biết nhìn nhận những sai trái của con khi làm tổn thương
các người khác bởi tính ngạo nghễ của con, và mặc cho con đức khiêm
nhường.
5. Tình yêu không kiêu căng. "Anh em hãy học cùng
Thầy, vì Thầy dịu hiền và khiêm nhượng thật trong lòng" (Mt 11,29).
Nhờ lời cầu bàu của Mẹ
Maria, xin Chúa Thánh Thần nắn đúc trong chúng con sự dịu hiền và
khiêm nhượng của Trái tim Chúa Giêsu.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
Ăn Mất Ngon |
Ngon miệng (appetite) là
khoái cảm, thèm muốn ăn uống.
Ăn mất ngon xảy
ra khi không còn thèm muốn này, mặc dù cơ thể vẫn có nhu cầu
về năng lượng.
Ăn mất ngon,
dù do nguyên nhân nào, là một biến cố quan trọng đối với mọi
người, đặc biệt là người cao niên và trẻ đang tăng trưởng.
Ăn mất ngon
không phải là một bệnh mà là dấu hiệu, triệu chứng của một
bệnh nào đó.
Khi ăn không ngon thì sự
tiêu thụ thực phẩm giảm. Mà thực phẩm lại mang năng lượng
cho mọi sinh hoạt của cơ thể, cung cấp vật liệu để tu bổ tế
bào hư hao, tạo ra tế bào mới. Không có đủ chất dinh dưỡng
sẽ dẫn tới giảm cân, cơ thể mệt mỏi, bắp thịt teo, tâm thần
buồn rầu, giảm khả năng miễn dịch, kém sức chịu đựng. Tử
vong có thể xảy ra nếu mỗi năm liên tục sụt đi 10% sức nặng
cơ thể. Các cụ ta có kinh nghiệm là “không ăn thì mẻ cũng
chết, nói chi con người”.
Cũng cần phân biệt sự ăn
mất ngon với bệnh anorexia nervosa. Ðây là một rối loạn ăn
uống có tính cách tâm lý của người từ chối dinh dưỡng đầy đủ
dù họ đói và mất cân trầm trọng. Lúc nào họ cũng coi mình
như quá mập, tự làm ói mửa để trục xuất thực phẩm ra khỏi
bao tử. Bệnh thường thấy ở
tuổi thanh thiếu niên, đặc biệt là nữ giới.
Phân biệt cảm giác đói và sự ngon miệng thèm ăn
Ðói (Hunger) là sự ước
muốn tự nhiên với thực phẩm sau một thời gian không ăn uống.
Cảm giác này được thỏa mãn bởi sự tiếp thu thức ăn.
Ðói được trung tâm nằm
trong bộ phận hypothalamus trên não bộ điều khiển. Trung tâm
này hoạt động tùy theo mức độ chất dinh dưỡng trong máu. Khi
mức độ chất dinh dưỡng thấp, hypothalamus phát ra một tín
hiệu gây ra cảm giác đói. Cảm giác cũng xuất hiện khi bao tử
trống rỗng co bóp. Vì thế người ăn vặt luôn miệng không có
cảm giác đói này.
Có người khi đói cồn cào
thì ăn gì cũng thấy ngon. Lại có người đang đói thấy món ăn
không thích lắm cũng không thèm ăn món đó. Ngược lại có
người khi đã no bụng mà thấy một món ăn hấp dẫn thì vẫn muốn
ăn.
Một món ăn bổ dưỡng mà ta
không thèm ăn thì sự bổ dưỡng cũng vô ích. Một số người lại
chỉ ăn món họ thích, bất kể bổ dưỡng hay không. Cho nên mới
có chuyện thiếu dinh dưỡng, nhất là ở trẻ em.
Khi ta ăn và nuốt thức ăn
thì một tín hiệu thỏa mãn chuyển lên hypothalamus và cảm
giác đói giảm đi. Khi dạ dày chứa nhiều thực phẩm thì cảm
giác đói không còn nữa. Ta có cảm giác “no nê”, thỏa mãn ước
muốn thực phẩm.
Cảm giác thèm ăn khác với
cảm giác đói. Ðây là một đáp ứng do học hỏi hoặc do thói
quen khi trông thấy thực phẩm. Thèm thức ăn không liên hệ gì
với nhu cầu cần thức ăn. Ví dụ sau một bữa ăn đầy đủ, không
ăn được nữa, nhưng con người vẫn thèm muốn ăn thêm và họ ăn
một cách thích thú. Người ta gọi trường hợp này là “no bụng,
đói con mắt”, bởi vì cảm giác thèm thuồng này nảy sinh như
một nhu cầu tâm lý.
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng
tới sự thèm ăn:
- Tùy thuộc thói quen ăn
nhiều, tập quán gia đình, trình độ học vấn, văn hóa ăn uống
địa phương. Vì thế có giống người này dễ mập hơn giống khác
hoặc cùng ăn như nhau mà có người gầy, người béo.
- Dưới ảnh hưởng của xúc
động tâm lý. Nhiều người ở trong tâm trạng buồn chán, căng
thẳng lấy sự ăn uống để khuây khỏa; khi mất mát thì ăn để
đền bù; trẻ em ăn nhiều để lấy sự chú ý của cha mẹ.
Cơ quan hypothalamus ở
não bộ điều hòa sự thèm ăn, nhưng nguyên lý của sự điều hòa
này chưa được biết rõ.
Nguyên nhân ăn mất ngon
Có nhiều nguyên nhân gây
ra ăn mất ngon
1- Ăn
mất ngon vì bệnh tật như:
a- Trong bệnh tim-phổi,
người bệnh mệt mỏi không muốn ăn, lại còn bị sụt cân vì các
chức năng tuần hoàn, hô hấp cần nhiều năng lượng hơn để làm
việc.
Ngoài ra, các thuốc trị
bệnh tim phổi như steroid, theophyllin làm tăng hơi trong
bao tử, bệnh nhân cảm thấy no bụng, không muốn ăn.
b- Bệnh ung thư đặc biệt
là ung thư phổi và bao tử
c- Nhiễm trùng như trong
trường hợp bênh lao, bệnh AIDS.
d- Bệnh nội tiết như
tuyến giáp trạng ác tính, bệnh tiểu đường
đ- Trầm cảm, buồn phiền
vì sống cô lập hay mất bạn đồng hành.
e- Rối loạn vị giác và
khứu giác khiến cho không biết được hương vị thực phẩm và
không ăn
2-
Nghiện rượu
Rất thường xẩy ra ở người
cao tuổi. Khi uống rượu say, họ coi thường việc tiêu thụ
thực phẩm. Khi hồi phục cơn say, họ ói mửa, tiêu chẩy, không
muốn ăn.
Rượu cũng gây hư hao các
chức năng và cấu trúc của gan, ảnh hưởng tới sự tiêu hóa,
hấp thụ và tồn trữ thực phẩm, sinh tố và kim loại cần thiết.
3- Ăn
mất ngon do tác dụng phụ của dược phẩm
- Thuốc amphetamine làm
giảm sự ăn, cho nên nhiều người mập phì muốn giảm cân đã
dùng.
- Lạm dụng các loại thuốc
kích thích thần kinh (thuốc lắc ectasy)
- Thuốc trụ sinh gây tiêu
chẩy và làm thay đổi mùi vị thực phẩm; thuốc trị ung thư gây
ăn mất ngon đồng thời cũng đưa tới táo bón, ói mửa, tiêu
chẩy.
- Các thuốc trị bệnh tim,
thuốc an thần, thuốc ngủ giảm khoái cảm ăn uống.
- Vài loại thuốc gây khô
miệng (cogentin, artane), khiến cho sự nhai nuốt thức ăn khó
khăn.
- Thuốc chống đau nhức,
thuốc trị cảm, chống nghẹt mũi
Ngoài ra, người cao tuổi
còn kém ăn vì dùng nhiều loại thuốc trong ngày, khiến cho
ngang bụng, không muốn ăn.
4- Bệnh răng miệng,
răng giả lung lay, nhai nuốt khó khăn; yếu sức hoặc đau nhức
không sử dụng tay hữu hiệu để đưa thức ăn vào miệng; ăn chậm
làm thức ăn nguội không hấp dẫn, bỏ dở bữa ăn.
5- Không có thực phẩm,
nghèo túng, suy yếu không đi mua đồ ăn được, không nấu nướng
được.
Chẩn đoán bệnh
Chẩn đoán bệnh căn cứ vào
lời kể của bệnh nhân về rối loạn trong việc ăn uống:
- Mất
khẩu vị từ khi nào? sau
biến cố hoàn cảnh nào? Nhiều hay ít?
- Có dấu hiệu gì khác như
buồn nôn, ói, táo bón, đau bụng...
- Có bệnh kinh niên?
- Có sụt cân không? Bao
nhiêu kí?
- Quần áo thấy rộng ra,
bắp thịt teo
-Giảm sức nặng bình
thường
Ðể tìm nguyên nhân, các
thử nghiệm như chụp X-quang và nội soi dạ dày, ruột; thử
nghiệm các chức năng của gan, thận, tuyến giáp, thử nước
tiểu, thử thai.
Ðiều trị
Vì mất ăn ngon
chỉ là dấu hiệu của một
bệnh nào đó trong cơ thể, cho nên cần đi bác sĩ để tìm ra
nguyên nhân rồi điều trị nguyên nhân đó.
Với bệnh nhân, nên lưu ý
tới các điểm sau đây:
- Ăn chung với bạn bè
hợp tính sẽ vui hơn và ăn được nhiều hơn.
- Bầy biện bàn ăn với
chén bát mầu sắc, sạch sẽ, kèm thêm vài bông hoa, điệu nhạc
hấp dẫn
- Ăn làm nhiều bữa nhỏ
mỗi hai giờ trong ngày thay vì hai hoặc ba bữa ăn chính. Một
mâm cơm với nhiều món ăn có thể
làm nhiều người thấy ngán, không muốn ăn. Ăn ít một giúp
tiêu hóa dễ dàng hơn rồi sau đó tăng dần dần phần ăn.
- Món ăn
phải hợp với khẩu vị, ý thích của mỗi cá nhân
- Khi ăn,
nên chậm rãi nhai để thưởng
thức hương vị món ăn và tạo ra sự muốn ăn món đó trong tương
lai
- Bữa ăn nào thấy ngon
miệng thì tăng món ăn trong bữa đó.
- Thêm gia vị, mầu sắc
khi nấu nướng để món ăn hấp dẫn hơn
- Tránh uống nhiều nước
hoặc uống thuốc trước bữa ăn để tránh no bụng.
- Kiêng món ăn có thể làm
no hơi như nước có gas, cà phê, rau cải bắp, broccoli.
- Ðể có đủ năng lượng và
chất đạm, uống hai ly sữa ít chất béo hoặc
sữa đậu nành mỗi ngày.
- Tránh
tiêu thụ quá nhiều rượu và thuốc lá là những chất kích thích
niêm mạc dạ dày, ruột khiến cho ăn không thấy ngon. Nhiều
người dùng một chút rượu gọi là “khai vị” để giúp ăn ngon,
nhưng nên uống trước bữa ăn khoảng nửa giờ.
- Uống nước
đầy đủ để miệng khỏi khô, khó nhai nuốt thực phẩm.
- Tránh táo
bón và tiêu chẩy.
- Ði bộ hoặc tập luyện
nhẹ giúp ăn ngon hơn đồng thời cũng giúp cơ thể tiêu thụ
chất dinh dưỡng. Tránh các tập luyện quá sức của mình.
- Giữ gìn vệ sinh răng
miệng, điều chỉnh răng giả, khám bác sĩ nha khoa theo định
kỳ.
- Giảm thiểu nguyên nhân
tinh thần như căng thẳng bằng tâm lý
trị liệu, áp dụng phương
pháp thư giãn cơ thể, thiền định, tập trung hít thở để giảm
bồn chốn, lo âu, nhờ đó có thể cải thiện sự ăn uống.
Biếng ăn ở trẻ em
Biếng ăn thường xảy ra ở
trẻ em, đặc biệt là tuổi đang tăng trưởng.
Với tuổi này, biếng ăn
không phải bao giờ cũng do đau ốm vì khẩu vị con người thay
đổi một cách tự nhiên tùy theo tâm
trạng, thời gian... Có nhiều em
mải chơi, không nghĩ tới ăn uống. Nhưng đôi khi con biếng ăn
cũng do lỗi ở cha mẹ, ép buộc ăn khi chúng chưa muốn
ăn; cho ăn các món ăn mà con không thích. Một số bà mẹ cho
con uống thuốc bằng cách pha lẫn vào sữa hoặc thức ăn, chúng
sợ đắng nên không ăn.
Số lượng thực phẩm mà bé
tiêu thụ là cần thiết nhưng cũng cần theo dõi tăng trọng cơ
thể. Nhiều bé có vẻ như ít ăn nhưng vẫn lên cân đều, không
bệnh tật, vẫn khỏe mạnh, vui chơi
Tuy nhiên, có những
trường hợp mà trẻ thực sự biếng ăn, không chịu tiêu thụ đủ
lượng dinh dưỡng cần thiết, khiến cho cha mẹ rất lo ngại mà
không biết làm sao để trẻ ăn nhiều hơn.
Sau đây là một số gợi ý
có thể giúp trẻ ăn ngon hơn, và nhờ đó ăn nhiều hơn:
a- Bữa ăn cần có không
khí thoải mái, thân thiện, không ép bé ngồi gò bó trên ghế;
b- Khích lệ bé bằng những
trò vui, vừa chơi vừa ăn, bằng thực phẩm nhiều mầu sắc,
hương vị khác nhau;
c- Ðể trẻ được thoải mái,
tự khám phá món ăn với các giác quan của mình: sờ mó món
ăn, ngửi món ăn, nếm thử món ăn. Tất nhiên là phải đảm bảo
các điều kiện vệ sinh trước khi cho trẻ ăn.
d- Cho bé ăn nhiều món ăn
khác nhau từ khi bé được 7-8 tháng tuổi để trẻ quen với
nhiều loại thức ăn;
đ- Có khi bé thích món
này mà không thích món kia, không nên ép ăn món bé không
thích. Bé ăn là mừng rồi. Có thể vào thời gian khác trẻ lại
thay đổi khẩu vị và sẽ thích
món đó;
e. Không nên cho thuốc
bổ, thuốc trị bệnh vào thức ăn vì mùi vị thuốc làm trẻ thấy
e ngại khi ăn;
g- Không cố ép bé ăn cho
hết phần ăn, khi bé không thích sẽ nôn
ọe. Lấy thức ăn vừa đủ,
không quá nhiều có thể làm trẻ "ngán" khi nhìn thấy. Khi trẻ
ăn được, nếu cần thì lấy thêm;
h- Không cho ăn các món
vặt gần hoặc ngay trước bữa ăn chính, để trẻ thấy đói mới có
thể ăn hết lượng thực phẩm đã chuẩn bị;
i- Không dùng thức ăn như
một hình thức thưởng phạt.
Tuy nhiên, biếng ăn cũng
có thể là dấu hiệu của một số bệnh như nhiễm độc, nóng sốt,
tiêu chẩy, hô hấp, sán lãi. Nên tham khảo ý kiến bác sĩ khi
thấy bé có triệu chứng biếng ăn kéo dài.
Kết luận
Ăn uống là cả
một nghệ thuật. Ðể ăn ngon cũng phức tạp hơn. Chẳng thế mà
lão thi sĩ Tản Ðà đã thốt ra:
« Nghề ăn cũng
lắm công phu
Làng ăn ta phải
biết cho đủ mùi »
Cụ cũng nêu ra
bốn tiêu chuẩn để có bữa ăn ngon miệng:
« Thức ăn ngon
Lúc ăn ngon
Chỗ ăn ngon
Người ăn cùng
ăn ngon »
Nếu liên tục ăn
không ngon, cơ thể sẽ thiếu chất dinh dưỡng, suy nhược, gầy
mòn, mất tinh anh, có thể đưa tới tử vong.
Và dân gian ta cũng ghi
nhận:
« Ăn được ngủ
được là tiên
Không ăn không
ngủ, mất tiền thêm lo ».
Bác sĩ Nguyễn Ý-Ðức
Texas-Hoa Kỳ.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
BÀN VỀ CHỮ DANH - Chuyện
phiếm của Gã Siêu. |
Trong số trước, gã đã bàn
đến nghề nghiệp và để cho đủ món ăn chơi, trong số này gã xin
nói tới công danh, như một hậu quả tất nhiên của việc mình đã
hùng hục kéo cày, mình đã bươm chải ngược xuôi, mình đã vất vả
kiếm sống.
Mở bất cứ cuốn tự điển Việt
Nam nào, gã cũng thấy được hai ý nghĩa của chữ danh. Nghĩa thứ
nhất, đó là tên. Nghĩa thứ hai, đó là tiếng tăm. Gã sẽ từ từ mổ
xẻ hai ý nghĩa này.
Trước hết, danh có nghĩa là
tên. Kể từ khi cất tiếng khóc oe oe đi vào cuộc sống, chúng ta
được cha mẹ đặt cho một cái tên, nhờ đó thiên hạ có thể phân
biệt chúng ta với người này người nọ.
Phép đặt tên của người Việt
Nam cũng khá nhiêu khê và rắc rối. Gã chỉ xin ghi lại những điểm
chính đã được Toan Ánh trình bày trong cuốn “Con người Việt
Nam”, rồi sau đó thêm mắm thêm muối cho đậm đà hơn một tí.
Theo tác giả, ngày xưa nước
ta không có hộ tịch hộ khẩu, thành thử đứa bé mở mắt chào đời
không phải làm giấy khai sinh, người ta có thói quen gọi nó là
thằng cu, cái đĩ, thằng tý, con đỏ…tùy theo nó là con giai hay
con gái.
Riêng với những gia đình
hiếm muộn, thường gọi con cái bằng một cái tên rất xấu, như
thằng Tèo, cái Tủn…vì sợ rằng tên đẹp quá, thì sẽ bị ông “ngáo
ộp” vồ mất, hay sẽ bị cô hồn các đẳng rước đi. Và cứ thế, cứ thế
cho đến lúc khôn lớn. Lắm khi sắp sửa lấy vợ lấy chồng, con cái
mới được cha mẹ chính thức đặt tên cho.
Còn ngày nay thì khác, vợ
vừa mới có “cứt gián”, chồng đã hý hửng chọn tên cho con. Hay
vừa mới siêu âm về, biết được con mình là giai hay là gái, cha
mẹ đã vội xì xầm bàn tán chuyện đặt tên cho con.
Và khi đặt tên cho con, cha
mẹ phải lưu ý không được trùng tên với vua quan, hay chú bác,
ông cụ bà kỵ của mình cũng như của lối xóm, bằng không thì rắc
rối to.
Gã đã từng chứng kiến cảnh
hai vợ chồng trẻ có được đứa con đầu lòng, hớn hở đặt tên và làm
giấy khai sinh cho con. Nhưng vừa về tới nhà, liền bị người bà
con xa lắc xa lơ đến mắng cho một chặp :
- Bộ hết tên rồi sao mà đặt
tên ấy cho nó. Chúng mày có biết không tên ấy là tên cụ cố sinh
ra ông ngoại của thím tao.
Và thế là trong giấy tờ đứa
bé có một tên, còn trong đời thường thì nó lại được gọi bằng
một tên khác.
Tuy nhiên, nhiều người khi
oán ghét một ai, lại cố tình lấy tên kẻ ấy mà đặt cho con của
mình và coi đó như một cách…trả thù dân tộc vậy!!!
Hầu như dân tộc nào cũng
thế, người ta rất thận trọng trong khi đặt tên, bởi vì tên gọi
ít ra cũng phải nói lên ước vọng của cha mẹ đối với con cái.
Chẳng hạn trong Kinh Thánh,
Đức Chúa Trời hẳn đã đặt tên cho người đờn ông đầu tiên là Adong
và Adong vừa có nghĩa là bùn đất vừa có nghĩa là con người. Sau
đó, Adong, người đờn ông đầu tiên ấy đã chớp chớp đôi mắt khi
gặp người đờn bà đầu tiên và ông đặt tên cho nàng là Eva, có
nghĩa là mẹ của chúng sinh. Đức Giavê đã đổi tên cho Abram thành
Abraham, có nghĩa là cha của nhiều dân tộc. Còn Đức Kitô đã cải
tên cho ông Simon thành Phêrô, có nghĩa là đá tảng.
Người Việt Nam cũng thế,
cha mẹ thường gửi gấm những ước vọng thầm kín của mình vào tên
gọi của con cái. Chẳng hạn cụ thân sinh ông Cao Bá Quát đặt tên
cho hai con của mình là Bá Đạt và Bá Quát, bởi vì đời nhà Chu
bên Tàu có tám vị hiền sĩ , đó là Bá Quát và Bá Đạt, Trọng Đột
và Trọng Hốt, Thúc Dạ và Thúc Quý, Quý Quỳ và Quý Đa. Đặt tên
cho hai con là Bá Đạt và Bá Quát, cụ thân sinh ra các ông đã
muốn cho các con mình sau này cũng sẽ trở nên những bậc hiền sĩ.
Một tên đầy đủ thường gồm
có ba phần, đó là họ, chữ đệm và tên.
Trước hết là họ. Họ từ tổ
tiên truyền xuống, đời này qua đời khác. Thường thì con lấy họ
của bố, nhưng cũng có trường hợp theo họ mẹ, chẳng hạn khi người
mẹ không có anh em trai, thì một trong những người con sẽ lấy họ
mẹ để lo việc phụng thờ ngoại tộc, hay khi người mẹ sinh con ra
mà không có bố…
Tiếp đến là chữ đệm. Đờn bà
con gái thường dùng chữ Thị. Còn đờn ông con giai thường dùng
mấy chữ như Văn, Đình, Hữu, Duy…Ngày nay chữ đệm đã thay đổi
nhiều. Đờn bà con gái lắm người không thích chữ Thị, vì xem ra
có vẻ bị lép vế, nên dùng những chữ khác cho thêm phần mộng mơ,
lãng mạn và âm vang leng keng, như chữ Mộng, Lệ, Thùy…
Viết tới đây, gã rất lấy
làm “tâm phục khẩu phục” các bậc phụ mẫu thời trước. Tuy hoàn
cảnh lúc bấy giờ chưa sáng, những quí cụ ông, quí cụ bà đã từng
đặt những cái tên thật kêu và thật đẹp cho con cái mình, chẳng
hạn như Mộng Xuân, Lệ Thu, Thúy Lam, Diễm Quỳnh…Quả là hết xảy
và trên cả tuyệt vời nữa!
Sau cùng là tên. Đây là
phần cuối, nhưng lại là phần chính. Như đã nói ở trên, tên được
chọn để nói lên sở nguyện của cha mẹ, của kẻ mang tên, hay ít ra
cũng phải có một ý nghĩa nào đó.
Đối với con gái, người ta
ưa chọn tên các loài hoa như Lan, Huệ, Cúc, Mai, Đào, Liễu,
Liên…hay tên bốn mùa như Xuân, Hạ, Thu, Đông…Đối với con giai,
người ta thích những tên có tính cách hùng mạnh, nói lên bổn
tính của phái nam, như Nhân, Trí, Dũng, Tín, Trực…hay đôi khi
giản tiện, người ta lấy ngay năm sinh để đặt cho con, như Tý,
Sửu, Dần, Mão…
Cũng giống như dân Do Thái,
người Việt Nam ta có tục kiêng tên. Khi có con đầu lòng, thì
người ta dùng tên con để gọi bố mẹ nó, dù tên nó lúc bấy giờ mới
chỉ là một tên tạm bợ, như tên Tí, tên Tẹo. Người ta gọi bố mẹ
nó là bác Tí giai và bác Tí gái, hay bác Tẹo giai và bác Tẹo
gái.
Chính vì sự kiêng tên, mà
nhiều chữ phải đọc chệch sang chữ khác, chẳng hạn như Hoàng đổi
thành Huỳnh, Vũ đổi thành Võ, Long đổi thành Luông…
Khi có tí chức, tí quyền
hay tí tiếng tăm, có khi người ta dùng họ để gọi thay tên, chẳng
hạn như Nguyễn tiên sinh, bác Hồ, bác Tôn…Có khi người ta dùng
chức tước văn bằng để gọi, chẳng hạn như ông Huyện Đặng, cụ Cử
Vũ…có khi người ta dùng tên làng, tên xã để gọi, chẳng hạn như
Ông tú Vị Xuyên, cụ Tam nguyên Yên Đổ.
Bình thường, chỉ những kẻ
bạch đinh, vai nặng chân trơn, mới phải dùng tên để gọi, vì thế
tại các làng xã, người ta cố dành dụm chút tiền còm để mua cho
mình tí chức như chân nhiêu, chân xã hầu được bàn dân thiên hạ
gọi là ông nhiêu và bà nhiêu, ông xã và bà xã thay cho tên của
mình.
Đặc biệt khi vác lều chõng
đi thi, thì phải biết kiêng húy, có nghĩa là trong bài văn, thí
sinh không được dùng những chữ dính dáng đến tên của nhà vua và
các vị tôn tộc trực hệ. Nếu chẳng may phạm húy, thì dù bài văn
có tuyệt vời đến đâu, cũng sẽ bị sổ toẹt và nhiều khi còn mang
lấy vạ vào thân.
Tuy nhiên, đã có danh thì
cũng cần phải có tiếng, nghĩa là cái tên của mình phải được
nhiều người biết đến. Hơn thế nữa, người ta vốn không ưa những
sự quá đơn giản, mà lại thích những sự rườm rà hoa lá cành. Trần
xì cái tên cha mẹ đặt cho như Tí, Tèo, Tẹo…mà thôi chưa đủ, cần
phải phụ đề vào đó chút ít, như ông giám đốc Tí, bà bác sĩ Tèo,
bác chủ tịch Tẹo…Chính những thứ phụ tùng lỉnh kỉnh này làm cho
người ta nở mày nở mũi và nghênh ngang với đời.
Vì thế, chữ danh, ngoài cái
ý nghĩa là tên gọi, còn mang một ý nghĩa khác nữa, đó là tiếng
tăm.
Đứng trước cái danh này, gã
nhận thấy bàn dân thiên hạ được chia làm hai phe : tiêu cực và
tích cực.
Phe thứ nhất mang tính cách
tiêu cực, coi tiếng tăm chỉ là sự giả trá thế gian, hay như một
thứ phân bón, nên không màng chi đến. Chẳng hạn như tục ngữ đã
bảo :
- Công danh bánh vẽ, giàu
sang chiêm bao.
Hay như Tản Đà cũng đã viết
:
- Vèo trông lá rụng đầy
sân,
Công danh phù thế có ngần
ấy thôi.
Bởi đó, người ta rất e dè
và ngần ngại :
- Cây cao thì gió càng lay,
Càng cao danh vọng, càng dày gian truân.
- Làm trai quyết chí tu
thân,
Công danh chớ vội, nợ nần
chớ lo.
Điều quan trọng là phải chí
thú làm ăn, ra sức gầy dựng sự nghiệp, rồi tiếng tăm ắt sẽ tới,
mà lỡ nó không tới cũng chẳng sao cả, vì rốt cuộc ta vẫn là ta
kia mà, như lời Hoàng Đạo trong “Mười điều tâm niệm” đã khuyên
giới trẻ :
- Cần sự nghiệp, chứ không
cần công danh.
Hay như ca dao cũng đã nhắc
nhở :
- Công danh đeo đuổi mà
chi,
Sao bằng chăm chỉ giữ nghề
canh nông.
Thậm chí có người còn phớt
lờ cái danh, xóa tên nó trong sổ nhân sinh và đặt nó ra bên rìa
cuộc đời mình :
- Chen chúc lợi danh đà
chán ngắt,
Cúc tùng phong nguyệt mới
vui sao.
Phe thứ hai mang tính cách
tích cực, phải hăm hở lăn xả và nhập cuộc để kiếm chút cháo. Đại
diện cho phe chịu chơi, phe diều hâu, chủ chiến này chính là
Nguyễn Công Trứ. Rải rắc trong thơ văn, ông luôn hô hào :
- Tang bồng hồ thỉ nam nhi
trái,
Cái công danh là cái nợ
lần.
Đường đường là một kẻ
trượng phu, một đấng tu mi nam tử mà chẳng có một tí công danh
thì thà chết quách đi cho rồi :
- Có trung hiếu nên đứng trong trời đất,
Không công danh thà nát với cỏ cây.
Vì thế, phải dứt khóat lập trường, phải ra
sức tạo lập cho mình một tiếng tăm cho thiên hạ biết mặt cũng
như cho đời biết tên :
- Đã mang tiếng ở trong trời đất,
Phải có danh gì với núi sông.
Chữ danh thường đi đôi với chữ lợi. Có
tiếng tăm thì cũng thường có nhiều bổng lộc vật chất, nói chung
là có nhiều tiền. Danh và lợi vốn tỷ lệ thuận với nhau. Người ta
thường hay lợi dụng cái danh của mình để vơ vét về cho thật
nhiều. Đồng thời cái lợi chính là một chất kích thích làm cho
người ta phấn khởi và hồ hởi leo lên cao, lên cao hơn nữa, cho
dù có phải luồn, phải lách, hay phải cúi gập người xuống.
Nhìn thấy cái lợi, hay cụ thể hơn, nhìn
thấy tiền, mắt ai mà chẳng sáng lên như đèn ô tô. Từ đứa con nít
cho chí tới ông già, nghĩa là tất tật nam phụ lão ấu đều thấu
triệt giá trị của đồng tiền, như một câu ca dao hôm nay đã sánh
ví :
- Tiền là tiên là phật,
Là sức bật của tuổi trẻ,
Là sức khỏe của tuổi già,
Là cái đà của danh vọng,
Là cái lọng để che thân,
Là cán cân của công lý.
Tự bổn chất, có danh có
tiếng là chuyện bình thường, vô thưởng vô phạt, nhưng xem ra lại
rất thích hợp với bản tính con người. Bởi vì ông chính trị gia
nào cũng mong được người đời sau biết đến tên tuổi của mình.
Anh nhà văn nhà thơ nào cũng muốn được chui tọt vào trong văn
học sử và lưu lại ở đó dù chỉ một vài dòng ngăn ngắn.
Tuy nhiên, vấn đề trở nên
nhiêu khê và rắc rối ở chỗ là phải leo lên đài danh vọng bằng
cách nào ? Phải làm sao để mà “có danh gì với núi sông” ?
Trước hết, gã thấy có những
kẻ nhờ vợ hay nhờ nhà vợ mà leo lên :
Chẳng hạn như một anh chàng
sinh viên vừa mới mãn đại học, đang thất nghiệp dài dài, vớ ngay
được cô vợ, con ông giám đốc, thế là chỉ một thời gian ngắn, sau
khi rước “cô nàng về dinh’, anh ta nghiễm nhiên ngồi vào chiếc
ghế “trợ lý giám đốc” và từ đó việc làm ăn phất lên như diều gặp
gió. Đường công danh mở toang, anh ta chẳng thèm thênh thang cử
bộ, mà lái ô tô con phom phom đi vào.
Đúng là :
- Có người nhờ vợ nên ông,
Lắm người vì vợ mất không
cơ đồ.
Tiếp đến, gã thấy có những
kẻ nhờ thế giá hay nhờ sự phò trợ của bè bạn mà leo lên, theo
kiểu “phe ta thổi phồng phe mình”.
Chẳng hạn như một anh thợ
hát, giọng ca đặc sệt mùi thuốc lào, nhưng được mấy tay bạn, vốn
nghề ký giả, nhà báo thổi lên và phong làm “siêu sao”, làm “quái
kiệt”…khiến cho bàn dân thiên hạ cứ phải ngẩn tò te, lò mò muốn
biết.
Sau cùng, gã thấy có những
kẻ nhờ công sức của mình mà leo lên. Tuy nhiên, công sức ở đây
lại được rẽ vào nhiều ngả khác nhau, giống như chữ tu kia cũng
có dăm bảy đường :
- Thứ nhất thì tu tại gia,
Thứ hai tu chợ,
Thứ ba tu…nhà dòng.
Đúng thế, có những kẻ ra
công gian giảo, ra sức dối trá để kiếm cho mình tí danh.
Chẳng hạn mấy cô cậu học
trò, hay mấy anh chị sinh viên đã khều cho mình mảnh bằng tú tài
và cử nhân qua việc quay cóp trong các cuộc thi. Theo sự nhận
xét của gã, đa số các thí sinh tại Việt Nam, không ít thì nhiều,
cũng đã gian lận trong lúc làm bài thi. Như vậy, một khi đã “ra
lò”, không hiểu họ sẽ dẫn đất nước này đi về đâu ?
Quay cóp mà thôi chưa đủ,
mấy ông cán bộ và công chức còn sử dụng quái chiêu độc địa hơn
nữa. Số là nhà nước muốn nâng cấp phe ta, đòi buộc các quan lớn
cũng như các quan nhỏ phải có văn bằng nọ, văn bằng kia. Bởi đó,
thay vì đi học hàm thụ, để cập nhật hóa trình độ của mình, mấy
ông quan này chỉ việc ngồi ở nhà rung đùi, rồi tung tiền ra, mua
bằng giả để giữ cho được cái ghế mình đang ngồi.
Nếu cụ Tam Nguyên Yên Đổ
đội mồ mà sống dậy, nhìn thấy các quan, chắc chắn cũng phải kêu
trời, như ngày xưa cụ đã từng than thở cả tiếng về những ông
tiến sĩ giấy :
- Tấm thân xiêm áo sao mà
nhẹ,
Cái giá khoa danh ấy mới
hời.
Ghế tréo lọng xanh ngồi
bảnh chọe,
Nghĩ rằng đồ thật hóa đồ
chơi.
Gã biết một tên nọ, học mãi
học hoài mà vẫn chẳng được “tốt nghiệp trường làng”, nghĩa là
vẫn chưa vượt qua được ngưỡng cửa cấp một. Thế nhưng, khi lớn
lên và bước chân xuống cuộc đời, xét về phương diện mánh khóe và
xảo quyệt, thì chẳng ai bằng hắn cả.
Lúc nào trong chiếc “cạc
táp”, hắn cũng có những tấm danh thiếp với rất nhiều học vị và
chức vụ khác nhau, để lòe bịp thiên hạ. Rồi sau đó, tùy hoàn
cảnh hắn sẽ sử dụng những tấm danh thiếp ấy để hạ gục nhanh con
mồi.
Chẳng khi hạn đến với mấy
ông quan vốn mắc bệnh tham nhũng mãn tính, hắn xùy ngay ra tấm
danh thiếp tự xưng mình là phóng viên báo này, ký giả báo kia,
hầu đòi buộc vị quan ấy phải xùy tiền mua sự yên lặng của hắn,
bằng không hắn sẽ huỵch toẹt cho bàn dân thiên hạ được biết sự
thật. Và thế là, dù tức như bị bò đá, ông quan kia cũng vẫn phải
vui vẻ bất đắc dĩ chi tiền cho hắn.
Tuy nhiên, trong cái xã hội
đảo điên, vàng thau lẫn lộn, cũng không thiếu những người đã
đứng lên bằng chính đôi chân của mình, đã tạo dựng sự nghiệp
bằng chính công sức của mình. Và nếu có tí danh vọng đính kèm,
thì danh vọng ấy cũng xuất phát bởi những cố gắng liên tục của
bản thân.
Báo Tuổi Trẻ Chủ Nhật có
kể lại câu chuyện “Chị em xe rác và ước mơ tiến sĩ” như sau:
Ở Cần Thơ, có ba chị em gái
sinh ra trong một gia đình đình mẹ hốt rác. Từ 4-5 tuồi, họ đã
theo mẹ đẩy xe rác lang thang khắp hang cùng ngõ hẻm. Người dân
khu vực Xuân Khánh, Cần Thơ, quen gọi họ là “chị em xe hốt rác”,
nhưng ít ai biết ba chị em đang âm thầm trui rèn tương lai của
mình trên giảng đường đại học…
Cô chị tích cóp tiền thu
gom phế liệu, giấy vụn, vỏ lon bia…để có 480.000 đồng trả học
phí bảng A Anh văn, 550.000 đồng đóng bằng B, 700.000 đồng đóng
bằng C. Sau khi cô chị đạt bằng C, tội nghiệp bà mẹ quá lo lắng
không biết còn bằng D, bằng E, bằng F gì nữa không ?
Nêu sự kiện trên, tác giả
đã chua thêm vào đó chút suy tư vụn vặt của mình như sau :
Thiết nghĩ, các bằng cấp mà
ba chị em gái này có được là do thực học, do quyết tâm vượt qua
danh phận của mình một cách danh dự và chúng ta hoàn toàn tin
tưởng rằng ước mơ của ba chị em có cơ sở để đạt được bằng thực
học.
Nghĩ lại cảnh quay cóp, ném
phao…của các cuộc thi nâng ngạch lên chuyên viên chính, bác sĩ
chính, giảng viên chính mà cảm thấy ngậm ngùi cho cái “đạo học”
ngày nay.
Có danh một cách đường
đường chính chính đã là chuyện khó, nhưng gìn giữ và duy trì cái
danh ấy khỏi hoen ố, khỏi bị mai một cũng không phải là chuyện
dễ, bởi vì nhiều khi đã phải đầu tư biết bao nhiêu công sức mới
có được một tí danh, thế mà bỗng chốc đùng một phát, tất cả đều
đi đoong, đều tiêu tan thành mây khói, thân thì bại, danh thì
liệt, như người xưa đã bảo :
- Kiếm củi ba năm thiêu một
giờ.
- Mua danh ba vạn, bán danh
ba đồng.
Đêm nằm vắt tay lên trán mà
ngẫm nghĩ sự đời, gã nhận thấy có hai nguyên nhân chính khiến
người ta thường bị thân bại danh liệt, đó là tình và tiền.
Có kẻ vì tình, hay nói toạc
móng heo ra, vì tình cảm lem nhem, dính dấp đến chuyện đờn bà
con gái mà đi đoong sự nghiệp. Lịch sử đã để lại quá nhiều bằng
chứng về vần đề này :
Ngày xưa vua Kiệt vì say mê
nàng Muội Hỷ, bỏ bê việc triều chính, ăn chơi trác táng, nên bị
vua Thành Thang cướp mất nước. Vua Trụ vì say mê nàng Đắc Kỷ,
giết hại công thần, hoang dâm vô độ, khiến cho sự nghiệp bị tan
tành. Ngô Phù Sai, vì say mê nhan sắc của Tây Thi, cô gái ở thôn
Trữ La do Việt Câu Tiễn hiến cống, đã phung phí của chung, đày
ải các tôi trung, khiến lòng dân oán thán. Lợi dụng cơ hội ấy,
Câu Tiễn liền cử binh sang đánh chiếm nước Ngô, tàn phá Cô Tô
đài, nơi vua Phù Sai cùng Tây Thi đêm ngày vui vẻ “mí nhau”. Phù
Sai phải bỏ kinh thành chạy trốn và cuối cùng đã tự sát để khỏi
bị rơi vào tay Việt Vương Câu Tiễn.
Còn ngày nay cũng không
thiếu những tấm gương để đời. Chẳng hạn hình như vào thập niên
sáu mươi, ông bộ trưởng chiến tranh của dân Ăng lê tên là
Profuno, vì lẹo tẹo với cô gái điếm Christine Keller, khiến cho
toàn bộ nội nước Anh lúc bấy giờ phải từ chức, còn bản thân ông
bộ trưởng cũng tiêu tùng luôn. Sở dĩ như vậy vì cô gái điếm này
là một điệp viên của Liên Xô, được cài vào để lấy những tin tức
tối mật.
Và mới đây, tổng thống Bill
Clinton nước Huê kỳ cũng suýt đi tong sự nghiệp cũng chỉ vì đã
nhăng nhít với cô tập sự viên Nhà Trắng tên là Monica Lewinsky.
Ngoài ra, cũng có kẻ vì
tiền mà mất toi cơ đồ. Thực vậy, thấy tiền ai mà chẳng ham,
chẳng thích, chẳng mê, để rồi tìm mọi cách kiếm cho được thật
nhiều. Kiếm tiền bằng công sức lao động chân chính thì chẳng nói
làm chi, nhưng kiếm tiền bằng cách gian giảo trong khi buôn
bán, tham nhũng hối lộ trong khi thi hành chức vụ, bỏ nhầm công
quĩ vào túi để xài riêng…Thôi thì thiên hình vạn trạng đến quỉ
thần cũng không lường nổi. Đây cũng chính là một con đường ngắn
nhất dẫn những kẻ tham lam vào vòng tù tội, còn sự nghiệp thì
cũng tan vỡ thành mảnh vụn.
Có người đã leo lên tới tột
đỉnh danh vọng rồi, chẳng hạn như ông tổng thống của nước Đại
Hàn, quê hương của những củ sâm Cao Ly, song cũng vì cái túi
tham không đáy của mình, đã vô tư xơi những khoản tiền “bồi
dưỡng” của mấy công ty lớn, nên đã bị tòa án sờ vào gáy.
Quả là chua xót và đắng cay
như lời Kinh Thánh :
- Phù hoa trên mọi phù hoa,
trần gian tất cả chỉ là phù hoa.
Để kết luận, gã xin mượn
lại mấy tư tưởng sau đây, đã được tác giả Diệp Văn Sơn, ghi lại
trên báo Tuổi Trẻ Chủ Nhật.
Dân Trung quốc có câu :
- Người biết đạo, tất không
khoe. Người biết nghĩa, tất không tham. Người biết đức, tất
không thích tiếng tăm lừng lẫy.
Hay như :
- Người đi không cầu cho có
bóng mà bóng tự nhiên theo. Người kêu không cầu cho có tiếng dội
mà tiếng dội vẫn vang. Vì thế, người quân tử chỉ cần làm nên
công rồi danh ắt sẽ đến.
Gã
Siêu
gasieu@gmail.com
|
VỀ MỤC LỤC |
|
- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến,
bài vở..., xin gởi về địa chỉ
giaosivietnam@gmail.com
- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục
vụ của Giáo sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các
Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn
gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực
Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh
vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức
Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và
Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quí vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại
www.conggiaovietnam.net
Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị
Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã
sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác
nhau.
TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca
Phạm Quốc Sử
USA
|
|
*************
|
|