Tục ngữ Việt Nam
đã từng nói : học ăn, học nói, học gói, học mở. Có nghĩa là
chúng ta phải học tất cả, từ những việc dễ dàng và đơn giản
nhất, đến những khó khăn và phức tạp nhất. Thực vậy, ngay từ hồi
còn tấm bé, chúng ta đã phải học từng ly từng tí. Lớn lên khi
tiếp xúc với cuộc đời, chúng ta vẫn còn phải mở to đôi mắt để
ghi nhận và học hỏi nhiều hơn nữa. Huống nữa là tình yêu, vừa là
một khoa học lại vừa là một nghệ thuật, vừa khó khăn lại vừa tế
nhị. Việc học tập này phải được bắt đầu từ mái ấm gia đình, rồi
được phát triển trong môi trường xã hội với những người chúng ta
có dịp tiếp xúc với.
Hơn thế nữa,
nhìn vào cuộc sống chúng ta thấy : Để làm bất cứ một việc quan
trọng nào, chúng ta đều phải chuẩn bị. Đúng thế, để làm linh
mục, chúng ta phải vào chủng viện. Để làm bác sĩ, chúng ta phải
học hành và thực tập sáu bảy năm trời. Để làm giáo viên, chúng
ta phải được đào tạo qua trường sư phạm. Tuy nhiên, có một việc
thật quan trọng, ảnh hưởng tới cả cuộc đời và những thế hệ mai
sau, đó là đi vào hôn nhân, đi gánh vác thiên chức làm cha làm
mẹ cũng như làm vợ làm chồng, như các cụ ta ngày xưa cũng đã bảo
:
- Tậu trâu, lấy
vợ, làm nhà,
Trong ba việc
ấy, thật là khó khăn.
Hay như một câu
danh ngôn cũng đã xác quyết :
- Tương lai cuộc
đời hệ tại một vài quyết định quan trọng của thuở niên thiếu. Và
một trong những quyết định quan trọng ấy chính là lập gia đình.
Thế nhưng, chúng
ta đã làm được những gì để giúp cho các bạn trẻ ? Xin thưa rằng
rất có thể là không gì cả. Quả là một thiếu sót lớn lao, để rồi
các bạn trẻ đã phải phiêu lưu đi vào đời sống vợ chồng, đã liều
mình làm cha làm mẹ mà chẳng lấy có được một sự chuẩn bị nào
sốt, thành thử biết bao nhiêu người đã trở thành nạn nhân cho
cuộc phiêu lưu liều lĩnh ấy. Vậy phải làm gì bây giờ ?
Nếu như hoàn
cảnh cho phép, chúng ta có thể tổ chức một khóa dự bị hôn nhân,
rồi phát chứng chỉ. Cầm được tờ chứng chỉ trong tay, các bạn trẻ
cảm thấy “yên trí nhớn”, không sợ bị hạch hỏi và làm khó dễ khi
vào trình diện…và hơn thế nữa còn lấy làm đủ vì cho rằng mình đã
được trang bị đến tận răng, để rồi nghiễm nhiên tiến tới ngưỡng
cửa hôn nhân.
Nếu chỉ có vậy
mà thôi, thì còn thiếu sót rất nhiều. Trong tông huấn
“Familiaris Consortio”, bàn về gia đình, Đức Thánh Cha
Gioan-Phaolô II đã xác quyết như sau :
- “Vào thời
chúng ta, việc chuẩn bị cho các bạn trẻ bước vào hôn nhân và đời
sống gia đình càng cần thiết hơn bao giờ hết”. (FC 66).
Sở dĩ như vậy là
vì :
- “Nhiều hiện
tượng tiêu cực trong đời sống gia đình mà ngày nay người ta than
phiền, đã xuất phát từ sự kiện, đó là trong những hoàn cảnh mới,
các bạn trẻ không còn nhận ra được phẩm trật đúng đắn của các
giá trị và vì không còn những tiêu chuẩn chắc chắn để xử thế, họ
không còn biết làm sao để đương đầu và giải quyết các khó khăn
mới.” (FC 66).
Như chúng ta đã
biết : hôn nhân và gia đình hiện nay đang lâm vào một cuộc khủng
hoảng trầm trọng, nhất là tại các nước phương tây. Con số các
đôi vợ chồng lôi nhau ra tòa ly dị gia tăng một cách đáng sợ.
Lấy nhau đấy và rồi lại bỏ nhau vốn dĩ đã là chuyện thường ngày
ở huyện, để rồi đẩy con cái vào cái thế chơ vơ và lạc lõng. Gia
đình bị lung lay tận gốc rễ. Ngoài ra còn có những cuộc hôn nhân
“trái quy tắc” như tông huấn đã đề cập đến, như hôn nhân thử,
nghĩa là thử chung sống với nhau một thời gian, nếu ổn thì tiến
tới, còn nếu bất ổn thì rút lui, hay chung sống với nhau mà
không cần đến hôn nhân, vui thì ở buồn thì ca bản “tình nghĩa
đôi ta chỉ thế mà thôi”, không còn ràng buộc gì với nhau nữa,
chứ một khi đã vướng vào cái dây hôn phối, thì phải “mồ côi vợ”
khi vợ vẫn còn sống hay mồ côi chồng” khi chồng đang vui với
cuộc tình mới, mồ côi suốt đời thì làm sao mà chịu cho thấu…
Hoàn cảnh Việt
Nam, mặc dầu chưa đến nỗi tệ hại như vậy, bởi vì do truyền thống
từ ngàn xưa, gia đình vẫn còn giữ được những giá trị của nó và
vẫn còn ảnh hưởng mạnh mẽ trên mỗi người chúng ta, nhưng trong
một tương lai rất gần, mười lăm hay hai chục năm nữa, những giá
trị ấy chắc chắn sẽ bị xói mòn và ảnh hưởng của gia đình sẽ bị
giảm sút, bằng chứng là hiện nay, chuyện ly dị không còn là điều
cấm kỵ, nhưng đã lai rai xuất hiện ở khắp nơi, rồi con số những
người nạo thai, phá thai vẫn liên tục phát triển, và phát triển
một cách mạnh mẽ…
Xã hội ngày nay
thay đổi một cách dồn dập và mau chóng. Hơn thế nữa, những sự
thay đổi ấy lại được loan truyền đi khắp cả và thiên hạ một cách
cực kỳ nhanh nhẹn bằng những phương tiện thông tin hiện đại. Vì
thế, chúng ta tin chắc : chuyện xảy ra ở bên tây hôm nay, thì
rồi ngày mai cũng sẽ xảy ra tại Việt Nam. Có nghĩa là nền tảng
gia đình trong xã hội Việt Nam cũng sẽ bị cuốn hút vào cơn khủng
hoảng.
Vì thế, việc
chuẩn bị hôn nhân lại càng cần thiết hơn bao giờ hết, bởi vì như
tông huấn đã ghi nhận một kinh nghiệm cụ thể và quí giá như sau
:
- “Các bạn trẻ
được chuẩn bị chu đáo cho đời sống gia đình, cách chung sẽ thành
công hơn các bạn khác”. (FC 66).
Do tính cách
quan trọng và cấp bách, việc chuẩn bị hôn nhân phải là một việc
mà gia đình, xã hội cũng như Hội Thánh cần làm ngay. Đức Thánh
Cha viết :
- “Những thay
đổi dồn dập trong lòng hầu hết các xã hội tân tiến đòi hỏi không
chỉ gia đình, mà cả xã hội và Hội Thánh đều phải dấn thân vào nỗ
lực chuẩn bị tương xứng, để các bạn trẻ có thể cáng đáng các
trách nhiệm trong tương lai”. (FC 66).
Đặc biệt là vai
trò của Hội Thánh :
- “Điều đó còn
đúng hơn nữa cho hôn nhân Kitô giáo, vốn có ảnh hưởng rất rộng
đối với sự thánh thiện của biết bao người nam nữ. Vì thế, Hội
thánh phải cổ võ những chương trình chuẩn bị hôn nhân phong phú
và hữu hiệu, để hết sức loại trừ những khó khăn mà trong đó biết
bao gia đình đang phải chiến đấu, và hơn nữa, để tích cực dẫn
đưa các cuộc hôn nhân đến chỗ thành công và trưởng thành trọn
vẹn.” (FC 66).
Vậy phải chuẩn
bị như thế nào ? Tông huấn đã đưa ra một sơ đồ đầy đủ cho việc
chuẩn bị như sau :
- “Việc chuẩn bị
hôn nhân phải được xem xét và thực hiện theo một tiến trình tuần
tự và liên tục. Nó gồm ba giai đoạn chính : Chuẩn bị xa, chuẩn
bị gần và chuẩn bị liền trước bí tích.” (FC 66).
Chúng ta sẽ lần
lượt tìm hiểu ba giai đoạn của việc chuẩn bị này. Trước hết là
chuẩn bị xa.
I- CHUẨN BỊ
XA.
Nhiều khi chúng
ta đã băn khoăn và tự hỏi : Vào lứa tuổi nào thì nên đi lập gia
đình ? Hay nói một cách đầy đủ hơn : Phải có những điều kiện nào
để bước vào đời sống lứa đôi ?
Đây là một câu
hỏi khó trả lời, nó thay đổi tùy theo hoàn cảnh và tập tục của
từng địa phương. Trong xã hội Việt Nam thời xưa thì : Nữ thập
tam, nam thập lục, gái mười ba trai mười sáu. Còn trong Giáo
luật cũ, khoản 1067 đã qui định : Nam mười sáu, nữ mười bốn, nếu
dưới lứa tuổi này thì cuộc hôn nhân bị coi là bất hợp pháp.
Luật nhà nước hiện nay thì ấn định : Gái mười tám, trai hai
mươi.
Bởi vậy, cụ thể
là chúng ta nên tuân theo luật của nhà nước, đòi hỏi đôi hôn
phối phải có giấy đăng ký nơi chính quyền địa phương. Tuy nhiên,
để cuộc hôn nhân đi tới bến bờ hạnh phúc, thì phải hội đủ ba
điều kiện, đó là trưởng thành về sinh lý, về tình cảm và về xã
hội.
Trước hết
: sự trưởng thành về sinh lý.
Vậy trưởng thành
về sinh lý nghĩa là gì ? Xin thưa : Trưởng thành về sinh
lý có nghĩa là cơ thể của đôi bên phải được phát triển đầy đủ để
đón nhận thiên chức làm cha và làm mẹ. Bởi vì một trong
hai mục đích chính yếu của hôn nhân là sinh sản con cái như lời
Chúa đã phán : Hãy sinh sôi nảy nở cho nhiều đầy mặt đất.
Mức độ trưởng thành về sinh lý tương đối
rất sớm, có thể vào khoảng mười bốn hay mười lăm tuổi. Dấu chỉ
của sự trưởng thành sinh lý nơi người con trai là việc xuất
tinh, còn nơi người con gái là việc có kinh. Thế nhưng cần phải
đợi thêm một thời gian nữa cho cơ thể được phát triển trọn vẹn.
Đây là một điều kiện cần phải
lưu ý, nhất là đối với những bậc làm cha làm mẹ. Nhiều khi vì
quá lo lắng cho con cái, đặc biệt là con gái lớn trong nhà, muốn
gả sớm chừng nào hay chừng ấy, vì như người ta thường so sánh
một cách khôi hài : Có con gái lớn như chứa một quả bom nổ chậm,
không biết bao giờ nó sẽ phát nổ ? Hơn nữa, các ông các bà
thường nghĩ : Con gái có thời. Và khi cái thời ấy đã qua đi thì
khó mà trở lại.
Lo lắng cho con
cái là điều tốt, nhưng cha mẹ cần phải ý thức những hậu quả tai
hại do việc kết hôn quá sớm gây nên. Những cặp vợ chồng trẻ con
này, rất có thể vì bồng bột mà lấy nhau, để rồi được dăm bữa nửa
tháng lại chán nhau. Ngoài ra, vì chưa ý thức đầy đủ về những
bổn phận và trách nhiệm của mình, nên dễ giận hờn và cãi vã vì
những chuyện nhỏ mọn không đâu. Chưa biết làm ăn để bảo đảm một
đời sống vật chất tương đối ấm no. Chưa giáo dục nổi bản thân
thì làm sao giáo dục được con cái. Hơn thế nữa, y khoa ngày nay
còn cho thấy : những cặp vợ chồng trẻ con này, vì khả năng sinh
lý bị xử dụng quá sớm, nên thường gây ra những thiệt hại về sức
khỏe cho cả hai bên. Và những đứa con do họ sinh ra cũng thường
èo uột, đau yếu. Nhưng trưởng thành về sinh lý mà thôi chưa đủ,
các bạn trẻ còn phải trưởng thành về tình yêu và xã hội nữa, vì
đó mới là những điều kiện thật cần thiết để đem lại hạnh phúc.
Tiếp đến :
sự trưởng thành về tình yêu.
Vậy trưởng thành
về tình yêu nghĩa là gì ? Xin thưa : Trưởng
thành về tình yêu đó là tình yêu của chúng ta phải được phát
triển từ tình trạng ấu trĩ đến tình trạng trưởng thành, nhờ đó
mỗi ngày một thêm mặn nồng và đằm thắm.
Tình trạng ấu
trĩ là một tình yêu khép kín. Một tình yêu vị kỷ, một tình yêu
vì mình. Chúng ta bắt người khác phải phục vụ chúng ta và đi tìm
nơi họ những đòi hỏi, những cảm xúc của bản năng như một câu
danh ngôn đã bảo :
- Chúng ta nhìn
vào cặp mắt của người chúng ta yêu, không phải để thấy rằng cặp
mắt ấy đẹp, dễ thương và dễ mến, nhưng là để thấy hình ảnh mình
được in trên cặp mắt ấy.
Chính khuynh
hướng ích kỷ sẽ giết chết tình yêu hay ít nữa sẽ làm cho tình
yêu trở thành nhơ nhớp. Bởi đó, Tagore đã hỏi : Tại sao hoa kia
lại héo ? Vì tôi đã hái và ép nó vào ngực. Tại sao suối kia lại
cạn ? Vì tôi đã xây đập, chặn nước để dùng riêng. Nếu không
vượt qua những chướng ngại vật do tính ích kỷ gây nên, chắc chắn
tình yêu cũng sẽ bị tàn héo và khô cạn như thế.
Sự trưởng thành
trong tình yêu đòi buộc chúng ta phải ra khỏi cái vỏ ốc sên,
phải ra khỏi tháp ngà của bản thân để đến với người khác, hầu
giúp đỡ và đem lại hạnh phúc cho họ. Thay vì một tình yêu vì
mình, chúng ta phải đạt tới một tình yêu vì người. Thay vì một
tình yêu khép kín, chúng ta phải có được một tình yêu rộng mở.
Bởi đó, đừng vội vã đi vào tình yêu khi trái tim mình còn quá
nghèo nàn. Vì yêu là cho đi, nhưng nếu không có gì thì làm sao
mà cho đi được.
Hướng tới người
khác đã đành, mà hơn thế nữa, chúng ta còn phải quản lý con tim
mình một cách chặt chẽ để nó khỏi đập lỗi nhịp hay trật đường
rầy…Thực vậy, tiến đến hôn nhân là chúng ta chính thức bày tỏ sự
chọn lựa. Nhưng chọn lựa nghĩa là gì ? Chọn lựa có nghĩa là chấp
nhận và từ bỏ. Chấp nhận người tôi yêu với tất cả những ưu điểm
và khuyết điểm, những sở trường và sở đoản, để rồi cộng tác và
giúp đỡ lẫn nhau hầu thăng tiến bản thân và đổi mới cuộc đời.
Đồng thời phải
từ bỏ tất cả những gì khả dĩ làm cho tình yêu bị suy giảm và
hạnh phúc bị rạn vỡ. Đó có thể là những hình ảnh vàng son của
một dĩ vãng “hoàng thị”. Nhưng dĩ vãng thì đã qua đi, chỉ có
hiện tại mới là nỗi bận tâm duy nhất. Bởi vì nếu cứ so sánh dĩ
vãng với hiện tại, chắc chắn chúng ta sẽ thấy hiện tại không
được bằng dĩ vãng. Và như thế, tình yêu sẽ bị chết dần chết mòn.
Đó có thể là những chia sẻ bất chánh, những giao du thầm lén,
những liên hệ vụng trộm, khả dĩ đem tới những ghen tương và làm
cho gia đình bị đổ vỡ.
Bởi vậy, phải
tìm hiểu nhau cho thấu đáo, rồi mới chọn lựa và tiến tới hôn
nhân. Và một khi đã chọn lựa, thì phải dứt khoát trung thành với
nhau mãi mãi, chứ không được chạy theo những bóng hình nào khác.
Sau cùng :
sự trưởng thành về xã hội.
Vậy trưởng thành về xã hội nghĩa là gì ?
Xin thưa : Trưởng thành về xã
hội đó là mỗi người phải ý thức trách nhiệm của mình để rồi cố
gắng chu toàn một cách tối đa.
Kể từ ngày kết hôn, chúng ta rẽ vào một
khúc quanh mới của cuộc đời. Chúng ta kề vai gánh lấy những bổn
phận của nếp sống lứa đôi. Bởi đó, phải nhìn rõ những bổn phận
của mình : bổn phận vợ chồng và bổn phận cha mẹ, để rồi cố gắng
chu toàn, vì một cuộc hôn nhân thành công hay thất bại, không
phải chỉ đem lại hạnh phúc hay đau khổ cho riêng mình, mà còn
cho người mình yêu, cho con cái cháu chắt, cho xã hội và Giáo
Hội nữa.
Việc chu toàn
những trách nhiệm này đòi hỏi chúng ta phải hy sinh nhiều lắm.
Nhưng chính nhờ những hy sinh cho nhau và vì nhau mà tình yêu
mỗi ngày trở nên tinh ròng. Còn nếu không có được sự trưởng
thành này, người ta sẽ dễ dàng bỏ bê bổn phận mà lao vào rượu
chè, cờ bạc, hút sách, trai gái…không lo lắng cho gia đình. Như
thế làm sao tạo được hạnh phúc.
Tuy nhiên sự
trưởng thành về tình yêu và xã hội lại không lệ thuộc vào tuổi
tác, nhưng phải tập luyện mỗi ngày. Phải tập luyện từ khi còn
tấm bé, cho đến khi đầu bạc răng long. Có những người đã già mà
vẫn còn bê tha vợ nọ con kia, vẫn còn nghiện ngập rượu chè, say
mê cờ bạc, biến gia đình trở thành một địa ngục. Đó là dấu chỉ
chắc chắn nhất để nói lên rằng : họ chưa thực sự trưởng thành về
tình yêu và xã hội.
Vì thế, cần phải
hội đủ ba điều kiện : trưởng thành về sinh lý, về tình yêu và về
xã hội thì mới nên đặt chân vào hôn nhân, vì đó là những hành
trang cần thiết, không thể không có, nếu muốn cho thuyền tình
được cặp vào bến bờ hạnh phúc.
Bởi vậy, chúng
ta không lấy làm lạ khi Tông huấn đòi phải bắt đầu chuẩn bị ngay
từ những ngày còn nhỏ dại :
- “ Việc chuẩn
bị xa bắt đầu từ thời thơ ấu”. (FC 66).
Trong giai đoạn
này, gia đình nắm giữ một vai trò thật quan trọng, không thể
thiếu vắng. Đồng thời việc giáo dục phải nhắm tới những điểm
chính yếu sau đây :
1- GIÁO
DỤC NHÂN BẢN
a/ Trước
hết là đối với bản thân :
Người xưa đã nói
: “Uốn cây uốn thuở còn non, dạy con từ thưở con còn đang thơ.
Thực vậy, một cành non chúng ta muốn uốn nó thành hình dạng chi
cũng được. Thế nhưng, một khi đã trở cành cây to, chúng ta sẽ
không thể nào uốn lại được nữa. Cũng vậy, tâm hồn trẻ thơ giống
như một tờ giấy trắng, hay một tấm bảng nhẵn nhụi phẳng phiu
“tabula rasa”, chúng ta muốn viết vào đó chữ gì cũng xong. Vì
thế, việc giáo dục cũng chính là một sự chuẩn bị xa cho các em
bước vào đời nói chung, và bước vào cuộc sống lứa đôi nói riêng.
Tiên vàn, việc
giáo dục này phải giúp các em khám phá ra chính bản thân, chính
con người của mình với những sở trường và sở đoản, với những ưu
điểm và khuyết điểm. Ưu điểm thì giúp phát triển, còn khuyết
điểm thì giúp sửa đổi.
- “Khoa sư phạm
khôn ngoan của gia đình phải nhằm đưa trẻ em tới chỗ khám phá ra
rằng mình được phú ban một tâm lý vừa phong phú vừa phức tạp,
được phú ban một nhân cách đặc thù, với những sức mạnh cũng như
những yếu đuối của riêng mình”. (FC 66).
b/ Tiếp đến
là đối với những người chung quanh.
Kinh nghiệm cho
thấy : chúng ta không thể nào sống cô độc lẻ loi như một pháo
đài biệt lập, hay như một hòn đảo giữa biển khơi. Trái lại,
chúng ta sống là sống chung và sống với người khác trong một
cộng đoàn, trong một xã hội. Và xã hội đầu tiên, cộng đoàn đầu
tiên các em sống chung và sống với đó chính là gia đình. Mái ấm
gia đình sẽ giúp các em nhận ra những giá trị nhân bản và những
tương quan với người khác, như Tông huấn đã xác quyết :
- “Đây là giai
đoạn mà trong đó, người ta dần dần ghi khắc cho các em lòng quí
chuộng đối với mọi giá trị nhân bản đích thực, trong các tương
quan liên vị cũng như các tương quan xã hội, với những gì hàm
chứa trong đó để đào tạo tính tình, để biết tự chủ và sử dụng
đúng đắn các xu hướng riêng của mình, để biết cách nhận xét và
gặp gỡ những người khác phái và những chuyện khác như thế”. (FC
66).
Tóm lại, trong
thời gian từ ấu thơ cho tới tuổi mười tám, đôi mươi, chúng ta
cần phải cho các em được hưởng một nền giáo dục căn bản, đào
luyện các em trở thành một người, khả dĩ có thể sống tự lập và
sống với người khác.
2- GIÁO
DỤC ĐẠO ĐỨC
Ngoài ra, là
người công giáo chúng ta còn phải cho các em một nền giáo dục
Kitô giáo, nghĩa là đào luyện các em trở thành những người con
cái Chúa, ngay từ hồi còn tấm bé đã biết sống đức tin của mình
bằng cách tuân giữ những điều Chúa và Giáo hội truyền dạy.
Tông huấn viết :
- “Ngoài ra, đặc
biệt đối với các Kitô hữu, còn phải có một sự đào tạo vững chắc
về đời sống thiêng liêng và giáo lý, để hiểu được rằng hôn nhân
là một ơn gọi và là một sứ mạng đích thực, nhưng vẫn không loại
trừ khả năng tận hiến cho Thiên Chúa trong ơn gọi linh mục hoặc
tu sĩ’.(FC 66).
Để thực hiện
được điều trên, gia đình và giáo xứ cần phải cộng tác với nhau.
Thực vậy, ngày nay hầu như các giáo xứ đều có những chương trình
giáo lý thích hợp cho từng lứa tuổi của các em, từ kêu Chúa và
rước lễ lần đầu cho đến Thêm sức và rước lễ bao đồng…để các em
được tiếp thu những kiến thức về tôn giáo và biến những kiến
thức ấy thành hành động, thành cuộc sống của mình. Những chương
trình này được dạy vào ngày Chúa nhật hay tổ chức thành những
khóa vào kỳ hè. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần phải rà soát lại
xem việc dạy giáo lý của chúng ta có thực sự đem lại những kết
quả mong muốn hay không ? Bởi vì giảng viên thì nhiều khi chắp
vá thiếu khả năng. Còn học viên thì vừa nghịch ngợm vừa lơ đãng.
Và hơn thế nữa, việc dạy giáo lý không phải chỉ là việc nhồi
nhét cho các em một mớ những kiến thức về tôn giáo, mà còn là
việc giúp các em trở thành những người đạo đức tốt lành, biết
thực sự sống đức tin của người con cái Chúa.
II- CHUẨN
BỊ GẦN
Tông huấn đã xác
định thời gian cho việc chuẩn bị gần như sau :
- “Tiếp theo,
việc chuẩn bị gần sẽ dựa trên nền tảng ấy và là một công cuộc
lâu dài : bắt đầu từ lứa tuổi thích hợp…” (FC 66).
Như vậy, lứa
tuổi thích hợp cho việc chuẩn bị gần, thiết nghĩ bắt đầu từ mười
tám đôi mươi cho đến những ngày gần kề trước khi cưới. Trong
thời gian này, việc chuẩn bị cũng nhằm tới hai điểm chính yếu :
1- GIÁO
DỤC NHÂN BẢN
Tiếp nối việc
giáo dục nhân bản, đào tạo thành những con người biết sống tự
lập và sống với người khác, trong giai đoạn này, Tông huấn đặc
biệt nhấn mạnh đến việc giúp cho các bạn trẻ ổn định cuộc sống
của mình sau này. Tông huấn viết :
- “Tạo điều kiện
thuận lợi để họ có được những yếu tố cơ bản cho một nếp sống gia
đình ổn định (việc làm chắc chắn, đủ điều kiện tài chánh, biết
điều hành sáng suốt, có khái niệm về kinh tế gia đình v.v.)”.
(FC 66).
Như vậy, điều
cần thiết phải làm ngay, đó là phải dạy cho các bạn trẻ một nghề
nghiệp để họ có thể kiếm sống, đồng thời phải biết tiết kiệm
trong việc chi tiêu của mình.
Thực vậy, chúng ta cũng không thể nào sống
trong cái lý tưởng : một túp lều tranh, hai quả tim vàng, uống
nước lã, nhìn nhau than thở. Trái lại, hãy nhìn vào thực tế,
phải làm sao có được cơm ăn, áo mặc, phải làm sao bảo đảm được
một đời sống vật chất ít nữa là tương đối ?
Để thực hiện được giấc mộng bình thường
này, thiết tưởng nghĩ không gì hơn là nghề nghiệp và sự cần
kiệm.
2- GIÁO
DỤC ĐẠO ĐỨC
Cùng với việc
giáo dục nhân bản, là việc giáo dục đạo đức. Thực vậy, việc
trình bày giáo lý không thể giữ mãi những hình ảnh ấu trĩ,
nhưng cần phải được cập nhật hóa để phù hợp và chuyên sâu hơn.
Tông huấn đã đưa ra cả một chương trình giáo lý cụ thể để giúp
các bạn trẻ trong cuộc sống cũng như trong hôn nhân sau này.
Tông huấn viết :
- “Bắt đầu từ
lứa tuổi thích hợp và với một việc dạy giáo lý tương xứng, tương
tự phần nào như hành trình dự tòng, công việc này sẽ gồm việc
chuẩn bị chuyên biệt về các bí tích, như để giúp các bạn trẻ tái
khám phá các bí tích. Việc canh tân giáo lý theo chiều hướng đó
cho tất cả những ai đang chuẩn bị hôn nhân Kitô giáo là điều hết
sức cần thiết, để bí tích sẽ được cử hành và được sống với những
dự kiện luân lý và thiêng liêng thích hợp. Đến lúc thích hợp và
tùy theo những đòi hỏi cụ thể khác nhau, việc đào tạo cho những
người đính hôn sẽ phải bổ túc bằng một sự chuẩn bị cho đời sống
lứa đôi : khi trình bày hôn nhân như một tương quan liên vị phải
được phát triển liên tục giữa người nam và người nữ, người ta
phải khuyến khích họ đào sâu những vấn đề tính dục hôn nhân và
về vai trò cha mẹ có ý thức trách nhiệm, cùng với những hiểu
biết cốt yếu gắn liền với các vấn đề ấy trong lãnh vực sinh lý
và y học, và đưa tới chỗ làm quen với những phương pháp tốt để
giáo dục con cái”. (FC 66).
Từ những gợi ý
cụ thể trên, chúng ta rút ra được những điểm chính yếu sau đây :
- Giúp các bạn
trẻ hiểu và sống các bí tích một cách ý thức và đầy đủ, nhất là
bí tích Giải tội và bí tích Thánh thể.
- Giúp các bạn
trẻ nắm vững mục đích và trách nhiệm của cuộc sống lứa đôi.
- Ngoài những
điều kể trên, Tông huấn còn nhắc tới tình liên
đới và cộng tác với các gia đình khác trong việc tông đồ. Đức
Thánh Cha viết :
- “Sau cùng, cũng sẽ không được coi thường
việc chuẩn bị cho công cuộc tông đồ gia đình, cho tình huynh đệ
và sự cộng tác với các gia đình khác, cho việc tích cực hội nhập
vào các nhóm, các hiệp hội, các phong trào, các sáng kiến có mục
đích đem lại thiện ích nhân bản và Kitô giáo cho gia đình”. (FC
66).
Thực vậy, chúng ta không phải chỉ biết có
gia đình mình và chỉ lo cho gia đình mình mà thôi, biến gia đình
mình trở thành một ốc đảo biệt lập, cho dù đó là một ốc đảo xanh
tươi. Trái lại, gia đình phải là một con đường dẫn đưa chúng ta
và những người chung quanh đến cùng Chúa. Vì thế, cần phải biết
liên đới và cộng tác với những gia đình khác trong việc tông
đồ, cũng như dấn thân vào những công tác xã hội đem lại lợi ích
chung.
III- CHUẨN BỊ CẤP THỜI
Việc chuẩn bị cấp thời phải được tổ chức
ngay trước hôn nhân, như Tông huấn đã nói :
- “Việc chuẩn bị liền trước cuộc cử hành bí
tích phải diễn ra trong nhiều tháng và nhất là trong những tuần
cuối trước lễ cưới để nhờ đó có thể đem lại được một ý nghĩa
mới, một nội dung mới và một hình thức mới cho việc quen gọi là
điều tra hôn phối mà giáo luật đòi buộc”. (FC 66).
Việc chuẩn bị này cũng nhằm tới hai khía
cạnh :
1- GIÁO DỤC NHÂN BẢN
Mặc dù Tông huấn không đề cập tới, nhưng từ
xưa cho đến nay, những bạn trẻ sắp sửa “dắt díu nhau vào trình
cụ”, thường có một số việc cần phải làm ngay, để cuộc hôn nhân
được tốt đẹp và được bảo đảm về lâu về dài. Những việc ấy như
sau :
- Suy nghĩ và cầu nguyện.
- Bàn hỏi với những người đạo đức, có kinh
nghiệm và có bổn phận hướng dẫn chúng ta.
- Tìm hiểu lẫn nhau.
- Sống trong sạch.
2- GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
Trong thời gian này, việc giáo dục đạo đức
đã được Tông huấn gợi ý :
- “Trong số các yếu tố phải truyền đạt
trong tiến trình đức tin này, tựa như ở thời kỳ dự tòng, cũng
phải có việc đào sâu về mầu nhiệm Chúa Kitô và Hội Thánh, về ý
nghĩa của ân sủng và của trách nhiệm gắn liền với hôn nhân Kitô
giáo, đó là chưa kể tới việc chuẩn bị để tham dự tích cực vào
nghi lễ phụng vụ hôn phối”. (FC 66).
Từ lời gợi ý trên, chúng ta rút ra được bốn
việc chính yếu :
1- Đào sâu mầu nhiệm Đức
Kitô và Hội Thánh.
Như
chúng ta đã biết hôn nhân là một định chế được Thiên Chúa ấn
định cho xã hội loài người ngay từ thuở ban đầu. Rồi sau đó, đã
được Chúa Giêsu nâng lên hàng bí tích. Kể từ nay, hôn nhân không
phải chỉ là sợi dây tình yêu nối kết hai người thành vợ thành
chồng, mà hơn thế nữa, còn là hình ảnh tượng trưng cho tình yêu
của Đức Kitô đối với Hội thánh như lời thánh Phaolô đã nói :
- Mầu nhiệm này thật lớn lao, tôi muốn nói
đến sự kết hiệp giữa Đức Kitô và Hội Thánh.
Vì vậy mà :
- Người làm vợ hãy phục tùng chồng như phục
tùng Chúa vì chồng là đầu của vợ, cũng như Đức Kitô là đầu của
Hội Thánh.
Đồng thời người làm chồng cũng phải :
- Hãy yêu thương vợ như chính Đức Kitô yêu
thương Hội Thánh và hiến mình vì Hội Thánh.
Và như thế sống tình nghĩa vợ chồng cũng là
sống màu nhiệm kết hiệp giữa Đức Kitô và Hội Thánh vậy.
2- Ý nghĩa của Ân sủng
Theo thánh Phaolô diễn tả, trước kia chúng
ta chỉ là những cành cây dại, nhưng kể từ khi được ghép vào với
Đức Kitô, một dòng nhựa mới được truyền sang cho chúng ta. Dòng
nhựa mới ấy chính là sự sống của Thiên Chúa, hay nói cách khác,
đó là ân sủng của Thiên Chúa, nhờ đó hoa trái cuộc đời chúng ta
sẽ là một thứ hoa trái mới, thơm ngon và đậm đà, xứng đáng được
đón nhận vào quê hương Nước Trời.
3- Trách nhiệm của hôn
nhân Kitô giáo.
Phàm đã là
người, khi làm bất cứ việc gì, từ việc nhớn đến việc nhỏ, thì
đều theo đuổi một mục đích nào đó, huống lọ là việc trăm năm đại
sự. Và như chúng ta cũng đã biết, hôn nhân có hai mục đích, đó
là sinh sản con cái và giúp đỡ lẫn nhau.Từ hai mục đích này,
chúng ta thấy những người bước vào cuộc sống hôn nhân phải gánh
vác hai trách nhiệm, đó là trách nhiệm của cha mẹ và trách nhiệm
của vợ chồng.
Trước hết là trách nhiệm của cha mẹ.
Cha mẹ có bổn phận phải sinh sản con cái,
như lời Chúa đã phán : Hãy sinh sôi nảy nở cho nhiều đầy mặt
đất. Trong khi sinh sản con cái, chúng ta cộng tác với Thiên
Chúa trong công cuộc sáng tạo, làm nên những con người mới, để
kéo dài sự hiện diện của nhân loại trong giòng thời gian mà ca
tụng Thiên Chúa. Công đồng Vaticanô II đã viết trong hiến chương
về mục vụ như sau :
- “Trong khi thi hành bổn phận sinh sản và
giáo dục, họ biết rằng mình cộng tác với tình yêu của Thiên Chúa
tạo hóa và trở thành những kẻ diễn đạt tình yêu của Ngài. Bởi
vậy, họ sẽ chu toàn bổn phận mình với trách nhiệm của con người
và của con người Kitô…Trong cách thế hành động, vợ chồng Kitô
hữu hãy ý thức là mình không thể làm theo sở thích, nhưng phải
luôn luôn theo tiếng nói của một lương tâm, được khuôn đúc theo
luật Chúa, hãy vâng phục giáo huấn của Giáo Hội, vì Giáo Hội có
thẩm quyền giải thích luật Chúa dưới ánh sáng Phúc âm”. (GS 50).
Tuy nhiên sinh sản mà thôi cũng chưa đủ,
bổn phận thứ hai là phải nuôi dưỡng con cái, nghĩa là cho con
cái ăn mặc đầy đủ, đau yếu lo tìm thày chạy thuốc…
Tuy nhiên, nuôi dưỡng mà thôi chưa đủ, vì
sinh con không giống như sinh vật. Nuôi một con heo, chúng ta
chỉ cần đổ cám cho nó ăn là đủ, nhưng với con cái thì khác. Nuôi
dưỡng đã đành, mà còn phải giáo dục con cái nữa, vì như tục ngữ
đã bảo :
- Đẻ con chẳng dạy chẳng răn,
Thà rằng nuôi lợn cho ăn lấy lòng.
Tiếp đến là trách nhiệm của vợ chồng.
Vợ chồng có bốn bổn phận, đó là phải yêu
thương, hòa thuận, trung thành và giúp đỡ lẫn nhau. Muốn được
như vậy, vợ chồng phải biết nhường nhịn và tha thứ, dám chấp
nhận những hy sinh cho nhau và vì nhau, nhờ đó mà trọn đời yêu
thương và trung thành cùng nhau.
4- Tham dự tích cực vào
nghỉ lễ phụng vụ hôn phối.
Hôn nhân Kitô giáo đòi hỏi phải theo luật
cử hành phụng vụ, để diễn tả tính cách xã hội và cộng đồng, nơi
bản chất Hội Thánh và bí tích của khế ước hôn nhân giữa hai
người đã rửa tội, vì thế Tông huấn đã đưa ra những tiêu chuẩn cụ
thể sau đây :
* Là một hành vi bí tích để thánh hóa, việc
cử hành hôn phối phải được đưa vào phụng vụ, nhưng đồng thời
phải đơn giản và xứng đáng, hoàn toàn theo đúng những qui tắc mà
thẩm quyền Giáo hội đã đề xướng.
* Là một dấu chỉ của giao ước tình yêu giữa
Đức Kitô và Hội Thánh, việc cử hành hôn phối phải diễn ra thế
nào để có thể kết thành một sự công bố Lời Chúa và một sự tuyên
xưng đức tin của cộng đồng các tín hữu. Thời gian thích hợp nhất
vẫn là lúc cử hành Thánh lễ, bởi vì giữa bí tích Thánh thể và bí
tích Hôn phối có một liên hệ mật thiết : Bí tích Thánh thể vừa
là sự hiện diện đích thực, lại vừa là dấu chỉ tình yêu của Đức
Kitô, còn bí tích Hôn nhân dẫn đưa hai vợ chồng vào trong tình
yêu ấy và làm cho họ có khả năng tiếp tục sự trao hiến của Đức
Kitô trong cuộc sống của mình. Như vậy, Phụng vụ vừa mang tính
chất loan báo Tin mừng, bởi vì rao truyền ngay trong Hội Thánh
tin mừng về tình yêu hôn nhân như là dấu chỉ của Đức Kitô và Hội
Thánh, đồng thời cũng mang tính chất Giáo hội vì ảnh hưởng đến
cả cộng đồng nơi vợ chồng sinh sống.
* Là một hành vi bí tích của Hội Thánh,
việc cử hành hôn phối phải lôi cuốn được cả cộng đoàn với sự
tham dự trọn vẹn, tích cực và có trách nhiệm của mọi người đang
hiện diện, tùy theo vai trò của mình, như đôi bạn, linh mục,
nhân chứng, cha mẹ, bạn hữu…nói tắt là mọi thành phần của một
cộng đoàn đang biểu lộ và sống mầu nhiệm Đức Kitô và Hội Thánh
Ngài.
Sau cùng, Đức Thánh Cha mong muốn các Hội
Đồng giám Mục sớm công bố “Tập chỉ nam mục vụ gia đình” để hướng
dẫn cho việc chuẩn bị nói trên. Tông Huấn viết :
- “Ước mong rằng các Hội Đồng Giám Mục lưu
tâm tới các sáng kiến thích hợp để giúp các vợ chồng tương lai
biết ý thức hơn rằng việc chọn lựa của họ hệ trọng biết bao,
cũng như để giúp cho các vị chủ chăn biết bảo đảm cho những
người ấy có được những dự kiện cần thiết. Và với sự lưu tâm đó,
các Hội Đồng Giám Mục sẽ xả thân làm việc, để sớm công bố được
“Tập chỉ nam mục vụ gia đình”. Trong cuốn chỉ nam này, trước hết
sẽ phải xác định những yếu tố cần thiết không thể thiếu được về
nội dung, về thời lượng và về phương pháp của các “khóa chuẩn
bị”, tạo quân bình cho những khía cạnh khác nhau có liên hệ tới
hôn nhân – như giáo lý, sư phạm, luật pháp, y học – và xếp đặt
thế nào để giúp cho những người sắp lập gia đình, không những
chỉ được đào sâu thêm về hiểu biết, mà còn cảm thấy được thúc
đẩy để hội nhập một cách tích cực vào trong cộng đồng Hội
Thánh”. (FC 66).
Bao giờ thì Hội Đồng Giám Mục Việt Nam cho
trình làng tập chỉ nam này, chúng ta hãy kiên nhẫn và chờ đợi.
KẾT LUẬN
Mặc dù được trình bày một cách vắn gọn,
nhưng Tông huấn đã đưa ra một chương trình cụ thể cho việc
chuẩn bị hôn nhân. Chương trình này không phải chỉ rảo qua đôi
ba tháng của một khóa giáo lý, nhưng phải được kéo dài qua nhiều
năm nhiều tháng, khởi đi từ thời thơ ấu cho đến lúc cử hành hôn
phối, chính thức bước vào cuộc sống lứa đôi. Hơn thế nữa, Tông
huấn còn đưa ra một đường hướng mục vụ sau khi cưới, nhất là cho
những cặp vợ chồng đang gặp phải khó khăn…
Để kết luận, xin ghi lại nơi đây nhận xét
của Đức Thánh Cha :
- “Kinh nghiệm cho thấy được rằng, các bạn
trẻ được chuẩn bị chu đáo cho đời sống gia đình, cách chung sẽ
thành công hơn các bạn khác”. (CF 66).
GSVN |