Sứ Ðiệp Của Công Ðồng Vatican2 Nhân
Dịp Bế Mạc (8-12-1965) |
Bản dịch Việt Ngữ của Giáo Hoàng Học
Viện Piô X
Prepared for Internet by Vietnamese
Missionaries in Asia
Ð.G.H.
Phaolô VI tuyên đọc
Nhập Ðề
8. Chư huynh đáng kính,
Giờ lên đường,
giờ giải tán đã điểm. Lát nữa, Chư huynh sẽ từ giã nghị hội Công
Ðồng để trở về gặp gỡ nhân loại, mang về cho nhân loại tin vui
của Phúc Âm Ðức Kitô và của việc canh tân Giáo Hội mà chúng ta
đã làm từ bốn năm nay.
Ðây là giờ phúc
độc nhất, giờ phút đầy ý nghĩa và phong phú vô cùng! Trong cuộc
đại hội hoàn cầu, ở một thời gian và một địa điểm đặc biệt này,
chúng ta thấy qui tụ lại tất cả quá khứ, hiện tại và tương lai.
Quá khứ vì ở đây tụ họp lại toàn thể Giáo Hội Ðức Kitô, với
truyền thống lịch sử của mình với các Công Ðồng, các Tiến Sĩ, và
các Thánh của mình. Hiện tại: vì chúng ta đang từ giã nhau để đi
về gặp gỡ thế giới ngày nay, một thế giới với các khốn cùng, đau
thương và tội lỗi của nó nhưng cũng có giá trị và nhân đức của
mình. Sau cùng, tương lai: với tiếng gọi khẩn cấp của các dân
tộc đang mong mỏi công bình, với ý chí muốn xây dựng hòa bình và
với khát vọng ý thức hay vô ý thức về một đời sống cao đẹp hơn,
đời sống mà chính Giáo Hội Chúa Kitô hiện có thể và đang muốn
mang lại cho họ.
9. Chúng tôi thấy như từ
khắp nơi trên thế giới đang vọng về tiếng xôn xao tuy mơ hồ
nhưng lớn lao của tất cả những người hướng nhìn về Công Ðồng và
lo lắng hỏi chúng ta: các ngài lại không nói lời nào với chúng
tôi sao...? Vâng chúng tôi đây là những nhà cầm quyền, những nhà
trí thức, những người lao động, những nhà nghệ sĩ...? Chúng tôi,
những phụ nữ, những thanh niên, những người đau ốm và nghèo khổ,
các ngài không có lời nào cho chúng tôi sao?
Những tiếng gọi
thiết tha ấy phải được đáp lại. Chính vì tất cả mọi tầng lớp
nhân loại mà Công Ðồng làm việc từ bốn năm nay; chính vì muốn
dành cho họ nên "Hiến chế về Giáo Hội trong thế giới ngày nay"
đã được soạn thảo và hôm qua chúng tôi đã ban hành giữa những
tiếng hoan hô nhiệt liệt của Chư Huynh.
10. Từ cuộc suy niệm lâu
dài của chúng ta về Chúa Kitô và về Giáo Hội Người, giờ đây phải
thốt lên tiếng nói đầu tiên, loan báo nền hòa bình và sự cứu độ
cho bao đám đông đang mong đợi. Trước khi từ biệt, Công Ðồng
muốn hoàn thành chức vụ tiên tri này. Công Ðồng muốn diễn tả
"Tin Mừng" mà Công Ðồng mang đến cho toàn thế giới bằng những sứ
điệp vắn và trong một ngôn ngữ mọi người có thể hiểu dễ dàng.
Tin mừng này sẽ được một vài Vị trong những phát ngôn viên có
thẩm quyền của Công Ðồng nhân danh Chư Huynh nói chuyện với toàn
thể nhân loại.
Hồng Y A. Liénart tuyên đọc:
Gửi Các Nhà Cầm Quyền
11.
Trong giờ phút long trọng này, chúng tôi, những Nghị Phụ trong
Công Ðồng thứ 21 của Giáo Hội Công Giáo sắp sửa từ giã nhau sau
bốn năm cầu nguyện và làm việc, ý thức trọn vẹn về sứ mạng của
mình đối với nhân loại, chúng tôi trân trọng và tín cẩn ngỏ lời
với những vị hiện đang cầm trong tay vận mệnh của mọi người trên
địa cầu, cùng hết mọi người đang cầm quyền bính trên trần gian.
Chúng tôi lớn tiếng tuyên bố: chúng tôi kính
trọng quyền hành và chủ quyền của quí vị, chúng tôi tôn trọng
chức vụ của quý vị. Chúng tôi nhìn nhận những pháp luật chính
đáng của quí vị, chúng tôi quí chuộng người làm ra cũng như
người áp dụng những luật ấy. Nhưng chúng tôi có một lời chí
thánh để nói với quí vị, đó là: chỉ một mình Thiên Chúa là cao
cả. Chỉ một mình Thiên Chúa là nguyên thủy và là cứu cánh. Chỉ
một mình Thiên Chúa là nguồn gốc của quyền bính và là nền tảng
các luật lệ của quí vị.
12.
Chính quí vị có nhiệm vụ phải cổ võ cho nền trật tự và hòa bình
giữa mọi người trên trái đất. Nhưng xin đừng quên: Thiên Chúa
chân thực và hằng sống là Cha mọi người. Và chính Chúa Kitô,
người Con vĩnh cửu của Thiên Chúa đã đến nói cho chúng ta biết
điều ấy và dạy cho chúng ta biết tất cả đều là anh em với nhau.
Chính Người là thợ cao cả của trật tự và hòa bình thế giới vì
chính Người hướng dẫn lịch sử nhân loại và chỉ một mình Người
mới có thể khiến các tâm hồn từ khước những dục vọng xấu xa, mầm
mống phát sinh ra chiến tranh và đau khổ. Chính Người là Ðấng
chúc lành cho cơm bánh của nhân loại, thánh hóa việc làm và
những vất vả của nhân loại, mang lại cho nhân loại những niềm
vui mà quí vị không thể mang lại cũng như làm cho họ vũng mạnh
lại trong những đau thương mà quí vị không thể an ủi được.
13.
Trong xã hội thế trần và hữu hạn của quí vị, Chúa Kitô xây dựng
cách nhiệm mầu xã hội tinh thần và vĩnh cửu của Người tức là
Giáo Hội của Người, vậy Giáo Hội mong muốn gì ở quí vị, sau hai
ngàn năm biến chuyển thăng trầm về mọi phương diện trong mối
bang giao với quí vị, những người nắm quyền lực trần gian? Ngày
nay Giáo Hội cầu mong gì ở quí vị? Giáo Hội đã nói nguyện vọng
ấy cho quí vị trong một bản văn quan trọng của Công Ðồng: Giáo
Hội chỉ yêu cầu quí vị để tự do: tự do tin và rao giảng niềm tin
của mình, tự do yêu mến Thiên Chúa và phụng sự Ngài, tự do sống
và mang đến cho mọi người sứ điệp về sự sống. Xin đừng kiêng sợ
Giáo Hội: Giáo Hội theo gương chủ mình nên hoạt động mầu nhiệm
của Giáo Hội không dẫm chân lên những đặc quyền của quí vị nhưng
để cứu nhân loại khỏi sự tàn tạ oan nghiệt, biến đổi nó, đổ đầy
niềm hy vọng, chân lý và vẻ đẹp.
Xin hãy để Chúa Kitô thi hành công việc tinh
luyện xã hội này! Xin đừng đóng đinh Người lại một lần nữa: việc
đó là phạm thánh vì Người là Con Thiên Chúa; đó cũng là tự sát
vì Ngài là Con Người. Xin để yên chúng tôi, những thừa tác viên
khiêm tốn của Người, đừng cản trở chúng tôi trong việc gieo rắc
khắp nơi "tin mừng" của Phúc Âm hòa bình, tin mừng đã được chúng
tôi nghiền ngẫm trong suốt thời kỳ Công Ðồng. Dân chúng của quí
vị sẽ là những người đầu tiên được hưởng ơn ích tin mừng hòa
bình này vì Giáo Hội nhằm đào tạo cho quí vị những người công
dân liêm chính biết yêu chuộng hòa bình và tiến bộ.
Trong ngày long trọng bế mạc các phiên hội của
Công Ðồng Chung lần thứ 21 này, Giáo Hội, qua tiếng nói của
chúng tôi, xin gửi tới quí vị tình thân hữu, ý chí phục vụ và
những năng lực tinh thần cũng như đạo đức của mình. Giáo Hội xin
gửi đến tất cả quí vị sứ điệp cứu độ và chúc lành. Xin hãy tiếp
nhận sứ điệp ấy trong cùng một tinh thần như đã được gửi đi,
nghĩa là với một tấm lòng hoan hỉ, chân thành và xin quí vị cũng
chuyển tới tất cả dân chúng của quí vị.
Hồng Y P. Léger tuyên đọc:
Gửi Giới Trí Thức
14.
Công Ðồng đặc biệt gửi lời chào kính tới những người kiếm tìm
chân lý, những nhà tư tưởng và khoa học, những nhà thám hiểm vũ
trụ, lịch sử và con người. Xin chào thăm tất cả quí vị, những
người lữ hành đang tiến về ánh sáng, cả những người đã đứng lại
dọc đường vì mệt mỏi hoặc thất vọng vì tìm không thấy.
Tại sao chúng tôi lại chào kính đặc biệt quí vị?
Bởi vì tất cả chúng tôi đây, những giám mục, Nghị Phụ Công Ðồng,
chúng tôi cũng đang ngóng tìm chân lý. Nỗ lực của chúng tôi
trong bốn năm qua là gì, nếu không phải là một cuộc tìm kiếm chú
ý hơn và đào sâu sứ điệp chân lý đã được giao phó cho Giáo Hội,
một nỗ lực lắng nghe thuần thục và chăm chú hơn trước tiếng nói
của Thần Chân Lý?
Vì thế chúng tôi không thể không gặp gỡ quí vị.
Con đường quí vị cũng là con đường của chúng tôi. Ðường lối quí
vị cũng không bao giờ xa lạ với những đường lối chúng tôi. Chúng
tôi là những người bạn đồng hành cùng được kêu gọi để tìm kiếm
như quí vị, cùng chia sẻ mệt nhọc với quí vị, cùng chung tiếng
thán phục những thành quả của quí vị, và nếu cần, có thể khích
lệ khi quí vị nản chí và thất bại.
15.
Vì thế chúng tôi có một sứ điệp gửi tới quí vị. Sứ điệp ấy như
sau: xin hãy tiếp tục tìm kiếm và đừng bao giờ nản chí, thất
vọng vì không tìm được chân lý! Xin hãy nhớ tới lời người bạn
thân thiết của quí vị là Thánh Augustinô: "Hãy tìm kiếm với ước
muốn gặp thấy, và gặp thấy với ước muốn kiếm thêm mãi"! hạnh
phúc cho những ai đã gặp thấy chân lý nhưng vẫn còn kiếm tìm
thêm mãi để đổi mới, để đào sâu chân lý và mang chân lý tới cho
người khác. Hạnh phúc cho những ai dù chưa gặp gỡ chân lý, nhưng
vẫn thành tâm tiến tới chân lý: mong họ tìm ánh sáng ngày mai
nhờ ánh sáng hôm nay, cho đến lúc chan hòa ánh sáng.
Xin cũng đừng quên: suy nghĩ là một việc cao cả,
nhưng trước hết là một nhiệm vụ. Bất hạnh thay cho những người
cố tình nhắm mắt trước ánh sáng! Suy nghĩ còn là một trách
nhiệm: bất hạnh thay cho những người làm tinh thần mờ tối bằng
trăm ngàn thủ đoạn khiến họ chán nản, kiêu căng, lầm lẫn và sai
lệch! Nguyên tắc căn bản của những nhà khoa học là gì nếu không
phải là: cố gắng suy nghĩ đúng?
16.
Ðể giúp suy nghĩ đúng, chúng tôi đến cống hiến quí vị ánh sáng
của cây đèn mầu nhiệm là đức tin, không phải để làm quẩn chân
hay làm chói mắt quí vị. Ðấng trao gởi ánh sáng đức tin cho
chúng tôi là vị tôn sư của tư tưởng và chúng tôi là những đệ tử
khiêm tốn của Người, chỉ một mình Người đã nói và có quyền nói:
"Ta là ánh sáng thế gian. Ta là đường, là sự thật và là sự
sống".
Lời nói trên đây có liên hệ đến quí vị. Nhờ ơn
Thiên Chúa, cái khả năng hòa đồng sâu xa giữa khoa học chân
chính và đức tin chân chính có lẽ không bao giờ lại hiện rõ hơn
ngày hôm nay vì cả hai điều phục vụ cho chân lý duy nhất. Xin
đừng ngăn cản cuộc gặp gỡ quí báu này! Xin hãy tín nhiệm đức
tin, vốn là người bạn thân của trí tuệ! Xin hãy để ánh sáng đức
tin soi sáng quý vị ngõ hầu nắm được chân lý, toàn thể chân lý.
Ðó là lời cầu chúc, sự khích lệ và hy vọng mà các Nghị Phụ trên
khắp thế giới họp Công Ðồng tại Roma gửi tới quí vị trước giờ
phút chia tay.
Hồng Y L. Suénens tuyên đọc:
Gửi Giới Văn Nghệ Sĩ
17.
Giờ đây, chúng tôi xin ngỏ lời với quí vị văn nghệ sĩ, những
người say mê và phục vụ cái đẹp: quí vị là những thi sĩ, văn sĩ,
họa sĩ, điều khắc gia, kiến trúc sư, nhạc sĩ, diễn viên cũng như
chuyên viên kịch nghệ và điện ảnh... Qua tiếng nói của chúng
tôi, Công Ðồng Giáo Hội xin ngỏ lời với toàn thể quí vị: nếu yêu
chuộng nghệ thuật chân chính thì quí vị là bạn hữu của chúng
tôi.
Ðã từ lâu, Giáo Hội liên kết với quí vị. Quí vị
đã xây dựng và trang hoàng những đền thờ, suy tôn các tín điều,
làm giàu cho phụng vụ của Giáo Hội. Quí vị đã giúp đỡ Giáo Hội
diễn tả sứ điệp thánh của mình ra ngôn ngữ hình thể và sắc thái,
khiến cho thế giới vô hình có thể được cảm nhận.
18.
Ngày nay cũng như trong quá khứ, Giáo Hội vẫn cần đến quí vị và
hướng về quí vị. Qua tiếng nói của chúng tôi, Giáo Hội ngỏ lời
cùng quí vị: xin đừng để tan vỡ mối liên kết phong phú tột bực.
Xin đừng chối từ đem tài năng ra phụng sự chân lý Thiên Chúa.
Xin đừng đóng cửa tinh thần quí vị trước hơi thở của Thánh Thần
Chúa!
Thế giới chúng ta sống ngày nay đang cần đến cái
đẹp để khỏi chìm đắm vào thất vọng. Cái đẹp, cũng như sự thật
mang lại niềm vui cho tâm hồn con người, đó chính là những hoa
trái quí giá không tàn úa vì thời gian nhưng nối kết các thế hệ
lại và làm cho họ thông cảm nhau khi thán phục nhau. Công trình
ấy là do bàn tay của quí vị...
19.
Ước mong những bàn tay ấy được thanh sạch, vô vị lợi! Xin hãy
nhớ rằng quí vị là những người bảo vệ cái đẹp trong thế giới:
mong rằng chỉ điều đó cũng đủ khiến quí vị vượt qua những thị
hiếu phù du không có giá trị đích thức, đủ khiến quí vị tránh
tìm những lối diễn tả dị kỳ và bất nhã.
Ước chi lúc nào và chỗ nào quí vị cũng vẫn xứng
đáng với lý tưởng mình để rồi sẽ xứng đáng với Giáo Hội, mà ngày
hôm nay qua tiếng nói của chúng tôi, xin gửi đến quí vị sứ điệp
thân hữu, cứu độ, ân phúc và chúc lành.
Hồng Y L. Duval tuyên đọc:
Gửi Giới Phụ Nữ
20.
Giờ đây chúng tôi xin ngỏ lời với nữ giới thuộc hết mọi thành
phần: các thiếu nữ, các người vợ, người mẹ, các quả phụ, cả
những người đồng trinh đã dâng mình cho Chúa và các người ở độc
thân: tất cả quí vị chiếm một nửa đại gia đình nhân loại.
Như quý bà và chị em đã biết, qua các thời đại,
Giáo Hội hãnh diện vì đã làm vẻ vang và giải phóng người phụ nữ,
đã làm nổi bật trong sự khác biệt phái tính sự bình đẳng căn bản
của Nữ giới với Nam giới.
Nhưng bây giờ đã đến lúc sứ mệnh người nữ được
thể hiện hoàn toàn. Ðây là lúc người phụ nữ có một ảnh hưởng,
một sự phát huy và một quyền lực từ trước đến nay chưa từng có
trong xã hội.
Vì thế, trong khi nhân loại đang trải qua một
biến động sâu xa như lúc này, những phụ nữ thấm nhuần tinh thần
Phúc Âm có thể giúp đỡ rất nhiều cho nhân loại thoát khỏi sự suy
đồi.
21.
Quý bà và chị em bao giờ cũng góp phần bảo vệ gia đình, tuôn
chảy nguồn yêu thương và dưỡng dục trẻ thơ. Quý bà và chị em
hiện diện lúc mầu nhiệm sự sống bắt đầu và ủi an trong giờ cuộc
đời chấm dứt. Nền kỹ thuật của chúng ta có thể trở nên vô nhân
đạo nên xin quý bà và chị em hãy hòa giải con người với sự sống.
Nhất là chúng tôi tha thiết thỉnh cầu quý bà và chị em hãy săn
sóc đến tương lai của giống nòi chúng ta. Hãy giữ tay người đàn
ông lại nếu trong một phút điên cuồng họ muốn tiêu hủy nền văn
minh nhân loại.
Hỡi các người vợ, người mẹ gia đình, là những
nhà giáo dục đầu tiên của nhân loại trong lòng tổ ấm gia đình,
xin truyền thụ cho con trai con gái quý bà những truyền thống
của cha ông chúng ta, đồng thời chuẩn bị cho chúng một tương lai
xa vời. Các bà hãy luôn nhớ là nhờ con cái nên người mẹ góp phần
vào tương lai, một tương lai có lẽ mắt quý bà sẽ không được nhìn
thấy.
Cả những chị em ở độc thân nữa, xin ý thức rằng
chị em có thể chu toàn trọn vẹn sứ mệnh phục vụ của mình. Xã hội
khắp nơi đang kêu gọi chị em, ngay các gia đình cũng không thể
sinh hoạt nếu gạt bỏ sự trợ giúp của những người không lập gia
đình.
Nhất là những người đồng trinh đã dâng mình cho
Chúa trong một thế giới mà chủ nghĩa ích kỷ và sự ham tìm khoái
lạc muốn trở nên qui luật sống, chị em hãy duy trì đức trong
sạch, lòng vô vị lợi và tinh thần đạo đức. Chúa Giêsu, Ðấng đã
ban cho tình yêu vợ chồng trọn vẹn ý nghĩa của nó cũng đã đề cao
sự từ khước tình yêu nhân loại này khi nó hướng về tình yêu vô
biên và nhằm phục vụ mọi người.
Sau cùng, hỡi những người đang bị thử thách, quý
bà và chị em đang đứng thẳng dưới chân thánh giá như Ðức Maria,
biết bao lần trong lịch sử, quý bà và anh chị em đã mang lại cho
người đàn ông sức mạnh để chiến đấu tới cùng, đã giúp họ làm
chứng nhân ngay cả tử vì đạo, một lần nữa xin hãy giúp họ can
đảm làm những công cuộc lớn, đồng thời biết kiên nhẫn và biết
bắt đầu bằng những công việc nhỏ.
22.
Hỡi tất cả phụ nữ, quý bà và chị em biết cách làm cho chân lý
trở nên êm ái, dịu dàng, dễ hiểu, xin hãy chuyên chú làm cho
tinh thần Công Ðồng được thấm nhập vào cơ cấu, trường học, gia
đình và đời sống hằng ngày.
Hỡi các phụ nữ trên toàn thế giới thuộc Kitô
giáo hay vô tín ngưỡng, sự sống đã được giao phó cho quý vị
trong phút giây lịch sử nghiêm trọng này, quý bà và chị em có
nhiệm vụ cứu vãn nền hòa bình thế giới.
Hồng Y P. Zoungrana tuyên đọc:
Gửi Giới Lao Ðộng
23.
Trong suốt Công Ðồng này, chúng tôi, các Giám Mục Công Giáo khắp
năm châu, đã cùng nhau suy nghĩ những vấn đề nghiêm trọng trong
số bao nhiêu đề tài khác đặt ra trước lương tâm nhân loại do
những điều kiện kinh tế xã hội của thế giới ngày nay, vấn đề
sống chung giữa các quốc gia, vấn đề võ trang, chiến tranh và
hòa bình. Chúng tôi hoàn toàn ý thức rằng cách thức giải quyết
những vấn đề này có thể ảnh hưởng đến đời sống cụ thể của nam nữ
công nhân trên khắp thế giới. Vì thế, sau những phiên thảo luận,
chúng tôi mong ước gửi đến tất cả anh em lao động một sứ điệp
tín cẩn, hòa bình và thân hữu.
Hỡi những người con rất thân mến, thoạt tiên xin
hãy yên trí rằng Giáo Hội hiểu biết những nỗi thống khổ, cuộc
tranh đấu, niềm hy vọng của anh em. Giáo Hội rất khâm phục những
đức tính làm cho tâm hồn anh em nên cao đẹp, đó là lòng can đảm,
sự tận tụy, lương tâm nghề nghiệp, lòng yêu chuộng công bình.
Giáo Hội nhìn nhận đầy đủ những sự phục vụ lớn lao anh em đã
mang lại cho xã hội khi mỗi người ở địa vị mình, và đôi khi
trong những địa vị khiêm tốn nhất, bị khinh rẽ nhất, Giáo Hội
rất hài lòng và xin cảm tạ anh em qua tiếng nói của chúng tôi.
24.
Trong những năm vừa qua, Giáo Hội không ngừng lưu tâm đến những
vấn đề càng ngày càng phức tạp của thế giới lao động. Tiếng vọng
từ trong hàng ngũ lao động đối với những thông điệp vừa qua của
các Ðức Giáo Hoàng đã chứng tỏ tâm hồn người lao động ngày nay
hòa hợp mật thiết với các vị lãnh đạo tinh thần cao cả nhất của
mình.
Ðức Gioan XXIII, Ðấng làm giàu cho gia tài Giáo
Hội bằng những sứ điệp trứ danh, đã tìm ra được ngôn ngữ thấu
đến tâm hồn anh em. Nơi con người của ngài, ngài đã làm sáng tỏ
tất cả tình yêu của Giáo Hội đối với người lao động cũng như đối
với chân lý, công bình, tự do, bác ái, là những nền tảng xây
dựng hòa bình thế giới.
25.
Cũng trong tinh thần ấy, chúng tôi cũng muốn được tỏ bày lòng
yêu mến của Giáo Hội đối với anh em, những người lao động, và
với tất cả lòng xác tín chân thành, chúng tôi xin nói với anh em
rằng: Giáo Hội là bạn của anh em. Xin hãy tín cẩn vào Giáo Hội!
Trong quá khứ, những hiểu lầm đáng tiếc đã kéo dài quá lâu sự
nghi kỵ và sự bất đồng giữa chúng ta; Giáo Hội và giới thợ
thuyền đều phải đau khổ vì việc đó. Ngày nay, giờ hòa giải đã
điểm, và nhờ tinh thần của Công Ðồng Giáo Hội mời gọi anh em
hoan hỉ cử hành giờ đó với tất cả sự tin tưởng thành thực.
Giáo Hội luôn luôn cố tìm để hiểu rõ anh em hơn.
Nhưng anh em cũng phải tìm hiểu Giáo Hội là gì đối với anh em,
những người lao động, những tay thợ chính yếu đang thực hiện các
biến đổi lạ lùng cho thế giới ngày nay. Anh em quá biết rằng:
nếu một luồng linh khí mãnh liệt không phổ vào những biến đổi
này, chúng ta sẽ trở thành tai họa cho nhân loại thay vì mang
lại hạnh phúc cho họ. Không phải hận thù sẽ cứu vớt thế giới!
Không phải chỉ có cơm bánh trần gian có thể làm no thỏa cơn đói
của con người!
Vì thế, hãy đón nhận sứ điệp của Giáo Hội. Hãy
đón nhận đức tin được Giáo Hội hiến dâng cho anh em để soi đường
dẫn lối. Ðó là đức tin của vị kế nghiệp Thánh Phêrô và của hai
ngàn Giám Mục họp lại nơi Công Ðồng, đó là đức tin của toàn dân
Chúa. Mong Ðức Tin ấy soi sáng cho anh em, dẫn lối cho anh em,
làm cho anh em hiểu biết Chúa Giêsu, bạn đồng lao với anh em, là
Thầy và là Ðấng Cứu Ðộ của toàn thể nhân loại.
Hồng Y P. Méouchi tuyên đọc:
Gửi Người Nghèo, Bệnh Tật Và
Ðau Khổ
26.
Ðối với tất cả các bạn, những anh em đang bị thử thách, đang bị
đau khổ dày vò dưới muôn hình vạn trạng. Công Ðồng xin gửi đến
một sứ điệp đặc biệt.
Công Ðồng cảm thấy anh em đang ngóng nhìn về
mình với những con mắt cầu khẩn, sáng rực vì cơn sốt hoặc đờ đẫn
vì mệt nhọc, những cái nhìn dò hỏi đang vô vọng tìm hiểu tại sao
con người lại đau khổ hay đang lo âu tự hỏi xem bao giờ và tự
đâu sẽ có nâng đỡ.
Anh em rất thân mến, chúng tôi cảm thấy rất sâu
đậm những lời rên siết và than thở của anh em đang vang lên
trong lòng những người cha và chủ chăn của chúng tôi, chúng tôi
càng buồn sầu khi nghĩ rằng mình không thể mang lại sức khỏe thể
xác cũng như sự thuyên giảm đau đớn bên ngoài cho anh em như các
bác sĩ, y tá và tất cả những người săn sóc bệnh nhân đang cố
gắng tận tình cứu chữa.
27.
Nhưng chúng tôi có một cái gì sâu xa hơn, quí giá hơn để mến
tặng anh em, một chân lý duy nhất có thể trả lời cho mầu nhiệm
đau khổ và mang lại cho anh em sự an ủi chân thật: đó là đức tin
và sự kết hiệp với con người đau khổ là Chúa Kitô, Con Thiên
Chúa, Ðấng bị đóng đinh vì tội lỗi cũng như để cứu rỗi chúng ta.
Chúa Kitô đã không diệt trừ đau khổ. Người cũng
không muốn vén lên hoàn toàn chiếc màn mầu nhiệm của đau khổ cho
chúng ta: Người lại nhận đau khổ cho mình và vì thế đã quá đủ
cho chúng ta hiểu rõ giá trị của đau khổ.
Hỡi tất cả anh em, những người đang cảm thấy
thập giá đè nặng, những người nghèo túng, bị bỏ rơi, những người
đang khóc lóc, đang bị bách hại vì sự công chính, những người
không được ai nói đến, những người đau khổ vô danh, xin hãy lấy
lại can đảm. Anh em là những người được ưu đãi trong nước Chúa,
nước có hy vọng, hạnh phúc và sự sống. Anh em là những người em
của Chúa Kitô đau khổ và nếu anh em muốn, anh em cùng cứu vớt
thế gian với Người.
Ðó là học thuyết Kitô giáo về đau khổ, học
thuyết duy nhất mang lại bình an. Xin biết chắc chắn rằng anh em
không cô độc, không bị loại trừ, bị bỏ rơi hoặc bị coi là vô
dụng. Trái lại anh em là những người được Chúa Kitô kêu gọi, là
hình ảnh sống động và trong suốt của Chúa. Nhân danh Chúa, Công
Ðồng âu yếm chào thăm anh em, cảm ơn và đoan chắc với anh em về
tình thân hữu, về sự giúp đỡ của Giáo Hội và chúc phúc lành cho
anh em.
Hồng Y G. Agagianian tuyên đọc:
Gửi Giới Trẻ
28.
Sau hết Công Ðồng muốn gửi cho các bạn thanh niên và thiếu nữ
toàn thế giới bức sứ điệp sau cùng vì chính các bạn sắp được
nhận lấy ngọn đuốc từ tay phụ huynh và sẽ sống trong thế giới
vào lúc diễn ra những biến đổi vĩ đại nhất của lịch sử. Chính
các bạn, trong khi thừa hưởng phần tốt nhất của gương sáng và
giáo huấn nơi cha mẹ cũng như thầy dạy, các bạn đang tiến tới
việc kiến tạo xã hội ngày mai: các bạn sẽ tự cứu được mình hay
sẽ bị tiêu diệt cùng với xã hội ấy.
Ròng rã bốn năm qua, Giáo Hội đã làm việc để làm
trẻ lại khuôn mặt mình, sao cho mỗi ngày một phù hợp với ý định
của Ðấng sáng lập, Ðấng Hằng Sống Cao Cả là Chúa Kitô muôn đời
trẻ trung. Vào phút chót cuộc "duyệt lại đời sống" quan trọng
này, Giáo Hội hướng về các bạn. Chính cho những người trẻ các
bạn, phải, đặc biệt cho các bạn mà Giáo Hội qua Công Ðồng vừa
thắp lên một ánh sáng: ánh sáng soi cho tương lai, tương lai đời
các bạn.
29.
Giáo Hội lưu tâm muốn cho xã hội các bạn sắp thiết lập biết tôn
trọng phẩm giá, tự do, quyền lợi của con người, cũng là chính
con người các bạn.
Giáo Hội đặc biệt lưu tâm làm sao cho xã hội này
sẽ để cho cái kho tàng luôn luôn cổ kính và luôn luôn mới mẻ là
đức tin được nảy nở, và sao cho tâm hồn các bạn có thể tự do tắm
gội trong ánh sáng tốt lành của nó. Giáo Hội tin tưởng rằng: các
bạn sẽ gặp được một sức mạnh và một niềm vui lớn lao đến độ các
bạn sẽ không bị quyến rũ như một số đàn anh, buông mình theo
những triết thuyết ích kỷ và khoái lạc, thất vọng và hư vô, đ
thời đứ?rước chủ nghĩa vô thần, hiện tượng của suy nhực và già
cỗi, các bạn có thể củng cố lòng mình tin tưởng ở đời và tin
chân lý làm cho đời sống có một ý hướng: đó là xác tín có một
Thiên Chúa công bình và tốt lành.
30.
Chính nhân danh Thiên Chúa và Con Ngài là Chúa Giêsu, chúng tôi
khuyên các bạn hãy mở rộng tâm hồn ra tới mọi chiều hướng của
thế giới, lắng nghe tiếng gọi của các anh em và đem những nghị
lực trẻ trung ra phục vụ cho họ.
Hãy chiến đấu chống mọi ích kỷ. Hãy chống lại,
đừng tự buông thả theo các bản năng hung bạo và hận thù, là mầm
mống gây nên chiến tranh và biết bao điều khốc hại khác. Xin hãy
đại độ, trong sạch, kính cẩn và chân thành. Xin hãy đem nhiệt
huyết ra xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn cái thế giới của đàn
anh các bạn!
Giáo Hội nhìn đến các bạn với lòng đầy tín cẩn
và yêu thương. Vốn mang một dĩ vãng lâu dài và hằng sống động
trong mình đồng thời luôn luôn đi tới sự hoàn thiện nhân loại
qua thời gian cũng như vừa tiến tới những chân trời sau cùng của
lịch sử và sự sống. Giáo Hôi là sự trẻ trung đích thực của thế
giới. Giáo Hội mang vốn liếng làm nên sức mạnh và vẻ đẹp của
tuổi trẻ: đó là khả năng biết hoan hỉ trước những gì mới bắt
đầu, biết cho đi mà không mong trả lại, biết tự đổi mới và ra đi
tìm những chinh phục mới. Xin hãy nhìn Giáo Hội và các bạn sẽ
khám phá ra khuôn mặt Chúa Kitô, vị anh hùng chân chính, khiêm
tốn và khôn ngoan, vị ngôn sứ của chân lý và tình yêu, là bạn
đường và bạn thân của người trẻ. Nhân danh chính Chúa Kitô chúng
tôi chào thăm, khuyên nhủ và chúc lành cho các bạn. |
VỀ MỤC LỤC |
|
LINH MỤC VÀ GIA ĐÌNH GIÁO XỨ |
Đề bắt đầu phần chia sẻ hôm nay, tôi xin
ghi lại nơi đây ý nghĩ của con người thời nay về linh mục:
Nếu cha giảng dài quá mười phút, người ta
sẽ bảo cha chỉ thao thao bất tuyệt. Nếu cha mời gọi suy niệm về
Thiên Chúa, người ta sẽ bảo cha chỉ nói những chuyện trên mây
trên gió. Còn nếu cha đề cập đến những vấn đề xã hội, người ta
sẽ bảo cha khuynh tả. Nếu cha suốt ngày ở trong nhà xứ, người ta
sẽ bảo cha khép kín. Còn nếu cha năng đi thăm viếng các gia
đình, người ta sẽ bảo địa chỉ thường trú của cha là ngoài đường.
Nếu cha sửa sang nhà thờ, người ta sẽ bảo cha chỉ lo xây rồi…
cất. Còn nếu cha không tu bổ gì, người ta sẽ bảo cha cù lần. Nếu
cha cộng tác chặt chẽ với ban hành giáo, người ta sẽ bảo cha bị
xỏ mũi. Còn nếu cha không tha thiết gì với ban hành giáo, người
ta sẽ bảo cha độc tài. Nếu cha niềm nở, người ta sẽ bảo cha quá
dễ dãi. Còn nếu cha lơ đãng quên chào hỏi, người ta sẽ bảo cha
khinh người. Nếu cha còn trẻ, người ta sẽ bảo cha chẳng có kinh
nghiệm. Còn nếu cha đã có tuổi, người ta sẽ bảo cha xin đi hưu
là vừa.
Đúng là “ở sao cho vừa lòng người, ở rộng
người cười, ở hẹp người chê” và “bạc như dân, bất nhân như
lính”. Vậy chúng ta, linh mục cũng như giáo dân, phải sống chung
với nhau như thế nào để giáo xứ thực sự trở nên một gia đình.
Thế nhưng trước hết giáo xứ là gì ?
1- GIÁO XỨ
Chúng ta không thể nào sống cô độc lẻ loi
như một hòn đảo giữa biển khơi, hay như một pháo đài biệt lập.
Trái lại, chúng ta sống là sống với người khác trong một cộng
đoàn, trong một xã hội. Về phương diện tôn giáo, cộng đoàn đầu
tiên, xã hội đầu tiên chúng ta sống với, đó là gia đình, tiếp
đến là giáo xứ.
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, trong tông
huấn “Ecclesia in Asia”, về Giáo hội tại Á Châu, đã đưa ra một
định nghĩa như sau :
“Giáo xứ là nơi thông thường cho tín hữu
qui tụ lại để được lớn lên trong đức tin, để sống màu nhiệm hiệp
thông Giáo hội và tham gia vào sứ mạng của Giáo hội.” (EA 25).
Tuy nhiên, Công đồng mong muốn chúng ta
biến giáo xứ trở thành một cộng đoàn, một gia đình được xây dựng
trên nền tảng của tình bác ái huynh đệ :
- “Trong quyền hạn mình, linh mục thi hành
nhiệm vụ Đức Kitô mục tử và thủ lãnh, tụ họp gia đình Thiên Chúa
là cộng đoàn huynh đệ có cùng một tâm hồn, và nhờ Đức Kitô,
trong Chúa Thánh Thần, dẫn đưa cộng đoàn ấy về với Thiên Chúa
Cha.” (LG 28).
Cũng vậy, trong sắc lệnh về chức vụ và đời
sống linh mục, Công đồng cũng xác quyết :
- “Thi hành chức vụ của Đức Kitô là đầu và
là chủ chăn theo phận vụ mình, các linh mục nhân danh Giám mục,
tụ họp gia đình Thiên Chúa như một cộng đoàn huynh đệ duy nhất,
và nhờ Đức Kitô trong Chúa Thánh Thần, các ngài dẫn đưa họ đến
cùng Chúa Cha.” (PO 6).
Để ước mơ trên được trở thành sự thật,
thiết tưởng cần phải xây dựng tốt đẹp những mối liên hệ :
- Giữa linh mục với giáo dân.
- Giữa giáo dân với linh mục.
- Giữa giáo dân với nhau.
2- MỐI LIÊN HỆ GIỮA LINH MỤC VỚI GIÁO
DÂN.
Như chúng ta đã biết : giáo xứ là một cộng
đoàn, là một xã hội vì thế phải có những người đứng đầu, những
vị lãnh đạo. Người đứng đầu và lãnh đạo trong giáo xứ chính là
các linh mục.
Nếu giáo xứ là một gia đình, thì linh mục
chính là một người cha và người cha ấy có bổn phận phải phục vụ
dân Chúa :
- “Linh mục phải săn sóc các tín hữu như
những người cha trong Đức Kitô, vì đã sinh họ cách thiêng liêng
nhờ phép Thánh tẩy và giáo huấn.” (LG 28).
- “Là cộng sự viên khôn ngoan, là phụ tá và
là dụng cụ của hàng Giám mục, linh mục được kêu gọi để phục vụ
dân Thiên Chúa.” (LG 28).
Hẳn chúng ta còn nhớ, trong Phúc âm có lần
Chúa Giêsu đã xác quyết với các môn đệ :
- “Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải
làm người phục vụ anh em. Và ai muốn làm đầu anh em thì phải làm
đầy tớ anh em”. (Mt 20,26-28).
Vì thế, mọi chức vụ trong Giáo hội là để
phục vụ, kể cả chức vụ Linh mục :
“Các chủ chăn trong Giáo hội noi gương Chúa
phải phục vụ lẫn nhau và phục vụ các tín hữu khác.” (LG số 32).
Trong việc phục vụ, linh mục phải ưu tiên
chu toàn những bổn phận của chức vụ mình :
- “Nhờ bí tích truyền chức thánh, linh mục
được cung hiến theo hình ảnh Đức Kitô, thày cả Thượng phẩm vĩnh
viễn, để rao giảng Phúc âm, chăn dắt tín hữu và cử hành việc thờ
phượng Thiên Chúa với tư cách tư tế đích thực của Tân ước.” (LG
28).
Những bổn phận ấy là :
* Giáo huấn :
- “Vất vả truyền giáo và dạy dỗ, linh mục
tin những gì mình ngài đã đọc thấy và suy niệm trong lề luật
Chúa, dạy dỗ những điều mình tin và thực hành những điều mình
dạy.” (LG 28).
- “Theo cấp bậc thừa tác của mình tham dự
vào nhiệm vụ Đức Kitô, các linh mục loan báo lời Thiên Chúa cho
mọi người. Nhưng các ngài thực thi thánh vụ mình cách tuyệt hảo
nhất trong thánh lễ, hoặc cộng đồng tạ ơn, trong đó các ngài
thay thế Đức Kitô công bố mầu nhiệm của Chúa…” (LG 28).
* Thánh hóa qua việc trao ban các bí
tích :
- “Giáo dân cũng có quyền được các chủ chăn
có chức thánh ban phát dồi dào các ơn trợ lực chứa đựng trong
các kho tàng thiêng liêng của Giáo hội, đặc biệt là Lời Thiên
Chúa và các bí tích.” (LG 37).
- “Linh mục chu toàn cách tuyệt hảo chức vụ
giao hòa và an ủi đối với các tín hữu thống hối và bệnh tật.”
(LG 28).
* Cai quản :
- “Trong quyền hạn mình, linh mục thi hành
nhiệm vụ Đức Kitô mục tử và thủ lãnh, tụ họp gia đình Thiên Chúa
là cộng đoàn huynh đệ có cùng một tâm hồn, và nhờ Đức Kitô trong
Chúa Thánh Thần, dẫn đưa cộng đoàn ấy về với Thiên Chúa Cha.”
(LG 28).
Để việc phục vụ gặt hái được những
thành quả tốt đẹp, thiết tưởng linh mục cần phải :
* Tìm hiểu đoàn chiên :
- “Trong khi chu toàn nhiệm vụ chủ chăn,
trước tiên các ngài hãy quan tâm tìm hiểu đoàn chiên riêng của
mình. Vì là kẻ phục vụ hết mọi con chiên, các ngài hãy giúp cho
đời sống Kitô giáo được thăng tiến nơi từng giáo hữu, trong gia
đình, trong các hiệp hội đặc biệt liên hệ tới việc tông đồ vàcả
trong toàn thể cộng đoàn giáo xứ.” (CD 30).
* Gần gũi với đoàn chiên :
- “Các linh mục Tân ước, do ơn gọi và chức
thánh, một cách nào đó được tuyển chọn ngay giữa Dân Chúa, nhưng
không phải để tách biệt khỏi họ hoặc bất cứ một người nào, mà để
tận hiến làm công việc Chúa đã chọn họ làm…Chính thừa tác vụ của
các ngài, vì mang một danh nghĩa đặc biệt, nên đòi buộc các ngài
không được theo thói thế gian, nhưng đồng thời lại đòi hỏi các
ngài sống trong thế gian giữa loài người.” (PO 3).
* Đối xử khoan dung với mọi người :
- “Trong việc kiến thiết này, linh mục phải
theo gương Chúa mà đối xử rất nhân đạo đối với hết mọi người.
Tuy nhiên, khi dạy dỗ và khuyên bảo họ như những người con rất
yêu quí, các ngài phải đối xử với họ không phải theo sở thích
loài người, nhưng theo giáo thuyết và đời sống Kitô giáo đòi
hỏi, như lời thánh Tông đồ : hãy nhấn mạnh khi thuận tiện cũng
như khi bất tiện, hãy khiển trách, đe dọa, khuyến khích, với tất
cả lòng nhẫn nại và chủ tâm dạy dỗ.” (CD 6).
* Cách riêng, ngài phải quan tâm tới :
- Những người nghèo : “Thế nên, các nghị
phụ Thượng Hội Đồng thúc giục các vị chủ chăn hãy nghĩ ra những
phương cách mới mẻ và hữu hiệu để chăn dắt các tín hữu, làm sao
cho mỗi người, nhất là người nghèo cảm nhận được mình là một
thành phần thực thụ của giáo xứ và của toàn thể Dân Chúa.” (EA
25). “Tuy mắc nợ hết mọi người, nhưng các linh mục phải đặc biệt
săn sóc những người nghèo khổ và yếu đuối được trao phó cho mình
: vì chínnh Chúa đã tỏ ra là bạn hữu với họ và coi việc rao
giảng Phúc âm cho họ là dấu hiệu cho công cuộc cứu thế”. (PO 6).
- Giới trẻ : “Thượng Hội Đồng lưu ý đặc
biệt hơn nữa giới trẻ là thành phần mà giáo xứ cần phải tạo
nhiều điều kiện hơn để họ hiệp thông và cộng tác.” (EA 25). “Các
linh mục cũng phải đặc biệt tận tâm theo dõi các thanh thiếu
niên, ngay cả những người đã có đôi bạn và những bậc phụ huynh,
để ước gì họ họp thành những nhóm bạn hữu biết giúp đỡ nhau sống
đời Kitô giáo một cách dễ dàng và đầy đủ hơn trong cuộc sống đầy
khó khăn.” (PO 6).
- Những người bỏ đạo : “Như mục tử tốt
lành, linh mục còn phải đi tìm (Lc 15,4-7) những người đã lãnh
nhận phép thanh tẩy trong Giáo hội công giáo, nhưng đã xao lãng
không lãnh nhận các bí tích hay đã mất đức tin.” (LG 28).
- Những cộng đoàn “nhỏ và đẹp” :
“Các nghị phụ Thượng Hội Đồng nhấn mạnh tới
giá trị của các cộng đoàn Giáo hội cơ bản như một phương thế hữu
hiệu để đẩy mạnh sự hiệp thông và cộng tác trong các giáo xứ và
giáo phận như một lực lượng thực sự cho công cuộc phúc âm hóa.
Những tập thể này còn giúp các đoàn viên Tin mừng trong tinh
thần yêu thương huynh đệ và phục vụ, từ đó trở thành điểm khởi
hành vững chắc cho một xã hội mới, biểu hiện một nền văn minh
tình thương.” (EA 95).
* Làm gương sáng cho giáo dân :
- “Nêu gương cho đoàn chiên (1P 5,3), linh
mục phải làm sao hướng dẫn và phục vụ cộng đoàn địa phương của
mình để họ xứng đáng mang danh hiệu Giáo hội Thiên Chúa (1Cor
1,2; 2Cor 1,1), là danh hiệu riêng biệt của toàn thể dân Thiên
Chúa là dân duy nhất.” (LG 28).
* Cộng tác với giáo dân :
- “ Các ngài phải hợp tác với giáo dân và
sống giữa môi trường của họ theo gương Thày, Đấng đến ở giữa mọi
người “không để được phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến mạng sống
thay cho nhiều người.” (PO 9).
Tuy nhiên, để tạo được một sự cộng tác chân
thành với giáo dân, các linh mục cần phải :
- Chấp nhận vai trò của giáo dân trong cộng
đoàn Dân Chúa : “Phần các vị chủ chăn có chức thánh, các ngài
phải nhìn nhận và nâng cao phẩm giá và trách nhiệm của giáo dân
trong Giáo hội.” (LG 37). “Các linh mục cần phải nhìn nhận và
khích lệ phẩm giá và vai trò riêng của giáo dân trong sứ mệnh
Giáo hội.” (PO 9).
- Tôn trọng và lắng nghe bởi vì giáo dân
hôm nay tương đối đã trưởng thành, không còn thái độ “gọi dạ bảo
vâng“ như ngày xưa, vì thế : “ Các chủ chăn phải nhìn nhận và
tôn trọng sự tự do chính đáng của mọi người trong lãnh vực trần
thế.” (LG 38). “Các ngài cũng phải thành thật kính trọng sự tự
do chân chính mà mọi người có quyền được hưởng trong xã hội trần
gian. Các ngài phải sẵn lòng lắng nghe giáo dân, cứu xét các
nguyện vọng của họ trong tinh thần huynh đệ, nhìn nhận kinh
nghiệm và khả năng chuyên môn của họ trong các lãnh vực khác
nhau của hoạt động nhân sinh, để cùng với họ có thể nhận biết
những dấu chỉ thời đại.” (PO 9).
- Chấp nhận những ý kiến đóng góp : “Các
ngài nên sẵn sàng chấp nhận những ý kiến khôn ngoan của họ.”
(LG 37).
- Tìm hiểu những khát vọng của họ để đưa
ra những chương trình mục vụ thích hợp : “Với tinh thần cha con,
các ngài hãy cẩn thận xem xét, trong Chúa Kitô, những kế hoạch,
thỉnh cầu và khát vọng của họ.” (LG 37).
- Phải tín nhiệm và trao cho họ những công
việc cụ thể cần phải làm : “Các ngài nên tin cẩn giao cho họ
những công tác để họ phục vụ Giáo hội, cho họ tự do và quyền hạn
để hành động. Hơn nữa, các ngài cũng nên khuyến khích họ tự đảm
lấy trách nhiệm.” (LG 37). “Các ngài phải tin tưởng trao phó
nhiệm vụ cho các giáo dân trong việc phục vụ Giáo hội, để cho họ
được tự do và có lãnh vực hoạt động, hơn nữa lúc thuận tiện,
phải khuyến khích họ tự ý đảm trách công việc.” (PO 9).
- Dung hòa mọi khuynh hướng trong giáo xứ :
“Các linh mục được đặt giữa giáo dân để dẫn đưa mọi người về
hiệp nhất trong đức ái “hãy yêu thương nhau với tình bác ái
huynh đệ, thi đua tôn trọng lẫn nhau” (Rm 12,10). Vậy các ngài
phải tìm cách hòa hợp các khuynh hướng khác nhau, để không ai
cảm thấy mình xa lạ trong cộng đoàn tín hữu.” (PO 9).
3- MỐI LIÊN HỆ GIỮA GIÁO DÂN VỚI LINH
MỤC
Công đồng đã định nghĩa :
- “Giáo dân là tất cả những Kitô hữu không
thuộc hàng giáo sĩ và bậc tu trì được Giáo hội công nhận; nghĩa
là những Kitô hữu đã được tháp nhập vào Thân thể Chúa Kitô nhờ
phép Thanh tẩy, đã trở nên dân Thiên Chúa và tham dự vào chức vụ
tư tế, tiên tri và vương giả của Chúa Kitô theo cách thức của
họ. Họ là những người đang thực hiện sứ mệnh của toàn dân Kitô
giáo trong Giáo hội và trên trần gian theo phận vụ riêng của
mình.” (LG 31).
Là phần tử của Giáo hội, người giáo dân
cũng có bổn phận góp phần vào sự phát triển của Giáo hội :
- “Mọi người cùng góp phần vào công cuộc
chung, tùy theo cách thức của mình.” (LG 30).
Thực vậy, nét đặc sắc của người giáo dân đó
là họ sống giữa trần gian : Tính cách trần thế là tính cách
riêng biệt và đặc thù của giáo dân (LG 31). Họ đem lại nhiều lợi
ích cho Giáo hội : Các chủ chăn của Dân thánh biết rõ giáo dân
giúp ích rất nhiều cho toàn thể Giáo hội (LG 30). Nhưng theo
phương thế riêng của mình bởi vì họ sống giữa lòng cuộc đời :
- “Vì ơn gọi riêng, giáo dân có bổn phận
tìm kiếm nước Thiên Chúa bằng cách làm các việc trần thế và xếp
đặt chúng theo ý Thiên Chúa. Họ sống giữa trần gian, nghĩa là
giữa tất cả cũng như trong từng công việc và bổn phận trần thế,
giữa những cảnh sống thường ngày trong gia đình và ngoài xã hội
: tất cả những thứ đó dệt thành cuộc sống của họ. Đó là nơi
Thiên Chúa gọi họ, để dưới sự hướng dẫn của tinh thần Phúc âm,
như men bên trong, họ thánh hóa thế giới bằng việc thi hành
những nhiệm vụ của mình…” (LG 31).
- “Giáo dân được đặc biệt kêu mời làm cho
Giáo hội hiện diện và hoạt động nơi và trong những hoàn cảnh mà
nếu không có họ, thì Giáo hội sẽ không trở thành muối của thế
gian.” (LG 33).
Họ làm chứng bằng chính cuộc sống cá nhân
và gia đình của họ :
- “Công cuộc rao giảng Phúc âm đó, nghĩa là
sự loan báo Chúa Kitô bằng đời sống, chứng tá và lời nói, mang
một sắc thái và một hiệu quả đặc biệt vì được thể hiện trong
những hoàn cảnh chung của trần gian.” (LG 35).
- “Có một bậc sống rất giá trị để thể hiện
nhiệm vụ đó, bậc sống được một bí tích đặc biệt thánh hóa, đó là
đời sống hôn nhân và gia đình. Gia đình là môi trường hoạt động
và trường học tuyệt diệu cho việc tông đồ giáo dân. Từ gia đình,
Kitô giáo thấm nhập vào các tổ chức cuộc sống và dần dần biến
đổi các tổ chức ấy.” (GH số 35).
Như vậy, “trước mặt nhân loại, mỗi giáo dân
phải là chứng nhân của sự phục sinh và sự sống của Chúa Giêsu,
đồng thời là dấu hiệu của Thiên Chúa hằng sống. Tất cả và mỗi
người góp phần nuôi dưỡng thế giới bằng những hoa trái thiêng
liêng và truyền bá cho thế gian tinh thần của những người nghèo
khó, hiền lành và hiếu hòa, những người mà Phúc âm Chúa đã tuyên
bố là có phúc. Tóm lại, người Kitô hữu hãy làm cho thế giới sống
như linh hồn làm cho thân xác sống.” (LG 33).
Tuy nhiên. Trong phạm vi nhỏ hẹp của một
giáo xứ, người giáo dân cần phải có những thái độ, những cách cư
xử như thế nào đối với các linh mục của mình ?
Như một đứa con trong gia đình, người
giáo dân có bổn phận phải :
* Trọng kính :
- “Các Kitô hữu phải ý thức rằng mình có
trách nhiệm đối với các linh mục của mình và phải lấy lòng hiếu
thảo mà đối xử với các ngài như những chủ chiên và như cha mình
vậy.” (PO 9).
* Chia sẻ và giúp đỡ :
- “Họ phải chia sẻ những lo âu của các
ngài, giúp đỡ các ngài bằng lời cầu nguyện và bằng việc làm,
càng nhiều càng hay, để các ngài có thể thắng vượt những khó
khăn một cách dễ dàng hơn, và chu toàn trách vụ của mình một
cách hữu hiệu hơn.” (PO 9).
* Cộng tác :
- “Thực vậy, nếu Chúa phân biệt những thừa
tác viên có chức thánh với các thành phần khác của Dân Thiên
Chúa, thì sự phân chia này vẫn hàm chứa một sự hiệp nhất, vì chủ
chăn và các tín hữu khác liên kết với nhau do những mối dây liên
hệ chung.” (LG 32).
- “Phần các tín hữu phải sẵn lòng hợp tác
với các chủ chăn và những người giảng dạy.” (LG 32).
- “Giáo dân còn được mời gọi góp phần trực
tiếp bằng nhiều cách và công cuộc tông đồ của hàng giáo phẩm.”
(LG 33).
Tuy nhiên, để sự cộng tác được tốt đẹp và
mang lại lợi ích, người giáo dân cần phải thẳng thắn trình bày
những ý kiến xây dựng của mình :
- “Như con cái Thiên Chúa và như anh em
trong Chúa Kitô, họ cũng sẽ trình bày với các vị ấy những nhu
cầu và khát vọng của mình một cách tự do và tin cẩn. Nhờ sự hiểu
biết, khả năng chuyên môn và uy tín của họ, họ có thể và đôi khi
còn có bổn phận phải bày tỏ cảm nghĩ mình về những việc liên
quan đến lợi ích của Giáo hội.” (LG 37).
* Chấp nhận những quyết định của các vị
chủ chăn :
- “Như mọi tín hữu khác, với tinh thần vâng
lời của người Kitô hữu, giáo dân cũng hãy mau mắn chấp nhận
những điều mà các chủ chăn có nhiệm vụ thánh đại diện Chúa Kitô
đã quyết định với tư cách những thày dạy và những nhà lãnh đạo
trong Giáo hội; làm như thế, họ đã theo gương Chúa Kitô đấng đã
vâng lời cho đến chết để mở đường hạnh phúc của sự tự do con cái
Thiên Chúa cho tất cả mọi người.” (LG 37).
* Cầu nguyện :
- “Giáo dân đừng quên dùng lời cầu nguyện
phó dâng cho Thiên Chúa các vị lãnh đạo của mình, để các ngài
hoan hỉ mà không than vãn thi hành nhiệm vụ chăm sóc linh hồn
chúng ta, nhiệm vụ mà các ngài sẽ phải trả lẽ.” (LG 38).
Sau khi đã tìm hiểu về mối liên hệ giữa
linh mục với giáo dân, cũng như giữa giáo dân với linh mục,
chúng ta sẽ nói qua về mối liên hệ giữa giáo dân với nhau, để
cộng đoàn giáo xứ thực sự là một mái gia đình thân thương.
4- MỐI LIÊN HỆ GIỮA GIÁO DÂN VỚI NHAU.
Trong gia đình giáo xứ, người giáo dân
chính là anh em của nhau, vì thế cần phải sống tình bác ái huynh
đệ như lời Chúa đã dạy :
- “Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con
là môn đệ Thày, là các con yêu thương nhau.” (Gio 13,35).
Để thực thi tình bác ái huynh đệ ấy, nhiều
giáo xứ đã có những sinh hoạt rất độc đáo, chẳng hạn như : quĩ
tương trợ khi có người chết, quĩ học bổng giúp các em học sinh
nghèo vượt khó…
Tuy nhiên, chỉ xin nhấn mạnh một điều, đó
là ngoài việc giúp đỡ nhau về vật chất, chúng ta còn phải giúp
đỡ nhau về tinh thần, hay nói một cách cụ thể hơn giúp nhau sống
đạo, giúp nhau nên thánh như Công đồng mong mỏi :
- “Giáo dân phải giúp nhau sống đời thánh
thiện, nhờ những việc trần thế, để thế gian thấm nhuần tinh thần
Chúa Kitô và đạt đến cùng đích một cách hữu hiệu hơn trong công
lý, bác ái và hòa bình.” (LG 36).
KẾT LUẬN
Xin mượn lời Công đồng như một kết luận cho
mối liên hệ tốt đẹp giữa linh mục và giáo dân, cũng như giữa
giáo dân và linh mục, để giáo xứ được trở nên một cộng đoàn yêu
thương, một gia đình êm ấm, cũng như sẽ đem lại những hoa trái
tốt đẹp cho Giáo hội :
- “Hy vọng rằng sự liên lạc mật thiết giữa
giáo dân và chủ chăn sẽ đem lại rất nhiều lợi ích cho Giáo hội :
Thực vậy, nhờ sự liên lạc đó, giáo dân ý thức trách nhiệm mình
một cách vững vàng hơn; lòng hăng say của họ được phát triển, và
họ góp sức dễ dàng hơn vào công việc của các chủ chăn. Phần các
chủ chăn, nhờ sự trợ lực kinh nghiệm của giáo dân, các ngài có
thể phán đoán minh bạch và đúng đắn hơn về những vấn đề thiêng
liêng cũng như trần thế; như vậy, toàn thể Giáo hội được vững
mạnh nhờ tất cả mọi chi thể, sẽ chu toàn hữu hiệu hơn sứ mệnh
mình đối với sự sống của thế gian.” (LG 38).
GSVN |
VỀ MỤC LỤC |
|
ÐỒNG HÌNH HAY BIẾN HÌNH |
Phúc Âm Nhật Ký ngày
04.03.2007
(Lc 9: 28b-36)
Mùa Chay là cơ hội giúp tín hữu cố gắng đi
sâu vào mầu nhiệm Thánh giá và Phục sinh. Thế nhưng, đó cũng là
dịp truyền thông Hoa kỳ tung ra cuốn phim tài liệu “Ngôi Mộ Thất
Lạc của Ðức Giêsu.” Mục đích phủ nhận sự kiện Phục sinh và xóa
bỏ niềm tin Kitô trong lòng hai tỉ tín hữu trên thế giới. Phải
chăng đó là lần đầu tiên kỹ nghệ phim ảnh hợp tác với khảo cổ
học lũng đoạn và phá hủy các giáo hội Kitô ? Nếu sự thật đúng
như họ công bố, chẳng còn gì để nói về biến cố Hiển dung hôm
nay. Ánh sáng Hiển dung chỉ có ý nghĩa và giá trị khi dẫn đến
ánh sáng Phục sinh mà thôi.
Sự thật vẫn là sự thật. Các nhà khảo cổ Do
thái hoàn toàn bác bỏ tài liệu khảo cổ đó, vì chứng cứ mâu
thuẫn. Sự kiện Chúa Giêsu Phục sinh đã được năm trình thuật dẫn
chứng nghiêm nhặt trong Tân Ước về những lần Chúa hiện ra: bốn
trình thuật trong Tin Mừng và một do thánh Phaolô. Các môn đệ
đã làm chứng và hy sinh mạng sống vì Chúa Phục sinh.[1]
Cách đây hơn hai ngàn năm, các tông đồ đã
trải qua những thách đố lớn lao khi Ðức Giêsu sửa soạn bước vào
những ngày đen tối nhất cuộc đời. Mấy ai vững bước trong đêm
trường ?! Bởi thế, Ðức Giêsu muốn dẫn các môn đệ thân tín nhất
là Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi cao để chứng kiến tất cả vinh
quang và cảm nghiệm mối thâm tình giữa Chúa Cha và Chúa Con.
Nhờ đó, họ thấy được tất cả nền tảng niềm hy vọng đã đặt nơi Ðức
Giêsu.
Còn hơn thế, họ được phép đi vào tương quan
thâm sâu giữa Cha Con. Quả thực, họ như lạc vào trong đám mây,
tức là sống giữa sự hiện diện của Thiên Chúa. Họ đã ra khỏi môi
trường sống bình thường của trần thế. Họ lọt vào thế giới Thiên
Chúa. Ðó là lý do tại sao “các ông hoảng sợ.” (Lc 9:34) Mới
nhìn thấy “vinh quang của Ðức Giêsu,” (Lc 9:32) chiếu tỏa rực rỡ
giữa hai ông Môsê và Êlia, ông Phêrô đã lạc giọng và không kiểm
soát nổi mình. Vậy khi các ông chiêm ngắm và sống mầu nhiệm
Thiên Chúa trên đỉnh non cao, bút mực nào có thể diễn tả ?
Khi được đưa vào cõi Thiên Chúa, các ông
mới thấy nguyên hình Ðức Giêsu. Ánh sáng lúc này phải tăng tới
độ vô cùng mới diễn tả được vinh quang và địa vị Con Thiên Chúa
của Ðức Giêsu. Lúc này không phải Ðức Giêsu tự làm chứng nữa,
nhưng chính Chúa Cha xác nhận địa vị cao cả vô cùng của Chúa
Con. Không có lời chứng nào chính xác và giá trị hơn ! Tình
yêu Chúa Cha mãnh liệt đến độ Chúa Con đã “lọt mắt xanh” Chúa
Cha, được tuyển chọn để trở thành Thiên Sai giữa trần thế.
Như thế, khi xuống trần gian, Ðức Giêsu đã
được Chúa Cha tin tưởng tuyệt đối, đến nỗi trở thành mẫu mực và
phát ngôn chính thức của Chúa Cha. Tin tưởng tuyệt đối đến nỗi
Chúa Cha phải phán với các môn đệ : “Hãy vâng nghe lời Người !”
(Lc 9:35) Con tim Chúa cũng có cùng một nhịp đập khi nghe
tiếng nói tương tự của Ðức Mẹ trong tiệc cưới Cana : “Người bảo
gì, các anh cứ việc làm theo !” (Ga 2:5)
Uy thế Chúa Giêsu chưa bao giờ lên cao như
vậy. Nếu muốn lên cao như Chúa, các môn đệ cũng phải biến hình
nhờ sức mạnh thần khí và sự sống Thiên Chúa, tức là Lời Chúa (x.
Ga 6:63) . Ðó là lý do tại sao Chúa Cha truyền cho các môn đệ
phải vâng giữ Lời Chúa. Lời Chúa sẽ thực hiện cuộc biến đổi
sâu xa và toàn diện nơi những ai thực tâm sống Lời Chúa. Cuộc
biến đổi này cũng giống như việc Chúa biến hình hôm xưa.
Cuộc biến hình này mau qua. Cuộc biến hình
và hiển vinh miên viễn chỉ đến qua những đau khổ của Ðức Giêsu,
một đề tài được trao đổi giữa Chúa và hai vị khách từ thiên giới
(Lc 9:31). “Hình như các thánh sử cũng cho thấy sự liên kết giữa
những đau khổ và vinh quang của Ðức Kitô, vì cuộc Biến hình được
đặt trong bối cảnh lời tiên báo đầu tiên về cuộc Thương khó, cái
chết và sự Phục Sinh (Mt 16:21-23; Mc 8:31-33; Lc 9:22).”[2]
Nếu cuộc Thương khó và cái chết chứng tỏ Ðức Kitô đã “hoàn toàn
trút bỏ vinh quang” (Pl 2:7) Thiên Chúa, thì biến cố Hiển dung
và Phục Sinh mạc khải Ðức Giêsu là Ðức Chúa. Người đến thực
hiện những Lời Kinh Thánh (x. Lc 24:44-48) và lời các tiên tri
về Ðấng Thiên Sai, Ðầy Tớ Ðức Giavê và Con Người. Qua Ðức
Giêsu, Thiên Chúa thực hiện những điều đã hứa và đến ở giữa dân
Người. Ðồng thời, biến cố Hiển dung xác nhận lời tuyên xưng đức
tin của Phêrô tại Cesarea Philiphê (Mt 16:16). Ánh sáng Hiển
dung còn mạc khải Con Người Ðức Giêsu có cùng một vinh quang với
Thiên Chúa Cha.
Muốn chung hưởng vinh quang với Ðức Giêsu,
Kitô hữu phải gặp gỡ Người trong bí tích và tham dự vào mầu
nhiệm sự chết và Phục sinh của Người, một mầu nhiệm được báo
trước trong biến cố Hiển dung hôm nay. Ngay bây giờ, Kitô hữu
phải luôn luôn và không ngừng để Chúa Thánh Linh tác động (2Cr
3:18) hầu hoàn toàn biến hình, đợi ngày phục sinh vinh quang của
toàn thể vũ trụ khi Chúa đến lần thứ hai. Trước khi vui hưởng
vinh quang cuối cùng, và được biến hình với Ðức Kitô, họ phải
nên đồng hình (đồng dạng) với Người. Dù sống trong một thế giới
đầy đau khổ và thập giá, Kitô hữu vẫn hy vọng và hoàn toàn xác
tín Chúa Thánh Thần đang hoạt động mãnh liệt để chiến thắng
Satan và đạt vinh quang cuối cùng trong cuộc biến hình hoàn
toàn.[3]
Chính vì thế, đúng như thánh Phaolô nói (Rm
3:35), không gì có thể làm cho Kitô hữu tuyệt vọng. Tuy không
phải là tông đồ được lên núi với Chúa, nhưng được “một luồng ánh
sáng từ trời chiếu xuống bao phủ,” (Cv 22:6) Thánh nhân đã biến
hình hoàn toàn. Một cuộc lột xác tận bên trong và toàn thể cuộc
sống ! Từ đó, mặc dù phải ba chìm bảy nổi chín lênh đênh, ông
vẫn luôn rao giảng Tin Mừng. Ngay cả lúc ngồi tù, ông vẫn hô
hào mọi người : “Vui lên anh em !” (Pl 4:4) Lúc trước, suốt
ngày mặt ông đằng đằng sát khí với các Kitô hữu. Từ khi trở nên
đồng hình (đồng dạng) với Chúa Kitô, ông đã tìm thấy niềm vui và
bình an thực sự. Lý do vì ông đã biết lắng nghe và vâng lời Con
Chí Ái của Chúa Cha.
Có nhiều môn đệ chưa đau khổ bằng thánh
Phaolô, nhưng cuộc đời đầy ắp u buồn. Nhìn lại quá khứ, tôi
thấy những mảnh đời không đồng hình (đồng dạng) với Chúa Kitô.
Bởi đó, tôi không thể biến hình với Thày Chí Thánh. Ánh sáng
Hiển dung chưa chiếm trọn con tim, làm sao con mắt nhìn thấy
Thiên Chúa đang hiện diện nơi từng anh em ? Niềm tin non nớt
chỉ sinh ra cay đắng. Nếu có đức tin bằng hạt cải, tôi đã có
thể nhìn thấy hồng ân trong tất cả. Nếu tôi lên núi với Người,
cuộc đời đã tràn ngập niềm vui. Vì ngại lên núi biến hình với
Chúa, tôi đã không thể vận dụng mọi lẽ thuận nghịch trong cuộc
sống và không vượt qua được đêm tối trần gian.
Ngày xưa, đứng trước thực tế đầy nguy hiểm
và éo le, Chúa Giêsu đã đưa các môn đệ thân tín nhất lên núi
chiêm ngưỡng Chúa biến hình. Chắc chắn khi được đám mây bao
phủ, các ông đã cùng “biến hình” với Chúa. Trước và sau cuộc
biến hình này, Chúa đều kêu gọi các môn đệ hãy đồng hình. Nếu
không biến hình với Chúa, liệu các ông có đồng hình được không
? Nhưng nếu không đồng hình (đồng dạng) với Chúa, các ông có
thể biến hình trong ánh sáng Phục sinh không ? Biến hình hay
đồng hình, sự kiện nào xảy ra trước ?
Thực tế, Chúa chỉ chọn ba tông đồ lên núi
mà thôi. Như thế chỉ có một phần tư trong số tông đồ đoàn được
may mắn chiêm ngưỡng Chúa Hiển dung. Ba phần tư còn lại cũng
phải vác thập giá theo Thày và chia sẻ chén đắng suốt cuộc đời.
Tại sao những ông này không được vinh dự và hạnh phúc như ba vị
kia ? Họ sẽ lấy sức mạnh ở đâu để trung thành với Thày tới cùng
?
Tin Mừng nói rõ Chúa hiển dung đang lúc cầu
nguyện (x. Lc 9:29). Trong cầu nguyện Chúa đã hiệp thông sâu xa
với Chúa Cha. Những biến đổi bên ngoài dung mạo và y phục diễn
tả phần nào cuộc hiệp thông đó. Chẳng lẽ các tông đồ không thay
đổi gì sau bao lần chứng kiến và cùng cầu nguyện với Chúa ?
Chính trong lời cầu nguyện, các ông đã được biến hình sâu xa để
có thể đồng hình (đồng dạng) với Chúa trong cuộc đời. Bởi thế,
Chúa mới dạy chúng ta phải cầu nguyện không ngừng (x.Lc 21:36).
Nhờ cầu nguyện, chúng ta biến hình giống như Chúa.
Lạy Chúa, xin cho con lên núi với Chúa.
Giữa cuộc sống đầy tăm tối hôm nay, xin Chúa ban cho con ngày
càng nên đồng hình với Con Chúa, để con có thể biến hình trong
vinh quang Phục sinh. Amen.
đỗ lực
[1]
Tgm Bruno Forte, Zenit 01.03.2007.
[2]
New Catholic Encyclopedia 2003:154.
[3]
x. ibid.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
ĐẶC SỦNG CỦA ĐẤNG SÁNG LẬP |
LTS. GSVN hân hạnh giới
thiệu một cuốn sách rất giá trị thực dụng cho hết mọi tu sĩ và
giáo sĩ dòng, tuy nhiên vì tài liệu có tính chuyên sâu, và độc
giả GSVN lại rất đa dạng, vì thế GSVN sẵn sàng gởi riêng qua
email cho từng độc giả có nhu cầu (xin gởi email yêu cầu tại đĩa
chỉ
giaosivietnam@gmail.com ), ngoài ra Quí vị cũng có thể tham
khảo trọn tài liệu tại
www.conggiaovietnam.net .
Dưới đây là sơ lược vài nét của tài liệu.
Tác giả:
Trần Hữu Hạnh, fsf
MỤC LỤC
Lời mở
I. ĐẤNG SÁNG LẬP
1. Trước công đồng Vatican II
a. Vài nét lịch sử
b. Dựa trên khía cạnh thần học về Thần khí
2. Từ công đồng Vatican II
3. Đấng sáng lập là ai?
II. ĐẶC SỦNG CỦA ĐẤNG SÁNG LẬP
A. Đặc sủng nói chung
1. Đặc sủng là gì?
2. Đặc sủng và thừa tác vụ
3. Tiêu chuẩn để nhận ra đặc sủng đích thực
a) Đức ái
b. Thần khí luôn làm chứng cho Chúa Kitô
c) Sự phục vụ
B. Đặc sủng của đấng sáng
lập
1. Đặc Sủng của Đời Sống Thánh Hiến nói chung
2. Đặc Sủng của Đấng Sáng
Lập
a. Giáo huấn
của Giáo hội
b. Tính cách
của đặc sủng
c. Thần học về đặc sủng của
đấng sáng lập theo một số nhà thần học đương
thời
3. Đặc sủng lập dòng (thành
lập)
4. Đặc sủng (đoàn sủng) của hội
dòng
5. Đặc sủng và Sứ mệnh
(mission)
6. Thẩm quyền của Hội
thánh
7. Làm thế nào để khám phá ra đặc sủng của Đấng Sáng Lập?
LỜI MỞ
Đặc sủng là yếu tố chính tạo nên sự khác biệt giữa hội dòng này
với hội dòng khác. Đặc sủng chính là sức sống, là nguồn mạch của
mọi hoạt động tông đồ của mỗi hội dòng. Một hội dòng mà không
sống theo đặc sủng của đấng sáng lập sẽ đánh mất đi căn tính của
nó, và như một hệ qủa, mất đi phương hướng của nó. Chìa khóa cho
sự phát triển của mỗi hội dòng là trung thành với đặc sủng của
đấng sáng lập. Bởi đó, Đức Giáo hoàng Phaolô VI đã kêu gọi các
cộng đoàn tu trì phải trung thành với tinh thần, với những ý
hướng Phúc âm và gương thánh thiện của đấng sáng lập. Chính ở
đây mà các hội dòng tìm thấy nguồn gốc của họ (x. ET 11-12.
Người tu sĩ cần phải biết được căn tính ơn gọi của mình trong
Giáo hội. Họ phải giữ gìn, đào sâu và sống với sự trung thành và
lòng biết ơn đối với đặc sủng mà đấng sáng lập của họ đã nhận
được và truyền lại cho họ. Muốn có đổi mới, chúng ta cần biết
chúng ta là ai. Mỗi hội dòng phải ra sức giữ lấy căn tính của
mình để khỏi rơi vào tình trạng mập mờ, không xác định được vị
trí và nhiệm vụ của mình trong đời sống Giáo hội.
xin tham khảo trọn vẹn tài liệu tại
www.conggiaovietnam.net
|
VỀ MỤC LỤC |
|
RỬA CHÂN |
Đồng Hành Với Chúa-
Nguyên Tác
IN STEP
WITH GOD,
LM Vincent Travers, OP
HƯƠNG VĨNH chuyển
ngữ
(Ga 13, 1-17)
***
Nếu ai có dịp hành hương Thánh Địa và thăm
viếng căn phòng Tiệc Ly, có thể sẽ rất ngạc nhiên, ngay cả sửng
sốt nữa, khi thấy căn phòng đó đơn giản làm sao!
Không có gì ở trong căn phòng đó gợi lên
chút xíu về điều đã xảy ra ở giữa bốn bức tường khép kín vào tối
Thứ Năm Tuần Thánh đầu tiên đó. Không có gì cho thấy điều đã xảy
ra hôm đó có thể tồn tại mãi mãi về sau và khiến cho thế giới
xưa kia không còn bao giờ như thế nữa. Tôi không tin bất cứ căn
phòng nào – vì ý nghĩa lịch sử của nó – đã có thể tầm thường
và đơn giản như thế.
Tuy nhiên tính chất rất tầm thường và đơn
giản đó đã làm vang vọng điều mà Chúa Giêsu đã nói và đã làm vào
tối hôm đó và sẽ không bao giờ bị lãng quên được.
Chúa Giêsu và các môn đệ Ngài qui tụ ở đó
để mầng lễ Vượt Qua hằng năm. Đó cũng là bữa cơm tối cuối
cùng của họ khi tất cả mọi người họp mặt đông đủ. Quang cảnh
rõ thật là một tấn đại bi kịch.
Không ngạc nhiên chút nào, Chúa Giêsu đã mở
miệng ra và nói từ con tim của Ngài về những điều mà Ngài ấp ủ
trong lòng: thật đúng là một bài diễn văn giã biệt! Ngài
nói về tình yêu và những hoài vọng của Ngài đối với họ, về những
ưu tư của Ngài là họ sẽ bị tan rã khi Ngài ra đi. Chúa Giêsu
tiếp tục nói lâu dài, nói từ trong con tim của mình.
Giữa khi Ngài bộc lộ tâm tình như thế thì
một sự cãi vã nho nhỏ xảy ra giữa họ, cơ hồ làm hỏng hết ý nghĩa
của buổi họp mặt hôm đó. Họ muốn biết ai trong đám họ là
người lớn nhất. Đó là một cuộc tranh chấp quyền bính. Họ
tranh giành địa vị. Họ muốn biết ai là người ở trên chóp bu.
Thật là một điều không thích hợp và không
thích đáng chút nào. Chẳng khác nào Chúa Giêsu không có mặt ở
đó. Chẳng khác nào Ngài đã bị mất họ hết rồi. Họ ở trong một căn
phòng với Chúa Giêsu nhưng họ đã xa cách nhau vạn dặm. Họ không
cố nghe Chúa Giêsu nói. Họ đã ở trên sàn nhà đó nhiều lần trước
kia rồi nhưng vẫn còn một vấn đề nghiêm trọng xảy ra.
Họ đang cãi nhau ầm ĩ vào giờ nầy đây và
khiến Chúa Giêsu bị rơi vào tình trạng sửng sốt bàng hoàng. Tôi
không biết Chúa Giêsu có chớp mắt, ngước nhìn lên trời và lắc
đầu lia lịa hay không? Hoặc Ngài cảm thấy dở khóc dở cười khi
phải chứng kiến cảnh tượng lố bịch đó không? Ngài đang đối diện
với tử thần và các môn đệ của Ngài đang đấm đá nhau như trẻ con
vậy.
Những điều chúng ta phỏng đoán trên đây
không thành vấn đề nhưng điều hệ trọng là việc Chúa Giêsu đã làm
để kéo lôi họ ra khỏi chính con người của họ hầu trở lại
với đường đi nước bước của Ngài. Họ cần một quả đấm ngàn cân,
một sự chữa trị bằng một cú điện giựt thật mạnh để đem họ trở về
lại trên mặt đất.
Vì vậy Ngài đã lấy một bình nước, rót đầy
nước vào chậu, quấn một chiếc khăn ngang hông và yêu cầu tất cả
họ ngồi xuống. Giờ đây Ngài đã làm cho họ phải chú ý. Khi đến
lượt Ngài bắt đầu rửa chân cho họ, họ đã kinh
hoàng rúng động cùng tột. Chúa Giêsu là Chúa, là Thầy của họ, là
vị cứu tinh, người lãnh đạo và là tất cả của họ nhưng nầy đây
Ngài đã tự hạ mình xuống làm người thấp hèn nhất, bằng cách làm
một công việc thuộc về hạng tôi đòi hèn hạ nhất.
Khi Ngài đến với Phê-rô, ông
đã phản đối vì thấy rõ những điều ẩn ý bên trong. Có lẽ Phê-rô
là người khôn lanh nhất trong nhóm họ. Ông là một người lãnh
đạo, là cánh tay mặt của Chúa. Ông đã là người lãnh đạo của nhóm
lâu rồi trước khi Chúa Giêsu xuất hiện. Chúa đã nhận ra những
đức tính lãnh đạo của Phê-rô nên đã chỉ định ông làm người kế vị
Ngài.
Nhưng điều mà Chúa Giêsu đang làm không nằm
trong ý hướng lãnh đạo của ông. Ông đã bàng hoàng. Đó là điều
bất xứng. Đó là điều làm hạ phẩm giá của Ngài. Phê-rô đã hiểu
điều mà một người lãnh đạo phải làm. Ông đã khơi mào và làm chủ
tình thế. Chúa Giêsu đang bỏ rơi quyền lực. Phê-rô đã mất
tự chủ và không biết thế nào là phục vụ, nhưng Chúa Giêsu cố
thuyêt phục ông.
Chúa đã làm đảo lộn toàn bộ hệ thống giá
trị và tốt hơn hết là Phê-rô nên tin tưởng điều đó. Chúa Giêsu
thẳng thắn nói với Phê-rô là trừ khi ông để Ngài rửa chân ông –
tức là ông phải quan niệm lại vấn đề lãnh đạo – nếu không
ông sẽ không thể nào thông phần với Ngài. Đến lúc đó Phêrô bị
ngã gục. Phêrô đành đầu hàng, thua cuộc.
Cuối cùng khi Chúa Giêsu đã rửa chân xong,
Ngài đứng thẳng dậy và hỏi: “Anh em có hiểu việc Thầy mới
làm cho anh em không? Anh em gọi Thầy là ‘Thầy’, là ‘Chúa’, điều
đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy, là Chúa. Vậy, nếu Thầy
là Chúa, là Thầy mà còn rửa chân cho anh em thì anh em cũng phải
rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng
làm như Thầy đã làm cho anh em.” (Ga 13, 12-15)
Đó là điều chấm dứt ở đoạn Phúc Âm Thứ Năm
Tuần Thánh. Tại sao điều chấm dứt đó đã làm tôi bàng hoàng, bởi
vì câu kế tiếp đã cắt nghĩa toàn bộ ý thức hệ lãnh đạo của Chúa
Giêsu: “Thật, Thầy bảo thật anh em: tôi tớ không lớn hơn
chủ nhà, kẻ được sai đi không lớn hơn người sai đi. Anh em đã
biết những điều đó, nếu anh em thực hành thì thật phúc cho anh
em!” (Ga 13, 16-17)
Điều xảy ra trong tối Thứ Năm đó đã tóm gọn
toàn bộ sứ mệnh của Chúa Giêsu. Ngài đã đến để
phục vụ chứ không phải để được phục vụ. Ở trong Nước Trời,
phục vụ là cai trị.
Các môn đệ thực ra lúc bấy giờ đã không
thấu hiểu ý nghĩa của việc rửa chân. Cần phải có thời gian để sứ
điệp và gương lành của Chúa Giêsu ngấm xuống. Cuối cùng họ sẽ
nhận thấy rằng họ được kêu gọi để sống, không phải cho chính
họ mà cho kẻ khác. Sau hết khi họ hiểu được sứ điệp và gương
lành của Chúa Giêsu lúc bấy giờ họ mới quấn khăn ngang hông, đổ
đầy những chậu nước và rửa chân người khác nhằm mục đích phục vụ
Tin Mừng, ở trong tiến trình thay đổi thế giới.
Giờ đây đến lượt chúng ta phải bắt tay vào
việc và đóng góp vào câu chuyện được kể lại trong Phúc Âm. Có
thể chúng ta chưa nắm bắt được ý nghĩa của việc rửa chân nhưng
hy vọng chúng ta sẽ tham gia mỗi lúc một chút.
Cách chắc chắn nhất, chúng ta nên phác họa
lại bức tranh đó bằng cách bắt đầu sử dụng bất cứ nền tảng quyền
lực nào mà chúng ta có, bất cứ địa vị được tín nhiệm nào mà
chúng ta nắm giữ, bất cứ năng khiếu nào mà chúng ta được thiên
phú và chúng ta sẽ tổng hợp các thứ đó lại để phục vụ
kẻ khác. Rồi thì chúng ta bắt đầu rửa chân một cách can đảm và
duyên dáng theo cung cách của Chúa Giêsu.
Đừng hiểu lầm, sứ mệnh rửa chân không
bao giờ dễ dàng cả. Hãy hỏi Chúa Giêsu đi. Hãy hỏi Phêrô đi.
Hãy hỏi bất cứ ai đã cố gắng sống nhãn quan đó đi.
Nếu chúng ta khôn khéo như Phê-rô, chúng ta
sẽ hiểu rõ những điều quan hệ và những điểm nối kết từ đó mà ra.
Đặt để nhu cầu người khác trước tiên không bao giờ dễ dàng cả.
Điều đó đi ngược lại bản năng tự nhiên của chúng ta.
Bản năng tự nhiên chúng ta
nhắc nhở chúng ta rằng: “Chính tôi, chính tôi mà thôi, luôn
luôn là tôi và không ai khác hết.” Nhãn quan đối với
đời sống rửa chân đã khiến cho quan niệm về cuộc sống
đảo lộn khi nhắc nhở chúng ta điều ngược lại: “Không, không
phải tôi mà là chính bạn, chỉ bạn thôi, luôn luôn là bạn và
không ai hết.”
Cách thức mà quí bạn rửa chân và cách thức
mà tôi rửa chân có thể khác nhau và thay đổi tùy theo hoàn cảnh
cuộc sống. Mỗi người trong chúng ta phải hành động thế nào để
chúng ta rửa chân theo cung cách phù hợp với những năng khiếu
tự nhiên và ân sủng mà Thiên Chúa ban cho chúng ta.
Sau cùng, vấn đề không phải là dễ dàng hay
khó khăn, mà là có đáng để chúng ta quàng khăn ngang hông, đổ
đầy những chậu nước và rửa chân không? Câu trả lời cũng tương tự
như câu trả lời cho hết mọi vấn đề quan trọng khác, tất cả
đều phải đến từ bên trong chúng ta mà thôi.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
TỪ
ÐỈNH NON CAO
|
(Lc 9: 28b-36)
Ðêm về phủ kín
trần gian,
bao nhiêu kinh
dị lang thang đường tình,
không gian khép
nép cúi nhìn,
Thày đang tiên
báo trăm nghìn đắng cay,
đau thương chết
chóc từng ngày,
đón chờ thân
phận tương lai nhạt nhòa.
Tối tăm từng
mảng vỡ òa,
khi Thày sóng
bước bên ba môn đồ.
xa miền tăm tối âm u,
lên cao mới thấy ngục tù trần
gian.
một nguồn ánh sáng chói chang,
dung nhan y phục hương ngàn
trùng khơi,
say sưa cảnh sắc tuyệt vời,
Thày cùng hai vị nhà trời hàn
huyên ,
Nước Trời trĩu
nặng một bên
xuất hành trực
chỉ Gia Liêm mai ngày.
Từ cơn giấc điệp nồng say,
Phêrô bừng tỉnh
hiến Thày một chiêu,
“Xin cho con dựng ba lều,
Thày cùng nhị vị thiên triều
dừng chân.”
lều chưa thấy, đã thấy thân
phiêu bồng giữa cảnh triều thần
Nhà Cha,
trong cơn hốt hoảng chói lòa,
nghe Cha tuyên
phán : « Ðây là Con yêu !
Lời Người con hãy vâng theo.”
cuộc đời dù có chuông treo sợi
mành,
con luôn vững bước hiên ngang,
càn khôn ngàn khúc ca vang
nhiệm mầu,
từ bình minh tới đêm thâu,
tang thương đồng dạng, khổ đau
đồng hình,
sá chi thế thái nhân tình,
nguồn ân hồng lực Thánh Linh hộ
phù.
một đời theo Ðức Kitô,
trăm năm hy vọng tới giờ Phục
sinh !
nương theo Lời Chúa biến hình,
muôn năm vui sống ân tình Thiên
Sai.
Giang sơn trĩu nặng hai vai …
vân thanh
|
VỀ MỤC LỤC |
|
NHỮNG QUAN NIỆM SAI LẦM VỀ VIỆC THƯỞNG PHẠT |
bài 3
Hai đứa học sinh trung học nói
chuyện với nhau trong giờ giải lao của buổi hòa nhạc. Một đứa nói:
“Con Kim Chi trình diễn thật là tuyệt vời”. Đứa kia đáp lại: “Nó
không đi đâu cả. Mầy có biết gì không? Mẹ nó trả cho nó một đô la
cho mỗi giờ tập dượt”. “Mầy nói đùa hả?” “Không, tao không nói đùa.
Kim Chi nói: nó thực tập mỗi ngày 8 tiếng suốt mùa hè là để lấy tất
cả số tiền đó. Đó là lý do tại sao nó chịu khó tập. Không lạ gì nó
không đi đâu cả. Nó không chơi vì vui thích. Khi tao tập dượt, tao
tập dượt một cách mê man, bạn bè phải réo gọi tao ngưng để chúng nó
có thể nghỉ ngơi”. “À, tao biết mầy muốn nói gì. Tao cũng vậy thôi”.
Trên đây là một ví dụ cho thấy
con trẻ rất nhạy cảm về vấn đề tưởng thưởng. Chúng ta thử xem thêm
một câu chuyện khác:
Tuyết rơi nhiều. Ông bố bảo Vĩnh
10 tuổi và Lộc 8 tuổi xúc tuyết làm sạch những lối đi. Vĩnh đòi hỏi:
“Bố cho chúng con cái gì?” Ông bố do dự: “Con cảm thấy muốn cái gì?”
“5 đô la cho 2 đứa” Vĩng mặc cả. Ông bố nói: “Giá đó thì phải làm
luôn cả lối ra chỗ đậu xe”. Vĩnh đáp: “Vâng, hết cả”. Ông bố đồng ý:
“Được rồi, con làm đi bố cho con”. Hai đứa bé la lên một các sung
sướng và lao mình chạy ra làm.
Tại sao phải trả công cho con cái
khi chúng phải làm việc bổn phận trong nhà? Chúng sống với bố mẹ, ăn
uống, quần áo, học hành, và chia xẻ mọi bỗng lộc với bố mẹ trong gia
đình. Nếu chúng được vui hưởng mọi quyền lợi, chúng bắt buộc cũng
phải chia xẻ những bổn phận với bố mẹ.
Qua chế độ khen thưởng, bố mẹ sẽ
làm cho 2 cậu bé Vĩnh và Lộc lầm tưởng rằng chúng không bắt buộc
phải làm bất cứ một bổn phận nào ngoại trừ bố mẹ phải có một cái gì
cho chúng nó. Như thế, chúng không thể phát triển được cảm giác
trách nhiệm tùy theo sự cần thiết của hoàn cảnh đòi hỏi. Chúng ta
nên dạy con trẻ biết chia xẻ mọi bộ mặt của cuộc sống gia đình.
Chúng cũng nên biết chia xẻ với bố mẹ về đời sống kinh tế khó khăn
của gia đình ngay cả trong hình thức được phép chi tiêu cho những
điều cần thiết. Không có sự đòi hỏi giữa công việc phải làm và số
tiền được ban thưởng. Con cái có bổn phận phải giúp bố mẹ làm những
công việc trong nhà để đóng góp vào lợi ích gia đình.
Bà mẹ bỏ 2 đứa con gái nhỏ trong
chiếc xe đậu ở bãi đậu xe để đi vào siêu thị mua ít thức ăn. Bà vừa
ra khỏi xe thì chúng bắt đầu khóc. “Con đừng khóc, má sẽ mua đồ chơi
cho các con”. “Loại nào?” “Má chưa biết nhưng là có đồ chơi cho các
con”. Bà mẹ trả lời ngắn gọn và vội vã ra đi.
Bà mẹ cố gắng thu phục được sự
cộng tác của con trẻ bằng cách đề nghị cho một đồ chơi. Nhưng trẻ
con không cần phải hối lộ để trở nên tốt. Tự bản tính, mọi đứa trẻ
đều muốn nên tốt. Hành vi hướng thiện của con trẻ phát xuất từ bản
tính ước muốn thuộc về, muốn đóng góp một cái gì hữu ích, và cả ước
muốn cộng tác với cộng đoàn của mình nữa. Khi chúng ta thưởng một
đứa trẻ cho hành vi tốt của nó, chúng ta cho nó thấy rằng chúng ta
không tin tưởng nó. Nhiều đứa trẻ đã thất vọng khi thấy chúng ta xử
dụng những phương cách sai lầm như vậy.
Phần thưởng không mang lại cho
đứa trẻ “cảm giác thuộc về”. Đó có thể là dấu hiệu của sự chấp nhận
và mãn nguyện của bố mẹ trong lúc đó, nhưng cái gì sẽ xảy ra cho lúc
sau đó? Có phải chúng ta cứ phải tưởng thưởng liên tục để con trẻ
chúng ta mới chịu cộng tác nghe lời bố mẹ không? Nếu biết quan tâm
đến những lúc khác, có lẽ chúng ta sẽ không cần phải dùng đến phần
thưởng nữa. Cho dầu chúng ta chỉ muốn giữ lại một phần thưởng đặc
biệt nào đó, chúng ta cũng hãy coi chừng vì chính phần thưởng sẽ
khiến đứa trẻ sẽ nghĩ rằng những cố gắng thường ngày của nó chỉ là
vô ích bỡi nó sẽ không đạt được gì. Bấy giờ bố mẹ sẽ phải đối diện
với một vấn đề nghiêm trọng khác như trong trường hợp đứa trẻ từ
chối cộng tác mà không có câu trả lời. Chính vì thế, chúng ta phải
dùng phương pháp giáo dục khác để giáo dục con trẻ chúng ta. Tại sao
chúng ta không cắt nghĩa cho chúng nhìn thấy bổn phận phải làm những
công việc đòi hỏi cần phải làm cho dẫu không có gì đáp trả? Nếu
không, thái độ của chủ nghĩa vật chất sẽ theo đà đó phát triển, và
như vậy con trẻ chúng ta sẽ không còn có cơ hội để tự thõa mãn với
cái khát vọng muốn hoàn thành một cái gì tốt đẹp trong chúng ta. Bấy
giờ, một giá trị hoàn toàn sai lầm cũng sẽ được thiết lập trong đứa
trẻ và nó sẽ cho rằng thế giới nầy mắc nợ nó đủ mọi thứ. Như thế,
cảm giác của đứa trẻ 16 tuổi giữ luật đi đường để bảo toàn mạng sống
sẽ không có chỗ trong nấc thang giá trị của nó. Bấy giờ nó sẽ hành
động như thế nào? Tuân giữ luật giao thông lúc đi đường là điều cần
phải làm cho sự an toàn của tính mạng hay để được nhận phần thưởng?
Và nếu không có phần thưởng nó sẽ không cộng tác. Và đây chính là
kết quả cuối cùng của phương cách giáo dục với việc thưởng phạt. “Họ
không thưởng tôi, tôi sẽ không làm. Nếu họ phạt tôi, tôi sẽ phạt lại
họ. Tôi sẽ tỏ cho họ thấy điều đó”.
Thật ra, sự thõa mãn sâu xa đến
từ cảm giác tham dự, cộng tác, và đóng góp một cái gì cho cộng đoàn,
nhưng cảm giác nầy đã bị thiếu mất đi đối với con trẻ chúng ta trong
một chế độ quá chú trọng đến việc ban phát những phần thưởng vật
chất. Chính vì thế, chúng ta cần nên nhớ rằng mỗi khi chúng ta cố
gắng khích lệ con trẻ chúng ta cộng tác bằng cách cho phần thưởng là
chúng ta đã vô tình làm cho con cái chúng ta mất đi sự thõa mãn căn
bản sâu xa về tinh thần cũng như về cuộc sống.l
lm.lêvănquảng
|
VỀ MỤC LỤC |
|
CÓ NÊN DẠY GIÁO LÝ HAY
CỬ HÀNH THÁNH LỄ
CHO GIỚI TRẺ Việt Nam
TẠI HOA KỲ BẰNG TIẾNG ANH KHÔNG? |
Trên đường trở về sau ba ngày tĩnh tâm với
các em Hướng Đạo Sinh thuộc liên đoàn La Vang và Lạc Việt, lòng
tôi vừa lâng lâng vui sướng vì bao ơn lành Chúa ban cho các em
và chúng tôi trong ba ngày ấy, vừa thổn thức và lo âu vì những
điều mà các huynh trưởng cùng các phụ huynh chia sẻ với tôi.
Tiếng hát của các em còn vang lên bên tai tôi bài hát thật dễ
thương mà Frère Phong dạy các em: “Pump the Jesus’ Spirit, pump
it up…” hoà lẫn với các ưu tư của các phụ huynh và cũng là của
chính tôi là làm sao để các em tiếp tục sống đức tin trong môi
trường xã hội đồi trụy đầy gương mù này.
Một Thảm Trạng
Một vài phụ huynh đã than phiền là con cái
lớn của họ sau khi lên đại học đã bỏ đạo Công Giáo mà theo Tin
Lành, vì khi còn nhỏ các em chẳng hiểu gì khi học Giáo Lý và
nghe giảng trong Thánh Lễ bằng tiếng Việt Nam, đến khi lên đại
học, các em theo các bạn bè Tin Lành đến các lớp Thánh Kinh bằng
tiếng Anh, và các em hiểu những điều họ dạy, rồi bỏ đạo mà đi
theo họ. Tình trạng này đã xảy ra cho nhiều gia đình. Các phụ
huynh cho biết là họ rất biết ơn vì những cố gắng của chúng tôi
trong việc dạy Giáo Lý bằng Anh ngữ cũng như tổ chức những buổi
tĩnh tâm bằng song ngữ cho con em họ. Họ đề nghị tôi nên nói
tiếng Anh nhiều hơn tiếng Việt vì dù dùng song ngữ, các em cũng
chưa hiểu hoàn toàn. Đồng thời họ cũng nhờ tôi xin Cha Xứ tổ
chức những Thánh Lễ cho giới trẻ bằng Anh ngữ mỗi tuần một lần
để giúp các em hiểu và sống đạo cách thực tế hơn.
Một số hướng đạo sinh lớn và nhiều huynh
trưởng đề nghị với tôi rằng các em muốn có thêm nhiều buổi tĩnh
tâm nhỏ ba bốn lần một năm, vì các em thầy gần Chúa hơn và thấy
cuộc đời có ý nghĩa hơn khi dự các buổi tĩnh tâm như thế. Một
huynh trưởng khác chia sẻ là khi em còn ở trung học, em rất ghét
dự Thánh Lễ vì không hiểu gì cả. Nhưng khi lớn lên em đi nhà
thờ Mỹ và hiểu nhiều hơn, vì thế em rất thích dự lễ. Mỗi tuần
em dự lễ ở nhà thờ Mỹ, rồi đến nhà thờ Việt Nam để phục vụ giới
trẻ Việt Nam vì em thấy không mấy ai “care” cho chúng. Em đã cố
gắng hết sức học tiếng Việt, nhưng nói thì được, chứ vẫn chưa
đọc và viết thành thạo. Nghe giảng bằng Tiếng Anh thì em hiểu
ngay, còn nghe giảng bằng tiếng Việt thì em phải dịch ra tiếng
Anh rồi mới hiểu được, mà chưa kịp dịch câu trước thì đã mất câu
sau, vì cha giảng quá nhanh….
Đâu là ưu tiên hàng đầu của chúng ta?
Vấn đề dạy Giáo Lý bằng tiếng Anh hay tiếng
Việt cho trẻ em Việt Nam tại Hoa Kỳ đã được bàn cãi không ngừng
trong gần ba mươi lăm năm qua. Khi mới sang Mỹ, tôi là người rất
cực đoan, muốn bảo vệ văn Hoá Việt Nam bằng bất cứ giá nào. Tôi
vẫn mơ ước là chúng ta có thể dạy Giáo Lý bằng tiếng Việt Nam để
con em chúng ta vừa biết tiếng Việt vừa sống đạo như chúng ta đã
từng sống. Như thế thì được cả hai. Nhưng sau nhiều năm phục vụ
giới trẻ và chương trình Giáo Lý tôi mới thấy rằng việc dạy Giáo
Lý bằng tiếng Việt không đơn giản như tôi tưởng vì những lý do
sau đây.
1.
Không phải tất cả các trẻ em Việt
Nam đều đủ trình độ tiếng Việt để hiểu biết về Giáo Lý. Có những
gia đình chịu khó dạy con nói tiếng Việt ở nhà thì các em nói
được, hiểu được. Nếu cố gắng dạy thêm nữa thì các em đọc được,
nhưng không hiểu hoàn toàn. Còn viết được để làm bài và ghi lại
bài giảng bằng tiếng Việt thì gần như là chuyện “con lạc đà chui
qua lỗ kim.” Nhưng tiếc thay phần lớn phụ huynh chẳng quan tâm
mấy đến tiếng Việt ở trong gia đình, nên hầu hết các trẻ em Việt
Nam chẳng những không đọc và viết được tiếng Việt, mà nói cũng
không được.
2.
Có nhiều giáo xứ, công đoàn Việt Nam
mở lớp dạy Tiếng Việt cho các em. Đây là một điều đáng mừng.
Nhưng học một tuần lễ chỉ có một hai giờ mà không thực hành ở
nhà thì cũng chỉ biết qua loa mà thôi. Người Mễ, sở dĩ bảo tồn
được ngôn ngữ của họ vì các em học tiếng Tây Ban Nha hằng ngày
tại trường học, đồng thời họ sống chung với nhau trong những khu
xóm thuần chủng, còn người Việt thì sống rải rác khắp nơi, trừ
một số khu vực như ở New Orleans.
3.
Một khó khăn nữa là tìm được các
giáo lý viên có đủ khả năng dạy Giáo Lý bằng tiếng Việt đâu phải
là dễ. Phần lớn người trẻ vừa tốt nghiệp đại học, có đủ khả
năng dạy Giáo Lý đều yếu kém về tiếng Việt. Trong nhiều buổi
huấn luyện, chính các trưởng ban Giáo Lý đề nghi tôi giảng bằng
tiếng Anh cho các thày cô dễ hấp thụ hơn. Trong hầu hết các giáo
xứ, mỗi năm các trưởng ban Giáo Lý phải vất vả lắm mới tuyển đủ
giáo lý viên, nếu chỉ tuyển thày cô có khả năng dạy Giáo Lý bằng
tiếng Việt thì tôi e rằng sẽ không tìm đâu ra một phần ba số
thày cô đang phục vụ trong các Giáo Xứ.
4.
Một điều thật quan trọng là nếu
chúng ta chỉ cho những người rành tiếng Việt dạy Giáo Lý, thì
chúng ta loại ra rất nhiều những người trẻ đầy thiện chí và đạo
đức chỉ vì các em không biết tiếng Việt. Khoảng mười năm trước
đây khi bắt đầu phục vụ chương trình Giáo Lý tại Cộng Đoàn Notre
Dame, có một số người trẻ vừa tốt nghiệp đại học đến gặp chúng
tôi và tình nguyện dạy Giáo Lý. Có một cô bé thật dễ thương đã
nói với chúng tôi rằng “Con muốn dạy Giáo Lý, nhưng con không
biết tiếng Việt, cũng không biết Giáo Lý thì con có dạy được
không?” Mấy anh chị em chúng tôi đã mở cửa ban Giáo Lý để đón
em và bạn bè em. Chúng tôi đã mở những lớp huấn luyện cấp tốc,
gửi các em lên học trên Giáo Phận và tổ chức các lớp huấn luyện
và thực tập hàng tuần. Không đầy năm năm sau, một số em đã
thành những Giáo Lý Viên chuyên dạy các lớp Thêm Sức và Xưng Tội
Rước Lễ Lần Đầu, và khi tôi rời Giáo Xứ Đức Kitô Ngôi Lời Nhập
thể về phục vụ Giáo Xứ La Vang thì một trong các em này đã thành
trưởng ban Giáo Lý tại Giáo Xứ Ngôi Lời. Nếu những ngày ấy Cha
Quản Nhiệm đóng cửa không cho các em phục vụ thì làm sao có một
ban Giáo Lý hùng hậu và một nhóm trẻ hăng say phục vụ Giáo Xứ
Đức Kitô Ngôi Lời Nhập Thể như ngày hôm nay?
Các Linh Mục hay những ai không phục vụ các
cộng đoàn hay Giáo Xứ Việt Nam thì không tài nào hiểu nổi những
khó khăn về mục vụ mà các Cha gặp phải tại các Giáo Xứ và cộng
đoàn Việt Nam, mà khó khăn đầu tiên phải nói là giữa thế hệ trẻ
và thế hệ già, nhất là vấn đề ngôn ngữ bất đống. Ngồi đó mà chỉ
trích thì dễ lắm, nhưng khi va chạm đến thực tế mới thấy thật
nan giải. Khi phải chọn lựa giữa việc bảo tồn văn hóa Việt Nam
và bảo vệ Linh Hồn giới trẻ, thì các linh mục có lương tâm sẽ
chọn Linh Hồn các em trước văn hóa vì “làm lễ hay dạy Giáo Lý
bằng tiếng Việt có ích gì, nếu vì thế mà các em sau này bỏ đạo
theo Tin Lành hay theo Vô Thần?”. Khi thấy vì nhu cầu của linh
hồn các em, phải dạy Giáo Lý bằng tiếng Mỹ, thì một Cha Sở dù
bảo thủ đến đâu cũng phải cho dạy bằng tiếng Mỹ. Khi vì nhu cầu
linh hồn của giới trẻ cần có Thánh Lễ bằng tiếng Anh thì một vị
chủ chăn nhân lành sẽ tìm cách cử hành Thánh Lễ bằng tiếng Anh
hay cố gắng giảng bằng tiếng Anh hoặc nhờ một linh mục Việt Nam
thông thạo Anh Văn về cử hành Thánh Lễ bằng tiếng Anh cho các
em. Làm thế không có nghĩa là “vọng ngoại” hay “vong bản” mà là
thực thi Giới Luật thứ nhất là “không đưa tiếng Việt lên trên
Thiên Chúa.”
Mục đích chính của việc dạy Giáo Lý không
phải chỉ truyền thụ một mớ bài học thuộc lòng hay một mớ kiến
thức suông, mà là uốn nắn học sinh theo khuôn mẫu Đức Kitô, là
làm cho các em thành những Kitô hữu trưởng thành, là đào tạo các
em thành các môn đệ của Chúa. Muốn được như thế phải dạy các em
bằng ngôn ngữ mà các em hiểu. Nếu các em không hiểu, làm sao các
em có thể áp dụng những gì các em học vào đời sống được?
Xin được trả lời một số thắc mắc sau đây
1.
Có người lý luận là “tiếng Anh của
các em chỉ là tiếng Anh ở nhà trường, chứ không phải ở nhà thờ
ngôn ngữ nơi ngôn ngữ phụng vụ và kinh thánh đều xa lạ với các
em dù là tiếng Anh hay tiếng Việt. Cụ thể là …các ngôn từ như
“prophet (sứ ngôn), Old and New Testaments (Cựu Ước và Tân
Ước)…”
Xin thưa, học Giáo Lý không phải chỉ để
biết một số danh từ thần học bằng tiếng Anh hay tiếng Việt, mà
để áp dụng vào hoàn cảnh sống của mình. Muốn áp dụng bài học
Giáo Lý vào đời sống hằng ngày, các em phải hiểu cách tường tận.
Mà muốn hiểu cách tường tận thì các em phải học bằng ngôn ngữ mà
các em dùng hằng ngày và thành thạo chứ không phải chỉ biết trọ
trẹ. Sách “Cẩm Nang Giáo Lý Quốc Gia (National Directory for
Catechesis) trang 87 nhấn mạnh rằng: trong việc dạy Giáo lý “phải
dùng ngôn ngữ thích hợp với trẻ em, giới trẻ, và người trường
thành ngày nay nói chung, cũng như nhiều loại người khác: thí
dụ, học sinh, sinh viên, các nhà trí thức và khoa học, những
người mù chữ và những người tàn tật.” Như vậy các học sinh
Việt Nam tại các Giáo Xứ có thể được coi là “mù chữ Việt”,
nhưng tạ ơn Chúa là các em còn biết tiếng Anh để chúng ta dạy
dỗ. Những gì các em học được, các em phải đưa ra thực hành ở
ngoài xã hội. Chính vì học Giáo Lý bằng tiếng Việt mà không hiểu
gì cả nên một số sinh viên khi lên đại học chỉ cần bạn bè Tin
Lành bắt bẻ vài câu là bỏ đạo theo họ.
2.
Nếu cha mẹ ngại con em không hiểu
tiếng Việt thì sao không cho các em đi lễ và học Giáo Lý ở nhà
thờ Mỹ?
Sở dĩ chúng tôi không đưa con em đi nhà thờ
Mỹ hay học Giáo Lý ở nhà thờ Mỹ, vì chúng tôi muốn con em chúng
tôi có một tâm hồn Việt Nam. Mặc dù chúng tôi dạy Giáo Lý bằng
tiếng Mỹ, nhưng chúng tôi dùng những câu chuyện thật Việt Nam để
giữ gìn tinh thần Việt Nam của các em. Một khi duy trì được
tinh thần Việt Nam trong lòng các em. Các em sẽ học tiếng Việt
khi thấy có nhu cầu. Tôi đã gặp những người trẻ Việt Nam sau một
thời gian phục vụ cộng đoàn Việt Nam đã cố gắng tự học tiếng
Việt để có thể tiếp xúc với những người Việt không thạo tiếng
Anh. Nhờ đi học Giáo Lý, tham gia các hội đoàn, và tham dự Thánh
Lễ ở nhà thờ Việt Nam mà các em sau này biết trở về phục vụ đồng
bào Việt Nam sau khi đã thành nhân. Có biết bao người trẻ Việt
Nam dù không rành tiếng Việt đã âm thầm phục vụ trong các Giáo
Xứ Việt Nam một cách vô vị lợi. Nếu cha mẹ đưa các em đến nhà
thờ Mỹ và học Giáo Lý của Mỹ thì các cộng đoàn Việt Nam đã mất
đi một số tông đồ nhiệt thành như thế.
3.
Có thật “học Giáo Lý bằng tiếng Việt
và dự lễ bằng tiếng Việt” các em sẽ không “mất gốc” không?
Thưa nếu các em học mà hiểu, dự Thánh Lễ mà
hiểu, và nghe các Cha giảng tiếng Việt mà hiểu thì các em sẽ
không mất gốc. Nhưng nếu các em không hiểu gì cả thì một ngày
nào đó khi thoát ly ra khỏi gia đình, các em sẽ mất cả gốc lẫn
cả đạo vì suốt thời gian đáng lý ra phải được đào luyện Đức Tin
thì các em đã không hiểu gì về Đức Tin cả.
Bảo Tồn Văn Hóa và Đức Tin
Đối với tất cả người Việt chúng ta, bảo tồn
văn hóa là điều rất quan trọng, nhưng không phải vì văn hoá mà
hy sinh việc bảo tồn Đức Tin của con em chúng ta. Vì thế chúng
ta cần phải phân biệt giữa việc bảo tồn văn hóa và và việc bảo
tồn Đức Tin, và tìm cách nào để chúng ta vừa bảo tồn được văn
hóa mà vừa làm cho Đức Tin của con em chúng ta được vững mạnh..
Dạy Giáo Lý và cử hành Thánh Lễ bằng tiếng Anh không làm cho các
em mất gốc, nếu chúng ta truyền thụ tinh thần Việt Nam cho các
em. Dù nói không rành tiếng Việt, các em vẫn có giòng máu Việt,
văn hóa Việt, và gia đình Việt. Nhiều người đồng hoá văn hoá với
ngôn ngữ. Mặc dù ngôn ngữ là một phần quan trọng của văn hoá,
nhưng văn hóa rộng lớn hơn ngôn ngữ nhiều. Văn hoá trước hết bao
gồm cách sống, các phong tục tập quán trong gia đình, trong cộng
đồng, cách đối xử giữa ông bà, cha mẹ con cái, bạn bè….Dù không
rành tiếng Việt, rất nhiều trẻ em sống rất Việt Nam. Các em
không nói được tiếng Việt, chưa chắc đã trở thành “lai căng” như
có người chỉ trích. Nếu Giáo Xứ Việt Nam tạo ra các phương tiện
để các em học hỏi, phục vụ và gắn bó lấy cộng đồng Giáo Xứ thì
các em sẽ không bao giờ mất gốc cả.
May mắn thay cho người Việt Công Giáo chúng
ta tại Hoa Kỳ, là ở hầu hết các Giáo Xứ và cộng đoàn Việt Nam
đều có các lớp dạy Tiếng Việt và các đoàn thể trẻ. Để giúp các
em quen với Tiếng Việt, xin đề nghị dạy các em hát càng nhiều
bài tiếng Việt càng tốt. Trong Thánh Lễ, có thể giảng bằng Tiếng
Anh hay song ngữ, nhưng nên hát và đọc kinh Tiếng Việt càng
nhiều càng tốt. Cũng nên giải thích ý nghĩa của các bài hát và
các kinh này trong các lớp Giáo Lý hay Việt Ngữ hoạc trong khi
họp các đoàn thể trẻ để các em hiểu là các em hát và đọc gì. Làm
như thế chúng ta vừa bảo tồn được văn hóa Việt Nam, vừa giúp các
em hiểu và sống đạo.
Kết Luận
Là một Giáo Lý viên và một phụ huynh Việt
Nam sống tại Hoa Kỳ, chúng tôi chia sẻ cùng một ưu tư với nhiều
phụ huynh khác là sợ con em mình mất gốc. Nhưng nỗi lo sợ lớn
lao hơn của chúng tôi là sợ con em mất Đức Tin. Chúng tôi cảm tạ
Thiên Chúa Nhân Từ đã ban cho nhiều Chủ Chăn Việt Nam tại Hoa Kỳ
đức khôn ngoan và can đảm để đặt nhu cầu truyền thụ và huấn
luyện Đức Tin của con em chúng tôi lên trên văn hóa, nên các
ngài đã cho phép các Giáo Lý viên chúng tôi dùng Anh Ngữ để dạy
Giáo Lý, mặc dù các ngài bị một số người, kể cả một vài Linh Mục
gán cho những nhãn hiệu thật thiếu bác ái như “vọng ngoại, lai
căng…”. Tuy nhiên các ngài cũng không quyên khuyến khích con em
nói Tiếng Việt bằng cách đã bỏ nhiều tài nguyên và nhân lực của
Giáo Xứ vào các chương trình Viễt Ngữ.
Xin Chúa trả công bôi hậu cho các Chủ Chăn
nhân lành. Amen.
GLV Phaolô Phạm Xuân
Khôi |
VỀ MỤC LỤC |
|
GIAI ĐOẠN HẬU CHỦNG VIỆN
|
ĐÀO TẠO VÀ TỰ ĐÀO
TẠO THIÊNG LIÊNG CỦA CÁC LINH MỤC TƯƠNG LAI
TRONG BỐI CẢNH
VIỆT NAM HÔM NAY
Nguyên bản tiếng
Anh Lm.
Micae-Phaolô TRẦN MINH HUY
Bản dịch Việt
ngữ Lm.
Vincentê Trần Minh Thực, Lm. GB. Nguyễn văn Hào
CHƯƠNG X
GIAI ĐOẠN HẬU CHỦNG VIỆN -
NĂM NĂM ĐẦU TIÊN
TRONG SỨ VỤ LINH MỤC: NHỮNG MỐI TƯƠNG QUAN HÀI HOÀ, QUÂN BÌNH VÀ
TRƯỞNG THÀNH TRONG ĐỜI SỐNG VÀ SỨ VỤ LINH MỤC.
Bằng việc giới thiệu ứng sinh lên
chức linh mục, chủng viện đã hoàn tất giai đoạn đào tạo khởi đầu của
mình, nhưng việc đào tạo linh mục không dừng lại ở đây. Việc đào tạo
linh mục phải được tiếp tục, bằng việc đào tạo thường xuyên trong
suốt cuộc đời của linh mục. Việc đào tạo chủng viện chỉ cho biết
phải làm sao và sống thế nào. Nhưng bây giờ trong sứ vụ mục vụ,
chính vị linh mục trẻ bắt đầu làm và sống đời linh mục và sứ vụ linh
mục của mình. Càng sống đời linh mục càng trở nên linh mục tốt hơn
và đích thực là linh mục.
Theo Pastores Dabo Vobis, bản chất và
sứ vụ linh mục không thể được xác định, nếu không có những tương
quan bắt nguồn từ Chúa Ba Ngôi, được kéo dài trong sự hiệp thông của
Hội Thánh và của toàn thể nhân loại.396
Mục đích quan trọng nhất của việc đào
tạo thiêng liêng thường xuyên trong suốt năm năm đầu tiên này là
giúp vị tân linh mục chu toàn sứ vụ mình trong niềm vui và trung
kiên hy vọng, ý thức, chấp nhận và vượt thắng những chiến đấu thiêng
liêng, bằng việc thăng tiến các mối tương quan hài hòa, quân bình và
trưởng thành với Chúa, với chính mình, với người khác và với thiên
nhiên.
Những mối tương quan này đã được bắt
đầu và nuôi dưỡng ngay từ tiến trình đào tạo khởi đầu ở trong chủng
viện. Nếu ngày qua ngày, các tương quan này được điều chỉnh và phát
triển tốt đẹp thì mọi sự sẽ “thuận buồm xuôi gió.” Nhìn thẳng vào
những hoàn cảnh thực tế mà vị linh mục trẻ dấn thân vào như là đáp
án thích hợp, người ta sẽ tin tưởng “canh tân và nuôi dưỡng chúng
cách hữu hiệu hơn.”397 Vì lý do đó, Đức Gioan Phaolo II đã nói rằng
việc đào tạo linh mục “đúng đắn và quân bình”398 là bảo đảm tốt nhất
cho tương lai.
A. Đối Mặt Thực Tế và Những Nhu Cầu Căn Bản
1. Những Thực Tế Không Mong Đợi
Đức Tổng Giám Mục Orlando B. Quevedo
(Philippines) nhận thấy rằng ngay sau khi thụ phong, các linh mục
trẻ đã bỏ cầu nguyện, Sách Nhật Tụng, Nguyện Gẫm riêng, xét mình
hàng ngày và lần chuỗi Mân côi. Ngài buồn rầu kết luận: “linh mục
trẻ bỏ cầu nguyện và những sùng kính đạo đức là những cái đã giúp
ngài giữ được ơn gọi sống động trong chủng viện, và cũng chính những
thứ đó sẽ còn giúp ngài bền đỗ trong chức vụ linh mục.”399
Đâu là lý do khiến đời sống thiêng
liêng của các linh mục trẻ sa sút và đưa đến hậu quả không đáng mong
đợi như vậy? Một cách nào đó, điều này chứng tỏ họ còn yếu kém và
không trưởng thành đủ trong một đời sống thiêng liêng sâu xa. Chúng
ta không thể không biết đến tình cảnh này của con người và của Hội
Thánh… và cũng không thể khám phá thấy hết được những hình thức khác
nhau của cơn “khủng hoảng” mà các linh mục ngày nay đang phải chịu
đựng: thiếu vâng lời và khó nghèo, lơ là việc linh hướng và xưng tội
(luôn luôn sẵn đó nhưng họ không dùng), không ưu tiên cho đời sống
cầu nguyện, thiếu tương quan thân mật với Giám mục và linh mục đoàn,
thiếu liên đới và hợp tác làm việc chung, nhưng chỉ thích thi hành
sứ vụ cách cá nhân, thiếu tín nhiệm và tin tưởng lẫn nhau, quá tự
tin, kiêu căng, lười biếng, có vấn đề về đức trong sạch, thiếu trách
nhiệm bản thân trong việc tự đào tạo và phát triển đời sống thiêng
liêng.400
Ngoài ra, Bộ Giáo Sĩ cũng mô tả những
yếu tố nản lòng này: “thói quen đơn điệu, căng thẳng thể xác vì quá
nhiều việc, mệt mỏi tâm lý gây nên do đấu tranh chống lại hiểu lầm
và định kiến.”401 Và Bộ đề nghị một giải pháp: “cần phải đưa ra vài
lời khuyên cho một chương trình đào tạo thường xuyên thích hợp có
thể giúp các linh mục sống ơn gọi của mình cách vui tươi và trách
nhiệm.”402
2. Những Nhu Cầu Cơ Bản Và Thường Xuyên Của
Hội Thánh
Đáp lại các vấn đề đó, các thẩm quyền
Giáo Hội nhấn mạnh việc đào tạo thường xuyên. Thật vậy, Sứ Vụ và Đời
Đống Linh Mục dành trọn chương III (các số từ 69-92) để nói về việc
đào tạo thường xuyên này, như “một bổn phận và quyền lợi chính đáng
của linh mục…. và của Hội Thánh”, phù hợp với “mục đích cơ bản của
sự trưởng thành trong đời sống thiêng liêng,”403 mà “không ai có thể
thay thế được linh mục trong việc canh chừng chính mình” (x. 1 Tm 4,
16).404
Trong khi đó Tông Huấn Pastores Dabo
Vobis cũng dành trọn chương VI (các số 70-82) để nói về việc đào
tạo thường xuyên này của linh mục, như “sự tiếp tục tự nhiên và
tuyệt đối cần thiết của tiến trình xây dựng nhân cách của linh mục,
vốn đã được khởi sự và phát triển từ trong chủng viện.”405
Còn Optatam Totius khuyến cáo rằng
“việc đào tạo linh mục, nhất là trong bối cảnh của xã hội hiện đại,
cần phải được tiếp tục và hoàn thiện hoá sau khi đã hoàn tất chương
trình đào tạo trong chủng viện.”406
Ngoài ra, Ratio Fundamentalis
Institutionis Sacerdotalis (chương XVII, số 100-101) mô tả việc đào
tạo hậu chủng viện: “cách riêng trong những năm đầu tiên sau khi
chịu chức …. để các linh mục mới ra trường có thể được trang bị tốt
hơn, ngõ hầu họ có thể gánh vác và hoàn thiện các bổn phận của người
tông đồ.407
Và Tông Huấn Ecclesia in Asia mở ra
một hướng rộng lớn: “Để phục vụ Hội Thánh như ý Đức Kitô, các Giám
mục và linh mục cần một đào tạo chắc chắn và thường xuyên, có thể
cung ứng những cơ hội khả thể cho một cuộc canh tân thiêng liêng và
mục vu.”408
Liên Hội Đồng Giám Mục Á Châu đã thực
hiện lời khuyên này sớm nhất, qua cuộc hội thảo số 5 mang tựa đề
“đào tạo tiếp tục cho các linh mục Á Châu.”409
Cuốn Gathered Around Jesus quan niệm
rằng đó là một cuộc khủng hoảng về đời sống thiêng liêng và đưa ra
một phương dược chữa trị, với ơn Chúa:
a. Ở Cấp Độ Cá Nhân
Kỷ luật tự giác và nỗ lực cá nhân,
vào sâu trung tâm nhân cách con người, dành thời gian để xét mình,
coi trọng đời sống cầu nguyện và dành giờ để chiêm ngắm, phân định
rõ ràng căn tính của mình, ngay thẳng với chính mình, thành thật
trong ơn gọi, giản dị trong cuộc sống, cầu nguyện và làm việc không
ngừng.
b. Ở Cấp Độ Giáo Hội
Nhìn lại nơi chúng ta đã xuất
phát, chọn những con người có tinh thần siêu nhiên làm ứng viên linh
mục, tìm thứ linh đạo phù hợp với cá tính của mỗi người, linh đạo
này nên thúc đẩy và mở ra với thế giới, tiếp tục đào tạo thiêng
liêng và lớn lên nhờ một cuộc đào luyện thiêng liêng quân bình, các
khía cạnh nhân bản và đào tạo thiêng liêng phải là một, thần học về
đời sống độc thân, sự hiện diện của vai trò gương mẫu, linh đạo về
hiệp thông, dấn thân vào cộng đoàn giáo xứ cầu nguyện, phân định
cộng đoàn và chấp nhận, ý thức về hoàn cảnh và khả năng trực diện
với chúng, hệ thống hổ trợ và tình huynh đệ bí tích, Giám mục phải
thiết lập tương quan cá nhân với các linh mục của mình.410
3. Trách Nhiệm và Đóng Góp của Chủng Viện
Chủng viện không muốn bị kêu trách là
“đem con bỏ chợ.” Chủng viện nên đồng hành với những người mới ra
trường ít nhất là trong năm năm đầu tiên làm linh mục, với tiến
trình này: “Dạy cho người ta làm, giúp người ta làm, để cho người ta
làm, cuối cùng rút lui, nhiệm vụ đã hoàn tất.” Nhưng các nhà đào tạo
của chủng viện phải cộng tác với Giám Mục và linh mục đoàn của ngài
trong việc đào tạo thường xuyên, nhằm định hướng lại lối sống của
hàng giáo sĩ, với một quân bình thiêng liêng và tâm lý vững chắc.411
Mặc dù việc đào tạo thường xuyên là
sự nối tiếp việc đào tạo trong chủng viện, nhưng nó không phải là
lặp lại những kiến thức đã học, mà nó mang một nội dung mới và
phương pháp mới, vì đây được coi là một tiến trình áp dụng và cập
nhật hoá và thay đổi.412 Trong khía cạnh thực hành, việc thực tập
này nhằm mục đích giúp linh mục trẻ biết thực hành và suy nghĩ về
kinh nghiệm của mình như là thừa tác viên bí tích, giảng dạy, khuyên
răn và thăm viếng; ôn lại giáo lý với cách thức đặc biệt, nhấn mạnh
các vấn đề luân lý và các trường hợp thuộc toà giải tội; nhìn thẳng
vào và suy nghĩ về các kinh nghiệm mục vụ, sức khỏe và đời sống tình
cảm, về giới tính và tâm lý: “Mọi yếu tố đều phải phù hợp với mục
đích căn bản của sự trưởng thành trong đời sống thiêng liêng.”413
Thật vậy, khi còn là chủng sinh, họ
học và biết rất rõ phải cử hành bí tích như thế nào, nhưng đó mới
chỉ là lý thuyết; bây giờ là linh mục, họ cử hành chính những bí
tích ấy với nội lực và kinh nghiệm của mình. Thật rất khác nhau,
nên họ cần sự đồng hành của các nhà đào tạo giúp họ hội nhập và sống
đời sống bí tích của họ, với đường lối cá nhân, tự do và ý thức,
trong đời sống hiệp thông, yêu thương, cảm nhận và thái độ của Đức
Kitô,414 theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Linh mục càng sống
đời linh mục của mình thì càng trở nên linh mục đích thực.
Mới đây, Tổng trưởng Bộ Giáo sĩ, Đức
Hồng Y Castrillon Hoyos mở một khoá tranh luận Thần Học Truyền Thông
bàn về “Đào tạo thường xuyên cho giáo sĩ” và coi đây như một bổn
phận và quyền lợi của Hội Thánh hoàn vũ, cũng như của mỗi linh mục.
Đào tạo thường xuyên của linh mục là một lời mời gọi tiếp tục hoán
cải và thánh hoá, một cuộc tái khám phá hàng ngày cái nhu cầu tuyệt
đối của sự thánh thiện cá nhân của linh mục, cũng như nhu cầu thiết
yếu của đời sống và sự trưởng thành của Dân Chúa, vì họ có quyền
nhìn thấy và gặp được chính Đức Kitô nơi linh mục.415
B. Những Tương Quan và Trợ Giúp
1. Tương Quan Với Chính Mình
Trước hết, các linh mục mới phải luôn
ý thức về căn tính của mình (tôi là ai?) trong mọi chiều kích của
một đời sống quân bình và trưởng thành (nhân bản, thiêng liêng, giới
tính và tâm lý). Họ phải cố gắng để luôn trung thành với lời cam kết
và sứ vụ của mình, bởi vì “các linh mục sẽ đạt tới sự thánh thiện
trong con đường riêng biệt của mình bằng cách thi thành sứ vụ của
mình cách chân thành và không mệt mỏi trong Thần Khí của Đức
Kitô,”416 đặc biệt là trong đời sống cầu nguyện: cầu nguyện thế nào
thì sống thế ấy, và sống thế nào thì cầu nguyện như vậy. Hầu hết các
linh mục rời bỏ chức linh mục đều là những vị đã bỏ đời sống cầu
nguyện. Vì thế, Chúa Giêsu đã nhắc nhở “hãy tỉnh thức và cầu nguyện
… tinh thần thì hăng hái nhưng bản tính nhân loại thì yếu đuối” (x.
Mc 14, 38; Mt 26,41).
Họ có thể cảm thấy an ủi và chán nản
trong cầu nguyện. Vì thế, họ phải ý thức rằng họ cầu nguyện không
phải để thoả mãn những gì họ sẽ nhận được, nhưng để tìm gặp Chúa, mà
Chúa thì đôi khi được thấy trong sự trần trụi và không ích kỷ. Không
ai biết được lúc nào Chúa đến. Thái độ chờ đợi trong cầu nguyện phải
là thái độ ý thức và tỉnh táo. Vì thế, Tân Ước đã nhiều lần nhắc nhở
kiên trì trong cầu nguyện. Họ phải trung thành với thời gian mà
chính họ đã ấn định cho việc cầu nguyện: luôn trung thành với lời
cầu nguyện hằng ngày và kiên trì trong suốt thời gian cầu nguyện.
Điều này dẫn đến một lời cầu nguyện sâu xa. Họ cũng nên kiên trì tìm
gặp gỡ với Chúa ở bất cứ nơi nào và vào bất cứ lúc nào. Vị linh
hướng vốn hiểu họ có thể giúp họ và trấn an họ những lúc khó khăn và
hoang mang trong tương quan của họ với Chúa.417
2. Tương Quan Với Người Khác
a. Tương Quan với Giám Mục Bản Quyền
Trong vương quốc này của Thiên
Chúa, người ta kể đến trước hết mối tương quan của linh mục với Giám
Mục của mình.418 “Một cách bí tích, linh mục đi vào hiệp thông với
Giám mục và các linh mục khác để phục vụ Dân Chúa.”419 Đức Gioan
Phaolô II đã khuyên các Giám Mục Việt Nam hãy luôn gần gũi hơn với
các linh mục, quan tâm tới đời sống hàng ngày của họ để nâng đỡ họ
và đồng hành cùng họ, nhất là khi họ gặp thử thách vì thi hành sứ
vụ; cung cấp cho họ một sự đào tạo thiêng liêng thích nghi với những
thách đố trong việc truyền giáo mà họ phải đối diện.420 Chương trình
đào tạo linh mục của Giáo Hội Philippines năm 1972 đưa ra đề nghị
rằng các Giám mục nên đi bước trước trong cuộc đối thoại thân hữu và
thường xuyên với các linh mục trẻ, để họ có thể cởi mở và chân thành
bàn cải cách riêng tư, với sự hướng dẫn từ phụ của Giám Mục, về công
việc, thành công và thất bại, kế hoạch và vấn đề, và về đời sống
thiêng liêng của họ nữa.421
Với sự hiểu biết đầy yêu thương và sự
trợ giúp từ phụ của Giám mục, linh mục sẽ đứng vững trong mọi hoàn
cảnh, bởi vì mọi cuộc khủng hoảng đều đến từ cuộc khủng hoảng quyền
bính. Thái độ của các linh mục đối với Giám Mục phải là hợp tác,
vâng lời, tình bạn, và nhìn thấy nơi ngài một người cha thực sự và
vâng phục ngài với tất cả kính trọng. Sự vâng lời càng đến từ con
tim (không phải bởi quyền lực hay lý lẽ), thì mối tương quan giữa
Giám mục và linh mục càng trở nên gần gũi và rồi mọi sự đều tốt
đẹp.422
b. Tương Quan Giữa Linh Mục Với Nhau
Mối tương quan và đối thoại của
một “tình huynh đệ bí tích”423 giữa các linh mục già và linh mục trẻ
có thể đưa tới hiểu biết lẫn nhau và cùng nhau giải quyết các vấn đề
và khó khăn trong sứ vụ linh mục của họ.424 Sắc lệnh về Sứ vụ và Đời
sống linh mục đã mô tả rõ ràng: Các linh mục nhiều tuổi hãy đón
nhận những linh mục trẻ như những người em thực sự và giúp đỡ họ
trong những công tác và gánh nặng đầu tiên của sứ vụ linh mục; gắng
hiểu tâm trạng của họ và theo dõi các dự tính của họ với thiện chí.
Và các linh mục trẻ phải biết kính trọng tuổi tác và kinh nghiệm của
các vị lớn tuổi; bàn hỏi với các ngài và sẵn lòng cộng tác với các
ngài trong việc chăm sóc các linh hồn.425
Tình huynh đệ bí tích này còn “hơn cả
tình yêu của phụ nữ” (hãy xem tình bạn của David và Gionathan trong
2 Sm 1,26) và tình huynh đệ ấy trở thành bảo đảm cho đời độc thân
của mọi linh mục trong tất cả cuộc sống và sứ vụ của họ. “Ngọt ngào
tốt đẹp biết bao, anh em được sống vui vầy bên nhau” (Tv 132, 1).
Thượng Hội Đồng Giám Mục năm 1971 ước mong rằng các hiệp hội linh
mục phải được cổ vũ và phát triển để cung ứng cho họ sự trợ giúp
huynh đệ.426
c. Tương Quan Với Giáo Dân Nam Cũng Như Nữ
Theo sắc lệnh về Chức vụ và Đời
sống linh mục, các linh mục phải nhớ rằng mọi người đã được rửa tội
đều phải cùng nhau làm việc cho Nước Chúa, vì tất cả là thành viên
của cùng một thân thể Đức Kitô. Các ngài phải nhìn nhận và thăng
tiến phẩm giá và sứ vụ của giáo dân, sẵn lòng lắng nghe họ, coi
trọng những ước mong của họ, nhìn nhận kinh nghiệm và chuyên môn của
họ trong các lãnh vực khác nhau của hoạt động nhân loại, tin tưởng
vào phận vụ của họ trong việc phục vụ Giáo Hội, để họ có đủ tự do và
lãnh vực hoạt động, và cho họ cơ hội thích hợp gánh vác công việc
theo sáng kiến của họ. Các linh mục cũng phải dẫn dắt giáo dân đi
đến hiệp nhất, sự thật và công ích, hoà giải những khác biệt về tâm
thức để không ai cảm thấy mình xa lạ ở trong cộng đoàn tín hữu.
Còn về phía mình, giáo dân phải nhận
biết bổn phận đối với các linh mục của mình, và bằng chia sẽ ân cần,
họ giúp các ngài bằng lời cầu nguyện và công việc, ngõ hầu các ngài
có thể sẵn sàng vượt qua những khó khăn mà chu toàn sứ vụ cách hiệu
quả hơn.427
d. Tương Quan Với Phụ Nữ: Trợ Lực Hay Là Vấn
Đề Cho Cuộc Sống Và Sứ Vụ Của Linh Mục?
Theo sách Sáng Thế (St 2, 18-24)
và theo quan niệm Á Đông về Âm-Dương,428 người nam và người nữ rất
gắn bó nhau, hấp dẫn nhau và bổ túc cho nhau. Người nam không thể là
một con người nếu không có người nữ và ngược lại. Điều này đã khởi
sự ở trong gia đình và ngay từ thời niên thiếu: người nam và người
nữ bổ túc cho nhau và sự sống, cả nhân bản và thiêng liêng, vẫn
tiếp tục trải ra và phát triển.
Sự việc cũng như thế với các linh mục
và phụ nữ, nữ tu hay nữ giáo dân. Trong những mối tương quan này, có
nhiều phương diện của cuộc sống thật ý nghĩa và đẹp đẽ và có nhiều
công việc thật tuyệt vời. Tuy nhiên, họ không luôn luôn là trợ lực,
nhưng lắm khi cũng là vấn đề và sa lầy không lối thoát,429 cho một
số linh mục.
Mọi thân xác đều mang giới tính. Quà
tặng độc thân của linh mục có thể bị nguy hiểm, nhất là khi một
người nam đơn độc ở với một người nữ đơn độc lâu giờ trong một nơi
cửa khóa chặt, mà không có bất cứ khoảng cách nào, cùng với những
biên giới cần thiết về thể lý, tâm lý và thiêng liêng. Và, vì một
người đàn bà, một số linh mục đã từ bỏ thừa tác vụ, nhất là trong
bối cảnh hiện nay của nền văn minh lấy cái tôi làm trọng tâm, vật
chất, hưởng thụ, khoái lạc, phim con heo và nhục dục.
Vì thế, đời sống độc thân linh mục
cần được bảo vệ cách ý thức bằng việc đặc biệt giữ cảnh giác cảm xúc
và toàn bộ cách cư xử của mình, với ý thức rằng “chúng ta gìn giữ
kho tàng ấy trong những chiếc bình sành” dễ vở (2 Cr 4,7). “Cách
thực tế, một lối sống phù hợp với chức linh mục không thể được phát
triển, nếu chủng sinh dấn thân vào một mối quan hệ độc hữu với một
phụ nữ.”430
Đối diện với những vấn đề này, người
ta được thúc đẩy thiết lập một mối tương quan trưởng thành, lành
mạnh, hài hoà và quân bình giữa cả hai phái. Các chủng sinh tốt
nghiệp có thể tự hỏi về quan niệm của mình đối với người khác phái,
về cách quan hệ với phụ nữ và về những ảnh hưởng hổ tương của họ thế
nào? Họ có mối quan hệ riêng biệt nào với một số phụ nữ hay với một
số phụ nữ sống đời thánh hiến không? Đâu là nguyên nhân của mối quan
hệ này? Có cảm nhận gì hay triệu chứng nào đáng nghi không ?
e. Tương Quan Với Các Nữ Tu: Phải Khôn
Ngoan Và Tỉnh Thức
Đối với các nữ tu, kể cả các nữ
giáo dân tình nguyện và tông đồ, linh mục phải giữ trong trí óc và
tâm hồn sự lệ thuộc của họ và chính sự lệ thuộc của mình đối với
Chúa, và “trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa” (x. Mc
12,17). Linh mục cũng phải tôn trọng các nữ tu vì họ là “những cộng
tác viên - chứ không phải những thuộc hạ hay người giúp việc - luôn
sống trong sự bổ túc, hài hoà và liên đới.”431
Nhưng, vì với lý tưởng chung là dâng
hiến trọn vẹn đời sống cho Chúa và Dân Chúa như là những cộng tác
viên, người ta có thể có mối tương quan thân mật, bằng sự cởi mở tâm
sự cho nhau, bằng sự hiểu nhau và chia sẻ sứ vụ, những thành công
cũng như những khó khăn, tin tưởng nhau, cảm thông với nhau, dịu
dàng và ân cần chăm sóc. Chính từ sự thân mật này, một cảm nhận “yêu
thương” có thể dễ dàng phát sinh và phát triển, rồi tình trạng có
thể trở nên nguy hiểm hơn, với những hình thức được bộc lộ ra như
muốn chiếm hữu, ghen tuông, và muốn độc quyền. Linh mục đừng quên
lời khuyên của Chúa Giêsu (x. Mt 26,41; Mc 14,38): là những con
người thánh hiến, nhưng họ vẫn không thôi là những con người với
những yếu đuối nhân loại.
Các linh mục cũng phải ý thức rằng sự
thân mật là nhu cầu của con người, nhưng sự thân mật trong đời sống
độc thân không cần (và không được) được biểu lộ có tính cách phái
tính và đồng hóa với hoạt động truyền sinh.
Sự thân mật độc thân có mức độ thích
hợp của nó. Chính mức độ riêng biệt này cung ứng cho họ đủ tự do để
yêu thương mọi người và không vượt qua các giới hạn của nó. Họ có
thể khuôn đúc mối tương quan nam nữ của họ theo gương mẫu đời sống
của Chúa Ba Ngôi và kêu xin Chúa ban can đảm để thăng tiến, vượt
thắng và thánh hoá “tiếng gọi nhân loại” này, ngõ hầu giúp nhau sống
và chu toàn những gì đã cam kết trong ơn gọi và sứ vụ của mỗi người.
Để dễ dàng thực hiện điều đó, họ phải
biết tôn trọng nơi chốn, thời gian, khoảng cách và giới hạn cần
thiết, về thể lý cũng như tâm lý, của các cuộc gặp gỡ. Họ phải rõ
ràng và thành thật với chính mình, với người khác và với Thiên Chúa,
bởi vì sự “hẹn hò” yêu thương thường được che giấu dưới những cớ hợp
pháp và xứng đáng của các công tác và hoạt động mục vụ, nhưng “thực
tế đó là những nghiêng chiều nguy hiểm của con tim.”432 Thật vậy,
“bất cứ linh đạo đích thực nào cũng phải nghiêm khắc và mạnh mẻ, đòi
hỏi thường xuyên cảnh giác và thức tỉnh.”433 Vì thế, mô hình đào tạo
của ICLA với môi trường hổn hợp có thể là một chuyển tiếp tốt và
thích hợp từ mô hình cũ tách biệt thế giới đàn ông và thế giới đàn
bà, sang một nếp sống gần gủi, thân mật và tự nhiên như hiện nay.
Trong hoàn cảnh tế nhị này, sự hiện
diện yêu thương và đời sống cộng đoàn sẽ mang lại sự trợ giúp cần
thiết. Bởi tình bạn dâng hiến và nhiệt tình, mỗi người có thể là sự
trợ giúp lớn lao cho người khác, trong việc soi sáng và khích lệ lẫn
nhau, khi phải chịu đựng những hoàn cảnh nguy hại khác nhau, cũng
như sự lây nhiễm một thứ tinh thần thế tục nào đó.434 Người ta cũng
không được quên nhu cầu cầu nguyện, khổ chế, ăn chay và chiêm niệm:
“Người ta không thể đi theo con đường khó nếu không có một thứ khổ
chế đặc biệt.”435
Nhưng trên hết, mỗi người phải tin
rằng tình yêu của Thiên Chúa lớn hơn tình yêu nhân loại (một tình
yêu lớn hơn vượt thắng tình yêu nhỏ hơn và những hấp dẫn của nó);
rằng chỉ có Thiên Chúa mới làm thoả mãn được con tim chúng ta và
chúng ta thế nào thì Ngài yêu thương chúng ta thế ấy, và Ngài yêu
thương chúng ta cho đến tận cùng; và rằng chúng ta đã “chọn phần tốt
hơn.”436 Chúa luôn hiện diện trong cuộc đời chúng ta như là “người
canh giữ”, như là “bóng mát” của cột mây ban ngày và cột lửa ban đêm
để soi đường trong sa mạc, và như là “cánh tay uy quyền” của người
bảo vệ.437
f. Tìm Những Con Đường Tương Quan Tốt
1) Linh Mục Trong Tương Quan Với Mẹ Và Chị
Em Của Mình
Mối quan hệ đầu tiên và cơ bản
nhất của linh mục với các phụ nữ phải kể cụ thể là mối quan hệ với
chính mẹ và chị em của mình. Mẹ của ngài là người phụ nữ mà ngài đã
nhận được sự sống, và nhờ mẹ mà ngài có được ơn kêu gọi. Sự dịu dàng
và chăm sóc yêu thương của tình mẹ nâng đỡ và bảo vệ ngài, giúp ngài
lớn lên trong đời sống nhân bản cũng như đời sống thiêng liêng. Mẹ
và chị em luôn tiếp tục đồng hành với ngài, với tình yêu thương, cầu
nguyện, với chăm sóc canh phòng nhưng đầy kính trọng. Một linh mục
tốt luôn giữ mối liên hệ mật thiết với mẹ và các chị em mình, đặc
biệt trong thời gian dao động tình cảm và bị cám dỗ.
2) Hãy đối xử với các Cụ Bà như là mẹ mình,
và với các thiếu nữ như chị em mình với tấm lòng trong sạch” (1 Tm
5,2):
Từ thời niên thiếu về sau, linh
mục nào cũng đều đã gặp gỡ các thiếu nữ và đàn bà, trong hàng xóm
láng giềng hay tại trường phổ thông, và đại học. Để sống hồng ân
quí giá là đời sống độc thân vì Nước Trời trong con đường trưởng
thành và trong sáng, điều xem ra đặc biệt quan trọng là linh mục
phải phát triển cách sâu xa trong chính mình, hình ảnh của các phụ
nữ như mẹ và chị em mình, với cùng một lòng yêu thương và kính trọng
như đối với mẹ và chị em mình.
Trong thời đại hôm nay, linh mục phải
biết “khám phá ra phẩm giá và ơn gọi của phụ nữ trong Giáo Hội và
trong thế giới.”438 Sự thăng tiến này làm cho người nam và người nữ
cảm thấy bình đẳng và biết tôn trọng nhau trong mọi khía cạnh.
Nhưng, Đức Phaolô VI cũng nhắc Dân Chúa trách nhiệm của họ là cầu
nguyện và chân thành trợ giúp các linh mục vượt qua mọi nỗi khó
khăn, tận tình yêu thương các ngài với tình con thảo và sẵn sàng
cộng tác với các ngài, với kính trọng và tế nhị dè giữ, khích lệ và
an ủi, vì các ngài là những người hoàn toàn tận hiến cho Chúa Kitô
và Giáo Hội.439
3) Nhìn Vào Cách Ứng Xử Của Chúa Giêsu Và
Mối Tương Quan Hài Hoà Của Ngài Với Phụ Nữ
Phúc Âm cho chúng ta biết rằng
thái độ ứng xử của Chúa Giêsu mang lại tự do và hòa điệu giữa Ngài
và các phụ nữ. Chúng ta hãy xem vài khuôn mặt chính:
* Mẹ Maria, người mà Ngài đã tỏ lòng yêu
thương của một người con và hết lòng kính trọng vâng phục; và Mẹ đã
trở nên bản đối chiếu mật thiết của Ngài trong việc lắng nghe và
thực thi ý Chúa;
* Mattha và Maria ở Bethania nơi mà Chúa
thường ghé qua trong cuộc hành trình truyền giáo; và Ngài đã trở nên
rất gần gũi với họ;
* Người phụ nữ xứ Samaria, được hoán cải và
đổi mới, đã giới thiệu Chúa Giêsu cho dân chúng vốn không biết đến
căn tính đích thực của Ngài;
* Maria Madalena, người được cứu sống và
hoàn toàn biến đổi nhờ Chúa Giêsu; cô đã thấy Chúa Phục Sinh và nhận
lãnh trực tiếp từ Ngài sứ vụ loan báo sự sống lại;
* Người phụ nữ vô danh mà Chúa đã dạy cho
biết hạnh phúc lớn lao là lắng nghe và thực hành lời Chúa;
* Các con gái thành Giêrusalem đã theo Chúa
trên con đường thánh giá.
Linh mục cần học từ Chúa Giêsu, là
Thầy và Chủ của mình, cách thức quan hệ và ứng xử thế nào cho đúng
mực với các phụ nữ.
3. Tương Quan Với Thiên Nhiên
Trong thời đạo đức sinh học của chúng
ta hôm nay,440 linh mục cần thiết lập một mối tương quan lành mạnh
với toàn thể thế giới được tạo thành, nơi mà Chúa Thánh Thần hằng
hoạt động. “Thiên Chúa ở trong tất cả” là lối hiểu nền tảng của mối
tương quan giữa Thiên Chúa và thụ tạo:441 Thiên Chúa không ở ngoài
thụ tạo và Ngài tiếp tục sáng tạo, canh tân tạo vật của Ngài cho đến
kiện toàn viên mãn theo kế hoạch yêu thương của Ngài (2 Cr 5,19; 1
Cr 8,6; Eph 1,3-14; Cl 1,15-29; Ga 1,1-3; Kh 21,5), và cứu chuộc nó
(Rm 8,19). Chúng ta được kêu gọi tham dự vào công trình sáng tạo này
của Thiên Chúa (St 1, 28) như một trách nhiệm tôn giáo. Thật vậy,
đời sống thiêng liêng là toàn thể cuộc sống được sống trong Thần
Khí, nên khi chăm sóc thụ tạo, chúng ta cũng làm cho trách nhiệm này
hoà nhập vào chính đời sống thiêng liêng của chúng ta.
Để chu toàn đời sống và sứ vụ linh
mục của mình, linh mục phải nhìn vào đời sống và giáo huấn của Chúa
Giêsu liên quan tới tạo vật: hạt giống, hoa cỏ, chim trời, cá biển,
cây nho, vườn tược, cánh đồng, mùa gặt, sa mạc, núi non, v.v.… Chúa
Giêsu được Thần Khí hướng dẫn và Ngài thường ra đi vào sáng sớm tinh
sương hay muộn màng khi trời đã tối, ngay cả giữa đêm khuya thanh
vắng, một mình, vào sa mạc hay lên núi, ở đó sứ mạng và sự hiệp
thông thân mật của Ngài với Chúa Cha được thử thách, khẳng định và
củng cố (x. Mc 6,31).
Linh mục nên tìm thư giãn trong các
môi trường thiên nhiên, để nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng và gia
tăng hiệp thông thân mật với Thiên Chúa, bằng cách để cho trí óc và
con tim ngưỡng mộ và thưởng thức vẻ đẹp của tạo vật. Ngài có thể
dành thời gian để suy ngắm và cầu nguyện ngay trên bờ biển lúc rạng
đông lên hay khi hoàng hôn xuống, dưới ánh trăng sao dịu mát ban đêm
giữa cánh đồng bao la bát ngát hay trong rừng sâu giữa mùa hè ….
Ngài có thể lắng nghe tiếng sóng vỗ của đại dương, tiếng reo của
suối, của cây cối, của chim chóc, của hoa cỏ …. như là nghe thấy
Chúa Thánh Thần442 nói trong trí khôn, trong con tim và trong linh
hồn vậy.
Ngài sẽ cảm nhận rõ sự hiện diện thân
tình của Thiên Chúa nơi thiên nhiên, đồng thời ngài cảm nhận được sự
cao cả của Chúa và sự thấp hèn của mình. Ngài sẽ học thực hành sống
khiêm nhường trong tương quan với Thiên Chúa, với tha nhân và với
tạo thành. Ngài cũng thực hành thư giãn thân thể nhờ nhịp độ của hơi
thở: Khi hít vào, ngài tưởng tượng rằng năng lực của Chúa Thánh Thần
đang chuyển vào trong mình ngài để chữa lành, thánh hoá và tăng thêm
sức mạnh, và trong khi thở ra lại tưởng tượng rằng Chúa Thánh Thần
đang đẩy những điều xấu ra khỏi cuộc sống mình. Một tinh thần lành
mạnh trong một thân thể tráng kiện. Nếu chúng ta biết vun trồng và
bảo vệ thiên nhiên, thì thiên nhiên sẽ bảo vệ và tăng sức lực cho
chúng ta.443
còn tiếp
|
VỀ MỤC LỤC |
|
“NƠI AN NGHỈ MỘT NGƯỜI SUỐT
ĐỜI XÂY DỰNG TÌNH NGƯỜI” |
DI CHÚC CỦA SƯ HUYNH NGUYỄN
TẤN KIỆT
NGƯỜI KHAI SINH TRƯỜNG PHÁI
“KIETISME”
CŨNG LÀ NGƯỜI SÁNG LẬP “TU
HỘI SỐNG GIỮA LÒNG ĐỜI”
LỜI DẪN – Dưới đây là một phần, không
phải toàn văn một bài viết có tên là Tằm Nhả Tơ không ghi
ngày tháng viết nhưng có ghi được cưu mang và hạ sinh sau 57 năm
ngụp lặn trong kiếp người (1936-1993) và một phần của một bài
viết khác có tên là Cảm Nhận Tử Thần Xuất Hiện Dần Dần Nơi Chính
Xác Thân viết đêm mồng 7 tháng 7 năm 1993, được tác giả, -- Sh.
Nguyễn Tấn Kiệt, người khai sinh trường phái “Kietisme” đồng thời
cũng là người sáng lập “Tu Hội Sống Giữa Lòng Đời”
gọi là Cẩm Nang – Hồi Ký – Bút Tích.
Hai văn bản trên còn có cả những lời trăn
trối (sic), thậm chí, còn có cả nội dung văn bia mà ông đề nghị
người sống ghi nơi phần mộ ông sau khi ông tạ thế!
Đây không phải là một di chúc chính thức,
nhưng đây đúng là những lời tâm huyết của Sh. Nguyễn
Tấn Kiệt muốn chuyển đến những người thân của ông
mà tôi, --- người viết --, có vinh dự bảo quản. Vậy nhân đây, tôi
xin long trọng công bố sớm để mọi người cùng được
biết.
Có một sự vui mừng chung nhân tiện tôi xin
thông báo để quý vị thân hữu, người quen, môn sinh của Sư Huynh và
quý độc giả được biết, đó là mặc dù chúc thư này được công
bố, nhưng Sh. Kiệt vẫn mạnh khỏe và những gì ông viêt từ trước tới
giờ được gọi là “KIETISME” hay/ “KIETISM”, nay một phần
lớn đã được truyền đi khắp thế giới.
Kính mời quý ông bà anh chị em vào hai địa
chỉ website sau đây :
http://www.chungnhanduckito.net/tacgia/Phan%20Van%20Khai/
và
http://www.dunglac.net/Kietism
để trực tuyến ghé thăm “gia trang” của chúng ta để cùng chia xẻ
những gì hiện có và để góp phần xây dựng mảnh vườn chung của chúng
ta ngày càng thêm nhiều kỳ hoa dị thảo, -- phong phú và khởi sắc
hơn.
Trân trọng.
Thuận Châu PHAN VĂN KHẢI
MỘT
NGƯỜI SUỐT ĐỜI XÂY DỰNG TÌNH NGƯỜI
“Đời tôi có mấy lần lột xác, tạo
thành mấy cột mốc lớn trong kiếp phù sinh:
· Chào
đời ngày 5.2.1936 – Bính Tý
· Ngày
16.9.1950 : XUẤT THẾ QUI Y, dâng trọn đời hầu việc Chúa.
· Ngày
21.4.1961 : Long trọng THỀ : LUÔN LUÔN NGHĨ TỐT, NÓI TỐT và LÀM
TỐT, -- một lời thề buộc chặt người thề nếp chân tu.
· Ngày
15.8.1980 : RỜI BỤC GIẢNG chính qui, -- lang thang đó đây
kiếm cơm độ nhật.
· Ngày
05.2.1991 : TỰ NGUYỆN SỐNG ĐỜI CHIÊM NIỆM, CẦU NGUYỆN và TRUYỀN
GIÁO.
· Ngày
– chưa biết, – SẼ VỀ TRONG NƯỚC CHÚA.
“TRƯỚC KHI RA ĐI, tôi tha thiết gởi gắm với
từng người TU HỘI SỐNG GIỮA LÒNG ĐỜI , do tôi sáng lập và chính thức
khai sinh ngày 5 tháng 2 năm 1991.
“TU HỘI NÀY : không có tu viện,
không có đồng phục dòng, không có thống kê. Chỉ có một
lời hứa thiêng liêng : HỨA SỐNG ĐỜI CẦU NGUYỆN, THIỆN HẢO và PHƯỚC
BÁO.
(…)
“ƯỚC AO/THAO THỨC duy nhất/đầu tiên
và/cuối cùng của đời tôi là cho tôi ĐƯỢC SỐNG HỒN NHIÊN/THANH
THẢN/NGAY LÀNH để tôi đặng bình an/thanh thản/thuận thiên đi
về Thiên Quốc,
“TIỂU SỬ ĐỜI TÔI
có thể cô đọng trong vài ba chữ : NHỊN NHỤC, NHẪN NHỤC --, CAM
CHỊU, CHỊU ĐỰNG MỌI SỰ vì Chúa Giêsu Kitô.
“Và Đức Giêsu Kitô cũng dũ lòng thương ,
biến mọi nỗi gian truân/tủi nhục của đời tôi thành HỒNG ÂN CỨU ĐỘ.
“TRƯỚC KHI DỪNG BÚT, tôi xin quỳ gối
dưới chân mỗi người nói lên lời trăn trối của tôi :
-“XIN MỌI NGƯỜI HÃY LUÔN
LUÔN/HOÀI HOÀI NGHĨ TỐT CHO VỢ, CHO CHỒNG, CHO CON, CHO BẠN BÈ VÀ
CHO HẾT THẢY MỌI NGƯỜI CHUNG QUANH.
“TÔI ĐỀ NGHỊ bạn bè/thân hữu ghi trên mộ bia
tôi như sau :
-“NƠI ĐÂY AN NGHỈ MỘT NGƯỜI SUỐT ĐỜI XÂY
DỰNG TÌNH NGƯỜI” .
Thuân Chậu PHAN VĂN
KHẢI rút từ thủ bản KIETISME
của Sh. ZACHARIE NGUYỄN TẤN KIỆT-- Dòng
Lasan Taberd, Saigòn – Việt Nam
|
VỀ MỤC LỤC |
|
Câu
Chuyện Thầy Lang:
An Toàn Sử Dụng Dược
Phẩm
|
Dược phẩm là
chất lấy từ thực vật, khoáng chất, sinh động vật và hóa chất với
mục đích để:
-điều trị và
phòng ngừa bệnh
-phục hồi các
chức năng của cơ thể
-thay đổi quá
trình sinh sản
khi được dùng
đúng lúc, đúng cách, trong một thời gian đã được chỉ định.
Dược phẩm có thể
là tự nhiên hoặc được bào chế.
Trước khi đưa ra
thị trường, dược phẩm đều được kiểm soát, thử nghiệm để bảo đảm
công hiệu và an toàn cho người bệnh. Tuy nhiên, không có dược
phẩm nào một trăm phần trăm an toàn, không có rủi ro.
Ðể giảm thiểu
rủi ro do dược phẩm gây ra và để tận dụng các lợi ích của thuốc,
xin cùng tích cực trong việc dùng thuốc.
Mấy điều cần để ý
1- Kê khai với bác sĩ đầy đủ về bệnh tật của mình, về tất cả các
phương pháp điều trị đang trải qua và các thuốc đang dùng.
Nên làm một danh
sách tất cả các thuốc do bác sĩ biên toa, do tự mua, do bạn bè
tặng
Ghi rõ liều
lượng, số lần uống mỗi ngày; các khó khăn phản ứng do thuốc gây
ra
Các vấn đề có
thể bị ảnh hưởng vì thuốc như có thai, đang cho con bú, khó khăn
nhai nuốt...
2- Cho bác sĩ hay nếu:
-Ðã có dị ứng hoặc
phản ứng với một loại thuốc, một món ăn hoặc một chất nào đó.
-Ðang áp dụng một
chế độ ăn kiêng như ít muối, ít đường hoặc chất béo.
-Ðang uống một
thuốc trị bệnh, một dược thảo hoặc món ăn bài thuốc.
-Có bệnh tật khác
ngoài bệnh hiện đang điều trị.
-Ðang mang thai
hoặc dự trù sẽ có thai. Một vài loại thuốc có thể gây ra khuyết
tật cho thai nhi. Trong thời kỳ có thai, phải hết sức cẩn thận
khi dùng thuốc và phải hỏi ý kiến bác sĩ trước khi dùng.
-Ðang cho con bú
sữa mẹ vì một vài loại thuốc có thể vào sữa và gây ảnh hưởng
không tốt cho con.
3- Nên hỏi bác sĩ và dược sĩ về bất cứ điều gì mình không biết
hoặc muốn biết về dược phẩm đang dùng. Như là:
*Tên riêng và tên
chung của thuốc
*Thuốc có công dụng
gì?
*Bao lâu sau khi
uống thì thấy có kết quả?
*Bao giờ ngưng
thuốc?
*Thuốc này có
thể thay thế cho các thuốc hiện đang uống không?
*Nếu thuốc không
công hiệu thì phải làm gì?
*Thuốc có thể
gây ra bệnh nào khác không?
*Uống thuốc khi
nào? trước hoặc sau bữa ăn?
*Uống bao nhiêu
lần trong ngày?
*Uống như thế
nào? với nước lạnh hay với nước trái cây hoặc với thực phẩm?
*Khi quên một
lần uống thuốc thì phải làm gì?
*Có cần kiêng cữ
thực phẩm nước uống gì trong khi dùng thuốc?
*Có phải giới
hạn sinh hoạt nào, như là vận động cơ thể, lái xe..?
*Có thể uống
chung với các thuốc khác đang dùng, kể cả dược thảo...?
*Tác dụng phụ
của thuốc? Phải làm gì khi có phản ứng ngoại ý do thuốc gây ra?
*Tương tác giữa
thuốc với thức ăn, nước uống
*Liệu có thể trở
nên nhờn thuốc, quen thuốc hoặc ghiền- phụ thuộc vào thuốc? Nếu
có thì phải làm gì?
*Có cần phải làm
thử nghiệm gì trong thời gian uống thuốc? Thử máu, X-quang...?
*Phải làm gì nếu
quên một lần uống thuốc hoặc uống quá nhiều?
*Phải cất giữ
thuốc ở đâu?
* Ngày hết hạn
dùng của thuốc?
4- Cần đọc kỹ các hướng dẫn trên nhãn hiệu
Ðúng thuốc mà
bác sĩ chỉ định
Ðúng tên bệnh
nhân
Ðúng liều lượng
Ðúng giờ (mỗi
mấy giờ, trước hoặc sau bữa ăn...)
Ðúng cách (nuốt
chứ không nhai...)
Cất giữ thuốc
trong chai, hộp có nhãn hiệu nguyên thủy
Không để nhiều
loại thuốc khác nhau trong cùng một lọ
Mua thêm thuốc
trước khi hết vài ngày, để bảo đảm sự liên tục dùng thuốc.
Mỗi thuốc có
thời gian tác dụng khác nhau: có thuốc tác dụng ngay, có thuốc
cần thời gian lâu hơn.
Kháng sinh cần
phải uống tới khi hết thuốc, vì nếu ngưng quá sớm, bệnh có thể
tái phát.
Ngưng thuốc dần
dần chứ không đột ngột ngưng tất cả.
Lợi-Hại của thuốc
Sau khi đã hiểu
cặn kẽ về thuốc, nên cân nhắc lợi hại khi dùng.
Lợi điểm của
thuốc là tác dụng tốt thu lượm được sau khi dùng. Thí dụ như
huyết áp đang cao 180/94, uống thuốc vào huyết áp giảm xuống
120/74 hoặc đang đau lưng mà uống mấy viên aspirin thấy hết
đau...đó là lợi điểm của thuốc.
Rủi ro do thuốc
là những hậu quả không muốn hoặc không ngờ xẩy ra. Nhẹ thì như
khó chịu bao tử do viên aspirin hoặc nặng như chẩy máu dạ dày
cũng do viên aspirin.
Khi có bệnh thập
tử nhất sinh thì phải chấp nhận rủi ro lớn của thuốc để cứu vãn
tình trạng. Trái lại khi bệnh nhẹ thì có quyền lựa chọn thuốc
với ít rủi ro. Bác sĩ, dược sĩ có thể góp ý về sự lựa chọn này.
Tương tác
giữa các thuốc
Khi có nhiều
bệnh, được nhiều bác sĩ chăm sóc, người bệnh đó chắc chắn sẽ
uống nhiều loại thuốc khác nhau. Mỗi thuốc có đặc tính riêng và
các đặc tính này có thể tương phản với nhau.
Có nhiều cách
tác động qua lại giữa các thuốc:
a-Tác động giữa
thuốc với thuốc: thí dụ đang uống thuốc để ngủ lại uống thuốc
chống dị ứng, có thể buồn ngủ hơn và dễ dàng gây tai nạn khi lái
xe; thuốc chống acid bao tử có thể làm giảm tác dụng của thuốc
kháng sinh Cipro, không nên uống Viagra chung với thuốc nitrate
chữa đau tim vì huyết áp có thể giảm rất nhiều
b-Tác động giữa
thuốc với bệnh: thí dụ đang bị cao huyết áp mà uống vài loại
thuốc chống nghẹt mũi thì huyết áp có thể tăng rất cao.
Ðể giảm thiểu rủi ro khi dùng thuốc
-Luôn luôn đọc
kỹ nhãn hiệu thuốc.
-Ðể ý tới các
lời cảnh báo về thuốc.
-Nói cho bác sĩ
hay tất cả các thuốc đang dùng, dù là thuốc do bác sĩ biên toa
hoặc mua tự do, bạn bè cho.
-Làm một danh
sách đầy đủ các thuốc đang sử dụng.
-Hỏi bác sĩ có
cần kiêng thực phẩm nước uống nào không.
-Mua thuốc ở một
tiệm để dễ dàng theo dõi.
-Nếu có thể, nên
nhớ tên riêng hoặc tên chung của các loại thuốc.
-Khi đi du lịch,
nên mang thuốc theo hành lý xách tay, vì hành lý gửi đôi khi bị
thất lạc.
-Nên mang dư
thuốc hơn là thiếu thuốc.
-Nên mang phó
bản toa thuốc của bác sĩ.
-Ðừng bao giờ
chia sẻ thuốc của mình với người khác hoặc dùng thuốc của người
khác. Thuốc được chỉ định riêng cho mỗi người với điều kiện bệnh
khác nhau. Dùng chung có thể gây tai nạn.
-Nếu chẳng may
dùng nhầm thuốc hoặc dùng quá liều lượng, nên báo cho bác sĩ gia
đình hay ngay để được hướng dẫn cách thức đối phó, giải quyết.
-Nên có một lọ
thuốc gây ói Ipecac Syrup để cấp cứu khi có ngộ độc thuốc, sau
khi tham khảo ý kiến bác sĩ.
Cất giữ thuốc
-Ðể thuốc xa tầm
với của trẻ em
-Giữ thuốc trong
chai, hộp nguyên thủy với tên bệnh nhân, nhãn hiệu, cách dùng.
-Tránh để thuốc
nơi có nhiều ánh sáng, độ ẩm và quá nóng, như trong buồng tắm,
trong bếp.
-Ðừng để thuốc
nước trong ngăn đá, tránh thuốc bị đông lạnh.
-Không cần cất
thuốc trong tủ lạnh, trừ khi có yêu cầu.
-Không để thuốc
trong xe hơi quá lâu, vì nhiệt độ cao mùa hè có thể thay đồi
phẩm chất của thuốc.
-Vất bỏ thuốc đã
quá hạn sử dụng hoặc thuốc đã thay đổi hình dạng, mầu sắc.
Cách dùng thuốc
a-Thuốc uống
-Thuốc uống có
thể dưới dạng viên nén, viên con nhộng hoặc chất lỏng.
-Trừ khi bác sĩ
dặn cách khác, thường thường, nên uống thuốc với một ly nước lã.
Ðôi khi có thể phải uống vào lúc no bụng hoặc bụng đói.
-Nếu là thuốc
nước, cần uống với một loại thìa có ghi rõ số lượng. Thìa dùng
để ăn uống đôi khi không chính xác.
-Nếu có khó khăn
khi nuốt liều thuốc được biên cho, nên cho bác sĩ hay để đổi
liều lượng khác dễ nuốt hơn.
b-Thuốc xịt
cuống họng
Ngồi hoặc đứng
ngay ngắn, nâng cao cằm để mở rộng ống dẫn không khí từ miệng.
-Mở nắp bình
thuốc và lắc mạnh để thuốc hòa đều với nhau.
-Hít sâu vào mấy
lần rồi nhẹ nhàng thở ra. Ðể vòi bình thuốc giữa hai hàm răng,
ngậm chặt môi.
-Nhẹ nhàng thở
ra hít vào, trong lúc hít vào thì bơm thuốc
-Tiếp tục hít
vào để thuốc xuống sâu trong ống phổi
-Giữ hơi thở
trong mười giây hoặc lâu hơn trước khi thở ra.
-Nếu cần xịt
thêm thuốc, lập lại các thao tác trên.
-Lau vòi thuốc,
đậy nắp để tránh nhiễm trùng.
-Ðể ý đừng xịt
thuốc vào mắt.
-Nếu quên một
lần xịt thuốc thì xịt ngay, rồi tiếp tục theo liều lượng định
trước.
-Cất thuốc xa
ánh sáng, hơi nóng
c-Thuốc nước
nhỏ mắt
Rửa tay với nước
ấm và xà bông. Lau khô tay
-Nằm ngửa, nhìn
lên trần nhà, đầu ngả về phía sau
-Lấy một ngón
tay kéo mí mắt dưới xuống
-Tay kia cầm lọ
thuốc, nhỏ một giọt vào phía dưới mắt.
-Chớp mắt mấy
lần để thuốc lan khắp mắt.
-Ðợi năm phút
trước khi nhỏ loại thuốc thứ hai
-Nếu vừa phải
nhỏ thuốc nước và thuốc mỡ, nhỏ thuốc nước trước.
-Rửa tay sau khi
nhỏ thuốc để không có thuốc dính trên tay.
d-Thuốc nhỏ
mũi
-Hỉ mạnh để mũi
thông thoáng
-Rửa tay với xà
bông và nước
-Kiểm soát coi
đầu xịt có bị nứt vỡ, tắc nghẽn
-Ðừng để đầu xịt
dính vào mũi
-Ngả đầu về phía
sau hoặc nằm ngửa
-Nhỏ thuốc vào
mũi
-Cúi đầu về phía
sau, nghiêng qua nghiêng lại cho thuốc lan ra khắp mũi
-Giữ nguyên vị
trí khoảng 5 phút
-Rửa sạch đầu
xịt của lọ thuốc, đậy nắp.
-Không nên dùng
chung lọ thuốc nhỏ mũi của người khác để tránh lây lan vi khuẩn.
Nếu là thuốc
xịt, cũng làm như trên và nhớ khịt mũi vào để hít được nhiều
thuốc.
đ-Thuốc nhỏ
lỗ tai
Nằm nghiêng, để
phía tai cần thuốc hướng lên trần nhà
Với nguời lớn,
nhẹ nhẹ kéo vành tai lên trên và về phía sau, với trẻ em, kéo
vành tai xuống dưới và về phía sau.
Nhỏ thuốc vào
ống tai
Giữ nguyên vị
trí đầu trong 5 phút để thuốc chẩy vào phía trong tai.
Lau đầu lọ thuốc
với khăn sạch và đậy nắp cho kín.
e-Thuốc dán trên
da
-Cẩn thận lấy
miếng thuốc dán ra khỏi gói, tránh làm miếng thuốc bị rách nát
-Ðừng chạm tay
lên mặt có thuốc
-Áp miếng thuốc
dán lên vùng da không có lông, không có vết da trầy, sạch sẽ và
khô
-Lấy ngón tay đè
nhẹ lên miếng thuốc dán để thuốc dính chặt vào da.
-Thay đổi chỗ
dán trên da để tránh viêm da
-Ðừng cắt nhỏ
thuốc dán để thay đổi liều lượng của thuốc.
g-Thuốc nhét
hậu môn
-Rửa sạch tay
-Bóc giấy bọc
viên thuốc, nhúng vào nước cho ẩm
-Nằm nghiêng,
nhét viên thuốc vào hậu môn rồi dùng ngón tay đẩy cao viên thuốc
lên trực tràng.
-Nếu viên thuốc
quá mềm, để trong ngăn đá mươi phút cho cứng.
h-Thuốc nhét
âm hộ
-Rửa tay sạch sẽ
-Nằm ngửa, hai
đầu gối gập lại
-Dùng ống đặt
thuốc nhẹ nhàng đưa viên thuốc vào cửa mình.
-Nằm đợi mấy
phút trước khi đứng dậy.
-Rửa tay và ống
đặt thuốc.
Ðiều cần làm khi có ngộ độc thuốc
Uống nhầm thuốc
hoặc các hóa chất khác ở trong nhà cũng thường xẩy ra, nhất là
khi người bệnh dùng nhiều loại thuốc.
Tai nạn xẩy ra
vì vô tình hoặc vì không hiểu rõ về thuốc.
Khi nghi có
người bị ngộ độc mà lại bất tỉnh, làm kinh, khó thở, cần kêu xe
cứu thương ngay.
Nếu không, cho
nạn nhân uống một ly nước rồi kêu ngay cho Trung Tâm Kiểm soát
Ðộc chất, báo cáo trường hợp và xin ý kiến.
Ðọc tên loại
thuốc hoặc hóa chất dùng nhầm, dùng bao giờ, bao nhiêu, tuổi
người uống nhầm, đang có dấu hiệu gì.
Không nên làm
nạn nhân ói mửa, trừ khi trung tâm nói làm vậy.
Trong nhà nên dự
trữ một lọ thuốc nước 30 cc Ipecac Syrup là thuốc thường dùng để
gây ói mửa.
Kết luận
Sir Williams
Osler, người thầy thuốc kiêm giáo sư y khoa nổi danh của Gia Nã
Ðại có ý kiến rằng: “Sự muốn dùng dược phẩm có lẽ là một đặc
trưng lớn để phân biệt con người với loài vật”
Nhưng, để việc
sử dụng này được an toàn, công hiệu như ý muốn, người bệnh cần
có hiểu biết rõ ràng về thuốc, về cách dùng, về các tác dụng tốt
xấu của thuốc...
Và muốn được như
vậy, bệnh nhân cần hợp tác chân tình với bác sĩ, dược sĩ, tuân
theo các hướng dẫn.
Ðể cho bệnh mau
khỏi, sức khỏe sớm hồi phục và không bị nhầm lẫn trong khi dùng
thuốc.
Bác sĩ Nguyễn Ý-Ðức
Texas-Hoa Kỳ. |
VỀ MỤC LỤC |
|
- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến,
bài vở..., xin gởi về địa chỉ
giaosivietnam@gmail.com
- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục
vụ của Giáo sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các
Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn
gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực
Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh
vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức
Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và
Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quí vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại
www.conggiaovietnam.net
Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị
Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã
sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác
nhau.
TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca
Phạm Quốc Sử
USA
|
|
*************
|
|