Giáo Hội Và Thiên
Chức Con Người (tiếp theo) |
Hiến Chế Mục Vụ Về Giáo Hội Trong Thế Giới Ngày
Nay Gaudium Et
Spes
Bản dịch Việt Ngữ của Giáo Hoàng Học Viện Piô
X
Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries
in Asia
Phần Thứ Nhất
Giáo Hội Và Thiên Chức Con Người 12*
19. Những hình thức và nguyên nhân vô
thần 23*.
Ý nghĩa cao cả nhất của phẩm giá con người là con người được kêu gọi
tớì kết hiệp với Thiên Chúa. Ngay từ lúc mới sinh ra, con người đã
được mời gọi đối thoại với Thiên Chúa: thực thế, con người hiện hữu
chỉ là do Thiên Chúa đã vì yêu thương nên tạo dựng nên con người, và
cũng vì yêu thương mà luôn luôn bảo tồn con người; hơn nữa con người
chỉ sống hoàn toàn theo chân lý một khi tự ý nhìn nhận tình yêu ấy
và phó thác cho Ðấng tạo dựng mình. Tuy nhiên có nhiều người đương
thời với chúng ta không nhận ra hoặc công khai gạt bỏ sự liên kết
mật thiết và sống động giữa con người với Thiên Chúa. Vì thế thuyết
vô thần phải được kể là một trong những sự kiện quan trọng nhất
trong thời đại này và cần phải được nghiên cứu kỹ càng hơn.
Danh từ vô thần chỉ
những hiện tượng rất khác nhau. Thực vậy, có người phủ nhận Thiên
Chúa cách tỏ tường, có người lại nghĩ rằng con người hoàn toàn không
thể quả quyết gì về Thiên Chúa cả. Có người muốn cứu xét vấn đề về
Thiên Chúa theo một phương pháp làm cho vấn đề đó xem ra thiếu hẳn ý
nghĩa. Vượt quá phạm vi khoa học thực nghiệm một cách vô lý, nhiều
người hoặc chủ trương giải thích mọi sự chỉ bằng khoa học này, hoặc
trái lại, hoàn toàn không chấp nhận một chân lý nào là tuyệt đối. Có
người lại quá đề cao con người đến nỗi sự tin tưởng vào Thiên Chúa
trở nên vô nghĩa; những người này xem ra muốn đề cao con người hơn
là muốn chối bỏ Thiên Chúa. Có người hình dung ra cho mình một Thiên
Chúa theo kiểu họ tưởng đến nỗi biểu tượng mà họ bài xích không còn
điểm nào là Thiên Chúa của Phúc Âm cả. Cả vấn đề về Thiên Chúa cũng
không hề được đặt ra bởi vì xem ra họ không cảm thấy áy náy gì về
tôn giáo cũng như không thấy tại sao lại phải bận tâm về vấn đề đó.
Ngoài ra, chủ nghĩa vô thần nhiều lúc phát sinh hoặc do sự phản
kháng mãnh liệt chống lại sự dữ trong thế gian hoặc do nhận định sai
lầm cho một số giá trị của con người là tuyệt đối đến nỗi lấy chúng
thay thế cho chính Thiên Chúa. Ngay cả nền văn minh hiện đại nhiều
lúc có thể làm cho khó đến với Thiên Chúa hơn, không phải tự nó,
nhưng vì nó quá bám víu vào những thực tại trần gian.
Quả thực, những
người không nghe theo tiếng nói của lương tâm, cố tình loại trừ
Thiên Chúa ra khỏi lòng mình và tránh né những vấn đề tôn giáo, chắc
chắn họ mắc lỗi. Song chính những tín hữu nhiều lúc cũng có một phần
trách nhiệm về vấn đề này. Bởi vì chủ nghĩa vô thần nói chung không
phải do một nguyên nhân duy nhất, nhưng trái lại nó phát sinh do
nhiều nguyên nhân. Trong những nguyên nhân ấy còn phải kể tới phản
ứng chỉ trích chống lại các tôn giáo, hơn nữa ở một vài nơi, còn
chống lại cả Kitô giáo. Tín hữu có thể chịu phần trách nhiệm không
phải là nhỏ trong việc khai sinh vô thần, hoặc bởi xao lãng việc
giáo dục đức tin, hoặc trình bày sai lạc về giáo lý, hoặc do những
thiếu sót trong đời sống tôn giáo, luân lý và xã hội. Phải nói rằng
họ che giấu hơn là bày tỏ bộ mặt đích thực của Thiên Chúa và tôn
giáo.
20. Vô thần có hệ thống. Vô thần
hiện nay nhiều khi cũng được trình bày như một hệ thống; không kể
tới những nguyên nhân khác, hệ thống này quá nhấn mạnh đến khát vọng
được tự lập của con người đến độ làm cho nó khó chấp nhận bất cứ sự
lệ thuộc nào vào Thiên Chúa. Những người chủ trương thuyết vô thần
như vậy cho rằng tự do hệ tại ở con người là chính cùng đích cho
mình, là người tạo nên và điều khiển 24*
lịch sử riêng của mình. Họ tưởng rằng quan niệm trên không thể đi
đôi với sự nhìn nhận Thiên Chúa là Ðấng tác thành và là cùng đích
của mọi sự, hay ít ra quan niệm như thế thì quả quyết có Thiên Chúa
cũng bằng thừa. Chủ thuyết này có thể được cổ võ thêm vì sự tiến
triển về kỹ thuật hiện nay đem lại cho con người cảm tưởng mình đầy
thế lực.
Trong số những hình
thức vô thần hiện nay, không thể bỏ qua một hình thức vô thần mong
giải phóng con người, nhất là giải phóng con người về phương diện
kinh tế và xã hội. Hình thức vô thần này cho rằng tự bản chất, tôn
giáo vẫn ngăn cản sự giải phóng trên, vì khi gây cho con người niềm
hy vọng vào cuộc sống mai hậu và hão huyền, tôn giáo đã làm cho họ
xao lãng việc xây dựng xã hội dương thế này. Bởi vậy, những người
chủ trương lý thuyết ấy, một khi lên nắm chính quyền, họ kịch liệt
chống lại tôn giáo, dùng cả những biện pháp cưỡng bách của chính
quyền để truyền bá thuyết vô thần nhất là trong phạm vi giáo dục
thanh thiếu niên.
21. Thái độ của Giáo Hội đối với chủ nghĩa vô
thần. Trung thành với Thiên Chúa cũng như với con
người, Giáo Hội không thể không tiếp tục lên án với nỗi đau buồn và
với tất cả sự cương quyết, như đã từng lên án 16,
những chủ thuyết vô thần và những hành động nguy hại đi ngược lại lý
trí và kinh nghiệm chung của con người cũng như làm cho con người
mất đi sự cao cả bẩm sinh của mình.
Tuy nhiên Giáo Hội
vẫn cố gắng tìm hiểu những nguyên nhân chối từ Thiên Chúa tiềm ẩn
trong tâm trí những người vô thần và ý thức được tầm quan trọng của
những vấn đề do vô thần khơi lên và vì yêu thương mọi người, nên
Giáo Hội thấy cần phải cứu xét những nguyên nhân ấy kỹ lưỡng và sâu
xa hơn.
Giáo Hội cho rằng
nhìn nhận Thiên Chúa không có gì nghịch lại với phẩm giá con người,
vì phẩm giá ấy đặt nền tảng và nên hoàn hảo trong chính Thiên Chúa:
bởi vì con người có trí tuệ và tự do được Thiên Chúa, Ðấng tạo dựng
đặt để trong xã hội, nhưng nhất là vì con người được gọi đến thông
hiệp với chính Thiên Chúa và tham dự vào hạnh phúc của Ngài như con
cái. Ngoài ra, Giáo Hội còn dạy rằng hy vọng vào đời sống mai sau
không làm giảm tầm quan trọng những bổn phận ở trần gian này mà trái
lại còn thêm những động lực mới giúp hoàn tất những bổn phận ấy. Vả
lại, nếu thiếu căn bản là Thiên Chúa và thiếu niềm hy vọng vào đời
sống trường cửu thì phẩm giá con người sẽ bị tổn thương cách trầm
trọng như thường thấy ngày nay, và những bí ẩn về sự sống, sự chết,
về tội lỗi và đau khổ vẫn không giải đáp được, như thế con người
nhiều khi rơi vào tuyệt vọng.
Trong khi đó, mỗi
người vẫn còn là một câu hỏi chưa giải đáp cho chính mình, một câu
hỏi chỉ thấy lờ mờ. Bởi vì có những lúc, nhất là trong những biến cố
lớn lao của cuộc sống, không ai có thể hoàn toàn tránh được câu hỏi
nói trên. Chỉ một mình Thiên Chúa là Ðấng kêu gọi con người suy nghĩ
sâu xa hơn và tìm hiểu khiêm tốn hơn mới đem lại được câu giải đáp
hoàn toàn và hết sức chắc chắn.
Ðể đem lại phương
thuốc chữa trị vô thần, người ta phải cậy nhờ vào giáo lý được trình
bày một cách thích hợp và nhờ đó vào đời sống thanh khiết của Giáo
Hội cũng như của các chi thể của Giáo Hội. Bởi vì nhiệm vụ của Giáo
Hội là làm sao cho Thiên Chúa Cha và Chúa Con nhập thể trở nên hiện
diện và như thể thấy được bằng cách chính Giáo Hội tự đổi mới và
không ngừng tinh luyện chính mình 17
dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Ðiều đó trước hết nhờ chứng
tá của một đức tin sống động và trưởng thành, nghĩa là một đức tin
đã được huấn luyện để có thể sáng suốt nhận định và thắng vượt những
khó khăn ấy. Rất nhiều vị tử đạo đã và còn đang hùng hồn làm chứng
cho đức tin ấy. Ðức tin đó phải biểu lộ sự phong phú của mình bằng
cách thấm nhập vào toàn thể đời sống của các tín hữu, kể cả đời sống
thế tục, và thúc đẩy họ sống công bằng, bác ái nhất là đối với người
nghèo khổ. Sau hết, điều có thể làm chứng về sự hiện diện của Thiên
Chúa hơn cả là đức ái huynh đệ của các tín hữu như họ đồng tâm nhất
trí cộng tác cho đức tin Phúc Âm 18
và tỏ ra họ là dấu chỉ hiệp nhất.
Thực vậy, Giáo Hội
dù hoàn toàn bác bỏ thuyết vô thần, nhưng vẫn thành thực tuyên bố
rằng mọi người, dù tin hay không tin, cũng đều phải trợ lực cho việc
xây dựng thế giới này được hợp lý, là nơi họ đang chung sống: điều
ấy chắc chắn không thể có được nếu thiếu cuộc đối thoại thành thực
và khôn ngoan. Bởi vậy Giáo Hội phàn nàn về sự kỳ thị giữa những
người tin và không tin do một số nhà lãnh đạo quốc gia gây ra một
cách bất công khi không nhìn nhận những quyền lợi căn bản của con
người. Riêng đối với các tín hữu, Giáo Hội đòi cho họ phải được tự
do đích thực để họ có thể xây dựng đền thờ Thiên Chúa ngay tại trần
gian này. Ðối với những người vô thần, Giáo Hội nhân ái mời gọi họ
hãy nghiên cứu Phúc Âm Chúa Kitô với một tâm hồn cởi mở.
Bởi vậy, Giáo Hội
đã biết rõ sứ điệp của mình phù hợp với những khát vọng thầm kín
nhất của lòng người, khi Giáo Hội bênh vực thiên chức con người và
do đó đem lại niềm hy vọng cho những ai đã thất vọng về vận mạng cao
cả của mình. Sứ điệp của Giáo Hội chẳng những không làm suy giảm con
người mà trái lại còn đổ tràn ánh sáng, sự sống và tự do để giúp con
người tiến bộ. Ngoài sứ điệp đó không còn gì khác có thể thỏa mãn
được lòng người. "Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên chúng con để chúng con
đến với Chúa, và tâm hồn chúng con còn thao thức cho tới khi được an
nghỉ trong Chúa" 19.
22. Chúa Kitô, Con Người Mới.
Thực vậy, mầu nhiệm về con người chỉ thực sự được sáng tỏ trong mầu
nhiệm Ngôi Lời nhập thể. Bởi vì Adam con người đầu tiên đã là hình
bóng của Adam sẽ đến 20,
là Chúa Kitô. Chúa Kitô, Adam mới, trong khi mạc khải về Chúa Cha và
tình yêu của Ngài, đã cho con người biết rõ về chính con người và tỏ
cho họ biết thiên chức rất cao cả của họ. Bởi vậy không lạ gì khi
những chân lý đã nói ở trên đều tìm thấy nguồn gốc của chúng và đạt
tới tột điểm nơi Người.
Là "hình ảnh của
Thiên Chúa vô hình" (Col 1,15) 21,
chính Người là con người hoàn hảo đã trả lại cho con cháu của Adam
hình ảnh Thiên Chúa đã bị tội nguyên tổ làm sai lệch. Bởi vì nơi
Người bản tính nhân loại đã được mặc lấy chứ không bị tiêu diệt
22,
do đó chính nơi chúng ta nữa bản tính ấy cũng được nâng lên tới một
phẩm giá siêu việt. Bởi vì, chính Con Thiên Chúa khi nhập thể, một
cách nào đó đã kết hợp với tất cả mọi người. Người đã làm việc với
bàn tay con người, đã suy nghĩ bằng trí óc con người, đã hành động
với ý chí con người 23,
đã yêu mến bằng quả tim con người. Sinh bởi trinh nữ Maria, Người đã
thực sự trở nên một người giữa chúng ta, giống chúng ta mọi sự,
ngoại trừ tội lỗi 24.
Là Chiên vô tội
Người tự ý đổ máu ra để cho chúng ta được sống, và chính trong Người
Thiên Chúa đã hòa giải chúng ta với Thiên Chúa và hòa giải giữa
chúng ta với nhau 25
cũng như đem chúng ta ra khỏi ách nô lệ của ma quỉ và tội lỗi, do đó
mỗi người chúng ta đều có thể nói như Thánh Tông Ðồ rằng: Con Thiên
Chúa "đã yêu thương tôi, lại hiến thân cho tôi nữa" (Gal 2,20). Chịu
đau khổ cho chúng ta, không những Người nêu gương để chúng ta theo
vết chân Người 26,
nhưng Người còn mở ra con đường mới để nếu chúng ta theo Người thì
sự sống và cái chết sẽ được thánh hóa và có một ý nghĩa mới.
Con người Kitô hữu
khi trở nên giống hình ảnh Chúa Con là Trưởng Tử trong đoàn anh em
đông đúc 27,
họ nhận được "những hoa trái đầu mùa của Thánh Thần" (Rm 8,23), nhờ
đó họ có thể chu toàn lề luật yêu thương mới 28.
Nhờ Thánh Thần làm "bảo chứng cho quyền thừa tự" (Eph 1,14), toàn
thể con người được canh tân từ nội tâm cho tới khi "thân xác được
cứu rỗi" (Rm 8,23): "Nếu Thánh Thần Chúa là Ðấng đã khiến Chúa Giêsu
từ kẻ chết sống lại cư ngụ trong anh em, chính Ðấng đã khiến Chúa
Giêsu Kitô từ kẻ chết sống lại đó cũng sẽ làm sống động thân thể hay
hư nát của anh em nhờ Thánh Thần Ngài ở cùng anh em", (Rm8,11)
29.
Người Kitô hữu chắc chắn cần thiết và có bổn phận chiến đấu chống sự
dữ khi phải trải qua nhiều gian nan cũng như phải chết nữa. Nhưng vì
được dự phần vào mầu nhiệm phục sinh, 25*
được đồng hóa với cái chết của Chúa Kitô, được mạnh mẽ nhờ đức cậy,
họ sẽ được sống lại 30.
Ðiều nói trên không
phải chỉ có giá trị cho các tín hữu nhưng cho tất cả những ai có
thiện chí được ơn thánh hoạt động một cách vô hình trong tâm hồn
31.
Thực vậy, vì Chúa Kitô đã chết cho mọi người 32
và vì ơn gọi cuối cùng của con người thực ra là duy nhất, nghĩa là
do Thiên Chúa, cho nên ta phải tin chắc rằng Chúa Thánh Thần ban cho
mọi người khả năng tham dự vào mầu nhiệm Phục Sinh ấy, cách nào đó
chỉ có Chúa biết thôi.
Ðó là tính chất và
sự cao cả của mầu nhiệm con người, mầu nhiệm được Mạc Khải Kitô giáo
soi sáng cho các tín hữu. Vậy nhờ Chúa Kitô và trong Chúa Kitô bí ẩn
về đau khổ và sự chết được sáng tỏ, bí ẩn đó đè bẹp chúng ta nếu
chúng ta không biết đến Phúc Âm. Chúa Kitô đã sống lại nhờ sự chết
của mình. Người đã hủy diệt sự chết và Người đã ban cho ta dồi dào
sự sống 33
để là con cái trong Chúa Con chúng ta kêu lên trong Thánh Thần:
Abba, lạy Cha! 34.
Chú
Thích:
(lưu ý: những số
ghi chú nhỏ hơn đã được đăng vào những số báo trước)
23* Công Ðồng nhắc lại
rất vắn tắt nhiều khía cạnh của hiện tượng đi ngược lại với phẩm giá
của con người hơn cả: đó là vô thần. Nhiều Nghị Phụ đã muốn lên án
vô thần một lần nữa, nhất là vô thần cộng sản. Nhưng tinh thần mới
(x. lời giới thiệu) đã thắng thế.
1)
Hình thức (số 19b): Công Ðồng nhắc lại nhiều hình thức khác nhau do
một số lý do: a) vì triết thuyết (phủ nhận Thiên Chúa; quả quyết con
người không thể biết gì về Chúa; đặt vấn đề về Thiên Chúa một cách
lệch lạc vô nghĩa); b) vì đầu óc khoa học (muốn áp dụng khoa học vào
phạm vi ở ngoài phạm vi của nó; do đó không nhận chân lý tuyệt đối);
c) vì chủ nghĩa nhân bản (quá đề cao con người; Thiên Chúa không
quan trọng; coi giá trị nhân bản như tuyệt đối; hai hình thức trong
số 20 cũng có tính cách nhân bản: con người phải hoàn toàn tự trị
không cần đến Chúa; hay là phải hoàn toàn tự lập về kinh tế xã hội
không bị tôn giáo ràng buộc); d) vì quan niệm sai lầm về Chúa (từ
chối một Thiên Chúa không phải là do Phúc Âm cho biết; tin nơi Thiên
Chúa để làm gì?); e) vì vấn nạn về sự dữ; f) vì đầu óc phàm trần (do
văn minh hiện đại dễ gây nên).
2)
Nguyên nhân: Ngoài lý do vừa kể, vô thần có thể có: a) do tội của cá
nhân; b) nhưng một phần cũng có thể vì các tín hữu chưa được đức tin
đào tạo, vì nhiều khi trình bày đức tin cách khờ khạo, vì đời sống
không hợp với đức tin, đặc biệt là sinh hoạt xã hội (số
19c).
3)
Thực tại của Giáo Hội: Vô thần là trái với lý trí, với kinh nghiệm
chung của nhân loại, với phẩm giá của con người, a) thì Giáo Hội
không thể không lên án nó; b) nhưng đàng khác Giáo Hội muốn đối
thoại với người vô thần, trình bày với họ rằng vô thần thiếu nền
tảng vững chắc (phẩm giá con người đòi hỏi phải tùng phục Thiên
Chúa, và lòng tin nơi Thiên Chúa không ngăn cản con người lo cho
công việc phải làm để xây dựng thế giới, các thắc mắc căn bản, trước
hết về ý nghĩa chính con người, không giải thích được; c) Giáo Hội
muốn các tín hữu dấn thân vào công việc chung đó; d) mong đợi người
vô thần sẽ tôn trọng quyền tự do của họ và hơn nữa sẽ thành thật tìm
hiểu tinh thần Phúc Âm; e) còn tính hữu không những phải biết trình
bày đức tin, mà nhất là phải sống với đức tin sống động và với đức
mến nồng nàn để mọi người có thể nhận thấy Chúa qua Giáo
Hội.
Về vô
thần cộng sản, Công Ðồng chỉ nhắc lại hai tính cách, dù chưa đủ để
diễn tả nó hoàn toàn, nhưng cũng quan trọng: a) tính cách nhân bản
nhằm giải thoát con người trong lãnh vực kinh tế, xã hội; b) tính
cách độc tài và không chịu điều đình khi chiếm quyền chính
trị.
Mác
xít chủ nghĩa là một khái niệm cho rằng thế giới tự nó là hoàn toàn
và mang đầy đủ ý nghĩa, vì thế nó loại trừ mọi tín ngưỡng tôn giáo.
Lịch sử, con người, xã hội v.v... đều có ý nghĩa và phát triển theo
đòi hỏi biện chứng pháp. Nó mang tính cách tín ngưỡng hơn là khoa
học vì mục đích cuối cùng là giải thoát (cứu chuộc) con người khỏi
các sự mất nhân cách, cũng như vì đem lại một niềm hy vọng (thay thế
đức cậy) vào sự giải thoát đó trong tương lai.
Cũng
như Giáo Hội, các tín hữu phải loại bỏ thái độ thù hằn, tranh đấu,
nghi ngờ... mà trong khi lên án vô thần (hơn nữa chính vì thế) phải
tìm hiểu tâm trạng của người vô thần để cùng nhau xây dựng thế giới,
và nếu có thể được, để đối thoại với họ. Ðối thoại một cách thành
thực và khôn ngoan, không giấu giếm đức tin mình mà trái lại, vì
không thể đối thoại thực sự khi không biết minh chứng bằng đời sống
mình trước hết và bằng việc trình bày giáo lý một cách đầy đủ và
thích hợp (x. thêm số 28b).
Ðối
thoại như vậy phải chăng là mới lạ? Nhưng Công Ðồng đã nhắc cho
chúng ta rằng chúng ta đang sống giai đoạn mới (x. số 4b).
24* Công Ðồng dùng danh
từ Hy Lạp demiurgus. Một số triết gia xưa gọi demiurgus là một thần
tạo dựng vũ trụ mặc dầu không phải là Ðấng Tối Cao.
25 Xem 2Cor 5,18-19;
Col 1,20-22. 26 Xem 1P 2,21; Mt
16,24; Lc 14,27.
27 Xem Rm 8,29; Col
1,18. 28 Xem Rm 8,1-11. 29 Xem 2Cor 4,14.
30 Xem Ph 3,10; Rm
8,17.
31 Xem CÐ Vat II, Hiến
chế tín lý về Giáo Hội Lumen gentium, ch.II, số 16: A AS 57(1965),
trg 20.
32 Xem Rm
8,32. 33 Xem Liturgia
Paschalis Byzantina.
34 Xem Rm 8,15; Gal 4,6; Gio 1, 12 và
1Gio 3,1. |
VỀ
MỤC LỤC | |
HIỆP THÔNG THEO TRUYỀN
THỐNG |
1- CÁC GIÁO PHỤ
Thánh Irenée : Hiệp thông vì cùng một đức
tin duy nhất.
“Nhiều dân tộc, nhiều ngôn ngữ khác nhau, nhưng cùng
một đức tin duy nhất Giáo hội, mặc dầu tản mác trên toàn thế giới
cho đến mút cùng trái đất, nhưng đã lãnh nhận từ các tông đồ và từ
môn đệ của các ngài, niềm tin vào chỉ một Thiên Chúa là Cha toàn
năng… và một Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa … và tin vào Thánh
Thần…Giáo hội, dầu tản mác khắp nơi trên thế gian, đã ân cần gìn giữ
những điều đó, như thể chỉ ở trong một nhà. Giáo hội tin vào đó theo
cùng một cách thức, như thể chỉ có một tâm hồn, một trái tim và Giáo
hội đồng thanh rao giảng, giáo huấn, truyền đạt những điều đó như
thể chỉ có một miệng lưỡi” (Saint Irenee de Lyon. Contre les hérésies, 1. 10. 1- 2.
Traduction A. Rousseau. Le Cerf. Paris. 1984. P. 65- 66).
Như thế, sự hiệp nhất trong đức tin đòi
hỏi phải hiệp nhất trong nội dung đức tin, nghĩa là mọi người ở mọi
nơi đều tin những điều giống nhau, và điều đó có thể kiểm chứng
được.
Thánh Ignace d’ Antioche :
Hiệp thông được đặt nền tảng trên Thiên Chúa và Đức
Kitô.
Thánh nhân quan tâm đặc biệt tới vấn đề
hiệp nhất các Kitô hữu. Theo ngài, Giáo hội là sự kết hợp, hiệp
nhất, đồng tâm, một Agape. Đó là điều Thiên Chúa và Đức Kitô muốn,
và tất cả đều đặt nền tảng trên Thiên Chúa và Đức Kitô. Giáo hội là
Công giáo, nghĩa là phổ quát, do sự hiệp thông giữa các Giáo hội với
nhau, một sự kết hợp vừa thần bí, vừa luân lý, được ban trong Đức
Kitô và trong Thần khí, đồng thời là đối tượng của một nỗ lực không
ngừng.
Trong thư gởi tín hữu Ephêsô, ngài viết:
“Anh em, mọi người và từng người, hãy làm nên một ban hợp xướng, để
trong sự hòa điệu các thanh âm của anh em, khi bắt theo cung giọng
của Thiên Chúa trong hiệp nhất, nhờ Đức Giêsu Kitô, anh em cất lên,
bằng cùng một tiếng hát, một thánh thi dâng lên Cha, ngõ hầu Người
lắng nghe anh em và nhìn nhận anh em, nhờ những việc lành anh em làm
như là chi thể Con của Người. Vì thế, thật ích lợi cho anh em, nếu
anh em ở trong sự hiệp nhất vô phương trách cứ, hầu mãi mãi được
thông dự vào Thiên Chúa”.
Trong thư gởi tín hữu Magnésie, ngài
khuyên nhủ họ: “Chớ gì giữa anh em, không một điều gì có thể phân rẽ
anh em… cũng như Chúa đã không làm điều gì, dù là tự mình hay qua
các Tông đồ mà lại không có Cha, vì Ngài hằng hiệp nhất với Cha.
Cũng vậy, cả anh em nữa, anh em đừng làm bất cứ điều gì mà lại không
có Giám mục và các Trưởng lão (Prebytres): điều gì anh em làm theo
riêng mình thì đừng cố coi đó là hợp lý, mà phải là những gì anh em
làm chung với nhau: một kinh nghiệm duy nhất, một lời khẩn cầu duy
nhất, một Thần khí duy nhất, một niềm hy vọng duy nhất trong đức ái,
trong niềm vui vô phương trách cứ, đó chính là Đức Giêsu Kitô, Đấng
đáng yêu mến hơn tất cả. Tất cả anh em hãy nhanh chân chạy như thể
về một Đền thờ duy nhất của Thiên Chúa, như thể quanh một bàn thờ
duy nhất, về Đức Giêsu Kitô duy nhất, Đấng đã xuất tự Cha duy nhất,
Đấng đã ở trong Duy nhất và đã trở về với Người” (Sources
Chrétiennes, số 10 bis, tr. 61. 81- 87).
Maxime le Confesseur : Hiệp
thông vì cùng thuộc về Đức Kitô.
Tất cả mọi người, dù khác biệt nhau, đều
sinh thành trong Hội thánh và nhờ hoạt động của Hội thánh mà được
tái sinh và tái tạo nhờ Thánh Thần. Với mọi người, Hội thánh đã trao
ban và đang trao ban cách đồng đều một hình thái và một danh hiệu
thần linh duy nhất, đó là thuộc về Đức Kitô và được mang danh Ngài.
Hội thánh cũng trao ban cho mọi người, thể theo đức tin, một cách
thế hiện hữu duy nhất, thuần nhất và bất khả phân chia… Chính vì mọi
người mà tuyệt đối không ai bị tách ra khỏi cộng đoàn, bởi vì tất cả
cùng quy tụ và được hiệp nhất với nhau nhờ hoạt động của ân sủng đức
tin. Các tín hữu, dù khác biệt nhau, nhưng họ được kết hợp lại với
nhau trong Hội thánh nhờ đức tin (cf. Maxime. Mystagogie I, PG 91, 665C- 668C).
Thánh Augustinô : Nhờ Thánh
Linh.
“Hãy nhìn xem các chi thể chúng ta; thân thể do nhiều
chi thể họp thành; nhưng chỉ có một tâm linh sinh trưởng trong mọi
chi thể … Tâm linh chúng ta như thế nào, nghĩa là linh hồn chúng ta
đối với các chi thể mình thế nào thì Thánh linh cũng đối với các chi
thể Chúa Kitô, với Thân Thể Chúa Kitô là Giáo hội như thế” (Sermo
268, 2; PL 38, 1232).
Thánh Gioan Chrysostome : Nhờ Thánh
Linh.
“Sự duy nhất của Thánh linh là gì? Cũng như trong thân
thể chỉ có một tâm linh ở trong tất cả và tạo thành sự hiệp nhất cho
tất cả, vì nó ở trong mọi chi thể; Thánh linh cũng ở trong Giáo hội
như vậy. Ngài đã được ban để kết hợp mọi dị biệt do chủng tộc và
phong hóa: kẻ già với người trẻ, giàu với nghèo, trẻ nhỏ với người
lớn, đàn ông với đàn bà, mọi người trong Giáo hội trở nên một điều
thôi, được kết hợp chặt chẽ hơn là trong một thân thể duy nhất (Hem.
9, 3; PG 62, 72).
Thánh Cyrille : Giáo hội duy nhất nhờ bí
tích Thánh Thể.
“Tuy chúng ta khác nhau do sự khác biệt của mỗi người,
và vì chúng ta có linh hồn và thể xác riêng, nhưng người Con một đã
đưa ra phương thế để chúng ta được đi vào trong sự duy nhất với
Thiên Chúa và duy nhất với nhau: khi hiến thánh trong cùng một thân
thể duy nhất, thân thể của Ngài, Ngài làm cho họ được trở nên đồng
thân thể với chính Ngài và đồng thân thể với nhau. Nếu tất cả chúng
ta tham dự vào cùng một bánh, thì chúng ta tất cả trở nên cùng một
thân thể. Đức Kitô không hề bị bất cứ sự phân chia nào. Chúng ta tất
cả được hiệp nhất với cùng một Đức Kitô nhờ Thánh Thể của Ngài, vì
chúng ta đón nhận Ngài như là Đấng duy nhất và bất khả phân
chia, vào trong chính thân thể của chúng ta…Nếu tất cả chúng ta cùng
đồng thân thể với nhau, và cả với Ngài nữa, bởi lẽ Ngài đến trong
chúng ta bằng chính xác thịt Ngài, thì rõ ràng lẽ nào chúng ta lại
không là một với nhau và là một trong Đức Kitô? Đức Kitô quả thực là
mối dây duy nhất” - Comm. Sur Jean XI, 11 (Jean 17, 20- 21) PG 74,
560 AD).
Thánh Hiêrônimô : Phêrô và các tông
đồ.
Thánh nhân viết : “Giáo hội được thiết lập trên Phêrô;
dù một chỗ khác nói rằng Giáo hội cũng được xây trên tất cả các sứ
đồ khác, … và sự bền vững của Giáo hội cũng dựa vào họ, nhưng lý do
tuyển chọn một vị duy nhất giữa nhóm 12 là một khi đã có đầu, thì sẽ
tránh được cớ ly khai” (Adv Iovin. 1, 126).
Thánh Cyprien : Sự hiệp thông trên bình
diện hữu hình dựa trên sự kết hợp chặt chẽ của hàng Giám
mục.
Theo thánh nhân, sự duy nhất của Giáo hội không chỉ
thuộc bình diện thiêng liêng, nó còn thuộc bình diện hữu hình, dựa
trên sự kết hợp chặt chẽ của hàng Giám mục. Hàng Giám mục này tạo
nên một “đoàn thể”, mà các thành viên phải gìn giữ sự hiệp nhất với
nhau. Giám mục chỉ có quyền với tư cách là thành viên của đoàn thể
này. Ngài là dấu chỉ và là trung tâm hiệp nhất của mỗi Giáo hội địa
phương.
Sự hiệp nhất của Giáo hội có nguồn gốc duy nhất được cụ
thể hóa nơi con người Phêrô, rồi nơi Giáo hội do ngài “thiết lập” và
nơi vị thủ lãnh Giáo hội. Như vậy, Giáo hội ở Rôma là nguồn hiệp
nhất cho mọi Giáo hội: “Giáo hội đứng đầu mà từ đó phát xuất sự hiệp
nhất tư tế (hiệp nhất của hàng Giám mục )”. “Chúa nói với Phêrô: và
Ta, Ta bảo ngươi: ngươi là Đá và trên Đá ấy Ta sẽ xây Hội thánh của
Ta. Sau khi Phục sinh, cũng chính với Phêrô, Ngài nói: Hãy chăn dắt
chiên của Ta. Ngài xây Giáo hội chỉ trên một người và Ngài trao phó
các chiên của Ngài cho ông chăn dắt. Và mặc dầu Chúa trao cho mọi
Tông đồ quyền bính ngang nhau, song lại chỉ lập một ngai tòa duy
nhất và bằng uy quyền của Ngài, Ngài đã sắp đặt nguồn gốc và hình
thái của sự duy nhất. Thánh Cyprien còn định nghĩa Giáo hội là “một
dân được hiệp nhất lại nhờ sự hiệp nhất của Chúa Cha, Chúa Con và
Chúa Thánh Thần” (Kinh Lạy Cha, số 23; cf. LG, số 4).
2- CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II
Công đồng Vaticanô trong hiến chế “Lumen gentium” đã
xác quyết tự bản chất Giáo hội là bí tích, nghĩa là vừa là dấu chỉ,
vừa là phương thế hiệp nhất với Thiên Chúa và với nhân loại
:
“Vì Giáo hội ở trong Chúa Kitô như bí tích hoặc dấu chỉ
và khí cụ của sự kiết hiệp mật thiết và sự hiệp nhất của toàn thể
nhân loại”. (GH số 1).
“ Thiên Chúa triệu tập tất cả những người tin kính và
mong đợi Đức Kitô, Đấng ban ơn cứu độ và hiệp nhất, nguyên lý của sự
hòa bình. Ngài thiết lập họ thành Giáo hội để Giáo hội trở nên bí
tích hữu hình của sự hiệp nhất cứu độ ấy cho toàn thể và cho mỗi
người”. (GH số 9)
Sự hiệp nhất ấy cần phải được phát triển không ngừng
:
“Mọi người được mời gọi gia nhập dân tộc mới của Thiên
Chúa. Vì thế, dân mới này, một dân duy nhất và hiệp nhất, có bổn
phận phải lan rộng khắp thế giới,trải qua mọi thế hệ…” (GH số
13).
Vì thế, mỗi người chúng ta có bổn phận phải góp phần
nhỏ bé của mình vào sự hiệp nhất ấy bằng sự thông hiểu và kính trọng
lẫn nhau :
“ Mọi người đều được mời gọi vào sự hiệp nhất công giáo
này của Dân Thiên Chúa, sự hiệp nhất ấy tiên báo và cổ võ nền
hòa bình phổ quát. Họ thuộc về hoặc hướng về sự hiệp nhất đó dưới
nhiều thể cách khác nhau, được sắp xếp hoặc họ là tín hữu công
giáo, hay là những người tin Chúa Kitô, hoặc sau cùng tất cả mọi
người không trừ ai đều được ơn Thiên Chúa kêu mời lãnh nhận phần
rỗi.” (GH số 13)
Trong sắc lệnh về Hiệp nhất, Công đồng cũng kêu gọi
:
“Sự hoán cải tâm hồn và đời sống thánh thiện làm một
với những lời cầu khẩn chung hay riêng cho sự hiệp nhất các Kitô
hữu phải được coi như là linh hồn của tất cả phong trào hiệp
nhất và xứng đáng mệnh danh là sự hiệp nhất thiêng liêng.” (HN số
8)
Đặc biệt, Công đồng nhắc nhở chúng ta hãy cầu nguyện
cho sự hiệp nhất ấy :
“Người công giáo thường có thói quen hội nhau để cầu
nguyện cho Giáo hội được hiệp nhất, lời cầu nguyện mà chính Đấng Cứu
Thế trước ngày tử nạn đã khẩn khoản dâng lên Chúa Cha : Xin cho tất
cả nên một (Gio 17,21). Trong vài trường hợp đặc biệt, chẳng hạn như
những dịp được chính thức tổ chức cầu nguyện cho hiệp nhất và trong
các buổi hội thảo về hiệp nhất, chẳng những người công giáo được
phép mà còn phải được khuyến khích hiệp nhau cầu nguyện với các anh
em ly khai. Những kinh nguyện chung như thế là phương tiện rất hữu
hiệu để xin ơn hiệp nhất và tiêu biểu thực sự mối dây còn đang
liên kết người công giáo với các anh em ly khai: Vì đâu có hai ba
người nhân danh Thày mà hội họp lại, Thày sẽ ở giữa họ (Mt 18,20)”.
(HN số 8)
3- ĐỨC THÁNH CHA GIOAN PHAOLÔ
II
Được chuẩn bị trong Cựu ước, được Đức Kitô thành lập và
được Chúa Thánh Thần giới thiệu cho thế giới trong ngày lễ Ngũ tuần
:
- Giáo hội là Dân Thiên Chúa, là Thân Thể Chúa Kitô, là
Đền thờ Chúa Thánh Thần (Ecclesia in Asia số 24).
- Giáo hội là chương trình tình yêu Thiên Chúa dành cho
nhân loại : “Giáo hội trong thế giới này chính là kế hoạch yêu
thương nhân loại của Thiên Chúa mà con người có thể trông thấy chính
là bí tích của sự cứu độ”. (Ecclesia in Asia số 24). Nói cách khác,
Giáo hội phải là dấu chỉ hữu hình của tình yêu Thiên Chúa đối với
nhân loại, thấy Giáo hội là cảm nghiệm được tình yêu của Thiên
Chúa.
- Giáo hội là bí tích của sự hiệp thông giữa Thiên Chúa
với con người : “ Dù cưu mang trong mình nhiều con người
tội lỗi chăng nữa, Giáo hội cũng phải được chúng ta coi là nơi ưu
tiên cho Thiên Chúa và con người gặp gỡ nhau, là nơi Thiên Chúa
quyết định mặc khải đời sống nội tâm nhiệm màu của mìnhvà thực hiện
chương trình cứu độ thế giới.” (Ecclesia in Asia số 24).
- Đồng thời, Giáo hội còn là bí tích của sự hiệp thông
giữa con người với nhau : “Một khi kết hợp với Chúa Con trong mối
dây yêu thương của Chúa Thánh Thần, các Kitô hữu cũng kết hợp với
Chúa Cha và từ sự hiệp thông này mà các Kitô hữu được hiệp thông với
nhau qua Đức Kitô trong Chúa Thánh Thần.” (Ecclesia in Asia số
24).
Sự hiệp thông trước hết phải được thể hiện trong nội bộ
của Giáo hội :
Đối với Giáo hội toàn cầu : Các Giáo hội địa phương
phải hiệp thông cùng đấng kế vị thánh Phêrô : “Mỗi Giáo hội địa
phương phải được xây dựng vững vàng bằng cách minh chứng tinh
thần hiệp thông với Giáo hội, vì đây chính là bản chất làm cho các
cộng đoàn ấy là Giáo hội.” (Ecclesia in Asia số 25)
Đối với các Giáo hội địa phương : Các cộng đoàn phải
hiệp thông với vị Giám mục của mình: “Giáo phận là sự hiệp thông của
các cộng đoàn chung quanh vị mục tử, trong đó giáo sĩ, tu sĩ và giáo
dân tham gia cuộc đối thoại bằng đời sống và bằng tâm hồn, cuộc đối
thoại được Chúa Thánh Thần nâng đỡ.” (Ecclesia in Asia số
25).
Mỗi Giáo hội địa phương phải trở thành “một Giáo hội
tham gia”, nghĩa là mọi người cùng cộng tác với nhau trong bổn phận
của mình : “Giáo hội tham gia là Giáo hội trong đó mọi người đều
sống đúng ơn gọi riêng của mình và thi hành đúng vai trò riêng của
mình.” (Ecclesia in Asia số 25). Giáo hội làm phát triển cách phong
phú các đặc sủng của mỗi thành phần trong Giáo hội, nhất là của giáo
dân, tu sĩ trong việc lập các kế hoạch mục vụ thông qua Hội đồng mục
vu và Hội nghị giáo xứ (Ecclesia in Asia, số 25). Giáo hội
hiệp thông là Giáo hội mà mỗi thành phần đều có trách nhiệm và không
ai nắm độc quyền Thánh Thần. Tông huấn nhắc nhở ta phải quan tâm đến
các thành phần nghèo khổ, giới trẻ trong giáo xứ, thiết lập những
cộng đoàn Giáo hội cơ bản và gầy dựng các phong trào canh
tân.
Tóm lại, sự hiệp thông được diễn tả qua việc liên kết
với Giáo hội toàn cầu qua Đấng kế vị thánh Phêrô, với giáo phận qua
Đức Giám mục và với giáo xứ qua những vị chủ chăn của
mình.
GSVN |
VỀ
MỤC LỤC | |
Tác phẩm
"Giáo hội cần loại Linh mục nào"? (tiếp theo) |
Lm Giuse Lê Công Đức chuyển ngữ từ bản
tiếng Anh:
PRIESTHOOD IMPERILED, Tác
giả: BERNARD
HARING, C.SS.R.
KINH NGHIỆM GÓP NHẶT TRÊN ĐƯỜNG ĐỜI TÔI (tiếp theo kỳ
trước)
Giữa đám dân tị nạn
Ít lâu sau chiến tranh, niềm hy vọng thừa sai của tôi
được hiện thực hóa giữa những nạn nhân chiến tranh. Tôi và vài linh
mục đồng sự trải qua một số năm rao giảng Tin Mừng cho những người
tị nạn Công Giáo không nhà cửa ở Đức – họ sống trong những vùng, mà
cho tới thời ấy, là những vùng riêng của Tin Lành. Không có một tổ
chức giáo xứ hay cộng đoàn Công Giáo nào tồn tại ở đấy. Suốt thời
gian đó, mỗi năm tôi bỏ ra khoảng mười tuần để viếng thăm các vùng
nói trên với ba linh mục khác – nhưng mỗi người chúng tôi phụ trách
các thị trấn hay các làng riêng.
Ban đầu, chúng tôi thăm từng gia đình trong một khu vực
nào đó - và đôi khi vị mục sư Tin Lành cho chúng tôi mượn nhà thờ để
qui tụ và cử hành phụng tự. Tuy nhiên, đa số các trường hợp, chúng
tôi thuê một vũ trường hay một căn phòng rộng để làm địa điểm qui
tụ. Việc ăn uống ngủ nghỉ của chúng tôi do chính những người dân tị
nạn này sắp xếp.
Tại một thị trấn nhỏ, không có người tị nạn Công Giáo
nào mời tôi ngủ lại trong nhà họ, vì thế tôi đi tới một phòng trọ
của một người Tin Lành. Chủ nhân cung cấp cho tôi một chỗ vốn thường
dành cho những người ăn xin lang thang. Tôi không ngạc nhiên khi
nhận thấy các tấm trải giường lâu rồi chưa được thay. Vì những người
ăn xin không có tiền để chi trả, nên chủ phòng trọ không buồn nghĩ
đến chuyện săn sóc giường chiếu cho họ. Khi gia đình của một giáo
viên Tin Lành phát hiện ra tôi đang ở đấy, họ thay tấm trải giường
cho tôi, mời tôi đi ăn tối, và thậm chí báo cho các người tị nạn
Công Giáo biết về tình trạng chỗ ở của tôi. Nhờ biến cố đó, tôi đã
nhận được sự trợ giúp đáng kể của những người tị nạn nhiệt tình liên
đới với tôi.
Trước khi tôi nhận sứ vụ đặc biệt này, với lòng hăng
hái của một linh mục, tôi đã chuẩn bị mười sáu bài giảng về các chủ
đề chính của Kitô giáo, nhưng tôi đã không bao giờ dùng đến bất cứ
bài nào trong số đó! Sống gần gũi người nghèo, tôi sớm hiểu ra rằng
cách tốt nhất để rao giảng Lời Chúa cho họ là tiên vàn phải biết
lắng nghe những ưu tư, hy vọng và niềm vui của họ.
Chính trong những năm đầy khó khăn thử thách ấy mà tôi
đã bắt đầu viết ra các tư tưởng của mình, kết đọng lại trong tác
phẩm ba tập Luật của Đức Kitô. Nếu không có những kinh nghiệm chia
sẻ cuộc sống với bao người nghèo khổ và túng thiếu thời chiến tranh
và sau chiến tranh như thế, thì bản văn kia của tôi rất có thể đã
khác đi rất nhiều.
Quả thật, quãng thời gian đó đã giúp tôi nhận hiểu hơn
rất nhiều về con người và sứ vụ của Đức Giêsu, Đấng đã đi khắp các
thị trấn và làng mạc Galilê rao giảng Tin Mừng cho người nghèo và là
Đấng không bao giờ biết mình sẽ tựa đầu vào đâu. Việc săn sóc và rao
giảng Tin Mừng cho các quân nhân và những người tị nạn đã trở thành
một kinh nghiệm căn bản cho tôi. Mười tám quốc gia Phi Châu mà tôi
đã phục vụ (một cách không liên tục) trong quãng thời gian hai mươi
năm sau Công Đồng Vatican II đã định hình nhãn quan, các ý tưởng và
các phương thức thi hành sứ vụ của tôi trong Thế Giới Thứ Ba, và
cũng đã hiện thực hóa những niềm hy vọng truyền giáo trước đây của
tôi gấp trăm lần.
Những kinh nghiệm vừa có sức thay đổi đời sống vừa có
tính thách đố sâu xa này đã cho phép tôi nhận thức những vấn đề
nền tảng mà tôi nghĩ rằng rất có thể mình không bao giờ thực sự
nhận hiểu nếu như mình không sống giữa người nghèo. Những kinh
nghiệm ấy cũng giúp đào sâu nhận thức của mình về vai trò của người
linh mục xét như là môn đệ Đức Kitô. Quả thật, làm sao chúng ta có
thể thực sự chia sẻ sứ điệp Tin Mừng với những người cùng khổ nếu
chúng ta không sẵn sàng đảm nhận thân phận nghèo của họ? Biết về cái
nghèo và sống cái nghèo, hai điều ấy hoàn toàn khác nhau. Trở thành
môn đệ của Con Người, điều đó đòi hỏi chúng ta phải suy niệm hằng
ngày - ở đây, bây giờ, và trong bối cảnh cuộc sống cụ thể - về ý
nghĩa của tiếng gọi trở thành “một người trong chúng ta”. Tất cả
điều này sẽ trực tiếp cho thấy chúng ta có thực sự “biết Đức Kitô”
hay không. Vâng, chúng ta chỉ “biết” Đức Giêsu Kitô thông qua việc
dấn thân giúp đỡ những người nghèo, những người tội lỗi, những kẻ bị
bóc lột và bất cứ ai cần chúng ta giúp đỡ.
Đánh thức ơn gọi
Tìm cách đánh thức và nuôi dưỡng các ơn gọi truyền giáo
giữa những người tị nạn, đó là một trong những mục tiêu sứ vụ thiết
thực nhất của chúng tôi. Việc hiện thực hóa những mục tiêu đó đã
nhắc tôi nhớ đến Thánh Phaolô và các bạn đường của ngài – các ngài
không bao giờ rời một nơi bao lâu các ngài chưa phát hiện và đào tạo
được những con người có khả năng thiết lập và phát triển cộng đoàn
tín hữu, những người sẽ tiếp tục công việc của các ngài. Tại mỗi
nơi, chúng tôi có thể nhận ra những người nam cũng như nữ sẵn sàng
đồng hành với chúng tôi và - khi cần – giới thiệu chúng tôi cho các
gia đình.
Kinh nghiệm đầu tiên của tôi trong việc tuyển chọn
những người giáo dân có tiềm năng cho sứ vụ này là trong một vùng
Tin Lành đôi khi có bầu khí căng thẳng – nơi mà những người tị nạn
sống tạm bợ. Ở đó tôi đã may mắn có hai phụ nữ cao niên thánh thiện
và một phụ nữ 22 tuổi tên là Matje. Trong khi hai phụ nữ cao niên
kia tỏ ra hết sức nhiệt thành, thì tôi cũng nhận thấy rằng họ cần
điều chỉnh một đều gì đó. Số là hai phụ nữ này khư khư yêu cầu tôi
đừng viếng thăm một gia đình Công Giáo nọ mà họ cho là quá bê bối.
Mỗi lần họ nêu chuyện này ra, tôi hết sức kiên nhẫn và ân cần giải
thích cho họ rằng tiêu điểm của sứ mạng Đức Giêsu là tìm kiếm chính
những loại người đặc biệt ấy. Đến cuối tuần, cả hai bị sửng sốt vì
những gì đã xảy ra. Họ nói: “Tất cả những người mà chúng tôi xem là
vô vọng đã bắt đầu tham gia sinh hoạt phụng tự đầy đủ và đã trở nên
những con người hoàn toàn mới.”
Matje, một phụ nữ rất không bình thường, là thành viên
duy nhất trong gia đình quan tâm đến đức tin Công Giáo. Hoàn toàn
cởi mở đón nhận đức Kitô, cô đã lắng nghe và nội tâm hóa Lời Chúa.
Ít lâu sau đó, cô tiết lộ cho tôi một điều cô đã hứa với Chúa: “Nếu
con có thể thuyết phục gia đình con trở lại với Giáo Hội, con nguyện
sẽ trở thành một nhà truyền giáo.” Và cô ta đã thành công một
cách kỳ diệu về cả hai phương diện ấy. Cô đã không chỉ đưa mẹ và em
gái mình trở lại trong dịp tôi đến vùng đó lần đầu tiên, mà cô còn
đưa cả bố và anh trai cô trở lại khi tôi đến đó lần thứ ba. Rồi ít
lâu sau, cô trở thành một nhà thừa sai Benedictine rất đắc lực ở
Tanzania. Nhiều năm sau, khi cả hai chúng tôi bị bệnh ung thư, chúng
tôi gặp lại nhau ở Đức. Bất chấp tình trạng bệnh hoạn của mình
(cô đã chết vì chứng bệnh này ít lâu sau khi cô thăm tôi), niềm vui
rạng rỡ của cô không bao giờ tắt. Đó quả là một tông đồ tuyệt
vời.
Tại thị trấn kế bên, một người tị nạn và cũng là một
giáo viên gốc ở Silesia - là người giúp đỡ tôi rất đắc lực - cũng đề
cập đến những “trường hợp vô vọng” mà anh ta nghĩ là mọi nỗ lực đều
vô ích. Thật cực kỳ khó để thuyết phục anh chấp nhận quan điểm mà
tôi thường xuyên nhắc đến, đó là Đức Giêsu không bao giờ có thái độ
kỳ thị đối với bất cứ ai. Khi chuyến viếng thăm của tôi kết thúc,
anh kể cho tôi về trường hợp một phụ nữ Công Giáo - là mẹ của sáu
đứa con - đã trở thành xì căng đan trong thị trấn. Phụ nữ này liên
can đến hoạt động mại dâm với các quân nhân Mỹ. Kể xong câu chuyện,
anh thốt lên: “Là một bậc vị vọng, cha không thể bước chân vào nhà
của con mụ ấy!” Để nhắc anh nhớ rằng điều quan trọng là phải thực
thi sứ mạng của Đức Giêsu, tôi trả lời: “Vì cả anh và tôi đều là
những ‘bậc vị vọng’, chúng ta có thể cùng nhau viếng thăm chị ấy.”
Khi chúng tôi bước vào nhà người đàn bà nói trên, chị đang có mặt
với một phụ nữ khác cũng liên can đến mại dâm. Bực bội vì sự hiện
diện của chúng tôi, chị phun ra xối xả những lời thô tục mà cả đời
mình cho tới lúc đó tôi chưa bao giờ nghe. Anh bạn của tôi nói:
“Đấy! Con đã không cảnh báo trước với cha rồi đó sao?” Tôi trả lời:
“Có lẽ chúng ta đáng nhận những lời chửi bới của chị ấy, vì trong
thâm tâm mình chúng ta đã xem thường chị ấy!” Chiều hôm đó, người
phụ nữ kia trố mắt ngạc nhiên thấy tôi ghé thăm chị lần nữa – lúc
này chị đang một mình với các con của chị - và tôi đã tỏ ra thân
thiện với chị như thể chưa có chuyện gì xảy ra cả. Sau một cuộc
chuyện gẫu ngắn, chị hứa sẽ đến tham dự việc cử hành phụng tự của
chúng tôi hai lần, vì tôi đã đến thăm chị hai lần. Cuối cùng chị đã
vượt xa khỏi sự ‘mặc cả’ ban đầu của mình để đi bộ năm dặm với những
đứa con lớn của chị, đến tham dự với chúng tôi vào mọi buổi
tối.
Một năm sau, khi tôi trở lại, người đàn ông giáo viên
đã trở thành bạn và mạnh thường quân rất đắc lực của tôi ấy đã nói:
“Cha thật có lý. Chị ấy đã trở thành một con người mới và các con
cái chị ấy cũng đã thay đổi rất nhiều.” Đây quả là tin mừng lớn lao.
Trước hết, người mẹ goá bụa này vốn bị khinh miệt do bởi ngôn từ thô
tục của chị – thì ra, (thật trái ngược với điều chúng tôi nghĩ ban
đầu) việc chị sử dụng ngôn từ đó không phải vì chị phản kháng chúng
tôi nhưng đúng hơn bởi vì chị bị thất đoạt[1] nghiêm trọng. Thứ hai,
nhiều người tốt đã giúp đỡ chị thoát ra khỏi tình cảnh khốn nạn và
bước vào một cuộc sống mới tốt đẹp hơn. Và cuối cùng nhưng không kém
quan trọng, người giáo viên mạnh thường quân của tôi nói trên đã
trải qua một cuộc hoán cải trong tâm hồn, anh nhận hiểu từ kinh
nghiệm này rằng – giống như Đức Giêsu – ơn gọi cốt yếu của anh là ưu
tiên phục vụ cho những người bị xem là tội lỗi, những kẻ bị gạt ra
ngoài lề xã hội.
Thật vậy, hoạt động truyền giáo là một nỗ lực ‘gây
nhiễm’ trong đó nếu chúng ta muốn thể hiện sức mạnh yêu thương và
cứu độ của Đức Kitô thì chúng ta không thể không nhúng tay chân mình
vào sình lầy khốn nạn của con người. Hiện diện giữa những người cùng
khổ nhất để phục vụ họ, đó là một con đường rất quan trọng để khám
phá, đánh thức và nuôi dưỡng các ơn gọi truyền giáo giữa những người
nghèo cũng như giữa bao người khác nữa xung quanh.
Một đàng, theo cách hoạt động tông đồ của Giáo Hội sơ
khai, chúng tôi đã cố gắng xây dựng những cộng đoàn đức tin mọi nơi
mà chúng tôi tới. Nhưng đàng khác, trong khi các Kitô hữu đầu tiên
không bao giờ rời một cộng đoàn nhỏ nào nếu cộng đoàn ấy chưa được
cung cấp một thừa tác viên Thánh Thể, thì trái lại chúng tôi – do
một truyền thống nào đó và do những qui định khắt khe của giáo luật
– đã để tất cả những cộng đoàn ấy lại phía sau lưng mình trong tình
trạng không có linh mục! Dù sao, đáng ghi nhận rằng ngay cả dù không
có thánh lễ, ít nhất nhiệt tâm truyền giáo cũng đã phát triển tại
những khu vực bần cùng ấy. Thực tế Chúa cũng ban cho tôi khả năng cổ
võ các ơn gọi linh mục và tu sĩ suốt trong thời gian đó, song rõ
ràng đấy không phải là tiêu điểm nhấn mạnh của tôi. Bởi điều quan
trọng hơn trong bổn phận của linh mục, theo tôi, là giúp người giáo
dân ý thức về ơn gọi Phép Rửa của họ – qua đó họ sẽ dấn thân thi
hành sứ mạng của mình trong Giáo Hội và trong thế giới. Một trách
nhiệm quan trọng không kém, đó là hợp tác với các tín hữu để biện
phân các nhu cầu của thời đại, để khám phá ra những sứ vụ nào phù
hợp nhất với họ, theo các khả năng riêng của họ, và cuối cùng để
nâng đỡ họ trong những sứ vụ mà họ đã chọn lựa.
Sát cánh với các bệnh nhân
Năm 1977, hồi tôi cần một cuộc giải phẫu thứ hai cho
căn bệnh ung thư của mình, tôi đã quyết định đến với một trong những
bệnh viện nghèo nhất ở Colleferro (phía nam Rôma), nơi làm việc của
vị bác sĩ giải phẫu đã phát hiện ra tình trạng ung thư của tôi. Vị
bác sĩ này đã học một phương pháp mới ở Hoa Kỳ – chỉ có thể được áp
dụng cho những người không hút thuốc. Trong tư cách là ứng viên đầu
tiên của ông, tôi xem đây là một cơ hội tuyệt vời không chỉ cho
chính mình mà còn để cho vị bác sĩ này kiểm tra hiệu năng của
kỹ thuật mới. Trong khi động lực riêng của tôi ở đây có thể không
hoàn toàn có tính bác ái, tôi vẫn sung sướng được ở giữa những người
nghèo, trở thành “một người trong chúng ta”.
Thật ra, về mặt kỹ thuật, bệnh viện này cũng là một
bệnh viện hàng đầu - nhưng mặt khác, ở đây có nhiều người rất nghèo
và mang trọng bệnh nhưng không có nhiều khả năng tài chánh. Hằng
ngày, một nhóm thiện nguyện đến phục vụ các nhu cầu cần thiết cho
các bệnh nhân mới. Họ tặng tôi một con dao, món quà đơn giản nhất.
Cũng như với mọi người nghèo, họ mang đến cho tôi một bó hoa để làm
cho căn phòng và tinh thần tôi được vui tươi phấn chấn hơn. Cả những
bệnh nhân cũng niềm nở với tôi. Một phụ nữ đứng tuổi ở phòng bên
cạnh ngày nào cũng sang thăm. Chị hát một bài hát rất hay. Một cách
hóm hỉnh, chị nói: “Tôi điếc, còn cha thì câm. Chúng ta giống nhau.”
Tôi suy ngẫm và nhận ra rằng những quà tặng của người nghèo, được
diễn tả một cách ân cần và thân ái, thì thâm sâu hơn và quan trọng
hơn bất cứ sự an ủi nào khác.
Vì hoàn toàn câm, tôi học cách giao tiếp thuần túy bằng
cử chỉ và chữ viết. Khi giai đoạn khó khăn nhất của mình đã trôi
qua, tôi rất ngạc nhiên thấy các y tá và các bệnh nhân đến với tôi
để lãnh bí tích hoà giải. Từ kinh nghiệm này, tôi càng xác tín hơn
rằng ngay cả trong tình trạng bệnh hoạn, người ta vẫn có thể vượt
qua các rào chắn để đem lại niềm an ủi cho nhau.
Kinh nghiệm sống không có thanh quản của 15 năm qua –
theo một nghĩa nào đó – là một ân huệ thật sự đối với tôi, bởi vì nó
đem lại cho tôi nhiều cơ hội tuyệt vời để an ủi bệnh nhân, nhất là
an ủi những người cùng cảnh ngộ với mình. Đó là những cơ hội mà tôi
không thể có được nếu tôi không ở trong tình trạng ấy. Tôi nói như
thế bởi vì khi bạn hoàn toàn khoẻ mạnh và bạn cố gắng an ủi khích lệ
một bệnh nhân, rất có thể người bệnh sẽ trả lời: “Anh nói nghe có vẻ
dễ dàng. Nhưng làm sao anh thực sự hiểu được hoàn cảnh của tôi?” Tôi
tin rằng một linh mục nếu không bao giờ đau ốm hay không bao giờ bị
những vấn đề thể lý giống như các bệnh nhân thì sẽ không thể hiểu
được hay diễn tả được niềm đồng cảm chân thành sâu sắc như một linh
mục ở trong hoàn cảnh của họ.
Từ đó đến nay, tôi ngày càng thấm thía hơn lời của Ngôn
Sứ Isaia: “Ta đã nghe lời ngươi cầu nguyện, Ta đã thấy nước mắt
của ngươi. Này Ta chữa lành ngươi” (2V 20,5). Tôi cảm nhận được
ý nghĩa thật thâm sâu trong những lời ấy bởi vì chính căn bệnh của
tôi đã trở thành phương tiện kết hợp tôi với nỗi đau khổ của bao
người khác; tôi có thể thực sự hiểu và chia sẻ lời cầu nguyện của
họ, nước mắt của họ, niềm hy vọng được chữa trị của họ. Cũng vậy,
chương hai Thư Do Thái nối kết những nỗi thống khổ của Đức Kitô một
cách mật thiết với việc Ngài chia sẻ cảnh ngộ của tất cả chúng ta.
Nghĩa là, Thiên Chúa đã làm cho Đức Kitô, huynh trưởng của chúng ta,
nên hoàn hảo xuyên qua đau khổ. Tôi tin rằng tôi đã được đặc ân
“biết” Đức Kitô này, người anh em tôi, người cùng chịu đau khổ và là
người chữa trị của tất cả. Và tôi cũng nhận ra ý nghĩa của sứ vụ
Ngài bằng những cách mà tôi có thể không bao giờ hiểu nếu như chính
bản thân tôi không đau khổ sâu xa.
Trong trường học đau khổ, Đức Giêsu, người anh em của
tất cả chúng ta, không chỉ học vâng phục những gì Thiên Chúa đòi
hỏi, mà còn học thương xót một cách đặc biệt (Dt 5,8-9). Không chỉ
bằng lời nói mà còn bằng gương mẫu của Ngài, Đức Giêsu dạy chúng ta:
“Hãy thương xót, như Cha anh em là Đấng xót thương” (Lc
6,36). Ý nghĩa sâu xa nhất của hy tế Đức Kitô trên Thập Giá được
hiểu như mang lấy gánh nặng tội lỗi của loài người (Dt 9,8), bằng
cách chia sẻ khổ đau của người ta với lòng trắc ẩn vô hạn. Qua cuộc
khổ nạn của Ngài, Đức Kitô đã trở thành bí tích tối thượng, trở
thành người chuyển tải cao nhất lòng thương xót của Chúa Cha. Vì
thế, không chỉ là thích hợp mà còn là cần thiết việc các linh mục
cũng chịu đau khổ, và qua đau khổ các ngài trở thành cảm thông hơn
với mọi người, nhất là với các bệnh nhân.
“Hãy chữa lành những người ốm
đau!”
Xuyên qua các thế kỷ, Giáo Hội đã dạy và đã thúc đẩy
việc săn sóc y tế và mục vụ cho các bệnh nhân. Trên khắp thế giới,
Giáo Hội đã xây dựng rất nhiều bệnh viện. Sự săn sóc đầy yêu thương
đối với những người đau ốm đã là chứng tá hùng hồn của tình yêu nơi
Giáo Hội. Thánh Vincent de Paul, vị linh mục thánh thiện và được
thần hứng, vượt lên trên những cấm kỵ văn hóa của thời ấy, đã giải
phóng năng lực của hàng ngàn nữ tu có lời khấn để họ phục vụ cho
bệnh nhân. Sự săn sóc và sự hiện diện đầy yêu thương của những con
người thánh thiện ấy – nam cũng như nữ – tự nó là một sức mạnh chữa
trị.
Tuy nhiên, trong vài thế kỷ qua, một thái cực không
lành mạnh đã phát triển trong đó việc rao giảng Tin Mừng bị tách rời
khỏi sứ vụ chữa trị. Duờng như đã có hai cơ chế của Giáo Hội hoạt
động song song nhau, một cho việc loan báo Tin Mừng và một cho việc
chữa trị. Càng nghiêm trọng hơn nữa, đó là sự phổ biến của một nền
luân lý đầy nguy hiểm và dễ gây tổn thương, lạc xa đức tin theo
Thánh Kinh, như được đặc biệt ghi nhận vào thời sau Công Đồng
Trindentinô. Những hiện tượng không lành mạnh này đã sinh ra nhiều
chứng thần kinh loạn nghiêm trọng có nguồn gốc từ tâm lý và trí
năng, đôi khi được coi là tình trạng thần kinh loạn và rối loạn tâm
thần có nguồn gốc từ ... Giáo Hội!
Trái lại, cần phải khẳng định mạnh mẽ rằng một đức tin
chân thực và một nền luân lý cắm rễ trong đức tin theo Tân Ước thì
không bao giờ – trong bất luận trường hợp nào – là nguyên nhân của
sự suy nhược tâm thần như thế. Đúng hơn, đức tin đích thực - được
sống đúng đắn, được rao giảng và được làm chứng – luôn luôn là hiện
thân của một sức mạnh chữa trị độc đáo.
Việc phát triển chiều kích chữa trị của đức tin và của
luân lý Kitô giáo đã và vẫn còn là một mối quan tâm chính của tôi.
Đức tin, trong toàn diện tính của nó, không thể bị giảm trừ đến chỉ
còn là việc bám chặt vào một hệ thống các chân lý (niềm tin) được
dạy bởi Giáo Hội. Một cách căn bản, đức tin - theo nghĩa chân thực
và thâm sâu nhất của nó - là một mối quan hệ có tính chữa trị và
có sức cứu độ với Thiên Chúa. Như vậy, một đức tin sống động
phải thiết yếu quan tâm đến những mối quan hệ lành mạnh và có sức
chữa trị cũng như phải quan tâm đến việc phát triển toàn diện các cơ
cấu của sự sống. Trong công cuộc loan báo Tin Mừng, các linh mục và
tất cả những ai nhận sứ vụ phục vụ người khác phải được hướng dẫn
chu đáo và được đào tạo nội tâm cách kỹ lưỡng theo những viễn tượng
này.
Cách đây khoảng 40 năm, khi tôi ở Rôma, có một phụ nữ
trẻ, đang trong thời gian hoàn thành đợt thi tốt nghiệp ở đại học,
bỗng trở nên cáu kỉnh, quạu quọ, hung hãn. Người ta khám phá ra rằng
cô ta có một nhân cách tâm thần phân liệt (schizophrenic
personality). Khi tôi lần đầu tiên gặp cô ta, con người Adam cũ
trong tôi bỗng đùng đùng phẫn nộ, tôi tự hỏi: “Tại sao người ta luôn
luôn đưa đến cho tôi những gánh nặng như thế này? Người ta
phải biết rằng lúc này tôi không thể làm được gì nhiều để giúp đỡ
bất cứ ai chứ!” Tuy nhiên, ơn Chúa chạm đến trái tim tôi, và tôi
hiểu rằng nơi người phụ nữ này, Đức Giêsu Kitô đang gặp tôi và trắc
nghiệm sự nhận thức của tôi đối với Lời Ngài: “Những gì ngươi làm
cho một trong những kẻ bé mọn nhất của gia đình Ta đây là ngươi
làm cho chính Ta” (Mt 25, 40). Trong khoảnh khắc mạc khải ấy,
tôi quyết định kính trọng, yêu thương người phụ nữ tội nghiệp kia.
Cô đang là sự hiện diện hữu hình của Đức Kitô đau khổ ngay tại cửa
nhà tôi. Cảm nhận mình được yêu thương và tôn trọng, Lina sẵn sàng
tín nhiệm và cộng tác với tôi. Dù vừa trải qua một phẫu thuật tâm
lý (psychochirurgy) – vốn thường tàn phá mọi khả năng chủ động –
Lina không bao giờ bỏ một cái hẹn nào, và trong những lần gặp nhau
sau đó, cô đã biết nhìn tôi bằng ánh mắt hiền từ, trìu
mến.
Mặc dù không có bằng cấp nào về tâm lý trị liệu, nhưng
tôi đã đọc rất nhiều tác phẩm của các nhà trị liệu nổi tiếng của thế
kỷ này và tôi đã chú ý nhiều đến những trường phái trị liệu nhấn
mạnh đến các mối quan hệ có tính chữa trị. Loại liệu pháp này chỉ
thực sự có hiệu năng tùy theo mức độ người ta có lòng kính trọng
thâm sâu và bền vững đối với người bệnh. Nhưng như thế cũng chưa đủ.
Bên cạnh việc học hỏi và thực hành những gì thuộc chuyên môn của một
nhà trị liệu tâm lý, cũng cần phải triển khai sứ mạng của Đức Kitô
như được ủy thác cho chúng ta và các hệ quả của sứ mạng đó: “Hãy
loan báo Tin Mừng rằng Nước Trời đã gần đến. Hãy chữa lành những
người đau yếu, ... băng bó những kẻ cùi hủi” (Mt 10, 7-8; Lc
10,9).
Đành rằng học kỹ thuật là điều rất quan trọng, nhưng sứ
mạng chữa trị còn liên can đến rất nhiều chuyện khác nữa. Người linh
mục phải cởi mở mình ra tới những chiều sâu của đức tin, và với một
tâm hồn đầy tràn lòng biết ơn và niềm vui, người linh mục hoàn toàn
phó thác chính mình trong bàn tay Thiên Chúa. Đặc biệt, tâm tình
biết ơn sẽ là chìa khóa mở toang lòng trí người ta để họ đón nhận
quà tặng tình yêu đầy năng lực chữa trị và giải phóng của Thiên
Chúa. Như vậy, tiên vàn không phải là tôi phải làm gì – mà một cách
căn bản hơn, đó là tôi phải là gì và tôi phải đem cái gì tới cho mối
quan hệ của tôi với Thiên Chúa và với anh chị em mình. Chỉ
khi biết mở rộng lòng mình ra đón nhận phúc ân và an bình tràn
ngập của Thiên Chúa thì người linh mục mới có thể đem lại sức chữa
trị cho người anh em bên cạnh, nhất là cho những ai bệnh hoạn thể lý
hay tâm thần. Điều này khác hẳn với hình ảnh ‘bác ái’ của người linh
mục ở xa xa bệnh nhân -và từ trên cao nhìn xuống, ban phát cho người
ta ánh mắt thương hại!
Sự cứu chuộc, sự lành mạnh và sự chữa trị được đóng dấu
sâu sắc bởi điều mà thần học gọi là ơn dự phòng (gratia
praeveniens). Khi giải thích điều này cho chính mình và cho người
khác, tôi so sánh nó với một món quà ân sủng được ban cho trước.
Chẳng hạn, chính Thiên Chúa luôn luôn có sáng kiến tín nhiệm và yêu
thương chúng ta trước - dù chúng ta là ai, dù chúng ta nói gì và làm
gì. Các linh mục và các thừa tác viên săn sóc bệnh nhân có thể đi
vào trọn vẹn trong nhiệm cục cứu độ này theo mức độ mà – để tôn vinh
Thiên Chúa – họ luôn luôn bày tỏ cho người anh em mình, ngay cả
những người thù địch nhất, một sự tín nhiệm trước và vô điều kiện
chảy ra từ thiện chí. Nghệ thuật cung ứng sự khích lệ trước được ghi
nhận ở cốt tủy của Paraklesis trong Thánh Kinh, đó là sự khích lệ
tuôn chảy từ sức mạnh của Chúa Thánh Thần.
Những bạn trẻ thường xuyên bị đánh giá thấp, bị lăng
nhục, bị trách mắng bởi cha mẹ và bởi các nhà giáo dục của mình sẽ
vô tình đi đến chỗ tự xem mình là vô giá trị. Khi người ta
“dis-ease”[1] với chính mình trong thời niên thiếu, lớn lên người ta
sẽ đi đến chỗ bại xụi, yếu nhược, què quặt, trở thành những bệnh
nhân phung cùi thời hiện đại. Ngược lại, những cha mẹ và nhà giáo
biết sống trọn vẹn vai trò Paraklesis và biết khôn ngoan đặt sự
tín nhiệm trước nơi con cái, thì họ sẽ có khả năng làm những phép
lạ – theo nghĩa đích thực của Thánh Kinh – có sức chữa trị các
quả tim và các mối quan hệ căn bản nhất. Hơn nữa, trên chính nền
tảng ấy, đôi khi họ có thể chữa lành cả các chứng bệnh thực tế nữa.
Đây là những nhà chữa trị thực sự có năng lực sáng tạo.
Trong tư cách là linh mục, chúng ta đừng bao giờ gán
bất cứ loại sức mạnh kỳ diệu nào cho chính chúng ta viện lẽ rằng nhờ
được truyền chức thánh. Chúng ta chẳng có gì kỳ diệu hay thần nhiệm
cả đâu! Đàng khác, Thiên Chúa thực hiện những việc trọng đại nơi và
qua những người – như Đức Maria – biết ca ngợi và vững tâm tín thác
vào Ngài. Đúng theo ơn gọi của mình, không hơn không kém, chúng ta
là những cộng tác viên bé nhỏ của Thiên Chúa, những kẻ mở rộng lòng
mình đón nhận ơn Chúa để đem lại sự chữa trị trong mọi mối quan hệ
của chúng ta với Thiên Chúa, với tha nhân và với toàn thể tạo vật.
Luôn luôn tiên vàn chúng ta phải nhận thức rằng cả chính chúng ta
nữa cũng là những kẻ luôn luôn cần được chữa trị - cả chúng ta nữa
cũng không ngừng cần đến tình yêu và sự hiện diện đầy khích lệ trước
của Thiên Chúa. Xét cho cùng, chúng ta cũng chỉ là những nhà chữa
trị mang đầy thương tích mà thôi. Trong mức độ mà chúng ta biết mau
mắn khích lệ và tín nhiệm người khác, thì sự tín nhiệm và khích lệ
này sẽ chảy ngược về với chúng ta – hóa thành năng lực chữa trị và
củng cố.
Cuối cùng, không chỉ một mình các Kitô hữu, các tông đồ
giáo dân hay các linh mục, được mời gọi và được sai đi trong sứ vụ
chữa trị. Nói theo ngôn ngữ của Cha Teilhard de Chardin thì chính
“Cảnh Vực Thần Linh” là nguồn mạch trước hết từ đó mọi năng lực chữa
trị chảy ra và lan tỏa. Nhận thức quan trọng này, do đó, buộc chúng
ta phải tìm kiếm những mối quan hệ lành mạnh và những cơ cấu lành
mạnh ở khắp nơi, bên trong và bên ngoài Giáo Hội. Vả chăng, nhãn
quan này không phát xuất từ sứ mạng nền tảng của chúng ta là loan
báo Tin Mừng và chữa lành những người đau yếu một cách toàn diện đó
sao?
Vai trò chữa trị của thần học luân lý và
của việc giảng dạy luân lý
Phải dần dần tôi mới khám phá được rằng thần học luân
lý và, tổng quát hơn, sư phạm luân lý có những chiều kích chữa trị
và tác động rất đáng kể. Một trong những trách nhiệm quan trọng nhất
là giúp cho Giáo Hội, nhất là các linh mục, ngày càng trở nên những
tấm gương mẫu mực hơn, những biểu tượng sống động hơn của vị Thầy
Thuốc vĩ đại là Đức Giêsu Kitô – bằng việc sống triệt để Tin Mừng về
sự chữa trị. Đành rằng các linh mục không giữ độc quyền về sứ mạng
chữa trị và mạc khải của Giáo Hội, tuy nhiên họ có thể phục vụ tốt
nhất cho dân Thiên Chúa trong việc tiên phong sống sứ mạng chữa trị
một cách nhất quán, trong xây dựng cộng đoàn, trong rao giảng và làm
chứng cho Tin Mừng.
Người ta luôn luôn choáng váng khi nhận thấy một nền
luân lý sách nhiễu - gây ra bệnh hoạn, phẫn nộ, xét nét và gây hấn -
trong Giáo Hội. Nếu có tồn tại những tâm bệnh có nguồn gốc từ
Giáo Hội gây phiền hà cho hầu như mọi mối quan hệ chủ yếu với
Thiên Chúa, với bản thân và với tha nhân, thì cần phải có một nỗ lực
phối hợp để điều nghiên và sửa chữa tất cả những qui phạm của thần
học, nhất là thần học luân lý – vốn không tổng hợp và hội nhập được
hai chiều kích chữa trị và mạc khải. Đương nhiên công việc này cũng
cần đến một cuộc cải cách các cơ cấu Giáo Hội có tính đàn áp, chẳng
hạn những cơ cấu hậu thuẫn cho chủ trương tập quyền đầy quan liêu và
cho một quan điểm độc đoán về vai trò lãnh đạo ở mọi cấp độ. Trong
nỗ lực này, khởi điểm của cuộc cải cách phải luôn luôn là những cố
gắng hợp tác của chúng ta để hiểu biết thấu đáo Đức Kitô là Đấng
Chữa Trị, là Ngôn Sứ và là hình ảnh Nhập Thể của Đấng Sáng
Tạo.
Nhiều người Công Giáo đã được đánh thức bởi nhận định
kịp thời và thích đáng của Karl Rahner rằng: Giáo Hội trước Công
Đồng, thật đáng tiếc, đã gán là tội trọng (mortal sin) cho vô số
chuyện vặt vãnh và vớ vẩn. Trong tư cách là một nhà thần học
luân lý trẻ, tôi có lần giảng tĩnh tâm ở Tyrol cho một trăm linh
mục. Trong phần dẫn nhập, tôi nói: “Thưa các cha, tôi không có ý
giảng về một danh mục các tội trọng.” Một linh mục hạt trưởng cao
niên lập tức công khai phản ứng lại: “Nhưng như vậy là không thực
tế! Làm sao chúng ta là những linh mục tránh được khả năng phạm tội
trọng trong liên quan đến những luật chữ đỏ?” Quan điểm của vị linh
mục này phát xuất từ thủ bản Noldin cũ kỹ, trong đó vạch ra vô số
qui định về nghi thức mà các linh mục buộc phải tuân hành “nếu không
thì mắc tội trọng”. Chẳng hạn, cho đến năm 1949, Thánh Bộ Phụng Tự
và Kỷ Luật Bí Tích của Vatican còn tuyên bố rằng một phụ nữ hay nữ
tu mà trong Thánh Lễ tới gần bàn thờ vượt quá lan can cung thánh là
mắc tội trọng. Khoảng ba mươi năm sau, có lần tôi vẫn còn đụng chạm
với một hồng y kiên quyết bảo vệ một luật của Giáo Hội buộc trẻ em
trên bảy tuổi phải xưng tội lần đầu trước khi rước lễ lần đầu, vì
người ta giả định rằng trẻ em ở tuổi này có khả năng phạm tội
trọng.
Kinh nghiệm ấy nhắc tôi nhớ lại thật rõ những nỗi kinh
hoàng thuở ấu thời của mình với vị cha sở khư khư đòi chúng tôi xưng
thú mọi tội trọng, đe doạ rằng chúng tôi sẽ bị đốt trong lửa và diêm
sinh nếu như chúng tôi xưng thú không đầy đủ! Người ta trình bày cho
trẻ em – chưa nói là cho người lớn - một khuôn mặt Thiên Chúa kỳ dị
biết bao! Rất may là cả lúc đó lẫn bây giờ tôi vẫn không chia sẻ tư
tưởng bi quan của Eugen Drewermann. Nhưng ngay cả trong thời đại
hiện nay, quyền bính Giáo Hội ở mọi cấp vẫn cần phải quan tâm đến
những cảnh báo nghiêm túc của các nhà trị liệu tâm lý có nhiệt tâm
và giàu hiểu biết khi họ cảnh giác chúng ta về các chứng bệnh có
nguồn gốc từ Giáo Hội, những chứng bệnh có thể phát xuất từ một
cái nhìn tiêu cực, sai trái và hà khắc.
Một điều nhấn mạnh mấy cũng không vừa, đó là giáo huấn
của Giáo Hội và việc thực hành mục vụ - trong quan hệ với mọi
chiều kích và mọi cơ cấu của đời sống - phải được giải phóng khỏi
một nền luân lý cứng nhắc và phải được định hình lại trong viễn
tượng một tổng hợp vững chắc và có tính nhân văn của hai sứ vụ rao
giảng và chữa trị. Hơn nữa, tổng hợp này phải đặc điểm hoá việc huấn
luyện và đời sống linh mục. Trong khi từ đầu, tôi là một người ủng
hộ mạnh mẽ thần học giải phóng, tôi vẫn khẳng định mạnh mẽ sự cần
thiết phải bao gồm chiều kích giải phóng và chữa trị trong mọi qui
phạm thần học.
Quan tâm mục vụ đối với những người li
dị
Mối quan tâm của tôi đối với những người li dị không
phải là kết quả của các nghiên cứu lý thuyết – mặc dù tôi vẫn nhìn
nhận công việc nghiên cứu có vai trò rất quan trọng. Đúng hơn, mối
quan tâm này của tôi phát xuất từ hai nguồn: một là, từ tình thương
và niềm kính trọng của Đức Giêsu đối với những con người đứng bên lề
cuộc sống, những người bị coi là hư hỏng - và hai là, từ vô số các
kinh nghiệm của bản thân tôi với những người li dị.
Nỗi thất vọng cùng cực và nỗi khổ đau tâm cảm của quá
nhiều người li dị thiết tưởng cũng đã đủ lý do không chỉ để thúc đẩy
niềm cảm thông nơi các linh mục mà còn để dẫn Giáo Hội tới một cách
suy nghĩ mới. Gần như ở khắp những nơi trên thế giới mà tôi đã đi
qua, các bạn tôi – nhất là những tu sĩ nam nữ – đã giới thiệu những
người li dị đến gặp tôi, hoặc đã bày tỏ với tôi những nỗi quan tâm
của họ đối với những người li dị mà họ quen biết. Tôi nhớ có lần,
một giám mục Phi Châu giới thiệu chính em trai của ngài, một người
li dị, đến gặp tôi. Giám mục nói với người em mình: “Chú hãy làm
theo những gì Cha Haring khuyên chú làm!”
Những nỗi khổ đau cùng cực của những người li dị –
thường đa số họ là những người rất đáng nể phục – luôn luôn làm tôi
trằn trọc và suy nghĩ về những Lời này của Đức Kitô: “Những gì các
ngươi làm cho một trong các anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các
ngươi đã làm cho chính Ta” (Mt 25,40).
Tôi cảm kích sâu xa trước tấm lòng của Đức Giêsu đối
với người phụ nữ Samaria – người phụ nữ mong muốn có được một đời
sống nghiêm túc, nhưng đã bị khước từ bởi năm người đàn ông. Trong
truyền thống Do Thái lúc bấy giờ, một “người đàng hoàng” sẽ không
bao giờ tiếp xúc với một phụ nữ như thế. Đức Giêsu đã không chỉ khôi
phục lại lòng tự trọng và phẩm giá cho chị mà, hơn thế nữa, Ngài đặt
chị làm một tông đồ của Ngài. Trong tư cách là một môn đệ Đức Giêsu,
tôi không thể nghĩ đến những con người khốn khổ ấy mà không đồng
thời nghe âm vang Lời Đức Giêsu: “Tôi đến không phải để xét xử,
nhưng là để chữa trị” (x. Ga 3,17; Lc 19,10).
Trong đa số các trường hợp li dị mà mình tiếp xúc, tôi
cảm nhận đó là một nỗi mất mát và nỗi đau bi thảm hơn là một tội. Từ
kinh nghiệm và suy tư của chính mình, tôi ngày càng xác tín rằng
phương thức oikonomia của Giáo Hội Chính Thống phù hợp với Thánh
Kinh hơn so với hữu thể luận (ontologism) đầy tính pháp lý của giáo
thuyết Công Giáo hiện đại. Tôi cho rằng chúng ta nên liều chấp nhận
khổ sở (khổ sở do bị hiểu lầm và khổ sở do bị chỉ trích) để dám suy
nghĩ lại và định hình lại việc săn sóc mục vụ nhằm giúp chữa trị
những con người khốn nạn và mang đầy thương tích này. Trong tư cách
là các thừa tác viên của Đức Kitô đối với dân Ngài, phải chăng chúng
ta không thể hình dung rằng Đức Giêsu đã viết tên của chúng ta – tên
bạn và tên tôi – trên đất và nói: “Ai trong các ngươi sạch tội, hãy
ném đá chị ấy trước đi!” (Ga 8,7-8)? Xin mở ngoặc để nói thêm ở đây:
nhiều người li dị đến gặp tôi không thể bị gọi là những kẻ ngoại
tình – theo bất cứ nghĩa nào!
Người linh mục đích thực không phải là một quan tòa
cũng không phải là một robot bị đóng hộp trong những phạm trù phán
quyết quá đơn giản. Phần mình, thú thực tôi rất xấu hổ nếu cảm thấy
mình hơi thoáng nghiêng về ý nghĩ rằng những người li dị và tái hôn
là những người “đang sống trong tình trạng tội trọng một cách khách
quan” sau khi họ đã chịu đựng quá nhiều nỗi khổ đau và ô nhục trong
biến cố gãy đổ hoàn toàn cuộc hôn nhân thứ nhất của mình.
Săn sóc một cách chữa trị cho những người li dị, đó
cũng là một trắc nghiệm đo lường quyết tâm đại kết của Giáo Hội. Các
Kitôhữu Chính Thống và nhiều Kitôhữu thuộc các giáo hội Cải Cách
khác rất choáng váng trước sự khắc nghiệt của những giám mục và linh
mục Công Giáo cố khư khư bám vào một hữu thể luận nặng tính pháp lý
lỗi thời để cắt xén, bóp méo hoặc thay thế hoàn toàn nhãn quan của
Thánh Kinh về tính bất khả phân ly bằng lối suy nghĩ và kiểm soát
quá đơn giản hóa và quá nhũng nhiễu của họ.
còn
tiếp |
VỀ
MỤC LỤC | |
CHÀNG THANH NIÊN GIÀU
CÓ |
Nguyên Tác IN STEP WITH GOD
LM Vincent
Travers, OP HƯƠNG VĨNH
chuyển ngữ
Chàng Linus nói với vợ: “Cuộc đời lạ thật! Em
có thích ngược dòng thời gian và sống lại từ đầu, nếu em biết được
những điều như em đang biết hiện nay không?” Nàng Lucy
không thấy cảm kích chút nào. Nàng nhìn chồng chòng chọc và nói:
“Bây giờ anh biết được gì?”
Đó là một câu hỏi thật hay! Chúng ta biết được gì đây,
sau hai mươi năm, bốn mươi năm, sáu mươi năm cuộc đời? Chúng ta đã
học hỏi được gì do kinh nghiệm mà ra? Nếu chúng ta đã học được từ
kinh nghiệm, có lẽ chúng ta đã không thường xuyên phạm đi phạm lại
những lỗi lầm đó. Thiết tưởng phần đông chúng ta cũng giống như
chàng thanh niên giàu có trong Phúc Âm Thánh Mác-cô (10,
17-22):
“Chúa Giêsu vừa lên đường thì có một người
chạy đến, quì xuống trước mặt Người và hỏi: ‘Thưa Thầy nhân lành,
tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?’ Chúa
Giêsu đáp: ‘Sao anh nói tôi là nhân lành? Không có ai nhân lành
cả, trừ một mình Thiên Chúa. Hẳn anh biết các điều răn: ‘Chớ giết
người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại
ai, hãy thờ cha kính mẹ.’
Anh ta nói: ‘Thưa Thầy, tất cả những điều đó, tôi
đã tuân giữ từ thuở nhỏ.’ Chúa Giêsu đưa mắt nhìn anh ta và đem
lòng yêu mến. Người bảo anh ta: ‘Anh chỉ thiếu có một điều, là
hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho
tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi.’
Nghe lời đó, anh ta sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ
đi, vì anh ta có nhiều của cải.”
***
Chúng ta đã dần dà học được là sống bằng luật lệ và
tuân giữ các giới răn thật có ý nghĩa: đừng nói dối, đừng gian
lận, đừng trộm cắp, đừng giết người. Chúng ta cũng học được là
sống ngược lại với luật lệ đưa đến tình trạng hỗn loạn và rối ren.
Khi không tín nhiệm ai hết, người ta phải luôn thận trọng, canh
chừng, không bao giờ lơ là đưọc. Nếp sống đó thật là một cơn ác mộng
và không đáng sống.
Sống theo cách của tôi
Hầu như thật khó khăn đối với chúng ta để luôn luôn
sống theo luật lệ và tuân giữ các giới răn. Khi chúng ta thành công
thì mọi người được lợi. Sống theo luật lệ là một bước tiến lớn lao
để đi đúng đường, nhưng như Chúa Giêsu đã vạch rõ cho người thanh
niên thấy là sống không gây rối, giữ mình sạch sẽ, tuân giữ các
giới răn, rõ ràng chưa đủ. Điều đó không đưa ta đến cốt
lõi cuộc sống, chỉ đưa ta tới ngưỡng cửa, nhưng chưa vào được bên
trong ngôi nhà. Chính ở bên trong ngôi nhà là nơi chúng ta phải tới.
Cuộc sống không có nghĩa là phải sống ở nơi ngưỡng cửa.
Chàng thanh niên xem ra đã thành công. Chàng đã
đạt đuợc điều đó. Chàng là “món hàng đắt giá”, như ở Bắc Mỹ
người ta thường nói. Dù chàng giàu có, nhưng khi nhìn thấu suốt bên
trong, chàng nhận thấy trong cuộc sống còn có điều gì cao quí hơn
tiền bạc. Chàng đã hỏi Chúa Giêsu: “Tôi phải làm gì để được sự
sống đời đời?” Chàng đã hỏi đúng người. Chúa Giêsu cũng đồng
ý như thế. Chàng đã thiếu sót điều căn bản ở trong cuộc sống. Ở điểm
đó, Chúa Giêsu và chàng thanh niên đang cùng đọc một trang sách,
đang cùng hát chung một bản nhạc.
Cội rễ mọi sự dữ
Trừ phi chúng ta thấy người thanh niên đó thật quảng
đại, nếu không, chúng ta đã đánh mất tâm điểm của câu chuyện. Chàng
thật sự đã tuân giữ mọi lề luật suốt cuộc đời chàng “từ lúc tấm
bé”, như chàng đã thưa với Chúa Giêsu. Ai trong chúng ta có thể
nói được như vậy?
Nhưng chàng cảm thấy thất vọng tột độ khi nghe Chúa
Giêsu nói với chàng: Bạn đang có vấn đề. Vấn đề của bạn là
“tiền bạc”. Tiền bạc của bạn đã cản trở bạn trên con
đường đi đến sự sống vĩnh cửu. Nếu bạn muốn trở thành đệ tử của tôi
“bạn hãy bán hết những gì bạn có, bố thí cho người nghèo khó và
theo tôi”.
Khi người thanh niên nghe những lời đó, chàng cảm thấy
choáng váng. “Bán hết mọi tài sản?” Chúng ta có thể tưởng
tượng chàng đang hỏi Chúa như thế trong sự ngỡ ngàng tột độ.
“Thầy không nói giỡn chứ?” Chẳng ngạc nhiên chút nào, chàng
đã sa sầm nét mặt.
Ngã rẽ cuộc đời
Chúa Giêsu đang thử thách chàng thanh niên đó. Bất chợt
chàng cảm thấy mình đứng trước ngã rẽ cuộc đời. Đối với người
Hy-lạp, “thời gian khủng hoảng là thời gian của vận hội mới”.
Người ta im hơi lặng tiếng khi đứng trước ngã rẽ cuộc đời. Ở đó đang
diễn ra tấm thảm kịch của sự do dự. Chàng thanh niên đang đắn đo.
Ở đây sự lựa chọn không phải giữa tốt và xấu. Đó là sự
“lựa chọn giữa tốt và tốt hơn”, giữa con đường đang được
nhiều người đi qua hay ít người đi; giữa cuộc sống nơi ngưỡng cửa
hay ở trong ngôi nhà. Sự lựa chọn tùy thuộc ở chàng. Không quyết
định cũng là một sự quyết định rồi.
Chàng chỉ thưa: Không. Chàng đã lặng lẽ
ra đi một cách buồn bã. Còn bạn thì sao? … Nhưng Phúc Âm ghi lại
việc ra đi của chàng thanh niên như một vận hội mới đã bị đánh mất
trong cuộc đời chàng. Giả như chàng đã ở lại, bán hết tài sản và
theo Chúa Giêsu, tôi có cảm tưởng là nhiều người – trong đó có gia
đình, bạn bè và những đồng nghiệp – có thể đã cho chàng là “mát
dây”, bị rơi vào đường cùng và gàn gàn dở dở!
Ai là chàng thanh niên đó? Theo Thánh kinh mà nói,
chàng thanh niên đó đại diện cho bạn và tôi. Và thật hữu ích bạn nên
tin tưởng như thế! Chàng đã có vấn đề. Chàng là người “mê
tiền”. Có thể tiền bạc không phải là vấn đề đối với bạn và tôi.
Nhưng câu hỏi của chàng thanh niên, “Tôi phải làm gì để được
sự sống đời đời?” là một câu hỏi đang vang động trong bối
cảnh cuộc sống chúng ta.
Ngày nay, đến lượt chúng ta đang đứng trước ngã rẽ cuộc
đời. Chúng ta cũng la lên lớn tiếng: “Lạy Chúa, con phải làm gì
đây?” Và Ngài trả lời: “Hãy đánh rơi bất cứ điều gì ngăn cách
con với Ta.” Đối với hầu hết chúng ta, “sự lựa chọn không
phải giữa tốt và xấu, nhưng là giữa tốt và tốt hơn”. Đó là sự
lựa chọn giữa ai muốn trở thành triệu phú và ai muốn trở nên môn đệ
Chúa Giêsu?
Cuộc sống có ý nghĩa
Đức Thánh Cha Gioan Phao-lồ II đã ngỏ lời với hơn hai
triệu bạn trẻ đang đứng trước ngã rẽ cuộc đời, ở kinh thành Roma,
ngày 19 tháng 8 năm 2000. Trích dẫn lời nữ thánh Catherine
thành Siena, Ngài nói: “Nếu các bạn trở nên những người
mà các bạn phải trưởng thành như thế thì các bạn đã nổi lửa cho đời
rồi.” Ba trăm ngàn thanh thiếu niên đã đi xưng tội cuối tuần đó.
Họ đã xưng tội và đã nhận lãnh bí tích hòa giải.
Sự thách đố của Chúa Giêsu quật ngã chúng ta nhiều
cách. Lời mời gọi đạt tới sự sống vĩnh cửu là một lời mời gọi đối
với một linh đạo sâu sắc hơn, giúp chúng ta ra khỏi vết lún mà chúng
ta đã sa vào, giúp chúng ta lội ngược dòng những dư luận quần chúng.
Đó là một sự mời gọi trở nên cao quí hơn trong những mối tương quan
với bạn bè và trong những giao dịch làm ăn. Trên tất cả, đó là một
lời mời gọi trở nên chứng tá thầm lặng đối với Tin Mừng.
Tôi vừa nhận được một cú điện thoại của một giáo dân
thuộc giáo xứ cũ của tôi ở Vancouver BC Canada. Anh là nhân viên xã
hội. Anh nói về chị Cathy. Chị bị rơi xuống vực thẳm. Rồi chị
đã gặp được người bạn của tôi và sự hiện diện của anh đã giúp đỡ chị
rất nhiều. Không những chị cảm nhận sự hiện diện của anh mà còn sự
hiện diện của Chúa nữa, bởi vì theo lời chị, Chúa đã gởi anh ta đến
với chị. Anh đang là một chứng tá thầm lặng của Tin Mừng mà anh
không hay biết.
Hôm nay và mỗi ngày, chúng ta đang đứng trước ngã rẽ
cuộc đời. Chúa đang gặp gỡ chúng ta ở đó và đang mời gọi chúng ta.
Nếu chúng ta đồng hành với Ngài, tôi cam đoan là những người thân
cận với bạn không lấy làm cảm kích chút nào. Lập trường mà bạn chọn
lựa có thể khiến họ lắc đầu, chán ngán và nói: “Bạn mất trí
rồi”, “Bạn điên rồ rồi!”
Mặc cho người khác nói gì, nghĩ gì. Cuối cùng, điều can
hệ là những gì bạn nghĩ tưởng và những gì Chúa nghĩ tưởng, bởi vì
Chúa và bạn đã liên kết vững mạnh và keo sơn. |
VỀ
MỤC LỤC | |
NÓI VỚI
EM BÉ BÁN RONG BÁNH VÀ CÁ (Ga
6,9) |
Chiều đã xuống hoàng hôn
Thì thào gió thổi lạnh
Hỡi em bé bán bánh
Sao em chưa về thôn?
Cha mẹ đang nóng lòng đợi em từng giây
phút
* *
*
Hỡi em bé bán bánh rong
Nhà em hẳn nghèo lắm
Cha mẹ em chẳng có “bát ăn bát để”
gì
Nên mới cho em đi bán bánh rong độ
nhật
Không có tiền cho em ăn học
Em mù chữ chắc rồi!
…
Em gầy như chiếc lá khô
Luồn lách giữa đám đông
Đang mải mê nghe lời Chúa.
Em lớn tiếng rao: “Này ai mua bánh”
Bánh hiệu Caphác
Để ăn lễ Vượt Qua.
Bỗng ông Phêrô
Nắm tay em lại
Lấy gọn năm chiếc bánh và hai con cá còn
dư
Ông Phêrô đem cả về cho Chúa.
Này em bé,
Tôi hỏi nhỏ em:
Ông Phêrô có mặc cả với em không?
Và ông trả đủ tiền bánh chưa?
Và rồi, khi ông Phêrô trao bánh và cá cho
Chúa.
Liệu Chúa có trách ông:
Sao không dẫn em lại đây cho Thầy?
Này em bé, tôi mách nhỏ em:
Chúa là người rất tinh tế và nhạy
cảm.
Khi Chúa cho con gái ông Gia-ia sống
lại,
Lúc mọi người đang vô cùng kinh ngạc
Chỉ có Chúa mới biết đứa bé này trong bụng chưa có
gì.
Nên Ngài bảo: Hãy cho con bé ăn. (Mc
5,23).
Cũng vậy, khi Chúa cho Lagiarô sống lại,
Người Do Thái đang thán phục đến kinh
hoàng
Chúa nhìn Lagiarô quấn vải quanh mình không cựa
quậy được.
Chúa bảo ngay:
Hãy cởi dây cho anh ấy đi. (Ga
11,44).
Chưa hết đâu,
Em nhớ không?
Chiều nay, sau khi được Chúa cho ăn no, đám đông
tranh nhau ra về.
Chúa nhìn bãi cỏ xanh,
Còn vương vãi bao nhiêu là bánh vụn.
Chúa bảo: Hãy thu lại những mảnh bánh thừa kẻo phí
đi (Ga 6,12).
Đó, em thấy không?
Chúa có cái nhìn và trái tim khác mọi
người.
Tối hôm nay, em về nhà,
Hẳn em không quên mách cha mẹ biết chuyện xảy ra
ban chiều,
Và em đề nghị cha mẹ tìm dịp để được gặp Chúa
Giêsu./.
Xuân Ly Băng
Ngày 11.5.2007 |
VỀ
MỤC LỤC | |
VẤN ĐỀ GHI
DANH và DÂNG CÚNG TIỀN CHO NHÀ THỜ |
Hỏi: xin cha giải thích giúp các câu hỏi sau
đây :
1- Thế nào là Giáo Hội Công Giáo
hoàn vũ và Giáo Hội địa phương ?
2- Có buộc phải ghi tên nhập giáo xứ và dùng phong bì dâng
cúng tiền thì mới được lãnh các bí tích và cho con em học giáo lý
không ?
Trả lời:
1- Chỉ có một
Giáo Hội duy nhất do Chúa Giêsu thiết lập trên nền tảng các
Thánh Tông Đồ, và “ Giáo Hội này tồn tại trong Giáo Hội Công Giáo do
Đấng kế vị Phêrô và các Giám Mục hiệp thông với Ngài điều khiển” (x.
Lumen Gentium, số 8).
Vậy, khi nói
đến Giáo Hội Công Giáo hoàn vũ (Universal Catholic Church) là nói
đến toàn thể Cơ cấu này mà người đứng đầu cai trị là Đức Giáo Hoàng
La Mã, Vị Đại Diện duy nhất của Chúa Kitô trên trần gian, là Thủ
Lãnh Giám Mục Đoàn ( College of Bishops ) và cũng là Giám Mục
Rôma.
Hiệp thông với Đức
Giáo Hoàng trong đức tin, sứ vụ (ministry) và vâng phục là các Giám
mục trong toàn Giáo Hội. Các Giám Mục là những người kế vị các Thánh
Tông Đồ trong sứ vụ chăn dắt đoàn chiên của Chúa Kitô trong các Giáo
Hội địa phương hay còn gọi là các Địa Phận hay Giáo Phận (
Diocese).
Nói rõ hơn, mỗi
Địa phận ở mỗi quốc gia là một Giáo Hội địa phương (local
Church) đặt dưới quyền coi sóc của một Giám Mục do Đức Giáo
Hoàng bổ nhiệm.
Tất cả các Giáo
phận trong một quốc gia lại hợp thành Giáo Hội địa phương của quốc
gia ấy trong tương quan với Giáo Hội hoàn vũ. Thí dụ, chúng ta có
Giáo Hội Công Giáo Hoa Kỳ, Giáo Hội Công Giáo ViệtNam v.v
.Trong mỗi Địa phận lại có nhiều Giáo xứ (Parish) tức
những giáo hội nhỏ trong một Giáo Hội địa phương lớn là Giáo Phận.
Cha xứ (Pastor) là người được Giám mục địa phương bổ nhiệm để coi
sóc một giáo xứ. Tất cả các giáo hội địa phương lớn nhỏ đều
hiệp thông và hợp lại thành Giáo Hội hoàn vũ (Universal Church) dưới
quyền coi sóc, lãnh đạo của Đức Thánh Cha, Đấng kế vị Thánh Phêrô
trong sứ mệnh “ chăn dắt các chiên con , chiên mẹ của Thầy” ( x. Ga
21: 15-17)
Đó là tất cả cơ cấu
tổ chức, điều hành và danh xưng được sử dụng trong Giáo Hội Công
Giáo cho đến nay.
2- Việc ghi tên
gia nhập Giáo xứ và nghĩa vụ đóng góp tài chính, tiền dâng
cúng..
Để tiện việc chăm
sóc thiêng liêng hay mục vụ cho giáo dân, mỗi Địa Phận có nhiều Giáo
xứ như đã nói trên đây. Và cũng để giúp cho sứ vụ mục vụ này được dễ
dàng và hữu hiệu, giáo dân khắp nơi được kêu gọi và khuyến khích ghi
tên gia nhập một giáo xứ nới mình cư ngụ hay thuận tiện về ngôn ngữ,
nghi thức phụng vụ.
Cụ thể, theo giáo
luật số 518, giáo dân có thể gia nhập một giáo xứ (parish) vì cự ngụ
trong địa hạt hay ranh giới thuộc về giáo xứ đó ( tòng thổ) hay
trong một giáo xứ thuận tiện cho mình về phương diện lễ nghi phụng
vụ hay ngôn ngữ thích hợp (tòng nhân). Cụ thể, người Công giáo
ViệtNam ở Mỹ có thể ghi tên gia nhập một giáo xứ Mỹ nơi có Thánh lễ
bằng tiếng Việt, hoặc có lớp dạy giáo lý và Việt ngữ, mặc dù
không cư ngụ trong lãnh thổ của giáo xứ này.( can. no.518). Việc ghi
tên gia nhập này (Registration) rất cần thiết để lãnh nhận các bí
tích, đặc biệt là bí tích rửa tội, thêm sức và hôn phối vì các
sự kiện này phải được lưu trữ cẩn thận trong sổ sách của giáo xứ
theo giáo luật qui định. ( Cans nos. 877, 895,1121).
Hơn thế nữa, việc
gia nhập một giáo xứ nói lên tinh thần và trách nhiệm cộng tác của
giaó dân với hàng giáo sĩ, cụ thể là cha xứ và các cha phó trông coi
một giáo xứ. Mặt khác, việc giáo dân cam kết tham gia sinh hoạt của
giáo xứ thể hiện qua việc ghi tên gia nhập cũng giúp cho việc thi
hành trách nhiệm mục vụ của cha xứ được cụ thể hơn
qua mối giây liên hệ thực tế giữa chủ chiên và đoàn chiên đặt
dưới quyền chăm sóc mục vụ của mình (pastoral care)
Hơn thế nữa, Giáo
dân có bổn phận tham gia và công tác với giáo sĩ trong tinh thần thi
hành chức vụ tư tế vương giả mà mình đã lãnh nhận qua phép
rửa, nhờ đó giáo dân “ thi hành chức vụ đó trong việc lãnh
nhận các bí tích, khi cầu nguyện và tạ ơn, bằng đời sống chứng
nhân thánh thiện, bằng sự từ bỏ và bác ái tích cực.”(x.Lumen
Gentium, số 10)
Chính trong tinh
thần cộng tác và thực thi bác ái tích cực này mà giáo dân trước hết
có bổn phận đóng góp tài chính để giúp giáo xứ, giáo phận có phương
tiện hoạt động và phục vụ hữu hiệu. Câu nói “có thực mới vực
được đạo” được áp dụng đúng đắn vào trường hợp này. Cụ thể, ở Tổng
Giáo Phận Galveston-Houston, hàng năm giáo dân trong toàn giáo phận
được kêu gọi đóng góp cho Quỹ gọi tắt là DSF ( Diosecan Special
Fund) chia theo tỷ lệ cho các giáo xứ và buộc phải đóng đủ
khoản tiền trợ giúp này cho Giáo Phận để giúp tài trợ cho các chương
trình mục vụ, đào luyện và bác ái của Tổng Giáo Phận trong một
năm.
Ngoài nghĩa vụ bó
buộc trên đây, giáo dân còn có bổn phận tài chính với giáo xứ
của mình qua những cuộc lạc quyên trong các thánh lễ cuối tuần (
weekend collections). Số tiền này giúp giáo xứ trang trải các chi
phí cần thiết về bảo trì, sửa chữa, điện, nước, sách phụng vụ , âm
nhạc, và trả lương, bảo hiểm cho nhân viên phục vụ giáo xứ kể cả chi
phí ăn ở và chút lương cho cha xứ, cha phó theo quy định của
mỗi Giáo phận
Nếu không có sự
đóng góp hảo tâm của giáo dân vào việc này thì không giáo xứ nào có
thể tồn tại, sinh họạt được vì không có tiền chi phí cần thiết và
trả các bills lớn nhỏ hàng tháng.
Tuy nhiên, trong
Giáo Hội Công Giáo, thông dụng ở khắp nơi cho đến nay, thì việc đóng
góp này của giáo dân chỉ có tính cách tự nguyện chứ
không bó buộc khắt khe như ở nhiều giáo phái khác, nơi người ta qui
định rõ việc đóng góp là 10% lợi tức hàng tuần. Nếu tín hữu
nào không chu toàn thì được mời ra khỏi cộng đoàn đó.
3- Có luật buộc phải dùng phong bì dâng cúng (offerings
envelopes) mới được lãnh các bí tích hoặc cho con em học giáo lý
không ?
Tuyệt đối không có
luật này trong Giáo hội Công Giáo ở khắp nơi. Vậy nơi nào, giáo xứ
nào đặt ra luật này là sai trái hoàn toàn, vì mọi bí tích được phải
ban phát nhưng không (gratuitous) cho mọi giáo hữu chứ không thể là
chuyện mua bán, đổi trác bao giờ. Nếu ai làm vì mục đích mua
bán thì đã công khai phạm tội mại thánh (simonia) mà Kinh
Thánh, giáo lý và giáo luật của Giáo Hội đều lên án và nghiêm
cấm.( x. Cv 8:9-24; SGLGHCG, số 2121-22; giáo luật(canon laws) số
848, 947)
Nhưng cần phân
biệt : tiền thâu với mục đích gì ? để ban bí tích hay để giúp trả
chi phí cho nhà thờ khi cử hành bí tích ?
Cụ thể, nếu linh
muc đòi phải trả bao nhiêu tiền để rửa tội, thêm sức, dâng
thánh lễ, chứng hôn hay cử hành nghi thức an táng thì đây là tội
“buôn thần bán thánh” ( simonia) phải lên án. Ngược lại,
nếu giáo xứ thu một khoản lệ phí nào để mua dụng cụ như áo
trắng, nến trắng phát cho các em được rửa tội, thêm sức, hoặc
lệ phí trang hoàng nhà thờ, dùng điện, nến và ca đoàn trong lễ
cưới , lẽ Quinceneras ( thiếu nữ Mễ 15 tuổi) kể cả chút ít tiền cho
người phụ trách tập dượt ( rehearsal) nghi thức hay cho các em
giúp lễ thì đây là chuyện khác, không liên hệ gì đến điều kiện
để lãnh các bí tích. Các lệ phí này, nhiều ít tùy mỗi giáo xứ
qui định để giúp việc bảo trì nhà thờ và trả bill điện
dùng máy lạnh hay máy sưởi trong các dip đó mà
thôi.
Nhưng nếu giáo dân
nghèo không có tiền để trả cho lệ phí tương trưng này, thì cha xứ
cũng không được từ chối cho các em lãnh bí tích chỉ vì không có tiền
trả lệ phí kia. Nhất là không được phép đòi buộc ai phải xuất trình
phong bì dâng cúng hàng tuần cho giáo xứ như điều kiện để được
ghi tên học giáo lý rửa tội, thêm sức rước lễ lần đầu, cử hành hôn
phối hay tang lễ. Chắc chắn như vậy vì không Giám Mục hay khoản giáo
luật nào cho phép làm việc này. Ngược lại, các cha xứ đều có
bổn phận theo giáo luật và khuyến cáo của Giám mục là phải hết lo
cho đời sống thiêng liêng của giáo dân được trao phó cho mình chăm
sóc mục vụ. (cf. Cans, nos. 519, 528-530). Ngoài ra, việc dạy giáo
lý cho cha mẹ và người đỡ đầu rửa tội (godparents), thêm sức là
trách nhiệm mục vụ của cha xứ . Người thụ hưởng muốn đãi ngộ hay
không tùy ý và hảo tâm chứ không bắt buộc. Nhưng nếu ai lợi dụng
việc này để thu tiền, dù lấy cớ là để giúp việc bác ái hay gửi về
giúp các giáo xứ bên ViêtNam, thì đây hoàn toàn là việc làm tự tiện
không căn cứ vào qui định nào của Địa phận hay giáo luật. Cũng
không được phép đòi tiền, dù ít hay nhiều, để chứng hôn hoặc cử hành
lễ tang, dù là để lấy tiền giúp việc từ thiện hay bảo trợ ơn gọi
v.v. Nghĩa là không được lợi dụng hoàn cảnh vui, buồn của ai để làm
tiền cách bất chính, gây phương hại cho uy tín và mục đích của Giáo
Hội.
Sau nữa, ngay cả
việc học giáo lý của trẻ em, mặc dù các giáo xứ đều có thu lệ phí
ít, nhiều để trang trải các chi phí điều hành lớp học, nhưng nếu gia
đình nào quá nghèo túng không thể đóng được khoản lệ phí này hay
không dùng phong bì dâng cúng, thì giáo xứ cũng không được từ chối
cho con em họ ghi tên học giáo lý. Nghĩa là không được gây cho ai
cảm nghĩ rằng nghèo túng, không tiền thì miễn hưởng các lợi ích
thiêng liêng trong Giáo hội.
Nhưng cũng cần nói
thêm là tiền xin lễ theo Giáo quyền qui định hoặc tiền giáo dân tự
nguyện biếu linh mục trong các dịp rửa tội, thêm sức, lễ cưới , lễ
tang thì linh mục được phép nhận mà không có lỗi gì. Vậy cần phân
biệt giữa hai việc đòi hỏi phải trả và tự ý dâng cúng. Nếu đã tự ý
cho thì đừng phàn nàn, kêu trách ai nữa.
Tóm lại, các linh
mục đều được khuyến cáo chu toàn trách nhiệm mục tử của mình với tất
cả lương tâm và lòng yêu mến sứ vụ thiêng liêng và trong tình bác ái
Kitôgiáo để tránh gương xấu về tiền bạc, và làm cớ cho người
ta oán trách, từ bỏ hay xa tránh Giáo Hội vì tội mại
thánh.
LM Phanxicô Xaviê Ngô
Tôn Huấn. |
VỀ
MỤC LỤC | |
Noi gương Cha tôi |
Cha tôi là Đoàn đức
Hải, ông nội tôi là Đoàn đức Nhuận. Nhưng các cụ lại đặt tên
cho tôi là Thanh Liêm. Tôi đoán đó là do ông nội tôi đặt, vì cụ vốn
là một ông đồ nho. Vì là con trai trưởng , nên cha tôi rất gần gũi
và hiếu đễ với ông nội theo như phong tục truyền thống Khổng giáo
hồi xưa.
Tôi lại làm nghề luật sư, nên khi nói
chuyện với người Mỹ thì thật tức cười. Tôi giải thích cho họ
tên Liêm của tôi có nghĩa là Honesty, nên quý vị có thể gọi tôi là
Luật sư Liêm tức là Lawyer Honesty. Nghe vậy, thì mười người như
một, họ đều cười ngất. Vì đa số người Mỹ cho rằng chẳng có luật sư
nào mà lại lương thiện được cả. Thành ra họ coi đó là một nghịch lý,
thật buồn cười.
Tôi phải giải thích với họ rằng cái tên
của tôi là do cha mẹ đặt cho ngay từ lúc mới chào đời, tôi nào biết
gì mà chọn lựa. Chắc là cha mẹ mong ước sau này tôi sẽ là một người
lương thiện, nên mới chọn tên Liêm cho tôi. Do đó, tôi phải sống làm
sao cho xứng đáng với sự mong ước đó. Đó là điều tôi không thể né
tránh được: No escape! Thành ra tôi chưa bao giờ kiếm được nhiều
tiền với nghề luật sư. Nghe vậy, mấy người Mỹ hiểu ra, đều gật
đầu thông cảm.
Năm 1948, lúc tôi 14 tuổi, thì Việt
minh đến nhà bắt cha tôi đi biệt tăm. Và đến năm 1952, đến lượt mẹ
tôi cũng qua đời, trong lúc tôi chưa xong bậc Trung học, nên cả cha
lẫn mẹ tôi đều không biết đến nghề luật sư mà tôi chọn cho mình làm
phương kế sinh nhai
Tuy cha mẹ mất sớm, nhưng nhờ các anh
chị bao bọc huớng dẫn mà tôi đã trưởng thành chững chạc và giữ được
gia phong gia đạo, bảo tồn được nề nếp truyền thống của dòng họ nhà
mình. Và tôi thật biết ơn cha mẹ về điều này.
Nhân dịp Lễ Father’s Day, tôi xin
ghi lại một ít điều tôi học được của người ngay từ tấm bé. Vào
năm 1940-1941 lúc lên 6-7 tuổi, tôi thường đựợc cha dẫn đi theo chỗ
này chỗ nọ. Nhờ vậy, tôi rất gắn bó với người. Cha tôi được sự quý
trọng của nhiều bà con trong dòng họ cũng như trong làng quê. Tôi
thấy ông hay giúp đỡ người khá , vì ông khỏe mạnh lại khéo tay, nên
làm việc gì cũng mau lẹ, gọn gàng. Do đó, bà con thường hay đến nhờ
vả ông giúp đỡ công việc mỗi khi cần thiết. Ông củng thường dẫn tôi
đến thăm các cụ già trong thân tộc và tìm mọi cách chia sẻ đồ ăn với
bà con ở nông thôn vốn thường túng thiếu.
Là con trưởng của ông đồ vào cái thời
nho học đã suy tàn, nên ông chẳng được học hành bao nhiêu. Ông biết
đọc chữ quốc ngữ, nhưng coi bộ cũng chẳng thong thạo gì cho lắm, vì
thường thì ông bảo tôi đọc báo hay thư từ cho ông nghe. Còn về chữ
nho, tôi cũng ít thấy ông mở sách ra đọc. Mẹ tôi có lần kể cho
ngh : “bố con là người có tính quyết đáp , một khi đã suy tính để
quyết định việc gì, thì phải thực hiện cho bằng được. Và ít khi chần
chừ, ngập ngừng trước một khó khăn nào. Làm con trai, con phải học
được tính khẳng khái quyết đáp như bố con ấy…”
Mỗi khi ra thăm đồng ruộng, ông thường
cầm theo một con “dao rựa“ dài đến trên 80 cm, kể cả cán dao.
Dao này thật là đa dụng , vì có thể làm được rất nhiều việc, ngoài
việc cắt, chặt các vật cứng cáp, ông còn dùng để đào, xúc đất hay
khai mương thoát nước cho các thửa ruộng bị ngập úng, giúp bà con
trong các gia đình neo đơn ít người có khả năng chăm sóc ngoài đồng
áng. Ông cũng thường dùng mũi dao để xúc phân trâu, phân bò nằm ngay
giữa lối đi lại, và hất xuống thửa ruộng gần đó. Điều nhỏ nhoi ông
làm đã cho tôi một bài học về sự tự nguyện phục vụ công ích, giúp đỡ
mọi người khi mình có điều kiện làm được. Bố tôi thường hay nhắc nhủ
các anh chị lớn là “Thấy cái gì chướng tai gai mắt , thì phải ra tay
sửa sang lại , chứ không được bàng quan, dửng dưng trước tình trạng
trái khoáy. Đó mới là tác phong của một con người có gia giáo và tư
cách của một dòng tộc có uy tín trong xóm làng …”
Trong các bữa ăn gia đình, mỗi lần có
anh chị nào than phiền này nọ về cách xử sự không tốt của một bà
con trong làng xóm, thì cha tôi thường hay khuyên can, ông
nói: “Người ta đâu có nghĩ được như mình. Do đó, mình không nên chấp
nhất đối với họ về chuyện không hay như thế “. Sau này khi đã lớn,
lúc đọc được đoạn văn trong cuốn “ Livre de mon ami “ của văn hào
Anatole France, tôi cũng thấy được lời khuyên bảo của một người cha
giống hệt như bố tôi đã dậy anh chị em chúng tôi khi
xưa.
Tôi vẫn còn nhớ ông cụ bảo tôi là: “
Mỗi khi con muốn hỏi tên người nào ngang tuổi hay lớn hơn , thì nhớ
phải dùng chữ nho cho lịch sự. Chẳng hạn “Xin cho biết quý danh“ ,
chứ đừng “Xin cho biết tên“. Có thể bây giờ
người ta dễ dãi, đơn giản hơn, nên cứ xài chữ nôm, khác với hồi xưa
chữ nho vẫn còn thịnh hành hơn chăng?
Cha tôi không phải là người hoạt
động chính trị, thế mà vẫn không thoát khỏi việc bị Việt minh
bắt đi mất tích vào đầu năm 1948. Trước đó vào mùa hè năm 1947, Việt
minh đã bắt giết cậu út, em của mẹ tôi là Tống văn Dung và quẳng xác
xuống sông Trì Chính, Phát Diệm, khiến mẹ tôi phải vật vã than khóc
suốt bao nhiêu ngày đêm. Và dù đến khi mẹ chết vào năm 1952 tại nhà
bà Cô Phó Tích, là em của cha tôi, nỗi đau buồn vì mất em và mất
chồng do Việt minh gây ra vẫn không hề nguôi ngoai.
Từ trên 40 năm nay, tôi dấn thân vào
hoạt động xã hội, phục vụ đồng bào. Và tôi cũng bị chính quyền ...
bắt tù chỉ vì tôi tranh đấu đòi Dân chủ, Tự do, Nhân quyền cho VN.
Tôi làm như vậy, cũng chỉ vì noi gương ngay thẳng, chính trực và hết
lòng phục vụ dân tộc của cha tôi mà thôi. Tôi thật biết ơn cha về
tấm gương tiết tháo lẫm liệt đó. Và tôi cũng rất tự hào có được một
người cha chí khí, dũng cảm, yêu thương hết moi người mà hồi sinh
thời bà con vẫn goi cụ là Ông Chánh Hải ở xã Cát Xuyên, huyện Xuân
Trường, tỉnh Nam Định..
Cha tôi đã khuất gần 60 năm rồi. Nhưng
cái nết na, cái phong thái quả cảm và lòng hy sinh tận tụy của người
với bà con, với làng nước thì vẫn còn mãi trong lòng anh chị em
chúng tôi.
Luật sư
Đoàn Thanh
Liêm |
VỀ
MỤC LỤC | |
ĐIỀU KHÁC THƯỜNG
TRONG NHỮNG CÁI BÌNH THƯỜNG |
Tôi vẫn nhớ câu chuyện thầy Thế Tâm
Nguyễn Khắc Dương kể cho chúng tôi nghe trong một buổi học: Lúc thầy
còn trẻ ở quê miền Trung, trong một lần dạo chơi ngoài đồng vắng,
chú “tiểu đồng” đi theo đã hỏi thầy: “Cậu ơi, bông hoa nở trong kẹt
đá để làm chi, không có ai thấy cả!”.
Câu hỏi của chú bé nọ đã ăn sâu vào
trí nhớ của tôi. Nhiều lần tôi đã suy nghĩ đề tìm câu trả lời, nhưng
tôi chỉ tự trả lời được bằng một câu “kinh điển” chung chung: Vì
Thiên Chúa yêu thương loài người nên Ngài dựng nên muôn loài muôn
vật cho loài người hưởng dùng mà ca ngợi Ngài!
Tôi đã “ví von” câu chuyện này qua
bài thơ “Ngẫm Nghĩ” sau
đây:
Đoá hoa nở giữa đồng không.
Con chim hót giữa mênh mông đất trời.
Sao lấp lánh giữa chơi vơi.
Cá tôm bơi lội giữa khơi nước ngàn.
Vô thường mà lại đa mang,
Thân con giữa chốn trần gian đông
người.
Sinh ra để khóc hay cười?
***
Hôm nay, sau một cuộc nói chuyện
với hai bạn trẻ đến thăm và sau khi tình cờ đọc xong một đoạn trong
cuốn “Hoàng Tử Bé” của Saint-Exupéry, tôi đột nhiên “thấy” được một
câu trả lời có vẻ cụ thể và “sát sườn” hơn cho mình: “Bông hoa ấy nở
trong kẹt đá là để chú bé kia thấy nó và đặt ra câu hỏi nọ”. Bông
hoa ấy không nở ra một cách “vô nghĩa lý” trong cuộc đời!
Tôi thử suy nghĩ thêm và thấy có
điểm tương đồng giữa bông hoa nọ và một con người nào đó đang hiện
diện trên cuộc đời này: Không ai có mặt trên cuộc đời một cách “vô
nghĩa lý” cả. Nếu Thiên Chúa dựng nên một người thì chắc chắn người
ấy đã được Ngài trao cho một sứ mạng để hoàn thành.
Tôi trở lại suy nghĩ về những bông
hoa và thấy Thiên Chúa đã dựng nên quá nhiều bông hoa, hình như
nhiều hơn cả mức cần thiết, như chú bé nọ đã nhận xét. Nhưng nghĩ
cho kỹ, tôi thấy bất kỳ bông hoa nào - dù là bông hoa dại - cũng có
một “sứ mạng”: hoặc là để cho con người ngắm nhìn, hoặc là để cho
ong bướm hút mật, hay thậm chí để cho chim chóc côn trùng nhấm nháp
cho no bụng... Không bông hoa nào nở ra một cách vô ích
cả.
Con người cũng vậy. Hình như Thiên
Chúa dựng nên nhiều người quá, có lẽ nhiều hơn cả mức cần thiết?
Thầy Dương đã đưa ra nhận xét như thế khi đi giữa đường phố Sài Gòn
đông nghẹt người.
***
Trong hàng tỷ người đang có mặt
trên trái đất này, thoạt nhìn, có rất nhiều cuộc đời xem ra vô nghĩa
lý vì “ẩn khuất trong những kẹt đá” như bông hoa mà chú bé nọ đã
tình cờ nhìn thấy. Họ âm thầm được sinh ra và âm thầm chết đi mà
chẳng để lại dấu tích gì trên trần gian. Thậm chí nhiều khi cuộc đời
họ chỉ toàn là đắng cay bất hạnh phải âm thầm gánh chịu một mình.
Thế thì họ được sinh ra làm gì nhỉ?
Chú bé nọ “tình cờ” gặp được bông
hoa và đặt ra được một câu hỏi. Khi ấy chú còn quá nhỏ để biết rằng
câu trả lời đã nằm sẵn trong câu hỏi mà chú đặt ra. Tôi hy vọng rằng
khi lớn lên chú đã tìm ra câu trả lời cho mình. Nếu còn sống, bây
giờ chắc “chú” cũng đã bước qua tuổi 70!
Riêng tôi, nhờ câu hỏi ấy mà tôi
tìm ra được một câu trả lời về cuộc nhân sinh cho chính mình: Mỗi
một con người được sinh ra trên mặt đất này là để hạnh ngộ với
một-ai-đó.
Rất nhiều lần và rất tình cờ, tôi
đã được soi sáng bởi những con người “vô danh”: những người hành
khất, những người tàn phế, những đứa trẻ con, những người nhà quê
bình dị... Nếu được phép, tôi xin ví họ như những bông hoa nở trong
kẹt đá. Họ âm thầm sống giữa cuộc đời, không kỳ vọng có một ai đó
“ngắm nhìn” mình, “trưng bày” mình cho những người khác chiêm
ngưỡng. Họ sống một cuộc đời bình dị. Họ được sinh ra trong bình dị
và sẽ chết đi trong bình dị, hầu như không để lại một dấu ấn nào cho
những người chung quanh. Tuy nhiên, nếu xét cho kỹ, họ đang âm thầm
thực hiện sứ mạng cao cả của mình dù họ không hay biết. Nếu họ sống
đúng với ơn gọi làm người, chắc chắn họ đang soi sáng cho ít là
một-ai-đó đã may mắn tình cờ gặp được họ. Là người, họ đang thực
hiện sứ mạng cao cả của một con người trong cuộc đời này.
***
Là Kitô hữu, là con cái “gần gũi”
của Thiên Chúa, chắc chắn tôi đang mang trong mình một sứ mạng trọng
đại mà Thiên Chúa trao phó. Sứ mạng ấy trọng đại không phải vì tôi
sẽ làm những việc lớn lao mang lại những thành công vang dội khiến
nhiều người trầm trồ thán phục. Không, như một bông hoa dại nở trong
kẹt đá, sứ mạng trọng đại của tôi là hãy nỗ lực làm triển nở toàn
vẹn ơn gọi Kitô hữu trong chính hoàn cảnh sống hiện tại của mình.
Rồi đến một lúc bất ngờ nào đó, phút giây hạnh ngộ giữa tôi và
một-ai-đó sẽ đến. Nếu cuộc gặp gỡ này có thể giúp cho người đó đặt
ra câu hỏi về ý nghĩa của cuộc nhân sinh, thì tôi đã thực hiện được
sứ mạng mà Thiên Chúa uỷ thác khi Ngài cho tôi được diễm phúc sinh
ra trong cuộc đời này.
Lạy Chúa, xin Chúa giúp con biết
sống một cách “khác thường” những điều “bình thường” trong mọi giây
phút của cuộc đời con. Amen./.
- Trầm Tĩnh Nguyện
- |
VỀ
MỤC LỤC | |
TÌNH YÊU
KHÔNG GHEN TƯƠNG |
Tác phẩm 13 Nét mặt của Tình
yêu Dominique AUZENET
Lm Micae-Phaolô
Trần Minh Huy chuyển ngữ
Chương
Ba TÌNH YÊU KHÔNG GHEN TƯƠNG
Chúng
ta đã cùng nhau xem xét Tình yêu nhẫn nại, Tình yêu phục vụ. Bây giờ đến bảng
liệt kê tiêu cực tám
động từ giúp chúng ta phân biệt cái không phải là tình yêu, và những
thái độ cụ thể của tội lỗi mà chúng ta phải chế ngự và hoán cải để
sống một tình yêu thánh thiện, trong tương quan với tha nhân. Trước
hết thánh Phaolô khảo sát tính ghen tuông.
1.
Những cạnh tranh mà tính ghen tuông len lỏi vào và những tồn
tại...
Thánh
Phaolô năng trở lại vấn đề nầy trong các thư của ngài, và nếu chúng
ta muốn hiểu rõ điều ngài tố cáo khi viết tình yêu không ghen tuông,
cần phải trích dẫn ít đoạn văn chi tiết hơn
:
"Đêm
sắp tàn, ngày gần đến. Vậy chúng ta hãy loại bỏ những việc làm
đen tối, và hãy cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu. Chúng ta
hãy ăn ở cho đứng đắn như người đang sống giữa ban ngày : không chè
chén say sưa, không chơi bời dâm đảng, cũng không cãi cọ ghen tương.
Nhưng anh em hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô, và đừng chiều theo tính
xác thịt mà thỏa mãn các dục vọng" (Rm 13,12-14).
"Bao
lâu giữa anh em có sự ghen tương và cãi cọ, thì anh em chẳng phải
là những con người sống theo tính xác thịt và theo thói người phàm
sao ? Khi người nầy nói Tôi, tôi thuộc về ông Phaolô, và người khác
Tôi, tôi thuộc về ông Apollô, thì anh em chẳng phải là người phàm
tục sao ?" (I Cor 3,3-4).
"Quả
vậy, tôi sợ rằng khi tôi đến, tôi không thấy anh em được như ý tôi,
và anh em thấy tôi không được như ý anh em. Chớ gì ở giữa anh em
đừng có chia rẽ, ghen tương, oán ghét, cạnh tranh, vu khống, nói
hành, kiêu căng, hỗn loạn" (II Cor 12,20).
"Những
việc do tính xác thịt gây ra thì ai cũng rõ, đó là dâm bôn, ô uế,
phóng đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hòa, ghen tuông, nóng
giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén, và
những điều khác giống như vậy. Tôi bảo trước cho mà biết, như tôi đã
từng bảo : những kẻ làm các điều đó sẽ không được thừa hưởng Nước
Thiên Chúa.
Còn hoa quả của
Thần Khí là bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm,
trung tín, hiền hòa, tiết độ. Không có luật nào chống lại những điều
như thế. Những ai thuộc về đức Kitô Giêsu thì đã đóng đinh xác thịt
vào thập giá cùng với các dục vọng và đam mê.
Nếu chúng ta sống
nhờ Thần Khí thì cũng hãy nhờ Thần Khí mà tiến bước. Chúng ta đừng
có tìm hư danh, đừng khiêu khích nhau, đừng ganh tỵ nhau"
(Gal
5,19-26).
Như
vậy chúng ta thấy rõ, trong khi nói đến tính ghen tuông, thánh
Phaolô đã tố cáo thế nào những lối ứng xử do "xác thịt" mà ra, tức
từ quả tim của con người tội lỗi. Thánh Phaolô mô tả chi tiết những
gì đến từ xác thịt : xâu xé, chia rẽ, lời nói cộc cằn... và ngài đặt
nó đối nghịch với những gì mà Thánh Thần muốn tỏa ra trong chúng ta
: lòng tốt, kính trọng, tín nhiệm... Do đó ngài khuyến dục hãy mặc
lấy Chúa Giêsu Kitô (Rm 13,14).
Trong
thư của ngài, thánh Giacôbê tông đồ cũng đi hướng đó bằng cách đặt
đối nghịch sự khôn ngoan trên cao với những ứng xử trần gian
:
"Ai
là người khôn ngoan và từng trải trong anh em? Người ấy hãy dùng
lối sống tốt đẹp mà chứng tỏ rằng những hành động của họ phát xuất
từ lòng hiền hậu và đức khôn ngoan. Nhưng nếu trong lòng anh em có
sự ghen tương, chua chát và tranh chấp, thì anh em đừng có tự cao tự
đại mà nói dối trái với sự thật. Sự khôn ngoan đó không phải từ trời
cao ban xuống, nhưng là sự khôn ngoan của thế gian, của con người tự
nhiên, của ma quỷ. Thật vậy, ở đâu có ghen tương và tranh chấp, ở
đấy có xáo trộn và đủ mọi thứ việc xấu xa. Đức khôn ngoan Chúa ban
làm cho con người trở nên trước là thanh khiết, sau là hiếu hòa,
khoan dung, mềm dẻo, đầy từ bi và sinh nhiều hoa thơm trái tốt,
không thiên vị, cũng chẳng giả hình. Người xây dựng hòa bình thu
hoạch được hoa trái đã gieo trong hòa bình, là cuộc đời công
chính"
(Jc 3,13-18).
Trong
những đoạn thư của các tông đồ mà chúng ta vừa đọc, tính ghen tuông
là thành phần của một toàn thể các thái độ và ứng xử được xui khiến
bởi một tinh thần cạnh tranh :
·
Những
cãi vã, tranh luận, bất hòa, ác tâm, bất đồng...
·
Đầu
óc hay kiếm chuyện và ti tiện,
·
Chuyện
ngồi lê đôi mách và vu khống,
·
Rối
loạn và phá hoại trong cộng đoàn.
Tất
cả những thứ đó là thuốc độc thực sự đối với các cộng đoàn tín hữu.
Chỉ có việc tiếp đón Chúa Thánh Thần mới có thể vô hiệu hóa những
thực tại xấu xa nầy, bằng cách làm xuất hiện những hoa quả tốt lành
xây dựng cộng đoàn.
2. Một ý muốn quyền
lực trên con người và sự vật.
a)
Cần phải đi xa hơn trong suy tư. Chính xác tính ghen tuông là gì ?
Tiếng Hylạp là zèlos, nghĩa là nhiệt tâm. Dưới khía cạnh nầy, tính
ghen tuông do nhiệt tâm thái quá mà sinh ra. Thánh Phaolô viết :
tình yêu không được nhiệt tâm thái quá. Ngài bận lòng tố cáo sự thi
đua, những cạnh tranh thiêng liêng làm cho một số tín hữu đứng lên
chống lại nhau, như ở Côrintô chẳng hạn :
"Tôi
xin anh em... chớ gì đừng có sự chia rẽ giữa anh em... Mỗi người
trong anh em nói rằng tôi thuộc về Phaolô. Và tôi thuộc về Apollô.
Và tôi thuộc về Kêpha. Còn tôi thuộc về Đức Kitô. Vậy Đức Kitô bị
phanh thây rồi sao ?(I Cor 1,10-13).
Các
phe phái có thể do những người có cá tính mạnh qui tụ lại chung
quanh mình những người theo sở thích của họ, nhưng cũng bởi những
con người "ham làm lãnh tụ"...
Trong
mọi trường hợp, sự gắn bó quá đáng với những cá nhân được thiết lập
như những "thầy tinh thần" (gourous) hay sự thống trị của một số
người nào đó trên kẻ khác, kết cuộc luôn luôn mang lại những hậu quả
xấu... Thánh Phaolô tố cáo những thủ đoạn của những người Dothái
tòng giáo đã đến nói với các tín hữu Galata rằng họ sẽ không thể
được rỗi nếu không chịu cắt bì :
"Họ
nhiệt thành với anh em không phải vì mục đích tốt, mà chỉ vì muốn ly
gián anh em với tôi, để anh em nhiệt thành với họ. Được người ta tỏ
lòng nhiệt thành là điều tốt, miễn là vì mục đích tốt và trong mọi
trường hợp, chứ không phải chỉ khi nào tôi có mặt giữa anh em" (Gal
4,17-18).
"Tình
yêu chỉ phải đương đầu với loại cuộc chiến nầy. Cần phải nghiêm
túc nghĩ đến điều đó trong tất cả các giáo đoàn, nơi mà lòng nhiệt
thành thái quá sẽ nhanh chóng trở thành đáng ngờ : thay vì hiệp nhất
các thành phần của cùng một cộng đoàn thì nó đặt họ đối nghịch nhau
và làm cho họ thành đối thủ với nhau. Than ôi, lắm khi có những cuộc
cạnh tranh ngay trong lòng Giáo Hội khó mà hiểu nổi. Thánh Phaolô đã
quen với điều đó nên đã viết : "Chính vì tính ưa tranh giành mà họ
loan báo Chúa Kitô, họ không có lòng ngay..." (Phil
1,17).
Do đó, theo cách
của mình, thánh Phaolô nhắc nhở rằng Thiên Chúa không cần đến công
việc của chúng ta, nhất là với những công trình mà chính ta thực
hiện bởi lòng đam mê để xây dựng Nước Ngài đâu... Vẫn có chồng chất
những lòng nhiệt thành và những đam mê. Nhưng tiêu chuẫn chính là
tình yêu"[1]
b)
Tính ghen tương cũng nảy sinh trong tâm hồn chúng ta vì sự kinh ngạc
đối với một người bộc lộ và tỏa ra một ánh sáng mà cuộc đời ta không
có. Ý muốn quyền lực của tôi, nhất là khi nó bị nhạo báng, làm cho
tôi ghen tức với những gì làm cho người kia sống có chiều sâu và tôi
cảm nhận trong mình như bị tổn thương... Trong trường hợp nầy, như
một dốc khác của sự khâm phục, tính ghen tuông liều nảy sinh một bạo
lực rất mạnh. Bạo lực nầy có thể đi đến chỗ gây nên chết chóc :
"Philatô biết rằng chỉ vì ghen tương mà các thượng tế đã bắt
nộp Chúa Giêsu" (Mc 15,10).
Sự
khiêm tốn tìm kiếm hiệp nhất có thể giải thoát các tâm hồn, cho
người bị ghen ghét cũng như cho kẻ ghen ghét:
"Xin
anh em hãy làm cho niềm vui của tôi được trọn vẹn, bằng việc hãy có
cùng một cảm nghĩ, cùng một lòng mến, cùng một tâm hồn, cùng một ý
hướng như nhau. Đừng làm chi vì ganh tị hay vì hư danh, nhưng hãy
lấy lòng khiêm nhường mà coi kẻ khác hơn mình"
(Phil 2,2-3).
Chúng
ta hãy cầu xin Chúa ban cho chúng ta biết vui vẻ đánh giá cao những
gì là đẹp đẻ và tốt lành trong đời sống của những người chung
quanh.
c)
Tính ghen tuông cũng là một biểu hiện của lòng tham lam, ham hố...
Chúng thần tượng hóa các của cải vật chất, cách đặc biệt ở đây là
của cải người khác, ngay cả của người anh em trong cộng đoàn. Lòng
tham lam cộng thêm tính ghen tuông phát xuất từ một con tim cần phải
được thanh luyện. Chúng ta đừng sợ những bóng tối nội tâm nầy, hãy
để cho chúng lộ ra ánh sáng, và chúng ta hãy mang chúng đến giao cho
Chúa trong bí tích hòa giải. Một khi được lòng thương xót Chúa giải
thoát, tôi có thể lưu lại trong cộng đoàn như một người anh
em.
Ngược
lại, nếu vì bất chấp hay vì kiêu ngạo, tôi tự đóng kín trong những
tối tăm của mình, tôi sẽ trở nên một chướng ngại cho chính cộng đoàn
của mình :
"Khi
viết thế, tôi muốn nói với anh em là đừng đi lại với kẻ nào mang danh
là người anh em mà cứ dâm đãng, tham lam, thờ ngẫu tượng, quen chửi
bới, say sưa rượi chè hay trộm cắp, ngay cả anh em cũng phải tránh
đừng ăn uống với con người như thế" (I Cor
5,11).
Sự
thanh tẩy tâm hồn nhằm đạt được đức ái đích thực cũng chính là Lời
Chúa kiện toàn sự thanh tẩy ấy trong chúng ta. Thánh Phêrô nhắc nhở
cho chúng ta rằng Lời Chúa tái sinh và thanh tẩy tâm hồn chúng ta,
đổi mới các mối tương quan với những người sống chung quanh chúng
ta:
"Nhờ
vâng phục sự thật, anh em đã thanh luyện tâm hồn để thực thi tình
huynh đệ chân thành... Vì anh em đã được tái sinh, không phải do hạt
giống mục nát, mà do hạt giống bất diệt, nhờ Lời Thiên Chúa hằng
sống và tồn tại mãi mãi... Vậy anh em hãy từ bỏ mọi thứ gian ác, mọi
điều xảo trá, giả hình và ghen tương, cùng mọi lời nói xấu, gièm
pha. Như trẻ sơ sinh, anh em hãy khao khát sữa tinh tuyền là
Lời Chúa..." (I P 1,22 - 2,2).
Suy niệm để lần hạt Mân
Côi
1.
Tình yêu không ghen tuông. "Những việc do tính xác thịt gây ra thì
ai cũng rõ, đó là ... hận thù, bất hòa, ghen tuông, nóng giận, tranh
chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ... Còn hoa quả của Thánh Thần là bác
ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền
hòa, tiết độ... Nếu chúng ta sống nhờ Thánh Thần thì cũng hãy nhờ
Thánh Thần mà tiến buớc. Chúng ta đừng có tìm hư danh, đừng khiêu
khích nhau, đừng ganh tỵ nhau"
(Gal 5,19-26). Chúng ta hãy dâng mình cho Chúa Thánh Thần để Ngài
làm lớn lên trong chúng ta hoa trái của Ngài.
2.
Tình yêu không ghen tuông. "Ai là người khôn ngoan và từng trải
trong anh em? Người ấy hãy dùng lối sống tốt đẹp mà chứng tỏ rằng
những hành động của họ phát xuất từ lòng hiền hậu và đức khôn ngoan.
Nhưng nếu trong lòng anh em có sự ghen tương, chua chát và tranh
chấp, thì anh em đừng có tự cao tự đại mà nói dối trái với sự thật.
Sự khôn ngoan đó không phải từ trời cao ban xuống, nhưng là sự khôn
ngoan của thế gian, của con người tự nhiên, của ma quỷ. Thật vậy, ở
đâu có ghen tương và tranh chấp, ở đấy có xáo trộn và đủ mọi thứ
việc xấu xa. Đức khôn ngoan Chúa ban làm cho con người trở nên trước
là thanh khiết, sau là hiếu hòa, khoan dung, mềm dẻo, đầy từ bi và
sinh nhiều hoa thơm trái tốt, không thiên vị, cũng chẳng giả hình.
Người xây dựng hòa bình thu hoạch được hoa trái đã gieo trong hòa
bình, là cuộc đời công chính" (Jc 3,13-18).
Chúng ta hãy cầu nguyện cho sự hiệp nhất trong các gia đình và cộng
đoàn của chúng ta.
3.
Tình yêu không ghen tuông. "Xin anh em hãy làm cho niềm vui của tôi
được trọn vẹn, bằng việc hãy có cùng một cảm nghĩ, cùng một lòng
mến, cùng một tâm hồn, cùng một ý hướng như nhau. Đừng làm chi vì
ganh tị hay vì hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi kẻ
khác hơn mình" (Phil
2,2-3). Chúng ta hãy cầu xin Chúa ban cho chúng ta biết vui mừng
đánh giá cao những gì là đẹp đẻ và tốt lành trong đời sống của các
anh chị em chung quanh.
4.
Tình yêu không ghen tuông. "Đêm sắp tàn, ngày gần đến. Vậy chúng ta
hãy loại bỏ những việc làm đen tối và cầm lấy vũ khí của sự sáng để
chiến đấu. Chúng ta hãy ăn ở cho đứng đắn như người đang sống giữa
ban ngày : không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng, cũng
không cãi cọ ghen tương. Nhưng anh em hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô,
và đừng chiều theo tính xác thịt mà thỏa mãn các dục vọng" (Rm
13,12-14).
Chúng ta hãy cầu nguyện cho những ai đang sống trong tối tăm được ơn
trở lại.
5.
Tình yêu không ghen tuông. "Nhờ vâng phục sự thật, anh em đã thanh
luyện tâm hồn để thực thi tình huynh đệ chân thành. Anh em hãy tha
thiết yêu mến nhau với tất cả tâm hồn, vì anh em đã được tái sinh,
không phải do hạt giống mục nát, mà do hạt giống bất diệt, nhờ Lời
Thiên Chúa hằng sống và tồn tại mãi mãi... Vậy anh em hãy từ bỏ mọi
thứ gian ác, mọi điều xảo trá, giả hình và ghen tương, cùng mọi lời
nói xấu, gièm pha. Như trẻ sơ sinh, anh em hãy khao khát sữa
tinh tuyền là Lời Chúa..." (I P 1,22 - 2,2). Chúng ta
hãy
xin cho được lòng yêu mến Lời Chúa, để lời đó thanh tẩy tâm hồn
chúng ta cho một tình bác ái lớn lao hơn.
|
VỀ
MỤC LỤC | |
Thay Đổi Hình Dáng của tuổi
Già |
Thay đổi cấu trúc bên ngoài
của cơ thể đôi khi là những chỉ dấu báo hiệu sự sắp tới của tuổi
già. Và thường thường con người sẽ có những ngỡ ngàng, những ưu tư
trước các thay đổi đó.
1-Thay đổi về
tóc
Với khoa học, lông và tóc
giúp bảo vệ cho đầu khỏi bị tác dụng nguy hại của ánh nắng mặt trời,
ngăn ngừa sự xâm nhập vật lạ vào mắt, mũi. Nhưng với con người, tóc
là món đồ trang trí quý giá, một biểu tượng của cá tính. Do đó tóc
được chăm sóc rất chu đáo. Khi tóc thay đổi với tuổi già thì nhiều
người thấy không vui, tìm đủ mọi cách để che đậy.
Về cấu tạo, tóc là một tập
hợp những tế bào khô đã chết được đẩy lên khỏi da từ một túi nang ở
chân tóc. Trong chân tóc có mạch máu, dây thần kinh, tuyến tiết chất
nhờn. Trung bình trên đầu có hơn 100,000 sợi tóc và mỗi ngày có
khoảng một trăm sợi rụng đi.
Tại chân tóc có những tế bào
đặc biệt được sắp đặt để vào một tuổi nào đó tiết ra chất mầu
melanin khiến cho tóc đen, bạch kim hoặc hung hung đỏ.
Cho tới nay chưa có giải
thích thỏa đáng cho những thay đổi của tóc khi về già như thay đổi
về số lượng, mầu sắc và phẩm chất của tóc. Mặc dù những thay đổi này
không mang lại ảnh hưởng xấu cho sức khỏe nhưng con người lại rất
quan tâm đến.
a- Tóc
bạc
Về mầu sắc, sự kiện tóc bạc
hay tóc hoa râm là những dấu hiệu khá sớm của tuổi về già.
Tóc bạc bắt đầu từ hai bên
thái dương rồi lan lên đỉnh đầu. Mới đầu, nó còn có tính cách muối
tiêu, trắng đen lẫn lộn, sau đó thì muối nhiều hơn tiêu.
Sở dĩ tóc thành trắng là vì
loại tế bào sinh hắc tố (melanin) giảm đi, tóc trở thành không có
mầu, ánh sáng phản chiếu lên khiến cho tóc như trắng.
Cho đến nay khoa học chưa
chứng minh tại sao tế bào này giảm đi cũng như chưa tìm ra cách ngăn
chặn được sự giảm này.
Ða số các nhà nghiên cứu cho
tóc bạc vì gen di truyền hoặc vì sự hóa già. Cũng có ý kiến cho là
vì thiếu sinh tố loại B, kém dinh dưỡng, do thời thiết, ô nhiễm hóa
chất trong môi trường hoặc do căng thẳng tâm thần, buồn phiền quá
mức.
Vì không ngăn ngừa, không
chữa được nên con người tìm cách che đậy, thay đổi sự bạc trắng này
bằng mỹ phẩm nhuộm tóc, mang tóc giả hoặc cấy tóc.
Giáo sư Kyonggeun Yoon và
các nghiên cứu gia tại Ðại học Y Khoa Jefferson, Pennsylvania, đã
thành công trong việc chuyển đổi tóc từ trắng sang đen của chuột mắc
bệnh bạch tạng bằng điều chỉnh gen di truyền. Kết quả nghiên cứu
được công bố trong tạp chí Nature số tháng Giêng năm 2000. Mong rằng
phương thức này sớm mang lại kết quả tốt đẹp để có thể áp dụng cho
người già tóc bạch kim.
Tuy được coi là một dấu hiệu
sớm của tuổi về già, nhưng sự bạc tóc chỉ xảy ra ở khoảng 65% người
cao tuổi, còn 35% thì hoặc tóc không bạc hay chỉ bạc khi tuổi rất
cao.
Nhiều trung niên, mới 25-30
tuổi tóc đã bạc.
Thành ra sự bạc tóc không
phải là chỉ dấu của sự hóa già của các bộ phận trong cơ thể, cũng
như không có ảnh hưởng gì tới sức khỏe hay tới tuổi thọ. Nhiều người
hãnh diện có mái tóc bạch kim, tự cho là người từng trải, có kinh
nghiệm và đáng tin cậy.
Thánh kinh có ghi “Tóc bạc
là vương miện của sự vinh quang”
Còn huyền thoại Ngũ
Tử Tư, sau một đêm trầm suy, sáng dậy tóc đã bạc trắng cũng vẫn chỉ
là huyền thọai, không có giải thích khoa học.
b- Rụng
tóc
Rụng tóc là một hiện tượng
bình thường xẩy ra ngay từ khi còn trẻ. Nhưng với tuổi cao, tóc rụng
nhiều hơn nhất là khi da đầu bị nhiễm trùng, hoặc do ảnh hưởng của
một vài dược phẩm, chất phóng xạ trị liệu, vài loại thực phẩm.
Trung bình, mỗi ngày có
khoảng 100 sợi tóc rụng. Lông nách và lông mu cũng chịu cùng số
phận.
Ngoài ra, khi về già tóc
khô, giòn, dễ rụng vì các tuyến nhờn kém họat động.
Ở nữ giới, lông tóc mọc ở
cằm trên khi số lượng kích thích tố nữ giảm vào thời tắt kinh và gây
ra nhiều ngượng ngùng cho quý bà. Ta có thể nhổ, cạo hoặc dùng các
chất hóa học để làm mất những sợi lông vô duyên này.
Ngoài ra khi qúy bà dùng
thuốc có nam kích thích tố, thì lông tóc cũng mọc ra ở mặt và thân
thể, nhưng khi ngưng thuốc thì lông tóc ngưng mọc.
2- Thay đổi về
da
Với một diện tích 17 thước
vuông, da là bộ phận lớn nhất của cơ thể.
Về phương diện cấu tạo, da
đã làm nhiều kiến trúc sư xây dựng ngạc nhiên, thán phục vì tính
cách bền bỉ, đàn hồi và nhậy cảm của nó.
Da là đồng minh bảo vệ cơ
thể chống ngoại vật xâm lăng như vi khuẩn, cát bụi, những phũ phàng
của thời tiết nóng lạnh, thay đổi của thiên nhiên.
Nhưng da cũng tố giác tuổi
già với nhiều thay đổi không đẹp như da nhăn nheo, khô cằn, mềm xệ
hoặc những vết đồi mồi...
Về cấu tạo, da có ba lớp
chính: biểu bì, bì và hạ bì với các chức năng khác nhau.
-Biểu bì là lớp ngoài cùng
gồm tế bào tiết chất cứng gelatin để bảo vệ da; tế bào sắc tố làm
cho da có mầu và chặn tia tử ngoại xâm nhập cơ thể. Biểu bì được
liên tục thay thế và trong suốt cuộc đời 70 tuổi, ta mất đi tới 20
kí lô tế bào da.
-Bì là một mạng lưới tế bào
với hai chất đạm elastin và collgen làm da được bền bỉ và co giãn.
Bì còn có nhiều mạch máu, dây thần kinh, tuyến mồ hôi, tuyến nhờn và
chân tóc.
-Hạ bì nằm dưới cùng, có
nhiều tế bào mỡ, sợi thần kinh, mạch máu và được dùng như để gắn hai
lớp bì và biểu bì vào cơ thể.
Sự hóa già mang đến nhiều
thay đổi không đẹp lắm cho hình dáng con người ở cả ba lớp da.
Biểu bì hư hao nhiều hơn là
tái tạo, mô mới kém tổ chức khiến cho biểu bì mỏng manh. Tế bào mầu,
chất elastin và collagen giảm, tuyến mồ hôi và tuyến nhờn teo, giảm
hoạt động. Những thay đổi đó đưa tới các hậu quả sau đây:
a-Da nhăn.
Sự xuất hiện của lớp da nhăn
đầu tiên trên cơ thể làm nhiều người hoảng hốt, vì với da nhăn làm
ta như già đi. Da nhăn nheo vì chất collagen giảm, chất elastin
tăng, da mất tính đàn hồi.
Chúng ta có thể đo sự mềm
dịu đàn tính của da bằng cách kẹp lớp da giữa hai ngón tay trong ít
giây, rồi thả ngón tay, tính xem mất mấy giây để lớp nhăn trở lại
bằng phẳng. Thường thì một hai giây, nhưng ở người trên 60 tuổi, thì
phải mất vài chục giây.
Da nhăn nheo, không có nghĩa
là những cơ quan cốt yếu trong cơ thể cũng suy mòn. Người trẻ tuổi
mà da không được chăm sóc thì cũng vẫn nhăn như thường.
b.- Da
khô
Ở người cao tuổi, sự bài
tiết mồ hôi giảm vì những tuyến mồ hôi, tuyến nhờn giảm hoặc kém
hiệu năng. Do đó da trở nên khô, ngứa, nhất là về mùa
lạnh.
c- Thay
đổi khả năng điều hoà thân nhiệt
Dưới lớp bì và biểu bì là
một lớp mô mỏng chứa nhiều chất mỡ để chống sự thất thoát nhiệt độ
cơ thể.
Ở người cao tuổi, lớp mỡ này
mất đi, nhất là ở mu bàn tay, mặt và gan bàn chân. Các cảm giác
ngoài da cũng kém, nhất là cảm giác đau. Vì thế người cao tuổi hay
bị phỏng ở bàn chân.
Số lượng những mạch
máu nhỏ dưới da của người cao tuổi cũng ít hơn, cho nên người gìa
chịu đựng độ lạnh kém người trẻ. Khi nhiệt độ giảm dưới mức an toàn,
người già có thể bị lạnh cóng.
d- Chậm
lành vết thương
Xúc giác giảm cộng thêm sự
suy yếu của hệ thống miễn dịch kéo dài độ nhạy cảm của da khi tiếp
xúc với hoá chất kích thích. Người già hay bị tổn thương nơi da. Khả
năng lành da cũng rất chậm vì giảm máu nuôi dưỡng da.
Nhìn chung, những thay đổi
theo tuổi già của da xuất hiện rõ nhất ở trên mặt. Vầng trán nhăn
nheo với vết rạn chân chim ở đuôi con mắt; da mặt mỏng; xương mặt
nhô; mạch máu lộ trên da; mí mắt xệ, quầng mắt đen; vành tai to chẩy
xuống; cằm nhiều mỡ.
3- Thay đổi về chiều cao
Với tuổi đời chồng chất, con
người như co lại, và dáng điệu ngay thẳng hiên ngang lúc trai tráng
không còn nữa.
Trung bình khi về
già, đàn ông thấp đi khoảng 2 phân, đàn bà 1,5 phân. Đây là
do ảnh hưởng của một số yếu tố như sự giảm nước trong cơ thể, các
bắp thịt yếu, thay đổi vóc dáng, xương sống hao mòn và biến dạng.
Riêng ở nữ giới, nguyên nhân
chính của co ngắn chiều cao vẫn là bệnh loãng xương (osteoporosis).
4- Thay đổi về sức
nặng, dung lượng nước của cơ thể
Kết quả của nhiều cuộc
nghiên cứu đều xác nhận là, sức nặng của cơ thể tăng lên ở tuổi
trung niên rồi giảm xuống lúc tuổi già. Đồng thời, tế bào mỡ tăng và
thay thế vào chỗ những tế bào thịt bị tiêu hao vì ta không sử dụng
đến chúng. Tế bào mỡ xuất hiện nhiều nhất ở vùng bụng và
hông.
Ở tuổi thanh niên, 60% sức
nặng của cơ thể là nước. Khi về già chỉ còn có 51%.
Nữ giới cũng vậy: từ 51% lúc
trẻ xuống 46% lúc về già. Nguyên do là số lượng tế bào chứa nhiều
nước mất đi hoặc teo đi
5- Một số những thay
đổi khác
Nhận xét chung cho thấy, về
già vòng ngực tăng lên, sống mũi và dái tai dài ra một
chút.
Trên xương đầu thì
những khớp nối của xương dính liền lại, xương sọ dày lên.
Móng tay, móng chân
mọc chậm, đổi mầu và có những lằn gợn gồ ghề.
Kết
luận
Trên đây là những thay đổi
bình thường xẩy ra trong tiến trình lão hoá.
Ngày nay khoa học đã chứng
minh là ta có thể làm những thay đổi này chậm lại bằng cách sống
theo quy luật thiên nhiên, dinh dưỡng hợp lý, tránh lạm dụng những
chất có hại cho cơ thể, vận động xương thịt đều đặn cho khí huyết
lưu thông, gân cốt thư dãn.
Cũng như giữ cảnh lòng luôn
luôn an lạc, như lời người xưa: “Lạc giả trường thọ, ưu giả dị
yểu”.
Bác sĩ Nguyễn Ý-Ðức, Texas-Hoa Kỳ |
VỀ
MỤC LỤC | |
- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ,
đóng góp ý kiến, bài vở..., xin gởi về địa chỉ
mailto:thangtiengiaodan@gmail.com
- Những
nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi,
chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục vụ của Giáo
sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các Tác giả nhằm mục
đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn gọi Linh mục; Người Giáo
dân tham gia công việc “Trợ lực Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và
cộng tác trong mọi lãnh vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh
mục” không có chức Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo
dân và Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quí vị cũng có thể tham khảo những số báo đã
phát hành tại
http://www.conggiaovietnam.net/
Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả
Quí vị
Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã sẵn
lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác
nhau.
TM. Đặc San
Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca Phạm Quốc
Sử USA
| |
*************
| |