Thân Phận Con Người Trong Thế Giới
Ngày Nay |
Hiến Chế Mục Vụ Về Giáo Hội Trong Thế
Giới Ngày Nay
Gaudium Et Spes
Bản dịch Việt Ngữ của Giáo Hoàng Học
Viện Piô X
Prepared for Internet by Vietnamese
Missionaries in Asia
Nhập Ðề
Thân Phận Con Người
Trong Thế Giới Ngày Nay
4*
4. Hy vọng và lo âu. Ðể
chu toàn phận vụ ấy, lúc nào Giáo Hội cũng có bổn phận tìm hiểu
tường tận những dấu chỉ của thời đại
5* và giải thích dưới ánh sáng Phúc Âm; như vậy mới có
thể giải đáp một cách thích ứng với từng thế hệ những thắc mắc
muôn thuở của con người về ý nghĩa cuộc sống hiện tại và mai hậu
cũng như về mối tương quan giữa hai cuộc sống ấy. Do đó, cần
phải biết và hiểu thế giới chúng ta đang sống với những chờ đợi,
mong ước và cả tính chất thường là bi thảm của nó. Có thể phác
họa một vài nét chính yếu của thế giới ngày nay như sau:
Nhân loại ngày
nay đang sống vào một giai đoạn mới trong lịch sử của mình
6*. Ðó là giai đoạn chất chứa những đổi thay sâu xa và
mau chóng đang dần dần lan rộng tới toàn thể hoàn cầu. Những
thay đổi do óc thông minh và nổ lực sáng tạo của con người khơi
dậy, đang trở lại ảnh hưởng trên chính con người, trên những
phán đoán và ước vọng cá nhân hay tập thể con người, trên cách
suy tư và hành động đối với sự vật cũng như con người. Như vậy,
chúng ta có thể nói đến sự biến đổi đích thực về mặt xã hội cũng
như văn hóa, sự biến đổi này đang lan tràn tới cả đời sống tôn
giáo.
Cũng như trong
bất cứ cơn khủng hoảng tăng trưởng nào, sự biến đổi này kéo theo
những khó khăn không nhỏ. Chẳng hạn như đang khi bành trướng quá
rộng quyền lực của mình, không phải lúc nào con người cũng có
thể bắt nó phục vụ mình. Cố gắng đi sâu hơn vào thâm tâm mình,
con người nhiều khi lại tỏ ra hoang mang hơn về chính mình. Dò
dẫm tìm hiểu rõ hơn những luật lệ của đời sống xã hội, con người
lại do dự không dám định đoạt hướng đi cho mình.
Chưa bao giờ
nhân loại dồi dào của cải, khả năng và quyền lực kinh tế như
ngày nay, vậy mà tới nay, một phần rất lớn nhân loại trên thế
giới đang quằn quại vì đói ăn và thiếu thốn, rồi không biết bao
nhiêu người đang chịu cảnh mù chữ. Chưa bao giờ con người ý thức
mãnh liệt được sự tự do như ngày nay, đang khi đó, lại thấy sống
dậy những hình thức nô lệ mới mẻ về mặt xã hội cũng như tâm lý.
Trong lúc đang mãnh liệt cảm thấy sự duy nhất cũng như sự kiện
tất cả lệ thuộc nhau trong sự liên đới cần thiết, thì thế giới
lại bị lôi kéo kịch liệt theo những chiều hướng tương phản do
những lực lượng chống đối nhau; thực vậy vẫn còn kéo dài mãi tới
ngày nay những bất đồng trầm trọng về chính trị, xã hội, kinh
tế, chủng tộc và ý thức hệ, và một cuộc chiến diệt vong vẫn còn
đe dọa. Ðang khi sự trao đổi tư tưởng phát triển, thì những ngôn
ngữ dùng để diễn tả những quan niệm có tầm mức quan trọng lại
mang ý nghĩa khác nhau tùy từng ý thức hệ riêng biệt. Sau hết,
người ta nỗ lực đi tìm một tổ chức trần thế hoàn hảo hơn, nhưng
lại không lo tiến tới sự phát triển tinh thần tương xứng.
Do những hoàn
cảnh phức tạp như thế chi phối, rất nhiều người đương thời thấy
khó lòng có thể nhận chân được những giá trị trường cửu và đồng
thời cũng khó mà hòa hợp những giá trị ấy cho đúng với những
phát minh gần đây. Do đó, bị lay động giữa hy vọng và lo âu, băn
khoăn về sự xoay chuyển hiện tại của thế giới, họ cảm thấy một
nỗi ưu tư. Sự xoay chuyển của thế giới đang thách đố và thúc
bách con người tìm câu giải đáp.
5. Những hoàn cảnh biến đổi sâu rộng.
Sự giao động tâm hồn hiện nay và sự thay đổi cảnh sống gắn liền
với một biến chuyển rộng lớn hơn. Trong phạm vi trí dục, sự biến
chuyển này làm cho toán học, vạn vật học và các khoa học nhân
văn càng ngày càng thêm quan trọng, còn trong phạm vi hoạt động,
thì kỹ thuật, con đẻ của khoa học, lại mỗi ngày một thêm uy thế.
Tinh thần khoa học này đang tạo ra một nền văn hóa và những lối
suy tư khác với trước kia. Kỹ thuật phát hiện đến độ thay đổi cả
cục diện địa cầu và còn đang cố gắng chinh phục không gian.
Tâm trí con
người như đang nới rộng phạm vi chế ngự trên cả thời gian: chế
ngự dĩ vãng nhờ sử học, và chế ngự tương lai nhờ dự liệu và tổ
chức các kế hoạch. Những khoa học đang tiến bộ như sinh vật học,
tâm lý, xã hội, không những giúp con người hiểu biết chính mình
hơn, mà còn giúp con người biết lợi dụng những phương pháp kỹ
thuật để trực tiếp ảnh hưởng tới đời sống các xã hội. Ðồng thời
nhân loại mỗi ngày mỗi lưu tâm hơn để tìm cách tiên liệu và giải
quyết vấn đề gia tăng dân số.
Chính lịch sử
đang tiến bước quá nhanh đến nỗi từng cá nhân riêng rẽ khó lòng
theo kịp. Vận mạng cộng đoàn nhân loại trở thành một mà thôi và
không còn bị phân tán thành nhiều dòng lịch sử khác nhau nữa.
Như vậy từ một quan niệm tĩnh về vũ trụ, nhân loại đã bước sang
một quan niệm động và tiến hóa hơn
7*, do đó phát sinh những vấn đề hết sức phức tạp mới
mẻ đòi phải có những phân tích và tổng hợp mới.
6. Những biến đổi trong phạm vi xã hội.
Cũng vì vậy, các cộng đoàn cổ truyền địa phương, như gia tộc,
"thị tộc", bộ lạc, xóm làng, các tập thể khác và các liên hệ
trong cộng đoàn xã hội đều thay đổi mỗi ngày mỗi sâu xa hơn.
Tổ chức xã hội
theo khuôn mẫu kỹ nghệ dần dần bành trướng, đưa một số quốc gia
tới mức thịnh vượng kinh tế và thay đổi tận gốc rễ những quan
niệm và hoàn cảnh đời sống xã hội đã cố định từ lâu đời. Sự ham
chuộng theo đuổi đời sống thị thành cũng gia tăng, vì các thành
phố càng ngày càng mọc lên nhiều, dân cư càng ngày càng đông, và
vì cách sống thị thành đang lan rộng tới cả thôn quê.
Những phương
tiện truyền thông mới mẻ và mỗi ngày một thuận tiện hơn giúp con
người theo dõi được các biến cố cũng như phổ biến hết sức mau lẹ
và rộng rãi những cách cảm nghĩ và suy tư, do đó chúng gây nên
nhiều âm hưởng vang dội có liên quan với nhau.
Một hiện tượng
không kém quan trọng khác: biết bao người bởi nhiều lý do phải
di cư, và vì di cư đã thay đổi cả cách sống.
Do vậy mà những
liên hệ của con người với đồng loại không ngừng tăng thêm mãi,
đồng thời chính sự "xã hội hóa"
8* lại tạo thêm những liên hệ mới, tuy nhiên, những
liên hệ mới ấy không phải lúc nào cũng giúp nhân vị trưởng thành
một cách thích hợp, hoặc cổ võ những liên hệ thực sự người (nhân
vị hóa).
Thực vậy, sự
tiến hóa ấy phát hiện rõ rệt hơn tại những quốc gia hưởng thụ
những tiện nghi kinh tế và kỹ thuật, nhưng sự tiến hóa ấy cũng
thúc đẩy các dân tộc còn đang cố gắng tiến lên, vì họ là những
người mong mỏi cho xứ sở mình được hưởng ích lợi của nền kỹ nghệ
và đô thị hóa. Các dân tộc ấy, nhất là các dân tộc đã bám víu
vào những truyền thống cổ kính, đồng thời cảm thấy bị thúc đẩy
muốn tự mình xử dụng tự do một cách trưởng thành và hợp nhân vị
hơn.
7. Những biến đổi về tâm lý,
luân lý và tôn giáo. Sự thay đổi tâm thức và cơ cấu thường làm
cho con người bất đồng ý kiến về những giá trị đã được chấp
nhận, nhất là nơi những người trẻ là lứa tuổi đôi khi thiếu nhẫn
nại; hơn nữa vì lo âu, nên họ mới nổi loạn, và vì ý thức tầm
quan trọng của riêng mình trong đời sống xã hội, nên họ mong
muốn sớm được dự phần vào đời sống xã hội hơn. Do đó, nhiều khi
cha mẹ và các nhà giáo dục càng ngày càng gặp nhiều khó khăn
trong việc chu toàn bổn phận.
Các định chế,
luật pháp, những lối suy tư và cảm nghĩ của người xưa truyền
lại, hình như không phải lúc nào cũng phù hợp với tình thế hiện
tại, do đó, có sự xáo trộn trầm trọng trong phương thức và trong
cả các tiêu chuẩn hành động.
Sau hết, những
hoàn cảnh mới cũng ảnh hưởng tới đời sống tôn giáo. Một phần vì
khả năng phán đoán sâu sắc hơn đã thanh lọc khỏi đời sống tôn
giáo quan niệm ma thuật về thế giới
9* và những mê tín vẫn còn lan tràn tới ngày nay. Khả
năng sâu sắc ấy đòi hỏi đức tin phải được chấp nhận mỗi ngày một
thêm cá biệt và linh hoạt; bởi đó, nhiều người đạt được một ý
thức sống động hơn về Thiên Chúa. Phần khác, số người lìa xa
Thiên Chúa trong cách sống thực tế càng ngày càng đông. Khác với
thời xưa, sự từ chối hoặc tránh né đề cập tới Thiên Chúa hay tôn
giáo không còn là một hành vi dị thường và có tính cách cá nhân
nữa, vì ngày nay, biết bao người coi đó như một đòi hòi của tiến
bộ khoa học
10* hay của nền nhân bản mới
11*. Tại nhiều nơi, quan niệm này không những được
diễn tả trong các trường phái triết học, mà còn ảnh hưởng rất
nhiều tới văn chương, nghệ thuật, các giải thích của các khoa
học nhân văn và sử học, cũng như ảnh hưởng tới cả dân luật khiến
cho nhiều người hoang mang.
8. Những chênh lệch trong thế giới ngày
nay. Sự biến chuyển quá mau chóng và thường thiếu
trật tự, hơn nữa, sự ý thức càng ngày càng bén nhạy hơn về những
sự khác biệt hiện có trong thế giới, đó là những yếu tố làm phát
sinh hoặc gia tăng nhiều mâu thuẫn và chênh lệch.
Chính nơi con
người thường phát sinh sự thiếu quân bình giữa óc thực tế hiện
thời và lối suy tư thuyết lý. Lối suy tư này không còn khả năng
làm chủ và tổng hợp gọn gàng toàn thể mọi tri thức. Cũng vậy, sự
thiếu quân bình hiển hiện giữa những lo âu đạt được hiệu quả cụ
thể và những đòi hỏi của lương tâm, và nhiều lúc giữa những cảnh
sống tập thể và những điều khẩn thiết cho suy tư cá nhân và nhất
là cho sự chiêm niệm. Sau hết là sự chênh lệch giữa sự chuyên
biệt hóa các sinh hoạt nhân loại và cái nhìn phổ quát về muôn
vật.
Trong gia đình
cũng xuất hiện nhiều mâu thuẫn, hoặc do những hoàn cảnh ngột
ngạt về dân số, kinh tế, xã hội, hoặc do những khó khăn phát
xuất giữa những thế hệ tiếp nối nhau, hoặc do những xã giao mới
giữa người nam và nữ.
Ngoài ra còn có
những sự khác biệt lớn lao giữa các chủng tộc và kể cả giữa
những giai cấp xã hội khác nhau, giữa những quốc gia cường thịnh
và những quốc gia nghèo nàn yếu kém, sau hết giữa những tổ chức
quốc tế đã được thiết lập vì sự mong mỏi hòa bình của các dân
tộc và tham vọng gieo rắc ý thức hệ riêng cùng những ham hố tập
thể hiện hữu trong các quốc gia hoặc các tập thể khác.
Từ đó, phát
sinh ngờ vực và thù nghịch nhau, xung đột và thống khổ mà chính
con người là nguyên nhân và nạn nhân.
9. Những khát vọng phổ quát hơn của
nhân loại. Trong khi đó, người ta thêm xác tín
rằng nhân loại không những có thể và phải mỗi ngày mỗi củng cố
thêm sự thống trị của mình trên tạo vật mà còn phải thiết lập
một trật tự chính trị, xã hội và kinh tế để phục vụ con người
ngày đắc lực hơn, giúp mỗi cá nhân, mỗi tập thể khẳng định và
trau dồi phẩm giá riêng của mình.
Bởi đó, rất
nhiều người đòi hỏi gắt gao những của cải mà họ ý thức mãnh liệt
rằng họ bị cướp mất vì bất công hay vì phân chia không đồng đều.
Các quốc gia đang trên đường phát triển cũng như các quốc gia
mới giành được chủ quyền mong muốn dự phần vào những lợi ích của
nền văn minh hiện nay không những trong phạm vi chính trị mà cả
trong phạm vi kinh tế nữa, và mong muốn tự do chu toàn vai trò
của mình trong thế giới. Tuy nhiên, trong khi ấy, càng ngày càng
gia tăng sự cách biệt giữa các quốc gia này, cũng như thường
thấy gia tăng sự lệ thuộc cả về phạm vi kinh tế đối với những
quốc gia khác giàu mạnh và tiến bộ nhanh hơn. Các dân tộc bị đói
khổ hoành hành đang kêu gọi các dân tộc phồn thịnh hơn. Ở đâu nữ
giới chưa được bình quyền với nam giới đều đứng lên đòi hỏi cho
mình được bình đẳng trước pháp lý và trên thực tế. Các công nhân
và nông gia cũng muốn rằng họ làm việc không những để mưu sống
nhưng còn để phát huy những tài năng của con người họ, hơn nữa
họ còn muốn tham gia vào việc tổ chức đời sống kinh tế, xã hội,
chính trị và văn hóa. Ðây là lần đầu tiên trong lịch sử nhân
loại, toàn thể các dân tộc đã xác tín mình có thể và phải thực
sự phổ biến những thành quả của văn hóa tới hết mọi dân tộc.
Dưới tất cả
những đòi hỏi đó tàng ẩn một ước vọng sâu xa và đại đồng hơn:
mọi cá nhân và tập thể đều khao khát một cuộc sống đầy đủ và tự
do xứng với con người; để phục vụ cho chính mình, họ muốn chế
ngự tất cả những gì thế giới ngày nay có thể cung ứng hết sức
dồi dào cho họ. Hơn nữa, các quốc gia vẫn ngày một cố gắng hơn
để đạt tới một thứ cộng đoàn đại đồng.
Như vậy, thế
giới ngày nay tỏ ra vừa mạnh vừa yếu, có khả năng thực hiện
những điều tốt đẹp nhất hoặc xấu xa nhất, đang khi ấy trước mặt
nó là con đường dẫn tới tự do hoặc nô lệ, tiến bộ hoặc thoái
hóa, huynh đệ hoặc đố kỵ. Lại nữa, con người đã ý thức được
chính họ phải điều khiển cho đúng những năng lực do chính mình
tạo nên và đó là những năng lực có thể đè bẹp họ hoặc phục vụ
cho họ. Do đó họ phân vân.
10. Những vấn nạn sâu xa hơn của nhân
loại. Thực vậy, những chênh lệch dày vò thế giới
ngày nay được nối liền với một chênh lệch căn bản hơn phát xuất
từ đáy lòng con người. Bởi vì, ngay chính trong con người có
nhiều yếu tố xung khắc nhau. Vì một đàng, là tạo vật, con người
nhận thấy mình bị giới hạn trong nhiều phương tiện, nhưng đàng
khác, lại cảm thấy mình có những khát vọng vô biên và còn cảm
thấy được mời gọi tới một cuộc sống cao cả hơn. Bị lôi kéo giữa
nhiều quyến rũ, con người luôn bị bó buộc phải lựa chọn một số
hoặc loại bỏ một số khác. Hơn nữa, vì yếu đuối và tội lỗi, nhiều
khi con người làm điều mình không muốn và không làm được điều
mình muốn làm
4. Bởi vậy, có sự phân rẽ trong chính con người, từ
đó, sinh ra bao nhiêu là bất hòa lớn lao trong xã hội. Thực vậy
rất nhiều người vì đời sống thấm nhiễm chủ nghĩa duy vật thực
hành nên đã không nhìn nhận rõ ràng thảm trạng ấy, hay ít ra vì
lối sống cơ cực đè nặng không cho phép họ nghĩ tới nữa. Ðàng
khác, dựa vào mớ lý thuyết mà họ đã tìm ra để giải thích vũ trụ,
nhiều người tưởng như thế là đủ an tâm. Còn có những người chỉ
trông vào nỗ lực của con người mới đem lại cho nhân loại sự giải
phóng đích thực và trọn vẹn, và họ xác tín rằng sự thống trị mai
hậu của con người trên trái đất sẽ làm mãn nguyện mọi ước vọng
của con tim nhân loại. Cũng không thiếu những người thất vọng về
ý nghĩa cuộc sống tán dương những kẻ táo bạo nghĩ rằng sự hiện
hữu của con người tự nó không mang một ý nghĩa nào nên họ cố
gắng dùng nguyên tài năng của mình để tạo nên tất cả ý nghĩa cho
sự hiện hữu ấy. Tuy nhiên, trước sự tiến hóa hiện nay của thế
giới, càng ngày càng có nhiều người hoặc đặt vấn đề hoặc nhận
thức một cách sâu sắc mới mẻ về những vấn đề hết sức căn bản
như: con người là gì? Ðâu là ý nghĩa của đau khổ, sự dữ, cái
chết? Sao chúng còn tiếp tục tồn tại mặc dù đã có bao nhiêu tiến
bộ? Bao chiến thắng đạt được với một giá đắt ấy có ích gì? Con
người có thể đem lại gì cho xã hội và có thể trông đợi gì ở xã
hội? Cái gì sẽ tiếp theo sau cuộc sống trần gian này?
Giáo Hội tin
rằng Chúa Kitô đã chết và đã sống lại cho mọi người
5. Vì thế qua Thánh Thần của Người, Người ban cho con
người ánh sáng và sức mạnh để con người có thể đáp lại thiên
chức cao cả của mình. Giáo Hội cũng tin rằng dưới bầu trời này
chẳng còn danh hiệu nào khác được ban cho loài người để loài
người phải nhờ đó mà được cứu rỗi
6. Cũng thế, Giáo Hội tin rằng đầu mối, trung tâm và
cùng đích của toàn thể lịch sử nhân loại đều ở trong Ðức Kitô là
Chúa và là Thầy của Giáo Hội. Hơn nữa, Giáo Hội còn xác nhận
rằng qua mọi thay đổi, có nhiều điều vẫn không đổi thay vì nền
tảng cuối cùng của những điều không thay đổi này là Chúa Kitô,
Ðấng hôm qua, hôm nay và mãi mãi
7. Vậy dưới ánh sáng Chúa Kitô, Hình Ảnh của Thiên
Chúa vô hình, Trưởng Tử giữa mọi thụ sinh
8, Công Ðồng muốn nói với mọi người để làm sáng tỏ mầu
nhiệm về con người và để cùng nhau tìm giải đáp cho những vấn đề
chính yếu của thời đại chúng ta.
Chú Thích:
4* Công Ðồng mời gọi ta cùng
tìm hiểu thế giới hiện đại (số 4a) để ta có thể đối thoại với nó
và đem ánh sáng Chúa Kitô chiếu dọi các vấn đề của nó (số 10b).
Vì thế Công Ðồng:
1) Kể lại những
sự kiện tương phản với nhau: trạng thái thừa thãi và đói khát;
tiến bộ và mù chữ; khát vọng tự do và nhiều thứ nô lệ; khát vọng
hiệp nhất và vô số chia rẽ cũng như tư tưởng hỗn độn; tiến bộ kỹ
thuật, văn hóa và tinh thần không tương hợp với nhau (số 4).
2) Những thay
đổi thuộc về:
a) Cơ cấu về
trí óc: vì ảnh hưởng do khoa học và kỹ thuật gây nên; vì được
biết lịch sử rộng hơn, cũng như vì phép dự liệu và thuật kế
hoạch; vì nhận thấy con người bắt đầu có quyền trên đời mình
cũng như trên lịch sử. Quan niệm tĩnh ngày xưa chuyển thành quan
niệm động (số 5).
b) Cơ cấu xã
hội: nếp sống cổ điển biến mất; có những hiện tượng mới như kỹ
nghệ hóa, thành thị hóa, các phương tiện truyền thông xã hội,
những cuộc di cư, sự xã hội hóa (số 6).
3) Bởi đó đặt
vấn đề theo cách mới:
a) Về tôn giáo:
Giới thanh niên phản đối, lạc hướng; tinh thần phê bình; lối
sống bỏ đạo thực hành; tuyên xưng vô thần (số 7).
b) Về cá nhân:
vì những phán đoán thiếu quân bình, vì những xung đột giữa lương
tâm và trí óc trong việc đi tìm kết quả thực tiễn giữa nhu cầu
chuyên môn và một quan niệm tổng quát về vũ trụ.
c) Về gia đình:
vì vấn đề dân số, khó khăn kinh tế xã hội, những khác biệt giữa
các thế hệ, những liên quan mới giữa nam giới và nữ giới.
d) Về quốc gia:
vì những sự khác nhau giữa các chủng tộc, các giai cấp; giàu có
và nghèo khổ; vì những lý thuyết ảnh hưởng các phong trào hòa
bình (số 8).
4) Nguyện vọng
mới: vì con người ý thức về quyền thế mình, nhận thấy rằng có
thể đòi hỏi tham gia vào những thành quả của văn minh và cảm
thấy có quyền sống đầy đủ và xứng hợp với bản tính con người.
5* Ðức Gioan XXIII, đã dựa
theo Mt 16,4 và Lc 21,7 để dùng câu này trong thông điệp Pacem
in Terris, và sau đó câu này trở thành một biểu ngữ cho việc
canh tân Giáo Hội. Trong số 11a Công Ðồng lại diễn tả thái độ dò
xét thời điểm này.
6* Ta phải chú ý rất kỹ đến
câu quả quyết quan trọng này (xem lại trong số 54a). Ðặc biệt
tất cả những ai có trách nhiệm giáo dục lớp trẻ phải suy xét lại
rằng: cố gắng tiếp tục sống theo nếp cũ trong "giai đoạn mới của
lịch sử" tất nhiên là lỗi thời.
7* Công Ðồng muốn nói rằng,
thời xưa (và gần đây) người ta coi những thực tại nhân loại là
vững bền và ít thay đổi. Ví dụ các luật trong lãnh vực pháp lý,
những tổ chức gia đình, làng xóm, đô thị trong lãnh vực xã hội;
những nhu cầu của dân chúng trong lãnh vực kinh tế, v.v... Qua
bốn thế kỷ vừa qua chưa có những thay đổi trong phụng vụ Thánh
Lễ!... Nhưng ngày nay thì khác hẳn. Người ta không còn thích coi
lãnh vực nào là bất di dịch nữa. Ngày nay con người dễ tỏ lòng
nghi ngờ khi người ta nại vào những nguyên tắc bất biến hay là
dựa trên quan niệm cổ điển để giải thích các vấn đề. Hiện nay
người ta không còn tin như xưa rằng lịch sử là "thầy dạy cho
cuộc sống", hay ít ra cũng không phải theo cùng một quan niệm
như xưa.
8* Thông điệp Mater et
Magister của Ðức Gioan XXIII diễn tả hiện tượng "đời sống xã
hội" này và Công Ðồng (số 25b) trích lại lời đó. Dĩ nhiên đó là
hiện tượng mới trong xã hội kỹ nghệ Âu Mỹ. Trong xã hội nông
thôn Á Ðông, nó đã có từ nghìn xưa (dù dưới hình thức khác), đến
nỗi nhiều khi gây ra nguy hại cho quyền tự do cá nhân (xem
Phaolô VI, Populorum progressio, số 36). Hiện tượng này không
phải đồng hóa với xã hội chủ nghĩa đã bị Giáo Hội lên án nhiều
lần (đặc biệt trong Tđ. Quadragesimo Anno của Ðức Piô XI, năm
1931). Sau đó chính xã hội chủ nghĩa đã biến đổi không ít. Sự
kiện xã hội hóa có thể sa vào những chỗ nguy hại như Công Ðồng
nhắc lại trong đoạn này, nhưng cũng có thể đem lại kết quả tốt
đẹp: ngoài sự phát triển vật chất, có thể giúp để thỏa mãn nhiều
quyền lợi căn bản của con người như về giáo dục, đào tạo nghề
nghiệp, sự cứu trợ xã hội, cứu trợ y khoa, về hoàn cảnh làm
việc, nhà ở, v.v... (Xem MV 25a và 42c).
9* Vì thiếu óc khoa học,
giới bình dân tin tưởng vào những sức lực vô hình do những quỉ
thần nào đó gây nên để giải thích hiện tượng thiên nhiên. Nhờ
những nghi lễ lạ lùng vàhuyền bí cố định từ ngàn xưa truyền lại,
họ tìm cách gây ảnh hưởng trên những ma lực đó (x.33a).
Tin tưởng vào
số tử vi cũng phải được coi như một hành thức biểu thị quan niệm
phù phép.
Ðây là quan
niệm rất tai hại cho đức tin, vì quyền tự do, lòng yêu mến Thiên
Chúa là Ðấng hiểu biết và âu yếm điều khiển đời ta, chẳng chiếm
chỗ nào trong quan niệm đó.
10* Những quốc gia tân tiến
hơn (Hoa Kỳ, Nga Sô, Thụy Ðiển...) lại chẳng phải là những nước
bỏ đạo nhiều hơn sao! Giới trí thức, không kể giới bác học cũng
không phải như thế sao! Nhiều khi người ta nghe nói như vậy.
Thực sự nhiều khi người trí thức học sâu về khoa học trong khi
lại quên phát triển những điều học hỏi về tôn giáo lúc còn bé.
Trường hợp như thế dễ mất đức tin, nhưng không được nói rằng đó
là đòi hỏi của khoa học!
11* Trong số 9c và 10a, Công
Ðồng tóm tắt ý nghĩa đại khái của những hình thức nhân bản chủ
nghĩa khác nhau: nhân bản dân chủ mong ước giải thoát con người
khỏi mọi trạng thái hỗn độn nhờ giáo dục, kỹ thuật, quyền tự
do... không cần đến Thiên Chúa, tôn giáo, và chủ trương tự sức
mình, con người sẽ đạt tới hạnh phúc... Nhân bản khoa học, một
cách tương tự, chủ trương con người tìm được tất cả các câu trả
lời nơi khoa học và không cần biết đến thực tại về tội lỗi và
nguồn gốc tội lỗi nơi con người, thực tại về công cuộc cứu chuộc
của Ðấng Cứu Thế, v.v... Nhân bản Mác xít đánh giá việc làm như
giá trị duy nhất của con người. Nhờ đảng điều khiển, con người
sẽ xây dựng thế giới và xã hội mới, loại trừ mọi bất công. Tôn
giáo là một dụng cụ của các chế độ tư bản dĩ nhiên sẽ biến mất.
Nhân bản Quốc gia: đã chiếm được độc lập thì phải tự trị để phát
triển đầy đủ không chấp nhận bất cứ hình thức đế quốc nào nữa,
mà tôn giáo chẳng phải là một thứ đế quốc văn hóa sao? Nhân bản
hiện sinh chủ trương rằng đời sống là phi lý. Từ con số không,
con người đang đi tới con số không nữa. Chỉ cần lòng can đảm để
tự tạo ý nghĩa cho đời mình, và tạo nên một thế giới tiện nghi
hơn cho con cháu (xem số 10a).
4 Xem Rm 7,14tt.
5
Xem 2Cor 5,15.
6
Xem CvTđ 4,12.
7
Xem Dth 13,8.
8
Xem Col 1,15.
(còn tiếp) |
VỀ MỤC LỤC |
|
MẸ MARIA MẪU
GƯƠNG CÁC GIA ĐÌNH |
Chiêm ngắm khuôn mặt Mẹ Maria, chúng ta sẽ
khám phá được những đường nét tuyệt vời, đáng cho chúng ta, dù ở
đấng bậc nào, cũng có thể noi theo và bắt chước. Thực vậy :
* Mẹ là khuôn mẫu cho mọi người : “Như thế,
nhờ lời cầu bầu của Đức Trinh Nữ Maria rất dịu hiền, mẹ Thiên
Chúa, mà cuộc đời của Mẹ là khuôn mẫu cho mọi người.” (PC 25).
* Mẹ là khuôn mẫu cho các người phụ nữ :
“Rồi Thiên Chúa lại bày tỏ phẩm giá của người nữ cách cao cả hết
sức có thể khi chính Ngài mặc lấy xác thịt từ Đức Trinh Nữ
Maria, mà Hội Thánh tôn kính như Mẹ Thiên Chúa, gọi Mẹ là Evà
mới và giới thiệu Mẹ như là kiểu mẫu của người nữ đã được cứu
chuộc.” (CF 22).
* Mẹ là khuôn mẫu của các linh mục : “Các
ngài luôn tìm thấy gương mẫu lạ lùng về sự dễ vâng phục đó nơi
Đức Trinh Nữ Maria, người được Chúa Thánh Thần dẫn dắt đã hiến
toàn thân cho mầu nhiệm cứu chuộc loài người; các linh mục phải
lấy lòng con thảo thành kính tôn sùng và mến yêu Đức Trinh Nữ
Maria là Mẹ của Linh Mục Thượng Phẩm vĩnh viễn, là Nữ Vương các
Tông đồ và là Đấng bảo trợ thừa tác vụ linh mục.” (PO 18).
* Mẹ là khuôn mẫu của người tông đồ :
“Gương mẫu hoàn hảo của đời sống thiêng liêng và đời sống tông
đồ ấy chính là Đức Trinh Nữ Maria, Nữ Vương các Tông đồ : khi
sống ở trần gian, Người đã sống cuộc đời như mọi người, vất vả
lo lắng cho gia đình, nhưng luôn kết hiệp mật thiết với Con mình
và đã cộng tác vào công việc của Đấng Cứu Thế một cách riêng
biệt.”(AA 4).
* Mẹ là khuôn mẫu của các gia đình. Đây
chính là đề tài chúng ta cùng nhau tìm hiểu để kết thúc cho tuần
tĩnh tâm năm nay. Trong việc trình bày đề tài này, chúng ta có
thể lần theo những sự kiện xảy đến trong cuộc đời của Mẹ, từ khi
thiên thần truyền tin cho tới ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống,
dừng lại trước mỗi sự kiện, suy gẫm và rút ra những bài học cụ
thể, áp dụng vào lãnh vực gia đình Kitô hữu. Tuy nhiên cách
trình bày này xem ra có vẻ rời rạc, dài dòng và sẽ không đủ thời
gian, bởi vì mỗi sự kiện phải là một bài riêng biệt, nếu muốn
tìm hiểu tương đối cặn kẽ.
Vì thế, tôi xin mượn những ý tưởng của Đức
Thánh Cha Phaolô VI trong tông huấn “Marials Cultus” để trình
bày. Thực vậy, trong chương I, tiết 2 của tông huấn, chúng ta
tìm thấy nơi Mẹ mẫu gương cho Giáo hội về cách tôn thờ Chúa.
Tông huấn viết :
- “Đức Maria làm gương cho Giáo hội về thái
độ tinh thần phải có, khi cử hành và sống các mầu nhiệm. Trong
lãnh vực này, Đức Maria phải được coi là mẫu gương cao đẹp nhất
của Giáo hội trong vấn đề đức tin, đức ái và hoàn toàn kết hợp
với Chúa Kitô, tức gương mẫu của một nội tâm hướng dẫn Giáo
hội.” (MC 16).
Tông huấn đã đưa ra bốn nét đặc sắc về Mẹ.
Bốn nét đặc sắc này, cũng có thể được áp dụng vào lãnh vực gia
đình, để thấy được rằng Mẹ chính là mẫu gương cho gia đình các
tín hữu.
1- MẸ LÀ TRINH NỮ LẮNG
NGHE, “VIRGO AUDIENS”
Tông huấn viết :
- “Thực vậy, sau khi nghe sứ thần giải đáp
thắc mắc (Lc 1,34-37), tin tưởng hoàn toàn, Mẹ đã thưa : Này tôi
là tôi tá Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền (Lc 1,38),
Mẹ đã hoài thai Chúa Giêsu trong tâm hồn trước khi mang Ngài
trong dạ. Đối với Mẹ, đức tin sinh hạnh phúc và nguồn bảo đảm
cho lời hứa được thể hiện “Phúc cho Bà vì đã tin lời Chúa phán
cùng bà sẽ được thực hiện (Lc 1,45). Và cũng với đức tin khi Mẹ
đóng vai chính làm nhân chứng đặc biệt của việc Nhập thể, Mẹ hồi
tưởng những biến cố xảy ra lúc Chúa còn bé và để hết tâm suy
nghỉ (Lc 2,19.51).” (MC 17).
Đọc lại Phúc âm chúng ta có cảm tưởng như
Mẹ luôn thinh lặng để lắng nghe tiếng Chúa :
- Qua Kinh thánh : Chắc hẳn Mẹ luôn đọc và
suy gẫn lời Chúa trong các sách Cựu ước trong thời gian sống tại
đền thờ cũng như trong suốt cả cuộc đời, vì thế mỗi lời Mẹ nói
đều phảng phất tinh thần của Kinh thánh.
- Qua các biến cố xảy đến trong cuộc sống
như : biến cố truyền tin, thăm viếng, dâng Chúa trong đền thờ,
tiệc cưới Cana, dưới chân cây thập giá….
- Cũng như qua những sứ giả được Chúa sai
đến như : sứ thần Gabriel, các mục đồng, ba nhà đạo sĩ phương
đông, ông già Simêon…
Thái độ thinh lặng và lắng nghe tiếng Chúa
cũng là một thái độ cần thiết cho cuộc sống gia đình Kitô hữu.
Trước
hết, chúng ta cần phải lắng nghe tiếng Chúa qua Kinh thánh.
Trong đời
sống, chúng ta thấy có những cuốn sách được coi như là tiêu
chuẩn hướng dẫn cho hành động. Chẳng hạn Tứ thư, Ngũ kinh của
Khổng Tử. Ngày xưa các cụ đồ hễ mở miệng ra là nói : Khổng viết…
Đức Thánh dạy rằng... Các cậu học trò, từ khi nhập môn đã ê a :
Nhân chi sơ tính bản thiện. Lớn lên, khi bước xuống cuộc đời họ
đều giải quyết mọi vấn đề theo tinh thần Khổng Mạnh : nào nhập
thế, nào tri thiên mệnh, nào xuất thế…
Đối với
người Kitô hữu, chúng ta cũng có một cuốn sách gối đầu giường,
qua đó tìm thấy những khuôn vàng thước ngọc, những tiêu chuẩn
hướng dẫn đời sống của chúng ta. Vậy cuốn sách ấy là gì ? Tôi
xin thưa : Đó là cuốn Kinh Thánh, một cuốn sách bởi trời, một
cuốn sách của Thiên Chúa. Đúng thế, Kinh Thánh là cuốn sách bởi
trời, nói cách khác là chúc thư của Thiên Chúa, qua đó Ngài hé
mở cho chúng ta những chân lý siêu nhiên, Ngài tỏ lộ cho chúng
ta những tiêu chuẩn của đời sống luân lý và đạo đức.
Thế nhưng,
cho tới ngày hôm nay, Kinh thánh vốn còn rất xa lạ đối với nhiều
gia đình Việt Nam. Vì thế, đức tin của họ có phần ấu trĩ, nông
cạn, hời hợt và nặng phần tình cảm. Vậy đối với lời Chúa, chúng
ta phải có thái độ nào ? Xin thưa, chúng ta phải lắng nghe, suy
gẫm và thực thi lời Chúa trong cuộc sống của mình như Mẹ Maria
ngày xưa.
Trong một
cuộc hội thảo về Kinh thánh, người ta đã đưa ra những ưu điểm và
khuyết điểm của những bản dịch, giữa lúc ấy, một chàng sinh viên
giơ tay xin phát biểu :
- Tôi xin
góp một bản.
Mọi người
đều ngơ ngác nhìn, vì anh ta không phải một chuyên viên. Thế
nhưng, anh ta đã mỉm cười và trả lời :
-Bản dịch
Kinh Thánh tuyệt hảo nhất mà hiện giờ tôi đang có, chính là mẹ
tôi. Vì qua đời sống của bà, tôi thấy được từng câu, từng chữ
của Kinh Thánh.
Điều quan trọng là mỗi người trong gia đình
cần phải lắng nghe, suy gẫm và tìm lấy trong Kinh thánh những
tiêu chuẩn hướng dẫn cho cuộc sống của mình.
Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô cũng nhắn nhủ :
- “Ngoài kinh nguyện sáng tối, các gia đình
cũng được tha thiết khuyên bảo và cũng là điều phù hợp với những
chỉ dẫn của các nghị phụ Thượng Hội Đồng Giám Mục, nên đọc và
suy niệm lời Chúa…” (CF 61).
Tiếp đến, chúng ta cần phải lắng nghe
tiếng Chúa qua những biến cố xảy đến.
Thiên Chúa không phải chỉ nói với chúng ta
qua lời Ngài trong Kinh thánh, mà còn nói với chúng ta qua các
biến cố xảy ra trên thế giới cũng như trong cuộc sống của mỗi
người, chính vì thế, Công đồng muốn chúng ta :
- “Phải tìm hiểu tường tận những dấu chỉ
thời đại và giải thích dưới ánh sáng Phúc âm.” (GS 4).
Bởi vậy, đứng trước mỗi biến cố, chúng ta
phải tự hỏi :
- Chúa muốn nói gì với tôi, Chúa muốn tôi
phải làm gì ?
Nhờ đó chúng ta sẽ nhận ra thánh ý Chúa và
cố gắng chu toàn, để luôn bước đi trên đường nẻo của Chúa.
Sau cùng, chúng ta cần phải lắng nghe
tiếng Chúa qua những người chung quanh, nhất là những người cùng
sống với chúng ta dưới mái ấm gia đình.
Một trong những nguyên nhân gây nên bất hòa
và đổ vỡ trong gia đình, đó là chúng ta không biết lắng nghe. Ai
cũng muốn cho mình là đúng và bắt người khác phải chấp nhận
những phán quyết vừa độc tài, vừa độc đoán của mình theo kiểu
“cả vú lấp miệng em”. Vì thế, tức nước vỡ bờ, sự chịu đựng nào
cũng có giới hạn của nó, tới một lúc nào đó “chiến tranh” sẽ
bùng nổ và hủy hoại bầu khí yêu thương trong gia đình.
Bởi vậy, cần phải biết bình tĩnh lắng nghe,
ghi nhận những ý kiến của người khác, rồi sau đó tìm phương cách
hòa giải, để gia đình lúc nào cũng được hòa thuận và êm ấm.
2- MẸ LÀ TRINH NỮ
NGUYỆN CẦU, “VIRGO ORANS”
Tông huấn viết :
- “Khi thăm viếng bà Elisabeth, Mẹ đã tỏ
lòng tri ân Thiên Chúa, tác phẩm “Magnifcat” diễn tả sự hạ mình,
tin cậy của Mẹ (Lc 1,46-55), lời kinh hay nhất của Mẹ, tiếng hát
của thời đại mong chờ Đấng Cứu Thế bao gồm sự phấn khởi của
Israel…Trinh nữ nguyện cầu là hình ảnh của Mẹ ở tiệc cưới Cana,
trình bày cho Chúa Con sự kiện nhà thiếu rượu, tế nhị van xin
Ngài, Mẹ đã nhận được kết quả của trật tự ân sủng, nghĩa là :
Chúa Giêsu làm phép lạ đầu tiên để các môn đệ vững tin nơi Ngài.
Đoạn cuối viết về Mẹ, ta thấy Mẹ cầu nguyện. Các Tông đồ hợp ý
chuyên cần cầu nguyện với các anh em và vài phụ nữ, trong đó có
Maria, Mẹ Chúa Giêsu (TĐCV 1,14)…” (MC 18).
Qua Tin mừng, chúng ta nhận thấy dường như
Mẹ sống tinh thần cầu nguyện ở mọi nơi và trong mọi lúc. Thật
vậy, Mẹï luôn kết hiệp với Chúa qua từng chặng đường, qua từng
biến cố của cuộc đời và dâng lên Ngài những tâm tình cầu nguyện
của mình.
Sống tinh thần cầu nguyện cũng là điều cần
thiết cho mỗi gia đình.
Thực vậy, Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II đã
xác quyết như sau :
- “Kinh nguyện gia đình có những đặc tính
riêng. Đó là kinh nguyện chung : vợ chồng cùng cầu nguyện với
nhau, cha mẹ và con cái cùng cầu nguyện với nhau. Sự hiệp thông
trong kinh nguyện vừa là hoa quả vừa là đòi hỏi của sự hiệp
thông mà các bí tích Rửa tội và Hôn phối đã đem lại. Các gia
đình Kitô hữu có thể áp dụng được cho mình một cách đạc biệt
những lời hứa hẹn của Chúa Giêsu : Quả thật Ta bảo các con : nếu
dưới đất hai người trong các con đồng thanh xin về bất cứ việc
gì, thì Cha Ta, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho. Vì đâu có hai,
ba người họp lại nhân danh Ta, thì có Ta ở đó, giữa họ.” (CF
58).
Hơn thế nữa, kinh nguyện trong gia đình còn
là những lời kinh nguyện xuất phát từ lòng cuộc đời :
- “Kinh nguyện đang có nội dung độc đáo là
chính cuộc sống gia đình. Qua những cảnh huống khác nhau, cuộc
sống này được diễn giải như một ơn gọi từ Thiên Chúa mà đến và
được thực hiện như một câu trả lời hiếu thảo cho tiếng gọi ấy :
vui mừng và cực nhọc, hy vọng và u buồn, ngày kinh và ngày kỷ
niệm chu niên, kỷ niệm ngày cưới của cha mẹ, những chuyến xa nhà
trở về, những lựa chọn quan trọng và quyết liệt, cái chết của
người thân yêu… đều là những dấu hiệu ưu ái của Thiên Chúa trong
cuộc sống gia đình; những biến cố ấy cũng phải trở thành những
lúc thuận tiện cho lời tạ ơn, khẩn nguyện, cho sự tin tưởng phó
thác của gia đình trong bàn tay Cha chung trên trời.” (CF 59).
Nhờ sự cầu nguyện, chúng ta sẽ kín múc được
nguồn sinh lực giúp chúng ta chu toàn được những bổn phận của
mình :
- “Không bao giờ được quên rằng kinh nguyện
là phần thiết yếu của đời sống Kitô hữu…Kinh nguyện không hề
biểu hiện một sự chạy trốn các trách nhiệm thường ngày, nhưng
chính là sức đẩy mãnh liệt đưa gia đình Kitô hữu đến chỗ đảm
nhận trách việc trở nên tế bào đầu tiên và căn bản của xã hội
nhân loại.” (CF 62).
Để sống tinh thần một cách cụ thể, thiết
tưởng mỗi gia đình nên tổ chức giờ kinh tối của mình sao cho
sống động, bởi vì như Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận đã viết :
- Đó là những giây phút linh thiêng, trong
đó cha mẹ, vợ chồng, con cái cùng quây quần bên nhau và cùng
nhau quây quần bên Chúa, sẽ là một liều thuốc thần diệu, hàn gắn
những đổ vỡ có thể xảy ra.
Trong những giây phút linh thiêng ấy, như
Mẹ với lời kinh Magnificat, gia đình chúng ta hãy cảm tạ và ngợi
khen Chúa. Như Mẹ với lời van xin tại tiệc cưới Cana, chúng ta
hãy cầu xin Chúa ban những ơn lành hồn xác xuống cho những người
thân yêu…Và cũng như Mẹ, hãy sống tinh thần cầu nguyện trong
từng biến cố vui buồn xảy đến cho gia đình chúng ta.
3- MẸ LÀ TRINH NỮ SINH
CON, “VIRGO PARIENS”
Tông huấn viết :
- “Vì tin và vâng phucï, Mẹ đã hạ sinh Con
Chúa Cha, bởi phép Chúa Thánh Thần.” (MC 19).
Nhìn vào Mẹ, chúng ta tìm thấy một mẫu
gương lý tưởng cho người Kitô hữu. Vậy người Kitô hữu là gì nếu
không phải là người có Đức Kitô trong tâm hồn và đem Đức Kitô
đến cho những người chung quanh. Với lời xin vâng trong hoạt
cảnh truyền tin, Mẹ là người đầu tiên được diễm phúc cưu mang
Chúa trong cõi lòng . Mẹ là người đầu tiên thực sự có Chúa trong
tâm hồn của mình. Sau đó, bằng hành động thăm viếng, Mẹ đã đem
Chúa đến cho gia đình bà Elisabeth, cũng như tại Bêlem, Mẹ đã
sinh Chúa cho nhân loại.
Là người Kitô hữu, chúng ta cũng phải có
Chúa trong tâm hồn bằng một cuộc sống đạo đức và thánh thiện, ra
sức khử trừ tội lỗi. Đồng thời cũng phải đem Chúa đến cho những
người chung quanh bằng một cuộc sống ngập tràn tình bác ái yêu
thương.
Riêng trong phạm vi gia đình, chúng ta hãy
noi gương bắt chước Mẹ, là Trinh Nữ sinh con “Virgo Pariens”.
Như chúng ta cũng đã biết : một trong hai mục đích chính của hôn
nhân đó là sinh sản con cái như lời Chúa đã phán :
- “Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy
mặt đất, và thống trị mặt đất.” (St 1,28).
Ngày nay, với não trạng sợ hãi về sự bùng
nổ dân số, với nỗi âu lo về một tương lai bấp bênh, người ta
không muốn sinh con, thậm chí còn coi con cái như một gánh nặng
cần phải loại trừ. Vì thế không lạ gì khi thấy con số những
trường hợp phá thai tại Việt Nam không ngừng gia tăng, phỏng
đoán khoảng một triệu rưỡi mỗi năm!
Trong khi đó, tình mẫu tử nhân loại của Mẹ
đạt đến thành tựu vĩ đại nhất khi cưu mang và sinh hạ Chúa
Giêsu. Từ giây phút được truyền tin, Mẹ đã là chén thánh sống
động chứa đựng Con Thiên Chúa làm người. Theo truyền thống dân
tộc mình, Mẹ tin nhận chính Thiên Chúa là Đấng ban sự sống và
chăm sóc sự phát triển : “Cũng như ngươi không biết hướng đi
của gió hay các sự bí nhiệm nơi một bà mẹ mang thai, ngươi càng
không biết việc của Thiên Chúa, Đấng làm nên mọi sự.” (Gv 11,5,
Thiên Chúa 139,13, 2Mcb 7,22).
Thái độ tôn trọng sự sống con người ngay từ
trong trứng nước đi liền với sự hiểu biết và sử dụng tình dục
đứng đắn. Các tín hữu, theo gương Mẹ, sẽ coi hành vi phá thai
cũng đáng ghê tởm như hành vi tàn sát các hài nhi vô tội trong
Phúc âm thánh Matthêu. Đồng thời, họ sẽ nhận ra lời bà Elisabeth
nói với Mẹ : Người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc (Lc
1,43), vẫn luôn xác thực đối với từng bào thai. (Từ Điển Đức
Mẹ).
Tuy nhiên, là cha mẹ, chúng ta không phải
chỉ sinh ra con cái trong đời sống thể xác, mà còn phải sinh ra
con cái trong đời sống ơn sủng, trong đời sống thiêng liêng, đời
sống người con cái Chúa, nhờ các bí tích của Giáo hội, cũng như
nhờ việc giáo dục của mình như Công đồng trong sắc lệnh
“Gravissimum Educationis” về giáo dục Kitô giáo đã viết :
- “Vì là người truyền sự sống cho con cái,
nên cha mẹ có bổn phận hết sức quan trọng là giáo dục chúng và
vì thế họ được coi là những nhà giáo dục đầu tiên và chính yếu
của chúng. Vai trò giáo dục này quan trọng đến nỗi nếu thiếu sót
thì khó lòng bổ khuyết được…Nhưng đặc biệt trong gia đình Kitô
giáo, vì đã lãnh nhận ân sủng cũng như bổn phận của bí tích Hôn
phối, nên cha mẹ phải dạy dỗ con cái ngay từ nhỏ, để chúng nhận
biết và kính thờ Thiên Chúa cùng yêu mến tha nhân theo đức tin
chúng đã lãnh nhận khi chịu phép Rửa tội…” (GE 3)
Và phương thế hữu hiệu nhất để giáo dục con
cái chính là đời sống gương mẫu của cha mẹ, bởi vì :
- Lời nói như gió lung lay,
Việc làm như tay lôi kéo.
Đức Thánh Cha cũng đã khẳng định :
- “Gương sống cụ thể, chứng tá sống động
của cha mẹ, là yếu tố căn bản và không thể thay thế được trong
việc giáo dục…” (CF 60).
Kinh nghiệm cho thấy chính đời sống gương
mẫu của cha mẹ mới là một bài giảng hùng hồn nhất, có sức lôi
cuốn con cái đến cùng Chúa.
MẸ LÀ TRINH NỮ HIẾN
DÂNG, “VIRGO OFFERANS”
Tông huấn viết :
- “Qua việc dâng Chúa Giêsu vào đền thánh
(Lc 2,23-35), Giáo hội do Thánh Linh dẫn dắt, đã gặp mầu nhiệm
cứu rỗi liên hệ đến lịch sử cứu rỗi qua việc Mẹ tuân giữ luật
dâng con trai đầu lòng (Xã hội 13,11-16) và nghi thức thanh tẩy
cho người mẹ (Lv 12,6-8)...Giáo hội chứng kiến ơn cứu chuộc cho
mọi người được công bố, khi cụ Simêon kính chào ánh sáng để soi
muôn dân và vinh quang cho Israel ở nơi con trẻ (Lc 2,32)….Sự
hợp tác giữa Mẹ và Con trong công cuộc cứu rỗi đã đạt tới tuyệt
đỉnh trên đồi Canvê, nơi Đức Kitô đã tự hiến tế như của lễ tinh
tuyền cho Thiên Chúa, và cũng tại đây Mẹ đứng kề Thánh giá đau
đớn dữ dằn với Con Một, lấy tình mẹ mà hợp tác sự hiến tế của
Con, yêu thương chấp nhận sự hiến tế hy lễ được hạ sinh do thân
xác Mẹ và Mẹ cũng hiến dâng chính mình cho Chúa Cha hằng hữu.”
(MC 20).
Dựa vào Tin mừng cũng nhau dựa vào Truyền
thống, chúng ta thấy Mẹ đã sống tinh thần hiến dâng qua nhiều
biến cố cuộc đời. Thực vậy, theo Truyền thống, thì năm lên ba,
Mẹ đã được dâng hiến vào đền thờ và ở lại đó một thời gian để
học hỏi Kinh thánh và cũng chính trong thời gian ấy, Mẹ đã khấn
giữ mình đồng trinh, một nhân đức rất ít người bấy giờ tuân
giữ.
Tâm tình dâng hiến này được biểu lộ một
cách rõ rệt nhất qua lời xin vâng của Mẹ trong hoạt cảnh truyền
tin. Mẹ đã dâng hiến cõi lòng mình cho Ngôi Lời nhập thể. Mẹ đã
cộng tác với Thiên Chúa để cứu độ mình và cứu độ nhân loại. Đây
là một hành vi dâng hiến tuyệt vời, đầy đủ và trọn vẹn nhất, Vì
thế chúng ta cũng có thể gọi Mẹ là Trinh Nữ xin vâng, “Virgo
Obediens”. Lời xin vâng này đã đưa Mẹ vào một khúc quanh mới và
chi phối toàn bộ cuộc đời Mẹ, để rồi ở mọi nơi và trong mọi lúc,
Mẹ đều xin vâng hầu chu toàn thánh ý Thiên Chúa : Xin vâng trước
sự khó nghèo của máng cỏ Bêlem, xin vâng trong cảnh vất vưởng
nơi đất khách quê người bên Ai cập, xin vâng với cuộc sống âm
thầm và lam lũ tại xưởng thợ Nagiarét…
Tin mừng cũng kể lại : Khi đã đến ngày lễ
thanh tẩy, Mẹ cùng với Thánh Giu-se đem hài nhi Giêsu lên
Giê-ru-sa-lem, để tiến dâng cho Chúa, như đã chép trong Luật
Chúa rằng : "Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh,
dành cho Chúa", và cũng để dâng của lễ theo Luật Chúa truyền, là
một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non…(Lc 2:22-28). Và cũng
tại đây, Mẹ đã đón nhận lời tiên báo của ông già Simêon về một
tương lai không mấy sáng sủa đang chờ đón Mẹ.
Thế nhưng, cao điểm của tâm tình hiến dâng
cũng như của lời xin vâng, đó là khi Mẹ đứng dưới chân thập giá,
kết hiệp những khổ đau của mình với những đau khổ của Chúa
Giêsu, đề lập nên kho tàng ơn cứu độ cho nhân loại và chúng ta
cũng có thể nói được rằng : Mẹ đã cưu mang chúng ta bằng lời xin
vâng trong hoạt cảnh truyền tin và Mẹ đã sinh chúng ta ra trong
những đau khổ của thập giá.
Mẹ là Trinh nữ hiến dâng, bởi vì Mẹ đã hoàn
toàn để cho Chúa được hoạt động nơi bản thân và trong cuộc đời
của Mẹ.
Với chúng ta cũng vậy. Đau khổ dường như là
một cái gì gắn liền với thân phận con người :
- Thoạt sinh ra thì đà khóc chóe,
Đời có vui sao chẳng cười khì.
Giáo lý nhà Phật đã diễn tả :
- Đời là bể khổ mà mỗi người chúng ta là
như một cánh bèo trôi dạt trên đó.
Và trong kinh Lạy Nữ Vương chúng ta vốn
thường đọc :
- Chúng con ở nơi khóc lóc than thở…
Hay như một câu danh ngôn cũng đã nói :
- Bông hồng nào mà chẳng có gai, cuộc đời
nào mà chẳng có những đắng cay chua xót của nó.
Và cuộc sống gia đình cũng không thoát khỏi
cái định luật chung ấy. Làm sao chúng ta có thể kể hết những khổ
đau trong nếp sống lứa đôi, xuất phát từ việc chúng ta chu toàn
bổn phận làm vợ làm chồng, cũng như bổn phận làm cha làm mẹ.
Thật đúng như lời Công đồng đã xác quyết :
- “Để có thể kiên trì chu toàn nghĩa vụ ơn
gọi làm người Kitô hữu như thế, tức là sống đời vợ chồng, cần
phải có một nhân đức phi thường. Chính vì thế mà vợ chồng được
ơn Chúa củng cố để sống thánh thiện sẽ ân cần nuôi dưỡng và cầu
xin cho được một tình yêu kiên vững, một tâm hồn đại lượng và
tinh thần hy sinh”. (GS 49).
Vì thế, chúng ta cần phải noi gương Mẹ sống
tâm tình hiến dâng bằng cách :
* Cộng tác với Chúa trong công cuộc cứu
rỗi bản thân và những người thân yêu.
Thánh Augustinô đã nói :
- Khi tạo dựng nên chúng ta, Chúa không cần
hỏi ý kiến chúng ta. Nhưng để cứu rỗi chúng ta, Chúa cần chúng
ta ưng thuận và cộng tác với Ngài.
Sự cộng tác của chúng ta tuy nhỏ bé nhưng
lại rất cần thiết bởi vì Ngài sẽ không thể cứu rỗi chúng ta, nếu
như chúng ta không muốn. Như Mẹ, chúng ta hãy để cho Chúa hoạt
động nơi bản thân và trong cuộc đời chúng ta.
* Xin vâng theo thánh ý Chúa trong mọi
hoàn cảnh, chấp nhận những hy
sinh gian khổ của cuộc sống lứa đôi, bởi vì chính những hy sinh
gian khổ này sẽ kết thành cây thập giá đời thường Chúa muốn
chúng ta vác lấy để bước theo Ngài.
Hơn thế nữa, hãy chấp nhận vì lòng yêu mến
Chúa, bởi vì lòng yêu mến sẽ là như một cây đũa thần, biến những
hy sinh gian khổ của chúng ta trở thành những sợi chỉ vàng, dệt
thành tấm vải cuộc đời và làm cho cuộc đời chúng ta thực sự có
một giá trị to lớn trước mặt Chúa.
KẾT LUẬN
Để kết luận, tôi xin mượn lời sau đây của
Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II trong tông huấn “Consortio
Familiaris” :
- “Ước gì Đức Trinh Nữ Maria, là Mẹ Hội
Thánh, cũng nên Mẹ của “Hội Thánh tại gia”! Ước gì nhờ sự trợ
giúp từ mẫu của Mẹ, mọi gia đình Kitô hữu đều có thể thực sự trở
nên một “Hội Thánh nhỏ” trong đó mầu nhiệm của Hội Thánh Đức
Kitô được phản ảnh và sống lại! Mẹ là nữ tỳ của Chúa, ước gì Mẹ
là gương mẫu cho mọi gia đình biết khiêm tốn và quảng đại đón
nhận thánh ý của Thiên Chúa! Mẹ là Người Mẹ đau khổ dưới chân
thập giá, ước gì Mẹ cũng ở đó để xoa dịu những đau khổ và lau
sạch nước mắt của những ai đang ưu phiền vì những khó khăn gia
đình họ đang gặp phải!” (CF 86).
Lạy Nữ vương gia đình,
Xin cầu cho chúng con.
GSVN |
VỀ MỤC LỤC |
|
|
Lm Giuse Lê Công Đức
chuyển ngữ từ bản tiếng Anh:
PRIESTHOOD IMPERILED,
BERNARD HARING, C.SS.R.
Mới đây, tôi tình cờ bắt gặp một bài viết
với cái tựa đề giựt gân: ĐỨC GIÊSU ĐÂU CÓ CẦN CÁC LINH MỤC! Là
một linh mục cao niên, đã bỏ ra gần cả đời mình để giúp người ta
xây dựng một tinh thần an hòa, vui tươi và bản lĩnh, song phải
thú nhận rằng thoạt đầu tôi đã khó chịu với cái tiêu đề ấy. Thế
nhưng, khi lần đọc qua bài viết, tôi khám phá rằng tác giả của
nó, một nhà thần học Công Giáo, không hề có ý định chống đối
chức linh mục. Đúng hơn, bằng những luận cứ chặt chẽ, ông thách
đố bạn đọc suy ngẫm một câu hỏi thâm trầm hơn, đó là: “Đức Giêsu
đã thực sự có ý định gì khi Ngài
chọn và sai các Tông Đồ và các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng cho
mọi người?”
Được gợi hứng từ bài viết đó, tôi đã đặt
cho một số người Công Giáo tích cực câu hỏi rằng Đức Giêsu thực
sự muốn hay không muốn chức linh mục. Họ trả lời câu hỏi của tôi
bằng cách đặt ra câu hỏi của chính họ: “Hình ảnh nào về chức
linh mục, theo cha, phù hợp với ý định của Đức Giêsu?” Trong khi
câu hỏi của họ ít nhất biểu lộ một cách mặc nhiên niềm tin rằng
Đức Giêsu đã có một cái nhìn về chức linh mục, thì họ đẩy lại
cho tôi công việc phác họa cái nhìn đó.
Nhằm yêu cầu những con người trưởng thành
ấy cùng tham gia vào cuộc suy tư này, tôi đặt lại câu hỏi nguyên
thủy của mình một cách cụ thể hơn và hỏi họ: “Các bạn coi ai là
mẫu linh mục lý tưởng mà Đức Giêsu đã phác họa?” Người thứ nhất
trả lời: “Thưa cha, con nghĩ đến những người như Giám mục
Jacques Gaillot, một vị tông đồ trung thực, thẳng thắn của hòa
bình, một con người hoàn toàn dấn thân cho những kẻ bị loại ra
bên lề cuộc sống.”
Mới đây, sau một bài nói chuyện với một
nhóm vài trăm nhà hoạt động cho hòa bình, tôi thẳng thắn tuyên
bố rằng một Kitôhữu, nhất là một linh mục, nếu không tỏa ra tinh
thần hòa bình và không giúp thăng tiến hòa bình, nếu không cổ võ
cho con đường phi bạo lực và cho một nền công lý phổ cập, thì
Kitôhữu ấy chẳng có giá trị gì. Lập tức, từ trong thính giả có ý
kiến: “Vậy phải nghĩ sao về việc cách chức Giám mục Gaillot, vị
giám mục duy nhất ở Pháp nêu rõ lập trường chống vũ khí hạt nhân
và kiên quyết đứng về phía những người tội lỗi và những kẻ bị
khinh thường?” Hơi ngập ngừng, tôi nói: “Dường như một Kitôhữu,
hoàn toàn dấn thân cho tinh thần phi bạo lực theo Tin Mừng,
đương nhiên sẽ gặp rủi ro.” Tôi tin rằng đó là một rủi ro cùng
loại với rủi ro của các ngôn sứ thời xưa, nhất là của Đức Giêsu,
vị Ngôn Sứ và Người Mẫu của mọi thời đại.
Bạn đọc thân mến, vì thế, tôi mời bạn cùng
bước vào cuộc tìm hiểu này để nhận hiểu sâu xa hơn về điều Đức
Giêsu nhắm đến khi Ngài kêu gọi những kẻ tin Ngài thể hiện sự
sống Phục Sinh của Ngài và loan báo chiến thắng cuối cùng của
hòa bình trong và xuyên qua cuộc Phục Sinh ấy. Trong quá trình
tìm hiểu, chúng ta sẽ tham chiếu đến Thánh Kinh và lịch sử – bởi
vì Đức Giêsu, Đấng đã có, đang có và sẽ đến, dạy chúng ta trong
nhãn giới của toàn lịch sử cứu độ.
Thật vậy, một lý do chính để khảo sát Thánh
Kinh - (ngoài công việc rất quan trọng là vãn hồi ý nghĩa nguyên
thủy trong những bối cảnh lịch sử khác nhau của nó) - là nhằm để
khám phá theo một khoa chú giải mới những gì mà Tin Mừng muốn
nói hôm nay, và những nhận hiểu này có thể ảnh hưởng như thế nào
đến ý nghĩa của sứ vụ linh mục hôm nay và ngày mai. Như vậy,
khoa chú giải này đòi hỏi chúng ta phải nhận hiểu và vận dụng
các dấu chỉ của thời đại như một phần cốt yếu của cuộc thảo
luận, nếu chúng ta muốn biện phân đúng đắn loại chức linh mục
nào mà Đức Giêsu đã hình dung. Điều này đặc biệt quan trọng,
vì với chủ điểm “linh mục”, chúng ta hầu như không tìm thấy gì
liên quan trong Kinh Thánh Kitô giáo – chính bởi vì từ ngữ này
chưa tồn tại vào thời mà Kinh Thánh được viết ra hay được sưu
tập. Cuối cùng, điều quan trọng không phải là chính bản thân hạn
từ chuyên biệt ấy mà đúng hơn là hiện tượng chức linh mục, theo
một ý nghĩa chuyên biệt Kitô giáo, được ghi nhận trong lịch sử
và qui hướng về cuộc đời và sứ vụ của chính Đức Giêsu.
(còn tiếp) |
VỀ MỤC LỤC |
|
XỨC DẦU THÁNH |
Đức Cha Giuse yêu cầu tôi giảng thánh
lễ hôm nay, ngày 30/4/2007, vì lễ hôm nay là kỷ niệm 32 năm tôi thụ
phong giám mục.
Tôi xin vâng. Nhưng những gì tôi nói
trong thánh lễ này sẽ là bài chia sẻ hơn là bài giảng. Nội dung chia
sẻ gồm 3 phần vắn tắt:
1- Ấn tượng sâu đậm nhất của tôi
trong lễ thụ phong giám mục.
2- Cảm nghiệm sâu sắc nhất của tôi
trong suốt đời giám mục.
3- Thao thức sâu lắng nhất của tôi
trong sứ mạng giám mục.
Trước hết về ấn tượng sâu đậm nhất
tôi nhận được trong lễ thụ phong giám mục
Ấn tượng
Ấn tượng đó xảy ra khi được Đức Cha
Micae xức dầu thánh cho tôi.
Lúc đó, tôi nhớ đến lời Kinh Thánh
xưa: "Thánh Thần Chúa ngự trên tôi. Người đã xức dầu cho tôi" (Lc
4,18).
Theo các nhà chú giải Kinh Thánh, thì
dầu thánh nói đây ám chỉ một ơn riêng làm toả hương thơm tình yêu
Chúa.
Lúc ấy sự hiểu biết đó chỉ thoáng qua
đầu óc tôi, nhưng đủ gây trong tôi ấn tượng này: Tôi được sai vào
một hoàn cảnh rất mới, rất khó, để toả hương thơm tình yêu Chúa.
Tôi biết sứ mạng thiêng liêng đó vượt
quá sức tôi, vì tôi quá yếu đuối, nên tôi phó thác tương lai tôi cho
Chúa. Phó thác đơn sơ, phó thác tuyệt đối. Phó thác không có nghĩa
là sẽ không làm gì, nhưng sẽ là cố gắng hết sức mình để đón nhận ơn
Chúa.
Đón nhận bằng cầu nguyện, bằng tỉnh
thức lắng nghe những tín hiệu trong các diễn biến lịch sử, bằng sự
đồng cảm với Hội Thánh và Quê Hương. Khổ cái khổ của địa phận, đau
cái đau của đồng bào, lo cái lo của Đất Nước.
Trong suốt đời giám mục, tôi ý thức
sâu sắc mình được xức dầu để làm chứng cho "điều răn mới" (Ga
13,34). Cuộc sống làm chứng đã cho tôi nhiều cảm nghiệm. Những
cảm nghiệm đó là thế nào?
2/ Cảm nghiệm
Cảm nghiệm đầu tiên của tôi là
tôi phải luôn chiến đấu với chính mình, để vâng theo ý Chúa. Nếu
cuộc chiến đó có một chiến
lược, thì chiến lược đó đã được diễn tả trong kinh Hoà Bình của
thánh Phanxicô.
Một đoạn nhỏ sau đây có thể cho thấy
hình ảnh chiến lược đó: "Lạy Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ
bình an của Chúa. Để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha
vào nơi lăng nhục, đem an hoà vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào
chốn lỗi lầm".
Tôi vui mừng nhận thấy chiến lược
kinh Hoà bình đã được mọi thành phần của giáo phận thực hiện.
Khi thực hiện, chúng ta đã phải vượt
qua bao khó khăn và đau khổ. Nói chung là chúng ta cảm nghiệm thấy:
Hương thơm tình yêu Chúa được ban cho ta, khi ta biết cộng tác với
chính Đức Kitô, với trái tim của Người, với thánh giá của Người,
với lễ tế chính bản thân Người.
Suốt những năm qua, chúng ta đã sống
như thế với Người, đã làm chứng như thế cho Người, đã rao giảng như
thế về Người.
Hiệu quả được chúng ta cảm nghiệm là
âm thầm, nhưng lớn lao, cao quý. Bởi vì đã có vô số sự trở về đàng
lành. Xã hội đó đây trở về. Nhiều đồng bào trở về. Chính chúng ta là
những người tội lỗi được Chúa đưa trở về. Do đó, điều tôi cảm
nghiệm sâu sắc nhất, đó là Thiên Chúa đúng là tình yêu thương xót,
rất gần gũi và giản dị.
Nhưng chúng ta không dừng lại ở những
cảm nghiệm đó. Bởi vì chúng tôi cũng như anh chị em vẫn phải lên
đường. Và đây chính là điều gây cho tôi nhiều thao thức.
3/ Thao thức
Xưa, Chúa Giêsu đã phán: "Hôm nay,
ngày mai, ngày mốt, Thầy phải tiếp tục đi" (Lc 13,33). Chúng ta
là môn đệ Chúa cũng tiếp tục đi. Con đường ta đi là lịch sử Đất
Nước, lịch sử Hội Thánh, lịch sử riêng ta. Những lịch sử đó có nhiều
chuyển biến và bất ngờ.
Vì thế, thao thức lớn của tôi là chia
sẻ tâm tình của Chúa Giêsu, khi Người cầu nguyện xưa trong bữa tiệc
ly: "Xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần" (Ga 17,15). Ác thần là
những động lực của xác thịt, thế gian và quỷ dữ tìm cách đẩy con
người xuống hoả ngục.
Những ác thần đó cũng mang những thứ
dầu thơm của riêng chúng. Thường thì những dầu thơm đó, dù có chút
mùi đạo đức, nhưng vẫn huỷ hoại lương tâm bằng nhiều nham hiểm.
Vì thế, nếu nghĩ rằng đời sống đạo
hôm nay là an toàn, không bị những ác thần mưu mô phá hoại, thì quả
là quá ngây thơ. Điều đó càng làm tôi thêm thao thức, nhất là tôi
linh cảm, những gì Đức Mẹ cảnh báo ở Fatima sẽ xảy ra rất ghê gớm,
nếu nhân loại không trở về đàng lành.
Để kết bài chia sẻ này, tôi xin nói
với anh chị em một niềm vui âm thầm của tôi. Đó là tôi thấy "Đức
Mẹ Thăm viếng" (x. Lc 1,39-56) đã đến giáo phận ta từ lâu rồi. Mẹ đã
ở lại với chúng ta, đã luôn che chở chúng ta là những con cái
yếu hèn bé nhỏ của Mẹ. Biết bao người đã nhận được dầu thiêng "Đức
Mẹ Thăm viếng" ban cho. Dầu thiêng đó đã giúp chúng ta đổi mới cuộc
đời, chữa lành nhiều vết thương, để ta an tâm đi về với Thiên Chúa
giàu lòng thương xót.
Cùng với "Đức Mẹ Thăm viếng", chúng ta khiêm tốn cảm tạ Chúa và
tuyệt đối phó thác, xin vâng ý Chúa đến muôn đời.
+ GM. GB. BÙI TUẦN
|
VỀ MỤC LỤC |
|
EM BIẾT TIN AI BÂY GIỜ ?! |
Phúc Âm Nhật Ký ngày 29.04.2007
(Ga 10:27-30)
Sau khi thoát khỏi chiến tranh lạnh kéo dài
hàng bao thập niên, nhân loại tưởng sẽ bước vào một thế kỷ mới đầy
hạnh phúc. Nhưng rõ ràng thế giới không bao giờ hòa bình. Cuộc
xung đột ý thức hệ chưa chấm dứt, thì cuộc đối đầu về tôn giáo diễn
ra ác liệt. Tình hình thế giới hôm nay khó tìm một giải đáp. Con
người tự hào về sự hiểu biết quá nhiều và một chiều về tôn giáo của
mình. Niềm tin quá mạnh đến độ cuồng tín đã đẩy cả xã hội và con
người vào lò lửa chiến tranh như tại Trung Ðông hiện nay.
Ðang khác, nhân loại đang trải qua cuộc khủng
hoảng về gia đình, xã hội, luân lý, đạo đức v.v. Con người đang
mất hướng chỉ vì quá chú tâm vào những phương tiện sống hơn là chính
sự sống. Nguyên do vì càng ngày con người càng ít biết về tôn
giáo, nguồn cung cấp lẽ sống. Theo thống kê, ngay tại nước nổi tiếng
Công giáo một thời như Ái Nhĩ Lan, có tới 95 phần trăm người lớn
không hề biết về Ðiều Răn Thứ Nhất trong Mười Ðiều Răn.[1]
Kiến thức một chiều hay không có kiến thức về tôn giáo đều dẫn nhân
loại đến chỗ chết. Nhiều người như bị lạc hướng hay bị xé rách giữa
những giằng co của bao chủ thuyết và niềm tin.
“Em biết tin ai bây giờ ?”
Giữa cảnh hoang mang đó, Ðức Giêsu lên tiếng
mạnh mẽ : “Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục tử nhân lành hy sinh
mạng sống mình cho đoàn chiên.” (Ga 10:11) Thực tế, Chúa có xứng
đáng với danh hiệu đó không ? Người có đủ khả năng dẫn con người ra
khỏi vòng luẩn quẩn của kiếp người không ?
Ngoài Ðức Kitô, con người không thể kiếm được
con đường cứu thoát nào khác. Thực vậy, muốn đạt đến ơn cứu độ, con
người cần phải biết Thiên Chúa và Thánh ý Người như đã mạc khải
trong thánh sử. Bởi đấy, trước hết, Chúa Giêsu phải bày tỏ cụ thể
thánh ý Thiên Chúa, tức những huấn chỉ và lời hứa, cho con người (x.
Ga 17:3; Dt 1:1-5). Chỉ mình Người mới có thể biết và làm cho người
khác biết thánh ý huyền nhiệm của Thiên Chúa Cha vĩnh hằng (x. Mt
1:27). Ðức Kitô đầy quyền năng trong lời giảng dạy. Người cho nhân
loại biết muốn được cứu rỗi, cần phải tin và nhận biết Người là Ngôi
Lời Thiên Chúa.
Ngôi Lời đến trần gian để rao giảng Nước Thiên
Chúa và kêu gọi mọi người sám hối. Không sám hối, không thể nhận
biết Người là vua. Người sinh xuống trần gian để đem sức mạnh sự
thật giải thoát nhân loại (x. Ga 18:37). Như thế, Người xứng đáng
là một Mục Tử đầy uy quyền, khôn ngoan và quả cảm. Bởi thế, trước
cuộc đời đầy thách đố và hiểm nguy, Người không tìm an nhàn thư thái
hay yên ổn cho bản thân. Người cũng không hy sinh đoàn chiên để đạt
mục tiêu riêng. Trái lại, Người sẵn sàng liều mạng để cứu sống đoàn
chiên. Người không thể ngồi yên khoanh tay nhìn sói dữ cắn xé đoàn
chiên. Sự hy sinh bất vụ lợi đó là tiêu chuẩn đánh giá người mục tử
đích thực. Người không thể sống theo nước đôi. Vừa muốn danh dự và
uy quyền của một mục tử vừa muốn toàn mạng, chứ không phải đối đầu
với đàn sói, làm sao có thể có một thứ mục tử dễ dàng đến thế !
Không ! Người dứt khoát đem tất cả sức mạnh bảo vệ đoàn chiên, dù
phải trả bất cứ giá nào ! Chính vì thế, Người trở thành trung tâm
thu hút và sức mạnh quy tụ đoàn chiên. Tình yêu đã khiến Người hy
sinh tất cả cho hạnh phúc và sự sống đoàn chiên.
Sở dĩ dám hy sinh tất cả cho đoàn chiên, vì
Người ý thức rất rõ về trọng trách Chúa Cha giao phó đoàn chiên cho
mình. Nếu con người chẳng có một giá trị nào, tại sao Chúa Cha lại
giao phó cho Chúa Con ? Tại sao Chúa Con lại đón nhận như một tặng
phẩm quý giá hay như một bửu bối ? Người hiểu biết rất rõ về giá
trị của từng con chiên và của cả đoàn chiên : “Tôi biết chúng.” (Ga
10:27)
Sự hiểu biết đó không phải là một kiến thức khô
cứng hay một lý thuyết vô hồn. Trái lại, đó là sự hiểu biết toàn
vẹn bao hàm tình yêu và đưa đến sự hy sinh hoàn toàn.
Chỉ có Mục Tử như thế mới làm cho đoàn chiên
cảm phục và quây quần chung quanh để lắng nghe và đi theo (x. Ga
10:27) mà thôi. Không sống chết với đoàn chiên, dĩ nhiên không thể
được mến chuộng đến như thế. Mục tử không biết hy sinh đến quên
mình, đoàn chiên không thể gắn bó. Bởi đấy, khi không can đảm bảo
vệ đoàn chiên, mục tử sẽ mở đường cho chó sói cắn xé và phân tán
đoàn chiên. Vị Mục Tử tối cao luôn đi sát đoàn chiên để hướng dẫn
và chỉ bảo đoàn chiên giữa những ồn ào và nanh vuốt của bầy sói. Ðó
là lý do tại sao Chúa dám cả quyết: “Không bao giờ chúng phải diệt
vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi.” (Ga 10:28)
Làm cách nào Chúa có thể bảo đảm như thế ?
Chúa đã dùng phương thế gì? Chúa đã bảo vệ đoàn chiên “bằng lời
chân lý, bằng sức mạnh của Thiên Chúa, (và) lấy sự công chính làm vũ
khí tấn công và tự vệ.” (2 Cr 6:7) Như thế, nếu Chúa cứ im lặng,
đoàn chiên sẽ lắng nghe cái gì và làm sao đi theo Người ? Trước
những bất công là vũ khí của loài sói dữ, chỉ có Lời Chúa và sự công
chính mới đương đầu nổi. Thánh Linh chính là sức mạnh Thiên Chúa
giúp Người chiến đấu chống lại kẻ thù. Nhờ chiến đấu can trường,
không những Người có thể cứu đoàn chiên, mà còn làm cho “sự sống đời
đời” (Ga 10:28) như mạch suối chảy dào dạt trong con chiên nữa.
Càng chiến đấu chống lang sói để bảo vệ đoàn
chiên, Người càng mạc khải rõ căn tính và sứ mệnh của mình. Không
phải vô tình Người đứng ra lấy thân cản trở sói lang để cứu đoàn
chiên. Nếu không được Chúa Cha ủy thác và sai phái, Người không bao
giờ đảm lãnh trách vụ đó. Có thể nói Chúa Cha đang ôm trọn đoàn
chiên trong vòng tay của Người là Ðức Giêsu. Còn thành trì nào vững
chắc hơn ?
Trong vòng tay đầy yêu thương đó, Chúa Cha quy
tụ muôn tín hữu “thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn
ngữ.” (Kh 7:9) Chỉ đức tin mới có sức mạnh vượt qua mọi giới hạn tự
nhiên mà thôi. “Có đức tin là nhờ nghe giảng, mà nghe giảng là nghe
công bố lời Ðức Kitô.” (Rm 10:17) Chính vì thế, lời Chúa có sức
mạnh quy tụ muôn dân và lôi cuốn họ theo Người . Nếu không có Lời,
Chúa sẽ trở thành xa lạ đối với đoàn chiên và đoàn chiên cũng không
biết nhau nữa. Nói khác, chính Lời khiến đoàn chiên thuộc về Chúa
và thuộc lẫn nhau. Theo thánh Augustinô, “tâm hồn thuộc về Chúa
Giêsu Kitô, thì nghe tiếng Chúa, hiểu Lời Chúa : người lạ không nghe
thấy gì cả.”
Trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng cần nghe tiếng Chúa để biết cách
hành xử kịp thời và thích hợp.
Vậy đứng trước nhiều sự kiện của GHVN hôm nay,
chúng ta nên có thái độ nào ? Gần đây, mọi người đều thấy nhiều vị
lãnh đạo GHVN không còn giữ im lặng trước một vài trách nhiệm tế nhị
của mình nữa; Tuy nhiên, có vị lại cho biết phải đợi tới tháng
10.2007 mới có thể biết ý kiến của HÐGMVN...
Trước vụ thảm sát tại đại học Virgina Tech vừa
qua, HÐGM Nam Hàn đã không phải đợi đến kỳ họp thường niên...!
Không, ngay lập tức, ÐHY Nicholas Cheong Jin-suk, TGM thủ đô Seoul
Nam Hàn, đã lên tiếng và phân ưu với các gia đình nạn nhân. Cả Hội
Ðồng Liên Tôn Nam Hàn cũng có một thái độ tương tự.
Trong mọi trường hợp, nhất là khi đã có
những tranh luận khác biệt trong cộng đoàn, ý kiến của người lãnh
đạo luôn là cần thiết và tối quan trọng, ý kiến đó cần phải rõ ràng
minh bạch. Sự im lặng của lãnh đạo (hoặc lập trường nước đôi), có
thể sẽ là một thảm kịch cho đoàn chiên!
(...)
“Đừng hiểu chính trị
theo nghĩa hẹp ! Giáo Hội có bổn phận phải rao giảng Tin Mừng, mà
trong Tin Mừng có con người, tức là có nhân quyền, nhân phẩm, tự do
và lương tâm cùng tất cả những gì thuộc về con người. Nếu tất cả
những cái đó có một giá trị chính trị thì tôi làm chính trị, vì tôi
bênh vực con người.”[3]
ÐGH Gioan
Phaolô II đã phải lấy cả cuộc đời để chứng minh nhận định sâu sắc
đó. Nhân loại cần phải biết ơn và không bao giờ có thể quên tấm
gương cao cả và dũng đảm của vị giáo hoàng khả kính này!
Hội Ðồng Giám Mục Á Châu minh định: “Trước
hết chính trị phải trở thành một hoạt động chung, toàn thể dân Chúa
được mời gọi dấn thân vào hoạt động chính trị ấy, vì Phúc Âm đòi hỏi
Kitô hữu đưa Phúc Âm và những giá trị Nước Trời- là tình thương và
công bình- xâm nhập vào những lãnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa,
và xã hội của Châu Á. Ai tuyệt đối khước từ đòi hỏi thay đổi chính
trị ở Châu Á, ắt là một cách nào đó, cũng phủ nhận căn tính Kitô của
mình.”[4]
Vì nhiều hoàn cảnh khó khăn, không được hiểu
biết nhiều về giáo lý và giáo luật, cũng không được tiếp cận đầy đủ
thông tin, người giáo dân tại Việt nam không thể dễ dàng trở thành
những công dân có ảnh hưởng và hoạt động hữu hiệu cho chính quê
hương và giáo hội của mình. Sự thiếu hiểu biết về giáo lý nguy
hiểm hơn các hình thức vô tri khác, vì tôn giáo có một vai trò quan
trọng trong văn hóa và như là một sức mạnh trên thế giới.[5]
Nhưng mấy ai dám nhận mình thiếu hiểu biết như thế ? !
Phản ứng theo sự thiếu hiểu biết... lại càng
thiệt thòi hơn cho Giáo hội.
Lạy Chúa, xin thương đến quê hương và
GHVN chúng con! Xin cho tất cả chúng con, dù là giáo dân hay giáo
sĩ, đều có thể trở thành những mục tử can đảm bênh vực và hướng dẫn
đoàn chiên mà Chúa đã trao phó cho từng người... theo đúng Thánh Ý
Chúa. Amen.
Lm đỗ lực
29.04.2007
[3]
Nhật báo La Stampa, Ý, tháng 0 3.1991.
[4]
FABC 4, 3.1.2, Tokyo, 16-25 tháng 09.1986.
[5]
Prothero, Zenit 23.04.2007.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
NHÂN LOẠI VẪN CẦN… |
SUY NIỆM NHÂN LỄ CHÚA CHIÊN LÀNH
Ngày ấy, khi lớp chúng tôi có gần một nửa lớp chịu chức linh mục,
linh mục Nguyễn Duy, (lúc đó cũng đang là chủng sinh, dù thuộc lớp
đàn anh, nhưng được phân bổ vào lớp chúng tôi để hợp thức hóa và bổ
túc chương trình học), đã cảm tác bài hát “Nhân loại vẫn cần” để
tặng cả lớp.
Bài hát ấy, tôi vẫn nhớ, vẫn hát. Mỗi lúc nhớ thầy, nhớ trường, nhớ
bạn, hoặc mệt mỏi vì rong ruổi trong suốt dọc dài con đường phục vụ,
tôi đã nhiều lần hát đi hát lại, để vừa cầu nguyện cho mình, cho
thầy, cho anh em, cho sứ vụ của từng người trong lớp chúng tôi, cho
cả những gương mặt thân yêu của cộng đoàn mà mình sống và làm việc
hôm nay, vừa tìm cách củng cố sức lực do năm tháng đã không ít hao
mòn.
Đối với riêng tôi, bài hát ấy hay, nó gợi lại trong tôi cả khung
trời kỷ niệm, đồng thời giúp tôi hiên ngang nhìn về phía trước mà
thực hiện chính sứ mạng của Chúa Kitô, được Chúa Kitô trao cho mình…
Cứ thế, mà tôi hát: “Nhân loại vẫn cần người biết sống ơn gọi của
Chúa. Nhân loại vẫn cần người làm chứng tình Chúa yêu thương. Nhân
loại vẫn cần người mục tử dẫn đường chỉ lối, cùng đoàn chiên đêm
ngày đi tới, về nhà Cha mến yêu muôn đời…Nhân loại vẫn cần người đi
tiếp con đường của Chúa. Nhân loại vẫn cần người dám sống cuộc sống
Giêsu. Nhân loại vẫn cần người nhiệt tâm trong đời ngôn sứ, chỉ
truyền rao những lời của Chúa để trần gian sống trong sự thật…Nên
Chúa đã sai từng người chúng con, những linh mục bước đến cùng thế
giới. để đáp ứng những khát vọng khắp nơi. Để tô thắm những ước mơ
con người. Nghe tiếng Chúa nay từng người chúng con quyết lên đường
loan Tin Mừng Cứu Rỗi. Xin Chúa giúp cho mỗi người chúng con được
nên thánh trong cuộc đời chứng nhân…”.
Trong những ngày này, chuẩn bị mừng lễ Chúa Chiên lành, ngày Hội
Thánh cầu nguyện và cổ võ cách đặt biệt đối với ơn gọi tận hiến, tôi
càng ý thức hơn vai trò và trách nhiệm mục tử của mình. Sau mỗi
thánh lễ sáng xong, tôi đóng cửa phòng rồi cứ thế mà cất lên cung
điệu Nhân loại vẫn cần… để cầu nguyện, để tạ ơn Chúa, để đánh thức
mình hãy nên mục tử nhân lành.
Sau bài hát, tôi lại đọc đi đọc lại bài Tin Mừng theo thánh Gioan để
nguyện gẫm: “Chúa Giêsu nói với người Dothái rằng: ‘Chiên của
tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban
cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và
không ai cướp chúng khỏi tay tôi. Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho
tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa
Cha. Tôi và Chúa Cha là một” (Ga 10, 27-30). Ước mong một
điều chính đáng rằng, ngày nào tôi còn thi hành chức vụ mục tử, và
Hội Thánh còn tiếp tục tin tưởng trao cho tôi sứ mạng mục tử, ngày
ấy, tôi vẫn cứ xông vào trận chiến với thế gian, với tội lỗi và với
mọi cơn cám dỗ trong đời một cách không mệt mỏi để làm cho từng con
chiên của Chúa Kitô thực sự yêu mến Chúa Kitô, nghe Lời Chúa Kitô.
Nhờ đó họ không bị diệt vong, không bị bất cứ thế lực nào của sự dữ
cướp khỏi ơn cứu chuộc của Chúa Kitô và lãnh nhận sự sống đời đời mà
Chúa Kitô ban cho họ.
Để hoàn thành xuất sắc vai trò mục tử như Mục Tử Giêsu, một hình ảnh
mục tử mà mãi mãi nhân loại vẫn cần, vẫn tha thiết trông chờ, vẫn
hoài hy vọng, tôi nghiệm ra rằng, trước hết mình phải là chiên xuất
sắc của Mục Tử Giêsu. Một khi đã là chiên tốt, chắc chắn, tôi cũng
sẽ là mục tử tốt như Chúa Giêsu.
1. Cùng anh chị em, linh mục là thành phần của đoàn chiên Chúa.
Trước khi là mục tử, người linh mục đã thuộc về đàn chiên. Biết mình
là chiên, cũng mang thân phận con người đầy khiếm khuyết, có khi đã
nhiều lần, do chủ quan, do mải ngụp lặn trong biển đời nhiều sóng
dữ, đã để xảy ra nhiều thương tật cho đời sống tâm linh của bản
thân.
Biết mình là chiên như mọi con chiên trong đoàn chiên của Chúa,
người linh mục luôn luôn học lấy lòng khiêm nhường, hiền từ như Mục
Tử Giêsu. Cùng là người như mọi anh chị em của mình, người linh mục
không bao giờ được phép coi thường những điều kiện căn bản để vươn
lên trong ơn thánh Chúa như: cầu nguyện, nguyện gẫm, xét mình, đọc
Lời Chúa, viếng Thánh Thể, thường xuyên lãnh bí tích hòa giải…
Người linh mục càng phải ra sức cộng tác với ơn Chúa để sống một đời
sống gương mẫu, mực thước, tự chủ, biết sống lành mạnh, không xa
hoa, không tìm danh lợi, không mưu cầu cách ích kỷ sự giàu có cho
bản thân… nhưng luôn biết từ chối tất cả mọi nguy hiểm có thể đánh
đổi ơn gọi của mình là thứ quý giá trên hết mọi thứ quý giá.
Ngoài ra, dù là mục tử, người linh mục sẽ không ít lần bắt gặp những
mẫu gương rất tốt nơi anh chị em mà mình có thể học lấy. Chẳng hạn,
nhiều anh chị em quyết không bước vào con đường gian tham, tội lỗi,
dù rất nghèo. Hoặc nhiều người đau khổ đến cùng cực, nhưng đức tin
vẫn lung linh cháy sáng. Nhiều anh chị em tham gia phục vụ người
nghèo, phụ vụ nhà thờ, phục vụ cộng đoàn hết sức miệt mài, nhiệt tâm
y như việc họ làm là làm cho chính gia đình, cho chính bản thân của
họ vậy… Tất cả những hình ảnh ấy, càng làm cho người linh mục khám
phá ra một chân lý rất bình thường, nhưng rất đỗi quang trọng: Dù là
mục tử, người linh mục vẫn là thành phần của đoàn chiên Chúa. Nhận
ra mình cũng là chiên như anh chị em, người linh mục sẽ không bao
giờ dám coi chức linh mục của mình là quan chức, là hướng nhắm của
sự thành công, để khi đạt được rồi, sẽ hưởng thụ, tệ hơn, vơ vét mọi
thứ cho cá nhân mình…
Tắt một lời, khi biết rèn giũa cho hình ảnh “chiên” nơi mình càng
đẹp, càng sáng, thì khi làm mục tử, người linh mục cũng sẽ là mục tử
tốt lành mang lấy và phản chiếu hình ảnh tốt lành của Mục Tử Giêsu.
2. Là mục tử của đoàn chiên Chúa.
Rất nhiều lần, và ngay chính lúc này, tôi cảm nhận rõ ràng, thánh
chức linh mục mà Chúa ban cho mình quý giá vô cùng. Bởi nó là danh
dự, là sự điểm tô lộng lẫy cho chính người linh mục đã vậy, quan
trọng hơn, nó chính là sự cần thiết của đời sống tâm linh con người.
Chức linh mục vẽ thêm vào cuộc đời, vốn vàng thao lẫn lộn, những nét
tươi mới của tin yêu, của niềm an úi, của hy vọng. Bởi không có ai
khác nhưng linh mục, đã gắn bó với từng anh chị em mà Hội Thánh trao
cho mình, gắn bó suốt đời mình để phục vụ, để hiến thân.
Chính linh mục mới là người biết rõ, biết nhiều về tâm tư con người.
Cả trong tòa giải tội, lẫn ngoài đời thường, không biết bao nhiêu
lần người linh mục chia sẻ những tâm tư, những bức xúc, những bí mật
rất thật về chính bản thân của anh chị em. Dường như chỉ có linh mục
mới có thể giải tỏa nhiều chông chênh, ngang trái mà anh chị em gặp
phải trong một lòng thương mến thật, thông cảm thật. Anh chị em đến
với linh mục bằng một niềm tin tưởng thật, vì thế họ cũng sẽ nhận
được từ người linh mục một trái tim rung cảm thật, nhằm tiếp thêm
ngọn lửa của sức mạnh chịu đựng, tiếp thêm sức nóng xóa tan băng giá
của cả một đời đầy dông bão.
Vì trót cả cuộc đời của những người mang lấy đức tin, là cả cuộc đời
mang dấu ấn của thánh chức linh mục. Bởi không ai khác, nhưng là
chính bàn tay linh mục, trong bí tích rửa tội, đã đưa một con người
từ thưở bé thơ vào cộng đoàn Hội Thánh để làm Con Thiên Chúa. Dù
trong anh chị em, có người không nhìn nhận, thậm chí chống đối cá
nhân linh mục này, linh mục khác, thì anh chị em cũng không thể chối
từ ảnh hưởng của thánh chức linh mục trên cuộc đời mình. Chỉ nhờ
linh mục, anh chị em được lãnh nhận ân sủng từ kho tàng bí tích mà
Chúa trao cho Hội Thánh. Những khi anh chị em muốn tìm lại bình an
nội tâm sau những lần ngã quỵ vì cám dỗ, vì tội lỗi, cũng chính linh
mục nhân danh Chúa ban ơn Thánh Thần tha thứ cho anh chị em. Đến
tuổi trưởng thành, cũng nhờ chính bàn tay linh mục, mà mỗi một người
chính thức bước vào đời sống gia đình cách hợp pháp. Có thể nói,
trong bí tích hôn phối, người linh mục đã liên tục sinh ra các gia
đình mới cho Hội Thánh. Hay suốt cả một đời làm Kitô hữu của mình,
từng anh chi em đã không thể đếm hết bao nhiêu lần đã cậy nhờ thánh
chức linh mục, và chính bản thân người linh mục mà lãnh nhận hết
hồng ân này đến hồng ân khác, hết hy tế thánh lễ này đến hy tế thánh
lễ khác, hết lời giảng dạy này đến lời giảng dạy khác… Và giây phút
quan trọng nhất, nhưng cũng kinh hoàng nhất, đáng sợ nhất của đời
người là giây phút sắp lìa đời, thì sự hiện diện lần cuối cùng của
linh mục lại ấm áp, thiêng liêng, ý nghĩa vô cùng. Nó mang lại niềm
an ủi, mang lại sự xoa dịu nỗi sợ hãi, xoa dịu cơn đau đớn không thể
tả để anh chị em thanh thản lìa đời. Và cuối cùng, cũng chính bàn
tay linh mục đưa lên ban phép lành lần cuối thay lời từ biệt trao
gởi anh chị em về với Đấng Hằng Hữu, Đấng mà từ đó, đã làm phát sinh
sự sống của không biết bao nhiêu sinh linh trong cõi đời này.
Như vậy, linh mục rất cần vai trò làm chiên cùng với đoàn chiên của
Chúa. Làm con chiên như anh chị em, người linh mục sẽ hiểu nhiều
hơn, sẽ dễ thông cảm hơn với từng mảnh đời, từng hoàn cảnh của anh
chị em. Là chiên của Chúa, thấu hiểu nỗi lòng của đoàn chiên, để khi
đứng trong vai trò mục tử, người linh mục sẽ dẫn đưa anh chị em của
mình đến sự sống, một sự sống hoàn thiện, sự sống dồi dào…
Đúng là nhân loại vẫn cần, mãi mãi cần những mục tử của Chúa, những
mục tử thay thế Chúa săng sóc đoàn chiên Chúa. Nhân loại vẫn cần
những con người dám hiến thân vì người khác giữa cuộc đời mênh mông
và biến động. Nhân loại cần lắm những bàn tay nâng đỡ lòng người,
cần lắm những con người luôn luôn thao thức vì hạnh phúc của loài
người, cần lắm những bóng mát làm dịu cơn khát tình yêu, xua đi nỗi
buồn chán, lấp đầy những khoảng trống cô đơn của con người. Nhân
loại vẫn cần vô cùng những tấm lòng từ ái, những con người của ơn
hòa bình, những dấu chỉ của niềm hy vọng, những hiện thân của hạnh
phúc trường cửu, mà chính người mục tử ghi dấu, để mỗi anh chị em
luôn cảm nhận tình yêu, luôn tìm ra một chỗ dựa mỗi khi cần, luôn
thấy mình được an ủi vỗ về khi đau đớn…
Nhân loại vẫn cần, cần lắm những linh mục thánh thiện, những linh
mục nhân lành. Bởi họ chính là những mục tử như lòng mong ước…
Lm. VŨ XUÂN HẠNH |
VỀ MỤC LỤC |
|
ĐỒNG CỎ NHÂN ÁI VÀ SUỐI MÁT BÌNH AN
|
Quý độc giả Ephata và Giáo Sĩ Việt
Nam thân mến,
Gần đây báo chí
lại đang xôn xao khá nhiều vụ tai tiếng liên quan đến hai ngành
Giáo Dục và Y Tế. Thầy giáo áp giải một em học trò bé xíu lên
đồn Công An như một tên tội phạm để người ta tra vấn ép cung, đến
nỗi con bé đáng thương rơi vào hoảng loạn tâm thần. Một thầy giáo
khác nắm đuôi tóc một cô bé học sinh giựt ngược giữa sân trường
khiến em ngã ngửa, chấn thương sọ não... Trước đây người ta vẫn báo
động chuyện sai lầm trong nghề giáo sẽ để lại những hậu quả tinh
thần lâu dài trong một hai thế hệ con người. Bây giờ thì không chỉ
di chứng tinh thần, các em học sinh còn phải trả giá bằng sinh mạng
nữa. Còn nhiều, còn nhiều chuyện thương tâm của ngành Giáo Dục gây
phẫn nộ trong xã hội nhưng pháp luật thì lại chỉ cảnh cáo phất phơ
như... đuổi ruồi !
Thầy giáo
thì như thế, thầy thuốc cũng “sát sinh” không kém. Thai ngoài
tử cung lại bảo là đau dạ dầy đến nỗi phải tử vong oan ức ! Có quá
nhiều những người mẹ chưa kịp vui mừng được mang thai đã rơi vào
khủng hoảng tuyệt vọng khi các bác sĩ lạnh lùng tuyên án tử cho đứa
con của mình với những lý do y khoa rất tầm phào, với những căn cứ
chỉ dựa vào các xét nghiệm hoặc siêu âm hoàn toàn thiếu chính xác.
Không ít các bác sĩ đã khẳng định can thiệp sớm vào thai kỳ, xử lý
kịp thời như vậy là nhân đạo, là giúp cho gia đình và xã hội đỡ phải
gánh nặng, bản thân đứa bé khỏi sinh ra thì cũng khỏi phải chịu khổ
! Lan man sang đến chuyện phá thai thì phải nói thẳng là ngày càng
có nhiều sinh viên ngành Y học hành chẳng đến đâu, ra trường đầu
quân vào đội ngũ y bác sĩ phá thai là cách thu lợi hoàn vốn nhanh
nhất, ít đòi hỏi chuyên môn và kinh nghiệm nhất...
Chúng ta không
có ý bới móc, nói hùa và đánh hôi theo dư luận xã hội. Chúng ta cũng
hết sức trân trọng và biết ơn các thầy giáo và các thầy thuốc vừa
nhân hậu vừa tài giỏi. Thế nhưng vẫn phải một lần nữa và nhiều lần
nữa, lên tiếng cảnh báo một cách mạnh mẽ không sợ bóng sợ vía ai cả,
để hy vọng đánh động được lương tri mọi người. Nói như cha Vũ Xuân
Hạnh trong một bài đăng trên số báo lần này là: “Hãy gào đến khi
nào tiếng gào
ấy thấu lương tâm nhân loại, thấu lương tâm từng người”.
Đã có những phân
tích nhận định, cho rằng tại Việt Nam chúng ta hiện nay đang theo
đuổi một thứ gọi là “kinh tế thị trường”, khiến cho chuyện
giảng dạy giáo dục ở nhà trường và chuyện chạy chữa chăm sóc ở nhà
thương, tàn nhẫn thay, đã trở thành một thứ “hàng hóa”, một bên cung
một bên cầu, gói ghém trong khái niệm mua và bán, tiêu thụ và đáp
ứng, thuần túy vật chất, không tính đến lễ nghĩa tình cảm, nên cũng
đương nhiên chẳng bận tâm đến đạo đức làm gì cho nó... rách việc !
Nhìn ở chiều
kích tâm linh, nghĩa là vượt lên trên cả bình diện đạo đức con
người, chúng ta nhìn được thật rõ thái độ dửng dưng và ứng xử ơ hờ
lạnh nhạt của con người thời nay đối với Thiên Chúa, với Thượng Đế.
Đã qua rồi cái thời mà người ta đua theo Nietzsche để quát tháo
rằng: “Thiên Chúa đã bị giết chết !” Bây giờ người ta đâu có cần
phải... giết Thượng Đế, ám sát Phật và tử hình Chúa làm gì cho mang
tội ? Cứ để nguyên đấy ! Xin các đấng thiêng liêng thần thánh cứ
việc an cư an vị trong các loại Nhà Thờ, Đền Chùa, Miếu Mạo, rồi đến
hẹn người ta sẽ về, dâng của lễ hẳn hoi, kinh kệ râm ran, rước xách
hoành tráng, ca hát nhịp nhàng, trống đàn rộn rã. Lại xây dựng các
công trình tôn giáo thật nguy nga hùng vĩ, mười mấy hai ba chục tỷ
là chuyện nhỏ. Hẳn Thượng Đế và các thần thánh phải biết rõ hơn ai
hết “phú quý sinh lễ nghĩa”, có ăn nên làm ra, có trúng quả buôn
lậu, có hối lộ tham nhũng thì mới có điều kiện dâng cúng xum xuê như
thế được chứ !?!
Của đáng tội,
đạo đức đã không chú trọng vun bồi, tâm linh chỉ còn là chuyện dịch
vụ tín ngưỡng, danh xưng “Thượng Đế” được dành để nịnh những khách
hàng nào chịu chi tiền mua sắm thoải mái nhất... thì khi ấy nhà
trường sẽ thành nơi kinh doanh kiến thức và bằng cấp, còn nhà thương
sẽ chẳng còn thấy dấu vết gì của tình thương, của lòng thương xót.
Tình xuống giá, tiền lên ngôi. Không có tiền thì con nhà nghèo làm
sao chạy vào những trường chọn lớp chuyên, làm sao có thể theo được
các lớp kèm, lớp năng khiếu, lớp luyện thi ? Còn bệnh nhân thì người
nhà mà không đóng được đầy đủ các khoản tiền bệnh viện yêu cầu, thì
cứ việc nằm chèo queo, không cấp cứu, không nghe mạch, không xét
nghiệm, không một lời hỏi han bệnh tình !
Thôi, nói mãi về
những thứ bóng tối như thế cũng chẳng sáng sủa hơn được gì, lại làm
nản lòng những người thiện chí và xúc phạm đến những người còn giữ
được thiện tâm. Chúng ta hãy bắt đầu ngay từ chính mình, lại càng
khẩn thiết hơn n?u chúng ta là người có Đức Tin, là bạn hữu của Chúa
Giê-su nữa. Vâng, xin hãy khởi hành lộ trình từ lòng ta, từ đời
ta mà đi. Mùa Chay đã qua, đang là Mùa Phục Sinh rồi, thế nhưng
chúng ta vẫn cứ phải sám hối dài dài. Metanoia đâu có dễ dàng
nhanh chóng như xoay cái vô-lăng xe hơi và bánh lái con tầu.
Phải xoay chuyển đời mình từng tý một, mỗi ngày và không được dừng
lại chủ quan.
Nhân Lễ Chúa
Chiên Nhân Lành, một mặt chúng ta cầu nguyện cho ơn gọi Giáo Sĩ
và Tu Sĩ, nhưng mặt khác chúng ta đừng quên chính anh chị em Giáo
Dân cũng được kêu mời sống ơn gọi làm một anh một chị mục tử chăn
dắt đàn chiên nhỏ bé của mình trong gia đình, ngoài xã hội.
Nếu ở trên đã
nêu những bất toàn bất xứng hiện nay liên quan đến hai ngành nghề
đáng quý là thầy giáo và thầy thuốc thì lúc này, xin được mời gọi
mỗi thầy cô giáo hãy chịu khó chăm sóc dạy dỗ hết lòng đối với mấy
chục con chiên trong lớp học của mình ít là trong thời gian một năm
học mình phụ trách; mỗi y bác sĩ hãy tận tụy cúi xuống trên từng con
chiên đang đau đớn, sợ hãi, cô dơn trong phòng bệnh do mình đảm
nhiệm. Chả trách người xưa vẫn bảo hai nghề này là hai thiên
chức, Hán Việt Từ Điển của Đào Duy Anh bảo đó là chức vụ
thiên nhiên của loài người – mission naturelle, với một chữ
Thiên là Trời rõ ràng !
Lạy Chúa Giê-su,
Đấng chăn chiên nhân lành, xin cho chúng con vừa được làm chiên của
Chúa, lại vừa được cùng Chúa, phụ với Chúa chăn dắt những con
chiên bé nhỏ khác. Nhờ vậy xã hội chúng con hôm nay sẽ bớt đi
cơn đói cơn khát mà gặp được đồng cỏ Nhân Ái và suối mát Bình An
!
Lm.
QUANG UY, DCCT,
27.4.2007
|
VỀ MỤC LỤC |
|
Nguồn Ơn Thác Ðổ
|
(Ga 20:19-31)
Thày đi mang cả bầu trời,
để thương để nhớ để đời ủ ê,
thời gian một chuỗi lê thê,
xót xa nỗi nhớ, ê chề niềm đau,
cuộc đời biết hướng về đâu,
bao nhiêu mộng ước tan mau
tháng ngày,
phập phồng lo sợ từng giây,
đoàn chiên nhỏ bé giữa bầy sói
lang,
trong đêm tối vẫn mơ màng,
mong ngày bừng sáng cho tàn đêm
đen.
Màu đêm từng đợt trào lên,
Lâng lâng trăm nỗi đớn hèn
trong ta,
hồn ta hay bãi
tha ma,
đêm khuya giá
lạnh xót xa nghìn trùng
trong cơn địa chấn dập dồn,
bên nhau cám cảnh phòng không
lạnh lùng,
xa Thày sương khói mông lung,
Bao nhiêu hy vọng nổ tung gầm
trời,
Từ nay chỉ có mình tôi,
Lang thang giữa một biển trời
hoang mang,
Tình duyên nay đã lỡ làng,
Nghe trong vũ trụ bẽ bàng đắng
cay !
Trần gian choáng váng mặt mày,
khi nhìn đêm tối rạng ngời bình
minh
đón chào Con Chúa phục sinh,
một hơi Chúa thở, Thánh Linh
tuôn tràn.
Thày ban muôn phúc bình an,
trao nguyên sứ mệnh giải oan
muôn loài,
Dù đường đời vẫn còn dài,
Thày khuyên “đừng sợ !” chông
gai sá gì !
Trong Thần Khí, hãy ra đi !
Thày luôn hiện diện độ trì ngày
đêm.
theo Thày từng bước đi lên,
cứu dân thoát khỏi xích xiềng
Satan.
Con người thoát cảnh lầm than,
trả xong một chuỗi nợ nần bể
dâu.
Niềm tin thắp sáng năm châu,
chiếu lên muôn vẻ nhiệm mầu
tình yêu,
mạnh hơn muôn ngọn thủy triều,
quyền năng xoay chuyển trăm
chiều khổ đau,
lung linh ánh nến nguyện cầu,
nguồn ơn thác đổ khơi sâu tình
hồng,
phá tan cảnh sắc hư không,
muôn chim tung cánh khắp vùng
tự do,
từ nay trong Ðức Kitô,
vút cao tiếng gọi thiên thu ân
tình.
Ôi quyền lực Chúa Thánh Linh !
…
vân thanh 15.04.2007
|
VỀ MỤC LỤC |
|
GIUSE – THÁNH QUAN THÀY ĐÁNG KÍNH CỦA
TÔI |
Giuse là tên thánh được đặt cho không riêng
gì tôi mà là cho tất cả những người nam trong cả làng tôi. Đấy
là một thông lệ không biết có từ bao giờ và kéo dài cho đến tận
ngày nay. Hễ cháu bé trai nào chào đời là y như rằng tên thánh
phải là Giuse. Chỉ Giuse thôi và không có tên thánh nào khác!
Tôi quê ngoài Bắc, di cư vào Nam năm 1954.
Hầu như làng tôi di cư hết cả làng, chỉ còn sót lại có 5 gia
đình Công giáo ở lại. Mà thực ra cũng không phải 5 mà là 3 vì 2
gia đình Công giáo từ nơi khác đến sau này. Chỉ năm gia đình còn
lại mà phải coi sóc một nhà thờ họ cổ kính được xây dựng vào năm
1900. Nhà thờ này hầu như không thay đồi gì từ khi xây dựng đến
nay đã trên 100 năm! Khi di cư, thì thánh Giuse cũng “di cư” vào
Nam với làng tôi! Nói cho vui thế thôi chứ thực ra thì Thánh
Giuse vẫn được dân làng thờ kính cả ngoài Bắc lẫn trong Nam. Các
cháu sinh ra cho dù trong Nam hay ngoài Bắc đều được đặt tên
thánh là Giuse.
Khi vào Nam, cha xứ có sáng kiến là đặt tên
thánh cho các giáo họ ở trại định cư mới thành lập. Không còn
giống như ngoài Bắc “một mình một làng” mà là dân di cư từ nhiều
làng khác nhau tập trung về đây nên tên gọi cho các giáo họ phải
khác nhau. Giáo họ tôi vẫn lại được mang tên như xưa: Giáo họ
Giuse.
Chính vì lẽ ai cũng tên thánh là Giuse nên
đến ngày mừng lễ quan thày thật là vui. Đúng là “niềm vui không
của riêng ai”! Ngày lễ kính theo tập tục xưa là ngày 1.5, tức
là ngày lễ kính Thánh Giuse Lao động (không phải ngày thánh
Giuse bạn Đức Trinh Nữ 19.3). Lễ mừng luôn luôn được tổ chức
trọng thể. Dân làng ai cũng dọn mình xưng tội rước lễ. đọc kinh
sáng tối. Nhiều gia đình còn tổ chức đọc kinh theo xóm rất sốt
sắng. Đến ngày lễ thì niềm vui mới đạt tời đỉnh cao. Trong thánh
lễ, cha xứ nhắc lại ý nghĩa của ngày lễ, về công đức của Thánh
Cả Giuse, về tấm gương cần cù lao động… Bởi lẽ thế, Giuse được
coi là quan thày không riêng gì cho làng tôi, mà là còn cho cả
giáo phận, thậm chí cả Giáo hội toàn cầu. Nghe như thế trong tôi
trào dâng một niềm vui sướng và tự hào. Thật vinh dự cho những
ai mang tên thánh là Giuse, dĩ nhiên trong đó có tôi!
Việc tôn kínhThánh Giuse thì hầu như nhà
thờ nào cũng có. Tôi đã có dịp đi đến nhiều nhà thờ và đều nhận
thấy chắc hẳn đây là một nét đặc trưng của Giáo hội Việt Nam. Ở
Sài Gòn ngày nay có có hẳn một “Đền Thánh Giuse”, nơi mà không
ngày nào không có người đến cầu xin trong suốt nhiều năm qua.
Còn nhớ khi tôi còn bé, sau khi học xong
tiểu học là phải đi thi. Cách đây trên 40 năm, khi mà giáo dục
chưa phát triển như ngày nay, thì đi thi tiểu học là một kỳ thi
hết sức trọng đại cho các cậu bé. Không đứa nào trong lớp của
tôi không tỏ ra hồi hộp và lo lắng cho kỳ thi sắp đến, cho dù
trong lớp có giòi tới đâu! Mà khó khăn nữa là phải thi xa nhà.
Làng định cư của tôi không phải là nơi tổ chức thi, phải lên
quận. Quận lỵ cách xã chỉ 10 cây số thôi, nhưng vì lúc đó chỉ
mới 11-12 tuổi đầu, đi thi như thế là xa lắm rồi, cho nên lại
càng hồi hộp hơn. Làm thế nào để khỏi lo nhỉ? Không đứa nào
trong số trên 40 đứa trong lớp tôi nghĩ ra. Mẹ tôi khuyên tôi
cầu xin Thánh Giuse. Chà! Một lời khuyên đúng lúc. Tôi đề nghị
các bạn cầu xin Thánh Giuse như lới khuyên của mẹ tôi thì liền
được các bạn hưởng ứng nhiệt liệt! Thế rồi đứa nào cũng thì
thầm”Lạy ơn Ông Thánh Giuse, chúng con chay đến cùng Người,
trong cơn gian nan …” Tuy nhiên, kinh Thánh Giuse lạ vừa dài,
vừa khó nhớ nên không đứa nào thuộc hết! Thôi thì có lòng là
được rồi! Cuối cùng, việc gì phải đến, sẽ đến. Trong số hơn 40
đứa chúng tôi đi thi tiểu học năm ấy, không có đứa nào hỏng cả.
Thật vui mừng không kể xiết. Chúng tôi lại bàn tán, chắc là “Nhờ
ơn Ông Thánh Giuse!”
Và thời gian trôi qua. Trong số hơn 40 học
sinh nhỏ tuổi năm ấy thì chỉ có ít đứa được tiếp tục học lên.
Tôi may mắn được cha mẹ cho lên tình học, rồi thi tú tài, rồi
tốt nghiệp đại học. Như một thói quen hình thành từ tấm bé, hễ
khi nào tôi phải thi cử. tôi lại cầu xin cùng Thánh Giuse quan
thày của tôi. Sau này ra đời, tôi tiếp tục cầu xin cùng Thánh
Giuse trong những dịp trọng đại hơn. Tôi cầu xin cùng Thánh
Giuse trước khi tôi lập gia đình, tôi cầu xin cùng Thánh Giuse
được bình an trong cuộc “tháo chạy tán loạn” năm 1975, lúc mà
mạng sống con người bị đặt trong tình trạng hết sức mong manh,
giữa lúc tên bay đạn lạc và “vô chính phủ”, lúc chính quyền cũ
đang tan rã và sụp đổ, trong lúc mà gia đình tôi không còn biết
trông cậy vào đâu… Song tất cả đều được như ý. Thói quen cầu xin
cùng Thánh Giuse khi gặp khó khăn, hoạn nạn vẫn hiện diện trong
tôi trong nhiều năm qua.
Con trai tôi, tôi cũng đặt tên thánh là
Giuse theo tập tục của làng tôi. Tuy nhiên, tên thánh của cháu
bé khi đi rửa tội ngày nay người ta thường đặt theo tên thánh
của cha đỡ đầu. Song năm ngoái tôi vẫn đặt tên thánh cho cháu
nội của tôi là Giuse, nhưng có thay đổi đôi chút: ghép tên Giuse
với tên thánh của người cha đỡ đầu của cháu và trở thành một tên
mới: Giuse-Phêrô …
Lạy Thánh Giuse, Thánh Cả của sức cần lao,
quan thày của con. Con vinh dự và tự hào cũng như yên tâm khi
được mang tên của Người.
Giuse Nguyễn Thụ
Nhân Gia Lai.
27.4.2007 |
VỀ MỤC LỤC |
|
TÌNH YÊU LÀ KIÊN NHẪN |
Tác phẩm 13 Nét mặt của Tình yêu
Chương Một
TÌNH YÊU LÀ KIÊN NHẪN
Dominique AUZENET
Lm
Micae-Phaolô Trần Minh Huy chuyển
ngữ
Khởi đầu bài ca đức ái, thánh
Phaolô bắt đầu nói cho chúng ta Tình yêu là gì: Tình yêu là kiên
nhẫn... Dịch sát động từ Hy lạp có nghĩa là tình yêu có tấm lòng cao
thượng... Đó là cả một chương trình cho đời sống hằng ngày của chúng
ta, và chỉ có Chúa Thánh Thần mới có thể kiện toàn chương trình đó
nơi chúng ta...
1. Thiên
Chúa nhẫn nại.
Toàn bộ Kinh Thánh minh chứng
rằng Thiên Chúa nhẫn nại. Suốt dòng lịch sử của mình, dân Dothái
càng ngày càng ý thức sâu xa về sự nhẫn nại của Thiên Chúa. Khi mạc
khải cho Maisen, Giavê tuyên bố Ngài là Thiên Chúa nhân từ và
thương xót, chậm bất bình, giàu ân sủng và trung tín (Xh, 34,6...).
Các mạc khải kế tiếp sẽ càng lúc càng nhấn mạnh về lòng nhẫn nại
và tình yêu nhân từ của Chúa Cha, Đấng biết chúng ta được dựng
nên bằng gì, chậm nổi giận và tràn đầy tình thương, không đối xử với
chúng ta theo lỗi lầm của chúng ta (Tv 103,8).
Bởi thái độ đối với những người
tội lỗi và giáo huấn của Ngài, Chúa Giêsu nhập thể lòng nhẫn nại của
Thiên Chúa. Các dụ ngôn về cây vả không sinh trái (Lc 13,6-9),
đứa con hoang đàng (Lc 15), người tôi tớ bất nhân (Mt 18,23-35)
đều là những mạc khải về lòng nhẫn nại của Thiên Chúa và là những
bài học về nhẫn nại và yêu thương cho các môn đệ, vì Chúa muốn cứu
những người tội lỗi. Trong dụ ngôn vị thẩm phán và người đàn bà
góa, Chúa Giêsu mời gọi cầu nguyện không ngừng để cho công lý
được ngự trị, nhưng vẫn luôn ý thức Thiên Chúa nhẫn nại :
"Lẽ nào Thiên Chúa lại không xử
công minh cho các người được tuyển chọn hằng kêu cứu với Ngài đêm
ngày, mà khoan giản với họ mãi sao ! Thầy bảo anh em rằng Ngài sẽ xử
mau cho họ. Nhưng liệu khi Con Người sẽ đến thì có còn gặp được lòng
tin trên mặt đất nữa chăng ?" (Lc 18,1-8).
Các tông đồ nhìn thấy lòng nhẫn
nại của Thiên Chúa biểu lộ trong sự chậm trễ bên ngoài của việc Chúa
Giêsu đến trong vinh quang :
"Thiên Chúa không trì hoãn thực
hiện điều Ngài đã hứa, nhưng Ngài nhẫn nại với anh em đó, vì muốn
cho đừng ai phải hư đi, song mọi người đều được ăn năn trở lại" (2P.
3,9...).
Dù ngày nay sự nhẫn nại và lời
kêu gọi của Thiên Chúa có kéo dài, những người được tuyển chọn phải
lắng nghe Lời Chúa và cố gắng đi vào nơi nghỉ ngơi của Chúa (x.Hb
3,7-4,11). Thánh Phaolô khi nói về mình đã ý thức mạnh về sự nhẫn
nại của Chúa đối với ngài :
"Nếu cha được xót thương thì
chính là để Chúa Giêsu bày tỏ tất cả lòng nhẫn nại của Ngài đối
với cha trước hết, khiến cha nên gương mẫu cho tất cả những ai tin
vào Ngài để được sống muôn đời" (I Tm 1,16).
2. Kiên
nhẫn và không kiên nhẫn, một phong vũ biểu ?
Sự kiên nhẫn nầy của Thiên Chúa,
Thánh Thần truyền vào lòng chúng ta và chúng ta phải làm chứng tá về
điều đó bằng cuộc sống của mình :
"Với tất cả lòng khiêm tốn, dịu
dàng và kiên nhẫn, anh em hãy chịu đựng lẫn nhau với lòng yêu
mến" (Ep 4,2 ; x.Col 3,12).
Lòng kiên nhẫn nầy phải được thực
thi đối với hết mọi người :
"Chúng tôi khuyên nhủ anh em sửa
bảo những người sống vô trật tự, khích lệ những người non gan,
nâng đỡ những người yếu đuối và kiên nhẫn với hết mọi người" (I Th
5,14).
a) Lòng kiên nhẫn là dấu chỉ
trưởng thành trong tình yêu.
Lòng kiên nhẫn là dấu chỉ chúng
ta thoát ra được khỏi cái tôi của mình. Người kiên nhẫn phó thác
trọn vẹn cho Thiên Chúa. Trong mọi lúc, dù bất cứ cái gì xảy đến,
người kiên nhẫn đều hướng về Chúa với đức tin, cậy trông và yêu mến.
Nhờ Thánh Thần Tình Yêu, Ngài làm phát sinh trong chúng ta hoa trái
rất tốt đẹp của lòng nhẫn nại, góp phần cho sự thanh thản và bình
an.
"Tình yêu không bao giờ đi một
mình mà không có đoàn tùy tùng là những nhân đức đích thực đã kín
múc nguồn sống của mình trong tổ ấm của đức ái. Tuy nhiên các nhân
đức của Chúa Kitô không có cùng mức độ như nhân đức của chúng ta.
Giữa các nhân đức nầy, lòng kiên nhẫn là chính yếu, và là cốt lõi
của tình yêu. Chính lòng kiên nhẫn là dấu chỉ không sai lầm rằng
linh hồn đang ở trong ơn nghĩa với Chúa và đang yêu thương thực sự.
Chính vì thế mẹ nó là đức ái đã ban nó cho nhân đức vâng lời như
người chị em. Chúng liên kết mật thiết với nhau đến đỗi hễ mất nhân
đức nầy thì kéo theo cái chết của nhân đức kia. Chúng ta có cả hai,
hoặc chẳng có nhân đức nào hết"[1]
b) Sự không kiên nhẫn là lời
diễn tả sự gắn bó với ý riêng của mình.
Sự không kiên
nhẫn nói lên ý nghĩa của một gắn bó với các dự tính, ý tưởng, ước
muốn riêng của mình đến độ muốn làm tất cả mọi sự để thực hiện
chúng. Nhưng không chỉ đơn giản như thế thôi đâu, lòng không kiên
nhẫn thường được bộc lộ qua những thái độ giận dữ, thô bạo, xét
đoán, những lời nói gây tổn thương, tranh chấp, dối trá...
Sự không kiên nhẫn rõ rệt là một
biểu lộ của tính ích kỷ lấy mình làm tâm điểm : tôi bắt mọi thứ phải
vầy quanh tôi và không chấp nhận bị ngăn trở trong các dự tính hay
thực hiện của mình. Chính vì thế sự không kiên nhẫn là một đèn
hiệu báo động là tôi không ở trong tình yêu. Tôi phải dừng lại,
mở lòng ra với Chúa đang hiện diện, phó thác cho Ngài, chấp nhận
thực tế như Ngài đã trao ban, kêu xin sức mạnh Thánh Thần, rồi lại
ra đi trong bình an. Đây là vài tia sáng rút ra từ những bút tích
của thánh Catarina Siêna.
"Lòng kiên nhẫn chỉ được minh
chứng trong lúc gặp phải nghịch cảnh, vì không có thử thách thì
nhân đức không hiện hữu ; người không phải đau khổ chẳng cần đến
lòng nhẫn nại, bởi vì không ai làm điều bất công với nó. Tôi nói
rằng lòng nhẫn nại chứng minh là các nhân đức có hay không có ở
trong tâm hồn. Làm sao chúng ta thấy được là nhân đức không có trong
tâm hồn ? Đó là nhờ sự không kiên nhẫn.
Bạn có muốn thấy là các nhân
đức còn bất toàn và gốc rễ của tự ái còn sống trong tâm hồn không ?
Bạn hãy khảo sát hoa trái sinh ra vào lúc buồn phiền : nếu là hoa
trái của lòng nhẫn nại thì đó là dấu hiệu gốc rễ của ý riêng đã chết
và các nhân đức đang sống, còn nếu là hoa trái của sự không kiên
nhẫn thì hiển nhiên là gốc rễ của ý riêng vẫn còn sống và nhân đức
không có ở trong tâm hồn ấy.
... Ai có thể nói được những
bất lợi từ đó phát sinh ra ? Tôi nghĩ rằng chẳng có ai, nhưng ba bất
lợi chính mà người có ý riêng không chết cảm nhận được. Trước hết là
người đó không trung thành với ánh sáng của đức tin sống động. Nó đã
đặt mây mù vào con mắt trí khôn, vốn là con ngươi của ánh sáng đức
tin. Ngay khi đặt mây mù của tự ái trên nhãn quan và làm tối tăm ánh
sáng đức tin như vậy, nó lập tức vấp ngã lần thứ hai và thứ ba bằng
cách rơi vào sự không vâng lời làm phát sinh lòng mất kiên nhẫn dẫn
tới càm ràm, than vãn. Suy nghĩ một chút, bạn sẽ thấy rằng ba khuyết
điểm nầy bao giờ cũng kèm theo nhau. Vậy không nên nghi ngờ rằng nếu
căn để của tự ái không chết đi trong chúng ta thì cái nhìn của chúng
ta sẽ ra tối tăm và mọi hoa trái của nhân đức sẽ bất toàn, bởi vì sự
hoàn hảo hệ tại việc làm cho ý muốn giác quan của chúng ta phải chết
đi, đồng thời làm cho lý trí của chúng ta được sống trong thánh ý
dịu ngọt của Chúa"[1]
3. Tôi có nhẫn nại không ?
Tôi có nhẫn nại với chính mình
không ? Do ảnh hưởng của tội lỗi, chúng ta thường có khuynh hướng dễ
ngã lòng khi nhận thấy mình lại luôn luôn vấp ngã trong cùng những
lầm lỗi ấy, hoặc là tỏ ra chẳng tiến bộ chút nào trên đường hối cải,
hoặc trong sự biến đổi thiêng liêng của nhân cách mình. Nhẫn nại đối
với chính mình không phải là lòng bao dung dẫn đến sự dễ dàng và
phóng túng. Nó là một biểu lộ đích thực của tình yêu đến từ Thiên
Chúa, là một cái nhìn về mình và tiếp tục cậy trông, bởi vì Thiên
Chúa yêu thương tôi và hy vọng tôi hoán cải...
Tiếp đến, cái nhìn nhẫn nại và
bao dung nầy hướng về tha nhân, hướng về tất cả những người chung
quanh tôi. Lòng tốt mang dấu ấn nhẫn nại nầy cũng trải ra với những
hoàn cảnh cuộc sống hằng ngày của tôi, chính xác là với những hoàn
cảnh mà tôi đã không hề chọn lựa... Nhờ đó tôi kiểm chứng về tự do
nội tâm của mình.
a) Lòng nhẫn nại mang tính
chất xây dựng
Lòng nhẫn nại, là hoa trái của
tình yêu, xây dựng tình yêu ở trong gia đình, trong các mối quan hệ,
trong công việc, trong chính hữu thể của chúng ta. Nhờ lòng nhẫn
nại, chúng ta làm cho những người chung quanh lớn lên trong tình
yêu, chúng ta giúp họ tiến lên trên đường tình yêu...
Lòng kiên nhẫn đâm rễ sâu niềm hy
vọng. Biết bao nhiêu lần vì thiếu nhẫn nại, chúng ta đã đóng chặt
cửa và cõi lòng mình lại với niềm hy vọng, bằng cách "tống khứ đi"
người cần được yêu thương hoặc việc phải làm... Nhờ nhẫn nại, chúng
ta dành thời gian cho những con người và những vật được có mặt ở đó
và hướng họ vào kế hoạch của Chúa...
Lòng nhẫn nại truyền thông sự
bình an của tâm hồn. Nó tháo ngòi nổ của bạo lực nơi tha nhân và nơi
tôi, nó thiết lập một trạng thái ổn định vốn là dấu hiệu của lòng
tín thác vào Thiên Chúa. Nhờ nhẫn nại, chúng ta học bước đi theo
từng bước chân của Chúa, trong những việc nhỏ mọn cũng như trong
những việc trọng đại.
b) Lòng nhẫn nại đón tiếp
Thiên Chúa trong đời sống thực tại.
Tình yêu là kiên nhẫn. Nếu tôi
sống trong tình yêu của Thiên Chúa thì tình yêu nầy sẽ làm phát sinh
trong tôi hoa trái nầy của lòng nhẫn nại và sẽ góp phần cho sự tăng
triển của tôi trong tình yêu :
-
Mọi người thế nào thì tôi tiếp đón họ thế ấy, không đòi họ
phải thế khác...
-
Tôi tiếp nhận các biến cố gây xáo trộn cho tôi với tâm hồn
thanh thản, dù chúng đảo lộn những kế hoạch tốt nhất của tôi...
-
Tôi tiếp nhận cái bất ngờ xảy đến trong bình an, nhận rằng nó
có thể có một ý nghĩa cho cuộc đời tôi, trong lòng Chúa...
Trái lại, sự thiếu kiên nhẫn hoàn
toàn ném tôi khỏi những chân trời yêu thích của tôi và góp phần co
cụm tôi lại. Tôi bỏ qua ân sủng tình yêu của Chúa vốn là nội dung
của những gì đang trình diện cho tôi.
c) Lòng nhẫn nại chờ đợi giờ
của Chúa.
Bởi lòng ước muốn biết mình ở
trong thánh ý Chúa, lòng nhẫn nại biết chờ đợi giờ của Chúa, mà
không ngã lòng hay "thọc gậy bánh xe" bởi cách thức chúng ta muốn
hối thúc các sự việc...
Đối với Chúa, "một ngày như thể
ngàn năm và ngàn năm cũng tựa một ngày" (2 P 3,8 ; Tv 90,4). Vậy
hãy bền tâm chờ đợi điều Chúa đã hứa và sự chín muồi của những
gì Chúa đã cho nẩy mầm. Trong việc nầy, sự thiếu kiên nhẫn tỏ ra
hoàn toàn có hại : lo âu đối với công trình của Chúa, cũng như với
mọi việc, rõ ràng chẳng thay đổi được gì trong thực tế cả.
Có thể có những nỗi ray rứt lớn
lao tàn phá xuyên trải cả một cuộc đời, lấy cớ vì một tình yêu lớn
lao hơn, hay vì một việc phụng sự lớn lao hơn đối với Thiên Chúa...
bởi vì chúng ta đã không thấy được rằng chúng ta được mời gọi từ bỏ
chính mình trong suốt cơn thử thách nầy...
d) Lòng kiên nhẫn mang tính
chất giải thoát.
Lòng kiên nhẫn giải thoát chúng
ta khỏi những nỗi ray rứt và lo âu mà nguyên nhân có thể được biện
minh... Khi mọi việc không ở trong tầm khả năng của chúng ta, hãy
giao phó chúng cho Thiên Chúa và sống bình an, đó là điều thích hợp
nhất. Chúa sẽ lo đến chúng... Lòng kiên nhẫn giải thoát chúng ta
khỏi thất vọng. Chán nãn còn là dấu vết của dính bén với lo nghĩ và
tính toán. Tình yêu đích thực được triển nở trong nhẫn nại và cậy
trông. Như thế, nó giải thoát ta khỏi nỗi phiền muộn cay đắùng...
"Ngay cả khi tôi không hiểu gì về
các biến cố xảy ra, tôi vẫn mĩm cười, vẫn nói lời cám ơn, tôi
luôn tỏ ra hài lòng trước mặt Chúa nhân lành. Không được nghi ngờ
Ngài, như vậy là thiếu tế nhị. Không, không bao giờ được "nguyền
rủa" sự quan phòng của Chúa, trái lại luôn luôn tỏ lòng biết ơn"[1]
Lòng nhẫn nại giải thoát chúng ta
khỏi bực tức. Lúc nào cũng bực tức thì đó là dấu chỉ nhân cách của
chúng ta đang cần phải được trưởng thành về mặt thiêng liêng. Trong
những trường hợp thái quá, chắc chắn bực tức sẽ biến thành giận dữ
mang tính chất phá hoại... Bực tức chứng tỏ rằng thập giá làm chúng
ta khó chịu. Thập giá là tất cả những gì nghịch lại ý riêng của
chúng ta trong lúc đó. Dần dần được trưởng thành, chúng ta tập đón
nhận thánh ý Chúa xuyên qua những gì xảy đến, bằng cách bỏ ý riêng
của mình. Càng ít bực dọc, chúng ta càng được bình an... Lòng nhẫn
nại giải thoát chúng ta khỏi bạo lực cuối cùng cũng đến, dưới hình
thức nầy hay hình thức khác, khi chúng ta từ chối cái đang trình
diện với chúng ta...
Lòng nhẫn nại cũng góp phần giải
phóng khỏi chủ nghĩa cầu toàn luân lý. Sự cầu toàn nầy là một trở
ngại thực sự khi chúng ta lẫn lộn nó với lời mời gọi nên thánh. Việc
muốn làm tất cả mọi sự đến hoàn hảo có thể tạo nên những phức tạp
không ngừng vì đã lẫn lộn người không thể chê vào đâu được với người
ở trong tình yêu của Thiên Chúa. Thiên Chúa đòi chúng ta để được yêu
thương ngay trong chính những yếu đuối của chúng ta. Quá gắn bó với
sự hoàn hảo trước hết mọi sự có thể lôi chúng ta ra khỏi mục tiêu
duy nhất mà chúng ta phải đeo đuổi là không ngừng mở rộng trái tim
chúng ta ra với tình yêu của Chúa...
"Con yêu qúi của mẹ ơi, đức nhẫn
nại nầy là nữ hoàng. Ngồi trên tảng đá sức mạnh, nó luôn luôn
chiến thắng, không bao giờ bị chiến bại. Đức nhẫn nại không ở một
mình, nó luôn có sự bền đỗ làm bạn đồng hành. Nó là cốt tủy của đức
ái. Chính nó bộc lộ ra bên ngoài sự có mặt của đức ái. Chính nó
chứng tỏ linh hồn được mặc áo cưới tinh tuyền. Chiếc áo nầy mang một
vết rách, một thiếu hoàn hảo nào thì lòng thiếu nhẫn nại lập tức
khám phá ra ngay.
Thật dễ dàng bị lừa dối về các
nhân đức khác. Ta tưởng chúng trọn hảo trong khi chúng không được
như thế, bao lâu chúng không chịu thử thách của đức nhẫn nại. Nhưng
nếu sự nhẫn nại dịu dàng nầy là cốt tủy đức ái của tâm hồn thì nhờ
đó nó sẽ cho thấy rằng các nhân đức là hoàn hảo và sống động. Nếu
chúng không cung cấp bằng chứng nầy, ấy là chúng còn ở trạng thái
không hoàn hảo và chưa đạt tới bàn thập giá rất thánh, ở đó lòng
nhẫn nại được ý thức trong sự nhận biết chính mình và hiểu biết Lòng
Tốt của Chúa, ở đó nó được sinh ra bởi lòng thù hận thánh thiện đối
với tội lỗi và nhận được dầu của lòng khiêm tốn đích thực. Lòng nhẫn
nại nầy không bao giờ từ chối lương thực đã được dọn ra cho nó trên
bàn thập giá nầy, nó là vinh hiển của Chúa và là phần rỗi của các
linh hồn"[1]
e) Làm sao thủ đắc được lòng nhẫn nại ?
"Chúng ta phải dùng những phương
thế nào để có được lòng nhẫn nại nầy ? Bởi vì tôi có thể và phải
có nó, nên nếu tôi không nhẫn nại là tôi sẽ xúc phạm đến Chúa. Có
bốn việc chính yếu phải tìm kiếm và thủ đắc.
Trước hết là phải có ánh sáng
đức tin, bởi vì nhờ ánh sáng đức tin mà chúng ta thủ đắc được mọi
nhân đức; không có ánh sáng nầy, chúng ta sẽ bước đi trong tối tăm
như người mù, vì đối với người mù thì ngày cũng như đêm. Cũng thế
đối với linh hồn không có ánh sáng đức tin : Điều Thiên Chúa vì yêu
thương mà làm như ngày rạng rỡ hơn cả ánh sáng thì nó lại coi như
bóng tối thù hận bằng cách tưởng tượng ra rằng Chúa vì thù hận mà
cho phép xảy ra những gian truân và mệt mỏi nó cảm nhận. Vì thế,
chúng ta thấy cần phải có ánh sáng của đức tin rất thánh thiện.
Phương thế thứ nhì để có lòng
kiên nhẫn được thủ đắc với ánh sáng đức tin nầy, nghĩa là phải tin
thực sự, chứ không chỉ tin suông; phải chắc chắn rằng tất cả những
gì hiện hữu đều bởi Chúa mà ra, trừ tội lỗi... Trong Phúc Âm, Chúa
Giêsu bảo rằng không có một cái gì mà Chúa không an bài; Ngài cũng
nói rằng mọi sợi tóc trên đầu chúng ta đều đã được đếm tất cả và
không một sợi nào rơi xuống mà Ngài không biết... Cũng thế, tất cả
những gì sự quan phòng của Chúa ban và cho phép đều được ban và cho
phép với một mục đích nhiệm mầu, bởi yêu thương chứ không phải bởi
thù hận.
Việc thứ ba phải thấy và biết
dưới ánh sáng đức tin, chính là Thiên Chúa là lòng Nhân Lành vĩnh
cửu và tối thượng, và Ngài không muốn gì khác ngoài thiện ích
của chúng ta. Ý muốn của Chúa là chúng ta được thánh hóa ở trong
Ngài. Tất cả những gì Ngài ban và cho phép đều nhằm mục đích nầy.
Việc thứ tư phải có để có thể
đi đến lòng nhẫn nại đích thực là nhìn nhận rằng các tội lỗi và tật
xấu của chúng ta đã xúc phạm biết bao đến Chúa, vốn là sự
thiện tối cao và vô cùng...và chúng ta phải hiểu rõ rằng chúng ta
thật khốn nạn vì đã xúc phạm đến Đấng Tạo Hóa như thế"[1]
Suy niệm
để lần hạt Mân Côi
1.
Tình Yêu là nhẫn nại. Khi mạc khải cho Môsê, Chúa tuyên bố là
"Thiên Chúa dịu dàng và hay thương xót, chậm bất bình, giàu ân
sủng và thành tín ..." (Xh 34,6). Chúc tụng Chúa đã mạc khải cho
chúng con lòng nhân hậu của Chúa, xin cho chúng con luôn khám phá
được lòng nhẫn nại của Chúa ngày một hơn.
2.
Tình Yêu là nhẫn nại. "Chúa không trì hoãn thực hiện những
gì đã hứa, nhưng Ngài hằng nhẫn nại đối với anh em, Ngài không muốn
một ai phải hư mất, song mọi người đều đi đến hối cải" (2 P 3,9).
Xin Chúa cho chúng con được nên chứng tá lòng nhẫn nại của Chúa
bằng cách thi thố lòng nhẫn nhục nầy với những người chung quanh.
3.
Tình Yêu là nhẫn nại. Thánh Phaolô viết cho tín hữu
Thessalonica : "Chúng tôi khuyến khích anh em hãy khuyên bảo
những người sống vô kỹ luật, khích lệ những người nhát đảm, nâng đỡ
những người yếu đuối và kiên nhẫn với tất cả mọi người" (1 Th
5,14). Xin Chúa giải thoát chúng con khỏi mọi đầu óc đoán xét và ban
cho chúng con sự khiêm nhượng thật trong lòng.
4.
Tình Yêu là nhẫn nại. "Với tất cả lòng khiêm nhường, dịu
dàng và nhẫn nại, anh em hãy lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau"
(Ep 4,2; x.Col. 3,12). Lạy Chúa, tha nhân thế nào xin giúp con
tiếp đón họ thế ấy. Xin Chúa giúp con tiếp nhận các biến cố quấy rầy
con với lòng thanh thản và tiếp nhận cái bất ngờ với lòng bình an...
5.
Tình Yêu là nhẫn nại. "Về sức chịu đựng và lòng kiên nhẫn,
anh em hãy noi gương các ngôn sứ là những người nói nhân danh Chúa.
Chúng tôi tuyên bố : phúc thay những kẻ có lòng kiên trì ! Anh em đã
nghe nói đến lòng kiên trì của ông Gióp và đã thấy ý định của Thiên
Chúa, vì Ngài là Đấng từ bi nhân hậu" (Jc 5,10-11). Lạy Chúa, xin
ban cho chúng con ơn kiên trì để phụng sự Chúa và phục vụ anh
chị em chúng con.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
Bệnh Cột Sống |
Xương sống trẻ
sơ sinh có có 33 đốt: 7 đốt cổ, 12 đốt ngực, 5 đốt thắt lưng, 5
đốt hông và 4 đốt cụt.
Tới khi trưởng
thành, các đốt hông và cụt dính lại với nhau, chỉ còn lại hai
xương cùng và xương cụt. Vì thế người trưởng thành chỉ có 26 đốt
xương sống.
Xương sống
nâng đỡ sức nặng các phần ở bên trên của cơ thể là đầu, mình,
hai tay.
Cột sống chạy
từ đáy hộp sọ xuống tới cuối lưng, bao bọc và bảo vệ dây cột
sống (spinal cord). Dây cột sống gồm có các tế bào thần kinh,
các bó sợi thần kinh kết nối tất cả các bộ phận của cơ thể với
não bộ. Từ cột sống, phát xuất 32 đôi dây thần kinh tủy sống.
Xương sống
khớp với hộp xương sọ, xương sườn, đai hông và là nơi bám của
các cơ lưng.
Cột sống không
đứng ngay thẳng mà có nhiều đoạn hơi cong để chịu sức nặng cơ
thể hữu hiệu hơn trong các thế đứng khác nhau.
Các đốt xương
sống được dây chằng và hơn 400 cơ bắp nho nhỏ neo giằng hỗ trợ.
Dây chằng
(ligament) là một băng mô liên kết xơ cứng, mầu trắng, nối hai
xương với nhau ở vùng khớp. Các dây này không đàn hồi nhưng có
thể uốn cong, giữ cho khớp mạnh hơn và giới hạn sự chuyển động
của khớp về một phía nào đó.
Nằm giữa các
đốt xương là một cấu trúc dẹp (đĩa liên sống) cấu tạo bằng chất
collagen rất bền chắc dùng làm chất đệm cho đốt xương, chống đỡ
với sức mạnh va chạm. Khi mới sanh, nước chiếm 80% thành phần
cấu tạo đĩa và đĩa mềm sốp.Tới tuổi gia tăng, nước trong đĩa khô
dần. Vì đĩa không có mạch máu nuôi dưỡng, cho nên khi bị tổn
thương thì không tự lành được.
Khi đĩa bị
chấn thương, dây thần kinh bị đè kẹp và gây ra đau đớn vô cùng
cho chân. Đốt ở phía cuối cột sống là nơi gây ra nhiều đau hơn
cả.
Khi các thành
phần cấu tạo xương sống bị tổn thương, siêu vẹo, co kéo thì đau
lưng xảy ra.
Mấy bệnh thông
thường của cột sống:
Thoái hóa đĩa
đệm
(Degenerative Disc Disease)
Ðĩa đệm là một
cấu trúc sụn-xơ nằm giữa hai đốt sống.
Toàn bộ đĩa
đệm chiếm ¼ chiều dài cột sống và hoạt động như một bộ phận giàm
sốc để bảo vệ não và dây thần kinh não tủy khi cơ thể vận động
mạnh, như chạy nhẩy, uốn mình.
Một số tác giả
coi thoái hóa đĩa đệm như một diễn biến của sự hóa già. Ðĩa giảm
đàn hồi, dẻo dai và giảm sốc. Lớp dây chằng bao bọc đĩa trở nên
giòn, dễ gẫy. Ðồng thời phần chất mềm ở giữa đĩa bắt đầu khô và
teo lại, mấu xương (spur) mọc nhô ra ở cạnh đốt xương sống vá
mặt khớp đốt xương.
Ðĩa đệm sẹp và
mấu xương nhô ra sẽ làm thu hẹp khoảng trống dành cho dây cột
sống, do đó rễ dây thần kinh bị đè ép.
Không phải ai
bị thoái hóa đĩa đệm cũng bị đau lưng.
Cơn đau thường
xảy ra khi bệnh nhân ngồi vì lúc này phần dưới cột sống chịu sức
nặng gấp ba lần khi đứng. Cơn đau tăng khi bệnh nhân cúi xuống,
nâng vật nặng hoặc vặn mình. Ði lại hoặc chạy chậm đôi khi làm
cơn đau giảm đi. Khi nằm, áp lực lên đĩa đệm giảm và làm bớt
đau.
Ngoài đau
lưng, bệnh nhân còn cảm thấy đau nhói nhói, tê tê ở dưới chân và
bàn chân vì dây thần kinh có thể bị kẹp hoặc đè ép.
Chụp X-quang
MRI hoặc CT scan là hai phương tiện rất hữu hiệu để xác định
bệnh. MRI cho biết mức độ thoái hóa và thoái vị của đĩa đệm.
Có nhiều
biện pháp trị liệu khác nhau:
a- Không giải phẫu
- Trước hết,
bệnh nhân cần kiểm soát cơn đau: chườm lạnh để làm giảm đau,
chườm nóng để cơ bắp thư giãn,
- Dùng thuốc
chống đau như acetaminophen, thuốc chống đau không có steroids
(NSAIDS), thuốc có chất á phiện, thuốc thư giãn bắp thịt.
- Ðôi khi, bác
sĩ cũng có thể chích cortisone vào màng tủy xương.
Ngoài ra, châm
cứu, thủ thuật chỉnh xương, thoa nắn, siêu âm... cũng có nhiều
công hiệu.
Ðôi khi người
bệnh phải phối hợp nhiều phương thức khác nhau, chứ không có một
phương thức chung cho mọi người bệnh.
b- Tập luyện, vật lý trị liệu
Khi cơn đau đã
giảm, bệnh nhân cần tích cực tập luyện các thành thần cấu tạo
cột sống.Tập luyện mang lại một số lợi ích như sau:
-Giúp các
thành phần cấu tạo xương sống duy trì sự bền bỉ và sức mạnh,
giảm áp lực xuống đĩa đệm. Nhờ đó, cơn đau giảm bớt.
-Vận động mang
chất dinh dưỡng tới cho đĩa đang bị thoái hóa, tổn thương. Tập
vươn giãn theo thể điệu để tăng cường sức mạnh của bắp thịt dọc
theo xương sống, nhờ đó cơn đau cũng giảm.
c- Thay đổi lối sống, thói quen
Bệnh nhân cũng
nên tránh các động tác gây ảnh hưởng cho đĩa đệm, như là nâng
vật quá nặng, vặn lưng quá cong và nên sử dụng ghế đệm đỡ lưng.
Nếu hút thuốc
là thì nên ngưng, vì thuốc lá làm giảm máu tới nuôi dưỡng đĩa.
Nếu quá mập phì cũng cần giảm cân.
d- Sau
sáu tháng phối hợp điều trị như trên mà cơn đau không những
không giảm, mà còn gia tăng, gây trở ngại cho cuộc sống, cho
công việc hàng ngày thì có thể nghĩ tới giải phẫu.
Có hai phương
thức giải phẫu thường được dùng:
- Nối tiếp đốt
sống (Fusion lumbar spine):
Ðĩa thoái hóa
được lấy ra và thay thế bằng xương của người bệnh hoặc xương
tổng hợp. Xương sẽ mọc ra trên xương ghép và hai đốt xương sẽ
dính với nhau. Bệnh nhân sẽ không còn cảm thấy đau vì đĩa thoái
hóa không còn nữa.
Phương thức
này có vài khuyết điểm: vết mổ đau, mất thời gian lâu để đốt
sống dính với nhau, sự dính đưa tới thay đổi chuyển động của các
đốt sống lân cận
- Thay thế
bằng đĩa nhân tạo
Ðĩa nhân tạo
được thay thế vào vị trí của đĩa thoái hóa. Thay thế này mới
được cho phép dùng ở Hoa Kỳ vào năm 2004, cho nên còn cần nhiều
nghiên cứu bổ túc để hoàn thiện.
Giải phẫu chữa
thoái hóa đĩa đệm là một phẫu thuật phức tạp, cần một thời gian
lâu sau giải phẫu để phục hồi và có thể gây ra một số khó khăn.
Do đó, bệnh nhân cần cân nhắc suy nghĩ kỹ càng và cần thảo luận
lợi hại với bác sĩ điều trị trước khi quyết định.
Sa đĩa liên sống
(Herniated
Disc)
Còn gọi là
thoát vị đĩa đệm, trợt đĩa (slipped disc), vỡ (ruptured) hoặc
rách (torn) đĩa.
Trường hợp
này xẩy ra khi nhân của đĩa nhô ra qua màng xơ bao chung quanh
đĩa và ép lên các rễ thần kinh, dây chằng kế cận.
Ða số các
trường hợp thoát vị đĩa đệm đều thường thấy ở tuổi 30-40, khi mà
nhân đĩa còn dẻo như gelatin. Thoát vị xẩy ra bất chợt khi vặn
hoặc cong cột sống quá mức. Phần đĩa đệm lòi ra sẽ đè lên dây
thần kinh cột sống.
Sa đĩa đệm có
thể thấy ở bất cứ phần nào của cột sống, nhưng 98% trường hợp ở
giữa hai cột sống lưng số 4- số 5 và cột sống lưng số 5 - xương
cùng.
Bệnh nhân có
những cơn đau sắc bén, mạnh như xé thịt ở lưng, chạy xuống vùng
chân mà dây thần kinh tủy có ảnh hưởng. Dáng đi tập tễnh, co
chân đau để tránh mang sức nặng của cơ thể.
Ðiều trị với
nghỉ ngơi, chườm nóng lạnh, dùng thuốc chống đau, vật lý trị
liệu, giải phẫu nếu cần.
Vẹo cột sống
(Scoliosis)
Vẹo cột sống
là một hình dạng bất bình thường về độ cong của xương sống.
Ở một người
bình thường và khi nhìn từ phía sau, cột sống là một đường thằng
đứng từ phần chót của gáy xuống tới xương cụt.
Nếu nhìn
nghiêng, xương sống có hình chữ S, cong ra phía trước ở phần
lưng trên và cong về phía sau ở phần lưng dưới.
Khi bị vẹo,
nhìn từ phía sau sẽ thấy cột sống có một vài độ cong không bình
thường.
Các dấu hiệu
thường thấy của vẹo cột sống gồm có:
-
Hai vai cao thấp không đều nhau
-
Một xương bả vai nhô cao hơn phía bên đối diện
-
Eo bên cao bên thấp
-
Một bên hông cao hơn bên kia
-
Khi đứng hoặc đi lại, người nghiêng về một phía.
Khi cột sống
vẹo nhiều, xương sườn và lòng ngực nhô về phía trước, gây khó
khăn cho sự thở và cũng gây ra đau lưng.
Nguyên nhân
gây ra vẹo cột sống chưa được biết rõ. Có nhiều trường hợp do
bẩm sinh, do chân dài chân ngắn.Vẹo cột sống thường thấy ở nhiều
người trong một gia đình.
Vẹo cột sống
không phải là hậu quả của dáng điệu không ngay ngắn, vận động cơ
thể quá mạnh hoặc đeo vật nặng trên lưng.
Cứ 1000 trẻ
em thì có từ 3-5 em bị vẹo cột sống và trẻ gái vẹo nhiều hơn
trai.
Vẹo trầm trọng
hơn khi xảy ra ở tuổi trẻ, khi cột nghiêng nhiều nhất là nghiêng
ở phần trên cột sống.
Bất thường này
ít khi xảy ra ở tuổi trưởng thành, đôi khi vì cột đã bị vẹo từ
nhỏ mà không chữa hoạc vẹo do thoái hóa cột sống.
Bình thường,
vẹo cột sống không gây ảnh hưởng xấu cho sức khỏe. Tuy nhiên,
khi cột vẹo nhiều sẽ gây tổn thương cho tim, phổi, đau lưng.
Lồng ngực sẽ đè vào tim phổi gây khó khăn cho sự hô hấp và sự
bơm máu từ tim.
Vẹo cột sống
gây ra đau lưng kinh niên, đôi khi viêm xương khớp cột sống.
Thường thường,
bác sĩ gia đình cũng như trường học đều khám để coi trẻ em có bị
vẹo cột sống không.
Trẻ bị vẹo cột
sống được điều chỉnh bằng:
- Ðeo nẹp lưng
(brace) để vẹo không trầm trọng hơn. Khi cởi bỏ nẹp, cột sống
vẹo trở lại.
- Giải phẫu
nối đốt sống ở chỗ vẹo với nhau, nhờ đó cột sống thẳng trở
lại.Phẫu thuật này rất phức tạp, cần được bác sĩ và bệnh nhân
cân nhắc lợi hại trước khi thực hiện.
Thoái hóa đốt sống
(spondylosis, osteoarthritis of the spine)
Trong thoái
hóa đốt sống, lớp sụn lót giữa hai mặt đốt xương và đĩa liên hợp
bị tổn thương gây ra thay đổi cấu trúc và suy giảm chức năng của
cột sống. Tuổi cao là rủi ro chính của sự thoái hóa nhưng mức độ
thoái hóa nhanh chậm tùy theo từng người. Thoái hóa có thể xảy
ra ở cột sống cổ, ngực, lưng.
1- Thoái hóa đĩa đệm: Với tuổi cao, vành bao bọc đĩa đệm bị
rách mòn, phần keo trong đĩa khô nước, giảm khả năng chống sốc
và giảm chiều cao của cơ thể. Chất keo có thề lòi ra khỏi vành,
đè lên rễ dây thần kinh não tủy.
2- Viêm khớp đốt sống
Mỗi đốt sống
có 4 mặt khớp có nhiệm vụ như cái bản lề để cột sống có thể cử
động nghiêng ngả về phía trước sau và hai bên. Một lớp sụn bao
phủ mặt khớp để sự chuyển động khớp được chơn tru. Khi bị thoái
hóa, sụn hao mòn, gai xương (osteophyte=bone spurs) mọc ra.
Thoái hóa đốt
sống cổ gây ra đau ở cổ, vai và cánh tay. Gai xương có thể đè
lên rễ dây thần kinh, làm cho các bắp thịt ở tay yếu.
Viêm khớp đốt
sống ngực gây ra đau khi cúi xuống hoặc ngửa người ra phía sau.
Ðốt sống lưng
chịu đựng hầu hết sức nặng của cơ thể. Khi thoái hóa, thường có
đau lưng nhất là khi ngồi lâu hoặc nâng nhấc vật nặng.
Chụp hình cột
sống (X-quang,MRI, CT Scan) đều thấy rõ các thay đổi của cột
sống.
Ðiều trị
Nhiều người cứ
cho rằng khi bị thoái hóa cột sống là sẽ bị đau lưng suốt đời
hoặc phải ngồi xe lăn. Thực ra, bệnh không đưa tới tình trạng bi
quan như vậy, vì với các phương tiện trị liệu hiện có, 75% bệnh
nhân có thể phục hồi.
Trị liệu căn bản gồm có:
- Nằm nghỉ
không quá 3 ngày, để tránh máu cục ở tĩnh mạch nằm sâu dưới da
- Dùng dược
phẩm chống viêm đau, thuốc thư giãn cơ bắp trong thời gian ngắn
- Vùng xương
bị viêm được giữ cố định để tạm thời giới hạn cử động khớp và
giảm đau
- Chườm nóng,
kích thích điện
- Tập các cử
động tăng sức mạnh bắp thịt ở bụng, dọc theo cột sống để giúp
cột sống mạnh hơn
- Thay đổi nếp
sống, việc làm, bỏ thuốc lá, giảm cân nếu mập phì...
Giải phẫu ít
khi cần đến trong trường hợp thoái hóa đốt sống.
Ðau dây thần
kinh tọa.
Dây thần kinh
tọa (sciatic nerve) là dây thần kinh chính ở chân.
Ðây là dây
thần kinh lớn nhất, chạy dài từ phần dưới cột sống xuống phía
sau đùi. Tới khớp gối, dây chia ra làm hai nhánh phân bố cho các
cơ và da của chân.
Ðau dây thần
kinh tọa thường xảy ra ở lớp tuổi từ 30- 50 và thường là do một
đĩa đệm ở phần dưới lưng lòi ra, đè lên rễ của dây thần kinh.
Triệu chứng
chính của rối loạn này là cảm giác đau ở một phía cơ thể, chạy
dài từ dưới lưng xuống mặt sau của bắp đùi và bắp chân, đôi khi
tới bàn chân, ngón chân. Cảm giác đau có thể là:
- Ðau ở phía
sau chân nhất là khi ngồi
- Cảm giác
nóng và nhoi nhói dưới da
- Yếu, tê tê
và không cử động được chân và bàn chân
- Ðau liên tục
khiến cho đứng lên khó khăn
- Thường
thường đau ở dưới chân nhiều hơn là ở lưng
Cảm giác đau
thường hết sau thời gian từ hai tuần lễ tới vài tháng. It khi
dây thần kinh tọa bị tổn thương vĩnh viễn.
Nếu thấy chân
mỗi ngày mỗi yếu hoặc có rối loạn đại tiểu tiện, thì cần gặp bác
sĩ ngay để khám nghiệm, điều trị vì có thể là dây thần kinh tọa
bị tổn thương trầm trọng.
Ðiều trị tập
trung ở giải quyết nguyên nhân (kẹp dây thần kinh tọa) giảm đau
với thuốc chống viêm đau, vật lý trị liệu, tập luyện tăng sức
mạnh bắp thịt.
Giải phẫu cũng
được áp dụng khi bệnh không thuyên giảm với các trị liệu kể
trên. Mục đích của giải phẫu là để giải tỏa đè kẹp rễ dây thần
kinh tọa.
Viêm cứng khớp cột sống
(ankylosing
spondylitis)
Như tên gọi,
viêm cứng cột sống là trường hợp viêm của đốt xương sống. Trong
trường hợp trầm trọng, các đốt xương có thể dính lại với nhau và
gây ra giới hạn cử động của bộ phận này. Viêm dây chằng, gân kết
nối các đốt sống với nhau cũng có thể xảy ra.
Các đốt sống
cùng-chậu là nơi thường hay bị viêm
Bệnh này xảy
ra ở mọi lứa tuổi, nhưng thường thấy ờ tuồi từ 15 tới 30 và ở
đàn ông nhiều hơn đàn bà.
Triệu chứng
gồm có:
- Ðau lưng
kinh niên, kéo dài từ nhiều tháng tới nhiều năm
- Cơn đau
thường xẩy ra vào ban đêm
- Cảm giác
cứng nhắc ở lưng sau khi ngủ dậy và kéo dài suốt ngày
- Ðau ở vùng
xương sườn, bả vai, hông, đùi, gót chân
- Viêm mống
mắt (iritis) với cảm giác cồm cộm như có cát trong mắt.
- Trong một
vài trường hợp, viêm phần cuối của động mạch chủ.
Nguyên nhân
gây ra viêm cứng khớp cột sống chưa được biết rõ, nhưng bệnh
mang tính cách di truyền cho nhiều người trong gia đình.
Bệnh không
chữa hết được, nhưng có nhiều phương thức giúp bệnh nhân cảm
thấy thoải mái, bớt đau và duy trì sinh hoạt hàng ngày.
Các loại thuốc
chống viêm đau không có steroid giúp bệnh nhân bớt đau và cứng
khớp. Thuốc có steroid đôi khi cũng được dùng.
Tập luyện, vận
động cơ thể có vai trò quan trọng trong bệnh viêm cứng này. Tập
luyện để giúp khớp xương chuyển động, giảm đau nhức, giữ dáng
điệu và lồng ngực bình thường và không gây trở ngại hô hấp.
Kết luận
Cột xương sống
là một cấu trúc tuyệt hảo để:
- nâng đỡ đầu
và phần trên của cơ thể
- chứa đựng và
bảo vệ cột tủy sống, nơi dẫn truyền cả triệu tín hiệu sinh tử
giữa não bộ và các cơ quan, bộ phận của cơ thể.
- giúp cơ thể
uyển chuyển thân hình, thích nghi với các hoạt động khác nhau.
Do đó, cột
sống cần được sự lưu tâm chăm sóc và nuôi dưỡng đầy đủ.
Bác sĩ Nguyễn Ý-Ðức
Texas-Hoa Kỳ
|
VỀ MỤC LỤC |
|
- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến,
bài vở..., xin gởi về địa chỉ
giaosivietnam@gmail.com
- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục
vụ của Giáo sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các
Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn
gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực
Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh
vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức
Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và
Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quí vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại
www.conggiaovietnam.net
Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị
Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã
sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác
nhau.
TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca
Phạm Quốc Sử
USA
|
|
*************
|
|