Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam

 

 

 

ĐỰƠC CHỌN GIỮA LOÀI NGƯỜI
VÀ CHO LOÀI NGƯỜI  (x. Dt, 5.1)

 

GIÁO SĨ:

Xuất phát từ giáo dân, hiện diện vì giáo dân và cậy dựa vào giáo dân

 

ĐỂ CÙNG LÀM VINH DANH THIÊN CHÚA

 

www.conggiaovietnam.net                          giaosivietnam@gmail.com

Đặc San Điện Tử    Giáo Sĩ Việt Nam    Số 44, Chúa Nhật 01.07.2007



 CÁC SỐ BÁO ĐÃ PHÁT HÀNH               MỤC LỤC 

Hiến Chế Mục Vụ Về Giáo Hội Trong Thế Giới Ngày Nay   Gaudium Et Spes        Vatican 2

Xin Hiệp thông cầu nguyện cho Giáo Hội Việt Nam                 Bản tin của VPTK/HĐGMVN

Việc Đào tạo chủng sinh trong các Đại chủng viện tại Việt Nam                                GSVN

GIÁO XỨ LÀ MỘT CỘNG ĐOÀN HIỆP THÔNG                                                            GSVN

NHẬN HIỂU Ý NGHĨA VÀ ... Của ƠN GỌI LINH MỤC           Lm. Lê Công Đức chuyển ngữ

NGƯỜI ĐÀN BÀ GÓA                                                                     Hương Vĩnh chuyển ngữ

CỨ ĐỂ NHỮNG HẬU QUẢ CỦA NÓ XẢY RA (bài 2)                               Lm. Lê Văn Quảng

NIỀM RIÊNG                                                                                                        Vân Thanh

CHÍNH  TRỊ THEO QUAN ĐIỂM CỦA GIÁO HỘI                           Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh

TÌNH YÊU KHÔNG KIÊU CĂNG                   Lm. Micae-Phaolo Trần Minh Huy chuyển ngữ

Ăn Mất Ngon                                                                                        Bác sĩ Nguyễn Ý Đức

BÀN VỀ CHỮ DANH                                                                    Chuyện phiếm của Gã Siêu


Hiến Chế Mục Vụ Về Giáo Hội Trong Thế Giới Ngày Nay     Gaudium Et Spes

Bản dịch Việt Ngữ của Giáo Hoàng Học Viện Piô X

Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia

 

Chương II

Cộng Ðoàn Nhân Loại


  

28. Kính trọng và yêu thương đối thủ. Cũng phải kính trọng và yêu thương những người không cùng một cảm nghĩ hoặc cùng một hành động với chúng ta trong những vấn đề xã hội, chính trị hay cả tôn giáo nữa. Thực vậy, càng lấy sự nhân ái và yêu thương mà tìm hiểu sâu xa hơn những cách cảm nghĩ của họ, chúng ta càng dễ dàng có thể đi tới đối thoại với họ hơn.

Thực ra, đức ái và lòng nhân hậu này không bao giờ cho phép chúng ta trở thành dửng dưng với điều chân và thiện. Hơn thế nữa, chính đức ái thúc bách các môn đệ Chúa Kitô loan báo cho mọi người chân lý cứu rỗi. Nhưng phải phân biệt lầm lỗi, điều luôn luôn phải loại bỏ, với người lầm lỗi 32* vì những người lầm lỗi vẫn còn giữ được nhân phẩm, ngay cả khi họ có những ý niệm sai lầm hoặc hơi lệch lạc về tôn giáo 10. Chỉ có mình Thiên Chúa là quan tòa và là Ðấng thấu suốt mọi tâm hồn: bởi vậy Ngài ngăn cấm chúng ta xét đoán tội lỗi bên trong của bất cứ người nào 11.

Giáo lý của Chúa Kitô cũng đòi chúng ta phải tha thứ những xúc phạm và giáo lý ấy nới rộng giới răn yêu thương đối với tất cả kẻ thù, đó chính là giới răn trong Luật Mới: "Các ngươi có nghe lời truyền dạy hãy thương yêu thân nhân mà ghét thù địch mình. Còn Ta, Ta dạy các ngươi: hãy thương yêu kẻ thù nghịch mình, cứ làm ơn cho kẻ ghét mình, lại cầu nguyện cho những người bắt bớ vu vạ cho ngươi nữa" (Mt 5, 43-44) 12.

29. Bình đẳng căn bản giữa mọi người với nhau và công bình xã hội. Càng ngày càng phải nhận thức sự bình đẳng căn bản giữa mọi người hơn, bởi vì mọi người đều có một tâm linh và được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa nên có cùng một bản tính và cùng một nguồn gốc, hơn nữa vì được Chúa Kitô cứu chuộc nên họ đều được mời gọi như nhau và cùng hưởng chung một cùng đích nơi Thiên Chúa.

Dĩ nhiên mọi người không bằng nhau vì không có khả năng thể chất như nhau và những năng lực trí tuệ và tinh thần như nhau. Tuy nhiên phải vượt lên trên và loại bỏ mọi hình thức kỳ thị về những quyền lợi căn bản của con người, hoặc trong phạm vi xã hội hoặc trong phạm vi văn hóa, kỳ thị vì phái tính, chủng tộc, màu da, địa vị xã hội, ngôn ngữ hay tôn giáo, vì như vậy là trái với ý định của Thiên Chúa. Do đó thực đáng buồn khi những quyền lợi căn bản của nhân vị cho đến nay vẫn chưa được bảo đảm toàn vẹn ở mọi nơi. Thí dụ người ta không nhìn nhận phụ nữ có quyền tự do chọn lựa người chồng hay quyền tự do chọn bậc sống, hoặc quyền được giáo dục và có văn hóa như nam giới 33*.

Hơn nữa, dù có những khác biệt chính đáng giữa con người với nhau, tuy nhiên nhân phẩm như nhau của mọi người cũng đòi hỏi người ta phải tiến tới mức sống nhân đạo hơn và xứng hợp với con người hơn. Thực vậy, những chênh lệch quá đáng về kinh tế và xã hội giữa những thành phần hay giữa những dân tộc trong cùng một gia đình nhân loại thực là những gương xấu và đi ngược với công bằng xã hội, lẽ phải, 34* nhân phẩm và nền hòa bình xã hội cũng như quốc tế.

Còn các tổ chức của con người hoặc tư hoặc công hãy nỗ lực phục vụ phẩm giá cũng như cứu cánh của con người, đồng thời hãy mạnh mẽ chống lại bất cứ hình thức nô lệ nào trên phương diện xã hội hay chính trị và bảo vệ những quyền lợi căn bản của con người trong trong bất cứ một chính thể nào. Hơn nữa, các tổ chức ấy còn phải dần dần phù hợp với những việc thiêng liêng là những việc cao cả hơn hết, dù đôi khi phải trải qua một thời gian khá lâu để đạt tới mục đích hằng mong mỏi đó.

30. Cần phải vượt ra khỏi thứ luân lý cá nhân chủ nghĩa. Hoàn cảnh biến đổi sâu rộng và nhanh chóng đòi hỏi cấp bách đừng ai chủ trương một thứ luân lý duy cá nhân mà không lưu tâm hoặc không màng chi tới diễn tiến thời cuộc 35*. Bổn phận công bình và bác ái được chu toàn mỗi ngày một hơn là do mỗi người biết, tùy theo những khả năng của mình và nhu cầu của kẻ khác mà mưu ích chung, bằng cách cổ võ và trợ giúp những tổ chức công hay tư nhằm cải thiện những điều kiện sống của con người. Lại có những người ngoài miệng thì chủ trương rộng rãi và đại lượng, mà thực tế họ luôn luôn sống như chẳng quan tâm gì tới những nhu cầu của xã hội. Hơn nữa tại nhiều nơi có nhiều người còn coi thường các luật lệ và những qui định của xã hội. Một số người không ngần ngại dùng những hình thức gian lận và lừa đảo để trốn những thuế vụ chính đáng hoặc trốn tránh những gì xã hội đòi buộc. Có người lại coi nhẹ một số luật lệ trong cuộc sống xã hội, chẳng hạn những luật lệ liên hệ tới việc bảo vệ sức khoẻ, hoặc việc xe cộ lưu thông, bởi vì họ không nhận thức được rằng do bất cẩn như thế sẽ gây nguy hiểm cho tính mạng của họ và của những người khác.

Mỗi người đều phải nhìn nhận và tôn trọng những liên đới xã hội như một trong những nghĩa vụ chính yếu của con người thời nay. Bởi vì thế giới càng hợp nhất thì hiển nhiên những bổn phận của con người càng vượt trên những nhóm riêng rẽ hơn và dần dần sẽ lan rộng tới toàn thế giới. Ðiều ấy chỉ thể hiện được một khi mỗi người và mỗi cộng đoàn trau dồi nơi chính họ những đức tính luân lý và xã hội, đồng thời đem những đức tính ấy gieo rắc ngoài xã hội. Như vậy, với sự trợ giúp cần thiết của ơn thánh Chúa sẽ có những con người thật sự mới và là những người kiến tạo một nhân loại mới.

31. Trách nhiệm và tham gia. Ðể mỗi người chu toàn một cách cẩn thận hơn nghĩa vụ của họ đối với mình hay đối với những cộng đoàn mà họ là thành phần, thì với những phương thế phong phú của nhân loại ngày nay, họ phải được giáo dục chu đáo để có văn hóa sâu rộng hơn. Trước hết cần phải tổ chức việc giáo dục những người trẻ thuộc bất cứ thành phần nào trong xã hội, làm sao để đào tạo được những người nam và nữ không những tài giỏi về văn hóa mà còn có một tâm hồn cao thượng, bởi vì thời đại chúng ta đang khẩn thiết đòi phải có những người như vậy.

Nhưng con người khó mà nắm được ý nghĩa trách nhiệm này nếu những hoàn cảnh sinh sống không cho phép họ ý thức về phẩm giá của mình cũng như không cho phép họ đáp lại sứ mệnh của mình bằng cách hiến thân phục vụ Thiên Chúa và người khác. Ngoài ra, sự tự do của con người nhiều lúc suy giảm đi, một khi con người rơi vào cảnh quá cùng cực, cũng như tự do ấy bị hạ giá một khi buông thả theo những dễ dãi quá mức trong cuộc sống, con người dường như tự khép mình trong thứ lâu đài cô đơn ngà ngọc. Trái lại tự do ấy được củng cố khi con người chấp nhận những ràng buộc không thể tránh được trong cuộc sống xã hội, coi những nhu cầu muôn mặt của tình liên đới nhân loại là của mình và tự buộc mình phải phục vụ cho cộng đoàn nhân loại.

Vì thế, thiện chí muốn góp phần vào những công việc chung cần được cổ võ nơi mọi người. Ngoài ra phải ca tụng đường lối của những quốc gia đang để cho càng đông công dân càng tốt được tham gia việc nước trong sự tự do đích thực. Tuy nhiên cần phải lưu ý tới hoàn cảnh thực tế của mỗi dân tộc cũng như tới uy quyền cần thiết của quyền bính quốc gia. Hơn nữa, để mọi công dân phấn khởi tham dự vào cuộc sống của các đoàn thể tạo nên cơ cấu xã hội, thì họ cần phải tìm được trong những tổ chức ấy, những lợi ích lôi cuốn họ và giúp họ sẵn sàng phục vụ người khác. Chúng ta có thể nghĩ một cách hợp lý rằng số phận mai sau của nhân loại nằm trong tay những người có khả năng trao cho hậu thế những lý do để sống và để hy vọng.

32. Ngôi Lời Nhập Thể và tình liên đới nhân loại. Thiên Chúa đã dựng nên con người không phải để sống riêng rẽ nhưng để tạo nên sự liên kết xã hội. Cũng thế "... Thiên Chúa không muốn thánh hóa và cứu rỗi loài người cách riêng rẽ, thiếu liên kết, nhưng Ngài muốn qui tụ họ thành một dân tộc để họ nhận biết chính Ngài trong chân lý và phụng sự Ngài trong thánh thiện" 13. Ngay từ khởi đầu lịch sử cứu rỗi chính Ngài đã chọn con người, không phải với tính cách như những cá nhân, nhưng như những phần tử của một cộng đoàn. Thực thế, trong khi Thiên Chúa biểu lộ ý định của Ngài, Ngài cũng đã gọi những người được chọn là "dân Ngài" (Xac 3,7-12), hơn nữa còn ký kết giao ước với dân ấy tại Sinai 14.

Tính chất cộng đoàn này nhờ công nghiệp của Chúa Giêsu Kitô được kiện toàn và hoàn tất. Chính Ngôi Lời Nhập Thể đã muốn chia sẻ tình liên đới nhân loại. Người đã hiện diện tại tiệc cưới Cana, đã vào nhà Giakêu, đã ăn uống với những người thu thuế và những người tội lỗi. Người đã mạc khải tình yêu thương của Chúa Cha và sứ mệnh cao cả của con người, khi Người nhắc tới những điều hết sức thông thường trong xã hội và dùng những kiểu nói cũng như những hình ảnh hoàn toàn thuộc cuộc sống thường nhật. Tự ý tuân phục những luật lệ trong quốc gia Người, Người đã thánh hóa những mối liên hệ của con người, nhất là những liên hệ thuộc về gia đình là nguồn gốc phát sinh những liên hệ xã hội. Người đã muốn sống cuộc sống của những thợ thuyền với người đương thời nơi quê hương Người.

Trong khi rao giảng, Người đã truyền dạy rõ ràng cho con cái Thiên Chúa phải cư xử với nhau như anh em. Lúc cầu nguyện, Người đã xin cho tất cả các môn đệ Người được nên "một". Hơn nữa, là Ðấng Cứu Chuộc mọi người, chính Người đã tự hiến thân chết cho mọi người. "Chẳng ai có lòng thương yêu hơn kẻ liều mạng sống mình vì bạn hữu" (Gio 15,13). Người còn ra lệnh cho các Tông Ðồ rao giảng sứ điệp Phúc Âm cho muôn dân để nhân loại trở nên gia đình của Thiên Chúa, trong đó sự sung mãn của lề luật chính là đức ái.

Là trưởng tử của một đoàn anh em đông đúc, sau khi chết và sống lại, Người đã thiết lập nhờ hồng ân của Thánh Thần Người một sự kết hiệp huynh đệ mới giữa tất cả những kẻ đón nhận Người với đức tin và đức ái trong chính Thân Thể của Người tức là Giáo Hội, ở đấy mọi người là chi thể với nhau, tùy theo những ơn đã lãnh nhận mà phục vụ lẫn nhau.

Tình liên đới này cần phải được gia tăng luôn mãi cho tới ngày nó được hoàn tất, và ngày đó nhờ được ơn thánh cứu thoát, loài người như một gia đình được Thiên Chúa và Chúa Kitô là Anh yêu thương, sẽ dâng lên Thiên Chúa lời chúc tụng toàn hảo.

 


Chú Thích:

(lưu ý: những số ghi chú nhỏ hơn đã được đăng vào những số báo trước)

 

33* Ðây chỉ là một thí dụ về việc kỳ thị căn cứ vào giới tính. Trong xã hội thấm nhuần văn minh Nho Giáo và Phật Giáo, sự kỳ thị này có ít hay nhiều, tùy trường hợp (coi sau này: số 60c).

34* Ðức công bằng giúp ta trả cho mọi người của riêng họ. Từ xưa đã có thói quen phân biệt công bằng giao hoán đối với từng phần tử xã hội, giúp mỗi người trao trả cho người khác tất cả những gì mà kẻ ấy có quyền đòi hỏi; công bằng pháp lý đối với chính cộng đoàn xã hội, khiến mọi cá nhân hoạt động theo những đòi hỏi của ích chung; công bằng phân phối của xã hội (nhờ các đại diện của xã hội) đối với mọi phần tử cộng đoàn, thúc đẩy xã hội phân chia nhiệm vụ cũng như quyền lợi giữa phần tử của cộng đoàn một các chính đáng. Theo văn kiên của Tòa Thánh (Ðức Piô XI và XII): công bằng xã hội phải được hiểu như công bằng pháp lý tổng quát, nghĩa là nhân đức khiến mọi phần tử của xã hội thực hiện mọi nhân đức khác mỗi khi ích chung đòi hỏi như vậy (theo như Thánh Tôma dạy, II-II, q. 58, a a. 5-7 (x. Calvez-Perrin, Eglise et Société économique. L?Enseignement social des Papes de Léon XIII à Pie XII, Paris 1959, trg 192-203 và 543-567).

"Aequitas" (lẽ phải) là danh từ có nghĩa gần giống danh từ công bằng, nhưng phong phú hơn: không chỉ dựa trên nguyên tắc pháp lý để giải quyết một vấn đề, mà còn cố gắng cân nhắc các hoàn cảnh chủ quan cũng như khách quan. Sự trọng tài giữa người phá hoại và nạn nhân có lẽ không thỏa mãn đòi hỏi của nguyên tắc công bằng giao hoán, nhưng trong hoàn cảnh thực tế rất có thể là giải pháp tốt nhất: thích hợp cho con người.

35* Phải chăng đây là điều hơi lạ khi Công Ðồng chỉ nêu ra lý do nhất thời của những xu hướng hiện đại? Nếu con người có bản tính xã hội (Công Ðồng đã xác nhận điều này ở trên, số 24-25), phải chăng con người không thể chỉ hoạt động tuân theo một luân lý cá nhân? Ngoài ra, đức tin lại không nhấn mạnh rằng đức bác ái là trên hết hay sao? ... Tố cáo Giáo Hội chỉ mới bắt đầu lưu tâm đến các vấn đề xã hội từ cuối thế kỷ 19, nghĩa là sau cuộc cách mạng kỹ thuật và theo sau các phong trào xã hội chủ nghĩa, tố cáo như thế chỉ là không biết lịch sử mà thôi (ví dụ như từ trong CvTđ 2, 44-45; 4,32-35 đến các nhà Dòng chuyên lo chuộc lại những người bị tù hay chuyên săn sóc bệnh nhân v.v...). Nhưng đàng khác không thể phủ nhận được rằng những triết thuyết từ thời cải cách tin lành trở đi đã ảnh hưởng tới quan niệm tôn giáo rất nhiều đến nỗi có nhiều tín hữu đạo đức trong các bổn phận cá nhân mà lại không biết tôn trọng công bằng và bác ái xã hội chút nào. "Tôi không giết người, không cướp của người" là những câu năng được nghe và chúng đã tỏ lộ thứ quan niệm ấy. Thế thì làm thiệt hại cho tha nhân, không kính trọng quyền lợi của tha nhân không phải là cách giết và cướp của người ta hay sao? Ngoài ra họ có lo gì cho những đòi hỏi của ích chung không?... Vả lại trước đây trong các lớp dạy giáo lý và luân lý thần học cũng gần như chỉ biết nhấn mạnh thái độ cá nhân về các bổn phận luân lý. Dạy về bổn phận cá nhân đối với cá nhân tương đối là dễ; trái lại dạy về bổn phận đối với tha nhân vô danh và đối với ích chung thì khó. Chắc chắn là cần phải nhấn mạnh đến các nguyên tắc và đào tạo lương tâm của mọi giáo dân để họ trưởng thành và biết tự xét đoán mọi hoàn cảnh, hơn là tiếp tục để cho họ chỉ biết hoạt động theo những giải quyết từng chi tiết của các giáo sĩ. Số 31 phác họa một chương trình căn bản về việc giáo dục xã hội.

còn tiếp

VỀ MỤC LỤC
Xin Hiệp thông cầu nguyện cho Giáo Hội Việt Nam

 

HỌP BAN THƯỜNG VỤ (MỞ RỘNG)

HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM
 

Ngày 20-6-2007 vừa qua, tại Trung tâm Công giáo số 72/12 Trần Quốc Toản, P.8, Q.3, Tp.HCM đã diễn ra buổi họp Ban thường vụ mở rộng của Hội đồng Giám mục Việt Nam. Tham dự buổi họp có Đức cha Phaolô Nguyễn Văn Hòa chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam, Đức Hồng y G.B Phạm Minh Mẫn phó chủ tịch, Đức Tổng Giám mục Giuse Ngô Quang Kiệt phó Tổng Thư ký thay Đức cha Tổng Thư ký Phêrô Nguyễn Soạn bị đau. Ngoài ra có còn sự hiện diện của Đức cha Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, Phaolô Bùi Văn Đọc, Giuse Vũ Duy Thống, Stêphanô Tri Bửu Thiên, Phêrô Nguyễn Văn Đệ, Giuse Võ Đức Minh, Giuse Châu Ngọc Tri, Giuse Hoàng Văn Tiệm, Antôn Vũ Huy Chương, Phaolô Nguyễn Văn Hoan, Giuse Nguyễn Văn Yến (phụ trách Ban Bác ái Xã hội các giáo phận miền Bắc) và hai cha thư ký Phêrô Phan Xuân Thanh (Huế) và Antôn Nguyễn Ngọc Sơn (Tp.Hồ Chí Minh).

Đúng 8 giờ sáng, sau lời Kinh khai mạc của Đức cha chủ tịch, các Uỷ ban bắt đầu báo cáo công việc của mình trong 8 tháng qua. Văn phòng Thư ký Hội đồng Giám mục cũng báo cáo tổng kết các công tác như liên lạc, nghiên cứu, in các bộ sách mới nhất là Bộ Giáo luật 1983 với phần mục lục phân tích chủ đề rất công phu dành cho mọi thành phần dân Chúa.

Sau phần báo cáo tổng kết, Đức cha Giuse Vũ Duy Thống trình bày phác thảo bố cục nội dung Thư Chung 2008 với chủ đề “Giáo dục Kitô giáo”..

Hội nghị cũng bàn việc chuẩn bị cho Đại hội Thường niên của Hội đồng Giám mục Việt Nam sẽ được tổ chức ở Hà Nội từ ngày 08-12/10 với những nội dung quan trọng:

- Bầu lại nhân sự Ban Thường Vụ và các Uỷ ban.

- Bàn về mối tương quan giữa các Hội đồng Giám mục, nhất là các Hội đồng Giám mục trong vùng Đông Nam Á và dự tính mời đại biểu Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ sang thăm Việt Nam.

- Bàn cơ cấu Hội đồng Giám mục: hoàn thiện Quy chế Hội đồng Giám mục và tìm ra một Tổng thư ký không phải là Giám mục để có nhiều thời gian, toàn tâm toàn ý điều hành công việc. Bên cạnh đó chuẩn bị tìm phát ngôn viên chính thức của Hội đồng Giám mục nhằm tăng cường cho Tổng Văn phòng Thư ký.

- Bàn về chương trình dài hạn của Hội đồng Giám mục với các dự án La Vang (Huế), Toà Khâm sứ (Hà Nội) và Giáo hoàng viện (Đà Lạt).

- Hội nghị cũng thấy cần lập thêm Uỷ ban Giáo dục chuyên lo về Giáo dục Kitô giáo cho Hội đồng Giám mục.

- Ban Thường vụ xin Uỷ ban Bác ái Xã hội theo dõi các hoạt động thời sự, tình hình xã hội để giúp cho Hội đồng Giám mục có thể lên tiếng trước những vấn đề xã hội.

- Uỷ ban Bác ái Xã hội đang hoàn thành bản thảo và sẽ xuất bản quyển Giáo huấn Xã hội của Giáo hội Công giáo để giúp cho các linh mục, tu sĩ và giáo dân vấn đề về xã hội.

- Năm 2010 là năm kỷ niệm 50 năm thành lập hàng giáo phẩm tại Việt Nam. Hội đồng Giám mục Việt Nam dự tính tổ chức Synode (Công đồng) để tổng kết hoạt động trong 50 năm qua và đề ra bước tiến mới cho Giáo hội Việt Nam. Synode sẽ có sự tham gia của mọi thành phần Dân Chúa.

- Văn phòng Thư ký giới thiệu với các Giám mục “Kế hoạch phát triển Giáo hội Việt Nam từ 2008-2010 và mở rộng tới năm 2020 qua các tài liệu nghiên cứu.

- Bên cạnh đó Ban Thường vụ cũng bàn về một số vấn đề khác: vấn đề cha Nguyễn văn Lý, lập các chương trình kế hoạch đào tạo cho chủng sinh, các thành phần dân Chúa tham dự trong những hội nghị của Hội đồng Giám mục, vấn đề truyền giáo và giúp đỡ đồng bào dân tộc thiểu số…

Buổi họp Ban Thường vụ mở rộng kết thúc vào lúc 14 giờ cùng ngày. Sau đó các Giám mục dùng bữa cơm thân mật tại trung tâm Công giáo.

Nguồn: VPTK/HĐGMVN

VỀ MỤC LỤC

Việc Đào tạo chủng sinh trong các Đại chủng viện tại Việt Nam 

 

Kính thưa Quí Độc giả GSVN

Đặc san GSVN rất trân trọng sự quan tâm của Quí vị muốn biết thực sự việc Đào tạo chủng sinh trong các Đại chủng viện tại Việt Nam như thế nào, giữa một hoàn cảnh khá phức tạp và nhiều thách đố. Đặc biệt là hai chi tiết đang được chú ý : Các chủng sinh có được giảng dạy về « Học thuyết xã hội của Giáo hội » hay không ? Và ngược lại, bộ môn được cán bộ nhà nước trực tiếp giảng dạy trong các ĐCV như thế nào ? 

Sau khi xin ý kiến của những Linh mục uy tín, đã nhiều chục năm miệt mài với công việc đào tạo chủng sinh trong cả 3 miền đất nước. GSVN xin chuyển đến quí Độc giả một vài thông tin đáng tin cậy:

Chủng viện nào cũng dạy môn « Học thuyết xã hội của Giáo Hội », còn việc áp dụng thì không luôn đuợc như lòng mong muốn và đồng bộ như nhau cho mọi nơi và mọi hoàn cảnh.  

Việc cán bộ nhà nước vào dạy môn "Công dân giáo dục" cho chủng sinh là sự thật, nhưng không gây trở ngại nhiều. Nhất là chúng ta hoàn toàn có thể tín nhiệm vào sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa, cộng với sự trưởng thành của các chủng sinh (mà hầu hết đã phải sống thời gian “tiền chủng viện” hàng chục năm…)  

Các Đức Giám Mục và các Ban đào tạo luôn cố gắng hết sức để có thể chu toàn trách nhiệm của mình dù trong hoàn cảnh khó khăn hay thuận lợi.

 

Việc đào tạo chủng sinh tại Việt Nam hiện nay, có nhiều khó khăn như thiếu nhân sự (giáo sư), thiếu cơ sở vật chất do số lượng chủng sinh tăng, và rất cần được xã hội chấp nhận đổi mới hơn nữa trong các cơ chế hiện hành.

 

GSVN xin trích một đọan trong cuốn "Đào Tạo và Tự Đào Tạo Thiêng Liêng Của Các Linh Mục Tương Lai Trong Bối Cảnh Việt Nam Ngày Nay"  

Nguyên bản tiếng Anh của Lm. Micae-Phaolô TRẦN MINH HUY, Xuân Bích.

Bản dịch Việt ngữ của Lm. Vincentê Trần Minh Thực, Lm. Gioan Baotixita Nguyễn văn Hào,  Ứng viên Xuân Bích.

 

Tác phẩm này đã được Xuất bản bởi Học Viện Đời Sống Thánh Hiến tại Á Châu

Institute for Consecrated Life in Asia (ICLA)

Quí độc giả có thể tham khảo trọn vẹn tác phẩm tại

http://www.conggiaovietnam.net/   

Hoặc cũng có thể  yêu cầu GSVN gởi trực tiếp qua email cho từng cá nhân.

 

 

Hội  Nghị Các Đại Diện Chủng Viện Hai Năm Một Lần

 

1.  Hoạt Động Của Các Đại Diện Tại Các Cuộc Họp

 

Dù có nhiều khó khăn, việc đào tạo linh mục tại Việt Nam cho thấy có nhiều hứa hẹn. Các cấp chính quyền đã cho phép các đại diện thường trú của sáu đại chủng viện được tổ chức họp mặt hai năm một lần, luân phiên tại sáu đại chủng viện. Các cấp chính quyền cho những cuộc họp mặt này một tầm quan trọng đặc biệt khi nhận ra rằng các chủng viện đang đào tạo những nhà lãnh đạo tương lai cho Giáo Hội.

 

Trong những cuộc họp mặt này, các vị đại diện chủng viện nhìn lại những gì đã diễn ra qua việc xem xét những báo cáo thường niên của mỗi chủng viện. Các ngài suy nghĩ và thảo luận về một trong bốn chiều kích của Pastores Dabo Vobis (nhân bản, thiêng liêng, tri thức và mục vụ). Các tham dự viên cũng chia sẻ một số những khó khăn mà các ngài trải nghiệm trong những khía cạnh khác nhau của việc đào tạo tại chủng viện. Qua những chia sẻ và những tương tác như thế, các ngài nâng đỡ và khích lệ lẫn nhau trong sứ vụ khó khăn này. Sau những cuộc họp mặt này, các nhà đào tạo nắm bắt và lượng định một cách rõ ràng hơn những nhu cầu cụ thể của việc đào tạo ở chủng viện đối với mỗi Giáo Hội địa phương. Những nhu cầu này sẽ được ưu tiên tuỳ theo mức độ cấp thiết.

 

2.   Đề Nghị của Các Đại Diện Đối Với Chính Quyền

 

Trong những cuộc họp mặt này, một phái đoàn của Ban Tôn Giáo Trung Ương và Ban Tôn Giáo tỉnh tới thăm và nói chuyện với các tham dự viên. Các tham dự viên trình bày cho phái đoàn này những kiến nghị. Những kiến nghị đó bao gồm: giảm thời gian dành cho môn giáo dục công dân, xoá bỏ việc hạn chế con số các ứng viên vào chủng viện, và xoá bỏ việc thẩm tra lý lịch những chủng sinh tốt nghiệp chủng viện.

 

Các ngài cũng trình bày với phái đoàn của chính quyền một số đề xuất như: mỗi giáo phận được phép mở một nhà đào tạo tiền chủng viện; các giáo phận được phép tuyển lựa các ứng viên hằng năm thay vì hai năm một lần; có thêm một năm nữa cho tiến trình đào tạo tại chủng viện để dành cho việc thực tập mục vụ; cuộc họp mặt các nhà đào tạo mở rộng ra với cả đội ngũ giảng dạy không thường trú tại chủng viện; xoá bỏ việc những ai tới dạy chủng viện phải được chính quyền chấp thuận trước; và các linh mục và những vị dạy tại chủng viện được theo học những khoá dài hạn hoặc cập nhật ở ngoại quốc.

 

Các ngài cũng bày tỏ hy vọng thường xuyên nhận được các tài liệu của Toà Thánh; rằng thủ tục nhập cảnh sách vở và báo chí dùng trong chủng viện được đơn giản hoá. Các ngài cũng quan tâm lo lắng về sự trì hoãn chấp thuận cho mở phân hiệu của chủng viện Thành Phố Hồ Chí Minh, và cần tạo nhiều điều kiện thuận lợi để mời những người Việt Nam ở hải ngoại và các giáo viên người nước ngoài tới dạy hoặc thuyết trình tại các chủng viện.

 

3.   Đề Nghị Của Các Đại Diện Với Lãnh Đạo Giáo Hội

 

Đối với các vị lãnh đạo Giáo Hội, đại diện các chủng viện cũng trình lên những mong đợi. Các ngài xin các Giám Mục làm cho toàn thể mọi người Công giáo, đặc biệt là các cha xứ, ý thức được rằng mọi thành phần Hội Thánh đều có trách nhiệm trong công tác đào tạo các linh mục tương lai, bao gồm cả việc thực tập mục vụ của các chủng sinh.

 

Nhu cầu khẩn thiết hiện nay là cần nhiều nhà đào tạo chất lượng, và nhu cầu cho các nhà đào tạo nâng cao kiến thức của mình qua việc trao đổi giữa Giáo Hội Việt Nam với các Giáo Hội trong khu vực, và bằng các cuộc hội thảo cũng như các khoá đào tạo ngắn hạn, cũng được đề xuất.

 

GSVN

VỀ MỤC LỤC

MỘT CÁI NHÌN MỚI

GIÁO XỨ LÀ MỘT CỘNG ĐOÀN HIỆP THÔNG

 

GIÁO XỨ 

Chúng ta không thể nào sống cô độc lẻ loi như một hòn đảo giữa biển khơi, hay như một pháo đài biệt lập. Trái lại, chúng ta sống là sống với người khác trong một cộng đoàn, trong một xã hội. Về phương diện tôn giáo, cộng đoàn đầu tiên, xã hội đầu tiên chúng ta sống với, đó là gia đình, tiếp đến là giáo xứ. Vậy giáo xứ là gì ?

Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã đưa ra một định nghĩa như sau :

“Giáo xứ là nơi thông thường cho tín hữu qui tụ lại để được lớn lên trong đức tin, để sống màu nhiệm hiệp thông Giáo hội và tham gia vào sứ mạng của Giáo hội.” (Ecclesia in Asia số 25).

Vậy chúng ta phải sống tinh thần hiệp thông trong giáo xứ như thế nào, hay nói cách khác, chúng ta phải làm gì để giáo xứ trở thành một cộng đoàn hiệp thông ?

 

CHỦ CHĂN HIỆP THÔNG VỚI GIÁO DÂN

Như chúng ta đã biết : giáo xứ là một cộng đoàn, là một xã hội vì thế phải có những người đứng đầu, những vị lãnh đạo. Người đứng đầu và lãnh đạo trong giáo xứ thường là các linh mục, chúng ta gọi chung bằng một danh từ đó là những vị chủ chăn. Để tạo được một bàu khí hiệp thông, những vị chủ chăn cần lưu ý tới một số điểm sau đây :

 

- Tinh thần phục vụ : 

Hẳn chúng ta còn nhớ, trong Phúc âm có lần Chúa Giêsu đã xác quyết với các môn đệ : “Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em. Và ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em”. (Mt 20,26-28). Vì thế, mọi chức vụ trong Giáo hội là để phục vụ, kể cả chức vụ Linh mục :

“Các chủ chăn trong Giáo hội noi gương Chúa phải phục vụ lẫn nhau và phục vụ các tín hữu khác.” (GH số 32).

“Giáo dân cũng có quyền được các chủ chăn có chức thánh ban phát dồi dào các ơn trợ lực chứa đựng trong các kho tàng thiêng liêng của Giáo hội, đặc biệt là Lời Thiên Chúa và các bí tích.” (GH số 37).

 

- Tinh thần cha con.

Tinh thần phục vụ này được biểu lộ trong mối liên hệ cha-con giữa các chủ chăn và  các tín hữu :

“Linh mục phải săn sóc các tín hữu như những người cha trong Chúa Kitô, vì đã sinh họ cách thiêng liêng  nhờ phép Thánh tẩy và giáo huấn (1Cor 5,15 và 1P 1,23). (GH số 28)

 

- Nêu gương cho đoàn chiên. 

“Nêu gương cho đoàn chiên (1P 5,3), Linh mục phải làm sao hướng dẫn và phục vụ cộng đoàn địa phương của mìnnh để họ xứng đáng mang danh hiệu Giáo hội Thiên Chúa (1Cor 1,2; 2Cor 1,1), là danh hiệu riêng biệt  của toàn thể dân  Thiên Chúa, là dân duy nhất.

 

- Tinh thần cộng tác. 

Để tạo được một sự cộng tác chân thành, các vị chủ chăn phải :

* Chấp nhận vai trò của giáo dân trong cộng đoàn Dân Chúa :

“Phần các vị chủ chăn có chức thánh, các ngài phải nhìn nhận và nâng cao phẩm giá  và trách nhiệm của giáo dân trong Giáo hội…” (GH số 37).

* Chấp nhận những ý kiến đóng góp :

“Các ngài nên sẵn sàng chấp nhận những ý kiến khôn ngoan của họ.” (GHI số 37).

* Xem xét những khát vọng của họ để đưa ra những chương trình mục vụ thích hợp :

“Với tinh thần cha con, các ngài hãy cẩn thận xem xét, trong Chúa Kitô, những kế hoạch, thỉnh cầu và khát vọng của họ.

* Giáo dân ngày nay tương đối đã trưởng thành, chứ không còn thái độ “gọi dạ bảo vâng”, vì thế chủ chăn cần phải tôn trọng sự tự do :

“Đàng khác, chủ chăn phải nhìn nhận và tôn trọng sự tự do chính đáng của mọi người trong lãnh vực trần thế.” (GH số 37).

Đặc biệt phải tín nhiệm họ và trao cho họ những công việc cụ thể cần phải làm :

“Các ngài nên tin cẩn giao cho họ những công tác để họ phục vụ Giáo hội, cho họ tự do và quyền hạn để hành động. Hơn nữa, các ngài cũng nên khuyến khích họ tự đảm lấy trách nhiệm.” (GH số 37)

 

- Những người cần được quan tâm. 

Các chủ chăn cần tìm ra những phương cách hữu hiệu để hướng dẫn mọi thành phần Dân Chúa, nhất là người nghèo :

“Thế nên, các nghị phụ Thượng Hội Đồng thúc giục các vị chủ chăn hãy nghĩ ra những phương cách mới mẻ và hữu hiệu để chăn dắt các tín hữu, làm sao cho mỗi người, nhất là người nghèo cảm nhận được mình là một thành phần thực thụ của giáo xứ và của toàn thể Dân Chúa.” (Ecclesia in Asia số 25).

* Tuy nhiên, các vị chủ chăn cũng nên lưu tâm đến giới trẻ :

“Thượng Hội Đồng lưu ý đặc biệt hơn nữa giới trẻ là thành phần mà giáo xứ cần phải tạo nhiều điều kiện hơn để họ hiệp thông và cộng tác.” (Ecclesia in Asia số 25).

* Những người bỏ đạo :

“Như mục tử tốt lành, linh mục còn phải đi tìm (Lc 15,4-7) những người đã lãnh nhận phép thanh tẩy trong Giáo hội công giáo, nhưng đã xao lãng không lãnh nhận các bí tích hay đã mất đức tin.” (GH số 28).

Đồng thời đặc biệt giúp đỡ những nhóm, những cộng đoàn “nhỏ và   đẹp” :

“Các nghị phụ Thượng Hội Đồng nhấn mạnh tới giá trị của các cộng đoàn Giáo hội cơ bản như một phương thế hữu hiệu để đẩy mạnh sự hiệp thông và cộng tác trong các giáo xứ  và giáo phận như một lực lượng thực sự cho công cuộc phúc âm hóa. Những tập thể này còn giúp các đoàn viên Tin mừng trong tinh thần yêu thương huynh đệ và phục vụ, từ đó trở thành điểm khởi hành vững chắc cho một xã hội mới, biểu hiện một nền văn minh tình thương.” (Á Châu số 95).

 

GIÁO DÂN HIỆP THÔNG VỚI CHỦ CHĂN. 

Công đồng đã định nghĩa :

“Giáo dân là tất cả những Kitô hữu không thuộc hàng giáo sĩ và bậc tu trì được Giáo hội công nhận; nghĩa là những Kitô hữu đã được tháp nhập vào Thân thể Chúa Kitô nhờ phép Thanh tẩy, đã trở nên dân Thiên Chúa và tham dự vào chức vụ tư tế, tiên tri và vương giả của Chúa Kitô theo cách thức của họ. Họ là những người đang thực hiện sứ mệnh của toàn dân Kitô giáo trong Giáo hội và trên trần gian theo phận vụ riêng của mình.” (GH số 31).

Là phần tử của Giáo hội, người giáo dân cũng có bổn phận vào sự phát triển của Giáo hội : “mọi người cùng góp phần vào công cuộc chung, tùy theo cách thức của mình.” (GH số 30). Thực vậy, nét đặc sắc của người giáo dân đó là họ sống giữa trần gian : Tính cách trần thế là tính cách riêng biệt và đặc thù của giáo dân (GHI số 31). Họ đem lại nhiều lợi ích cho Giáo hội : “Các chủ chăn của Dân thánh biết rõ giáo dân giúp ích rất nhiều cho toàn thể Giáo hội.” (GH số 30). Nhưng theo phương thế riêng của mình bởi vì họ sống giữa lòng cuộc đời :

“Vì ơn gọi riêng, giáo dân có bổn phận tìm kiếm nước Thiên Chúa bằng cách làm các việc trần thế và xếp đặt chúng theo ý Thiên Chúa. Họ sống giữa trần gian, nghĩa là giữa tất cả cũng như trong từng công việc và bổn phận trần thế, giữa những cảnh sống thường ngày trong gia đình và ngoài xã hội : tất cả những thứ đó dệt thành cuộc sống của họ. Đó là nơi Thiên Chúa gọi họ, để dưới sự hướng dẫn của tinh thần Phúc âm, như men bên trong, họ thánh hóa thế giới bằng việc thi hành những nhiệm vụ của mình…” (GH số 31).

“Giáo dân được đặc biệt kêu mời làm cho Giáo hội hiện diện và hoạt động  nơi và trong những hoàn cảnh mà nếu không có họ, thì Giáo hội sẽ không trở thành muối của thế gian.” (GH số 33).

Họ làm chứng bằng chính cuộc sống cá nhân và gia đình của họ :

“Công cuộc rao giảng Phúc âm đó, nghĩa là sự loan báo Chúa Kitô bằng đời sống, chứng tá và lời nói, mang một sắc thái và một hiệu quả đặc biệt vì được thể hiện trong những hoàn cảnh chung của trần gian.” (GH số 35).

“Có một bậc sống rất giá trị để thể hiện nhiệm vụ đó, bậc sống được một bí tích đặc biệt thánh hóa, đó là đời sống hôn nhân và gia đình. Gia đình là môi trường hoạt động và trường học tuyệt diệu cho việc tông đồ giáo dân. Từ gia đình, Kitô giáo thấm nhập vào các tổ chức cuộc sống và dần dần biến đổi các tổ chức ấy.” (GH số 35).

Như vậy, “trước mặt nhân loại, mỗi giáo dân phải là chứng nhân của sự phục sinh và sự sống của Chúa Giêsu, đồng thời là dấu hiệu của Thiên Chúa hằng sống. Tất cả và mỗi người góp phần nuôi dưỡng thế giới bằng những hoa trái thiêng liêng và truyền bá cho thế gian tinh thần của những người nghèo khó, hiền lành và hiếu hòa, những người mà Phúc âm Chúa đã tuyên bố là có phúc. Tóm lại, người Kitô hữu hãy làm cho thế giới sống như linh hồn làm cho thân xác sống.” (GH số 33).

Người giáo dân phải khéo léo tìm hiểu sâu xa hơn chân lý Chúa mạc khải, để khả dĩ có thể hiệp thông và giúp nhau nên thánh :

“Giáo dân phải giúp nhau sống đời thánh thiện, nhờ những việc trần thế, để thế gian thấm nhuần tinh thần Chúa Kitô và đạt đến cùng đích một cách hữu hiệu hơn trong công lý, bác ái và hòa bình.” (GH số 36).

Đồng thời, họ còn có bổn phận phải liên kết với chủ chăn. Như trong một thân thể, mỗi chi thể tuy khác biệt những vẫn hiệp nhất để đem lại sức sống cho toàn thân :

“Thực vậy, nếu Chúa phân biệt những thừa tác viên có chức thánh với các thành phần khác của Dân Thiên Chúa, thì sự phân chia này vẫn hàm chứa một sự hiệp nhất, vì chủ chăn và các tín hữu khác liên kết với nhau do những mối dây liên hệ chung.” (GH số 32).

“Phần các tín hữu phải sẵn lòng hợp tác với các chủ chăn và những người giảng dạy.” (GH số 32).

“Giáo dân còn được mời gọi góp phần trực tiếp bằng nhiều cách và công cuộc tông đồ của hàng giáo phẩm.” (GH số 33).

Để sự cộng tác được tốt đẹp và mang lại lợi ích, người giáo dân cần phải :

* Thẳng thắn trình bày những ý kiến xây dựng của mình :

“Như con cái Thiên Chúa và như anh em trong Chúa Kitô, họ cũng sẽ trình bày với các vị ấy những nhu cầu và khát vọng của mình một cách tự do và tin cẩn. Nhờ sự hiểu biết, khả năng chuyên môn và uy tín của họ, họ có thể và đôi khi còn có bổn phận phải bày tỏ cảm nghĩ mình về những việc liên quan đến lợi ích của Giáo hội.

* Chấp nhận những quyết định của các vị chủ chăn :

“Như mọi tín hữu khác, với tinh thần vâng lời của người Kitô hữu, giáo dân cũng hãy mau mắn chấp nhận những điều mà các chủ chăn có nhiệm vụ thánh đại diện Chúa Kitô đã quyết định với tư cách những thày dạy và những nhà lãnh đạo trong Giáo hội; làm như thế, họ đã theo gương Chúa Kitô đấng đã vâng lời cho đến chết để mở đường hạnh phúc của sự tự do con cái Thiên Chúa cho tất cả mọi người.” (GH số 37).

 

KẾT LUẬN

Chính sự cộng tác chân thành giữa chủ chăn và giáo dân sẽ mang lại những hoa trái tốt đẹp cho Giáo hội :

“Hy vọng rằng sự liên lạc mật thiết giữa giáo dân và chủ chăn sẽ đem lại rất nhiều lợi ích cho Giáo hội : Thực vậy, nhờ sự liên lạc đó, giáo dân ý thức trách nhiệm mình một cách vững vàng hơn; lòng hăng say của họ được phát triển, và họ góp sức  dễ dàng hơn vào công việc của các chủ chăn. Phần các chủ chăn, nhờ sự trợ lực kinh nghiệm của giáo dân, các ngài có thể phán đoán minh bạch và đúng đắn hơn về những vấn đề thiêng liêng cũng như trần thế; như vậy, toàn thể Giáo hội được vững mạnh nhờ tất cả mọi chi thể, sẽ chu toàn hữu hiệu hơn sứ mệnh mình đối với sự sống của thế gian.” (GHK số 242).

GSVN 

VỀ MỤC LỤC

NHẬN HIỂU Ý NGHĨA VÀ MỤC ĐÍCH SÂU XA HƠN CỦA ƠN GỌI LINH MỤC

 

Tác phẩm Giáo Hội Cần Loại Linh Mục Nào? (tiếp theo)

Lm Giuse Lê Công Đức chuyển ngữ từ bản tiếng Anh:

PRIESTHOOD IMPERILED,   Tác giả: Lm. BERNARD HARING, C.SS.R.

 

Tiếng gọi đặc biệt dành cho Matthêu (Lêvi) là một ví dụ hùng hồn về ơn gọi nhưng không đối với giáo dân cũng như giáo sĩ. Khi Đức Giêsu đi ngang qua, Ngài trông thấy một người đàn ông tên là Matthêu đang ngồi ở bàn thu thuế; và Ngài nói với ông: “Hãy theo Ta”. Và ông đứng dậy đi theo Ngài. Và khi Đức Giêsu ngồi dùng bữa tối trong nhà, nhiều người thu thuế và những kẻ tội lỗi cùng dùng bữa với Ngài và các môn đệ Ngài (Mt 9,9-10).

tiếng gọi dành cho Lêvi

và bữa ăn Messianic

Lêvi là một thiên tài tôn giáo thực sự ở chỗ ông nhận ra và diễn tả tính nhưng không này một cách sáng tạo ngay từ đầu: “Nếu Thầy mời tôi, một kẻ xấu, một tên thu thuế bị khinh bỉ, lẽ nào Ngài không tiếp đón các bạn cũ của tôi nhỉ?” Cùng ngày hôm ấy, Lêvi dọn bữa cho Đức Giêsu và cho các bạn hữu của ông. Lêvi có nhận ra rằng hành động ấy của ông là biểu tượng của bữa ăn Messianic và của tính mới mẻ của Nước Trời không? Đối với chúng ta, hành động ấy của Lêvi là một diễn tả rất thuyết phục về ý nghĩa ơn gọi của chính chúng ta.

Lòng hiếu khách của Lêvi, đã phá đổ các rào chắn của con người và tất cả những thói trịch thượng ngạo mạn, đã không tránh được sự dòm ngó của những người Pharisêu. Nhóm Pharisêu hỏi các môn đệ Đức Giêsu: “Tại sao Thầy của các anh ăn uống cùng với những người thu thuế và những kẻ tội lỗi? “ (Mt 9,11). Cũng vậy, cả lịch sử câu chuyện chúng ta được chấp nhận cách ưu biệt vào kết hợp với Thánh Thể được chứng minh trong câu hỏi của những người Pharisêu, một câu hỏi phát xuất từ thái độ loại trừ. Cốt lõi của lòng thương xót và của tình yêu đầy sức chữa trị của Đức Giêsu trong bối cảnh này được tóm kết trong câu trả lời đầy thách đố của Ngài: “Những người lành mạnh không cần đến thầy thuốc, nhưng những người đau yếu mới cần. Hãy đi và học biết điều này: ‘Ta muốn lòng nhân từ chứ không muốn hy lễ’. Vì Ta đến không phải để kêu gọi những người công chính nhưng là những tội nhân” (Mt 9,12-13).

Có lẽ thời nào cũng có một tầng lớp linh mục nào đó không học biết được và không thể hiện được nhãn quan căn bản về tình thương và lòng khiêm nhường đầy sức chữa trị của Đức Giêsu, thay vào đó, các vị linh mục ấy sẽ cổ xúy một cái nhìn sai lạc về “hy lễ”. Tuy nhiên, cũng như Mátthêu, các linh mục đích thực không thể tìm thấy hạnh phúc chân thực trong việc bước theo Đức Giêsu nơi sự phân loại và loại trừ bất cứ ai ra khỏi bữa ăn Messianic với luận cứ rằng: “Họ ở trong tình trạng tội trọng một cách khách quan”.

Về vấn đề này, cũng như trong các vấn đề khác, những ai sống một đời sống đạo đích thực sẽ không giấu được nỗi thảng thốt, niềm thích thú và một cảm nhận bên trong về tấm lòng nhân hậu tuyệt vời của Đức Kitô, tấm lòng ấy giúp họ có thể bẻ gãy mọi rào chắn của con người chống lại thói tự cho mình là công chính. Dĩ nhiên, những phẩm chất này cũng bao gồm một khả năng biện phân Kitô giáo rành mạch tiên vàn giúp cho tất cả chúng ta là những linh mục biết cảnh giác đừng loại chính mình ra khỏi niềm vui của bữa ăn Messianic do bởi nhãn quan tự cho mình là công chính và thiếu vắng một tấm lòng. Chúng ta đừng bao giờ nghĩ hay nói điều gì có tính qui kết người khác là tội nhân trước khi thú nhận rằng cả chúng ta nữa cũng là những tội nhân đáng thương. Trong bối cảnh này, chúng ta tự hỏi các linh mục có nên luôn luôn cố trao ấn tượng rằng mình là những con người thánh thiện hay ít nhất mình là những con người không có gì sai quấy? Rõ ràng câu hỏi ấy cần được trả lời sáng tỏ.

Nhà văn nữ Ba Lan Mary Winowska kể câu chuyện sau đây về một cha sở. Trước mắt tất cả giáo dân trong xứ, vị linh mục này là một mục tử tốt lành thánh thiện tuyệt vời. Dường như không ai có thể chê ngài về bất cứ điều gì cả. Ngày nọ, một công an chìm của Gestapo đến gặp ngài, tự giới thiệu, và đưa ra với ngài một đề nghị bất ngờ: “Chúng tôi tin rằng ông sẵn lòng hợp tác với chúng tôi bằng cách đều đặn cung cấp cho chúng tôi những thông tin trong nội bộ Giáo Hội. Công việc này không ai có thể làm tốt hơn ông, vì ông rất được tín nhiệm bởi các giám mục và các linh mục khác.” Cha sở trả lời không do dự: “Không được. Chúa không cho phép tôi làm điều đó!” Viên công an chìm rút trong túi ra một tấm ảnh, chìa cho cha sở xem. Đó là ảnh một phụ nữ đang ẵm đứa con nhỏ trên tay. Anh ta nhìn thẳng vào mắt vị linh mục, hỏi gằn từng tiếng: “Ông không phải là cha của đứa trẻ này đấy chứ?”

Hoàn toàn bất ngờ trước tang chứng ấy, vị linh mục trầm ngâm giây lát, rồi xin viên công an cho mình có thêm thời gian để suy nghĩ về đề nghị trên kia của anh ta: “Anh cho phép tôi khất đến Chúa Nhật tới.”

Chúa Nhật tuần ấy, mọi người tề tựu đến nhà thờ để tham dự Thánh Lễ như thường lệ. Và một sự kiện hết sức bất ngờ đã xảy ra. Vào đầu Thánh Lễ, thay vì đọc Kinh Cáo Mình theo nghi thức thông thường, vị linh mục xưng thú tất cả những tội lỗi của mình trước mặt toàn thể cộng đoàn giáo dân, kể cả những tội mà Gestapo không hề biết. Trà trộn giữa các tín hữu trong nhà thờ hôm ấy, có hai viên công an chìm của Gestapo. Trong nước mắt, vị linh mục xin cộng đoàn giáo dân tha thứ cho mình và cho phép mình xin chuyển đi nơi khác để đền tội. Sau một thoáng im bặt, cả nhà thờ bắt đầu xôn xao lên. Mọi người đều sa lệ vì cảm kích. Họ nhất tề la lên: “Xin cha đừng đi đâu cả, xin cha tiếp tục ở lại săn sóc chúng con. Chúng con vốn kính mến cha, hôm nay chúng con càng kính mến cha và cảm thấy cha gần gũi hơn bao giờ!” Nhờ sự thú nhận công khai của mình, vị linh mục nói trên, qua tình trạng tội lỗi của ông, đã tỏ ra ông là “một người trong chúng ta” với các giáo dân của ông.

Để trả lời cho câu hỏi căn cơ trên kia, rõ ràng người linh mục phải hiểu rõ mình được gọi sống thánh thiện tới mức trở thành một nguồn khích lệ cho mọi người trên con đường tiến tới sự hoàn thiện Kitô giáo. Tuy nhiên, bất cứ sự ngụy tạo nào của sự thánh thiện cũng sẽ là một mô ụ gây cản trở cho nỗ lực trên. Linh mục nào không thể nhận ra rằng mình cũng sống nhờ vào sự thứ tha của Chúa và rằng mình cũng sai lầm thì linh mục ấy sẽ không thể nhận được một sự tín nhiệm nào cả.

Sẽ thật có ý nghĩa việc chúng ta chọn Lêvi Matthêu như một vị quan thầy. Làm thế, chúng ta có thể trở nên những linh mục có hiệu năng nhiều hơn, trong chừng mực chúng ta sẵn sàng hơn để mời những kẻ bên ngoài bước vào bàn ăn Messianic của Đức Giêsu; và làm thế, chúng ta sẽ thấy mình được đón nhận niềm nở hơn bởi chính Đức Giêsu. Cũng như Lêvi, chúng ta cần nhận hiểu sâu xa hơn và hiện thực hóa lời của Đức Giêsu: “Ta không đến để xét xử nhưng là để cứu độ thế gian” (Ga 12,47).

Càng khiêm tốn ca ngợi tình yêu chữa trị của Thiên Chúa đối với mọi con người, chúng ta càng có thể – nhờ ân sủng Thiên Chúa - trở thành những “thầy thuốc bị thương” đầy hiệu năng. Rõ ràng, các linh mục không bao giờ được phép coi bất cứ ai thuộc trách nhiệm săn sóc của mình là “hết thuốc chữa”. Mọi cảm quan và hoạt động mục vụ của chúng ta phải được thấm nhuần bởi ý thức ngày càng hơn về tình yêu đi bước trước của Thiên Chúa, một tình yêu vô hạn và chúng ta chỉ là những kẻ bất xứng - ngay cả khi chúng ta cảm nghiệm về sự thiếu thốn của mình. Tất cả những gì chúng ta có thể làm chỉ là tiếp tục sẵn sàng để cho tấm lòng quảng đại của Thiên Chúa hành động và, khi nhìn nhận tấm lòng ấy, chúng ta thể hiện sự quảng đại của Thiên Chúa trong thái độ mục vụ của chúng ta, trong việc khích lệ người khác một cách không mệt mỏi. Chúng ta hãy để cho Lêvi hướng dẫn mình!

việc rửa chân

tại Bữa Tiệc Ly

Biến cố phép rửa của Đức Giêsu ở sông Giođan và việc Ngài rửa chân cho các tông đồ tại Bữa Tiệc Ly là hai sự kiện hoàn thành lẫn nhau. Khi nâng việc rửa chân ấy lên hàng nghi lễ, Đức Giêsu muốn diễn tả phép rửa mà Ngài tự nguyện lãnh nhận trong máu của chính Ngài để thứ tha tội lụy và để cho tình yêu phi bạo lực được khải thắng. Khi chọn làm công việc rửa chân, một công việc thường được gán cho các tôi tớ thấp hèn nhất, Đức Giêsu muốn xác nhận rằng hành động khiêm nhường này – vốn soi sáng cho toàn bộ cuộc sống và cái chết của Ngài – phải được coi là chuẩn mực cao nhất, đặc biệt đối với những ai được gọi để chia sẻ sứ mạng loan báo Tin Mừng của Ngài và sứ mạng hiệp nhất tất cả các môn đệ trong tình yêu của Ngài.

Mặc dù Tin Mừng Gioan mang sắc thái nổi bật là một Tin Mừng về Thánh Thể, nó vẫn không đưa ra một trình thuật minh nhiên nào về cơ chế của Thánh Thể. Cũng như nhiều học giả Thánh Kinh khác, tôi xem bản trình thuật rửa chân trong bối cảnh của nó là một trình thuật tuyệt vời về Thánh Thể. Đó là một chìa khóa không thể thiếu để nhận hiểu sâu xa hơn về cả Thánh Thể lẫn chức linh mục.

Sau khi rửa chân cho các môn đệ, Đức Giêsu mạc khải cho chúng ta mối quan hệ độc đáo của Ngài với Chúa Cha. Hơn nữa, Ngài mạc khải cho chúng ta biết Cha là ai qua nghi thức rửa chân này, qua việc Ngài tự hiến trở thành bánh ban sự sống và, cuối cùng, qua việc Ngài đổ máu trao ban nguồn sống. Gioan đã nhấn mạnh mạc khải này trong lời cầu nguyện của Đức Giêsu: “Lạy Cha, giờ đã đến! Xin Cha tôn vinh Con Cha để Con Cha tôn vinh Cha. Thật vậy, Cha đã ban cho Người quyền trên mọi phàm nhân là để Người ban sự sống đời đời cho tất cả những ai Cha đã ban cho Người. Mà sự sống đời đời đó là nhận biết Cha là Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Giêsu Kitô“ (Ga 17,1-3).

Có một số người kiên quyết chống lại việc truyền chức linh mục cho phụ nữ dựa vào giả thuyết rằng không có phụ nữ nào hiện diện tại Bữa Tiệc Ly, và do đó họ kết luận rằng chức linh mục Tân Ước rõ ràng chỉ dành riêng cho nam giới. Có lẽ không có phụ nữ nào hiện diện ở đó, nhưng đó là điều ta chỉ có thể giả đoán thôi. Điều quan trọng hơn, đó là sự kiện rằng phụ nữ có hiện diện với Đức Giêsu, có liên hệ một cách tích cực trong đời sống sứ vụ của Ngài, và phụ nữ tiếp tục liên hệ tích cực như thế bằng những cách thế đầy ý nghĩa và có sắc thái linh mục trong quá trình xây dựng Hội Thánh.

Các phụ nữ không chỉ đi theo Đức Giêsu trong tư cách là những người tôi tớ khiêm nhường, mà họ còn trung thành ở lại dưới chân thập giá khi những người khác đã bỏ đi mất. Người đầu tiên gặp thấy Chúa Phục Sinh vào sáng sớm ngày đầu tuần và loan báo tin mừng đó chính là một phụ nữ. Biến cố này chúng ta chỉ cử hành trong Thánh Lễ một cách xứng đáng khi chúng ta biết từ chối mọi thái độ trịch thượng và biết tự biến mình – cùng với những phụ nữ ấy – trở thành những tôi tớ của Người Tôi Tớ Giavê.

Gioan, người môn đệ được Chúa yêu mến và người bạn trung thành của Phê-rô, đã cho thấy rõ rằng Phê-rô phải khó khăn biết bao để cho phép mình đi vào trong trung tâm của mầu nhiệm Đức Kitô nơi hành động rửa chân. Dĩ nhiên, nghi lễ này chẳng có ý nghĩa gì đối với bất cứ ai không thể đón nhận nó như luật nền tảng của đời sống Kitôhữu và nhất là của sứ vụ tông đồ của người linh mục. Khi Phê-rô hỏi phải chăng Đức Giêsu sắp rửa chân cho ông, Đức Giêsu trả lời: “Bây giờ anh không hiểu điều Thầy sắp làm, nhưng rồi anh sẽ hiểu.” Bị sốc, Phê-rô nói: “Không đời nào Thầy lại rửa chân cho con.” Đức Giêsu đáp: “Nếu Thầy không rửa chân cho anh, anh sẽ không được đồng bàn với Thầy” (Ga 13,7-8). Phê-rô chỉ đầu hàng khi nhận được tối hậu thư đó, dù ông không nhận ra tầm mức đầy đủ ý nghĩa của nó đối với mình. Cũng như Phê-rô, chúng ta chỉ ý thức  mơ hồ về ý nghĩa của tối hậu thư nói trên khi chúng ta đang trên hành trình tiến đến một nhận thức hiện sinh trọn vẹn hơn.

Một phần nào đó, nguyên nhân của sự bối rối nơi Phê-rô cũng như nơi những người khác là do bởi hình ảnh sai lệch về Đấng Mêsia vốn rất phổ biến thời ấy. Vào thời của Đức Giêsu, những người anawim, tức những con cái It-ra-en khó nghèo và hèn mọn – như Maria và Giu-se – hát và rao giảng những Bài Ca của Người Tôi Tớ với hết tâm hồn họ. Tuy nhiên, đối lập với niềm hy vọng của những người anawim, nơi giới thượng lưu có tồn tại một ngưỡng vọng về một vị anh hùng dân tộc đầy uy lực sẽ giải phóng It-ra-en khỏi ách thống trị Rôma.

Suy nghĩ về Tin Mừng Maccô, chúng ta sẽ ngạc nhiên khi đầu tiên nhận thấy rằng trong nhiều trường hợp, Đức Giêsu được mô tả như một Đấng yêu cầu các tông đồ không được tiết lộ Ngài là Mêsia. Maccô có lý do chính đáng để trình bày như thế. Vì Phê-rô và những người theo Đức Kitô bám chặt vào một Mêsia quyền lực, nên dường như vào thời điểm ấy họ không thể tin tưởng rằng Con Người, rằng “một người trong chúng ta” ấy chính là Đấng Mêsia. Chỉ khi các tông đồ trở nên hoàn toàn vỡ mộng với ý niệm về quyền lực như nói trên, họ mới có thể – trong niềm tin sâu xa vào Người Tôi Tớ của Thiên Chúa – nhận hiểu Ngài là Đấng Mêsia đích thực và đầy sức mạnh.

Khi áp dụng sự thật này cho chính mình, tôi nhận ra rằng chỉ trong mức độ tôi “biết” Người Tôi Tớ của Thiên Chúa, tức Con Người, và chỉ trong toàn thể con người và cách sống của tôi trong tư cách là người tôi tớ của Người Tôi Tớ ấy, mới có thể có bất cứ ý nghĩa nào trong lời ca ngợi Đức Giêsu là Đấng Mêsia. Trong mức độ mà bất cứ linh mục, phó tế hay người được đào tạo mục vụ nào còn bám chặt vào đặc quyền đặc lợi, chức quyền, vinh dự thế gian hay cố níu giữ một thói trịch thượng nào đó, thì bất cứ gì được nói về “địa vị” của chức linh mục thừa tác và chức linh mục phổ quát cũng đều trở thành rỗng tuếch, sai lạc và hoàn toàn giả trá.

Trong mọi thời đại, Thiên Chúa đã gửi các tư tế có năng lực ngôn sứ đích thực đến cho Giáo Hội và cho thế giới. Các vị này – với lòng khiêm nhường sâu thẳm và với sự sáng suốt tuyệt vời – đã qui hướng lòng trí vào phép rửa của Người Tôi Tớ Giavê, vào sự kiện Con Người rửa chân cho các môn đệ, vào tình yêu mãnh liệt của Ngài đối với những người nghèo khổ và bất lực nhất trên mặt đất này, và cuối cùng, vào thái độ Ngài sẵn sàng đảm nhận thập giá. Tất cả những tiêu điểm ấy được cử hành trong bữa ăn Thánh Thể – nơi mà Đức Kitô Phục Sinh hiện diện một cách thâm sâu.

sự kệch cỡm

của những cuộc

tranh giành địa vị cao thấp

Nếu chúng ta không lột trần những khuynh huớng kiếm tìm vinh dự và mọi hình thức tự đề cao mình, chúng ta sẽ bị sốc trước sự thật khi đọc trình thuật Thánh Kinh về cuộc tranh luận lố bịch giữa các tông đồ trong đó các ông cãi nhau xung quanh vấn đề ai là người lớn nhất. Thật là không thể tưởng tượng! Liền sau việc Đức Giêsu rửa chân cho các môn đệ và giải thích về ý nghĩa thâm sâu của hành động đó, chúng ta đọc thấy:

“Các ông còn cãi nhau sôi nổi xem ai trong Nhóm được coi là người lớn nhất. Đức Giêsu bảo các ông: “Vua các dân thì dùng uy mà thống trị dân, và những ai cầm quyền thì tự xưng là ân nhân. Nhưng anh em thì không phải như thế, trái lại, ai lớn nhất trong anh em, thì phải nên như người nhỏ tuổi nhất, và kẻ làm đầu thì phải nên như người phục vụ. Bởi lẽ, giữa người ngồi ăn với kẻ phục vụ, ai lớn hơn ai? Hẳn là người ngồi ăn chứ? Thế mà, Thầy đây, Thầy sống giữa anh em như một người phục vụ” (Lc 22, 24-27).

Cũng vậy, chính Giacôbê và Gioan, qua mẹ các ông, đã xin chỗ vinh dự bên cạnh Đức Giêsu. Phải chăng họ không nhận ra rằng lời yêu cầu ti tiện ấy của họ làm đau lòng Đức Giêsu biết bao? Đức Giêsu đã trả lời họ: “Các ngươi không biết các ngươi xin gì. Các ngươi có thể uống chén Ta uống, và nhận phép rửa mà Ta nhận không?” (Mc 10,38).

Bản văn này rất quan trọng cho chúng ta, bởi vì ở đây Đức Giêsu yêu cầu chúng ta hiểu phép rửa của chính chúng ta trong quan hệ với phép rửa của Ngài trong tư cách là Người Tôi Tớ phi bạo lực – một phép rửa bằng máu. Ở đây đặt ra cho các Kitôhữu và nhất là cho các linh mục một nhận thức hết sức quan trọng: đó là, mọi sự phải được cân nhắc lại. Hoặc chúng ta chấp nhận sự chọn lựa nền tảng để bước theo Đấng-Mêsia-Người-Tôi-Tớ một cách trung thành, khiêm tốn và can đảm, dù phải chịu đau khổ cho đến chết nếu cần, hoặc chúng ta vẫn tiếp tục làm nô lệ cho thói kỳ thị và lòng kiêu ngạo.

Maccô 9, 30-37 là một kiệt tác về văn chương và sư phạm. Dưới ngòi bút của Maccô, Đức Giêsu trình bày sứ điệp căn bản của Ngài cho các tông đồ như sau: “Con Người sẽ bị nộp trong tay người ta, họ sẽ giết Người, và ba ngày sau, Người sẽ sống lại“ (Mc 9,31).

Lúc ấy Đức Giêsu bước đi trước các ông - tiến về sự hoàn thành những gì Ngài đã giải thích. Trên đường đi, các tông đồ giữ một khoảng cách với Ngài để Ngài không nghe những gì họ bàn tán. Nhưng Ngài biết tỏng! Khi thầy trò quây quần trong nhà ở Carphanaum, Đức Giêsu hỏi: “Anh em tranh luận với nhau về điều gì khi đi đường?” Họ im lặng, vì chủ đề cuộc tranh luận của họ là ai lớn nhất giữa họ. Phải chăng các ông có một lương tâm tệ hại đến nỗi các ông ước mong rằng Đức Giêsu, Đấng vừa mạc khải số phận thê thảm của Ngài, không biết những gì họ đang suy nghĩ trong đầu óc mình?

Sau hai mươi thế kỷ của lịch sử Giáo Hội, chúng ta có khôn ngoan hơn chút nào chăng? Nếu chúng ta thành thật, thì người tốt nhất trong chúng ta cũng sẽ phải nhìn nhận rằng có những lúc mình rơi vào cám dỗ muốn đề cao chính mình. Tại Công Đồng Vatican II, đã thường xuyên vang lên những cảnh giác chống lại thói hãnh thắng của Giáo Hội. Trong chính phiên họp cuối cùng, một số hồng y, thượng phụ, giám mục và một số nhà thần học – kể cả tôi – đã qui tụ lại với nhau để thảo luận một đề nghị cuối cùng cho Công Đồng, đó là: Chúng tôi đã kiến nghị rằng các Nghị Phụ Công Đồng sẽ không trở về với các giáo phận của mình mà trước hết không trịnh trọng cam kết theo tinh thần khó nghèo của người tông đồ - và trước hết là theo tinh thần đơn sơ tông đồ bằng cách tháo gỡ mọi tước hiệu đối nghịch với Tin Mừng vốn vẫn còn rất phổ biến trong tầng lớp lãnh đạo Giáo Hội. Vài trăm giám mục đã sẵn sàng cho bước này. Tuy nhiên, do thời gian gấp rút lúc bấy giờ, đề nghị ấy đã không bao giờ được thông qua. Tôi xác tín rằng rất có thể chúng ta đã tránh được cho Giáo Hội rất nhiều rắc rối sau Công Đồng nếu chúng ta đã chính thức biểu quyết và trung thành tuân giữ một quyết định rõ ràng về vấn đề này.

Một cách vô cùng sáng tỏ, câu chuyện Đức Giêsu chịu cám dỗ (Mt 4, 1-11) hoàn toàn lột trần mưu chước Satan cám dỗ người ta sử dụng tôn giáo để vụ lợi, để đề cao chính mình, để tranh thủ quyền lực thế gian; và những cám dỗ này được thấy là trực tiếp đối nghịch với ơn gọi của Đấng-Mêsia-Người-Tôi-Tớ. Những cám dỗ khủng khiếp ấy nguy hiểm một ngàn lần hơn so với – chẳng hạn – việc thủ dâm, việc quan hệ tình dục tiền hôn nhân, việc ngừa thai ... và bất cứ ưu tư  nào khác liên quan đến lãnh vực tính dục mà Giáo Hội thường xuyên xôn xao bàn luận và khắc ghi sâu trong tâm trí người tín hữu.

Tình trạng phóng thể tôn giáo và nhất là tình trạng xuống cấp của mạc khải trọn vẹn về Đức Giêsu, Người Tôi Tớ của Thiên Chúa, xuyên qua lòng kiêu hãnh và cao ngạo của con người, xuyên qua lòng tham quyền lực, ... tất cả đều là công trình của ma quỉ. Chúng ta cần không ngừng dốc sức để lột trần những quyến rũ ấy – trước hết nơi chính chúng ta và rồi nơi Giáo Hội và thế giới. Công việc vạch mặt những cám dỗ này chỉ có thể thực hiện được trong mức độ mà lòng trí chúng ta gắn chặt với Đức Giêsu, Người Tôi Tớ Giavê.

Đức Giêsu – người thợ mộc

Trong nhiệm cục cứu độ, Đức Giêsu ngay từ đầu được sinh ra và lớn lên trong khung cảnh nghèo. Được gọi là “con trai của bác thợ mộc”, hay đơn giản hơn: “anh chàng thợ mộc”, Ngài quen với công việc vất vả – và chúng ta có thể hình dung Đức Giêsu vui vẻ làm việc cho người ta, giúp dựng nhà cửa, đóng bàn ghế cho họ ... Khuôn mặt người thợ Giêsu ăn khớp với khuôn mặt lớn hơn của Đức-Giêsu-Người-Tôi-Tớ-Giavê, “Con Người”. Cuối cùng, khuôn mặt người thợ này cũng rất am hợp với hình ảnh Đức Giêsu chịu phép rửa ở sông Giođan giữa đám đông những người bình thường, những người đón nhận lời Gioan kêu gọi hoán cải.

Tôi còn nhớ hồi cuối thập niên 1950, nhiều người trong chúng ta đã bị sốc khi Hồng Y Giuseppe Pizzardo, vị lãnh đạo có nhiều quyền hành trong tòa thánh, đã cấm các sáng kiến về linh mục thợ với luận cứ kỳ quặc rằng vị trí của một người công nhân hạng quèn sẽ không phù hợp với phẩm cách của chức linh mục. Dĩ nhiên, phong trào này mâu thuẫn với cái nhìn của vị hồng y nói trên về chức linh mục, một cái nhìn được kết tinh từ cả một lịch sử dài của những linh mục mơ tưởng sự nghiệp, những linh mục ngay từ đầu bận tâm săn đuổi các tước vị và các đặc quyền trong Giáo Hội - những bận tâm này dẫn họ tiến thẳng đến chiếc mũ hồng y! Ý niệm linh mục thợ chắc hẳn đã làm sững sờ những giáo sĩ này, những người đầy tham vọng phấn đấu tranh thủ áo mão cân đai cũng như bao thứ rác rưởi vốn hão huyền và ngớ ngẩn hơn cả những thứ đang nằm trong tay bao kẻ cường hào trên thế gian này.

Thật mỉa mai, khi tôi viết những dòng này, một lá thư nặc danh vừa mới được gửi tới với lệnh truyền: “Ông hãy ngừng ngay chuyện phê bình Giáo Hội! Cả ông nữa cũng có thể được mặc áo tía đó.” Buồn nhất là sự thật trần trụi mà tác giả của lá thư này muốn nói lên: có một mối liên quan giữa sự vâng phục tối mặt và con đường tiến thân vốn đặc trưng một thời và hiện nay vẫn còn thúc đẩy mạnh mẽ nhiều kẻ săn tìm sự nghiệp trong Giáo Hội! Thật hoàn toàn tương phản với Đức Giêsu Người Thợ Mộc và các tông đồ của Ngài – phần đông trong họ là những ngư phủ. Ngay cả Phao-lô, người thợ dệt bố, vẫn tiếp tục công việc của mình trong khi thi hành tất cả các trách nhiệm của người tông đồ, hay như anh bạn thầy thuốc Luca vẫn duy trì công việc chữa bệnh trên đường đồng hành với Phao-lô trong sứ vụ loan báo Tin Mừng.

Khi nhìn lại chương trình cứu độ của Thiên Chúa, chúng ta thấy rằng cuộc Nhập Thể của Ngôi Lời Thiên Chúa vào trong thân phận khó nghèo, vào trong cảnh vực bần cùng hạ cấp của xã hội là một sự đối nghịch hoàn toàn với mọi hình thức cầu quyền cầu danh. Hơn tất cả các ngôn sứ trước Ngài, và ăn khớp với tôn chỉ độc đáo của Ngài là “tôn thờ Thiên Chúa trong tinh thần và chân lý”, Đức Giêsu vạch mặt và tố giác mọi sự lạm dụng tôn giáo để tranh thủ tư lợi cá nhân.

Ở đây, cần phải nhấn mạnh lại danh hiệu duy nhất mà Đức Giêsu tự gán cho mình: “Con Người” (ben adam). Thư Do Thái giải thích rõ ràng điều này như sau: “Người đã phải nên giống anh em mình về mọi phương diện, để trở thành một vị Thượng Tế nhân từ và trung tín trong việc thờ phượng Thiên Chúa” (2,17). Sau đó, cũng trong Thư này, ta đọc thấy: “Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội” (4,15).

Trong cảnh vực đức tin Công Giáo hay trong bất cứ truyền thống Kitô giáo nào, hễ bất cứ ở đâu có tồn tại một giai cấp giáo sĩ vị vọng được đúc nặn từ một hệ thống đặc quyền phân biệt hẳn họ khỏi đại chúng, thì tầng lớp ấy sẽ trở thành một thứ muối đạo đức giả nhạt nhẽo và trở thành sự mâu thuẫn trực tiếp với châm ngôn của Tin Mừng vốn tha thiết mời gọi chúng ta trở thành muối đất và ánh sáng cho đời. Như thế, trong ánh sáng của Tin Mừng, bất cứ sự phân biệt nào giữa giáo sĩ và giáo dân dựa trên đẳng cấp và đặc quyền đều hoàn toàn thô bỉ.

Ngay trong Giáo Hội sơ khai, sự phản đối việc thi hành quân dịch đã trở thành một dấu hiệu rõ ràng của tất cả các tín hữu bước theo Người Tôi Tớ phi bạo lực. Tuy nhiên, khi Giáo Hội thích nghi với những thay đổi xảy ra do sắc dụ của Constantine năm 313, một sự phân biệt mới kỳ quặc đã xuất hiện giữa các linh mục (lúc bấy giờ thật sự là “giáo sĩ”) và giáo dân. Việc từ chối thi hành quân dịch dựa trên tinh thần phi bạo lực bỗng trở thành một đặc quyền cho chỉ một tầng lớp người – đó là tầng lớp giáo sĩ – trong khi đó quần chúng thường dân được kỳ vọng là phải thi hành quân dịch nếu họ được lệnh trưng binh.

Một đàng, việc miễn quân dịch cho các linh mục có vẻ như bảo đảm cho các ngài thi hành vai trò của giáo sĩ là làm chứng cho Đức Kitô Đấng Kiến Tạo Hòa Bình, Người Tôi Tớ phi bạo lực của Giavê; nhưng đàng khác, các linh mục và các giám mục đã để mình được sử dụng nhằm khuyến khích việc thi hành quân dịch của các Kitôhữu “thường dân”. Ở đây, toàn bộ ý nghĩa của việc được rửa nhân danh Đức Giêsu, Đấng Cứu Độ phi bạo lực - vốn là đặc điểm của toàn dân tư tế của Thiên Chúa - đã hoàn toàn bị phá sản. Làm sao tôi, trong tư cách là một linh mục, có thể đòi rằng vai trò làm chứng và sự đồng hình dạng của tôi với Đức-Kitô-Đấng-Kiến-Tạo-Hòa-Bình không cho phép tôi thi hành quân dịch trong khi đồng thời tôi, trong tư cách là linh mục, lại bảo các anh em Kitôhữu của tôi rằng họ phải chấp hành một sắc luật nhà nước yêu cầu họ thi hành quân dịch?

Là một linh mục lính cứu thương trong Chiến Tranh Thế Giới Thứ Hai, tôi đã hưởng lợi từ sự miễn chuẩn này hết mức độ mà mình có thể. Nếu không có chế độ miễn chuẩn, rất có thể tôi đã phải đương đầu với một khủng hoảng luân lý nghiêm trọng, vì trong lương tâm mình, tôi không bao giờ có thể cầm súng trong cuộc chiến tranh bẩn thỉu ấy. Nói ‘hưởng lợi’, song tôi thấy cũng cần phải chỉ rõ rằng chính sách miễn chuẩn cho linh mục ấy đã đòi trả giá đắt, bởi vì trong số các đơn vị quân đội khác nhau, con số tử vong cao nhất đã thuộc về các lính cứu thương là linh mục. Tuy nhiên, sự sẵn sàng chết trong tư thế không vũ trang để phục vụ cho sự sống là một cái gì đó hoàn toàn khác với thái độ cảm tử trong khi tham gia vào việc giết đồng loại. Theo nghĩa đó, tôi đã hưởng lợi rất nhiều. Tôi có thể thêm rằng gần như mọi thành viên của Giáo Hội Hòa Bình Mennonite ở Đức đã dứt khoát từ chối tham gia quân đội, và điều xảy ra là nhiều người trong họ đã chấp nhận bị xử tử theo lệnh của Hitler để kiên trung làm chứng cho tinh thần phi bạo lực.

Dọc theo bao thế kỷ cho đến thời đại chúng ta, nhiều giám mục và giáo sĩ Công Giáo ở cả hai phía của các cuộc chiến tranh đã đóng một vai trò quị lụy rất đáng buồn – họ cổ súy sự vâng phục đối với Xê-da trong khi lẽ ra cần phải vâng phục Đức Kitô. Chỉ cần nêu ra ở đây một ví dụ của chính thế kỷ này: Khi Jagerstatter, anh bõ nhà thờ người Aùo, từ chối thi hành quân dịch “theo sự điều động của một tên tội phạm như Hitler”, cả cha sở lẫn giám mục của anh đều cố thuyết phục anh rằng thà chịu tòng quân một cách cưỡng bách hơn là phải chết. Tuy nhiên, anh ta đã tỏ ra khôn ngoan hơn và dũng cảm hơn các giáo sĩ ấy.

Trong ánh sáng của phép rửa, cuộc sống và cái chết của Đức Kitô, tôi xác tín rằng sự dấn thân thâm sâu cho tinh thần phi bạo lực và cho hòa bình là một cái gì rất cơ bản của ơn gọi Kitôhữu và ơn gọi linh mục. Trong mọi nghề nghiệp và mọi lãnh vực của đời sống, luôn cần phải chú ý thăng tiến một cơ chế công lý, tình yêu, hòa bình và phi bạo lực.

Tôi hơi ngần ngại đối với câu hỏi thường được đặt ra rằng phải chăng các linh mục nên có những quan điểm chính trị nhằm thăng tiến hòa bình, công lý, và tinh thần phi bạo lực. Dù sao, trong tư cách là linh mục và đặc biệt trong tư cách là những nhà thần học, chúng ta phải cố gắng hết sức mình để cổ võ các ơn gọi hoạt động chính trị. Đàng khác, những linh mục nào tin rằng họ phải hiện diện và hoạt động trong mọi đấu trường cuộc sống sẽ cho thấy khả năng thất bại của họ trong ơn gọi rao giảng và làm chứng cho cốt lõi tinh thần của Đức Giêsu, Người Tôi Tớ Giavê.

Trong suốt giòng lịch sử Giáo Hội, vô số nam nữ Kitôhữu hoàn toàn dấn thân cho các giá trị hòa bình và phi bạo lực của Tin Mừng đã phục vụ cho người nghèo, cho những người bệnh hoạn tật nguyền, những người bị bỏ rơi bằng những cách thức đầy sáng tạo và với tinh thần mục vụ sâu sắc. Thử nghĩ, phải chăng Giáo Hội không thể cho phép những thừa tác viên này của Đức Kitô thi hành các chức năng chuyên biệt mà cho đến nay vẫn chỉ dành riêng cho những người được truyền chức? Và nếu những người nam nữ ấy được ban quyền như vậy – như trong trường hợp chức phó tế được tái lập  (tuy nhiên rất đáng tiếc là chỉ dành riêng cho nam giới!) – thì phải chăng họ không thể được truyền chức thánh nếu họ khao khát điều đó?

làm chứng cho Chúa Phục Sinh

Ngay trước khi bầu chọn Matthia để bổ sung đầy đủ con số các tông đồ, Phê-rô đưa ra một mô tả sắc nét về những yêu cầu của một tông đồ như ta đọc thấy trong Sách Công Vụ: “Vậy phải làm thế này: có những anh em đã cùng chúng tôi đi theo Chúa Giêsu suốt thời gian Người sống giữa chúng ta, kể từ khi Người được ông Gioan làm phép ưủa cho đến ngày Người lìa bỏ chúng ta và được rước lên trời. Một trong những anh em đó phải cùng với chúng tôi lam chứng rằng Người đã Phục Sinh.”  (1,21-22).

Tôi thấy thật là một điều rất có ý nghĩa khi Phê-rô nhắc các tông đồ nhớ lại tầâm quan trọng của sự kiện Chúa Giêsu chịu phép rửa bởi Gioan, vì biến cố phi thường ấy cho thấy rằng Đức Giêsu, trong tư cách là Người Tôi Tớ phi bạo lực của Giavê, vui lòng đón nhận những gánh nặng của chúng ta. Đối với mọi Kitôhữu và, một cách đặc biệt khẩn thiết, đối với tất cả các giám mục và linh mục, mầu nhiệm này phải trở thành khuôn mẫu cho chứng tá của họ về lòng khiêm nhường và tinh thần phi bạo lực của Đức Giêsu cũng như cho chứng tá về việc Ngài chuyển hóa kẻ thù thành bạn hữu xuyên qua tình yêu vô điều kiện của Ngài.

Yêu cầu thứ hai là phải có sự thân mật gần gũi với Đức Giêsu qua việc đồng hành với các môn đệ Ngài. Điều này có nghĩa rằng phải nhận biết Đức Kitô là Con Thiên Chúa và là Con Người, là “một người trong chúng ta”. Nhận biết Đức Kitô như chính Ngài biết Ngài là ai, điều đó sẽ thúc giục chúng ta – cũng như Ngài – luôn dõi mắt hướng về Giê-ru-sa-lem. Luôn luôn hướng vọng những gì sẽ được hoàn thành ở Giê-ru-sa-lem, đó là cách mà các tác giả Tin Mừng giải thích về yêu cầu này, và đó cũng được ghi nhận là đặc điểm của nhóm tông đồ Đức Giêsu. Đó là một con đường gập ghềnh sỏi đá, đầy những bất trắc và bất ngờ.

Tại sao Phê-rô không nói thẳng với vị ứng viên tông đồ kia rằng anh ta phải là một người có mặt với Đức Kitô cho đến khi Ngài chết trên thập giá?  Không kể Gioan, ai trong họ sẽ đáp ứng được điều kiện này! Nếu Phê-rô cố đòi rằng người được tuyển chọn phải là một chứng nhân trực tiếp về cuộc khổ nạn và cái chết của Đức Kitô, rất có thể các tông đồ sẽ giới thiệu một phụ nữ trong nhóm họ. Vì như các Sách Tin Mừng cho thấy, có nhiều phụ nữ đi theo Đức Giêsu trên con đường đến Can-vê và đứng đó với Ngài đến cùng. Các Kitôhữu trong mọi thời đại đã tôn vinh những phụ nữ thánh thiện và can đảm này – họ, cùng với Đức Maria và Gioan, là những chứng nhân trực tiếp về cái chết của Đức Giêsu. Hơn nữa, chính Maria Ma-đa-lê-na là người đầu tiên trông thấy Chúa Phục Sinh và loan tin mừng này cho các tông đồ. Thế nhưng, vị tông đồ mới được tuyển chọn lại là một nam nhân, vì đối với các tông đồ, vốn chìm sâu trong truyền thống tổ phụ Do Thái, con số mười hai mang ý chỉ mười hai người con trai của Gia-cóp. Và theo cách hiểu ấy, một nam nhân đã được chọn.

Dù sao đi nữa, sự nhấn mạnh chính yếu của Phê-rô cũng đặt vào việc làm chứng cho cuộc Phục Sinh của Đức Kitô chịu đóng đanh, Người Tôi Tớ đau khổ của Giavê. Làm chứng cho Chúa Phục Sinh, đó là cốt lõi của ơn gọi Kitôhữu và là đặc điểm sâu xa của những ai được gọi để rao giảng Tin Mừng một cách đặc biệt. Tôi hy vọng rằng tất cả những ai đọc quyển sách này sẽ nhận ra mọi khía cạnh khác nữa mà tôi đề cập đến trong ánh sáng này. Tôi sẽ chỉ ra ở đây rằng những linh mục không làm chứng một cách thuyết phục cho cuộc Phục Sinh của Đức Kitô và của mọi người tin thì đều chỉ là những đại diện giả danh của Đức Kitô mà thôi.

Vì việc làm chứng cho cuộc Phục Sinh của Người Tôi Tớ đau khổ là trọng tâm của cuộc khảo sát lương tâm không ngừng của chúng ta và là cuộc trắc nghiệm căn tính linh mục, nên câu hỏi nền tảng luôn luôn đặt ra cho chúng ta là: Chúng ta có sẵn sàng để với trọn lòng mình thể hiện khuôn mặt Người Tôi Tớ đau khổ, khiêm nhường và trắc ẩn trong một tinh thần hân hoan tuôn trào từ niềm tin của chúng ta vào cuộc Phục Sinh của Đức Kitô và của chính chúng ta hay không? Người xung quanh có nhận ra rằng chính đức tin sống động của chúng ta là nguồn nghị lực giúp chúng ta kiên nhẫn và hân hoan giữa bao nỗi thống khổ, bao bệnh tật, căng thẳng, bất đồng không? Chắc chắn việc suy tư về chiều sâu của đức tin chúng ta vào Đức Kitô Phục Sinh sẽ không ngừng thúc đẩy chúng ta chú ý đến phép rửa của mình trong Đức Kitô, Người Tôi Tớ khiêm nhường và hiền lành của Giavê.

một cử hành tạ ơn

Thánh Thể đứng ở vị trí trung tâm của đoàn dân mới Thiên Chúa trong cuộc hành trình dương thế tiến về điểm tận thời. Thánh Thể là cuộc cử hành (trong tâm tình tạ ơn) phép rửa bằng nước của Đức Giêsu trong Thánh Thần và phép rửa bằng lửa của Ngài trong cuộc khổ nạn, cái chết và cuộc Phục Sinh. Đó là một cử hành sự khải thắng của Ngài trong tư cách là Người Tôi Tớ khiêm nhường – Đấng mà chúng ta ký thác niềm hy vọng hằng sống. Nếu đời sống Kitôhữu được hiểu và được sống trong nhãn giới về nhiệm cục hiện diện cứu độ của Thiên Chúa, thì việc  cử  hành Thánh Thể là tột đỉnh của sự hiện diện ấy – một chóp đỉnh mà ở đó chúng ta gặp gỡ và hiện diện với Đấng Cứu Độ và Đấng Cứu Chuộc của lịch sử nhân loại.

Việc gắn kết khoảnh khắc hiện tại và lịch sử quá khứ của chúng ta vào trong lịch sử cứu độ của Đức Kitô sẽ làm nên thời gian kairos – một thời gian hồng phúc, một cơ hội độc đáo nối kết quá khứ với tương lai. Việc cử hành với một hồi tưởng tạ ơn đích thực sẽ làm cho tất cả lại trở thành kho tàng hoạt động cứu độ của Thiên Chúa trong lịch sử và nối kết chúng với cả những nỗ lực có sức trao ban sự sống lẫn những thất bại của chính chúng ta. Những nỗ lực và những thất bại của chúng ta sẽ nhận được ý nghĩa trọn vẹn của chúng trong mối tương giao ấy với Chủ Tể của lịch sử. Ở đây, trong khoảnh khắc của sự hiện diện của Đức Kitô Phục Sinh, chúng ta được trao ban nguồn năng lực sự sống của Ngài để tiếp tục cuộc hành trình cùng với Ngài tiến về tương lai – một tương lai có cả đau khổ lẫn niềm vui mời gọi chúng ta đương đầu với những thách đố mới và những trách nhiệm mới trong niềm hy vọng kiên vững đợi chờ sự hoàn thành chung cuộc vào Ngày của Chúa. Đó chính thật là giờ phút chúng ta gặp “rồi” Đấng mà chúng ta hy vọng cử hành cuộc chiến thắng trọn vẹn của tình yêu của Ngài – và tình yêu của chúng ta nữa – vốn còn ở phía trước.

Việc cử hành Thánh Lễ với tâm tình tạ ơn đích thực sẽ tuôn trào trong chúng ta niềm vui và niềm tín thác, và thường khơi dậy trong chúng ta thái độ sẵn sàng hơn và tỉnh thức hơn. Những năng lực của cuộc tưởng niệm tạ ơn sẽ cho phép chúng ta tiếp tục bước đi trên con đường lên Giê-ru-sa-lem, đảm nhận tất cả những đòi hỏi và những khó khăn của cuộc sống mà không bao giờ lạc mất dấu vết của Đấng Phục Sinh. Hoa quả của phút giờ hiện tại ở trong sự hiện diện của vị Chúa Tể lịch sử trổ sinh từ những năng lực quá khứ cũng dồi dào không kém chi so với hoa quả trổ sinh từ niềm hy vọng hiện tại của chúng ta, một niềm hy vọng có sức làm sống họat và đào sâu cảm thức trách nhiệm cá nhân cũng như tập thể của mình. Sức mạnh và sức bền của chúng ta được củng cố trong nghi thức hiệp lễ - qua đó chúng ta được kết hiệp mật thiết với Đức Kitô, Đấng đã có, đang có và sẽ đến.

Trong khi tất cả những gì được nói về Thánh Lễ đều đúng cho mọi Kitôhữu, thì cách riêng, những điều ấy đặt ra một số câu hỏi rất cơ bản cho các vị chủ tọa hèn mọn của Lời Chúa và Thánh Thể. Trong vai trò linh mục của mình, chúng ta có ngày càng trở nên những dấu hiệu sống động của các động lực lịch sử không? Trong tư cách là những tôi tớ của Đức Kitô, chúng ta có sẵn sàng cho phép Đức Kitô Phục Sinh đưa chúng ta ngày càng sâu hơn vào cộng đoàn lữ hành của Ngài không? Chúng ta có ngày càng nhận thức hơn về tầm quan trọng của sự cộng tác và tinh thần đồng trách nhiệm với cộng đoàn tín hữu qui tụ lại trong tư cách là những người cùng cử hành đức tin không?

Từ những gì tôi đã chia sẻ cho tới đây, các tiêu chuẩn cho người chủ tế Thánh Lễ rõ ràng đã hiện lộ ra. Tôi cho rằng mỗi và tất cả những đòi hỏi đặt ra cho đời sống linh mục như đã thảo luận trên đây thì có tầm quan trọng hơn nhiều so với vấn đề hạn hẹp có tính sinh học và chẳng có mấy cơ sở là vấn đề phái tính.

Thánh Lễ là giờ phút vượt qua, là sự vận động và chuyển hóa của Chúa. Đó là khoảnh khắc nghỉ ngơi? Đúng thế, nhưng còn hơn thế nữa, đó là khoảnh khắc để lên đường lần nữa, để vào chuyến phiêu du vĩ đại hơn nhiều so với những gì mà Môsê và dân It-ra-en đã kinh nghiệm. Trong mỗi cuộc cử hành Thánh Lễ, chính Đức Kitô lại mờøi gọi chúng ta: “Hãy chỗi dậy! Chúng ta hãy đi!” (Mt 26,46).

Đức Giêsu mời gọi chúng ta nghỉ ngơi, điều đó không có nghĩa là chúng ta trở thành những con người “ngồi ì”. Ai là những con người “ngồi ì”? Để trả lời cho câu hỏi này, cần phải đặt nó trong câu hỏi nền tảng của chúng ta: Giáo Hội cần có loại linh mục nào? Những con người “ngồi ì” là những người nam cũng như nữ thường xuyên uể oải, thiếu lý tưởng và cảm hứng, những con người không thể thu nhận sức mạnh của Chúa Thánh Thần để khích động người khác. Con người ngồi ì là con người không thể nội tâm hóa lời mời gọi của Đức Giêsu: “Hãy chỗi dậy, chúng ta hãy bước tới!” – nhất là khi việc bước tới có bao hàm nguy cơ phải chịu đau khổ, chịu thay đổi, chịu bất ổn trong nhất thời. Con người ngồi ì là con người bất động, tự thỏa mãn với mình, tự hài lòng với những thành quả đạt được trong quá khứ và tránh né những trách nhiệm đầy thách đố đòi mình phải dám liều. Nói tắt, con người ngồi ì là con người nhút nhát.

Rất thường, những kẻ tự thỏa mãn với mình là những kẻ có não trạng cố chấp (fundamentalists), dị ứng với những cách nghĩ mới mẻ đầy sáng tạo và bám chặt vào những chuẩn mực và những qui tắc của quá khứ. Đó là những nhà bảo vệ truyền thống cách cứng nhắc – nếu có năng lực, họ sẽ tích cực sử dụng năng lực của mình để vãn hồi và củng cố một trật tự của quá khứ. Những người ngồi ì là những người bám dính vào những chiếc ngai do mình tự tạo ra, không sẵn sàng tiến lên phía trước – bởi vì việc tiến lên như thế sẽ có nghĩa là họ phải từ bỏ những hấp dẫn và những đặc quyền của chủ nghĩa giáo sĩ trị trong mọi dạng thức và ở mọi cấp độ của nó.

Thời đại của chúng ta, với những đổi thay nhanh chóng và với bao phát triển mới mẻ, mở ra một khó khăn rất đặc thù. Giáo Hội hôm nay phải khổ sở nhiều vì những linh mục và giám mục - bám chặt vào các địa vị, các chức tước của mình – khuyến khích các tín hữu quay ngược chiều kim đồng hồ, hướng vọng về lớp bụi mờ quá khứ. Các vị đó không hề ý thức rằng làm thế là biến tất cả chúng ta – như trường hợp của vợ ông Lót – trở thành những cột muối! Chỉ khi chúng ta cùng sống với Đức Giêsu, Chủ Tể của lịch sử, Đấng đã đến, đang đến và sẽ đến lại, thì chúng ta mới có thể cùng nhau tiến về phía trước. Thật vậy, trong cái nhìn của nhiều người, việc tiến lên phía trước cùng với Đức Giêsu trong cuộc tưởng niệm tạ ơn là một hồi ức và thách đố quá nguy hiểm. Nếu Đức Kitô Phục Sinh của lịch sử có thể chọn hiện diện trọn vẹn với chúng ta trong hành vi bẻ bánh và chia sẻ chén rượu, thì phải chăng Ngài không thể biến đổi những con người ngồi ì trở thành những khách hành hương hăng hái và những người tiên phong của lịch sử? Đây là một phép lạ vĩ đại mà chúng ta khát khao và cầu xin.

Cố gắng định hình lịch sử tương lai trong tư cách là những nhà kiến tạo hòa bình phi bạo lực và dũng cảm, đó rõ ràng là cuộc phiêu lưu vĩ đại của thời đại chúng ta. Nếu cảm nghiệm về Bài Giảng Trên Núi có thể gây cảm kích lớn lao cho những con người nam và nữ như Mahatma Gandhi, Martin Luther King, Jr., Dorothy Day và các vị sáng lập đầy dũng cảm của các cộng đoàn tu trì, và có thể chuyển hóa họ trở thành những nhà tiên phong luôn luôn lao về phía trước, thì tại sao thời nay xem ra thiếu vắng những khuôn mặt lãnh đạo như thế?

Trong ánh sáng này, chúng ta thấy rõ rằng mình cần một cuộc canh tân phụng vụ. Nhưng một nền phụng vụ canh tân mà chúng ta cần đến phải vượt quá tiêu điểm hiện nay vốn đặt trên những tranh luận về nghi lễ. Tiên vàn, một cách lột xác triệt để, chúng ta cần trở thành những con người đầy niềm tin và hy vọng hơn, biết rộng mở đôi tai, quả tim và trí óc hơn để sẵn sàng đón nhận và hưởng ứng lời mời gọi tiến lên đầy thách đố của Đức Kitô: “Hãy chỗi dậy! Chúng ta hãy bước tới!”

“tất cả họ đều

đầy tràn Thánh Thần” (Cv 2,4) 

Đáp lại lời kêu gọi của Đức Kitô: “Hãy chỗi dậy! Chúng ta hãy đi!”, Phê-rô, con người tự tin thái quá, đã trả lời: “Thưa Thầy, con sẵn sàng đi với Thầy dù phải tù tội hay phải chết” (Lc 22,23). Tuy nhiên, như tất cả chúng ta đều biết, sự dũng cảm ấy của Phê-rô đã dẫn ông ta trôi tụt xuống chỗ thê thảm. Khi Charles de Gaulle đang cầm quyền ở Pháp, các nhà báo Pháp vì muốn châm biếm đã dựng nên câu chuyện rằng có lần De Gaulle đọc kinh cầu ở Montmartre trong đó có câu như sau: “Rất Thánh Trái Tim Đức Chúa Giêsu, hãy tin tưởng vào con!” Trong khi các giám mục và các linh mục biết rõ sự cảnh giác về việc quá tin vào chính mình, tôi vẫn e rằng có rất nhiều người trong chúng ta – nhất là những ai đã thành công trong việc leo lên các nấc thang trong Giáo Hội – cũng cơ hồ muốn thốt lên lời nguyện pha trò rất ư hàm súc ấy.

Không phải những người có quyền lực và giàu tài năng trong chúng ta là những người bị cám dỗ đặc biệt đó sao? Không có thuốc chữa trị nào khác cho căn bệnh này ngoài việc đặt trọn niềm tín thác vào sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần, vào lời hứa của Lễ Ngũ Tuần. Chính Chúa Thánh Thần – Đấng đã thay đổi triệt để Phê-rô và các tông đồ khác vốn trước đó đã vấp ngã trước ‘bài trắc nghiệm’ là cuộc khổ nạn và cái chết của Đức Kitô – cũng sẽ biến đổi chúng ta.

Nếu trong đức tin sâu thẳm, chúng ta suy ngẫm những lời này: “Tất cả họ được đầy tràn Thánh Thần”, thì những tước hiệu như ‘Đức Cha, Đức Ông, Đức Thánh Cha’... và tất cả các tước hiệu sáo rỗng khác sẽ xẹp như bong bóng xì. Vì trong Vương Quốc của Thiên Chúa, Vương Quốc của những mối quan hệ chính trực, thì chính những người bé nhỏ nhất, vô danh nhất, hèn kém nhất là những người mang trong mình sức mạnh đầy tác động của Chúa Thánh Thần.      

Toàn thể trình thuật về biến cố Hiện Xuống hướng sự chú ý của chúng ta về lời tiên tri của Ngôn Sứ Giôen: “Ta sẽ tuôn đổ Thánh Thần của Ta trên mọi xác phàm / con trai con gái các ngươi sẽ nói tiên tri ... Ngay cả các nô lệ của Ta, nam và nữ, cũng sẽ được đầy tràn Thánh Thần của Ta trong những ngày đó, và họ sẽ nói tiên tri” (Cv 2,17-18). Rõ ràng, ở đây không hề muốn nói rằng các tôi trai tớ gái sẽ trở thành linh mục, vì ý niệm này (= linh mục) không tồn tại trong Giáo Hội sơ khai của các tông đồ. Chỉ đến thời hậu tông đồ thuật ngữ ‘linh mục’ mới được vận dụng lại trong liên hệ đến Đức Kitô, Vị Linh Mục Thượng Phẩm đích thực.

Cộng đoàn Hiện Xuống, được đánh dấu cả bởi nhãn giới về Đức Kitô Ngôn Sứ lẫn bởi niềm xác tín sâu sắc về nhu cầu phải ngoan ngoãn và tín thác vào Chúa Thánh Thần, đã tin tởng rằng cả đàn ông lẫn phụ nữ đều được đánh dấu để trở thành những người thông dự cách khiêm tốn vào sứ vụ ngôn sứ của Đức Kitô. Nói một cách nôm na hơn, mọi Kitôhữu đích thực, dù nam hay nữ, đều là những con người ngôn sứ, những con người được giải phóng và đầy tràn Thần Khí do tác động của Thánh Thần Đức Kitô; và họ được trao ban một sứ mạng giải phóng, sứ mạng mà trong thời đại chúng ta luôn luôn đòi hỏi phải tỉnh thức và sáng suốt biện phân. Như vậy, câu hỏi mãi còn cho chúng ta trong tư cách là Kitôhữu và là thành viên của Nhiệm Thể Đức Kitô là: Chúng ta có sẵn sàng mở lòng ra – bằng bất cứ giá nào – để đón nhận sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần nơi chúng ta và nơi những người khác không? <OJ>

 còn tiếp

VỀ MỤC LỤC
NGƯỜI ĐÀN BÀ GÓA

 

Trong lúc giảng dạy, Chúa Giêsu nói rằng: ‘Anh em phải coi chừng những ông kinh sư ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng, thích được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng. Họ ưa chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích ngồi cỗ nhất trong đám tiệc. Họ nuốt hết tài sản của các bà goá, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ. Những người ấy sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn.

 Chúa Giêsu ngồi đối diện với thùng tiền dâng cúng cho Đền Thờ. Người quan sát xem đám đông bỏ tiền vào đó ra sao. Có lắm người bỏ thật nhiều tiền. Cũng có một bà goá nghèo đến bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm, trị giá một phần tư đồng xu Rô-ma. Chúa Giêsu liền gọi các môn đệ lại và nói: ‘Thầy bảo thật anh em: bà goá nghèo nầy đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết. Quả vậy, mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó; còn bà nầy thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để nuôi sống mình.’” ( Mc 12, 38-44) 

***

Câu chuyện người đàn bà góa trong Phúc Âm Thánh Mác-cô trích dẫn trên đây, gợi cho tôi dòng chữ dễ mến của C.S. Lewis: “Điều gì bạn nghe và thấy phần lớn tùy thuộc chỗ bạn đứng và tùy bạn thuộc hạng người nào.”  

Câu chuyện trong Phúc Âm, tự bản chất, không phải là một câu chuyện người đàn bà góa cho đi hết tiền bạc của mình. Cũng không phải là một câu chuyện về đức hạnh. Người đàn bà đó không nhận được một lời cám ơn hay một sự tưởng thưởng nào đối với lòng quảng đại của mình. Chúa Giêsu cũng không ca ngợi tán dương bà.

 

Thiên Chúa nhận biết

G.K. Chesterton định nghĩa “thiên tài như là khả năng quan sát điều gì minh bạch hiển nhiên. Căn cứ trên sự nhận xét đó, Chúa Giêsu là một thiên tài. Cặp mắt quan sát của Ngài không nhìn nơi cao xa quyền quý thuộc thế giới nầy mà ở đó thường xuất hiện những nhân vật được mọi người chú ý.  

Đúng hơn, đôi mắt quan sát của Ngài nhìn xuống một người mà bất kỳ ai cũng không để ý tới. Ngài nhận ra người đàn bà góa không ai trông thấy, vì không có gì nổi bật nơi bà – một người rất khó nhận diện, ở tột cùng nấc thang xã hội. Ngài nhận thấy cử chỉ âm thầm của lòng quảng đại nơi bà – một thứ xúc tác làm cho cuộc nhân sinh trở nên tốt đẹp hơn.

Chúa Giêsu ghi nhận điều đó và đã bình phẩm thêm. Đó chính là trọng điểm của đoạn Phúc Âm nầy. Trọng điểm đó, đối với chúng ta, là phải cân nhắc để “sống như chúng ta phải sống”, trong một thế giới xem ra vô nghĩa và dễ lạc mất trong đám “quần chúng đang điên loạn lên” rồi!

 

Người cha tôi yêu

Tôi biết một ông cụ bị bệnh Alzheimer. Cụ góa vợ. Người con gái sống với cụ cũng góa chồng. Chị cảm thấy không dễ dàng chút nào khi phải chăm sóc một người cha như thế. Chị bộc lộ tâm tình:

“Cha tôi cứ đi thẩn thờ một mình ngoài đường phố và cứ tưởng mình đang trên đường trở về ngôi nhà xa xưa nơi xóm cũ. Vào một buổi sáng sớm tháng ba, nhằm lúc mùa đông lạnh lẽo, cảnh sát đã nhặt ba tôi ở ngoại biên thành phố. Ba tôi nói với cảnh sát là đi xem lễ Giáng Sinh nửa đêm.

Tôi không biết còn tiếp tục được bao lâu nữa để thay áo quần cho ba tôi, tắm rửa và cho ăn uống. Tôi đã mỏi mệt lắm rồi. Cuộc sống thật quá khắt khe, quá đòi hỏi! Và tôi cảm thấy tội lỗi khi suy nghĩ như thế về một người cha mà tôi rất mực thương yêu.”

Tôi nói phụ họa vào: “Đúng thế! Cuộc sống thật quá đòi hỏi khắt khe. Tôi không biết rồi đây chị phải ứng phó như thế nào, nhưng tôi biết chị sẽ tiếp tục cuộc sống như thế bao lâu có thể được, miễn là chị còn mạnh mẽ và sức khỏe tốt. Tôi thông cảm với chị. Khó khăn của chị hoàn toàn bị đóng khung trong thân phận con người.”  

Sau đó, trước khi lái xe về nhà, tôi đã vẫy tay chào. Cả chị và cha chị đứng trước cổng ra vào, cũng vẫy tay lại. Người cha – không phải do lỗi lầm nào của chính mình – hoàn toàn không nhận biết sự tận tâm tận lực của người con gái yêu quý.  

Khi đang lái xe về nhà, tôi nhớ lại một tù nhân ở Lao Xá Mountjoy thường nói với tôi câu nầy: “Khi con làm điều tốt, không ai nhắc nhở tới; khi con làm điều bậy, không ai quên được.”

 

Hai loại giả dối

Câu nói của tù nhân trên đây cho thấy một nan đề: ở mỗi một người trong chúng ta, đều có pha lẫn cái xấu và cái tốt. Chúng ta đã có kinh nghiệm xung đột đó ở bên trong chúng ta. Chúng ta vừa “lương thiện”, vừa “bất lương”.

Tôi thường hay nói: “Chỉ những kẻ tội lỗi mới đến nhà thờ Chúa nhật để xem lễ.” Thật đúng như thế! Chúa không bao giờ khó chịu với kẻ tội lỗi. Tôi biết khi nói điều đó sẽ làm cho một số người sửng sốt. Chúa chỉ khó chịu với những ai nghĩ mình không phải là kẻ tội lỗi.

Nếu bạn không tin lời tôi, xin bạn hãy đọc lại Thánh Kinh. Tất cả chúng ta đều giả dối. Có hai hạng người giả dối. Có người biết mình giả dối và có người phủ nhận mình giả dối. Hy vọng chúng ta là những kẻ giả dối nhưng cố gắng sống Tin Mừng, ngược lại với những kẻ không cố gắng sống theo Tin Mừng chút nào.

Tôi thường chỉ cho những tù nhân ở Lao xá Mountjoy thấy sự khác biệt lớn lao giữa họ và tôi: đó là họ nhận thấy điều đó còn chính tôi thì không nhận ra.

 

Tất cả đều bại lộ 

Nếu tất cả những thời gian đen tối trong đời sống chúng ta cũng như những tâm tư xấu xa của chúng ta được phô bày, chắc chắn những người quen biết chúng ta sẽ sửng sốt, ngay cả công phẫn nữa. Nhưng tất cả cốt chuyện không nằm ở chỗ đó.

Nếu tất cả những việc thiện giấu kín của chúng ta, những sự hy sinh cũng như những việc đạo đức của chúng ta được gia đình và bạn bè biết đến, chắc chắn họ sẽ ngạc nhiên và có thể thán phục nữa về lòng hào hiệp ẩn tàng nơi chúng ta.

Vì vậy chúng ta không nên quan tâm đến tội lỗi mình cũng như tội lỗi người khác không bị ai hay biết, và chỉ “nên sống lương thiện một cách âm thầm”, như người đàn bà góa trong câu chuyện nầy. Không ai cả, ngoại trừ Chúa ra! Chúa biết rõ như thế, và một ngày nào đó kẻ trộm cắp sẽ được tha thứ, cũng như tất cả những việc lành giấu kín rồi đây sẽ được tỏ bày cho mọi người trông thấy.

 

Bàn tay của Chúa

Cho phép tôi đan kết lại với nhau về những gì mà tôi đang chia sẻ với quý bạn bằng một câu chuyện liên quan đến một đôi tân hôn bị lâm vào trận bão tố trên con đường heo hút ở Rặng Núi Đá miền Tây Canada.

Vì không thể đi xa được nữa, họ bắt buộc phải bỏ xe hơi lại. May mắn thay, có một trang trại gần đó. Một ánh đèn le lói từ nơi cửa sổ trang trại phóng ra đã đưa họ đến đó để được giúp đỡ.

Chủ nhà là một đôi vợ chồng già nua, khi nghe tiếng gõ cửa, họ đã vội vàng mở. Đôi vợ chồng trẻ giải thích với họ về tình trạng ngặt nghèo của mình và xin ngủ tạm qua đêm. Họ nói: “Xin cho chúng tôi ngủ nhờ nơi nào cũng được, trên tấm thảm nơi sàn nhà…”

Khi họ đang nói, một vài hạt thóc dính trên đầu tóc bạc phơ của bà già rơi xuống. Lập tức, cặp vợ chồng già nhận biết họ là đôi tân hôn. Cặp vợ chồng già đưa mắt nhìn nhau rồi nói: “Được rồi, anh chị cứ ngủ lại di. Hãy ngủ trong phòng dành cho khách khứa.”

Đêm hôm đó, đôi tân hôn đã sử dụng phòng dành cho khách. Sáng hôm sau, họ đã thức dậy sớm và ra đi thật lặng lẽ để khỏi quấy rầy chủ nhà. Họ vội vã mặc quần áo và để lại một tờ giấy năm chục đô-la trên bàn trang điểm.

Họ cúi mình để xuống thang lầu và trong khi nhón gót đi qua phòng khách, họ rất đỗi ngạc nhiên thấy ông cụ già đang co cụm trên chiếc ghế bành, còn bà cụ già đang cuộn mình lại trên ghế trường kỷ.

Cặp vợ chồng già đó không có phòng dành cho khách. Họ đã dành giường ngủ của họ cho đôi tân hôn xa lạ kia. Họ không muốn làm hỏng thời gian trăng mật của đôi tân hôn đó.

Cặp vợ chồng già đó cũng giống như người đàn bà góa ở trong Phúc Âm. Họ đã “cho đi những gì tốt đẹp nhất” trong hoàn cảnh của họ. Đến lượt đôi tân hôn, họ cũng “cho lại những gì tốt đẹp nhất”  mà họ có được trong cảnh ngộ đó của họ.

Chúng ta cần một linh đạo nối kết chúng ta lại với cuộc sống, khà dĩ giúp chúng ta nhận thấy bàn tay của Chúa trong cuộc sống thường nhật. 

Câu chuyện đáng chú ý về người đàn bà góa không nhằm mục đích đề cập tới đức độ hay lòng quảng đại, nhưng nhằm cho chúng ta thấy điều kỳ diệu trong cuộc đời thường. Đó là:

Chúng ta phải quan tâm hằng ngày;

Chúng ta phải quan tâm tất cả những gì Chúa nhìn thấy hết

Và Ngài không thể quên được!

 

LM Vincent Travers, OP

Hương Vĩnh chuyển ngữ

VỀ MỤC LỤC
 CỨ ĐỂ NHỮNG HẬU QUẢ CỦA NÓ XẢY RA (bài 2) 

 

Giờ cơm trưa mỗi ngày luôn là một cuộc chiến đấu đối với người mẹ vì sau giờ cơm bà phải đưa cô bé Mỹ Tiên, 6 tuổi, đến trường mẫu giáo. Bà có nghe về cách thế áp dụng chiến thuật mà người ta đã chỉ cho bà. Đối với bà, cô bé đến đúng giờ là một vinh dự cho bà vì thật sự không dễ để làm cho cô bé đi học đúng giờ. Một ngày kia, bà chỉ cho cô bé biết đã đến giờ cô bé phải rời nhà đi học, nhưng rồi bà lại phải ngồi xuống ăn trưa với cô bé. Cô bé cứ nhẩn nha không thiết gì giờ giấc đến trường. Bà mẹ cảm thấy khó chịu nhưng không biết làm cách nào. Sau khi ăn xong, bà rời khỏi nơi đó và đi vào phòng khách xem Tivi và xem ra bà chỉ chú trọng vào công việc của bà. Cuối cùng thì cô bé đến trường trễ nửa giờ. Khi cô bé trở về, bà mẹ để ý xem có gì khác biệt xảy ra không, như kết quả của việc đi trễ. Nhưng mọi sự vẫn bình thường không có gì xảy ra. Tuy nhiên, bà mẹ tiếp tục với phương cách đó cho ngày hôm sau. Vào ngày thứ 3, bà viết một vài hàng ghi chú cho cô giáo và xin cô cộng tác. Ngày hôm đó cô bé đi trễ 40 phút. Khi cô bé về nhà, cô bé khóc nức nở, hậu quả của việc đi trễ. Bà mẹ an ủi: “Cưng, mẹ xin lỗi vì con đã đi trễ. Con có thể đi học sớm hơn vào ngày mai”. Từ ngày hôm đó trở đi, cô bé luôn coi giờ để đi học, và bà mẹ không còn phải quan tâm đến việc nhắc nhở cô bé đi học đúng giờ nữa.

Cũng phương cách đó, chúng ta có thể áp dụng cho các trẻ con thức dậy và đến trường vào lúc sáng. Bố mẹ nên cho chúng những đồng hồ báo thức. Bố mẹ nên cắt nghĩa cho chúng biết rằng bố mẹ sẽ không còn trách nhiệm gọi chúng thức dậy và đến trường đúng giờ nữa. Bố mẹ nên ngưng làm những chuyện đó và cứ để cho chúng chịu trách nhiệm nếu chúng muốn nhẩn nha, ham chơi, quên mang sách, hay quên làm bài tập. Ngay cả việc trễ xe buýt của trường, hãy để chúng nó tự đi bộ tới trường, chúng có đủ năng lực.

Chúng ta cứ tự hỏi: cái gì sẽ xảy ra nếu chúng ta không can thiệp vào những chuyện ấy? Đi học trễ hoặc không làm bài sẽ khiến các cô giáo giận dữ. Các đồ chơi bị phá hủy sẽ không còn để chơi. Quần áo dơ không cho vào giỏ giặt đồ, sẽ không được giặt. Và cứ như thế, những hậu quả do việc làm của chúng tất nhiên sẽ xảy ra, và rồi chúng phải đối diện với những hậu quả đó.

Yến Vi 3 tuổi đang ở trong sân nhưng cứ muốn chạy ra đường chơi. Bà mẹ cứ phải canh giữ và mang nó trở lại trong sân. Bà rầy la và phết đít nó, nhưng cũng chỉ vô ích. 

Trong trường hợp nầy, chúng ta phải xử sự thế nào? Dĩ nhiên chúng ta không nên để đứa trẻ tự do chạy nhảy kẻo nó bị xe tung vì đó là kết quả đương nhiên của việc chạy chơi ngoài đường. Vì thế, chúng ta phải xếp đặt một kết quả làm sao để thích hợp với một trật tự đã bị phá vỡ. Lần đầu tiên cô bé chạy ra đường, bà mẹ dĩ nhiên là bắt nó lại và nên hỏi cô bé có muốn chơi ở trong sân không? Nếu nó còn thích chạy rông ra đường, bà mẹ không cần nói năng gì cả, chỉ việc yên lặng bế nó và đem nó vào trong nhà. Hành động của bà như muốn nói: vì con không thích chơi ngoài sân nên con không được phép ra ngoài nữa. Chỉ khi nào con chấp nhận chơi ở trong sân mà thôi, con được phép làm điều đó. Điều đó có nghĩa là nó có quyền lựa chọn làm theo ý muốn của nó. Bà mẹ không nên áp đặt, nhưng bà có thể thiết lập một giới hạn và kết quả theo đó. Bất cứ khi nào cô bé tỏ ý muốn chấp nhận điều đó, nó có thể chạy ra sân chơi. Nhưng nếu nó vẫn thích chạy lung tung ra ngoài đường, nó sẽ bị bắt và bị mang vô nhà cho suốt thời gian còn lại của ngày hôm đó. Nhưng để đề phòng, đừng để việc đó trở nên một cuộc chiến tranh giữa 2 mẹ con vì vấn đề quyền bính, sau lần thứ 3 bà mẹ nên để nó ở trong nhà một vài ngày. Điều quan trọng là cho nó có cơ hội làm lại cuộc đời. Cô bé có thể phản đối việc bắt nó đem vào trong nhà và tỏ vẻ muốn nổi loạn vì không được làm theo sở thích. Vào những lúc đó, bà mẹ nên lặng yên. Bà không nên phản ứng gì về việc cô bé muốn làm loạn, vì ở đây chúng ta chỉ cần ứng phó với riêng vấn đề nầy mà thôi.

Bé Duyên 3 tuổi quên đánh răng. Để làm công việc đó, bà mẹ phải đi với nó và ép nó đánh răng mỗi lần bà thấy cần. Lần nầy, cả 2 mẹ con đều cảm thấy bực bội, nên bà mẹ nghĩ đến phương cách mà bà vừa được học hỏi. Bà bảo với cô bé rằng cô bé không cần phải đánh răng nếu cô bé không muốn. Nhưng vì kẹo và đồ ngọt sẽ làm hại những răng không được đánh, nên nó không được phép ăn đồ ngọt nữa. Trong vòng một tuần, cô bé không đánh răng nhưng cũng không có kẹo để ăn. Những đứa khác thì có kẹo và có kem để ăn nữa. Vào một buổi chiều kia, cô bé tuyên bố với mẹ rằng cô bé muốn đánh răng và muốn có kẹo để ăn. “Không phải bây giờ cưng ơi! Con phải đánh răng vào buổi sáng và sau khi ăn”. Cô bé chấp nhận ngay mà không phàn nàn. Sáng hôm sau, khi thức giấc cũng như sau những bữa ăn, cô bé vui vẻ đi đánh răng như đã thõa thuận.

Nhiều chuyện như thế đã được dùng theo phương cách nầy và đã thành công.

lm.lêvănquảng, Tiến sĩ tâm lý
 

VỀ MỤC LỤC

NIỀM RIÊNG

 

(Lc 7:36-8:3)

Sao em không nói một lời,

ngày xưa áo tím, chợ đời xôn xao,

niềm riêng biết gởi nơi nao,

nỗi lòng vời vợi, cơn đau chập chùng.

 

Gót chân Ai đẹp lạ lùng,

nghe trong suối lệ cõi lòng ăn năn

tóc mây vấn vít đôi chân,

dầu thơm hay vạn hoa ngàn ngát bay

 

Dù đời vẫn trắng đôi tay,

dù đang sống kiếp đọa đầy lao lung,

quyết tâm vẹn nghĩa thủy chung,

vững tin Lượng Cả bao dung hải hà

 

Chúa yêu em, Chúa thứ tha,

từ nay cuộc sống chan hòa niềm vui ...

 

vân thanh

17.06.2007

VỀ MỤC LỤC
CHÍNH  TRỊ THEO QUAN ĐIỂM CỦA GIÁO HỘI

                                               

      

Nhiều người Việt chúng ta hiện nay, ở hải ngoại cũng như tại quê nhà, mỗi khi có ai nói đến hai tiếng CHÍNH TRỊ, là không muốn nghe nữa. Chúng ta, hàng ngày vẫn phải sống, va chạm với những vấn đề chính trị mà tại sao lại "kỵ" nó như vậy ? Phải chăng chính trị là cái gì lôi thôi, làm phiền chúng ta, gây khó khăn cho chúng ta, tạo cho chúng ta những điều khó nói khó giải quyết, có khi không nói được những điều mà mình nghĩ trong tâm, hoăc sơ đụng chạm đến người khác, gây phiến toái cho cả người nghe lẫn người nói. Đất nước chúng ta qua bao thế hệ từ ông cố bà cố nội ngoại, ông bà cha mẹ, cả con cái chúng ta đã trải qua những thời kỳ chiến tranh điêu linh từ 1940, 1950 đến 1954, 1975..... Rồi từ 1975 đến nay, tuy đất nước đã ngưng tiếng súng nhưng lòng chúng ta vẫn còn "chiến tranh". Chúng ta vẫn đang bị lưu đầy nơi đất khách quê người xa xôi ngàn dậm.   Vì "chính trị" mà chúng ta phải rời bỏ quê hương đất tổ. Vậy chính trị là gì?

 

 

CHÍNH   TRỊ  LÀ  GÌ? 

 

Ở đây chúng tôi không muốn đào sâu về chính trị một cách hàn lâm khoa bảng (academic), chỉ xin nói một cách khái quát   và thực dụng vào những câu chuyện, cuộc sống hàng ngày của con người từ gia đình đến xã hội, quốc gia. Theo Littré viết từ năm 1870 thì chính trị là một khoa học cai trị các quốc gia. Robert viết năm 1962 thì cho  Chính trị là một nghệ thuật và thực hành cách cai trị các xã hội loài người. Như vậy thì cả hai định nghĩa, mặc dù viết cách nhau   gần thế kỷ, đều qui về hai chữ "CAI TRỊ" tức ám chỉ trong đó một QUYỀN HÀNH.

 

Các nhà chuyên môn hiện còn đang tranh luận về điểm này. Một vài người  cho rằng Chính trị là một khoa học chính thể các quyền hành có tổ chức trong các đoàn thể quốc gia. Trái lại phần đông cho đó là khoa học các quyền hành có tổ chức trong một đoàn thể. Thực vậy, muốn cai trị phải có quyền hành, dù trong một tổ chức xã hội loài người còn sơ khai. Nhưng thế nào là QUYỀN HÀNH và dùng quyền hành thế nào để mưu cầu công ích? Làm sao có thể dung hòa giữa quyền hành và nhu cầu của hai phía: cai trị và bị trị? Như vậy chúng ta thấy có hai thái độ căn bản về chính trị. Một đàng cho Chính trị là một cuộc đấu tranh, cá nhân hay nhóm nào nắm được quyền hành là nắm được quyền thống trị để thủ lợi. Một đàng cho chính trị là một nỗ lực duy trì trật tự và công lý. Quyền hành là để bảo vệ quyền lợi chung, ích lợi chung chống lại áp bức của các quyền hành riêng biệt phe nhóm. Đối với những người trên, chính trị dùng để duy trì đặc quyền đặc lợi của một thiểu số trên đa số. Đối với những người sau, chính trị là một phương tiện để thực hiện một xã hội công bằng, hòa bình, tự do kiểu đô thị của Aristote và kiểu Khổng Tử thời Nghiêu Thuấn.

 

Tuy nhiên, dù dựa vào thuyết nào đi nữa thì một phần cũng còn tùy thuộc vào tình trạng xã hội. Con người ở giai cấp bị áp bức, nghèo đói, khổ sở, bất mãn cho rằng quyền hành không thể đảm bảo một trật tự thật sự mà chẳng qua chỉ là một trò hề bịp bợm để che đậy sự thống trị của những kẻ có ưu thế. Đối với những người này thì chính trị là đấu tranh. Còn giai cấp giàu sang, quyền quí hả hê thì cho rằng xã hội là hòa hợp và quyền hành là để duy trì một nền trật tự chân chính. Đối với họ, chính trị là liên kết tất cả mọi người ở mọi giai tầng lại với nhau thành một xã hội hòa hợp, tự do và thanh bình. Hai lập luận trên bề ngoài xem có vẻ trái ngược nhau, nhưng đặc chất ý nghĩa thực của nó lại bổ túc cho nhau, nghĩa là bất cứ lúc nào, ở đâu nó cũng có tính lưỡng ứng, hai bộ mặt, diễn tả một thực trạng xấu xa nhất, xác thực nhất của "nhà nước" hay "xã hội". Nói rõ hơn, cái quyền hành thiết lập trong xã hội hay quốc gia, dù ở đâu hay lúc nào thì cũng vẫn là một lợi khí của Thống Trị. Nhưng chính trị vẫn thường được mô tả bằng những mỹ từ đầy lý tưởng. Chính trị là một khoa hoc hay nghệ thuật điều hành, cai tri một quốc gia sao cho mọi guồng máy của nhà nước được ổn định, có trật tự kỷ cương, sinh hoạt điều hòa thông suốt, để người dân được sống giàu sang, an bình hạnh phúc yêu thương nhau, đồng thời chính quyền hay người làm chính trị có được uy quyền phú quí. Nhưng làm sao để có thể dung hòa được quyền lực và nhu cầu của cả hai phía?

 

Trong một cộng đồng, đoàn thể hay một quốc gia thì người dân, con người là đối tượng của chính quyền hay người cầm đầu một tổ chức. Khi hội viên hoặc dân số càng đông, đất càng rộng thì trách nhiệm và uy quyền của người cầm đầu càng lớn. Con người là một sinh vật có trí khôn, thông minh, năng động, có óc cải tiến không ngừng để mưu cầu hạnh phúc. Do đó khi con người càng văn minh thăng tiến   thì nhu cầu càng nhiều và đa dạng. Lúc đó sự đòi hỏi phải thỏa mãn của người dân nơi chính quyền trở nên phức tạp, tạo thành xung khắc quyền lợi của hai bên. Đấu tranh phát sinh từ đó.

 

 

Chính trị là đấu tranh, dùng con người làm PHƯƠNG TIỆNBAO   LỰC

 

Dù nấp dưới danh nghĩa nào đi nữa, ngưới làm chính trị vẫn nhân danh con người để đứng lên, dùng con người làm PHƯƠNG TIỆN đấu tranh hầu cướp chính quyền và bảo vệ quyền lực. Người ta kêu gọi Tự do, Dân chủ, Nhân quyền và Bình đẳng xã hội, nhưng kết cuộc cũng là để nắm giữ và bảo vệ quyền lực hầu mưu cầu lợi ích cá nhân hoăc phe nhóm. Các hình thức đấu tranh của chính trị cũng sẽ tùy thuộc ở những yếu tố tâm lý, dân số, địa dư, văn hóa, xã hội, kinh tế cũng như ở ngay sự hiện hữu của các mâu thuẫn gây ra chính trị. Mâu thuẫn bao giờ cũng phát sinh và biểu lộ trong một khung cảnh nào đó và các yếu tố phát sinh ra nó lại ảnh hưởng đến các hình thức đấu tranh trong hoàn cảnh đó để rồi cuối cùng đưa đến BẠO LỰC.   Bạo lực có thể là tiền, các phương tiện truyền thông báo chí, kỹ thuật....không kể vũ lực được biểu hiện bằng súng đạn hoặc giáo mác, nắm tay / quả đấm. Đa số các phong trào đấu tranh chính trị đều đưa đến và kết thúc bằng bạo lực. Có người nói: " Ông vua đầu tiên là một quân nhân may mắn". Phải chăng câu nói khẩy này ngụ ý rằng Vũ khí là nguồn gốc của quyền hành và quyền hành trước hết dựa vào vũ lực. Chủ nghĩa Cộng Sản đã chẳng đề cao tự do dân chủ, bình đẳng xã hội, tranh đấu cho lớp người nghèo khổ thiệt thòi thợ thuyền, bần nông và dùng bạo động đấu tranh giai cấp cướp chính quyền để rồi chủ trương độc tài toàn trị ôm cứng lấy quyền hành độc đảng ? Quyền hành đồng nghĩa với vũ lực. Kẻ nào mạnh về quân sự kẻ đó thắng. Stalin đã từng thách thức Đức Giáo hoàng: "Ông có bao nhiêu sư đoàn?"

 

 

Giáo Hội lấy con người làm CỨU CÁNH :

BÁC  ÁI,  NHÂN HÒA  thuần hóa  BẠO LỰC

 

Giáo hội công giáo có lập trường và đường lối hoàn toàn khác. Giáo hội không chủ trương làm chính trị phe nhóm hay đảng phái, cũng không chủ trương đứng về phe này hay phe kia hoặc tranh dành lấy quyền lực cho mình.(Hiến chế mục vụ trong thế giới ngày nay). Chính trị, theo giáo huấn của Giáo hội, lấy con người làm CỨU CÁNH, và phương tiện tranh đấu là NHÂN HÒA / BÁC ÁI. Những chỉ dẫn này ta thấy đầy dẫy trong Tin Mừng Phúc Âm là bản "hiến pháp" tuyệt vời của Giáo Hội công giáo và các học thuyết xã hội của Giáo Hội là bản nội qui hướng dẫn người công giáo hành sử   quyền con người của mình.

 

Vì lấy con người làm cứu cánh, nên tất cả những gì liên quan đến con người Giáo Hội đều nâng đỡ, che chở, bảo tồn và ủi an. Sinh mạng và phẩm giá con người vì vậy đã được đặt lên hàng đầu, phải luôn luôn được tôn trọng bởi lẽ con người là hình ảnh của Thiên Chúa (St 9, 6), và được cứu chuộc bằng máu châu báu của Đức Kitô, được làm con trong con người, làm đền thờ của Chúa Thánh Thần và được dành cho sự sống đời đời trong sự kết hợp với hồng ân Thiên Chúa (Christi fideles Laici, 37). Giáo Hội đòi hỏi mọi người phải sống với niềm tin Tin Mừng. Chỉ có sống thực với Tin Mừng với tất cả tâm hồn yêu thương vị tha mới có thể cứu gỡ phẩm giá con người khỏi mọi lôi cuốn không ngừng của đam mê dục vong, hoặc khinh rẻ hoặc tôn sùng thái quá thân xác con người. Không có một luật lệ trần thế nào có thể bảo đảm nhân vị và tự do con người thích đáng bằng Tin Mừng Chúa Kito, đã được trao phó cho Giáo Hội. (Rm 8, 14). Tin Mừng này xác tín sự Tự Do của con cái Thiên Chúa, phủ nhận mọi hình thức nô lệ, vì mọi ách nô lệ đều do tội lỗi mà ra. Tin Mừng tôn trọng triệt để phẩm giá và quyết định tự do của lương tâm, đồng thời cũng luôn luôn nhắc nhở phát huy mọi tài năng để phụng sự Thiên Chúa và mưu ích cho mọi người. Sau hết, Tin Mừng còn dạy mọi người phải thương yêu nhau. Yêu tha nhân và cả kẻ thù như chính mình vậy ( Mt.22, 39).

 

Nhân Quyền là quyền của con người: quyền sống, quyền được trọn vẹn thể xác, quyền được hưởng những phương tiện cần và đủ để sống xứng đáng là con người có nhân phẩm như quyền sống an toàn trong lúc bệnh hoạn, khuyết tật, già yếu, thất nghiệp...Ngoài nhân quyền thể xác con người còn cần phải có nhân quyền tinh thần như quyền tìm kiếm chính trị, quyền tự do tư tưởng, quyền tự do tôn giáo, quyền bình đẳng không bị kỳ thị.

       

Tự Do cũng là một đặc tính căn bản trân quí của con người, nhưng Tự Do phải gắn liền với đi tìm Chân Lý. "Con người quay về điều thiện luôn luôn trong tình trạng tự do"(Gaudium & Spes, 11 ). Do đó tự do không có nghĩa là muốn làm gì thì làm nhưng là có quyền làm những điều thuộc bổn phận của mình mà Thiên Chúa đã khắc ghi trong tâm mỗi người.

 

Song song với việc giải phóng con người khỏi mọi áp bức là việc cần thiết phải bảo tồn tự do và tất cả những quyền cơ bản khác của con người, trong đó quyền tự do tôn giáo chiếm vị thế quan trọng nhất. (Evangelii Nuntiandi, 39). Quyền này không thể bị lệ thuộc dưới bất cứ một áp lực nào, dù cá nhân, đoàn thể, quốc gia hay bất cứ một quyền bính trần thế nào khác. Do đó, về phương diện tôn giáo, không ai có thể bị ép buộc hành động trái với lương tâm hoặc theo lương tâm mình dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, không gian và thời gian nào. (Dignitalis Humanae, 2). Hạn chế quyền tự do tôn giáo rõ ràng là xúc phạm đến phẩm giá con người kéo theo những vi phạm về tôn giáo. (Redemptoris Hominis, 17).

 

Tóm lại, tất cả những vấn đề thuộc về con người được tranh cãi và giải quyết đều liên quan đến TỰ DO của CON NGƯỜI, trong đó Tự Do Tôn giáo là trên hết và là một đòi hỏi bất khả nhượng. Nó là một tảng đá ở trong góc nhà của tòa lâu đài NHÂN QUYỀN.   Tự  Do  Tôn  giáo là một nhân tố thiết yếu không thể thiếu vì lợi ích và sự phát triển của từng cá nhân cũng như toàn thể xã hội. Nhờ nó mà việc sống chung hòa bình giữa con người với nhau được hài hòa xung mãn. (Sứ điệp ngày Thế giới Hòa Bình 1988, Nhập đề). Người công giáo không thể đóng cửa ở trong nhà thờ. Đức Phaolo VI đã từng tự giới thiệu tại diễn đàn LHQ như là một "chuyên viên về nhân bản" và tuyên bố "Phát triển là tên gọi mới của hòa bình". Còn Đức Gioan Phaolo II biện hộ cho nhân quyền, cho người nghèo, cho các nước nghèo thế nào thì cả thế giới đều đã biết

 

 

SỐNG - CHÍNH -TRI : Tu sửa bản thân, dấn thân.

 

Chúng ta thường hiểu chính trị theo nghĩa thông thường, chính trị là phe phái, tranh dành, chiếm đoạt và bảo vệ quyền lực với mọi thủ đoạn lưu manh gian ác miễn sao đạt được ý nguyện. Đó là chính trị dơ bẩn, chính trị BÁ ĐẠO. Nhưng không phải ai cũng làm chính trị bá đạo cả. Chúa Giêsu cũng làm "chính trị", nhưng Ngài không dùng thủ đoan lưu manh để lừa gạt. Ngài lấy Từ bi, Bác ái, lòng Nhân mà thuyết phục con người để mọi người thương yêu nhau và sống an bình hạnh phúc. Đó là chính trị VƯƠNG ĐẠO. Thí dụ về Chúa thì nhiều vô kể. Toàn thể TIN MỪNG là cả một kho tàng, là một hiến pháp siêu chính trị mà chúng ta phải noi theo. Nhưng chỉ xin nêu một thí dụ về Đức Khổng.

   

-Ông Tử Lộ hỏi Đức Khổng: "Nếu vua nước Vệ mời thầy ra giúp vua cai tri, thày làm gì trước?"

  

-Khổng Tử đáp: "Ắt phải lấy chính danh làm trước vậy."

    

Thuyết chính danh như thế nào, có thể đa số chúng ta đã biết, xin không bàn nhiều ở đây. Chúng ta thường nghe nói: Danh Chính Ngôn thuận, nghĩa là Danh bất chính tắc ngôn bất thuận, ngôn bất thuận tắc sự bất thành , thuyết căn bản của triết học họ Khổng. Đãng CSVN, chế độ tự do tại Hoa Kỳ này đang áp dụng loại chính trị nào?  Chắc không phải là chính trị vương đạo. Nếu vương đạo, chính danh thì đã chẳng có hơn 3 triệu người Việt, trong đó có chúng ta, đã liều chết rời bỏ quê hương lang thang nơi xứ người như hiện nay. Nếu vương đạo thì Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ đã không cần phải nhắc nhở người công giáo dấn thân vào chính trị, chú ý đến những vấn đề xã hội, Sự sống / Sự chết, Chiến tranh / Hòa bình....ở đất nước Hoa Kỳ này. Phải chăng khi nói dấn thân, các ngài muốn chúng ta sống với chính trị.

 

Con người sinh ra, sống và chết trong môi trường chính trị. Con người là con vật chính trị. Vì thế sống chính trị là điều kiện căn bản để thực hiện một cuộc sống đầy đủ của con người, cả về thể xác lẫn tinh thần. Sống chính trị không phải là làm chính trị. Làm chính trị nhắm mục tiêu tranh dành quyền lực. Sống chính trị cốt yếu ở chỗ thực hành những đức tính chính trị bắt đầu ngay từ bản thân mình và ngay trong đời sống thừơng nhật của mình. Tu sửa bản thân mình trước khi tu sửa xã hội.

 

Đức tính chính trị là những nỗ lực cải thiện các mối liên hệ giữa mình với người khác và rộng dần ra tới toàn thể xã hội, quốc gia.... Muốn làm tốt hơn những mối tương quan này, tất nhiên phải tìm hiểu đâu là những trở ngại, phía mình, phía người, tính chất của những trở ngại này rồi tìm ra những phương hướng giải quyết vấn đề dựa trên những điều kiện cơ bản, thích hợp với Tin Mừng.

 

Đức tính chính trị là những đức tính có tính cách cộng đồng, nằm trong các mối tương quan xã hội. Để luyện tập những đức tính này không thể đóng cửa tu thân hàm dưỡng trong phòng kín, mà phải dấn thân vào các sinh hoạt đoàn thể / cộng đồng. Phải cùng với nhiều người khác tạo ra một môi trường tập thể tu thân, tạm gọi là CỘNG TU. Giáo hội sơ khai của các tông đồ phải chăng cũng là những cộng đồng cộng tu, mọi người quây quần sống chung với nhau để cầu nguyện, ăn chay hãm mình và tu luyện.

 

Chính trị luôn luôn có tính cách bành trướng, tạo ra một mối tương quan mật thiết giữa phần tử với toàn thể. Vì thế việc thực hiện các đức tính chính trị tuy bắt đầu từ đời sống thường nhật của mình nhưng lại bắt buộc phải kết thúc ở toàn thể xã hội. Nếu không, sinh hoạt chính trị sẽ bị bóp méo hay bẻ gẫy. Đời sống con người và xã hội cũng bị xáo trộn theo.

 

Chính trị là sự áp đặt của toàn thể vào cá nhân. Nhưng đức tính chính trị lại là sự phản hồi từ cá nhân vào toàn thể. Khi sự phản hồi này được thể hiện, thì tính chất áp đặt không còn nữa, mà đã trở thành tự do dân chủ....đem lại phúc lợi chung cho mọi người. Mỗi người công giáo chúng ta, nếu sống đúng tinh thần Tin Mừng Chúa sẽ là những hạt nhân có tính phản hồi vào môi trường xã hội làm đẹp chính trị. ( Mt.5, 13-16).

 

Trong thực tế, làm được điều đó không phải là dễ . Chúa dạy "chúng ta phải thương yêu nhau như yêu chính mình vậy"( Mt. 22, 39)  đã hơn 2000 năm nay mà bây giờ, hàng ngày Giáo Hội và các cha vẫn còn phải nhắc nhở chúng ta. So kè những vấn đề khác nhau của đất nước là thực hiện một đức tính chính trị. Không đồng quan điểm về một vấn đề gì nhưng vẫn tiếp tục hợp tác trong các sinh hoạt của cộng đồng xã hội, lại là một đức tính chính trị khác.

 

Mỗi cá nhân tín hữu không tự cô lập trên ngọn núi của mình, mà phải xuống núi, xắn tay hợp tác với người khác, khép mình vào một kỷ luật làm việc tập thể, đó là đức tính chính trị.

 

Tạo được sự hợp tác giữa những bất đồng trong cùng một hệ phái, một cộng đồng đã là việc khó, tạo sự hợp tác này giữa những hệ phái / cộng đồng khác nhau lại còn khó hơn bội phần, đòi hỏi nhiều tập luyện các đức tính chính trị khác nhau, không thể chỉ nói xuông.

 

Nguyên do chính tạo ra những bất ổn trong xã hội là sự xung đột quyền lợi giữa người này với người khác, giữa nhóm này với nhóm khác. Giải quyết những vấn đề này mà phải dùng tới các thủ đoạn man trá và tàn độc thì thật ra không phải là giải quyết, mà chỉ triển hạn, đẩy lui vấn đề đi xa hơn bằng cách tạo ra nhiều vấn đề khác. Nước đang đục, khuấy cho đục thêm.

 

Để giải quyết những vấn đề có tính cách toàn diện này, không thể chỉ dựa vào sự luyện tập các đức tính chính trị nơi một số người, mà phải cần tới những sửa sang dự bị từ nền tảng trong mọi tương quan của toàn thể xã hội. Xã hội nào, chính quyền đó. Toàn thể gọi toàn thể. " Muối sẽ làm mặn môi trường. Ánh sáng sẽ xua đuổi bóng tối."(Mt. 5, 13-16). Một cuộc cách mạng chỉ thành công trong một môi trường đã dọn sẵn. Một chế độc tài cũng chỉ thành công trong một môi trường thích hợp với nó. Một chế độ không bỗng nhiên từ trời rơi xuống. Một chế độ bao giờ cũng là con đẻ của một tình trạng xã hội. Mà xã hội là do chính chúng ta tạo nên. Sống chính trị càng lan rộng thì mọi não trạng của xã hội sẽ thay đổi theo. Các tương quan sẽ từ từ thay đổi bản chất. Khi trái cây chín mùi đủ chỉ một cơn gió nhẹ cũng làm nó rụng xuống.

 

 

LỜI KẾT :

 

Để sáng tỏ ý nghĩa hai tiếng Chính trị theo quan điểm của Giáo Hội, tôi mượn mẩu đối thoại giữa một nhà báo Ý và Đức Thánh cha Gioan Phaolo II:

 

- Thưa Ngài, Ngài có làm chính trị không?

 

- Đừng hiểu chính trị theo nghĩa hẹp. Giáo Hoàng có bổn phận rao giảng phúc âm, mà trong phúc âm có con người, tức có nhân quyền, tự do, nhân phẩm và lương tâm cùng tất cả những gì thuộc về con người. Nếu tất cả những cái đó có một giá trị chính trị thì tôi làm chính trị. Vì tôi bênh vực con người. (Ezio Mauro e Paolo Mieli.G.P.II , La stampa 04.03.91,2).

 

Nguyễn Tiến Cảnh, MD. Ph.D.  

VỀ MỤC LỤC

 TÌNH YÊU KHÔNG KIÊU CĂNG

 

Tác phẩm 13 Nét Mặt Tình Yêu - Dominique AUZENET

Lm Micae-Phaolô Trần Minh Huy   chuyển ngữ

 

1. Tình yêu không phồng lên (kiêu ngạo) :

Ngoại động từ phồng lên thánh Phaolô dùng ở đây làm chúng ta liên tưởng đến ngụ ngôn La Fontaine "Con nhái muốn phồng to bằng con bò", và để rõ hơn, người ta dịch thêm phồng to kiêu ngạo : "Sự hiểu biết đó phồng to (sinh) lòng kiêu ngạo, còn lòng bác ái thì xây dựng" (I Cor 8,1). Kiêu ngạo, khoe khoang, kênh kiệu là những biểu lộ của lòng mến mộ chính mình, chứ không phải là của đức ái, vốn là tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân.

"Kẻ nào yêu bản thân bằng một tình yêu vô trật tự thì chẳng có đức ái nơi mình, bởi vì nó không yêu mến Chúa... Lòng tự ái lột bỏ đức ái khỏi tâm hồn để mặc cho nó tính xấu kiêu ngạo. Và chính vì thế mà mọi tội lỗi đều bắt nguồn từ lòng tự ái"[1]

Lòng tự ái được nhận diện bởi sự thích nghĩ đến mình hơn là nghĩ đến Chúa Kitô và Giáo Hội của Ngài. Hay còn bởi ước muốn làm cho các quan điểm riêng của mình được vượt trổi trong vấn đề nầy hoặc vấn nạn kia... Thánh Phaolô không dịu dàng với những người Côlossê :

"... Họ chìm đắm trong những thị kiến của mình, vênh váo vì những suy nghĩ theo lối người phàm. Họ không gắn chặt với Đầu là Đức Kitô..." (Col 2,18-19).

Thánh nhân còn gọi cái đó là sự hỗn láo ngạo mạn trong một bản liệt kê mà Ngài gọi là mớ lộn xôn : "chia rẽ, ghen tương, oán ghét, cạnh tranh, vu khống, nói hành, kiêu căng, hỗn loạn" (II Co 12,20). Đọc những điều như thế, có lẽ chúng ta không khỏi nghĩ rằng cả đến các cộng đoàn, giáo xứ chúng ta cũng chẳng hơn gì cộng đoàn Corintô !

2. Anh em đừng cho mình là khôn ngoan :

Đó là lời khuyên của thánh Phaolô vào cuối thư gởi tín hữu Rôma :

"Hãy đồng tâm nhất trí với nhau, đừng tự cao tự đại, nhưng ham thích những gì hèn mọn. Anh em đừng cho mình là khôn ngoan" (Rm 12,16).

Tito Colliander, một tín hữu Chính Thống có gia đình đã viết :

" Quả thật làm sao một người có thể nhận được những lời khuyên, sự đào tạo, giúp đỡ, nếu y nghĩ rằng mình biết hết mọi sự, có thể làm mọi thứ và chẳng cần lời khuyên bảo nào cả ? Không một tia sáng nào có thể xuyên qua được một bức tường tự mãn như thế : 'Khốn thay những kẻ coi mình là khôn ngoan, và cho mình là thông minh' (Is 5,21)...

Vậy chúng ta hãy lột bỏ sự tín nhiệm thái quá mà chúng ta có cho chính mình. Nó thường cắm rễ sâu trong mình mà chúng ta chẳng nhận thấy, ngay cả sự chế ngự mà nó thi thố trên tâm hồn chúng ta. Rõ ràng chính sự ích kỷ, sự quá lo lắng cho bản thân và lòng tự ái của chúng ta là nguyên nhân các khó khăn, sự thiếu tự do nội tâm trong cơn thử thách, những phật ý, những nỗi bứt rứt tâm hồn và thể xác của chúng ta.

Bạn hãy nhìn vào chính bạn, và bạn sẽ thấy bạn bị ràng buộc đến độ nào bởi ước muốn làm thỏa mãn "cái tôi" của bạn, và chỉ một mình nó thôi. Tự do của bạn đã bị trói buộc bởi những mối giây chật hẹp của lòng yêu bạn, và như thế vô tình bạn bị đu đưa như cái xác không ý thức từ sáng sớm đến chiều tối : 'Bây giờ tôi muốn uống, bây giờ tôi muốn đi ra ngoài, bây giờ tôi muốn đọc báo...' Trong mỗi khoảnh khắc, các ước muốn riêng của bạn xỏ mũi lôi kéo bạn như thế, và nếu có gì gây trở ngại là bạn nổi tam bành lên tức thì, vì phật ý, thiếu nhẫn nại hay tức giận.

Nếu bạn thăm dò trong sâu thẳm lương tâm mình, bạn sẽ khám phá ra những điều tương tự. Cảm giác khó chịu mà bạn cảm nhận khi có ai đó nói nghịch lại với bạn cho phép bạn dễ dàng thấy rõ điều đó. Chúng ta sống như vậy như những tên nô lệ. Nhưng 'ở đâu có Thánh Thần là ở đó có tự do' (2 Cor 3,17)"[1]

3. Anh em đừng đánh giá mình cao quá :

"Sự tự do mà Thánh Thần ban cho chúng ta đi qua một tình yêu đúng đắn đối với bản thân, nó dựa trên một sự hiểu biết đích thực về mình. 'Nếu con muốn đạt được sự hiểu biết hoàn hảo, nếu con muốn thưởng thức Chân lý vĩnh cửu là chính Chúa, thì đây là con đường : con đừng bao giờ ra khỏi sự hiểu biết chính con và luôn hạ mình trong thung lũng khiêm nhường. Con sẽ nhận ra chính Chúa ở trong con, và từ sự hiểu biết nầy con kéo ra được mọi thứ cần thiết. Không một nhân đức nào có thể có sự sống trong chính mình, ngoại trừ bởi đức ái và bởi đức khiêm nhường, vốn là mẹ nuôi của đức ái. Sự hiểu biết về chính con sẽ gợi lên cho con đức khiêm nhường, khi con khám phá ra được rằng con chẳng hiện hữu, và hữu thể mà con cũng như những người khác đã lãnh nhận từ nơi Chúa là Đấng yêu thương các con, trước khi các con có mặt trên đời"[1]

Nhân những ân ban thiêng liêng được trao cho cộng đoàn xuyên qua mỗi người chúng ta (việc nầy khêu lên các cám dỗ về kiêu ngạo), thánh Phaolô khuyến cáo sự đánh giá đúng đắn dựa trên một hiểu biết chân thật về chính mình nhu sau :

"Anh em đừng quá mức khi đánh giá chính mình, nhưng hãy đánh giá mình cho đúng mức, mỗi người tùy theo lượng đức tin Thiên Chúa đã phân phát cho" (Rm 12,3).

Lời kêu gọi đến đức khiêm tốn nầy là cần thiết cho chúng ta : chúng ta sẽ không bao giờ nhỡ phô trương sự hơn người của chúng ta, trong thái độ hay trong lời nói... Trong thư gởi tín hữu thành Philiphê, thánh Phaolô còn đi xa hơn :

"Đừng làm chi vì óc bè phái, vì hư danh, nhưng mỗi người hãy khiêm nhường đánh giá người khác trổi vượt hơn mình" (Phil 2,3).

4. Thiên Chúa chống lại những kẻ kiêu ngạo :

Chúng ta biết rõ lời cầu nguyện của Trinh Nữ Maria trước sự hiện diện của bà chị họ Elizabeth : Kinh Magnificat, linh hồn tôi ngợi khen Chúa. Mẹ hát lên Chúa đã đoái nhìn sự nghèo khó của nữ tỳ Ngài thế nào. Xuyên qua ân sủng dạt dào của Mầu nhiệm Nhập Thể nầy, Mẹ cũng nhận thấy rằng Chúa đến phân tán những kẻ kiêu ngạo bởi chính những tính toán của lòng họ.

Cha Laurentin chú giải :

"Những người nghèo sống trong chân lý : họ biết yếu đuối của họ và sự cao cả của Thiên Chúa. Còn những kẻ kiêu ngạo phồng mình lên, tự cho mình những vẽ bề ngoài cao hơn những gì thực sự là họ.Hảnh diện về bản thân và sự độc lập hơn người của mình, họ tự phụ phong cho mình làm địch thủ với Thiên Chúa. Tình yêu ảo tưởng về bản thân của họ làm cho họ trở nên thù nghịch với chân lý, và thù địch với những người nghèo mà họ thống trị để vươn lên.

... Thiên Chúa làm thất bại những ý định xảo trá không để các mánh khóe của chúng thành tựu. Ngài bắt những kẻ khôn ngoan ngay trong các mánh khóe của họ : 'Mưu đồ của hạng tinh khôn, Người phá vỡ, khiến tay chúng chẳng làm nên công trạng gì. Người bắt kẻ khôn ngoan bằng chính những xảo kế của chúng, và đi trước mưu toan của phường quỷ quyệt' (Job 5,12-13). Châm ngôn nầy thường được kiểm chứng qua dòng lịch sử : Những kẻ kiêu ngạo mà tham vọng và ảo tưởng vượt quá phương tiện của mình đang chuẫn bị cho sự suy tàn của chính chúng"[1]

Ở đây, trong lời cầu nguyện của mình, Mẹ Maria nêu lại một sự hiển nhiên xuyên suốt cả Kinh Thánh. Chẳng hạn thánh Phêrô trong thư thứ nhất :

"Anh em hãy lấy đức khiêm nhường mà đối xử với nhau, vì Thiên Chúa chống lại những kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho những người khiêm nhường" (I Pet 5,5).

"Nhưng ân sủng Người ban còn mạnh hơn, vì thế có lời Kinh Thánh nói : 'Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường' (Jc 4,6).

5. Mỗi người đều có sự kiêu ngạo của mình :

Dù hình thức thế nào đi nữa, sự kiêu ngạo của mỗi người đều có một điểm chung là sự đánh giá cao thái quá về bản thân mình. Nó được biểu lộ ra trong sự thỏa mãn hảo huyền về các tài năng hay ân ban của mình.

Người kiêu ngạo thích mình hơn kẻ khác và tự so sánh mình tốt hơn, được phú bẩm hơn kẻ khác. Người kiêu ngạo quên đi hay từ chối nhìn nhận những gì mình có, những gì mình là, đều bởi Thiên Chúa mà đến.

Sự kiêu ngạo mặc nhiều hình thức khác nhau :

·      Tính khoe khoang : một sự hảnh diện thái quá để đi tìm kiếm những danh dự, những sự cao trọng ; ưa xuất hiện, ưa thành công để thỏa mãn bản thân...

·      Sự thỏa mãn hảo huyền trong các tài năng và ân ban của mình,... tắt một lời là tự lấy làm thỏa mãn.

·      Ao ước biết hết mọi sự hay luôn luôn muốn biết nhiều hơn, nhiều hơn cả những gì Thiên Chúa đã muốn cho chúng ta biết (một số những tò mò nào đó là nguyên nhân của kiêu ngạo).

·      Tính tự phụ : chính là quá tự tín ở mình, có một ý kiến quá đề cao bản thân, hoặc còn hơn nữa là tìm kiếm một tình trạng cao hơn hiện trạng mà Thiên Chúa muốn cho chúng ta.

·      Tính tự ái : một tình yêu thái quá cho mình được biểu lộ qua việc tìm kiếm thoải mái, và được diễn tả ra trong việc thỏa mãn trước lời khen tặng ; trái lại, không thể chịu đựng nổi lời phê bình và từ chối không nhìn nhận các lầm lỗi của mình...

·      Tính quá nhạy cảm : Phật ý về một chuyện chẳng ra chi, không chấp nhận lời khiển trách... lòng tự ái bị dày vò.

·      Tính ích kỷ : Tính ích kỷ quơ tất cả về cho mình, tìm mình trong mọi sự, gặp lại mình ở khắp mọi nơi. Tất cả chúng ta đều hơn kém có hình thức kiêu ngạo nầy len lỏi vào cả những ý hướng tốt nhất.

·      Kiêu sa : một thứ  bảo đảm ngạo mạn được biểu lộ ra trong dáng vẻ, kiểu cách ; một thứ kiêu hảnh gần như khinh bỉ...

"Ở đây không thể nêu hết mọi chi tiết các hoa trái của kiêu ngạo trong đời sống hằng ngày của chúng ta : nói dối, chán nãn, buồn bã, độc lập, ghen tương, rụt rè...Quả thật, kiêu ngạo "là một ngọn gió rất nhẹ nhàng, rất tinh tế, nó thấâm nhập vào trong hầu hết mọi hoạt động của chúng ta... và nó là sợi giây buộc chặt cả chuỗi các tật xấu"[1]

6. "Hãy học cùng Thầy, vì Thầy khiêm nhượng thật trong lòng"

Chúa Giêsu nhấn mạnh điều đó : Sự kiêu ngạo đến từ trong lòng :

"Chính là từ bên trong, từ lòng dạ con người mà xuất ra những ý định tà vạy... kiêu ngạo, ngông cuồng. Tất cả những điều xấu xa đó đều từ bên trong xuất ra và làm cho con người ra ô uế" (Mc 21-23).

Và kiêu ngạo :

·        đóng lòng chúng ta với đức tin : "Làm sao anh em có thể tin được, khi anh em chỉ biết nhận lãnh vinh quang lẫn cho nhau ?" (Jn 5,44).

·        làm chúng ta ra mù quáng : "...người lên mặt kiêu căng không biết gì cả, nhưng mắc bệnh ham tranh luận và thích cãi chữ. Do đó sinh ra ganh tỵ, tranh chấp, lộng ngôn, nghĩ xấu" (I Tm 6,4). "... sẽ có những lúc gay go, người ta sẽ ra ích kỷ, ham tiền bạc, khóac lác, kiêu ngạo, nói lộng ngôn, không vâng lời cha mẹ, vô ơn bạc nghĩa, phạm thượng, vô tâm vô tình, tàn nhẫn, nói xấu, thiếu tiết độ, hung dữ, ghét điều thiện, phản trắc, nông nổi, lên mặt kiêu căng, yêu khoái lạc hơn yêu Thiên Chúa" (II Tm 3,1-4).

·        làm cho chúng ta quay đầu lại : "... kẻo lên mặt kiêu căng mà bị kết án như ma quỷ" (I Tm 3,6)

·        làm cho chúng ta lầm lạc : "Lòng kiêu ngạo của ngươi đã đánh lừa ngươi" (Ovadia 3).

"Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, và ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên" (Lc 14,11 và 18,14). Vậy lòng chúng ta cần được thanh tẩy bởi ân huệ của Chúa Thánh Thần mà Chúa Cha đã hứa và Chúa Giêsu phái đến.

"Cha giới thiệu với các con một nhân đức rất thiết thân với lòng Chúa Cứu Thế. Ngài nói : 'Hãy học cùng Thầy vì Thầy dịu hiền và khiêm nhượng thật trong lòng' (Mt 11,29). Cha liều mình nói một điều dại dột, nhưng cha vẫn nói ra là Chúa quá yêu thương nhân loại đến đỗi đôi khi Ngài cho phép xảy ra những tội trọng. Tại sao ? Để những kẻ đã phạm các tội ấy vẫn ăn ở khiêm nhường, sau khi đã thống hối. Không ai muốn tự coi mình là thánh thiên khi ý thức được mình đã phạm những lỗi nặng. Chúa Cứu Thế đã khuyên nhũ nhiều về điều đó : "Hãy ăn ở khiêm nhường !" Ngay cả khi các con làm được những việc trọng đại, hãy nói : chúng tôi là những đầy tớ vô dụng. Thế nhưng tất cả chúng ta đều có khuynh hướng làm ngược lại và tìm cách làm cho mình nổi bật. Hãy trở nên bé nhỏ, đó là nhân đức kitô giáo có liên quan đến mỗi người chúng ta"[1]

Đức khiêm nhường, vốn là một cái nhìn khách quan và chân thật về bản thân, sẽ thắng thế trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta, khi nó làm phát sinh trong chúng ta những hoa trái của một sự trưởng thành thiêng liêng lớn lao hơn : giản dị khiêm tốn, nhu cầu huynh đệ giúp nhau, chấp nhận bản thân, sự dửng dưng liên quan đến danh tiếng của mình, việc không bao giờ ngã lòng, bình an và niềm vui nội tâm, tìm kiếm chân lý... Chúng ta hãy ao ước và cầu xin đức khiêm nhường trong kinh nguyện hằng ngày của chúng ta.

"Sự tiến bộ trong đời sống thiêng liêng được biểu lộ ra qua một hiểu biết luôn luôn được tích tụ thêm về chính sự bất xứng của mình, theo nghĩa đầy đủ và mặt chữ, ngay khi chúng ta tự cho mình giá trị nào đó, dù bằng cách nào đi nữa, thì điều đó chứng tỏ các việc không xuôi. Cái đó cũng nguy hiểm nữa, bởi vì Kẻ Thù sẽ tiến lại gần và bắt đầu làm chúng ta mất cảnh giác về cách nó đặt trở ngại trên đường chúng ta đi. Linh hồn có ý nghĩ quá cao về mình giống như con quạ trong chuyện ngụ ngôn, thích nghe những lời nịnh hót của con cáo, và để chứng tỏ giọng hát hay của mình, nó đã để rơi mất miếng phó mát. Xin Chúa giúp bạn thực hiện cách ý thức hơn cái bổn phận không được gán giá trị gì cho các công trình của bạn"[1]

 

Suy niệm để lần hạt Mân Côi

1. Tình yêu không kiêu căng. "Sự hiểu biết sinh lòng kiêu ngạo, còn lòng bác ái thì xây dựng" (I Cor 8,1). Chúng ta hãy cầu nguyện cho sự hiểu biết nơi mỗi người chúng ta được nên cơ hội chia sẻ, chứ không phải để phô trương lòng tự phụ là mình hiểu biết hơn người.

2. Tình yêu không kiêu căng. "Anh em hãy đồng tâm nhất trí với nhau, đừng tự cao tự đại, nhưng ham thích những điều hèn mọn. Anh em đừng cho mình là khôn ngoan" (Rm 12,16). Trong khi cùng Mẹ Maria chiêm ngắm Chúa Giêsu đã sống thế nào, chúng ta hãy xin ơn được lôi kéo bởi những gì là khiêm nhường.

3. Tình yêu không kiêu căng. "Đừng đi quá mức trong khi đánh giá mình, nhưng hãy đánh giá mình cho đúng mức, mỗi người tùy theo lượng đức tin Thiên Chúa đã phân phát cho"(Rm 12,3). Lạy Chúa, xin ban cho chúng con biết đón nhận những cơ hội phải sống tầm thường và bé nhỏ như đến từ bàn tay Chúa.

4. Tình yêu không kiêu căng. "Anh em hãy lấy đức khiêm nhường mà đối xử với nhau, vì Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường" (I Pet 5,5 - Jc 4,6). Lạy Chúa, xin ban cho con biết nhìn nhận những sai trái của con khi làm tổn thương các người khác bởi tính ngạo nghễ của con, và mặc cho con đức khiêm nhường.

5. Tình yêu không kiêu căng. "Anh em hãy học cùng Thầy, vì Thầy dịu hiền và khiêm nhượng thật trong lòng" (Mt 11,29). Nhờ lời cầu bàu của Mẹ Maria, xin Chúa Thánh Thần nắn đúc trong chúng con sự dịu hiền và khiêm nhượng của Trái tim Chúa Giêsu.

 

VỀ MỤC LỤC
Ăn Mất Ngon

 

Ngon miệng (appetite) là khoái cảm, thèm muốn ăn uống. Ăn mất ngon xảy ra khi không còn thèm muốn này, mặc dù cơ thể vẫn có nhu cầu về năng lượng.

 Ăn mất ngon, dù do nguyên nhân nào, là một biến cố quan trọng đối với mọi người, đặc biệt là người cao niên và trẻ đang tăng trưởng.

Ăn mất ngon không phải là một bệnh mà là dấu hiệu, triệu chứng của một bệnh nào đó.

Khi ăn không ngon thì sự tiêu thụ thực phẩm giảm. Mà thực phẩm lại mang năng lượng cho mọi sinh hoạt của cơ thể, cung cấp vật liệu để tu bổ tế bào hư hao, tạo ra tế bào mới. Không có đủ chất dinh dưỡng sẽ dẫn tới giảm cân, cơ thể mệt mỏi, bắp thịt teo, tâm thần buồn rầu, giảm khả năng miễn dịch, kém sức chịu đựng. Tử vong có thể xảy ra nếu mỗi năm liên tục sụt đi 10% sức nặng cơ thể. Các cụ ta có kinh nghiệm là “không ăn thì mẻ cũng chết, nói chi con người”.

Cũng cần phân biệt sự ăn mất ngon với bệnh anorexia nervosa. Ðây là một rối loạn ăn uống có tính cách tâm lý của người từ chối dinh dưỡng đầy đủ dù họ đói và mất cân trầm trọng. Lúc nào họ cũng coi mình như quá mập, tự làm ói mửa để trục xuất thực phẩm ra khỏi bao tử. Bệnh thường thấy ở tuổi thanh thiếu niên, đặc biệt là nữ giới.

 

Phân biệt cảm giác đói và sự ngon miệng thèm ăn

Ðói (Hunger) là sự ước muốn tự nhiên với thực phẩm sau một thời gian không ăn uống. Cảm giác này được thỏa mãn bởi sự tiếp thu thức ăn.

Ðói được trung tâm nằm trong bộ phận hypothalamus trên não bộ điều khiển. Trung tâm này hoạt động tùy theo mức độ chất dinh dưỡng trong máu. Khi mức độ chất dinh dưỡng thấp, hypothalamus phát ra một tín hiệu gây ra cảm giác đói. Cảm giác cũng xuất hiện khi bao tử trống rỗng co bóp. Vì thế người ăn vặt luôn miệng không có cảm giác đói này.

Có người khi đói cồn cào thì ăn gì cũng thấy ngon. Lại có người đang đói thấy món ăn không thích lắm cũng không thèm ăn món đó. Ngược lại có người khi đã no bụng mà thấy một món ăn hấp dẫn thì vẫn muốn ăn.

Một món ăn bổ dưỡng mà ta không thèm ăn thì sự bổ dưỡng cũng vô ích. Một số người lại chỉ ăn món họ thích, bất kể bổ dưỡng hay không. Cho nên mới có chuyện thiếu dinh dưỡng, nhất là ở trẻ em.

Khi ta ăn và nuốt thức ăn thì một tín hiệu thỏa mãn chuyển lên hypothalamus và cảm giác đói giảm đi. Khi dạ dày chứa nhiều thực phẩm thì cảm giác đói không còn nữa. Ta có cảm giác “no nê”, thỏa mãn ước muốn thực phẩm.

Cảm giác thèm ăn khác với cảm giác đói. Ðây là một đáp ứng do học hỏi hoặc do thói quen khi trông thấy thực phẩm. Thèm thức ăn không liên hệ gì với nhu cầu cần thức ăn. Ví dụ sau một bữa ăn đầy đủ, không ăn được nữa, nhưng con người vẫn thèm muốn ăn thêm và họ ăn một cách thích thú. Người ta gọi trường hợp này là “no bụng, đói con mắt”, bởi vì cảm giác thèm thuồng này nảy sinh như một nhu cầu tâm lý.

Có nhiều yếu tố ảnh hưởng tới sự thèm ăn:

- Tùy thuộc thói quen ăn nhiều, tập quán gia đình, trình độ học vấn, văn hóa ăn uống địa phương. Vì thế có giống người này dễ mập hơn giống khác hoặc cùng ăn như nhau mà có người gầy, người béo.

- Dưới ảnh hưởng của xúc động tâm lý. Nhiều người ở trong tâm trạng buồn chán, căng thẳng lấy sự ăn uống để khuây khỏa; khi mất mát thì ăn để đền bù; trẻ em ăn nhiều để lấy sự chú ý của cha mẹ.

Cơ quan hypothalamus ở não bộ điều hòa sự thèm ăn, nhưng nguyên lý của sự điều hòa này chưa được biết rõ.

 

Nguyên nhân ăn mất ngon

Có nhiều nguyên nhân gây ra ăn mất ngon

1-  Ăn mất ngon vì bệnh tật như: 

a- Trong bệnh tim-phổi, người bệnh mệt mỏi không muốn ăn, lại còn bị sụt cân vì các chức năng tuần hoàn, hô hấp cần nhiều năng lượng hơn để làm việc.

 Ngoài ra, các thuốc trị bệnh tim phổi như steroid, theophyllin làm tăng hơi trong bao tử, bệnh nhân cảm thấy no bụng, không muốn ăn.

b- Bệnh ung thư đặc biệt là ung thư phổi và bao tử

c- Nhiễm trùng như trong trường hợp bênh lao, bệnh AIDS.

d- Bệnh nội tiết như tuyến giáp trạng ác tính, bệnh tiểu đường

đ- Trầm cảm, buồn phiền vì sống cô lập hay mất bạn đồng hành.

e- Rối loạn vị giác và khứu giác khiến cho không biết được hương vị thực phẩm và không ăn

2- Nghiện rượu

Rất thường xẩy ra ở người cao tuổi. Khi uống rượu say, họ coi thường việc tiêu thụ thực phẩm. Khi hồi phục cơn say, họ ói mửa, tiêu chẩy, không muốn ăn.

Rượu cũng gây hư hao các chức năng và cấu trúc của gan, ảnh hưởng tới sự tiêu hóa, hấp thụ và tồn trữ thực phẩm, sinh tố và kim loại cần thiết.

3- Ăn mất ngon do tác dụng phụ của dược phẩm

- Thuốc amphetamine làm giảm sự ăn, cho nên nhiều người mập phì muốn giảm cân đã dùng.

- Lạm dụng các loại thuốc kích thích thần kinh (thuốc lắc ectasy)

- Thuốc trụ sinh gây tiêu chẩy và làm thay đổi mùi vị thực phẩm; thuốc trị ung thư gây ăn mất ngon đồng thời cũng đưa tới táo bón, ói mửa, tiêu chẩy.

- Các thuốc trị bệnh tim, thuốc an thần, thuốc ngủ giảm khoái cảm ăn uống.

- Vài loại thuốc gây khô miệng (cogentin, artane), khiến cho sự nhai nuốt thức ăn khó khăn.

- Thuốc chống đau nhức, thuốc trị cảm, chống nghẹt mũi

Ngoài ra, người cao tuổi còn kém ăn vì dùng nhiều loại thuốc trong ngày, khiến cho ngang bụng, không muốn ăn.

4-  Bệnh răng miệng, răng giả lung lay, nhai nuốt khó khăn; yếu sức hoặc đau nhức không sử dụng tay hữu hiệu để đưa thức ăn vào miệng; ăn chậm làm thức ăn nguội không hấp dẫn, bỏ dở bữa ăn. 

5- Không có thực phẩm, nghèo túng, suy yếu không đi mua đồ ăn được, không nấu nướng được.

 

Chẩn đoán bệnh

Chẩn đoán bệnh căn cứ vào lời kể của bệnh nhân về rối loạn trong việc ăn uống:

- Mất khẩu vị từ khi nào? sau biến cố hoàn cảnh nào? Nhiều hay ít?

- Có dấu hiệu gì khác như buồn nôn, ói, táo bón, đau bụng...

- Có bệnh kinh niên?

- Có sụt cân không? Bao nhiêu kí?

- Quần áo thấy rộng ra, bắp thịt teo

-Giảm sức nặng bình thường

Ðể tìm nguyên nhân, các thử nghiệm như chụp X-quang và nội soi dạ dày, ruột; thử nghiệm các chức năng của gan, thận, tuyến giáp, thử nước tiểu, thử thai.

 

Ðiều trị

Vì mất ăn ngon chỉ là dấu hiệu của một bệnh nào đó trong cơ thể, cho nên cần đi bác sĩ để tìm ra nguyên nhân rồi điều trị nguyên nhân đó.

Với bệnh nhân, nên lưu ý tới các điểm sau đây:

 - Ăn chung với bạn bè hợp tính sẽ vui hơn và ăn được nhiều hơn.

- Bầy biện bàn ăn với chén bát mầu sắc, sạch sẽ, kèm thêm vài bông hoa, điệu nhạc hấp dẫn

- Ăn làm nhiều bữa nhỏ mỗi hai giờ trong ngày thay vì hai hoặc ba bữa ăn chính. Một mâm cơm với nhiều món ăn có thể làm nhiều người thấy ngán, không muốn ăn. Ăn ít một giúp tiêu hóa dễ dàng hơn rồi sau đó tăng dần dần phần ăn.

- Món ăn phải hợp với khẩu vị, ý thích của mỗi cá nhân

- Khi ăn, nên chậm rãi nhai để thưởng thức hương vị món ăn và tạo ra sự muốn ăn món đó trong tương lai

- Bữa ăn nào thấy ngon miệng thì tăng món ăn trong bữa đó.

- Thêm gia vị, mầu sắc khi nấu nướng để món ăn hấp dẫn hơn

- Tránh uống nhiều nước hoặc uống thuốc trước bữa ăn để tránh no bụng.

- Kiêng món ăn có thể làm no hơi như nước có gas, cà phê, rau cải bắp, broccoli.

- Ðể có đủ năng lượng và chất đạm, uống hai ly sữa ít chất béo hoặc sữa đậu nành mỗi ngày.

- Tránh tiêu thụ quá nhiều rượu và thuốc lá là những chất kích thích niêm mạc dạ dày, ruột khiến cho ăn không thấy ngon. Nhiều người dùng  một chút rượu gọi là “khai vị” để giúp ăn ngon, nhưng nên uống trước bữa ăn khoảng nửa giờ.

- Uống nước đầy đủ để miệng khỏi khô, khó nhai nuốt thực phẩm.

- Tránh táo bón và tiêu chẩy.

- Ði bộ hoặc tập luyện nhẹ giúp ăn ngon hơn đồng thời cũng giúp cơ thể tiêu thụ chất dinh dưỡng. Tránh các tập luyện quá sức của mình.

- Giữ gìn vệ sinh răng miệng, điều chỉnh răng giả, khám bác sĩ nha khoa theo định kỳ.

- Giảm thiểu nguyên nhân tinh thần như căng thẳng bằng tâm lý trị liệu, áp dụng phương pháp thư giãn cơ thể, thiền định, tập trung hít thở để giảm bồn chốn, lo âu, nhờ đó có thể cải thiện sự ăn uống.

 

Biếng ăn ở trẻ em

Biếng ăn thường xảy ra ở trẻ em, đặc biệt là tuổi đang tăng trưởng.

Với tuổi này, biếng ăn không phải bao giờ cũng do đau ốm vì khẩu vị con người thay đổi một cách tự nhiên tùy theo tâm trạng, thời gian... Có nhiều em mải chơi, không nghĩ tới ăn uống. Nhưng đôi khi con biếng ăn cũng do lỗi ở cha mẹ, ép buộc ăn khi chúng chưa muốn ăn; cho ăn các món ăn mà con không thích. Một số bà mẹ cho con uống thuốc bằng cách pha lẫn vào sữa hoặc thức ăn, chúng sợ đắng nên không ăn.

Số lượng thực phẩm mà bé tiêu thụ là cần thiết nhưng cũng cần theo dõi tăng trọng cơ thể. Nhiều bé có vẻ như ít ăn nhưng vẫn lên cân đều, không bệnh tật, vẫn khỏe mạnh, vui chơi

Tuy nhiên, có những trường hợp mà trẻ thực sự biếng ăn, không chịu tiêu thụ đủ lượng dinh dưỡng cần thiết, khiến cho cha mẹ rất lo ngại mà không biết làm sao để trẻ ăn nhiều hơn.

Sau đây là một số gợi ý có thể giúp trẻ ăn ngon hơn, và nhờ đó ăn nhiều hơn:

a- Bữa ăn cần có không khí thoải mái, thân thiện, không ép bé ngồi gò bó trên ghế;

b- Khích lệ bé bằng những trò vui, vừa chơi vừa ăn, bằng thực phẩm nhiều mầu sắc, hương vị khác nhau;

c- Ðể trẻ được thoải mái, tự  khám phá món ăn với các giác quan của mình: sờ mó món ăn, ngửi món ăn, nếm thử món ăn. Tất nhiên là phải đảm bảo các điều kiện vệ sinh trước khi cho trẻ ăn.

d- Cho bé ăn nhiều món ăn khác nhau từ khi bé được 7-8 tháng tuổi để trẻ quen với nhiều loại thức ăn;

đ- Có khi bé thích món này mà không thích món kia, không nên ép ăn món bé không thích. Bé ăn là mừng rồi. Có thể vào thời gian khác trẻ lại thay đổi khẩu vị và sẽ thích món đó;

e. Không nên cho thuốc bổ, thuốc trị bệnh vào thức ăn vì mùi vị thuốc làm trẻ thấy e ngại khi ăn;

g- Không cố ép bé ăn cho hết phần ăn, khi bé không thích sẽ nôn ọe. Lấy thức ăn vừa đủ, không quá nhiều có thể làm trẻ "ngán" khi nhìn thấy. Khi trẻ ăn được, nếu cần thì lấy thêm;

h- Không cho ăn các món vặt gần hoặc ngay trước bữa ăn chính, để trẻ thấy đói mới có thể ăn hết lượng thực phẩm đã chuẩn bị;

i- Không dùng thức ăn như một hình thức thưởng phạt.

Tuy nhiên, biếng ăn cũng có thể là dấu hiệu của một số bệnh như nhiễm độc, nóng sốt, tiêu chẩy, hô hấp, sán lãi. Nên tham khảo ý kiến bác sĩ khi thấy bé có triệu chứng biếng ăn kéo dài.

 

Kết luận

Ăn uống là cả một nghệ thuật. Ðể ăn ngon cũng phức tạp hơn. Chẳng thế mà lão thi sĩ Tản Ðà đã thốt ra:

« Nghề ăn cũng lắm công phu

Làng ăn ta phải biết cho đủ mùi »

Cụ cũng nêu ra bốn tiêu chuẩn để có bữa ăn ngon miệng:

« Thức ăn ngon

Lúc ăn ngon

Chỗ ăn ngon

Người ăn cùng ăn ngon » 

Nếu liên tục ăn không ngon, cơ thể sẽ thiếu chất dinh dưỡng, suy nhược, gầy mòn, mất tinh anh, có thể đưa tới tử vong.

Và dân gian ta cũng ghi nhận:

« Ăn được ngủ được là tiên

Không ăn không ngủ, mất tiền thêm lo ».

 

Bác sĩ Nguyễn Ý-Ðức  Texas-Hoa Kỳ.

VỀ MỤC LỤC

BÀN VỀ CHỮ DANH - Chuyện phiếm của Gã Siêu.

 

Trong số trước, gã đã bàn đến nghề nghiệp và để cho đủ món ăn chơi, trong số này gã xin nói tới công danh, như một hậu quả tất nhiên của việc mình đã hùng hục kéo cày, mình đã bươm chải ngược xuôi, mình đã vất vả kiếm sống.

Mở bất cứ cuốn tự điển Việt Nam nào, gã cũng thấy được hai ý nghĩa của chữ danh. Nghĩa thứ nhất, đó là tên. Nghĩa thứ hai, đó là tiếng tăm. Gã sẽ từ từ mổ xẻ hai ý nghĩa này.

Trước hết, danh có nghĩa là tên. Kể từ khi cất tiếng khóc oe oe đi vào cuộc sống, chúng ta được cha mẹ đặt cho một cái tên, nhờ đó thiên hạ có thể phân biệt chúng ta với người này người nọ.

Phép đặt tên của người Việt Nam cũng khá nhiêu khê và rắc rối. Gã chỉ xin ghi lại những điểm chính đã được Toan Ánh trình bày trong cuốn “Con người Việt Nam”, rồi sau đó thêm mắm thêm muối cho đậm đà hơn một tí.

Theo tác giả, ngày xưa nước ta không có hộ tịch hộ khẩu,  thành thử đứa bé mở mắt chào đời không phải làm giấy khai sinh, người ta có thói quen gọi nó là thằng cu, cái đĩ, thằng tý, con đỏ…tùy theo nó là con giai hay con gái.

Riêng với những gia đình hiếm muộn, thường gọi con cái bằng một cái tên rất xấu, như thằng Tèo, cái Tủn…vì sợ rằng tên đẹp quá, thì sẽ bị ông “ngáo ộp” vồ mất, hay sẽ bị cô hồn các đẳng rước đi. Và cứ thế, cứ thế cho đến  lúc khôn lớn. Lắm khi sắp sửa lấy vợ lấy chồng, con cái mới được cha mẹ chính thức đặt tên cho.

Còn ngày nay thì khác, vợ vừa mới có “cứt gián”, chồng đã hý hửng chọn tên cho con. Hay vừa mới siêu âm về, biết được con mình là giai hay là gái, cha mẹ đã vội xì xầm bàn tán chuyện đặt tên cho con.

Và khi đặt tên cho con, cha mẹ phải lưu ý không được trùng tên với vua quan, hay chú bác, ông cụ bà kỵ của mình cũng như của lối xóm, bằng không thì rắc rối to.

Gã đã từng chứng kiến cảnh hai vợ chồng trẻ có được đứa con đầu lòng, hớn hở đặt tên và làm giấy khai sinh cho con. Nhưng vừa về tới nhà, liền bị người bà con xa lắc xa lơ đến mắng cho một chặp :

- Bộ hết tên rồi sao mà đặt tên ấy cho nó. Chúng mày có biết không tên ấy là tên cụ cố sinh ra ông ngoại của thím tao.

Và thế là trong giấy tờ đứa bé có một tên, còn trong đời thường thì  nó lại được gọi bằng một tên khác.

Tuy nhiên, nhiều người khi oán ghét một ai, lại cố tình lấy tên kẻ ấy mà đặt cho con của mình và coi đó như một cách…trả thù dân tộc vậy!!!

Hầu như dân tộc nào cũng thế, người ta rất thận trọng trong khi đặt tên, bởi vì tên gọi ít ra cũng  phải nói lên ước vọng của cha mẹ đối với con cái.

Chẳng hạn trong Kinh Thánh, Đức Chúa Trời hẳn đã đặt tên cho người đờn ông đầu tiên là Adong và Adong vừa có nghĩa là bùn đất vừa có nghĩa là con người. Sau đó, Adong, người đờn ông đầu tiên ấy đã chớp  chớp đôi mắt khi gặp người đờn bà đầu tiên và ông đặt tên cho nàng là Eva, có nghĩa là mẹ của chúng sinh. Đức Giavê đã đổi tên cho Abram thành Abraham, có nghĩa là cha của nhiều dân tộc. Còn  Đức Kitô đã cải tên cho ông Simon thành Phêrô, có nghĩa là đá tảng.

Người Việt Nam cũng thế, cha mẹ thường gửi gấm những ước vọng thầm kín của mình vào tên gọi của con cái. Chẳng hạn cụ thân sinh ông Cao Bá Quát đặt tên cho hai con của mình là Bá Đạt và Bá Quát, bởi vì đời nhà Chu bên Tàu có tám vị hiền sĩ , đó là Bá Quát và Bá Đạt, Trọng Đột và Trọng Hốt, Thúc Dạ và Thúc Quý, Quý Quỳ và Quý Đa. Đặt tên cho hai con là Bá Đạt và Bá Quát, cụ thân sinh ra các ông đã muốn cho các con mình sau này cũng sẽ trở nên những bậc hiền sĩ.

Một tên đầy đủ thường gồm có ba phần, đó là họ, chữ đệm và tên.

Trước hết là họ. Họ từ tổ tiên truyền xuống, đời này qua đời khác. Thường thì con lấy họ của bố, nhưng cũng có trường hợp theo họ mẹ, chẳng hạn khi người mẹ không có anh em trai, thì một trong những người con sẽ lấy họ mẹ để lo việc phụng thờ ngoại tộc, hay khi người mẹ sinh con ra mà không có bố…

Tiếp đến là chữ đệm. Đờn bà con gái thường dùng chữ Thị. Còn đờn ông con giai thường dùng mấy chữ như Văn, Đình, Hữu, Duy…Ngày nay chữ đệm đã thay đổi nhiều. Đờn bà con gái lắm người không thích chữ Thị, vì xem ra có vẻ bị lép vế, nên dùng những chữ khác cho thêm phần mộng mơ, lãng mạn và âm vang leng keng, như chữ Mộng, Lệ, Thùy…

Viết tới đây, gã rất lấy làm “tâm phục khẩu phục” các bậc phụ mẫu thời trước. Tuy hoàn cảnh lúc bấy giờ chưa sáng, những quí cụ ông, quí cụ bà đã từng đặt những cái tên thật kêu và thật đẹp cho con cái mình, chẳng hạn như Mộng Xuân, Lệ Thu, Thúy Lam, Diễm Quỳnh…Quả là hết xảy và trên cả tuyệt vời nữa!

Sau cùng là tên. Đây là phần cuối, nhưng lại là phần chính. Như đã nói ở trên, tên được chọn để nói lên sở nguyện của cha mẹ, của kẻ mang tên, hay ít ra cũng phải có một ý nghĩa nào đó.

Đối với con gái, người ta ưa chọn tên các loài hoa như Lan, Huệ, Cúc, Mai, Đào, Liễu, Liên…hay tên bốn mùa như Xuân, Hạ, Thu, Đông…Đối với con giai, người ta thích những tên có tính cách hùng mạnh, nói lên bổn tính của phái nam, như Nhân, Trí, Dũng, Tín, Trực…hay đôi khi giản tiện, người ta lấy ngay năm sinh để đặt cho con, như Tý, Sửu,  Dần,  Mão…

Cũng giống như dân Do Thái, người Việt Nam ta có tục kiêng tên. Khi có con đầu lòng, thì người ta dùng tên con để gọi bố mẹ nó, dù tên nó lúc bấy giờ mới chỉ là một tên tạm bợ, như tên Tí, tên Tẹo. Người ta gọi bố mẹ nó là bác Tí giai và bác Tí gái, hay bác Tẹo giai và bác Tẹo gái.

Chính vì sự kiêng tên, mà nhiều chữ phải đọc chệch sang chữ khác, chẳng hạn như Hoàng đổi thành Huỳnh, Vũ đổi thành Võ, Long đổi thành Luông…

Khi có tí chức, tí quyền hay tí tiếng tăm, có khi người ta dùng họ để gọi thay tên, chẳng hạn như Nguyễn tiên sinh, bác Hồ, bác Tôn…Có khi người ta dùng chức tước văn bằng để gọi, chẳng hạn như ông Huyện Đặng, cụ Cử Vũ…có khi người ta dùng tên làng, tên xã để gọi, chẳng hạn như Ông tú Vị Xuyên, cụ Tam nguyên Yên Đổ.

Bình thường, chỉ những kẻ bạch đinh, vai nặng chân trơn, mới phải dùng tên để gọi, vì thế tại các làng xã, người ta cố dành dụm chút tiền còm để mua cho mình tí chức như  chân nhiêu, chân xã hầu được bàn dân thiên hạ gọi là ông nhiêu và bà nhiêu, ông xã và bà xã thay cho tên của mình.

Đặc biệt khi vác lều chõng đi thi, thì phải biết kiêng húy, có nghĩa là trong bài văn, thí sinh không được dùng những chữ dính dáng đến tên của nhà vua và các vị tôn tộc trực hệ. Nếu chẳng may phạm húy, thì dù bài văn có tuyệt vời đến đâu, cũng sẽ bị sổ toẹt và nhiều khi còn mang lấy vạ vào thân.

Tuy nhiên, đã có danh thì cũng cần phải có tiếng, nghĩa là cái tên của mình phải được nhiều người biết đến. Hơn thế nữa, người ta vốn không ưa những sự quá đơn giản, mà lại thích những sự rườm rà hoa lá cành. Trần xì cái tên cha mẹ đặt cho như Tí, Tèo, Tẹo…mà thôi chưa đủ, cần phải phụ đề vào đó chút ít, như ông giám đốc Tí, bà bác sĩ Tèo, bác chủ tịch Tẹo…Chính những thứ phụ tùng lỉnh kỉnh này làm cho người ta nở mày nở mũi và nghênh ngang với đời.

Vì thế, chữ danh, ngoài cái ý nghĩa là tên gọi, còn mang một ý nghĩa khác nữa, đó là tiếng tăm.

Đứng trước cái danh này, gã nhận thấy bàn dân thiên hạ được chia làm hai phe : tiêu cực và tích cực.

Phe thứ nhất mang tính cách tiêu cực, coi tiếng tăm chỉ là sự giả trá thế gian, hay như một thứ phân bón, nên không màng chi đến. Chẳng hạn như tục ngữ đã bảo :

- Công danh bánh vẽ, giàu sang chiêm bao.

Hay như Tản Đà cũng đã viết :

- Vèo trông lá rụng đầy sân,

Công danh phù thế có ngần ấy thôi.

Bởi đó, người ta rất e dè và ngần ngại :

- Cây cao thì gió càng lay,

Càng cao danh vọng, càng dày gian truân.

- Làm trai quyết chí tu thân,

Công danh chớ vội, nợ nần chớ lo.

Điều quan trọng là phải chí thú làm ăn, ra sức gầy dựng sự nghiệp, rồi tiếng tăm ắt sẽ tới, mà lỡ nó không tới cũng chẳng sao cả, vì rốt cuộc ta vẫn là ta kia mà, như lời Hoàng Đạo trong “Mười điều tâm niệm” đã khuyên giới trẻ :

- Cần sự nghiệp, chứ không cần công danh.

Hay như ca dao cũng đã nhắc nhở :

- Công danh đeo đuổi mà chi,

Sao bằng chăm chỉ giữ nghề canh nông.

Thậm chí có người còn phớt lờ cái danh, xóa tên nó trong sổ nhân sinh và đặt nó ra bên rìa cuộc đời mình :

- Chen chúc lợi danh đà chán ngắt,

Cúc tùng phong nguyệt mới vui sao.

Phe thứ hai mang tính cách tích cực, phải hăm hở lăn xả và nhập cuộc để kiếm chút cháo. Đại diện cho phe chịu chơi, phe diều hâu, chủ chiến này chính là Nguyễn Công Trứ. Rải rắc trong thơ văn, ông luôn hô hào :

- Tang bồng hồ thỉ nam nhi trái,

Cái công danh là cái nợ lần.

Đường đường là một kẻ trượng phu, một đấng tu mi nam tử mà chẳng có một tí công danh thì thà chết quách đi cho rồi :

- Có trung hiếu nên đứng trong trời đất,

Không công danh thà nát với cỏ cây.

Vì thế, phải dứt khóat lập trường, phải ra sức tạo lập cho mình một tiếng tăm cho thiên hạ biết mặt cũng như cho đời biết tên :

- Đã mang tiếng ở trong trời đất,

Phải có danh gì với núi sông.

Chữ danh thường đi đôi với chữ lợi. Có tiếng tăm thì cũng thường có nhiều bổng lộc vật chất, nói chung là có nhiều tiền. Danh và lợi vốn tỷ lệ thuận với nhau. Người ta thường hay lợi dụng cái danh của mình để vơ vét về cho thật nhiều. Đồng thời cái lợi chính là một chất kích thích làm cho người ta phấn khởi và hồ hởi leo lên cao, lên cao hơn nữa, cho dù có phải luồn, phải lách, hay phải cúi gập người xuống.

Nhìn thấy cái lợi, hay cụ thể hơn, nhìn thấy tiền, mắt ai mà chẳng sáng lên như đèn ô tô. Từ đứa con nít cho chí tới ông già, nghĩa là tất tật nam phụ lão ấu đều thấu triệt giá trị của đồng tiền, như một câu ca dao hôm nay đã sánh ví :

- Tiền là tiên là phật,

Là sức bật của tuổi trẻ,

Là sức khỏe của tuổi già,

Là cái đà của danh vọng,

Là cái lọng để che thân,

Là cán cân của công lý.

Tự bổn chất, có danh có tiếng là chuyện bình thường, vô thưởng vô phạt, nhưng xem ra lại rất thích hợp với bản tính con người. Bởi vì ông chính trị gia nào cũng mong được người đời sau biết đến tên tuổi của mình.  Anh nhà văn nhà thơ nào cũng muốn được chui tọt vào trong văn học sử và lưu lại ở đó dù chỉ một vài dòng ngăn ngắn.

Tuy nhiên, vấn đề trở nên nhiêu khê và rắc rối  ở chỗ là phải leo lên đài danh vọng bằng cách nào ? Phải làm sao để mà “có danh gì với núi sông” ?

Trước hết, gã thấy có những kẻ nhờ vợ hay nhờ nhà vợ mà leo   lên : 

Chẳng hạn như một anh chàng sinh viên vừa mới mãn đại học, đang thất nghiệp dài dài, vớ ngay được cô vợ, con ông giám đốc, thế là chỉ một thời gian ngắn, sau khi rước “cô nàng về dinh’, anh ta nghiễm nhiên ngồi vào chiếc ghế “trợ lý giám đốc” và từ đó việc làm ăn phất lên như diều gặp gió. Đường công danh mở toang,  anh ta chẳng thèm thênh thang cử bộ, mà lái ô tô con phom phom đi vào.

Đúng là :

- Có người nhờ vợ nên ông,

Lắm người vì vợ mất không cơ đồ.

Tiếp đến, gã thấy có những kẻ nhờ thế giá hay nhờ sự phò trợ của bè bạn mà leo lên, theo kiểu “phe ta thổi phồng phe mình”.

Chẳng hạn như một  anh thợ hát, giọng ca đặc sệt mùi thuốc lào, nhưng được mấy tay bạn, vốn nghề ký giả, nhà báo thổi lên và phong làm “siêu sao”, làm “quái kiệt”…khiến cho bàn dân thiên hạ cứ phải ngẩn tò te, lò mò muốn biết.

Sau cùng, gã thấy có những kẻ nhờ công sức của mình mà leo lên. Tuy nhiên, công sức ở đây lại được rẽ vào nhiều ngả khác nhau, giống như chữ tu kia cũng có dăm bảy đường :

- Thứ nhất thì tu tại gia,

Thứ hai tu chợ,

Thứ ba tu…nhà dòng.

Đúng thế, có những kẻ ra công gian giảo, ra sức dối trá để kiếm cho mình tí danh.

Chẳng hạn mấy cô cậu học trò, hay mấy anh chị sinh viên đã khều cho mình mảnh bằng tú tài và cử nhân qua việc quay cóp trong các cuộc thi. Theo sự nhận xét của gã, đa số các thí sinh tại Việt Nam, không ít thì nhiều, cũng đã gian lận trong lúc làm bài thi. Như vậy, một khi đã “ra lò”, không hiểu họ sẽ dẫn đất nước này đi về đâu ?

Quay cóp mà thôi chưa đủ, mấy ông cán bộ và công chức còn sử dụng quái chiêu độc địa hơn nữa. Số là nhà nước muốn nâng cấp phe ta, đòi buộc các quan lớn cũng như các quan nhỏ phải có văn bằng nọ, văn bằng kia. Bởi đó, thay vì đi học hàm thụ, để cập nhật hóa trình độ của mình, mấy ông quan này chỉ việc ngồi ở nhà rung đùi, rồi tung tiền ra, mua bằng giả để giữ cho được cái ghế mình đang ngồi.

Nếu cụ Tam Nguyên Yên Đổ đội mồ mà sống dậy, nhìn thấy các quan, chắc chắn cũng phải kêu trời, như ngày xưa cụ đã từng than thở cả tiếng về những ông tiến sĩ giấy :

- Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ,

Cái giá khoa danh ấy mới hời.

Ghế tréo lọng xanh ngồi bảnh chọe,

Nghĩ rằng đồ thật hóa đồ chơi.

Gã biết một tên nọ, học mãi học hoài mà vẫn chẳng được “tốt nghiệp trường làng”, nghĩa là vẫn chưa vượt qua được ngưỡng cửa cấp một. Thế nhưng, khi lớn lên và bước chân xuống cuộc đời, xét về phương diện mánh khóe và xảo quyệt, thì chẳng ai bằng hắn cả.

Lúc nào trong chiếc “cạc táp”, hắn cũng có những tấm danh thiếp với rất nhiều học vị và chức vụ khác nhau,  để lòe bịp thiên hạ. Rồi sau đó, tùy hoàn cảnh hắn sẽ sử dụng những tấm danh thiếp ấy để hạ gục nhanh con mồi.

Chẳng khi hạn đến với mấy ông quan vốn mắc bệnh tham nhũng mãn tính, hắn xùy ngay ra tấm danh thiếp tự xưng mình là phóng viên báo này, ký giả báo kia, hầu đòi buộc vị quan ấy phải xùy tiền mua sự yên lặng của hắn, bằng không hắn sẽ huỵch toẹt cho bàn dân thiên hạ được biết sự thật. Và thế là, dù tức như bị bò đá, ông quan kia cũng vẫn phải vui vẻ bất đắc dĩ  chi tiền cho hắn.

Tuy nhiên, trong cái xã hội đảo điên, vàng thau lẫn lộn, cũng không thiếu những người đã đứng lên bằng chính đôi chân của mình, đã tạo dựng sự nghiệp bằng chính công sức của mình. Và nếu có tí danh vọng đính kèm, thì  danh vọng ấy cũng xuất phát bởi những cố gắng liên tục của bản thân.

Báo Tuổi Trẻ  Chủ Nhật có kể lại câu chuyện “Chị em xe rác và ước mơ tiến sĩ” như sau:

Ở Cần Thơ, có ba chị em gái sinh ra trong một gia đình đình mẹ hốt rác. Từ 4-5 tuồi, họ đã theo mẹ đẩy xe rác lang thang khắp hang cùng ngõ hẻm. Người dân khu vực Xuân Khánh, Cần Thơ, quen gọi họ là “chị em xe hốt rác”, nhưng ít ai biết ba chị em đang âm thầm trui rèn tương lai của mình trên giảng đường đại học…

Cô chị tích cóp tiền thu gom phế liệu, giấy vụn, vỏ lon bia…để có 480.000 đồng trả học phí bảng A Anh văn, 550.000 đồng đóng bằng B, 700.000 đồng đóng bằng C. Sau khi cô chị đạt bằng C, tội nghiệp bà mẹ quá lo lắng không biết còn bằng D, bằng E, bằng F gì nữa không ?

Nêu sự kiện trên, tác giả đã chua thêm vào đó chút suy tư  vụn vặt của mình như sau :

Thiết nghĩ, các bằng cấp mà ba chị em gái này có được là do thực học, do quyết tâm vượt qua danh phận của mình một cách danh dự và chúng ta hoàn toàn tin tưởng rằng ước mơ của ba chị em có cơ sở để đạt được bằng thực học.

Nghĩ lại cảnh quay cóp, ném phao…của các cuộc thi nâng ngạch lên chuyên viên chính, bác sĩ chính, giảng viên chính mà cảm thấy ngậm ngùi cho cái “đạo học” ngày nay.

Có danh một cách đường đường chính chính đã là chuyện khó, nhưng gìn giữ và duy trì cái danh ấy khỏi hoen ố, khỏi bị mai một cũng không phải là chuyện dễ, bởi vì nhiều khi đã phải đầu tư biết bao nhiêu công sức mới có được một tí danh, thế mà bỗng chốc đùng một phát, tất cả đều đi đoong, đều tiêu tan thành mây khói, thân thì bại, danh thì liệt, như người xưa đã bảo :

- Kiếm củi ba năm thiêu một giờ.

- Mua danh ba vạn, bán danh ba đồng.

Đêm nằm vắt tay lên trán mà ngẫm nghĩ sự đời, gã nhận thấy có hai nguyên nhân chính khiến người ta thường bị thân bại danh liệt, đó là tình và tiền.

Có kẻ vì tình, hay nói toạc móng heo ra, vì tình cảm lem nhem, dính dấp đến chuyện đờn bà con gái mà đi đoong sự nghiệp. Lịch sử đã để lại quá nhiều bằng chứng về vần đề này :

Ngày xưa vua Kiệt vì say mê nàng Muội Hỷ, bỏ bê việc triều chính, ăn chơi trác táng, nên bị vua Thành Thang  cướp mất nước. Vua Trụ vì say mê nàng Đắc Kỷ, giết hại công thần, hoang dâm vô độ, khiến cho sự nghiệp bị tan tành. Ngô Phù Sai, vì say mê nhan sắc của Tây Thi, cô gái ở thôn Trữ La do Việt Câu Tiễn hiến cống, đã phung phí của chung, đày ải các tôi trung, khiến lòng dân oán thán. Lợi dụng cơ hội ấy, Câu Tiễn liền cử binh sang đánh chiếm nước Ngô, tàn phá Cô Tô đài, nơi vua Phù Sai cùng Tây Thi đêm ngày vui vẻ “mí nhau”. Phù Sai phải bỏ kinh thành chạy trốn và cuối cùng đã tự sát để khỏi bị rơi vào tay Việt Vương Câu Tiễn.

Còn ngày nay cũng không thiếu những tấm gương để đời. Chẳng hạn hình như vào thập niên sáu mươi, ông bộ trưởng chiến tranh của dân Ăng lê tên là Profuno, vì  lẹo tẹo với cô gái điếm Christine Keller, khiến cho toàn bộ nội nước Anh lúc bấy giờ phải từ chức, còn bản thân ông bộ trưởng cũng tiêu tùng luôn. Sở dĩ như vậy vì cô gái điếm này là một điệp viên của Liên Xô, được cài vào để lấy những tin tức tối mật.

Và mới đây, tổng thống Bill Clinton nước Huê kỳ cũng suýt đi tong sự nghiệp cũng chỉ vì đã nhăng nhít với cô tập sự viên Nhà Trắng tên là Monica Lewinsky.

Ngoài ra, cũng có kẻ vì tiền mà mất toi cơ đồ. Thực vậy, thấy tiền ai mà chẳng ham, chẳng thích, chẳng mê, để rồi tìm mọi cách kiếm cho được thật nhiều. Kiếm tiền bằng công sức lao động chân chính thì chẳng nói làm chi, nhưng kiếm tiền bằng cách gian giảo trong khi buôn bán,  tham nhũng hối lộ trong khi thi hành chức vụ, bỏ nhầm công quĩ vào túi  để xài riêng…Thôi thì thiên hình vạn trạng đến quỉ thần cũng không lường nổi. Đây cũng chính là một con đường ngắn nhất dẫn những kẻ tham lam vào vòng tù tội, còn sự nghiệp thì cũng tan vỡ thành mảnh vụn.

Có người đã leo lên tới tột đỉnh danh vọng rồi, chẳng hạn như ông tổng thống của nước Đại Hàn, quê hương của những củ sâm Cao Ly, song cũng vì cái túi tham không đáy của mình, đã vô tư xơi những khoản tiền “bồi dưỡng” của mấy công ty lớn, nên đã bị tòa án sờ vào gáy.

Quả là chua xót và đắng cay như lời Kinh Thánh :

- Phù hoa trên mọi phù hoa, trần gian tất cả chỉ là phù hoa.

Để kết luận, gã xin mượn lại mấy tư tưởng sau đây, đã được tác giả Diệp Văn Sơn, ghi lại trên báo Tuổi Trẻ Chủ Nhật.

Dân Trung quốc  có câu :

- Người biết đạo, tất không khoe. Người biết nghĩa, tất không tham. Người biết đức, tất không thích tiếng tăm lừng lẫy.

Hay như :

- Người đi không cầu cho có bóng mà bóng tự nhiên theo. Người kêu không cầu cho có tiếng dội mà tiếng dội vẫn vang. Vì thế, người quân tử chỉ cần làm nên công rồi danh ắt sẽ đến.

Gã Siêu    gasieu@gmail.com

VỀ MỤC LỤC

- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến, bài vở..., xin gởi về địa chỉ

giaosivietnam@gmail.com

- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:

Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục vụ của Giáo sĩ;  Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh vực; Mỗi  Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)

- Quí vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại

www.conggiaovietnam.net

Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị

Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác nhau.

TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam

Lm. Luca Phạm Quốc Sử  USA

 

 

Được chọn giữa loài người và cho loài người; GÍAO SĨ: Xuất phát từ gíao dân, hiện diện vì gíao dân và cậy dựa vào gíao dân, để cùng làm VINH DANH THIÊN CHÚA

*************