Lời Giới Thiệu Tổng Quát Về Công Ðồng
(tiếp theo) |
II. Công Ðồng Vaticanô II
C. Một vài đặc điểm tiêu biểu của Công
Ðồng Vaticanô II
Với mục đích
giúp thấu triệt hơn Công Ðồng quan trọng này, chúng ta nêu ra
đây một vài đặc điểm tiêu biểu:
1. Công
Giáo tính
Chưa có một
Công Ðồng nào đã tạo được tính cách "Công Giáo" đầy đủ như
Vaticanô II. Hãy tạm miễn bàn vấn đề "giáo lý về công giáo tính"
mà chỉ đề cập đến các sự kiện. Chưa có một Công Ðồng nào đã đề
cập tới nhiều vấn đề phức tạp và phong phú cùng với những tầm
mức rộng rãi như vậy. Chỉ cần nhìn vào những con số biểu trưng,
chúng ta cũng có đủ lý do để xác nhận sự kiện này.
Trước hết
chúng ta nói đến thành phần các Nghị Phụ. Ðây là lần đầu tiên
trong lịch sử mà chúng ta có quyền quả quyết rằng toàn thế giới
có mặt ở Công Ðồng. Con số các Nghị Phụ được triệu tập là 3,058,
trong đó có 129 Bề Trên Tổng Quyền các dòng. Trong kỳ họp đầu
tiên, có 2,449 Nghị Phụ tham dự trong số 2,904 vị được triệu
tập, như vậy tỉ số tham dự là 84.34%. Ở kỳ họp thứ hai, có 2,488
Nghị Phụ đến tham dự, trong số 3,022 vị được triệu tập, tức
82.34% tham dự. Và trong số 3,074 vị được mời cho kỳ họp thứ ba,
có mặt 2,466 Nghị Phụ, nghĩa là 80.23% tham dự. Cuối cùng ở kỳ
họp thứ bốn, trong số 3,093 vị được triệu tập, có 2,625 Nghị Phụ
đến Công Ðồng, và như thế tỉ số tham dự lên tới 84.88%. Như vậy
chúng ta có thể kết luận rằng đại đa số thành phần Giám Mục Ðoàn
đã tham dự Công Ðồng.
Nếu xét qua
nguồn gốc địa dư, chúng ta thấy rằng các Nghị Phụ từ khắp năm
châu trên toàn thế giới đều tựu về: 1,060 vị ở Âu Châu, 408 Nghị
Phụ ở Á Châu, 351 ở Phi Châu, 416 ở Bắc Mỹ, 89 ở Trung Mỹ, 531 ở
Nam Mỹ, và 74 vị ở Ðại Dương Châu.
Trong các
phiên họp, có tất cả 695 Nghị Phụ lên tiếng tại nghị trường.
Tổng cộng tất cả, các ngài đã nói tới 2,234 lần; trong đó các
Nghị Phụ Pháp 231 lần, các Nghị Phụ Ðức 141 lần, các Nghị Phụ Ba
Lan 75 lần v.v..., các Nghị Phụ Việt Nam lên tiếng 16 lần. Nghị
Phụ được xem là hùng biện nhất là Hồng Y Ruffini, ngài lên tiếng
36 lần.
Trong thời
gian họp Công Ðồng có 253 Nghị Phụ qua đời, và cùng lúc có 296
người được tấn phong Giám Mục.
Ngoài sự tham
dự của các Nghị Phụ, chúng ta còn phải kể đến sự có mặt của
những phần tử khác của Dân Chúa. Trước hết phải nói đến các nhà
chuyên môn, vì họ đã tích cực góp phần cho công việc có kết quả.
Ðược đề cử từ giai đoạn chuẩn bị Công Ðồng, các nhà chuyên môn
này đã tham gia vào công việc của các Ủy Ban, trong việc soạn
thảo các lược đồ, thăm dò ý kiến của các Giám Mục v.v... Con số
các nhà chuyên môn lên tới 460 vị, gồm 235 linh mục giáo phận,
45 tu sĩ Dòng Tên, 42 tu sĩ Ða Minh, 15 tu sĩ Phanxicô, 12 đan
sĩ Dòng Ðức Mẹ Vô Nhiễm, 6 tu sĩ Biển Ðức, 5 tu sĩ Dòng Don
Boscô, với nhiều thành phần Tu Hội và giáo dân.
Công Ðồng cũng
kêu mời nhiều Cha Sở, với tư cách là cộng tác viên thân cận của
các Giám Mục. Thực sự họ chỉ được mời gọi sau các dự thính viên
giáo dân. Trong kỳ họp thứ ba, có tất cả 39 vị, chia ra: Hoa Kỳ
và Ý mỗi nước 5 vị; Tây Ban Nha, Pháp, Canađa, Ðức, mỗi nước 4
vị; Argentina, Úc, Brazil, Liban, mỗi nước 2 vị; Bỉ, Nhật,
Mexicô, Hòa Lan, Palestina, mỗi nước 1 vị. Ở kỳ họp thứ bốn con
số các cộng tác viên này lên tới 45 vị. Và ngày 27 tháng 10 năm
1965, cha sở Thomas Fall, thuộc giáo phận Philadelphia Hoa Kỳ,
lên tiếng trước nghị trường.
Các giáo dân
được mời tham dự với tư cách là những dự thính viên. trong thời
gian chuẩn bị cho kỳ họp thứ hai, Ðức Giáo Hoàng đã đề cử một
nhóm gồm 13 giáo dân cả nam lẫn nữ giới, được chọn lựa trong các
tổ chức tông đồ quốc tế Công Giáo. Ở kỳ họp cuối cùng, số dự
thính viên này lên tới 42. Ngoài ra, còn có sự tham dự của 10 nữ
tu dự thính. sau cùng, để đại diện cho gia đình Kitô giáo hai vợ
chồng Mexicô, J. Alvarez Icaza, được mời tham dự. Tất cả các dự
thính viên giáo dân này đã lên tiếng 6 lần ở Công Ðồng, và đã
góp ý kiến về nhiều vấn đề cho các Ủy Ban.
2. Tinh
thần hiệp nhất
Một trong
những ý tưởng chính yếu của Ðức Gioan XXIII khi ngài triệu tập
Công Ðồng Vaticanô II là nỗ lực nối lại vòng dây thân ái giữa
các Kitô hữu. Chúng ta nhận thấy Công Ðồng đã đạt được mục đích
này, qua những văn kiện giáo lý và các cuộc gặp gỡ thân thiện từ
bầu khí Công Ðồng.
Thật vậy, Sắc
Lệnh về Hiệp Nhất, Tuyên Ngôn về Tự Do Tôn Giáo và Tuyên Ngôn về
các Tôn Giáo ngoài Kitô giáo đều nhấn mạnh đến tinh thần hiệp
nhất. Quan niệm mới mẻ này cũng xuất hiện ở Hiến Chế tín lý về
Giáo Hội, nhất là ở Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội trong thế giới
ngày nay, khi Công Ðồng đề cập tới thái độ phải có của Giáo Hội
đối với thế giới.
Tìm hiểu qua
những ý kiến của các Nghị Phụ phát biểu ở nghị trường, chúng ta
cũng thấy các ngài ý thức rõ rệt tinh thần này.
Sau hết, một
sáng kiến đã tạo được thành quả tốt đẹp cho mối dây hiệp nhất,
đó là việc mời các quan sát viên ngoài Công Giáo. Sáng kiến này
do Ðức Hồng Y Ben khởi xướng và chính Ngài đã cố gắng can thiệp
với Ủy Ban Trung Ương Chuẩn Bị Công Ðồng. Sau đó ít lâu, Hội
Ðồng Thế Giới các Giáo Hội (CME) đã mời 5 quan sát viên Công
Giáo đến tham dự Ðại Hội Quốc Tế ở Tân Ðề Ly, với sự chấp thuận
của Giáo Triều Roma, mặc dầu gặp nhiều khó khăn. Dựa vào đó, Văn
Phòng Hiệp Nhất gởi lời mời các quan sát viên ngoài Công Giáo
đến tham dự Công Ðồng. Ban đầu, một số giáo hội từ chối; nhưng
cuối cùng sau thời gian đắn đo, họ đã gởi các đại diện đến Công
Ðồng. Như vậy, trong kỳ họp đầu tiên, con số quan sát viên ngoài
Công Giáo được gởi tới là 46 người, cộng với 8 quan sát viên do
Văn Phòng mời: họ đại diện cho 17 Giáo Hội và Cộng Ðồng Kitô
Giáo. Ở kỳ họp thứ hai, có 59 quan sát viên đại diện và 9 vị do
Văn Phòng mời. Trong kỳ họp thứ ba, có 70 quan sát viên đại diện
và 13 do Văn Phòng mời. Ở kỳ họp cuối cùng, con số quan sát viên
ngoài Công Giáo lên tới 90, cộng với 16 người do Văn Phòng mời;
và họ đại diện cho 29 Giáo Hội và Cộng Ðồng Kitô Giáo.
D. Một vài con số tiêu biểu trong công
việc của Công Ðồng
Ðể ý thức được
công trình vĩ đại của Công Ðồng, chúng ta lược nhìn qua vài con
số tiêu biểu nhất.
Trước hết,
chúng ta nói đến các cuộc bỏ phiếu. Có tất cả 538 cuộc bỏ phiếu
toàn phần hay từng phần: 33 lần được tổ chức ở kỳ họp đầu tiên,
94 lần ở kỳ họp thứ hai, 150 lần ở kỳ họp thứ ba và 261 lần ở kỳ
họp cuối cùng.
Ủy Ban ấn loát
của Tòa Thánh phải làm việc ngày đêm. Ở giai đoạn tiền chuẩn bị,
họ đã phát hành 19 quyển sách và mỗi quyển gồm 2,000 bản. Tổng
cộng các lần phát hành các lược đồ, câu hỏi thăm dò, các bản
tường trình, các đề nghị tu chỉnh v.v... mỗi thứ 3,000 bản, lên
tới 40 triệu trang. Ngoài ra có khoảng 16 triệu trang khác được
in cho các Nghị Phụ sử dụng. Tổng cộng: 150 tấn giấy in. Ðài
phát thanh Vaticanô cũng đã làm việc ngày đêm liên miên để thâu
băng các phiên họp của Công Ðồng; và để hoàn tất, các chuyên
viên đài đã tiêu thụ tới 712 cuốn băng, dài 284,000 mét.
Như vậy, các
con số ghi được khả dĩ cho chúng ta thấy tầm mức khổng lồ của
các công việc ở Công Ðồng.
E. Những ý hướng chính yếu của Vaticanô
II
Bất cứ Công
Ðồng nào cũng đều xoay quanh một trục ý thức hệ: hoặc lên án một
lạc giáo, hoặc định tín một tín điều. Chẳng hạn ở Công Ðồng
Calcedonia, trục ý thức hệ là Kitô học, và ở Vaticanô I là vấn
đề tối thượng quyền của Ðức Giáo Hoàng. Vậy với Vaticanô II, đâu
là trục ý thức hệ? Ðể có thể có câu trả lời chính xác, dĩ nhiên
chúng ta phải chờ đợi lịch sử trong tương lai phê phán. Thế
nhưng, hiện tại với những viễn ảnh trông thấy của giai đoạn hậu
Công Ðồng, chúng ta cố gắng đưa lên vài điểm chính yếu và chắc
chắn làm nền tảng cho Công Ðồng.
1. Vaticanô
II: một Công Ðồng của Giáo Hội nói về Giáo Hội
Giáo Hội là
trung tâm điểm cho mọi giáo lý của Vaticanô II. Thật vậy, đây là
lần đầu tiên trong lịch sử một Công Ðồng bận tâm về đề mục này:
Giáo Hội đi tìm định nghĩa cho chính mình.
Dĩ nhiên, như
chúng ta đã biết, Ðức Gioan XXIII tha thiết lưu tâm tới vấn đề
hiệp nhất các Kitô hữu. Nhưng đồng thời ngài cũng biết rằng Công
Ðồng này chưa có thể là một Công Ðồng tái tạo sự hiệp nhất theo
đúng nghĩa; vì trên bước đường hiệp nhất, Giáo Hội sẽ gặp không
biết bao nhiêu chướng ngại vật và vượt qua được những chướng
ngại vật ấy là một điều không thể thực hiện được một sớm một
chiều.
Bởi thế, ngài
đã quan niệm rằng trước hết phải đổi mới bộ mặt của Giáo Hội,
làm tươi trẻ lại các cơ cấu và đem lại nhựa sống cho thân thể
xem ra đã già nua của Giáo Hội, sao cho hợp với nhựa sống luôn
mới mẻ của Phúc Âm. Lúc đó, theo Ðức Thánh Cha, chúng ta mới có
quyền nói với các anh em ly khai rằng: "Ðây, Giáo Hội thật của
Chúa Kitô, xin anh em hãy nhìn vào, hãy chiêm ngưỡng, vì đó cũng
chính là Giáo Hội của anh em. Vậy chúng ta hãy hiệp nhất với
nhau".
Bởi vậy, Thánh
Công Ðồng đã lưu tâm đặc biệt tới Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội,
không những vì tầm quan trọng của nó, nhưng Hiến Chế này còn là
ánh sáng chiếu soi cho các văn kiện khác. Các văn kiện được công
bố không theo lược đồ có sẵn của Ủy Ban soạn thảo, nhưng được
kết tạo bằng những đề nghị của các Nghị Phụ mà đời sống nội tâm
của Thánh Công Ðồng đã thôi thúc các Ngài chọn lựa và xếp đặt
cho thích hợp theo suy tư của các ngài về Giáo Hội.
Giáo Hội do đó
được định nghĩa dựa theo các hình ảnh khác nhau của Thánh Kinh.
Giáo Hội trước tiên là Dân Thiên Chúa, định nghĩa này bao hàm
các khía cạnh xã hội và lịch sử của Giáo Hội. Giáo Hội là Thân
Thể Chúa Kitô, vì Giáo Hội muốn làm nổi bật khía cạnh Kitô học,
và huyền nhiệm của mình. Giáo Hội là Nước Thiên Chúa để diễn tả
tính cách cánh chung và nhiều hình ảnh khác được ám chỉ Giáo Hội
như đoàn chiên của Chúa Kitô, cánh đồng, công trình kiến trúc,
gia đình của Thiên Chúa, đền thờ của Chúa Thánh Thần. Sau hết,
Giáo Hội được quan niệm như Hiền Thê của Chúa Kitô, để cho thấy
sự khác nhau cũng như sự thân mật của Giáo Hội với vị Hôn Phu là
Chúa Giêsu.
Chúng ta có
thể nói tất cả những văn kiện của Vaticanô II xoay quanh vấn đề
Giáo Hội. Hiến Chế về Giáo Hội là một văn kiện Công Ðồng còn
lại, cách trực tiếp hay gián tiếp, đề cập tới đời sống của Giáo
Hội. Thật vậy, Hiến Chế về Phụng Vụ Thánh nhằm diễn tả nhiệm vụ
thánh hóa của Giáo Hội; các Sắc Lệnh về Nhiệm Vụ Giám Mục và các
Giáo Hội Công Giáo Ðông Phương có mục đích minh định chức vụ
điều khiển của Giáo Hội và Hiến Chế về Mạc Khải cũng như Tuyên
Ngôn về Giáo Dục đều muốn giải thích quyền Giáo Huấn của Giáo
Hội. Lại nữa, để phác họa các chức bậc cũng như cách sống khác
nhau trong Giáo Hội, Công Ðồng đã ban hành nhiều văn kiện khác:
hai Sắc Lệnh về đời sống và đào tạo Linh Mục đề cập đến các Linh
Mục; các dòng tu có Sắc Lệnh về Dòng Tu và giáo dân có Sắc Lệnh
về Tông Ðồ Giáo Dân. Cuối cùng, một số văn kiện khác đề cập tới
sứ mệnh của Giáo Hội. Sắc Lệnh về Hiệp Nhất nhằm diễn tả mối
liên lạc với các người ngoài Kitô giáo. Sau hết, với toàn thể
thế giới nói chung, Công Ðồng ban hành Hiến Chế Mục Vụ về Giáo
Hội trong thế giới ngày nay và Tuyên Ngôn về các phương tiện
truyền thông xã hội.
Như thế, chúng
ta không do dự khi nói rằng Giáo Hội là trung tâm điểm của
Vaticanô II.
2. Vaticanô
II: Công Ðồng của tự do và đối thoại
Nói lên điều
này, chúng ta không muốn ám chỉ rằng những Công Ðồng khác thiếu
tự do hoặc thiếu tinh thần đối thoại; vì thực ra Công Ðồng nào
tự nó cũng đã là một cuộc đối thoại rồi. Ðiều mà chúng ta muốn
nhấn mạnh ở đây là Vaticanô II được coi là Công Ðồng đầu tiên đã
biết sử dụng sự tự do như một đề mục để dạy dỗ và lấy tinh thần
đối thoại với người ngoài làm chương trình. Ở đây chúng ta cũng
phải nhấn mạnh rằng sự tự do sung mãn này không phải là không có
nền tảng Thánh Truyền; không một Nghị Phụ nào nghi ngờ các tín
lý cổ truyền của Giáo Hội.
Nhiều nhà thần
học chủ trương rằng sự bàn cãi lại một vài "chân lý", một số
quan niệm và một số thái độ được coi là cổ truyền của Giáo Hội
là một vấn đề không thể chấp nhận được nên khi soạn thảo các
lược đồ, họ đã mặc nhiên đem tất cả vào bản văn vì coi như những
điều chắc chắn. Thế nhưng các Nghị Phụ đã tự do bác bỏ chủ
trương đó, vì đối với các ngài, một số các điều ấy vẫn phải được
đem ra mổ xẻ lại. Hơn thế nữa, các Nghị Phụ cũng đã nhiều lần
bác bỏ các đề nghị sửa đổi của chính Ðức Giáo Hoàng và ngay cả
một lược đồ mà Ðức Giáo Hoàng khuyến khích chấp thuận.
Trong cuộc
tranh luận về tự do tôn giáo, lần đầu tiên Thánh Công Ðồng đã
minh chứng cho thế giới thấy rằng Giáo Hội không úp mở cũng như
không e ngại khi phải đề cập tới tự do, bởi chính nhân phẩm của
con người đòi hỏi điều đó. Giáo Hội cố gắng thoát ra khỏi "pháo
đài" của mình, khỏi "chủ trương khép kín huy hoàng" của mình, để
đối thoại và thông cảm với anh em Kitô hữu, với các tôn giáo
khác và ngay với anh em vô thần. Giáo Hội nhìn nhận và kính
trọng những giá trị, những nền văn hóa khác nhau cũng như các hệ
thống chính trị khác nhau của thế giới.
Vaticanô II là
Công Ðồng đầu tiên không có đề mục nào lên án tuyệt thông. Ðây
là nét độc đáo của Công Ðồng này trong lịch sử Giáo Hội.
3. Vaticanô
II: Công Ðồng Mục Vụ
Ðức Gioan
XXIII mong mỏi Công Ðồng này sẽ là Công Ðồng "mục vụ". Ngài
không muốn Công Ðồng dề cập tới vấn đề lên án tuyệt thông cũng
như không bận tâm đến các tín điều. Thực tế, dầu Công Ðồng có
hai Hiến Chế Tín Lý (Hiến Chế về Giáo Hội và về Mạc Khải), đó
cũng chỉ là những điều được xác định lại, chứ không có một tín
điều nào mới.
Dĩ nhiên, nếu
cần, Thánh Công Ðồng phải nhắc lại những chân lý tín lý và phải
bác bỏ các sai lầm trong các văn kiện. Nhưng hướng đi của Công
Ðồng nhằm ở Mục Vụ. Thay vì đưa ra các qui tắc từ những suy luận
tiên thiên nơi các "nguyên lý vĩnh cửu", Thánh Công Ðồng đã đi
tìm những tiêu chuẩn hướng dẫn thuộc loại đoàn sủng mới nơi
những trạng huống thực tại.
Trong tinh
thần đó và để dung hòa các khía cạnh trái ngược nhau của các vấn
đề, thay vì dùng công thức "hoặc là... hoặc là...", Thánh Công
Ðồng chọn công thức "cả... cả...". Như vậy Công Ðồng có thể giảm
bớt tình trạng chú trọng đến khía cạnh này mà lãng quên những
khía cạnh kia, như Giáo Hội đã gặp phải trong quá khứ. Trong mức
độ đứng đắn, Công Ðồng đã tìm dung hòa cả tối thượng quyền Giáo
Hoàng cả cộng đoàn tính của các Giám Mục. Công Ðồng đã đặt đúng
chỗ cả hàng giáo phẩm cả hàng giáo dân, đã giữ quân bình giữa cả
Giáo Hội phổ quát cả Giáo Hội địa phương, giữa cả các giá trị tu
trì cả các giá trị phàm trần...
Sau hết tinh
thần mục vụ thể hiện rõ rệt nhất trong chiều hướng chung của
Thánh Công Ðồng khi chủ trương không chống lại một phần tử nào
nhưng nhằm lợi ích cho mọi người, khi Giáo Hội trình bày tất cả
sứ mệnh của mình dưới ánh sáng tinh thần phục vụ, Giáo Hội nhận
mình như nữ tì, như kẻ được sai đến đem ơn cứu độ cho nhân loại.
4. Vaticanô
II: nguồn sáng mới
Công Ðồng
không mang lại một tín điều nào mới. Thế nhưng, trong những văn
kiện đã công bố, Công Ðồng tạo được một đặc điểm độc đáo khi nỗ
lực xác định rõ một số khía cạnh của kho tàng chân lý. Ở đây
chúng ta chỉ nêu lên một vài nét điển hình cho đặc điểm này.
Trước hết Công
Ðồng đã trình bày một nền thần học về Chúa Thánh Thần, mà từ lâu
hầu như bị lãng quên trong Giáo Hội Tây Phương. Việc này được
xem là công lao của các Nghị Phụ Ðông Phương. Chẳng hạn ở các
văn kiện về Giáo Hội (ví dụ các số 4, 19, 48) và về Truyền Giáo
(ví dụ số 4), Công Ðồng đã trình bày rõ ràng quan điểm này. Thứ
đến, trong thần học về Mạc Khải, Công Ðồng lại đưa ra một quan
niệm mới về chân lý của Thánh Kinh và về linh ứng (x. MK 11).
Nhưng phải
nhìn vào quan điểm thần học về Giáo Hội, chúng ta mới thấy rõ
những ánh sáng huy hoàng của Công Ðồng. Sự trở về với cộng đoàn
tính giám mục, quan niệm về Giáo Hội như bí tích cứu rỗi, như
dân Thiên Chúa, hay thái độ mới đối với thế giới v.v... đều là
những ánh sáng độc đáo. lại nữa, Công Ðồng cũng đã giải chiếu
ánh sáng mới cho tính cách bí tích của hàng GiámMục, cho chức
phó tế. Sau cùng, với các bí tích khác. Công Ðồng đã thực sự đem
đến bộ mặt mới, sáng sủa. Công Ðồng đã quan niệm bí tích Giải
Tội là sự hòa giải không những với Thiên Chúa mà còn với Giáo
Hội. Bí Tích Hôn Phối được nhấn mạnh hơn ở khía cạnh tình yêu
nhân loại và các mục đích chính yếu; Công Ðồng cũng đưa ra qui
chế mới cho các cuộc hôn nhân tạp giáo v.v... Trong bí tích
Thánh Thể, Công Ðồng đã khéo léo đổi mới các nghi thức Thánh Lễ.
Còn về quan điểm thần học chủ trương giáo lý mới về "chức linh
mục phổ quát nơi mọi giáo dân", thì chúng ta cần phải đợi thời
gian mới thấy kết quả. Sau hết, tính cách cánh chung là một ánh
sáng mới được đưa vào trong tất cả các lãnh vực thần học, ví dụ
khía cạnh cánh chung của Giáo Hội lữ hành (x. GH ch 7), của hoạt
động truyền giáo (x. TG 9) của đời sống dòng tu (x. GH 44)
v.v...
III. Có Thể Có Vaticanô III Không?
Ðặt câu hỏi
trên, chúng ta không nghĩ rằng Công Ðồng Vaticanô II đã lỗi
thời. Nhưng ý kiến của chúng ta được nêu lên có mục đích tìm
hiểu chỗ đứng hiện tại của Công Ðồng này trong lịch sử Giáo Hội.
Ngày hôm nay,
hơn bao giờ hết, một Công Ðồng phải được quan niệm như là một bổ
túc cho Công Ðồng trước và trở thành nhịp cầu để nối kết Công
Ðồng mới trong tương lai. Thế giới tiến bộ nhanh chóng và Giáo
Hội cần thích ứng không ngừng theo dòng lịch sử, nếu Giáo Hội
không muốn lùi bước. Ðàng khác, ngay từ Công Ðồng Nicea, trong
định thức số 5, Giáo Hội cũng đã đòi hỏi rằng các Giám Mục trong
một giáo tỉnh phải họp nhau mỗi năm hai lần. Dĩ nhiên, nguyên
tắc điều khiển giáo tỉnh theo thể chế Công Ðồng nói ở đây phải
hòa hợp với tối thượng quyền của Giáo Hoàng trong những phạm vi
thuộc toàn thể Giáo Hội: tuy nhiên tính cách cộng đoàn của Giám
Mục được Vaticanô II cổ võ nói lên phương thức làm việc theo thể
chế Công Ðồng từng thịnh hành trong nhiều thời đại trước.
Vào thế kỷ thứ
XIX, vì quan tâm tìm kiếm một bảo đảm vững chắc cho giáo lý của
Giáo Hội, Công Ðồng Vaticanô I lúc đó đã đi tới định tín quyền
bất khả ngộ của Ðức Giáo Hoàng. Do định tín ấy, người ta đã lầm
tưởng rằng thời đại Công Ðồng đã chấm dứt. Thế rồi, trong thời
đại hiện tại của chúng ta, vì nhu cầu của tính cách cộng đoàn
Giám Mục đòi hỏi, Giáo Hội đã thiết lập các Thượng Hội Ðồng Giám
Mục rồi cũng vì đó, nhiều người hiện nay nghĩ rằng không cần
thiết phải triệu tập các Công Ðồng Chung nữa. Họ đã lầm tưởng,
một lầm tưởng sâu xa. Thực ra Công Ðồng Vaticanô II đã khai mào
những viễn ảnh mới, báo hiệu cho một Công Ðồng trong tương lai
để bổ túc, cũng như Vaticanô II đã làm nhiệm vụ bổ túc cho Công
Ðồng trước.
Nhìn vào thực
tại, chúng ta thấy rằng nếu Vaticanô II đã cố gắng dung hòa sự
chia cách giữa Giáo Hoàng và Giám Mục thì cũng cần phải có một
Công Ðồng trong những ngày sắp tới để tìm lại mức quân bình cho
hàng Giám Mục với hàng linh mục mà thực tế đang cách biệt trầm
trọng. Nói tổng quát hơn, cần đến một Công Ðồng trong tương lai
để tìm ra những dây liên lạc chân thực giữa giáo sĩ và giáo dân,
nghĩa là có mục đích tìm hiểu và đề cập đến các vấn đề liên quan
tới linh mục và giáo dân, cũng như Vaticanô II đã đặt vấn đề ấy
với các Giám Mục.
Hơn nữa, ý
hướng hiệp nhất của Vaticanô II chỉ mới ở những bước đầu. Công
Ðồng này đã rộng mở những cánh cửa mới để có lẽ với cố gắng của
một Công Ðồng trong tương lai, những ai còn ở ngoài Giáo Hội sẽ
vào trong Giáo Hội. Sự hiện diện của "các quan sát viên" ở Công
Ðồng Vaticanô II tiên báo sự tham dự của toàn thế giới trong một
Công Ðồng mới hoàn toàn hiệp nhất, ở đó tính cách Công Giáo sẽ
đạt tới sung mãn. Rồi nếu các cộng đoàn anh em ly khai là những
Giáo Hội chân thật, họ sẽ cần hiện diện thực sự với Giáo Hội
chúng ta. Hơn thế nữa, bởi vì các Giám Mục các Giám Mục Chính
Thống cũng là những người kế vị thật của các Tông Ðồ, không có
lý do gì họ lại không có quyền đến họp vớ anh em thật của họ,
với người kế vị Thánh Phêrô, trong một Công Ðồng thật sự hiệp
nhất mà chúng ta mong ước.
Chúng ta đặt
trọn niềm hy vọng vào sự hướng dẫn khôn ngoan của Chúa Thánh
Thần, để tất cả chúng ta đều tiến theo con đường tươi đẹp nhất,
cho dầu nẻo đường đó có thể không phù hợp với những tính toán
nhân loại và giới hạn của chúng ta.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
LINH MỤC VÀ
VẤN ĐỀ GIA ĐÌNH - SỰ QUAN TRỌNG CỦA GIA
ĐÌNH. |
LTS.
Trong 7 số báo liên tiếp kể từ hôm nay, Đặc San GSVN hân
hạnh giới thiệu với Quí độc giả chủ đề lớn "LINH MỤC
VÀ VẤN ĐỀ GIA ĐÌNH"
Trong thư chung năm 2001, Hội đồng Giám Mục
Việt Nam đã đề cập đến gia đình như một chương trình mục vụ cần
lưu tâm trong thiên niên kỷ mới. Còn năm nay 2002, Hội đồng
muốn đáp lại lời kêu gọi của Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II
trong tông huấn về gia đình “Consortio Familiaris” ban hành năm
1981, đồng thời chào đón cuộc gặp gỡ quốc tế của các gia đình sẽ
tổ chức tại Manila vào đầu năm tới, nên thư mục vụ đã được dành
cho đề tài hôn nhân và gia đình, đồng thời chọn chủ đề của năm
2003 là năm “Thánh hóa gia đình”.
Đây phải là một dịp thuận tiện để chúng ta,
những linh mục và tu sĩ, tìm hiểu và sống tinh thần gia đình,
nhất là trong phạm vi giáo phận và giáo xứ, trước khi có những
chương trình mục vụ cụ thể giúp đỡ cho các gia đình chúng ta có
nhiệm vụ chăm sóc và hướng dẫn, bởi vì :
- Các cha phải đi trước, thì làng nước theo
sau.
Vậy tiên vàn gia đình là gì ?
Mở cuốn “Tự điển Việt Nam” của Lê văn Đức,
chúng ta thấy tác giả đã đưa ra ba định nghĩa như sau :
Trước hết, gia đình là một đơn vị, một nhà
gồm hai vợ chồng và con cái mình. Đó là ý nghĩa chặt chẽ nhất
chúng ta thường dùng để nói về gia đình.
Tiếp đến, gia đình là một dòng họ, gồm tất
cả ông bà, cha mẹ, con cháu cùng chung một huyết thống. Đó là ý
nghĩa rộng rãi hơn.
Từ đặc tính này, chúng ta đi tới một nghĩa
bóng, một ám chỉ, gia đình là một đoàn thể, một tổ chức như khi
chúng ta nói : gia đình giáo phận, gia đình giáo xứ….
Theo tôi nghĩ thì gia đình là nơi qui tụ
những người cùng sống dưới một mái nhà, liên hệ với nhau bằng
sợi giây yêu thương. Mỗi định nghĩa đều có lý và nói lên một
góc cạnh nào đó. Nhưng điều quan trọng và cần thiết đó là gia
đình nắm giữ vai trò nào trong đời sống ?
1- GIA ĐÌNH VÀ CÁ NHÂN.
Sống trong gia đình, nhiều lúc chúng ta cảm
thấy bực tức khó chịu vì phải đụng chạm với người này, người
khác. Thế nhưng, khi phải lìa xa, chúng ta thường nghĩ về nó
với những kỷ niệm, với những hình ảnh đẹp đẽ nhất của những
người thân yêu. Nói tới gia đình chúng ta cảm thấy có một cái
gì êm đềm và đầm ấm, như thế đủ chứng tỏ gia đình có một chỗ
đứng không thể thiếu vắng trong tình cảm cá nhân của mỗi người.
Hơn thế nữa, Công đồng Vaticanô II còn xác
định : Gia đình chính là mái trường đầu tiên dạy cho chúng ta
những bài học làm người.
Trước hết, gia đình là trường đầu tiên dạy
nhân cách.
Khi bàn về bổn phận của mọi người trong
việc thăng tiến hôn nhân và gia đình, Công đồng Vaticanô II
trong hiến chế “Gaudium et Spes”,bàn về Giáo hội trong thế giới
hôm nay, đã viết :
- “Gia đình là một trường học phát triển
nhân tính. Nhưng để gia đình có thể chu toàn sứ mệnh mình, cần
phải biết hòa hợp tâm hồn : vợ chồng phải cùng nhau bàn định,
cũng như cha mẹ phải ân cần cộng tác trong việc giáo dục con
cái “ (GS 52).
Tục ngữ Việt Nam đã bảo :
- Học ăn học nói học gói học mở.
Chúng ta phải học từ những việc đơn sơ và
dễ dàng đến những việc phức tạp và khó khăn. Ngay từ tấm bé, cha
mẹ đã dạy cho chúng ta cách thức ăn uống, tắm giặt…Lớn hơn một
chút, cha mẹ cho chúng ta cắp sách đến trường để được trang bị
những kiến thức cần thiết. Và khi sắp đến tuổi trưởng thành, dạy
cho chúng ta nghề nghiệp để có thể tự kiếm sống. Nhờ việc giáo
dục của gia đình, chúng ta trở nên một người khả dĩ có thể sống
tự lập.
Tiếp đến, gia đình là trường dạy về đời
sống xã hội.
Khi con cái bắt đầu hiểu biết, không cha mẹ
nào mà không dạy cho chúng biết phép lịch sự, biết cách xử thế.
Rồi những bài học về đức công bằng, về tình bác ái …Tất cả chúng
ta đã lãnh hội được trong bầu khí yêu thương của gia đình.
Chính vì thế, gia đình đã trở thành mái trường đầu tiên dạy cho
chúng ta về đời sống xã hội.
Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II đã viết như
sau :
- “Trong một xã hội đã bị lung lay và phân
hóa do những căng thẳng và xung khắc vì sự đối đầu khốc liệt
giữa các chủ nghĩa cá nhân và ích kỷ đủ loại, trẻ em cần phải có
được ý thức về sự công bằng đích thực, vì chỉ có sự công bằng ấy
mới đưa đến sự kính trọng phẩm giá ngôi vị của từng người. Hơn
thế nữa, chúng ta phải có ý thức về tình yêu đích thực, tình yêu
dệt bằng mối quan tâm chân thành và việc phục vụ vô vị lời đối
với kẻ khác, đặc biệt là đối với những người nghèo nhất và những
người cần được giúp đỡ nhất. Gia đình là trường học đầu tiên,
trường học căn bản về đời sống xã hội; như một cộng đồng yêu
thương, gia đình nhận ra rằng tự hiến mình là qui luật hướng dẫn
gia đình và làm cho gia đình tăng trưởng”. (CF 37).
Như vậy, gia đình đào luyện chúng ta trở
thành một con người, con người ấy không phải chỉ biết sống tự
lập, sống cho mình mà còn phải biết sống với người khác trong
một cộng đồng, trong một xã hội.
Sau cùng, gia đình là con đường giúp
chúng ta nên thánh.
Khi bàn về sự thánh thiện của hôn nhân,
Công đồng đã viết :
- “Được cha mẹ hướng dẫn bằng gương sáng và
kinh nguyện gia đình, con cái và tất cả những ai sống trong
khuôn khổ gia đình sẽ gặp được con đường nhân ái, cứu độ và
thánh thiện dễ dàng hơn.” (GS 48).
Làm sao có thể quên được những lời kinh bập
bẹ mà người mẹ đã dạy chúng ta đọc. Làm sao có thể quên được
cách làm dấu thánh giá bằng bàn tay vụng dại được người cha cầm
lấy và đặt lên trán. Ngoài ra, biết bao nhiêu kỷ niệm êm đẹp của
ngày rước lễ lần đầu, của ngày lãnh nhận bí tích Thêm sức sẽ
theo chúng ta mãi trong suốt cả cuộc đời.
Như vậy, gia đình không phải chỉ giáo dục
chúng ta trở nên một con người đúng với ý nghĩa của nó, mà còn
hướng dẫn để chúng ta trở nên một con người thánh thiện, một
Kitô hữu trưởng thành, một người con cái Chúa.
Không phải chỉ cha mẹ giúp con cái nên
thánh, mà nhiều khi chính con cái cũng giúp cha mẹ nên thánh.
Công đồng viết :
- “Con cái là những phần tử sống động trong
gia đình nên cũng góp phần riêng vào việc thánh hóa cha mẹ. Thực
vậy, con cái sẽ đáp lại công ơn cha mẹ với lòng tri ân, tâm tình
hiếu thảo và tin cậy, và sẽ theo đạo làm con mà phụng dưỡng cha
mẹ trong nghịch cảnh cũng như trong tuổi già cô quạnh…” (GS 48).
Trong mái trường đầu tiên này, cha mẹ là
những giáo viên chuyên cần, dạy bảo cho chúng ta từng li từng
tí, sở dĩ như vậy cha mẹ là những người gần gũi chúng ta hơn
hết, hiểu biết chúng ta hơn hết và cũng yêu thương chúng ta hơn
hết.
Một đứa trẻ mồ côi, sống trong cô nhi viện,
dù được nuôi dưỡng đầy đủ thì nó vẫn cảm thấy lạc lõng bơ vơ.
Tại sao thế ? Vì nó thiếu vắng một tình thương chăm sóc và ủi
an.
Bởi đó tục ngữ Việt Nam mới nói :
- Thà ăn bắp hột chà vôi,
Chẳng thà giầu có mồ côi một mình.
Giáo dục con cái cũng chính là một bổn phận
quan trọng nhất của những bậc làm cha mẹ, bởi vì :
- Đẻ con chẳng dạy chẳng răn,
Thà rằng nuôi lợn cho ăn lấy lòng.
Trong Tuyên ngôn ”Gravissimum Educationis”
về giáo dục Kitô giáo, Công đồng đã nhắc lại :
- “Vì là người truyền sự sống cho con cái,
nên cha mẹ có bổn phận hết sức quan trọng phải giáo dục chúng,
và vì thế, họ phải được coi là những nhà giáo dục đầu tiên và
chính yếu của chúng. Vai trò giáo dục này quan trọng đến nỗi nếu
thiếu sót sẽ khó lòng bổ khuyết được. Thật vậy, cha mẹ có nhiệm
vụ tạo cho gia đình một bầu khí thấm nhuần tình yêu cũng như
lòng thành kính đối với Thiên Chúa và tha nhân, để giúp cho việc
giáo dục toàn diện của con cái họ trong đời sống cá nhân và xã
hội được dễ dàng.” (GE 3).
Đức Thánh Cha Goan-Phaolô II giải thích như
sau :
- “Vì cha mẹ đã sinh ra con cái nên quyền
và bổn phận giáo dục là một điều nằm trong yếu tính của họ; vì
tương quan giữa họ với con cái là một tình yêu không thể thay
thế được, nên quyền và bổn phận giáo dục của họ có tính cách độc
đáo và cơ bản so với bổn phận giáo dục của những người khác, đó
cũng là một cái gì không thể thay thế và không thể chuyển nhượng
được, cho nên cũng không thể khoán trắng cho người khác hay bị
người khác cưỡng đoạt.” (CF 36).
2- GIA ĐÌNH VÀ XÃ HỘI.
Người xưa đã bảo :
- Phải tu thân, tề gia trước đã, rồi sau đó
mới trị quốc bình thiên hạ.
Xem đó chúng ta thấy : Gia đình không phải
chỉ ảnh hưởng trên cá nhân, mà còn là nền tảng cho cả xã hội
nữa. Thực vậy, nhìn vào cách thức tổ chức, chúng ta sẽ nghiệm ra
rằng : nhiều gia đình họp lại thành thôn ấp, và cứ thế đi lên
tới xã, huyện, tỉnh, quốc gia và cộng đồng quốc tế.
Bởi đó, gia đình đã trở nên một yếu tố căn
bản để xây dựng xã hội. Gia đình tốt làm cho cá nhân tốt đã
đành, mà hơn thế nữa, gia đình tốt còn làm cho cả xã hội đều
được tốt. Trái lại gia đình xấu, thì chắc hẳn xã hội cũng sẽ bị
ung thối. Gia đình là con tim của nhân loại. Nếu như con tim mà
đau, thì chắc chắn toàn thân sẽ bị bải hoải.
Một vài thí dụ để chúng ta hiểu được điêu
đó .
Những năm về trước, tệ nạn “đi bụi đời”
bành trướng mạnh mẽ trong giới trẻ. Vậy những kẻ đi bụi đó là ai
? Họ là những thanh thiếu niên không hẳn là nghèo túng, trái
lại nhiều khi còn là những người thuộc gia đình giầu sang và
tiếng tăm. Tiền nhiều bạc lắm, nhưng họ chỉ thiếu một điều, đó
là thiếu tình thương trong gia đình. Theo các bản thống kê cho
biết thì đa số họ không tìm thấy được niềm vui và hạnh phúc.
Hoặc vì cha mẹ cãi cọ lục đục với nhau, hoặc vì cha mẹ quá đam
mê chạy theo tiền bạc, bắt mối “áp phe” mà quên mất việc chăm
sóc giúp đỡ họ, hoặc vì cha mẹ cờ bạc, rượu chè, vợ nọ con kia
mà không để ý đến họ.
Hay như một ông giám đốc, nếu không tìm
thấy sự thoải mái trong gia đình, thì khi đến công sở, chắc hẳn
sẽ cau có đối với nhân viên và dễ dàng đi đến những quyết định
lệch lạc mà hậu quả nhiều lúc thật trầm trọng.
Ý thức được tầm mức quan trọng của gia
đình, Công đồng đã viết như sau :
- “Gia đình trở thành nền tảng của xã hội
vì là nơi mà nhiều thế hệ gặp gỡ và giúp nhau nên khôn ngoan đầy
đủ hơn, cũng như giúp nhau hòa hợp những quyền lợi cá nhân với
những đòi hỏi khác của cuộc sống xã hội.” (GS 52)
Đức Thánh Cha cũng xác quyết :
- “Bởi vì Đấng Tạo hóa đã đặt gia đình làm
nguồn gốc và nền tảng cho xã hội con người, nên gia đình trở
thành tế bào đầu tiên và sống động của xã hội.” (CF 42).
Như vậy, gia đình sẽ phục vụ cho xã hội :
- “Gia đình dù biệt lập hay kết thành hiệp
hội, đều có thể và phải dấn thân cho nhiều công cuộc phục vụ xã
hội, cách riêng là lo cho những người nghèo và trong mọi trường
hợp, lo cho những người và những tình cảnh mà các tổ chức từ
thiện và cứu tế công cộng không thể lo hết được.” (CF 44).
Và hơn thế nữa, gia đình sẽ làm cho xã hội
được nhân bản hơn :
- “Chính những kinh nghiệm về sự hiệp thông
và chia sẻ phải là đặc điểm cho đời sống thường nhật của gia
đình, và tạo nên phần thiết yếu căn bản mà gia đình đóng góp
được cho xã hội…Gia đình làm nên cái nôi và là phương tiện hữu
hiệu nhất để nhân bản hóa và ngôi vị hóa xã hội : chính gia đình
hoạt động cách độc đáo và sâu xa cho công cuộc kiến tạo thế
giới, giúp đem lại được một đời sống thực sự nhân đạo, cách
riêng là bảo tồn và truyền đạt các nhân đức và các giá trị”. (CF
43).
Từ những điều vừa trình bày, chúng ta có
thể đi đến kết luận : gia đình là viên đá đầu tiên, làm nền móng
cho xã hội. Nền móng có vững chắc, thì tòa nhà mới bảo đảm. Gia
đình là một tế bào sống động của xã hôi. Nếu tế bào mà èo uột,
thì chắc hẳn xã hội cũng sẽ không thể nào phát triển. Bởi đó,
Đức Thánh Cha Lêô XIII đã nói :
- Gia đình nào, xã hội nấy.
Muốn đổi mới xã hội, thì việc đầu tiên cần
phải làm ngay, đó là phải canh tân gia đình.
3- GIA ĐÌNH VÀ GIÁO HỘI.
Nhìn vào cơ cấu và tổ chức, chúng ta sẽ
thấy được chỗ đứng không thể thiếu vắng của gia đình trong sinh
hoạt của Giáo hội. Thực vậy, nhiều gia đình hợp lại thành giáo
xứ. Nhiều giáo xứ hợp lại thành một giáo phận. Nhiều giáo phận
hợp lại thành Giáo Hội toàn cầu. Và như thế, gia đình cũng là
nền tảng cho Giáo Hội.
Nếu vì hoàn cảnh, chúng ta không còn các
linh mục, các tu sĩ hay nếu vì sinh kế chúng ta phải sống ở một
nơi hẻo lánh, không có nhà thờ, không có họ đạo, thì lúc bấy giờ
chính gia đình của chúng ta phải là một giáo xứ nhỏ bé, ở đó
người gia trưởng sẽ đóng vai trò linh mục, có bổn phận cử hành
phụng vụ như giờ kinh tối, thực thi đức tin và loan truyền Tin
Mừng bằng một đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu
thương .
Thánh Augustinô đã viết :
- Gia đình là một Giáo Hội “cỡ nhỏ”, một
Giáo Hội được thu hẹp, tại đây Chúa Giêsu tiếp tục hiện diện và
sống động, tại đây Chúa Giêsu tiếp tục chịu chết và sống lại.
Cũng trong chiều hướng ấy, Đức Thánh Cha đã
gọi gia đình là “Hội thánh tại gia” :
- “Ngoài ra, gia đình Kitô hữu còn được mời
gọi cảm nghiệm một sự hiệp thông mới mẻ và độc đáo, củng cố cho
sự hiệp thông tự nhiên và nhân bản. Thật vậy, ân sủng của Đức
Giêsu Kitô “Anh Cả của một đàn em đông đúc” theo bản tính và sức
mạnh nội tại của ơn ấy, là một ân sủng của tình huynh đệ” như
thánh Tôma Aquinô vẫn gọi. Thánh Thần được đổ tràn xuống trong
việc cử hành các bí tích chính là nguồn mạch sống động và lương
thực vô tận cho sự hiệp thông siêu nhiên nối kết các tín hữu với
Đức Kitô và qui tụ họ lại với nhau trong sự hiệp nhất của Hội
thánh Thiên Chúa. Gia đình Kitô hữu là một mạc khải, một sự thực
hiện đặc biệt mối hiệp thông trong Hội Thánh. Vì thế, gia đình
Kitô hữu có thể và phải được gọi là “Hội Thánh tại gia”. (CF 21.
Gia đình là “Hội Thánh thu nhỏ” :
- Giữa các trách nhiệm căn bản của gia đình
Kitô hữu, có một trách nhiệm có thể nói là có tính cách Hội
thánh, vì trách nhiệm này đặt gia đình vào chỗ phục vụ cho việc
xây dựng Nước Thiên Chúa trong lịch sử, bằng cách dự phần vào
cuộc sống và sứ mạng của Hội Thánh. Để hiểu rõ việc tham dự ấy
hệ tại ở đâu, bao gồm và có những đặc điểm nào, ta cần tìm hiểu
những liên hệ rất nhiều và sâu xa nối kết Hội Thánh với gia đình
Kitô hữu và làm cho gia đình này trở thành một “Hội Thánh thu
nhỏ”, đến nỗi, theo cách của nó, gia đình là một hình ảnh sống
động và là một biểu hiện lịch sử của chính mầu nhiệm Hội Thánh.”
(CF 49).
Sở dĩ như vậy vì gia đình Kitô hữu cũng thi
hành những công việc, những bổn phận của Hội Thánh :
- “Như một Hội Thánh “nhỏ”, gia đình Kitô
hữu được mời gọi theo hình ảnh của Hội Thánh “lớn”, để làm một
dấu chỉ hiệp nhất cho thế giới và để theo chiều hướng ấy mà thực
hiện vai trò tiên tri, làm chứng cho vương quốc và cho hòa bình
của Đức Kitô mà cả thế giới đang tiến tới.” (CF 48).
Gia đình là sự nối tiếp của Giáo Hội và làm
cho Giáo Hội có mặt ở mọi nơi và trong mọi lúc. Gia đình là nơi
kết nạp các phần tử lại với Đức Kitô. Gia đình có lên tới Chúa
thì Giáo Hội mới được phát triển :
- “Gia đình Kitô hữu được mời gọi góp phần
tích cực và có trách nhiệm vào sứ mạng của Hội Thánh với tư thế
riêng biệt và độc đáo, bằng cách tự đặt mình phục vụ Hội Thánh
và xã hội cả từ trong yếu tính lẫn trong hành động của mình với
tư cách là một cộng đồng thân mật của sự sống và tình yêu.” (CF
50).
Tóm lại : Gia đình Kitô hữu phải là một
con đường dẫn người khác đến với Chúa bằng một cuộc sống ngập
tình yêu thương của mình, nhờ đó góp phần xây dựng Giáo hội :
- “Tương lai việc Tin mừng hóa tùy thuộc
phần lớn nơi Hội Thánh tại gia.” (CF 52).
KẾT LUẬN
Qua những điều vừa trình bày, chúng ta thấy
được tầm mức quan trọng của gia đình đối với cá nhân, xã hội và
Giáo hội, vì thế Công đồng đã kêu gọi :
- “Tất cả những ai có ảnh hưởng trên các
cộng đoàn và tập thể xã hội phải góp công hữu hiệu thăng tiến
hôn nhân và gia đình.” (GS 52)
Cũng trong chiều hướng ấy, Đức Thánh Cha đã
nêu rõ :
- “Những đổi thay dồn dập trong lòng hầu
hết các xã hội tân tiến đòi hỏi không những chỉ gia đình mà cả
xã hội và Hội Thánh đều phải dấn thân vào nỗ lực chuẩn bị tương
xứng để các bạn trẻ có thể cáng đáng các trách nhiệm trong tương
lai.” (CF 66).
Và như vậy, trong việc thăng tiến gia đình,
chúng ta thấy :
Trước hết đó là trách nhiệm của Giáo hội :
- “Hội Thánh phải cấp bách can thiệp mục vụ
để nâng đỡ gia đình. Cần phải cố gắng hết sức để ngành mục vụ
gia đình được củng cố và phát triển, trở thành một ngành thật ưu
tiên, vì chắc chắn trong tương lại, việc loan báo Tin mừng phần
lớn tùy thuộc nơi Hội Thánh tại gia đình.” (CF 65).
Đặc biệt là vai trò của các linh mục :
- “Các ngài có bổn phận nâng đỡ ơn gọi của
vợ chồng trong đời sống hôn nhân và gia đình bằng những phương
tiện mục vụ khác nhau, như rao giảng Lời Chúa, lễ nghi phụng vụ
hay những trợ lực thiêng liêng khác. Các ngài cũng phải nhân hậu
và nhẫn nại nâng đỡ họ trong lúc gặp khó khăn, và khích lệ họ
trong tình bác ái, tạo nên những gia đình thực gương mẫu rạng
ngời.” (GS 52).
Tiếp đến đó là trách nhiệm của xã hội :
- “Xã hội và đúng hơn là quốc gia, phải
nhận rằng gia đình là “một xã hội được hưởng một quyền lợi riêng
biệt và ưu tiên”, do đó trong những gì liên hệ tới tương quan
giữa họ và gia đình, họ có nghĩa vụ trọng yếu phải theo đúng
nguyên tắc hỗ trợ gia đình…Quốc gia phải hết sức tạo điều kiện
thuận lợi và khơi động những sáng kiến có trách nhiệm của gia
đình.” (CF 45).
Đặc biệt là vai trò của chính quyền :
- ”Chính quyền phải nhìn nhận, bênh vực và
phát huy tính chất đích thực của hôn nhân và gia đình, phải bảo
vệ nền luân lý chung và giúp cho gia đình được sung túc, vì đó
là những bổn phận mà chính quyền phải coi như một sứ mệnh thiêng
liêng phải chu toàn.” (GS 52)
Sau cùng đó là trách nhiệm của mọi thành
viên trong gia đình, đặc biệt là vai trò của hai vợ chồng :
- ”Chính các đôi vợ chồng, được tạo thành
giống hình ảnh Thiên Chúa và được ấn định trong cấp bực của các
nhân vị, hãy kết hợp trong tình tương thân tương ái, đồng tâm
hiệp ý và thánh hóa lẫn nhau, để trong khi theo Đức Kitô là
nguyên lý sự sống, giữa những nỗi vui mừng và hy sinh của ơn gọi
và qua tình yêu chung thủy, họ trở nên chứng nhân của các mầu
nhiệm tình thương mà Chúa đã tỏ ra cho thế giới qua sự chết và
sống lại của Ngài.” (GS 52).
Tóm lại, tất cả những người thiện chí phải
cộng tác với nhau để giúp gia đình thoát khỏi cơn khủng hoảng
như cuồng phong đang thổi đến, đồng thời thăng tiến gia đình
theo đúng với ý định tuyệt vời của Thiên Chúa.
Đức Thánh Cha đã xác quyết :
- “Thế nên thật trọng yếu và cấp bách, tất
cả những người thiện chí đều phải hết sức mình để bảo vệ và
thăng tiến các giá trị và các đòi hỏi của gia đình.” (CF 86)
Bởi vì :
- “Tương lai của nhân loại sẽ đến qua gia
đình.” (CF 86).
còn tiếp
|
VỀ MỤC LỤC |
|
NĂM MỚI NÓI CHUYỆN CŨ… CÒN MỚI ! |
Một vị trong Ban biên tập đến thăm khi tôi
đang nằn dưỡng bệnh tại Thánh phố và đề nghị tôi ghi lại vài cảm
nghiệm của một người bệnh để đăng vào số tháng 02/2007 nhân ngày
Quốc tế Bệnh nhân. Tôi vừa nằm trên giường bệnh vừa nhớ lại vài
suy tư tản mạn và nhờ một “ thư ký” ghi lại để chia sẻ với bạn
đọc.
Tôi bị đau thần kinh toạ cách đây hơn một
năm, đi đứng rất đau đớn. Lúc đầu tôi uống 20 thang thuốc bắc
thấy hết đau. Khoảng 6 tháng sau thấy đau lại, tôi đi điều trị
theo Đông y nhưng không hết. Sau đó tôi đi bác sĩ Tây y tại
Thành phố Hồ Chí Minh. Bác sĩ hỏi “Từ nhỏ tới lớn có gành vác gì
nặng không ?’ bác sĩ bảo đi chụp X quang, biết là bị gai cột
sống, rồi cho thuốc tây uống một tháng, nhưng không thấy thuyên
giảm. Sau đó bác sĩ bảo đi chụp “em – rai” (MRI- Magnetic
Resonance Images : cộng hưởng từ, mới biết là bị thoái vị đĩa
đệm giữa hai đốt cột sống, cần phải phẫu thuật. Trước khi đi
điều trị tại niềm Nam, một phần để tránh làm phiền nhiều người
đến thăm, tôi nghe giáo dân quanh Toà giám mục Sơn Tây đến chào
chúc có nói rằng : “ Tại Đức Cha gánh vác giáo phận nặng quá”.
Thực ra, suốt hai năm đầu trong sứ vụ giám mục, tôi đã không
điều độ giữa làm việc và nghỉ ngơi, đã ngồi nhiều, kể cả trên xe
để đi nhiều nơi, mà không chịu tập thể dục và chơi thể thao đều
đặn như hồi ở Đại chủng viện Cần Thơ, ngoài lý do tuổi tác, tôi
nghĩ đó là nguyên nhân gây nên suy thoái cột sống.
Nghĩ đến “mổ’ cột sống thật đáng ngại,
nhưng bác sĩ bảo nếu không ‘phẫu thuật’ thì sẽ bị liệt cơ và sẽ
không đi lại được. Tôi đã quyết định chịu phẫu thuật trong niềm
tín thác vào Thiên Chúa và Mẹ Maria, đồng thời xin nhiều người
cầu nguyện cho. Nhờ đó tôi không thấy hồi hộp khi được đẩy vào
phòng mổ, mà chỉ buồn cười nhớ lại lời cô y tá vừa nói với vị
linh mục họ Hoàng đã ký tên vào tờ cam kết phẫu thuật như người
‘ con” đưa người “cha” họ Vũ nhập viện : “Chắc anh là con rể
của bác ?”
Ca mổ đã diễn ra hơn ba tiếng đồ ngày
23/11/2006 tại bệnh viện Triều An. Sáng hôm đó tôi làm lễ ngoại
lịch kính các Thánh Tử đạo Việt Nam vì sợ rằng ngày hôm sau
mình chưa tỉnh để dâng lễ được. Vậy mà chiều hôm sau tôi đã có
thể “nằm đồng tế” với linh mục họ Hoàng đã tháp tùng tôi trong
suốt chuyến đi này. Năm ngày sau, thắt đai lưng bảo vệ, tôi có
thể đi đứng chút ít, và xuất viện về nằm điều dưỡng tại trụ sở
Hưng Hoá. Tự nhiên tôi nhớ đến lời Chúa Giêsu nói với Phêrô : “
Khi anh còn trẻ, anh tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tuỳ ý.
Nhưng khi về già, anh sẽ phải dang tay ra cho người ta thắt lưng
và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn” ( Ga 21, 18).
Trước, trong, và sau thời gian điều trị tại
bệnh viện, cũng như tại trụ sở Hưng Hoá, có những người gọi điện
thại thăm hỏi, và vì bệnh thuộc loại có thể thăm được, nên cũng
có những người biết tin đến thăm, chia sẻ cách chân tình, trong
đó có Đức Hồng Y, quý Đức cha, quý cha, bạn bè xa gần, và những
người thân, quên v. v… Tôi cảm thấy được an ủi nhiều, và “ giác
ngộ” rằng “ làm lớn” mà sắp xếp được giờ đi thăm bệnh nhâm là
một việc nên làm. Sau một tháng điều dưỡng và đi lại được,
ngày 28/12/2006 tôi đã cố gắng làm “ việc nên làm” này là đến
bệnh viện Chợ Rẫy để thăm một người bạn là cha Giuse trần Trung
Nghĩa, và ban bí tích Xức dầu theo yêu cầu của ngài. Hôm đó tôi
cứ suy nghĩ lien mien về cuộc đời của một linh mục “ đang muốn
dệt đời mình thì bị cắt đứt ngay hang chỉ” , nhưng rất cảm kích
về thái độ “ xin vâng” của ngài.
Trở lại cảm nghiệm của tôi ; ba tuần đầu
sau khi mổ , tôi phải “ ăn nằm” , nghĩa là phải nằm để người ta
đút cơm cho ăn như con nít; hay có lúc thấy vui vui, nhưng
thật là xấu hổ, và càng xấu hổ hơn khi nghĩ đến lời Chúa dạy “
phải trở nên như trẻ nhỏ” trong cuộc sống và sứ vụ nữa. Càng
“làm lớn” càng thấy khó trở nên như trẻ nhỏ, nhất là khi quên
lời căn dặn của Thầy mình : “ Những người làm lớn thì lấy quyền
mà cai quản dân. Giữa anh em thì không được như vậy : Ai muốn
làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em “ ( Mt 20,
25 -26). Tôi thầm cầu xin Chúa giúp, vì thấy có dấu hiệu thiếu
tinh thần “ trẻ nhỏ”, thái độ dễ la rầy người khác ! Tuy nhiên
tôi vẫn cảm thấy bình an khi phó thác như trẻ nhỏ trong tay
Chúa.
Nằm bệnh tuy không thể làm được những việc
như ý mình muốn, nhưng khi viết lại những suy tư tản mạn này,
tôi thấy dội lên tầm tình biết ơn mọi người, và tôi thầm tạ ơn
Thiên Chúa, vì đã cho tôi có thời gian nghỉ ngơi và tạo điều
kiện cho tôi suy nghĩ nhiều điều về cuộc sống mà tôi đã chia sẻ
một vài điều, gọi là “năm mới nói chuyện cũ nhưng… còn mới?!”
GM. Antôn Vũ
Huy Chương
|
VỀ MỤC LỤC |
|
NGƯ ÔNG TRƯỚC BIỂN CẢ
|
Phúc Âm Nhật Ký (Lc
5:1-11)
Cách đây hơn hai chục năm, chúng tôi bị
giam trong một phòng kín tại Sóc Trăng, Việt Nam. Phòng rộng
chừng 16 thước vuông, nhốt tất cả 58 người. Tất cả các việc ăn
uống, ngủ nghỉ, vệ sinh, đều phải giải quyết trong phạm vi nhỏ
hẹp đó. Mỗi ngày chúng tôi chỉ được phép ra ngoài chừng năm
phút tắm giặt tại một ao nước đục ngàu. Phòng có một cửa cái
trông sang bức tường phía sau của một trại tù bên kia con đường
nhỏ. Suốt ngày chúng tôi chỉ nhìn thấy một bức tường trắng xóa.
Nếu không nhờ hai cửa sổ, mỗi cửa to bằng hòn gạch thẻ, chúng
tôi hoàn toàn không thấy được ánh sáng mặt trời. Nhưng phải
thay nhau xếp hàng mới được diễm phúc đó, nhất là khi ngắm các
bạn tù nữ từ phòng bên cạnh ra ngoài trời ...
Nhờ có mảnh trời ló qua cửa sổ tí hon đó,
chúng tôi còn may mắn hơn nhiều người trong thế giới hôm nay
đang tự nhốt kín mình trong thế giới vật chất với những bức
tường dầy đặc kinh nghiệm giác quan và niềm tin duy vật. “Khi
con người chỉ nghĩ tới vật chất và những vật khả nghiệm, họ tự
đóng kín trước những vấn đề về sự sống, về chính mình và Thiên
Chúa, tự làm cho mình ra nghèo nàn. Phải nhận rằng khi chỉ coi
những gì trong vòng kinh nghiệm là thực, người ta có khuynh
hướng tạo một giới hạn cho lý trí và từ đó phát sinh một thứ
bệnh phân liệt khủng khiếp, cho thuyết duy lý và duy vật, siêu
kỹ thuật và các bản năng buông thả cùng tồn tại với nhau. ”[i]
Sống giữa bưng bít và hỗn độn đó, làm sao con người có đủ khả
năng nhìn thấy tương quan sâu xa và phong phú nơi vạn vật ?
Ngày xưa, các môn đệ Ðức Giêsu cũng đã sống
trong một thế giới đóng kín với những kinh nghiệm và bận rộn với
cuộc sống hằng ngày. Bỗng dưng bao kinh nghiệm trên biển cả
bỗng trở thành vô ích. Ông Simon đã phải cay đắng thú nhận với
Chúa : “Chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả.”
(Lc 5:5) Câu trả lời đó hoàn toàn dựa trên kinh nghiệm nghề
nghiệp, lý luận và thực tại vật chất. Nếu không may mắn gặp
Thày Chí Thánh, chắc chắn các ông không bao giờ có thể ra khỏi
khung trời nhỏ hẹp của mình. Từ bao năm nay, các ông vẫn tin
tưởng tuyệt đối vào những đồ nghề và tài năng đánh cá của mình.
Nhưng không ngờ những tin tưởng đó đã bị phá vỡ. Không ngờ có
thể có một cái nhìn khác đang chọc thủng niềm tin của mình. Cả
khối nước biển dầy đặc cũng không che khuất nổi những bầy cá
trước cái nhìn đó.
Cái nhìn đó đã bộc lộ tất cả sức mạnh qua
lệnh truyền cho ông Simôn : “Chèo ra chỗ sâu mà thả lưới bắt
cá.” (Lc 5:4) Ðó là mệnh lệnh không phát xuất từ kinh nghiệm
thực tế hay lý trí, nhưng là từ một quyền năng siêu nhiên tuyệt
đối. Ðiều duy nhất đòi hỏi ông là đức tin. Thật là một thử
thách ghê gớm đối với ông. Ông không thể tin vào tai mình nữa.
Thày có nói đùa không ? Trong tiếng thở dài, lòng ông như
hoang mang, khi phải thưa “vâng lời Thày.” (Lc 5:5) Câu trả
lời phát xuất từ đức tin, tuy chưa trọn vẹn, nhưng cũng đủ cho
Chúa làm một phép lạ. Có thế mới hiểu tại sao ông cảm thấy tôi
lỗi (x. Lc 5:8) sau khi chứng kiến quyền năng lạ lùng nơi Lời
của Chúa Giêsu.
Một Lời đã làm thay đổi con người. Một Lời
mời gọi ra khơi. Một Lời thúc đẩy hành động : hãy thả lưới bắt
cá ! Một Lời đầy hiệu lực làm mọi người kinh ngạc trước mẻ cá
lạ lùng : ông này là ai mà có quyền phép khiến bắt được mẻ cá
lớn như vậy !
Quả thực, từ lúc thưa “vâng lời Thày,” ông
Simon đã thấy tất cả mọi sự đều biến chuyển. Mặc dù đang chán
nản và thất vọng, ông như bắt được làn sóng tình yêu Thiên
Chúa. Có lẽ ông thầm nghĩ, cứ theo Thày thả lưới một lần, có
mất mát gì đâu. Trong thái độ mạo hiểm đó, ông đã tỏ ra tin
tưởng và phó thác vào quyền năng Chúa. Niềm tin đó không ngăn
cản hay thu hẹp tầm nhìn của ông. Trái lại, niềm tin mở rộng
tâm hồn và làm cho con người thấy rõ chân trời huyền nhiệm. Nói
khác, “lý trí con người không mất mát gì khi cởi mở đón nhận các
nội dung đức tin. Hơn nữa, đức tin còn mời gọi lý trí tham gia
một cách tự do và ý thức.”[ii]
“Hãy ra khơi ! Hãy thả lưới ! Tôi sẽ làm
cho các anh thành những người lưới người như lưới cá !” Một ai
đó đưa đề nghị, mở ra những cái nhìn mới, biến đổi cuộc sống
hằng ngày với một ý nghĩa mới, một sức năng động mới. Phải
chăng từ đó không gợi lên một khởi động mới, một cuộc đổi đời ?
Dù sao, rõ ràng trong cuộc hội ngộ này có một cái gì rất sâu
xa. “Từ bỏ mọi sự, các ông đi theo Người” để trở thành những
người thu phục người ta. Họ có hiểu ý nghĩa điều đó không ?
Không rõ. Nhưng hiển nhiên, Người đã kêu gọi họ đổi đời để gặp
gỡ mọi người.
Từ một đêm dài không hiệu quả, họ đã có cơ
duyên hội ngộ với con người ấy. Vì Lời Người, họ lại quăng
lưới, thay đổi hẳn thói quen và đặt vấn đề về tương lai. Hôm
nay phải chi Lời này còn sức mạnh đối với các cộng đoàn chúng ta
! Phải chi Lời này có thể khơi dậy nơi các bạn trẻ những
phản ứng tích cực, tiếp bước ông Simon và các bạn đồng nghiệp,
để trở thành các môn đệ Chúa Kitô cho Giáo hội và thế giới được
nhờ !
Nhưng cũng như cộng đoàn Côrintô, có lẽ
chúng ta còn nghi ngờ về tâm điểm của đức tin : Chúa Phục Sinh.
Bởi thế chúng ta không thấy cần phải kêu gọi nhân danh Chúa
nữa. Tuy nhiên, trong thư gởi giáo đoàn Côrintô, chứng từ đức
tin của tông đồ Phaolô chắc chắn là lý do thúc đẩy ông thi hành
sứ mạng truyền giáo. Ðây là Tin Mừng độc nhất, là điều chúng ta
loan báo trong thánh lễ : “Ðức Kitô đã chết vì tội lỗi chúng
ta. Ðức Kitô đã chịu mai táng trong mồ. Ðức Kitô đã phục sinh
và chúng ta mong chờ Chúa lại đến.” Ðó là biến cố đổi đời thánh
Phaolô, các Tông đồ và hằng trăm anh em. Các cộng đoàn chúng ta
thường quen nghe hát các câu đó, nhưng không cảm thấy thúc bách
phải loan báo cho mọi người biết biến cố đó và cũng không thấy
mình có sứ mệnh tìm kiếm giúp đỡ những ai đang loan báo Tin Mừng
nữa.
Bởi vậy, vấn đề cấp thiết hôm nay là phải
chọc thủng bức tường thế giới vật chất, và “tái khám phá một
đường lối mới để lý trí nhân loại hướng mở về ánh sáng của ‘Ngôi
Lời’ Thiên Chúa và mạc khải toàn hảo của Người là Ðức Giêsu
Kitô, Con Thiên Chúa làm người.”[iii]
Ngay trong Giáo hội cũng không thiếu những tâm thức dán chặt vào
thế giới vật chất và xác tín vào những năng lực trần thế mà
thôi. Quyền lực và tiền bạc khiến họ mờ mắt, không thể nhìn
thấy tính Thiên Chúa nơi nhiệm thể Chúa Kitô là Giáo hội. Họ
không dám ra khơi theo lời mời gọi của Chúa, vì sợ phải rời xa
những bờ bến họ đã bám trụ lâu đời. Họ tin tưởng tuyệt đối vào
những kiến thức, dư luận, phe cánh, không đủ can đảm ra khỏi lâu
đài bê tông cốt sắt là chính cái tôi của mình mà đến với mọi
người. Họ sợ phải đối diện với những gì xa lạ và khác biệt với
mình. Từ nội tâm sâu thẳm đã không gặp gỡ Thiên Chúa, làm sao
có thể đối thoại anh em ?
Chỉ khi nào tin tưởng tuyệt đối vào Lời
Chúa, chúng ta mới có thể mạnh dạn ra khơi. Lời Chúa luôn thúc
đẩy con người dấn thân, cởi mở và đối thoại với mọi người. Khi
không trao đổi với anh em, chúng ta sẽ tin những điều mình nghĩ
là sự thật. Kết luận được đặt ra trước tiền đề. Người ta cố
tìm những dữ kiện hay dư luận phù hợp để củng cố kết luận đó.
Họ chỉ thấy những hiện tượng, chứ không tìm hiểu sâu xa nội dung
các sự kiện. Nhìn vào con người qua những ống kính phòng thí
nghiệm, làm sao biết được thực tại tâm linh ? Theo nữ sĩ Dương
Thu Hương, nửa ổ bánh mì là bánh mì, nhưng một nửa sự thật không
phải là sự thật. Ðó là chưa kể nhiều trường hợp sự thật bị bẻ
cong để phục vụ mục tiêu hay quyền lợi phe đảng. Nhiều trường
hợp sự thật đã phải hy sinh chỉ vì con người đam mê tìm kiếm
chính mình.
Không có đức tin, không thể ra khỏi chính
mình để mạo hiểm lao vào thực tế đầy thách đố. Ðức tin luôn
bơm thêm khí thế dũng cảm cho con người. Không có đức tin, làm
sao ông Simon và các bạn đồng nghiệp có thể lao vào chỗ nước sâu
mà thả lưới đánh cá ? Ðức tin luôn cho con người sức mạnh khởi
sự hành động và đi đến cùng nếu phải vác thập giá lên đồi Canvê
với Chúa. Không có đức tin, họ không thể tìm thấy ý nghĩa trong
việc theo Chúa. Nhiều người muốn thênh thang theo Chúa. Bất cứ
khổ giá nào đặt trên vai họ đều tạo nên những chống đối hay buồn
phiền cay đắng. Ông Phêrô đã trải qua kinh nghiệm đó sau khi
rời vườn Cây Dầu vào trong dinh Philatô với Thày.
Simon được kêu gọi không phải đổi từ nghề
bắt cá sang việc chinh phục nhân tâm bằng những phương tiện tự
nhiên. Sứ mệnh cứu độ là một kỳ công của ân sủng Thiên Chúa.
Nếu đó là công việc của Thiên Chúa, làm sao con người có thể
thực hiện một mình ? Xưa nay, người ta vẫn cứ tưởng mình
“ngon” hơn người khác, đến nỗi quên mất vai trò Thiên Chúa trong
công cuộc cứu độ. Hành trình đem ơn cứu độ đến với mọi hạng
người trong xã hội rất phức tạp. Nhưng con đường dài đó cũng
không khó bằng con đường trở về với chính mình để khám phá sự
thật về mình.
Những tương giao chồng chéo nhau trong xã
hội đã đem lại bao hứa hẹn cũng như thất vọng. Sự thánh thiện
hay tội lỗi cũng từ những tương quan đó. Nhưng nên nhớ “sự
thánh thiện chủ yếu không phải là không bao giờ lầm lỗi hay phạm
tội. Sự thánh thiện tăng triển khi chúng ta có khả năng trở lại
hay sám hối, khả năng sẵn sàng bắt đầu lại, và trên hết, khả
năng hòa giải và tha thứ.”[iv]
Sự thánh thiện đó đã có nơi thánh Phaolô. “Nhưng thánh Phaolô
và Banaba đã có những bất đồng lớn ngay lúc khởi sự hành trình
truyền giáo lần thứ hai và đã chia tay nhau.”[v]
Ðó là những khác biệt trong quan niệm và
đường lối, chứ không phải là những bất hòa. Nhiều người lẫn lộn
bất đồng với bất hòa. Theo họ, bất cứ ai có tư tưởng khác biệt
đều là kẻ phá hoại, bất hòa, chống đối. Thực tế, “ngay giữa các
thánh cũng có những khác biệt, bất đồng và các cuộc tranh luận.”[vi]
Các ngài rất sợ bất hòa, vì đó là phản chứng, lỗi đức bác ái.
Thích lên án người khác trước khi đối thoại để tìm hiểu sự
thật, mới gây chia rẽ và bất hòa trong cộng đoàn. Mất sự hiệp
nhất, làm sao cộng đoàn có thể chu toàn sứ mệnh phúc âm hóa ?
Thời gian chỉ có một. Nếu dồn hết sức vào việc “bới lông tìm
vết,” chúng ta sẽ không còn khả năng đến với muôn dân.
Lạy Cha, khi vâng lời Cha xuống trần
gian, Ðức Giêsu đã gọi ông Simon và các bạn đồng nghiệp từ bỏ
nghề đánh cá để trở thành những người lưới người như lưới cá.
Xin cho chúng con luôn lắng nghe tiếng Con Cha mời gọi để dấn
thân và can đảm thi hành sứ mệnh cứu độ trong niềm tin yêu tuyệt
đối vào uy quyền toàn năng của Cha. Amen.
đỗ
lực 04.02.2007
dzuize@gmail.com
[i]
ÐGH Bênêđictô XVI, Zenit 28.01.2007.
[ii]
ibid.
[iii]
ibid.
[iv]
ÐGH Bênêđictô XVI, CWNews.com, 31.01.2007.
[v]
ibid.
[vi]
ibid.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
HÃY LÊN ĐƯỜNG ĐẾN
NHÀ CHA CUỐI ĐƯỜNG
|
1.
Trăm năm trước, chưa từng biết mặt
Trăm năm sau, còn gặp nhau
chăng ?
Cuộc đời sắc sắc không không
Bên nhau hãy sống hết lòng
với nhau !
2.
Hơn nhau chỉ một CAÍ ĐẦU
Tư duy, hướng thượng. Dạt
dào CON TIM.
MIỆNG CƯỜI : phương cách
động viên.
ĐÔI TAY : phương thế xây nên
nghĩa tình!
ĐÔI CHÂN : phương tiện lên
đường
Tải chân lý lại đầu phương,
cuối trời.
MẮT là công cụ tuyệt vời :
Thấy người quân tử, biết
người dối gian.
Ấy là mấy thứ khả năng
Trời cho ta với lượng phần
khác nhau :
Người hiền ngất ngưỡng trăng
sao !
Người ngu chôn chặt vực sâu
bùn lầy !
3.
Nhắm mắt gieo Thiện Hảo,
Mở mắt thấy đời vui .
4.
Mai đây từ giả cuộc đời
Đem theo gì những hôm nay
người làm.
5. Mai đây từ giả cuộc
chơi
Đem theo gì những cuộc đời
đã cho.
6. Đời này vắn vỏi, mau
qua
Hãy lên đường đến Nhà Cha
cuối đường.
Tác giả : Frère NGUYỄN TẤN
KIỆT
Sưu tầm và hiệu chĩnh :
Thuận Châu PHAN VĂN KHẢI
Saigòn – Việt Nam, tháng
2/2007.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
MÙA XUÂN CHÍN |
Hàn Mặc Tử là nhà thơ tài hoa nhưng đoản thọ. Oâng để lại cho đời
không nhiều thi phẩm nhưng tác phẩm nào của ông cũng thật đáng trân
trọng.
Mùa xuân về, tiết trời nắng ấm, lộc non nhú mầm từ cây cỏ. Mùa xuân
làm rộn rã tâm tư. Khí trời sắc xuân hoà quyện làm con người tươi
trẻ đến lạ. Đọc bài thơ: Mùa xuân chín của Hàn Mặc Tử, cảm
được nét tươi trẻ và đầy nhân văn của mùa xuân ngày Tết.
Mùa Xuân là mùa đẹp nhất trong năm, hương hoa bàng bạc cả đất trời,
những ngày Tết đượm thắm sắc xuân.
Trong làn nắng ửng khói mơ tan.
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng
Sột soạt gió trêu tà gió biếc,
Trên giàn thiên ly, bóng xuân sang.
Sóng cỏ xanh tươi gợi tới trời,
Bao cô thôn nữ hát trên đồi:
Ngày mai trong đám xuân sang ấy,
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi…
Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi
Hổn hển như lời của nước mây…
Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc,
Nghe ra ý vị và thơ ngây…
Khách xa gặp lúc mùa xuân chín
Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng
Chị ấy năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?
Câu chữ trong thi ca của Hàn Mặc Tử luôn được chắt lọc, ngôn từ
được tìm tòi kỹ lưỡng.
Sột soạt gió trêu tà áo biết .
Trên giàn thiên lý, bóng xuân sang
Câu thơ thật gợi mở. Trên những mái nhà vách đất của làng quê ngày
xưa điểm tô những nụ hoa thiên lý nở vàng, xen giữa màu xanh tươi
của lá. Lá và hoa thiên lý tạo nên nét đặc sắc của hương vị quê nhà
như lời ca dao:
Thương chồng nấu cháo le le.
Nấu canh hoa lý nấu chè hạt sen.
Gió trêu, gió đùa, gió mơn man làm bất chợt mùa xuân
ùa tới.
Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời,
Bao cô thôn nữ hát trên đồi.
Ngày mai trong đám xuân xanh ấy
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi…
Mùa xuân từ trong nhà đã lan xa ra vùng đồi núi. Mùa
xuân làm tươi cảnh vật mang niềm vui đến cho con người.
Con người của mùa xuân thật trẻ trung, hồn nhiên,
đầy sức sống:
Bao cô thôn nữ hát trên đồi.
Các cô hát rằng:
Ngày mai trong đám xuân xanh ấy.
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi…
Ở lại làng để vui chơi với nhau thật là hạnh phúc.
Nhưng ai đó được đi lấy chồng càng vui hơn. Mùa xuân như thêm đẹp,
thêm tươi, thêm rực rỡ hơn..
Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi,
Hổn hển như lời của nước mây…
Thi nhân dùng từ vắt vẻo, hổn hển thật tài tình.
Vắt vẻo ở câu trên chỉ sự thơ ngây, hổn hển ở câu dưới nói lên sư
hồi hộp, đợi chờ trong trái tim của những cô gái đang tràn trề sức
sống. Ai đó đang ngồi dưới khóm trúc cũng phải rộn ràng:
Khách xa gặp lúc mùa xuân chín
Lòng trí bâng khâng sực nhớ làng.
Chị ấy năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang ?
Thấy mùa xuân ở quê người lại nhớ tới cảnh làng mình. Cảnh làng mùa
hạ có nắng chang chang và bao nhiêu người thân đang oằn lừng lao
động giữa trời nắng gắt. Người ta hay nói sông xanh, sông đỏ, còn
Hàn Mặc Tử lại nói sông trắng “Dọc bờ sông trắng, nắng chang
chang”. Nắng đến trắng cả sông, diễn tả sự gay gắt của nắng làm
chói chang bạc trắng.
Đây là nét rất nhân bản của người luôn nặng tình với quê hương xứ
sở. Thi sĩ họ Mặc cảm xuân nhớ về quê mình nặng tình gởi hồn thơ bộc
bạch nổi niềm.
Xuân về Tết đến. Mọi người có dịp để thể hiện tình yêu thương nhau.
Gia đình sum họp, tưởng nhớ Oâng Bà Tổ Tiên, thăm viếng bạn bè người
thân làng xóm. Con người rộng rãi, phóng khoáng hơn ngày thường từ
cách bài biện trong nhà cho đến giao tiêp ứng xứ với nhau. Nhẹ nhàng
thanh lịch như tình xuân ấm áp. Đó cũng là giá trị nhân văn của
ngày Tết.
Tết Nguyên Đán Việt Nam tiềm tàng những giá trị nhân văn thể hiện
mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên, vũ trụ qua bốn mùa
xuân-hạ-thu-đông và quan niệm "ơn trời mưa nắng phải thì" chân
chất của người nông dân cày cấy ở làng quê thanh bình.
Tết còn là dịp để mọi người Việt Nam tưởng nhớ, tri tâm tổ tiên,
nguồn cội; giao cảm nhân sinh trong quan hệ đạo lý “ăn quả nhờ kẻ
trồng cây” và tình làng nghĩa xóm ...
Ông Táo hay thần bếp là người mục kích sự làm ăn của mọi nhà. Theo
tập tục hàng năm ông Táo phải thu xếp lên trời vào ngày 23 tháng
chạp để tâu bày mọi việc dưới trần thế với Ngọc Hoàng. Bởi thế nên,
trong ngày này, thường thì gia đình người Việt làm mâm cơm đạm bạc
tiễn đưa "ông Táo ". Ngày ông Táo về chầu trời được xem như ngày đầu
tiên của Tết Nguyên Đán. Sau khi tiễn đưa ông Táo người ta bắt đầu
dọn dẹp nhà cửa, lau chùi đồ cúng ông bà tổ tiên, treo tranh, câu
đối, và cắm hoa ở những nơi trang trọng để chuẩn bị đón Tết.
Cùng với tranh, hoa quả là yếu tố tinh thần cao quý thanh khiết của
người Việt Nam trong những ngày đầu xuân. Miền Bắc có hoa Đào, miền
Nam có hoa Mai. Hoa Đào, hoa Mai tượng trưng cho phước lộc đầu xuân
của mọi gia đình. Ngoài cành Đào, cành Mai, mấy ngày Tết người ta
còn "chơi" thêm cây Quất chi chít trái vàng mọng, đặt ở phòng khách
như biểu tượng cho sự sung mãn, may mắn, hạnh phúc...
Ngày Tết, trên bàn thờ tổ tiên của mọi gia đình, ngoài các thứ bành
trái đều không thể thiếu mâm ngũ quả. Mân ngũ quả ở miền Bắc thường
gồm có nải chuối xanh, quả bưởi, quả cam (hoặc quít), hồng, quất.
Còn ở miền Nam, mâm ngũ quả là dừa xiêm, mãng cầu, đu đủ, xoài xanh,
nhành sung hoặc một loại trái cây khác. Ngũ quả là lộc của trời,
tượng trưng cho ý niệm khát khao của con người vì sự đầy đủ, sung
túc.
Ngày Tết, dân tộc Việt nam có nhiều phong tục hay, đáng được gọi là
thuần phong mỹ tục như khai bút, khai canh, hái lộc, chúc tết, du
xuân, mừng thọ.
Năm cũ sắp qua, năm mới sắp đến, nên cần phải “tống cưụ nghênh tân”.
Cuối năm quét dọn sạch sẽ nhà cửa, sân ngõ, vứt bỏ những thứ rác
rưởi, lau giặt, cắt tóc, may sắm quần áo mới, trang trí bàn thờ, lau
chùi bàn ghế ấm chén và mọi thứ thức ăn vật dụng.
Con cháu trong nhà từ phút giao thừa trở đi được nhắc nhở không được
nghịch nghợm, cãi cọ nhau, không nói tục chửi bậy... anh chị, cha mẹ
cũng không quở mắng, tra phạt con em, đối với ai cũng tay bắt mặt
mừng, vui vẻ niềm nở, chúc nhau những điều tốt lành.
Hái lộc, xông nhà, chúc tết, mừng tuổi. Ai cũng hy vọng một năm mới
tài lộc dồi dào, làm ăn thịnh vượng, mạnh khoẻ, thành đạt hơn năm
cũ. Các Giáo xứ tổ chức hái Lộc Thánh Đêm Giao Thừa hoặc Sáng Mồng
Một Tết. Gia đình Phật Tử hay bên Luơng thì đi hái lộc ở chốn đình
chùa, nơi tôn nghiêm về nhà, tự xông nhà hay dặn trước người "nhẹ
vía" mà mình thích đến xông nhà. Nhiều người không tin tục xông nhà
nhưng cũng dè dặt, chưa dám đến nhà ai sớm, sợ trong năm mới gia
đình người ta xảy ra chuyện gì không hay lại đổ tại mình "nặng vía".
Chính vì vậy, sáng mùng Một lại ít khách.
Sau giao thừa có tục mừng tuổi chúc Tết. Trước hết con cháu mừng
tuổi ông bà cha mẹ. Ông bà cũng chuẩn bị ít tiền để mừng tuổi con
cháu trong nhà và con cháu hàng xóm láng giềng, bạn bè thân thích.
Lời chúc tết thường là dồi dào Ơn Chúa, hạnh phúc, sức khoẻ, phát
tài phát lộc. Những người năm cũ gặp rủi ro thì động viên nhau "tai
qua nạn khỏi"hay "của đi thay người", nghĩa là trong cái hoạ cũng
tìm thấy cái phúc, hướng về sự tốt lành. Nhưng nhìn chung trong
những ngày đầu năm, người ta thường kiêng không nói tới điều rủi ro
hoặc xấu xa.
Ngày Tết có biếu quà Tết cho nhau để tỏ ân nghĩa tình cảm. Học trò
tết thầy giáo, bệnh nhân tết thầy thuốc, con rể tết bố mẹ vợ... Quà
biếu, quà tết không đánh giá theo giá thị trường mà là tấm lòng dành
cho nhau.
Vào dịp đầu xuân, con cháu thường tổ chức mừng thọ lục tuần, thất
tuần, bát tuần, cửu tuần cho Oâng Bà Cha Mẹ. Ngày Tết ngày Xuân là
dịp mọi người dành thời gian cho nhau, con cháu tụ tập đông vui bên
gia đình dòng tộc.
Cũng vào dịp đầu Xuân, người có chức tước khai ấn, học trò, sĩ phu
khai bút, nhà nông khai canh, người buôn bán mở hàng lấy ngày. Sĩ,
Nông, Công, Thương "Tứ dân bách nghệ" của dân tộc vốn cần cù, ai
cũng muốn năm mới vận hội hành thông, làm ăn suôn sẻ.
Mùa Xuân Đinh Hợi đang cận kề. Xuân đem hy vọng đến. Xuân đẩy lui
mây xám cuộc đời.
Những rủi ro, Xuân mang đi. Điều may mắn, Xuân chở về. Xuân tặng mỗi
nhà một cành Mai may mắn, một cành Đào thủy chung. Bó hoa niềm vui,
Xuân trao tất cả. Cành lá phúc lộc, Xuân gởi tặng không. Trái tim
băng giá, Xuân hâm cho nóng lại. Ánh mắt hận thù, Xuân nhỏ giọt yêu
thương. Xuân kết chặt bàn tay nhân loại, để truyền cho nhau hơi ấm
tình người. Đôi môi con người, Xuân điểm hoa cười, để thốt nên lời:
“Hạnh phúc nhé anh!” (x.Sequela Christi Số 2).
Những Ngày Lễ
Tết đang tới gần. Người Kitô hữu quan niệm Tết là Một Hồng Aân.
Một Hồng Ân vì
đó là cơ hội cho con người sống tâm tình tri ân, cảm tạ. Ngày đầu
năm mới, con
người hướng về Thiên Chúa, Đấng là cội nguồn của vũ trụ, cùng đích
của muôn loài, hướng về để tạ ơn, ngợi khen và chúc tụng. Tạ ơn vì
một năm đi qua trong ân sủng, tình yêu và bình an. Tạ ơn vì tình yêu
đó vẫn tuôn tràn trên đời sống con người. Tạ ơn bằng việc dâng lên
Thiên Chúa tất cả những thành công và những thất bại của một năm
qua, cũng như trao phó vào tay Ngài năm mới sắp tới. Lời tạ ơn đầu
năm sẽ được tiếp nối và kéo dài suốt cả hành trình đời người.
Một Hồng Ân vì đó là cơ hội để con người có thể dừng lại - dù chỉ là
những khoảnh khắc ngắn
ngủi, nhưng thật hữu ích - trên hành trình cuộc sống đầy những biến
động, những bận tâm, những tính toán để mưu sinh. Dừng để nhìn lại
một năm đã qua, cái gì tôi đã làm được cho bản thân, cho cộng đồng,
cho xã hội, cái gì tôi cần phải khắc phục, biến đổi, cái gì cần phải
phát triển, nhân lên… Dừng lại cũng là để chuẩn bị cho hành trình
sắp tới, chuẩn bị để cho những dự tính trong tương lai được sáng sủa
hơn, vững chắc hơn.
Một Hồng Ân vì
đó là một cơ hội để con người trở về nguồn. Mỗi người đều có nguồn
cội, tổ
tiên, mỗi người đều có một truyền thống vốn được kết dệt từ cha ông
tổ tiên. Nhưng suốt một năm dài, vì công việc, vì học hành, vì những
lo toan khác do cuộc sống đưa đến, người ta ít có cơ hội để nhớ về
cội nguồn và truyền thống đó. Ngày đầu năm mới, mọi người đều sắp
xếp để trở về, gia đình sum họp đông đủ. Mọi người thắp nén hương
cho tổ tiên, cho những người quá cố. Con cháu chúc tuổi ông bà, cha
mẹ… Gia đình quây quần bên mâm cơm, cùng ôn lại truyền thống, cùng
chia sẻ cho nhau những tình cảm, những suy nghĩ, thật ấm cúng, thật
thân thương.
Một Hồng Ân vì
đó là một cơ hội để con người gặp gỡ, chia sẻ. Ngày đầu năm, người
ta dành
thời gian để đi thăm nhau, gặp gỡ nhau, trao cho nhau những lời chúc
tốt đẹp, chân thành, những nụ cười thiện cảm. Đó là dịp để làm lớn
mạnh tình người, làm đậm đà tình làng nghĩa xóm, và làm lớn lên cái
nhạy bén với những nhu cầu của tha nhân.
Một Hồng Ân vì
đó là cơ hội để con người cật vấn mình. Tết chính là cái “cột mốc”
làm cho
người ta nhận ra cuộc đời đang trôi đi, thời gian đang qua mau. Cứ
mỗi khi thêm một cái Tết, người ta thấy mình già hơn, và thời gian
phía trước như rút ngắn lại. Có người nói: “Tổng số quá khứ và tương
lai của một đời người là một hằng số”, thêm vào quá khứ thì giảm bớt
tương lai. Có lẽ vì vậy mà khi sống tâm tình những ngày Tết, người
ta cũng giật mình về quãng đới đã qua, và nảy sinh nơi người ta cái
thao thức về ý nghĩa cuộc đời, cật vấn về bản thân mình, về thái độ
sống của mình, “vì thời gian đang qua mau, tôi đã tận dụng nó như
thế nào hay tôi để nó trôi qua một cách uổng phí.” .(x.Sequela
Christi Số 2).
Người Việt nam Công Giáo gìn giữ những nét đẹp văn hoá của ngày Tết
cổ truyền và làm cho những nét đẹp ấy thành những trang Tin Mừng
sống động. Khi sống tâm tình biết ơn trong ngày Tết, là ta sống lòng
tri ân sâu xa vì nhìn thấy ơn Chúa ban qua mọi ân huệ nhận được. Khi
cho đi trong ngày Tết là ta cho đi với tâm tình yêu mến, kính trọng
thực sự. Khi đón tiếp khách thăm viếng là ta như đón tiếp chính Chúa
viếng thăm.
Khi sống tinh thần Tin Mừng trong những phong tục ngày Tết, người
Kitô hữu góp phần xây dựng một mùa Xuân mới, một mùa Xuân dân tộc,
một mùa Xuân tình thương. Mùa Xuân ấy sẽ vĩnh cửu vì sẽ dẫn đến mùa
Xuân Nước Trời.
Đón Tết và xem Tết
như là Một Hồng Ân của Thiên Chúa, sống đầy đủ cái ý nghĩa của những
ngày Tết thì chính mỗi người sẽ tràn trề hạnh phúc, tươi trẻ tình
xuân, có được một “Mùa Xuân Chín” như Thi sĩ Hàn Mặc Tử.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
|
VỀ MỤC LỤC |
|
Ngày Xuân,
nói về những mê tín trong tôn giáo |
Nói nôm na, mê tín nghĩa là tin sai lầm, tin theo thói quen ai sao
tôi vậy. Tin không cần suy nghĩ, tin không cơ sở vào một điều gì đó.
Tôn giáo nào cũng có những yếu tố thần linh, dù không ai chứng minh
được thần linh bằng khoa học thực nghiệm, nhưng tôn giáo không phải
là mê tín, vì có nhiều cơ sở đủ để tin vào những điều không thể
chứng minh.
Nhưng cũng vì tôn giáo mang yếu tố thần linh, nên đã có nhiều điều
“ăn theo” tôn giáo, để trở nên buôn thần bán thánh hoặc có những mê
tín đáng tiếc. Những điều đáng tiếc này chẳng những không giúp cho
đời sống tâm linh phát triển, mà chỉ đóng khung nhận thức và làm sơ
cứng các khả năng suy tư của con ngươiø. Từ đó, sẽ dẫn đến một cung
cách sống đạo theo thói quen, ai sao tôi vậy và không cần suy nghĩ,
vì đã có người khác suy nghĩ thay cho rồi.
Điều đáng buồn này không mới, vì thời nào cũng có, nơi nào cũng có
và tôn giáo nào cũng có. Sách vở, báo chí và cả kinh sách cũng đã
nói đến rất nhiều, nhưng hiệu quả cũng chỉ phần nào, và xem ra vẫn
luôn có nhiều hạn chế.
Người Công giáo trong cộng đồng Việt Nam chỉ là thiểu số từ khoảng 7
đến 8 %. Phật giáo và các tín ngưỡng dân gian là phần đông và luôn
chiếm phần đa số. Ta sẽ tự cô lập mình và trở nên lạc lõng ngay trên
địa bàn ta đang sống, nếu không hiểu biết, không hoà đồng với xung
quanh, một môi trường không có hoặc đang có rất ít Công giáo.
Ngày Xuân đi lễ chùa và hái lộc đầu năm. Hình ảnh truyền thống này
thật đẹp đẽ và rất thi vị. Bài thơ Đi lễ chùa Hương của Nguyễn nhược
Pháp, nói về cảnh này đã sống trong lòng mọi người qua bao thế hệ.
Nhưng đến chùa để xin xăm bói quẻ và đốt vàng mã cho nhiều, thì quả
thật, chỉ là những chuyện “ăn theo” nhưng lại được gán cho là của
Phật giáo, mà không phải là Phật giáo đích thật.
Xin xăm bói quẻ chỉ là một hình thức của bói toán, mà bói ra ma quét
nhà ra rác. Nhiều khi chỉ chuốc lấy lo lắng, và sợ hãi buồn phiền vì
xăm quẻ nếu “thầy”đoán quẻ phán những điều bất lợi. Rõ ràng, thày
đã vận dụng những lời của Thần Phật để diễn tả theo ý của mình.
Đốt vàng mã cũng thế. Hàng năm trong những dịp này, trên cả nước,
bao nhiêu tỷ đồng đã biến thành khói than vì đốt vàng mã thì không
ai thống kê cho nổi. Nhưng khổ nỗi, không đốt thì không an tâm. Sợ
người thân của mình dưới cõi âm bị túng thiếu khổ sở. Không đốt thì
sợ Thần Phật sẽ giận, sẽ không ban phước lộc cho mình và gia đình.
Họ làm như Thần linh cũng có thể mua chuộc, cũng có thể lấy lòng và
hối lộ bằng vật phẩm và tiền bạc trần gian.
Thật tội nghiệp cho thần linh.
Cũng tội nghiệp cho những niềm tin lầm lạc như vậy .
***
Phải dài giòng như thế, để trông người mà nghĩ đến ta, vì ta cũng có
những điều, không phải giống hệt như thế, nhưng cùng phát xuất từ sự
lầm lạc. Nói điều này, có thể gây xốc đối với nhiều người, nhưng
thật đáng tiếc, đây lại là một thực tế.
Không ít giáo dân đã lầm lạc khi thần thánh hoá linh mục, “bắt” các
ngài phải là những con người lý tưởng, nghĩ các ngài phải thế này,
phải thế khác. Khi các ngài không giống như mình nghĩ, hoặc có va
chạm mâu thuẫn gì đó, thì họ bỏ lễ, hoặc không đi lễ xứ mình. Trầm
trọng hơn, nhiều người đã bỏ cả đạo. Con số này tuy không nhiều,
nhưng đang là một thực tế đã xảy ra nơi các xứ đạo. Hoặc nếu không
bỏ đạo, thì những liên hệ và sự cộng tác với các vị chủ chăn, cũng
có những trở ngại và không thuận lợi nhất định nào đó. Những trở
ngại đã phát khởi từ việc thần thánh hoá, lý tưởng hoá các bậc chủ
chăn.
Từ lâu, người ta đã nói nhiều về những khoảng cách giữa linh mục và
giáo dân. Khoảng cách vì nhiều lý do, cả khách quan và chủ quan đều
có. Linh mục là người tinh thông mọi sự, vì các ngài học
trường lý đoán, La tinh và mang bảy chức thánh. Nhiều giáo dân đã
được nghe dạy và vẫn luôn tin như vậy . Các ngài được học 2
năm Triết học và 4 năm Thần học, là những môn học mà ít giáo dân nào
đủ thời gian và có điều kiện để học. Đó là một vài lý do, khiến giáo
dân thường lý tưởng và thần thánh hoá những người anh em của mình.
Điều đó cũng dễ hiểu.
Thực ra, triết học là gì ? nếu không phải là khoa học để dạy về sự
khôn ngoan hiểu biết ? Như thế, bao thế hệ cha ông ta, dù chẳng học
ngày nào về triết học, nhưng vẫn đầy khôn ngoan hiểu biết và còn lưu
truyền mãi đến ngày nay. Có khác chăng, triết học đã giúp ta biết hệ
thống, biết sắp xếp các suy nghĩ lý luận và hành vi đời sống để
trật tự hơn, nhờ thế, sẽ hạnh phúc hơn cho người và cho mình .
Còn Thần học là gì ? nếu không phải là môn học về Thiên Chúa, là
những suy tư dựa trên Lời Chúa và được xây dựng thành hệ thống, nhằm
làm sáng sủa hơn, dễ hiểu hơn về một đối tượng vốn trừu tượng khó
nhận biết là Thiên Chúa thần linh . Và nếu như vậy, thì mỗi giáo dân
đều đã có sẵn thần học tính trong người, khi tuyên xưng Đức Giêsu
Kitô là Thiên Chúa của mình.
Xem như thế, ai cũng thấy Thần và Triết là những điều gần gũi và cần
thiết biết bao đối với mọi người. Gần gũi và quen thuộc, nhưng nói
thế nào để không trở thành xa lạ, viết ra sao để không biến thành
khó hiểu là điều không phải ai và lúc nào cũng làm được. Vì ngay cả
Thần học Kinh Viện cũng đã vướng phải điều này. Thần học Kinh viện
với bao nhiêu ngôn từ chuyên môn, và đầy tính bác học của các thuật
ngữ mà muốn hiểu rõ phải tra nhiều loại tự điển. Những điều ấy đã
khiến nhiều người nản chí, hay ít ra, cũng e ngại khi muốn tiếp cận
với loại Thần học này. Giáo Hội đã nhận ra và từng bước, đang có
những chấn chỉnh phù hợp.
Đức Giêsu là bậc thày của các bậc thày, khi Ngài nói về những điều
cao siêu huyền nhiệm, Ngài đã dùng những hình ảnh của dụ ngôn một
cách tuyệt vời, và nhờ thế, đã giúp người nghe có thể hiểu ngay ý
Ngài muốn truyền đạt. Dùng lời để diễn ý, dùng hình ảnh để minh hoạ,
Ngài muôn đời vẫn là mẫu gương trọn hảo. Chẳng hạn, khi muốn diễn tả
sự gắn bó mật thiết giữa con người với Thiên Chúa, Ngài đã nói :
“Thầy là cây nho, các con là ngành. Ngành nào kết hợp cùng
cây, sẽ trổ sinh hoa trái. Ngành nào lìa cây, sẽ bị héo khô”.
Chỉ một câu này thôi, nhưng có nhiều tác giả đã viết thành những
tác phẩm dày cả trăm trang.
Một câu nói thật gần gũi vì mang đầy tính dân gian quen thuộc. Nhưng
lại đầy tính Triết, đầy tính Thần trong câu nói giản dị này. Còn
biết bao những câu nói đơn sơ như thế, đầy rãy trong Kinh Thánh.
Xem như thế, Triết và Thần là những môn cần thiết và hấp dẫn biết
bao. Nhưng không hiểu từ lúc nào, nó đã biến thành những gì khô khan
khó nuốt và chỉ dành riêng cho một số người nào đó muốn học , hoặc
bị học. Ai cũng biết rằng, ngôn ngữ loài người là hạn chế không thể
nào nói đủ, nói hết được những thực tại thiêng liêng. Nhưng dù sao
đi nữa, nói mà không ai hiểu, thậm chí còn hiểu sai thì đây là một
sự thất bại của những ai học Thần và Triết.
Sau cùng, không phải ai học Triết, học Thần cũng đều trở thành các
Triết gia hoặc nhà Thần học. Và ngay cả khi đã là các Triết gia và
nhà Thần học, cũng chẳng có gì bảo đảm các vị ấy sẽ không sai lầm
hoặc sẽ không vấp ngã. Ta đã chẳng thường nghe Giáo hội cảnh báo về
các triết gia này chệch hướng, hoặc nhà thần học kia lạc đường đó
hay sao ???
Và nữa, bảy chức thánh đâu đã phải là thánh. Nhưng 7 chức thánh chỉ
để thi hành các tác vụ thánh mà Giáo hội đã tín nhiệm uỷ thác. Vậy
thôi, và ngoài những điều này ra, các ngài vẫn là những con người tự
nhiên với tất cả những điều tự nhiên bình thường.
Vì thế, xin đừng thần thánh hoá các ngài, kẻo tội nghiệp.
Tội nghiệp cho các ngài, nhưng phải tội nghiệp cho chính mình trước
hết, vì mình đã hiểu sai, tin lầm.
Linh mục, dù mang 7 chức thánh nhưng vẫn là con người với đầy đủ các
mảng sáng tối như bất cứ ai. Sáng tối nơi thân xác, tối sáng trong
tâm hồn và cũng không thiếu cả những linh mục vô tín. Vô tín nghĩa
là không tin. Điều này nghe hơi lạ tai. Nhưng ta sẽ hiểu ra ngay,
khi biết một tông huấn của Giáo hội đã nói với các chủ chăn đại ý
rằng : “ Các con hãy rao giảng điều con tin. Hãy tin lời con rao
giảng và thực hành những điều con đang rao giảng”.
Một khi không thực hành chính điều mình đã rao giảng thì đúng là một
kẻ vô tín. Khi ấy đã tự biến mình thành những thợ giảng, những kẻ
chỉ bán nước bọt nhưng cái giá lại quá cao.
Xin cũng đừng lý tưởng hoá các ngài, đúng hơn phải nói rằng,”bắt”
các ngài phải sống một cách lý tưởng như ý mình muốn và theo suy
nghĩ của mình. Điều này thật tệ hại và quá xa rời với tinh thần Tin
mừng, vì Đức Giêsu luôn tôn trọng mọi người. Với ngay cả kẻ sắp hãm
hại mình là Giuđa, Ngài đâu có dùng quyền phép của mình mà thay đổi
ông ta, hoặc ép buộc ông ta phải theo ý muốn của Ngài.
Khi đọc Kinh thánh, ai không biết chuyện này, sao Bạn lại quên ?
Thần thánh hoá linh mục là một sai lầm, sai lầm dẫn đến mê tín.
Không đi lễ, bỏ đạo là một cực đoan.
Cộng cả mê tín và cực đoan lại, liệu tâm hồn Bạn có còn sự bình an ?
Hỏi là đã trả lời rồi vậy . Thêm nữa, Giáo hội đâu chỉ có một người,
sao không hỏi ý kiến và tham khảo nơi nhiều bậc khôn ngoan và đạo
hạnh trong Giáo hội, trước khi đi đến quyết định liên quan đến vận
mệnh của cả đời mình ?
****
Những ngày Xuân cũng là những ngày của thăm viếng, chúc tuổi. Đặc
biệt, đi thăm viếng chúc tuổi các vị chủ chăn, các cha linh hướng
và các vị lãnh đạo là không thể thiếu. Con đến thăm Cha và Cha cũng
sẽ đến thăm con.
Nguyện xin, trong các dịp đầy ý nghĩa này, sự cảm thông và yêu mến
sẽ nhiều hơn, nhờ đó, những ngày Xuân sẽ có thêm nhiều ý nghĩa mới.
Khi không còn những lấn cấn trong lòng vì lầm lạc mê tín, mỗi giáo
dân sẽ là những cánh tay nối dài đích thực của các vị chủ chăn. Khi
mọi người đã nhận ra nhau là huynh đệ anh em, những cánh tay nối dài
kia thực sự sẽ là những người cộng tác, mà không phải là các gia
nhân, để thực thi Lời Chúa đã nói trước khi Ngài về Trời :
“ Từ nay, Ta không gọi các con là tôi tớ, vì tôi tớ không biết
việc của chủ làm. Nhưng Ta gọi các con là bằng hữu thân tình, vì mọi
việc Ta làm, Ta đã tỏ hết cho các con biết”.
Chúa Giêsu rất thân mến của con ơi !
Làm bằng hữu thân tình với Chúa thì dễ, nên nghe câu này con
thấy vui vì có nhiều an ủi. Làm bạn với Chúa dễ, vì Chúa vô
hình và nếu có phiền trách con điều gì, Ngài cũng nhẹ nhàng kín đáo
nói riêng với con trong lòng. Làm bạn với Chúa lại càng dễ hơn, vì
Ngài chẳng bao giờ gây khó khăn hoặc xúc phạm con bao giờ. Ai mà
không mong có được người Bạn tuyệt vời như vậy ?
Nhưng làm bằng hữu thân tình với anh em con thì trăm lần khó hơn với
Chúa. Vì, trước tiên là con ngại họ và họ cũng ngại con. Ngại vì
nhiều thứ, những người hơn con, họ sẽ ngại con làm phiền khi con đến
với họ. Những người kém con, con cũng e dè ngại ngùng, sợ họ sẽ làm
phiền mình khi họ tìm đến với con. Và còn bao nhiêu điều khác nữa đã
làm cho con khó thân với anh em của mình .
Nhưng ….rồi, con chợt giật mình và nhận ra rằng, nếu không thể thân
với anh em mình, cũng là không thể thân với chính Chúa.
Chúa Giêsu rất thân mến của con ơi !
Con đã đón bao nhiêu mùa Xuân trong đời, xin hãy giúp con, mùa Xuân
này mỗi ngày, con sẽ có thêm nhiều bằng hữu thân tình. Vìø chỉ như
thế, lòng con mới có được mùa Xuân viên mãn tràn đầy, và nhờ vậy,
con sẽ luôn có được nụ cười thanh thản an vui. Chính sự thanh thản
an vui này, sẽ lan toả ra xung quanh và làm chứng rằng con đang có
Chúa trong lòng.
Amen.
Cư sĩ Xuân Thái
|
VỀ MỤC LỤC |
|
TÌNH CA SỐ MỘT
|
Mỗi khi con nguyện “Lạy Cha …”
nghe trong huyết quản chan hòa
niềm vui.
Con tim thổn thức bồi hồi,
nhớ về năm tháng đất trời hư
không.
Trước khi tạo dựng càn khôn,
Cha là Thân Phụ
Chúa Con muôn đời.
Tình Yêu nguồn
mạch tuyệt vời,
Kết duyên Một
Chúa Ba Ngôi vĩnh hằng.
Cha là Thiên
Chúa trọn lành,
cho con một
chiếc thuyền tình ra khơi,
một nền công
chính Nước Trời,
muôn người hạnh
phúc sống đời tự do,
Cha từng sai Ðức Kitô,
vào đời chia sẻ
căn cơ cuộc trần.
vâng theo Thánh
Ý dấn thân,
mở đường cứu độ
muôn dân an lành.
Xin thương cho mọi phàm nhân,
biết Cha là
Chúa khôn ngoan vô cùng,
trong muôn lối Chúa quan phòng,
hồng ân trải ngập bước đường
trần gian.
Cha là Thiên
Chúa toàn năng,
thương ban mạc
khải kho tàng tình yêu,
sao cho mau đến Vương Triều,
Ý Cha thể hiện phong nhiêu đất
trời.
Xin Cha lương
thực hằng ngày,
cho bao cuộc
sống tương lai tươi màu.
cuộc đời chớ để
hư hao,
vì bao cám dỗ
thét gào con tim.
Cha ơi, cứu vớt
chúng sinh,
khỏi bao sự dữ nhận chìm bể
dâu.
Vì tình yêu Chúa nhiệm mầu,
xin tha tội lỗi ngập đầu chúng
con.
thánh ân mở rộng tâm hồn,
bài ca đức ái dập dồn bốn
phương.
Cha là mạch
suối trào tuôn
Tình Yêu dào
dạt tận nguồn thiên ân.
vân thanh |
VỀ MỤC LỤC |
|
GIAI ĐOẠN CHỦNG VIỆN ĐÀO TẠO VÀ TỰ ĐÀO TẠO THIÊNG LIÊNG |
ĐÀO TẠO VÀ TỰ ĐÀO
TẠO THIÊNG LIÊNG CỦA CÁC LINH MỤC TƯƠNG LAI
TRONG BỐI CẢNH
VIỆT NAM HÔM NAY
Nguyên bản tiếng
Anh Lm.
Micae-Phaolô TRẦN MINH HUY
Bản dịch Việt
ngữ Lm.
Vincentê Trần Minh Thực, Lm. GB. Nguyễn văn Hào
CHƯƠNG IX
GIAI ĐOẠN CHỦNG VIỆN ĐÀO TẠO VÀ TỰ ĐÀO TẠO THIÊNG LIÊNG
E. Cơ Cấu Của Việc Đào Tạo Thiêng Liêng
1. Việc Đào Tạo và Toà Trong/Toà Ngoài335
a. Định Nghĩa Từ Ngữ
“Toà” là một từ gốc Latinh và là
một thuật ngữ luật pháp, có nghĩa là một nơi công cộng mà ở đó sự
công bằng được xác lập. Trong quá khứ, người ta phân biệt toà trong
như nơi phán xử lương tâm của một người và toà ngoài như toà án của
người đời, chẳng hạn như chính quyền hay công an. Trong việc biện
phân ơn gọi, toà được quan niệm như “quyền” phê phán ơn gọi của một
chủng sinh hướng tới chức linh mục. Ở đây cũng có hai mức độ, toà
ngoài và toà trong, nhưng đối tượng của phê phán không hoàn toàn như
nhau, tùy theo từng toà.
b. Toà Trong
Khi nói về toà trong, người ta
có ý nói về việc phán xét trong lương tâm của chủng sinh. Anh quyết
định tự trình diện với Hội Thánh để trở thành một linh mục, vì anh
cảm thấy được Chúa gọi. Chính anh phân định ơn gọi của anh, dưới sự
hướng dẫn của vị linh hướng. Việc này theo sau một thời gian suy
nghĩ chín chắn, từ đó, theo sự phán đoán của chính mình, anh đánh
giá rằng anh có khả năng phục vụ Hội Thánh như linh mục. Việc suy
nghĩ này được tiến hành dưới hình thức một phân định thiêng liêng về
thực tại khách quan của tác vụ linh mục và thực tại chủ quan của lời
mời gọi cá nhân và duy nhất của anh, qua đối thoại với một vị linh
hướng. Chính với vị linh hướng mà việc phân định ơn gọi được hoàn
tất.
Mặc dù toà trong là lương tâm của
chủng sinh, nhưng không có nghĩa là vị linh hướng không có vai trò
gì trong tiến trình này. Thường thường vị linh hướng đi vào trong
tiến trình này bằng cách cống hiến ý kiến riêng làm sao ngài kinh
nghiệm rằng chủng sinh ấy được Chúa gọi. Vị linh hướng có lý mạnh để
can thiệp, nếu ngài cảm thấy người thụ hướng đang làm một lầm lỗi
nghiêm trọng. Nhưng trong mọi trường hợp, chủng sinh không thể được
bảo phải làm gì, ngoại trừ khẳng định rằng đó là đánh giá, phán
đoán, và quyết định của anh. Sự hiện hữu của tòa trong vẫn cần thiết
trong nhiều con đường Chúa gọi một con người. Quả vậy, tòa trong là
nơi một chủng sinh nắm lấy tiếng gọi, một cách nội tâm và tự do, qua
bất cứ con đường nào mà lời mời gọi ấy đạt tới anh.
c. Toà Ngoài
Toà ngoài là quyết định và phê
phán của người khác hơn là của chủng sinh. Trong trường hợp đánh
giá một thanh niên có thích hợp với chức linh mục hay không, trách
nhiệm cao nhất thuộc về Giám Mục. Trách nhiệm này thường được ngài
uỷ cho những người thích hợp. Tại Việt Nam, đó là những thành viên
thuộc hội đồng chủng viện. Hội đồng này phải phán quyết một thanh
niên có thích hợp hay không để trở thành linh mục. Trong tiến trình
đánh giá cuối cùng, hội đồng sẽ giới thiệu ứng viên lên Giám Mục xin
ngài phong chức.
2. Tiến Trình và Sự Tương Tác Giữa Hai Tòa
a. Khác Biệt Nhưng Bổ Túc Cho Nhau
Toà trong đóng vai trò bổ túc,
nhưng lại hoàn toàn khác biệt với toà ngoài. Thật vậy, điều mà vị
linh hướng khám phá về chủng sinh ở toà trong sẽ không được tiết lộ
ra ở toà ngoài. Dữ kiện này có cùng một qui chế như của toà giải
tội.336 Điều này không chỉ để bảo vệ chủng sinh, mà còn cống hiến
cho anh sự tín nhiệm và tin tưởng rằng điều gì anh đã bộc lộ ở tòa
trong vẫn được giữ kín.
Trong quá trình phân định ơn gọi, mối
quan tâm của cả hai người, chủng sinh và vị linh hướng, là lợi ích
của Hội Thánh. Chủng sinh không tìm phân định ý riêng hay ước vọng
cá nhân của mình. Đúng hơn, anh tìm khám phá ý muốn của Chúa cho
anh, bằng cách phân tích các khả năng và động lực của anh đối với
những kỳ vọng và nhu cầu của Hội Thánh. Do đó, ở toà trong, vị linh
hướng không chỉ là người thụ động lắng nghe, song ngài phải sẵn lòng
và có khả năng thách đố và đối đầu, khi sự việc đòi hỏi, để giúp
chủng sinh trải qua một tiến trình phân định ơn gọi đích thực.
Thông thường ở toà ngoài, vị Giám đốc
chủng viện có trách nhiệm hàng đầu trong việc đánh giá tính thích
hợp hay không của chủng sinh với chức linh mục. Vì thế, ngài không
thể đóng một vai trò nào ở toà trong. Sự hiểu biết có được về chủng
sinh ở toà ngoài đều do nhận xét của nhiều nhà đào tạo. Vì toà ngoài
không trực tiếp nghiên cứu sâu vào nội tâm của chủng sinh, nên sự
hiểu biết có được thường có một mức độ chắc chắn khác và ít hơn sự
chắc chắn có được ở tòa trong.
Một câu hỏi căn bản là: Người này có
được Chúa kêu gọi không? Tất cả các nhận xét đều nhằm trả lời câu
hỏi này. Trong khi tìm trả lời câu hỏi này, các nhà đào tạo sẽ thừa
nhận với tất cả khiêm tốn rằng Chúa kêu gọi người yếu đuối để làm
xấu hổ kẻ hùng mạnh! (x. 1Cr 1, 26-29). Không phải Giáo Hội kêu gọi
ứng sinh, nhưng là chính Thiên Chúa. Vai trò của Giáo Hội là đánh
giá lời kêu gọi ấy và rồi chấp nhận ứng sinh với vui mừng và tạ ơn
Thiên Chúa.
b. Thực Hành Chuyên Biệt
Vị linh hướng không bao giờ được
nói về những người ngài tháp tùng, không nói với hội đồng và cũng
chẳng nói riêng với ai ngoài hội đồng, không được lên tiếng để kết
án mà cũng chẳng được lên tiếng để bảo vệ: ngài phải im lặng khi hội
đồng nói về người thụ hướng của mình. Chỉ vị Bề Trên nói lại cho
chủng sinh ý kiến của hội đồng và đại diện cho hội đồng chủng viện
bên cạnh Giám Mục. Một cách rõ ràng, sự bảo mật này là bảo đảm cho
tự do nội tâm của chủng sinh. Nhưng vị linh hướng có thể nghe trong
hội đồng những quan điểm khác quan điểm của ngài về người thụ hướng
của ngài. Như thế, vị linh hướng có thể được thông tin về những yếu
tố khác, nhờ đó ngài sẽ phân định tốt hơn phán đoán của ngài và chọn
lựa sự giúp đỡ thích hợp mà ngài có thể mang lại cho người thụ hướng
của ngài.
Toà ngoài sẽ hình thành phán quyết
của mình về các chủng sinh từ sự hiểu biết trong việc tháp tùng hằng
ngày của tiến trình đào tạo, bởi vì cuộc sống hàng ngày mạc khải
trọn vẹn tất cả con người. Như thế, cả hai toà trong và toà ngoài
không đối nghịch nhau, nhưng bổ túc cho nhau để phục vụ một công
việc của Hội Thánh.
c. Khác Biệt
Rõ ràng vì có hai toà cùng trong
một tiến trình phân định ơn gọi, nên luôn có khả năng là kết quả
không đồng ý được với nhau.
Một đàng, có thể xảy ra là một người
đã tự trình diện với Giáo Hội như một người đã được kêu gọi, nhưng
anh lại nhận thấy rằng cảm thức được gọi của anh là sai lầm. Thế mà,
vị giám đốc và hội đồng có thể đã đi tới quyết định rằng người này
rất xứng đáng và có khả năng theo đuổi việc chuẩn bị chịu chức linh
mục. Trong trường hợp này, vị giám đốc và hội đồng chỉ có thể chấp
nhận sự chân thành trong nhận định mới của người đó, tin tưởng rằng
Chúa sẽ sử dụng anh cách tốt lành cho lợi ích của Giáo Hội.
Trường hợp khác biệt thứ hai không dễ
giải quyết. Đó là trường hợp khi vị giám đốc và hội đồng đều đồng ý
rằng, trong thời gian này, không nên cho chủng sinh này tiếp tục ở
trong chủng viện nữa, trong khi đó anh ta lại xác tín rằng anh được
Chúa kêu gọi làm linh mục. Tiến trình phân định ơn gọi và những
quyết định của chủng sinh này không thể phủ nhận. Tuy nhiên, căn bản
của quyết định tòa ngoài phải được giải thích cho ứng sinh, để anh
có thể cố gắng hiểu và chấp nhận quyết định đã được đưa ra ở tòa
ngoài.
Tòa ngoài có thể đồng ý rằng chủng
sinh này có một đặc tính, hay một thái độ có thể làm thiệt hại việc
anh thực thi phận vụ với tư cách linh mục, nhưng có thể sửa chữa
được. Trong trường hợp này, nên yêu cầu ứng sinh rời khỏi chủng viện
và ra sống ở ngoài chủng viện cho tới khi vấn đề đã được sửa chữa.
Như thế, cánh cửa chủng viện không hoàn toàn đóng lại đối với anh.
Anh được khuyến khích tiếp tục tương quan linh hướng, ngõ hầu khám
phá ra Chúa kêu gọi anh thế nào để phục vụ Hội Thánh Chúa và Dân
Người.
Thông thường hơn, toà ngoài đạt tới
một quyết định rằng người nọ quả thực không thích hợp để được chấp
nhận là ứng sinh linh mục. Chắc chắn điều đó phải được giải thích
cho anh cách tế nhị và tình cảm. Ở Việt Nam, quyết định rời khỏi
chủng viện chịu ảnh hưởng sâu xa bởi gia đình và áp lực của xã hội,
cũng như bởi cảm thức xấu hổ, ân nghĩa và tình bạn bè. Chủng viện
nên hướng dẫn anh làm một chọn lựa đúng đắn và giúp họ vượt qua các
khó khăn. Trong việc này, Giám Mục nên ủng hộ quyết định của chủng
viện.337
F. Những Tác Nhân Đào Tạo
1. Cộng Đoàn Giáo Dục
“Việc đào tạo linh mục được hiệu quả
nhất ở trong cộng đoàn, được hiểu như một mạng lưới hữu cơ của mối
tương quan liên nhân vị.”338 Vì thế, chủng viện phải được quan niệm
như một cộng đoàn giáo dục,339 nơi mà chủng sinh được hướng dẫn
“không chỉ tới chức linh mục, song còn khám phá và sống đời sống của
Chúa Giêsu.”340
Cộng đoàn giáo dục này gắn liền với
việc thực thi tập thể trách nhiệm của các nhà đào tạo trước tiên. Nó
cũng mời gọi các chủng sinh đảm nhận trách nhiệm hàng đầu của việc
đào tạo chính họ, và cộng tác vào việc đào tạo các bạn của họ, nhờ
đời sống chung của chủng viện.341 Yếu tố căn bản của việc đào tạo
linh mục là kiến tạo bầu khí kiên định, trước sau như một, thích hợp
cho việc phát triển tâm lý và thiêng liêng. Sự thật và tính đơn sơ
trong mối tương quan dẫn đến việc chỉ bảo lẫn nhau, chấp nhận lẫn
nhau, ý thức chung về lợi ích chung và niềm vui chung trong việc tìm
kiếm và phục vụ Chúa.
Những nhóm nhỏ cống hiến nhiều cơ hội
chia sẻ đức tin, kiểm điểm đời sống và kinh nghiệm cầu nguyện sẽ góp
phần làm phát triển cộng đoàn giáo dục ấy. Cộng đoàn giáo dục này
cũng mở ra với các cơ chế cộng đoàn của Giáo Hội địa phương, nơi mà
các ứng sinh sẽ lãnh nhận được kinh nghiệm mục vụ phục vụ đoàn chiên
Chúa. Những kinh nghiệm về Giáo Hội này lớn hơn kinh nghiệm mà cộng
đoàn chủng viện cống hiến cho họ. Các kinh nghiệm ấy sẽ đào tạo ý
thức mục vụ và tinh thần tông đồ của chủng sinh, đồng thời giúp họ
khám phá ra cách cụ thể tính cấp bách của việc loan báo Tin Mừng, ý
nghĩa và những đòi hỏi của cuộc đời họ, được trọn vẹn hiến dâng cho
việc phục vụ Dân Chúa. Nhưng những kinh nghiệm ấy chỉ sinh hoa kết
quả nhờ một suy tư thần học và tu đức được các nhà đào tạo tốt gợi
lên và hướng dẫn.342
2. Chính Ứng Sinh343
Việc đào tạo sẽ mất đi hiệu quả của
nó, nếu nó không bao hàm sự tham gia cá nhân của ứng sinh, nghĩa là
sự tự đào tạo của anh. Chính vì thế, Đức Gioan Phaolo II đã nhắc nhở
rằng chính ứng sinh là nhân tố cần thiết và không thể thay thế được
trong việc đào tạo của chính anh: “Tự đào tạo là tối quan trọng
trong tất cả mọi công cuộc đào tạo, kể cả đào tạo linh mục. Không ai
có thể thay thế chúng ta trong sự tự do có trách nhiệm mà chúng ta
có được như là những nhân vị độc đáo.”344
Vâng, tự đào tạo là yếu tố quyết định
đưa tới thành công trong việc đào tạo thiêng liêng. Mặc dù Chúa
Thánh Thần là tác nhân tuyệt hảo trong việc đào tạo này, ứng sinh
phải hoàn toàn tự do đón nhận tác động định hình Ngài. Cũng thế,
hoạt động của các nhà đào tạo khác nhau sẽ chỉ “trở nên thực sự và
đầy đủ hiệu quả, nếu ứng sinh này cống hiến sự cộng tác chân thành
và xác tín của chính anh vào công cuộc đào tạo này.”345
Quan niệm Á Châu “không thầy đố mầy
làm nên” ngày này đã được thay đổi: nếu không có sự thực hành của
trò thì những giáo điều và lý thuyết của thầy chỉ là những lời hoa
mỹ thôi. Điều rất quan trọng là việc đào tạo phải cung cấp cho ứng
sinh cách suy nghĩ mới, cách sống mới, cách hành động mới, cách yêu
thương mới và cách làm chứng mới cho Tin Mừng. Nhưng điều còn quan
trọng hơn nữa là việc tự đào tạo này phải đem sự hiểu biết hữu ích
đó ra thực hiện. Sự cộng tác chặt chẽ giữa hai phía, đào tạo và tự
đào tạo, là điều kiện tiên quyết cho mọi thành công, và dĩ nhiên với
ơn Chúa nữa. Vì thế, Pastores Dabo Vobis đòi hỏi: “Các ứng sinh linh
mục phải hết sức ý thức chuẩn bị chính mình để đón nhận ơn Chúa và
đem ra thực hành, biết rằng Giáo Hội và thế giới đang rất cần đến
họ.346
3. Các Nhà Đào Tạo347
a. Chúa Giêsu, Gương Mẫu Của Nhà Đào Tạo
Để đồng hành với chủng sinh và
giúp họ trở nên linh mục đích thực, các nhà đào tạo phải là những
người đầu tiên bước theo mẫu gương hoàn hảo là Chúa Giêsu, Đấng đã
dạy dỗ với ví dụ cụ thể bằng cách rửa chân cho các môn đệ (x. Ga
13,12-15). Ngài yêu thương họ và đối xử với họ như bạn hữu. Ngài
sống với họ và đồng hành với họ trên hành trình trưởng thành đức tin
và thiêng liêng bằng tình yêu thương, kiên nhẫn, săn sóc, và sự
tận tâm của Ngài. Ngài biết rõ họ từng người một: tính tình, phẩm
chất và những điểm yếu của họ. Ngài bao dung trước sự yếu đuối,
khuyết điểm, những tham vọng trần thế, cứng đầu cứng cổ, yếu lòng
tin và chậm hiểu mầu nhiệm Nước Trời của họ, và Ngài kiên nhẫn chờ
đợi sự giáo dục bổ túc của Chúa Thánh Thần cho họ (x. Ga 16,12).
Ngài cầu nguyện cho họ và trao họ cho Cha trên trời gìn giữ và bảo
vệ (x. Ga 17,15).
Vâng, không ai có thể cho điều mình
không có. Để đào tạo chủng sinh trở thành linh mục, các nhà đào tạo
phải luôn qui chiếu về Chúa Giêsu và trở nên đồng hình đồng dạng với
Chúa Giêsu là mẫu gương vĩnh cửu của mọi linh mục, hôm qua, hôm nay
và mãi mãi.348 Họ phải trở nên những chứng nhân đích thực của Chúa
Giêsu, đôi khi cả chứng tá câm nín bằng cuộc sống. Những ai dấn thân
vào công cuộc đào tạo, nhất là đào tạo thiêng liêng, phải được liên
tục cập nhật và đào tạo. Sự hiện diện đồng hành và chứng tá của các
nhà đào tạo phải được gia tăng vì lợi ích của chủng sinh. Các ngài
nên tỏ lòng yêu thương hơn đối với họ, như các bậc cha mẹ vốn làm
khi nuôi lớn con cái, trong vai trò cố vấn hay hướng dẫn vì sự phát
triển toàn diện của họ.
b. Vai Trò và Sự Hiệp Nhất của Đội Ngũ Đào
Tạo
Đội ngũ đào tạo phải thực hiện
thực hành trách nhiệm tập thể, cùng với sự cộng tác của các ứng
sinh, của hàng giáo sĩ giáo phận, và của các thành viên khác của
cộng đoàn Kitô, vì sự phát triển toàn diện của các ứng sinh linh
mục. Những Chỉ Dẫn Liên Quan Việc Chuẩn Bị Các Nhà Đào Tạo Chủng
Viện quả quyết rằng việc chọn lựa và đào tạo các nhà giáo dục, ngay
cả khi họ rất giỏi, là “không đủ, nếu họ không có khả năng thiết lập
‘đội ngũ giảng dạy’ thực sự và thích hợp, mà mọi thành viên đều hợp
nhất tinh thần và cộng tác huynh đệ.”349 Họ phải cùng với các ứng
sinh xây dựng một cộng đoàn giáo dục bằng việc chia sẻ đời sống và
đối thoại chân thành.
Cộng đoàn giáo dục này cho phép sự
đồng trách nhiệm, đối chất khi cần thiết, phân định và đánh giá tốt
hơn các ơn gọi, qua việc tiếp xúc cá nhân, gương sáng và linh hướng
đều đặn. Việc tham dự các cuộc họp của hội đồng chủng viện biểu lộ
rõ nét trách nhiệm tập thể này.350 Tất cả các nhà đào tạo làm việc
chung với nhau dưới sự lãnh đạo của vị giám đốc, bắt nhịp với những
thực tại của Giáo Hội và của thế giới.
Các ngài phải đào sâu các nguyên tắc
của đời sống thiêng liêng và sự hiểu biết tâm lý cần thiết cho vai
trò hướng dẫn và cố vấn. Tự do thiêng liêng của ứng sinh là một mối
quan tâm lớn hơn, được nhấn mạnh bởi một sự phân biệt rõ ràng về
trách nhiệm giữa toà trong và toà ngoài. Sự hiệp nhất với Chúa Kitô
là khuôn mẫu của việc thống nhất đời sống của các ngài và những khía
cạnh đào tạo khác nhau (nhân bản, thiêng liêng, tri thức, cộng đoàn
và mục vụ). Các ngài nên làm cho chính mình trở nên dễ dàng cho
những ai đến với các ngài để xưng tội và linh hướng. Vai trò quan
trọng nhất của các ngài là đào tạo nơi chủng sinh lòng quí trọng và
yêu thích sự thật, óc phê bình thực sự với sự sáng suốt, quân bình
và khiêm tốn.
Các ngài phải phát huy khả năng giảng
dạy và cập nhật hoá kiến thức của mình bằng việc cải tiến phương
pháp, cùng thực hiện những cập nhật cần thiết đối với những nhu cầu
hiện tại của Giáo Hội, giữa một thế giới đang đổi thay nhanh chóng,
trong sự trung thành với Mạc Khải và Huấn Quyền.
c. Cần Những Nhà Đào Tạo Có Phẩm Chất
Phẩm chất và đức tính của các nhà
đạo tạo là hết sức quan trọng. Họ phải là những con người của đời
sống cầu nguyện sâu xa, khiêm tốn và khôn ngoan. Họ cần “được tuyển
chọn giữa những người ưu tú, được chuẩn bị kỹ lưỡng bởi một nền giáo
lý vững chắc, một kinh nghiệm mục vụ thích hợp, được huấn luyện đặc
biệt về thiêng liêng và sư phạm.”351
Đức Gioan Phaolô II đã ký thác cho
các Giám Mục “trách nhiệm nặng nề đào tạo những người sẽ được giao
phó nhiệm vụ giáo dục các linh mục tương lai.”352 Ngài còn căn dặn
rằng “họ cần nhận được một đào tạo chuyên biệt chú trọng về linh đạo
linh mục, nghệ thuật linh hướng, và những khía cạnh khác của nhiệm
vụ khó khăn và tế nhị đang chờ đợi họ trong việc giáo dục các linh
mục tương lai.”353
4. Vị Linh Hướng
a. Vai Trò Thiết Yếu của Chúa Thánh Thần
Chúa Thánh Thần luôn hoạt động
trong Hội Thánh, trong thế giới và trong từng con người. Mỗi người
phải để cho Chúa Thánh Thần hướng dẫn và nắn đúc con tim, tình cảm
và đời sống nội tâm của mình ngõ hầu sống giống như Đức Giêsu
Nagiaret đã sống: là sự kéo dài của Đức Giêsu trong lịch sử và hoàn
toàn hiến mình cho Thiên Chúa như của lễ toàn thiêu.354 Sức mạnh của
Chúa Thánh Thần luôn luôn “có đó để soi sáng, tăng sức và hoàn thiện
sứ vụ của chúng ta.” 355
Đào tạo thiêng liêng là công việc của
Chúa Thánh Thần và Ngài là vị linh hướng đích thực. Vị linh hướng
chỉ là dụng cụ của Chúa Thánh Thần: vị linh hướng hướng dẫn chủng
sinh, nhưng chính ngài cũng được hướng dẫn bởi Chúa Thánh Thần và vị
đồng hành thiêng liêng của ngài. Chỉ có Chúa Thánh Thần mới biết đầy
đủ và có thể biến đổi một con người: “Bất cứ sự thay đổi đích thực
và bền lâu nào cũng đều chỉ đến từ Chúa Thánh Thần, Đấng hoạt động
trực tiếp trên dân chúng và trong mọi hoàn cảnh.”356 Ngài sẽ soi
sáng cho chúng ta vào lúc thích hợp những gì phải nói và nói thế nào
(x. Mt 10,19-20). Nhưng, “một thừa tác viên được hướng dẫn tốt của
Chúa (họ có thể là giáo sĩ, tu sĩ hoặc giáo dân), sẽ hướng dẫn người
khác cách hữu hiệu trong hành trình thiêng liêng.”357 Nếu vị linh
hướng luôn luôn “ngoan ngoãn vâng theo những linh hứng của Chúa
Thánh Thần,”358 người có thể làm việc cùng với Ngài: “Thánh Thần và
chúng tôi” (Cv 15,28).
b. Vai Trò Quan Trọng của Vị Linh Hướng
Các vị linh hướng phải là những
người có khả năng hiểu được hoạt động của Thánh Thần Thiên Chúa nơi
những người thụ hướng và giúp họ “phân định các đường lối Chúa.”359
Họ phải là những chứng nhân bằng chính con người và toàn bộ đời sống
đức tin - nhân bản của họ để người được đào tạo lắng nghe và tuân
giữ.360 Họ phải khơi dậy lòng tín nhiệm nơi người thụ hướng bởi thái
độ đón tiếp niềm nở và chân thành, đồng thời nuôi dưỡng một tinh
thần tin cậy nhờ sự cẩn mật của họ, có thế thì những người thụ hướng
mới có thể tự do nói lên những trăn trở riêng tư, đặc biệt trong
lãnh vực giới tính.
Các vị linh hướng phải cập nhật các
kỹ năng linh hướng, những hiểu biết về tâm sinh lý, khả năng tư vấn
và các đề tài thích hợp khác để có thể nâng cao chuyên môn của mình:
“những khám phá của khoa tâm lý học, những gợi ý từ y học hiện đại
và những điều tra về xã hội học, được áp dụng vào bối cảnh nền tảng
của con người, đều rất hữu ích.”361 Họ có thể rút ra được một chương
trình linh hướng có hệ thống và dễ hiểu qua con đường trao đổi với
các đồng nghiệp. Họ nên tham dự các khoá bồi dưỡng định kỳ dành cho
các vị linh hướng, cả hai hạng, vừa huấn luyện các vị linh hướng
mới, vừa cập nhật hoá cho các vị linh hướng cũ, nhờ đó khả năng của
họ có thể tiến bộ liên tục hầu đáp ứng nhu cầu của người thụ hướng.
Thật là lợi ích khi thỉnh thoảng có cuộc tĩnh tâm dành riêng cho các
vị linh hướng thuộc các chủng viện khác nhau.362
c. Nguyên Tắc Khi Cần Thay Đổi Vị Linh Hướng
Có thể xảy ra trường hợp thiếu
hoặc mất tín nhiệm, thì “việc đổi linh hướng là luôn có thể và đôi
khi đáng ao ước nữa.”363 Chủng sinh có thể đề nghị trước. Đôi khi,
vị linh hướng sẽ yêu cầu chủng sinh đi linh hướng với người khác,
bởi vì ngài nghĩ rằng ngài sẽ không thể tiếp tục trách nhiệm
nữa.”364
Vì lợi ích của người thụ hướng, những
nguyên tắc sau đây giúp anh phân định xem có nên hay không tiếp tục
gặp một vị linh hướng cá biệt. Anh thẳng thắn xem xét các động lực
khiến anh muốn thay đổi vị linh hướng của anh: Có phải do mâu thuẫn
cá nhân không? Có phải anh muốn thoát khỏi bị thách đố? Có phải anh
đang phóng chiếu những đức tính tiêu cực như hách dịch, vô cảm,
thiếu thông cảm và hiểu biết lên vị linh hướng của anh ? Có những
mong đợi không thực tiễn chăng? Có phải vì vị linh hướng từ chối
cung cấp thêm ảo tưởng của anh ? Anh cần tranh luận với vị linh
hướng về những khó khăn mà anh đang trải nghiệm trong giao tế? Anh
có tiếp tục nhận được ích lợi thiêng liêng từ việc hướng dẫn này
không? Có vị linh hướng khác mà anh bị lôi cuốn chăng? Đâu là những
lý do?
Người thụ hướng cần phải có đủ thời
gian để suy nghĩ về toàn bộ vấn đề trước khi đưa ra một quyết định.
Anh không nên vội vả, nhưng nên bàn hỏi vấn đề này với một người
trung lập. Có phải đó là sự chấm dứt tự nhiên, vì sự hướng dẫn tìm
kiếm đã được thực hiện? Liệu đây có phải là thời gian để thay đổi vì
hoàn cảnh của người thụ hướng hay của vị linh hướng, hoặc của cả
hai?: thay đổi sự bổ nhiệm, chuyển sang giai đoạn huấn luyện khác?
Hay còn những việc khác xem ra gặp phải trên đường tương quan linh
hướng như: thời gian, lòng tín nhiệm, hấp dẫn giới tính, đổ vở giá
trị?365
5. Vị Giám Đốc và Hội Đồng
Ratio Fundamentalis Institutionis
Sacerdotalis khuyên Giám Mục bổ nhiệm vị giám đốc “sau khi tham khảo
cẩn thận.”366 Như là trung tâm của chủng viện, vị giám đốc phải là
mẫu mực đức tin và bác ái trong sứ vụ và đời sống linh mục, với một
viễn ảnh rõ ràng về Giáo Hội của tương lai. Ngài phải được cập nhật
cách triệt để và quen thuộc với những văn kiện của Giáo Hội liên
quan tới việc đào tạo linh mục. Ngài cũng phải rõ ràng về khoa Giáo
hội học của Giáo Hội và có khả năng xây dựng một đội ngũ đào tạo
hiệp nhất và làm việc cho một viễn ảnh chung của chủng viện. Ngài
phải vô tư, không thiên vị và có thể đưa ra những quyết định đúng
đắn và công bằng.
Ngài cũng nên liên kêt với các vị
giám đốc và các nhà đào tạo thuộc các chủng viện khác ở Việt Nam
cũng như ở các nước Á châu, trong tinh thần của một cuộc trao đổi
huynh đệ và hiệu quả. Ngài cần can đảm và thận trọng trong việc
tuyển chọn các ứng sinh, lúc chiêu sinh cũng như trong thời gian đào
tạo, nhấn mạnh đến chất lượng hơn số lượng. Ngài nên có một sự hiện
diện hữu hiệu trong chủng viện. Sự chia sẻ đời sống hằng ngày trong
chủng viện, tính đều đặn và gương sáng của ngài là hết sức quan
trọng đối với chủng sinh. Ngài nên soạn thảo một chương trình cho
các linh mục mới chịu chức trong vòng năm năm đầu tiên sau khi thụ
phong, với sự chấp thuận và giúp đỡ của Giám Mục.367
6. Nhóm Nhỏ Các Bạn Đồng Môn
Ngày nay người ta nhấn mạnh nhiều đến
tính năng động của nhóm đào tạo. Dưới Ban Giám Đốc, một Ban Đại
Diện, được anh em bạn bầu lên, tham gia vào việc điều hành chủng
viện. Cộng đoàn chủng viện được phân chia thành nhiều nhóm nhỏ, nhằm
thăng tiến việc làm việc nhóm và đời sống cộng đoàn.368
Các nhóm nhỏ chủng sinh được hình
thành theo các trình độ khác nhau hoặc theo năm đào tạo. Một người
trong ban đào tạo được chỉ định làm linh hoạt viên của nhóm, để duy
trì thế quân bình giữa đời sống cấp nhóm và đời sống cấp chủng viện.
Phải nhắm đến cả hai, các cá nhân và nhóm, như một toàn thể, ngõ hầu
bảo đảm được sự trưởng thành của cả hai, cá nhân và tập thể.
Đời sống trong nhóm gồm có những lúc
cầu nguyện, gặp gỡ hàng tuần về một đề tài thuộc đời sống thiêng
liêng (chia sẻ đức tin), những giờ giải trí, các hoạt động mục vụ,
trách nhiệm phụng vụ và các dịch vụ hàng ngày.369 “Sự tương tác
trong những nhóm như thế giúp phát triển sự tin tưởng lẫn nhau,
truyền thông và chia sẻ, góp phần xây dựng một cộng đoàn đúng
nghĩa.”370
Nhóm nhỏ này có thể trở thành một
nhóm bạn thân có thể dễ dàng thực hành việc “chỉ bảo huynh đệ.”371
Thường người ta không dám sửa lỗi người khác, phần vì con người ai
cũng yếu đuối và bất toàn, phần vì tế nhị hay sợ phản ứng tiêu cực
từ phía người kia, hay ít nhất để tránh hiểu lầm nhau, mâu thuẫn và
xung đột có thể có. Vậy, cách tốt hơn và dễ hơn là mọi người đồng ý
thỏa thuận với nhau rằng “nếu một người trong nhóm thấy người khác
có lỗi, thì người này sẽ nói với người đó về lỗi ấy.”
Trong bối cảnh cuộc gặp gỡ hàng tuần
chia sẻ Phúc Âm và kiểm điểm đời sống, mỗi người có thể góp ý phản
hồi cho người khác và giúp nhau tiến bộ hơn trong tiến trình đào tạo
chủng viện và tự đào tạo, hy vọng tiến tới “tình huynh đệ bí tích”
của chức linh mục (x.Tv 133, 1). Tiến trình này đòi hỏi phải có ý
ngay lành, sự sẵn sàng để thay đổi, lòng can đảm, tình bác ái, và
nhất là ơn Chúa.
Trong cấp độ đời sống nhóm này, mỗi
người phải học biết chăm chú lắng nghe và cho người khác ý kiến phản
hồi cách thích hợp. Mỗi người cũng phải học biết chấp nhận chính
mình và chấp nhận người khác: càng biết nhìn nhận lỗi lầm, thiếu
sót, giới hạn, yếu đuối và bất lực của mình, ta càng trở nên khiêm
tốn hơn; càng biết chấp nhận những bất lợi đó của người khác, ta
càng trở nên độ lượng và cảm thông hơn.
Đời sống nhóm giúp mỗi thành viên
khám phá và phát triển những tài năng, tài năng tự nhiên và tài năng
đạt được từ kinh nghiệm cuộc sống. Mọi người đều được Thiên Chúa kêu
gọi và trao cho một số ân huệ để mở rộng Nước Thiên Chúa. Mỗi người
có trách nhiệm tìm biết và phát triển những ân huệ ấy. Chẳng ai sở
hữu được mọi ân huệ của Thiên Chúa, nhưng những ân huệ cần thiết cho
sứ mạng luôn hiện diện trong cộng đoàn, và cộng đoàn là nơi cần
thiết để nhận ra các ân huệ của mỗi thành viên (x. 1Cr 12-14).
Tuy nhiên, nhiều khi người ta phải
chịu đựng những khó khăn và xung đột do ý niệm sai lầm hoặc đặt
không đúng chỗ đức khiêm nhường, sợ hãi, ghen tị hay thèm muốn ân
huệ của người khác (x. Gal 5,26). Nếu biết chú ý tới những khác biệt
của tha nhân, đánh giá sự độc đáo của người khác với sự hiểu biết
tích cực, coi những xung đột chỉ là một phần cần thiết trong tiến
trình sáng tạo, chứ không phải là vấn đề, thì mọi sự sẽ được giải
quyết, cộng đoàn sẽ tiến triển tốt đẹp,372 và sứ mạng loan báo Tin
Mừng của Hội Thánh sẽ được hiệu quả hơn (Gal 6,2).
7. Môi Trường Thực Tập Mục Vụ
“Bổn phận nuôi dưỡng các ơn gọi thuộc
về toàn thể cộng đồng kitô.”373 Do đó, “toàn thể Dân Chúa phải cầu
nguyện và làm việc không mệt mõi cho các ơn gọi linh mục.”374 Giáo
xứ nhà quê của chủng sinh hay giáo xứ mà chủng sinh được gửi tới
giúp theo chương trình kỳ hè hoặc thực tập mục vụ là môi trường cần
thiết và lý tưởng để mở rộng việc tự đào tạo của chủng sinh, cũng
như việc đào tạo linh mục của Hội Thánh.
Trong suốt thời gian nghỉ ở môi
trường này, chủng sinh tham gia vào đời sống và sứ vụ của các linh
mục, được bao nhiêu tốt bấy nhiêu. Các ngài có cơ hội để biết, làm
việc với và trở nên một phần trong việc đào tạo chủng sinh, mà một
ngày kia họ sẽ hội nhập với các ngài trong sứ vụ linh mục. Môi
trường này sẽ cung ứng cho chủng sinh nhiều cơ hội thuận lợi:
* Anh được kinh nghiệm và tham dự vào sứ vụ
giáo xứ;
* Anh sẽ phát triển đời sống cầu nguyện của
anh ngay trong bối cảnh đời sống giáo xứ, vì đó sẽ là cuộc sống thực
sự của anh sau này;
* Anh sẽ học hỏi với cha xứ mà anh đang sống
với ngài như người tập sự;
* Anh được làm quen với nhiều giáo xứ khác
nhau trong Giáo phận;
* Anh đem những gì đã học và kinh nghiệm
trong chủng viện vào hành động, trong những hoàn cảnh thực tế;
* Anh kinh nghiệm được cuộc sống nhà xứ.375
Chương trình đào tạo linh mục tại các
chủng viện Việt Nam bao gồm một hoặc hai năm thực tập mục vụ tại
giáo xứ. Việc thực tập mục vụ này tùy theo yêu cầu của chủng viện và
nhu cầu của giáo phận.376 Ngoài ra, việc thực tập mục vụ này mang
lại những lợi ích sau:
* Sự hiện diện hữu hình của các chủng sinh ở
trong giáo xứ sẽ thăng tiến việc phát triển các ơn gọi;
* Qua việc phục vụ và cộng tác với giáo dân,
chủng sinh có thể học được nơi họ rất nhiều điều: “học biết giáo dân
chiến đấu và sống thế nào là một chuẩn bị tuyệt vời cho sứ vụ của
anh sau này.”377
Sau sáu mươi sáu năm tuổi đời và ba
mươi bốn năm làm linh mục, người viết nhận thấy rằng có sự tương tác
rất hữu ích giữa giáo sĩ và giáo dân, và người được trợ giúp, nâng
đỡ và đào luyện rất nhiều bởi các giáo dân được trao phó cho người
chăm sóc mục vụ. Thật vậy, nếu chúng ta hỏi ý kiến giáo dân và lắng
nghe ý kiến phản hồi của họ, chúng ta sẽ biết thực hiện làm sao các
thay đổi cần thiết trong đời sống và sứ vụ của mình, đồng thời biết
làm sao đáp ứng thực sự nhu cầu của giáo dân.” 378
Cha xứ (hoặc Văn phòng Ơn gọi của
Giáo phận) sẽ gửi về chủng viện một bản nhận xét góp thêm vào hồ sơ
đào tạo của chủng sinh. Đôi khi nếu các ngài chia sẽ với chủng sinh
sự đánh giá của các ngài trước khi gửi về chủng viện sẽ có ích hơn.
Vì nếu có gì sai hoặc hiểu lầm, chủng sinh có thể bàn cải hoặc giải
thích để vấn đề được giải quyết, thỏa mãn ích lợi đào tạo trong chân
lý và tình thương: “cây lau bị dập, Người không nỡ bẻ gãy, tim đèn
leo lét khói, Người không nỡ tắt đi. Ngài sẽ làm cho công lý xuất
hiện trong chân lý” (Is 42, 3).
còn tiếp
|
VỀ MỤC LỤC |
|
Giảm Thiểu Cảm-Cúm mùa Ðông |
Câu
Chuyện Thầy Lang
Bác sĩ
Nguyễn Ý Ðức
Cảm- Cúm, mà dân gian gọi
là “Bệnh Thời Khí”, thường xảy ra nhiều hơn vào những ngày
Ðông tuyết lạnh, mưa bay.
Cúm hoành hành từ tháng
11 tới tháng 3 dương lịch, đôi khi quyến luyến tới đầu Xuân.
Cảm Lạnh có quanh năm
nhưng cũng hay xuất hiện vào mùa lạnh. Trung bình mỗi người
mỗi năm có thể bị cảm lạnh ba, bốn lần.
Thời tiết lạnh không gây
ra Cảm Cúm, nhưng vào thời điểm này, có nhiều lễ hội nên
người ta thường gặp gỡ nhau và cũng vì mưa lạnh nên họ sống
ở trong nhà nhiều hơn, tạo cơ hội tốt cho Cảm Cúm lây lan.
Cảm-Cúm đều là bệnh của
cơ quan hô hấp và do virus gây ra. Virus khác với vi khuẩn
(bacteria).
Vi khuẩn là các sinh vật
có một tế bào, có thể tự nuôi dưỡng, tăng trưởng và tăng
sinh.
Virus là những hạt acid
nucleic chứa gen di truyền, bao bọc trong một cái vỏ bằng
chất đạm và chất béo. Các hạt này có thể tăng sinh nhưng
phải là ở trong tế bào sống của động vật hoặc thực vật.
Chúng cũng biến hình đổi dạng dễ dàng như Tề Thiên Ðại
Thánh: mỗi mùa cúm một loại virus, mỗi người bị cảm lạnh với
virus khác nhau.
Virus gây Cảm Lạnh có cả
trăm giống, vì vậy không có thuốc chích ngừa. Với Cúm thì
chỉ có dăm loại virus thay phiên nhau gây ra Cúm vào mỗi mùa
Ðông, nên hàng năm cần phải tiêm ngừa.
Kháng sinh có thể tiêu
diệt vi khuẩn nhưng không có tác dụng gì với virus.
Cảm Cúm là bệnh của cơ
quan hô hấp phía trên, ảnh hưởng tới niêm mạc của miệng,
mũi, cuống họng và phổi. Cảm-Cúm rất dễ lây lan. Ngay từ một
ngày trước khi có triệu chứng, người bệnh đã có thể truyền
virus cho người khác và tiếp tục truyền lan dăm ngày kế
tiếp.
Các dấu hiệu của Cảm Cúm
đôi khi trùng hợp nên khó mà biết khi nào bị Cúm, khi nào bị
Cảm. Sau đây là mấy điểm khác biệt để tiện bề so sánh:
Triệu chứng
Cảm Lạnh
Cúm
Nóng sốt |
Ít khi có |
Thường có |
Đau nhức |
Nhẹ thôi |
Thường có, nặng |
Ớn lạnh |
Ít có |
Thường có |
Mệt mỏi |
Nhẹ |
Từ nhẹ tới trầm trọng |
Xuất hiện |
Từ từ |
Khá nhanh, trong 2-3giờ |
Ho |
Ho ra đàm |
Ho khan |
Hắt hơi |
Thường có |
Ít khi có |
Nghẹt mũi |
Thường có |
Ít khi có |
Ðau cuống họng |
Thường có |
Ít khi có |
Nặng ngực |
Nhẹ tới vừa phải |
Thường rất nặng |
Nhức đầu |
Ít khi có |
Thường có |
Cảm Cúm thường tự hết
trong thời gian từ mười ngày tới hai tuần lễ, nếu không có
các biến chứng như viêm phế quản, sưng phổi. Chính những
biến chứng này mới khiến cho người bệnh phải nhập viện và
mới gây ra một số tử vong, đặc biệt là ở người tuổi cao, có
bệnh mãn tính.
Phòng ngừa Cúm hữu hiệu
nhất vẫn là tiêm ngừa. Cho tới hôm nay thì chắc là hầu hết
mọi người đều đã làm rồi. Nói hầu hết vì cũng có một số
người vì lý do này lý do khác hoặc quên chưa kịp chích, thì
nên đi chích ngay. Bây giờ mới tháng Giêng, Flu còn hoành
hành vài ba tháng nữa.
Cảm lạnh thì vẫn chưa có
vaccin ngừa. Cho nên để tránh bệnh, ta cần phải áp dụng các
phương thức phòng chống ngăn ngừa giống như với Cúm.
Virus Cảm Cúm có rất
nhiều trong mũi trong miệng người bệnh. Khi họ ho hoặc hắt
xì hơi là virus theo nhau bay ra không khí từng đàn. Chúng
sống trong không khí, bám trên bàn ghế, vật dụng người bệnh
dùng cả mấy tiếng đồng hồ, có khi cả vài ngày. Ðụng chạm vào
các vật này, hít phải không khí đó là nhiễm bệnh dễ dàng.
Nếu người bệnh lịch sự
đưa tay che miệng che mũi mỗi khi hắt hơi hoặc ho thì bàn
tay của họ sẽ phủ kín những virus Cảm, Cúm. Bàn tay đó cầm
chiếc điện thoại đưa cho người khác hoặc bắt tay đón tiếp
bạn bè là bạn bè lãnh đủ tác nhân gây bệnh.
Kết quả nghiên cứu của
Ðại học Y tế Virginia được công bố vào tháng 9 năm 2006 tại
Ðại hội Vi Trùng Học họp ở San Francisco, cho hay, bệnh nhân
bị cảm lạnh, rời khách sạn sau vài ngày trú ngụ, đều để lại
nhiều virus trên vật dụng trong phòng như điện thoại, nắm
cửa, nút điều chỉnh TV...Khách vãng lưu kế tiếp có thể dễ
dàng nhiễm bệnh, nếu sờ mó vào các vật dụng đó rồi đưa tay
lên dụi mắt, lau mũi..
Vì thế gìn giữ vệ sinh cá
nhân là điều cần ưu tiên áp dụng.
-Xin tạo ra thói quen
rửa tay mỗi khi thấy cần để có thể ngăn ngừa truyền
bệnh và nhận bệnh.
Theo kết quả quan sát của
Hội Vi Trùng Học Hoa Kỳ, thường thường người ta chỉ rửa tay
trước khi dọn cơm, ăn uống, sau khi đại tiểu tiện, thay tã
cho con...chứ ít ai rửa tay sau khi che miệng che mũi để ho
để hắt hơi. Nhất là ở người đang có Cảm Cúm ngự trị. Bàn tay
là yếu tố lớn trong việc lan truyền bệnh tật, nếu người bệnh
không che miệng mũi khi ho hoặc hắt hơi với khăn giấy dùng
một lần rồi vứt bỏ vào nơi không ai đụng chạm tới.
Vậy thì xin chịu khó rửa
tay mỗi khi thấy cần. Chỉ mười lăm giây đồng hồ xoa vò đôi
bàn tay trong nước ấm với chút xà bông là trăm phần trăm
công hiệu phòng chống lây lan Cúm Cảm. Có người gợi ý vừa
rửa tay vừa lẩm bẩm vui vẻ hát hết mấy câu của bài “Happy
Birthday To You”là vừa đủ sạch sẽ đôi bàn tay mà khỏi phải
nhìn đồng hồ...Ðây cũng là ý kiến hay hay, ngộ nghĩnh nên
theo.
Có thể lau tay với dung
dịch có chất cồn khi không có xà phòng.
- Người thân chẳng may bị
Cảm Cúm thì ai cũng sẵn lòng chăm sóc, thuốc thang. Nhưng
nên cẩn thận giữ gìn khi tiếp xúc. Chẳng nên chung chiếu
chung giường, bắt tay ôm hôn từ biệt. Mang khẩu trang khi
phải tới gần phục vụ người bệnh. Lau rửa vật dụng người bệnh
dùng, buồng tắm, cầu tiêu, bàn ghế với nước sát trùng mua
ngoài chợ hoặc pha một phần chất tẩy mầu sát trùng
(chlorox), mười phần nước lã là có dung dịch loại trừ virus.
- Tránh đưa bàn tay dù
ngà ngọc nhưng dính chùm virus Cảm Cúm lên mũi, lên miệng,
lên mắt.
- Khi bắt đầu thấy có dấu
hiệu Cảm Cúm thì nên ở nhà, vừa để nghỉ ngơi vừa để tránh
truyền lan bệnh cho bạn đồng sở, cho học sinh cùng trường.
Cảm Cúm lây lan mạnh nhất vào mấy ngày đầu sau khi nhiễm
bệnh.
Có bệnh là phải kiếm thầy
kiếm thuốc chữa trị.
Ngày xưa thì đi cúng đi
bái:
“Tôi lậy ông Cúm bà Co
Ông ở xứ Nghệ ông bò
sang đây
Khôn thiêng có mâm cỗ
này
Ông sơi cho sạch, ông
rày tha tôi”
Mâm cỗ gồm có một đĩa sôi
trắng, mấy miếng đậu phụ, một chén mắm tôm chanh ớt. Ấy vậy
mà cúng xong là bệnh nhân khỏi liền. Các cụ nói vậy.
Ngày nay, y khoa học tiến
bộ nên chẳng thiếu gì thuốc, từ thuốc tây đến thuốc ta,
thuốc mua theo toa bác sĩ, thuốc bán tự do.
Nhiều người tự động ra
tiệm mua thuốc về uống. Các thuốc này có thể giảm thiểu các
triệu chứng của Cảm-Cúm chứ không chuyên trị virus.
Thuốc gồm có mấy loại
như:
- Thuốc làm giảm đau nhức
vì viêm cuống họng, nhức đầu và để hạ nóng sốt. Các thuốc
thông thường là ibuprofen(Advil, Motrim), acetaminophen
(Tylenol), Naproxen (Aleve), aspirin.
- Thuốc chống triệu chứng
của dị ứng, giảm chẩy nước mắt nước mũi như diphenydramine,
chlorpheniramine.Thuốc thường gây ra khô miệng, cuống họng,
mũi, chóng mặt, khó chịu dạ dày, buồn nôn, nhức đầu, mờ mắt,
buồn ngủ...Không nên uống khi đang bị nghẹt mũi: Thuốc làm
chất nhờn trong mủi đặc lại và khó thoát ra ngoài.
- Thuốc thông đàm như
chất guaifenesin (Guaifed, Anti-Tuss, Dristan Cold and
Cough..), làm loãng đàm và chất nhờn ở hệ hộ hấp. Tác dụng
phụ của thuốc là ói mửa, tiêu chảy, khó chịu dạ dày, nhức
đầu, nổi ngứa trên da.
- Thuốc giảm ho với hoạt
chất thông thường dextromethorphan ( DimatappDM, Vicks 44
cough, Coricidin .). Thuốc khá an toàn và công hiệu nếu dùng
đúng theo hướng dẫn của bác sĩ hoặc nhà sản xuất. Ðôi khi,
sự lạm dụng thuốc có thể đưa tới ảnh hưởng xấu như chóng
mặt, nhìn một vật thành hai, gọng nói lơ lớ, đau bụng, tim
đập nhanh, mất định hướng, hoang tưởng...
- Thuốc chống nghẹt mũi
với hoạt chất chính pseudoephedrine ( Contact, Sudafed) hoặc
phenylephrine (sudafed PE), dưới dạng thuốc viên, xịt
mũi.Thuốc có tác dụng làm xẹp các mạch máu bị giãn sưng ở
trong mũi.
Thuốc có thể làm tim đập
nhanh, chóng mặt,hồi hộp, tính tình nóng nẩy, khó ngủ, tăng
huyết áp.Cần hỏi ý kiến bác sĩ trước khi dùng nếu có các
bệnh kinh niên như cao huyết áp, tiểu đường, bệnh tim, thận,
tuyến giáp, cao áp suất mắt hoặc tiểu tiện khó khăn vì nhiếp
tuyến sưng. Tránh thuốc có chất phenylpropanolamine vì thuốc
này gây tác dụng nguy hại cho tim, đã bị cấm bán.
Một dung dịch rẻ tiền,
khá công hiệu và sẵn có trong nhà để hết nghẹt mũi là pha
một chút muối ăn trong nước lã, nhỏ vài giọt là mũi thông
thoáng ngay.
Xúc miệng với dung dịch
muối ấm cũng làm nhẹ đau rát cuống họng.
Với các thuốc kể trên,
xin lưu ý mấy điểm:
- Thuốc Cảm Cúm có thể
chứa nhiều hoạt chất với tác dụng khác nhau, như là vừa
chống ho, vừa chống nghẹt mũi, sổ mũi.
- Lựa mua thuốc đúng với
triệu chứng bệnh của mình. Nếu chỉ sổ mũi, nghẹt mũi thì đâu
có cần phải uống loại thuốc để chữa ho.
- Ðọc kỹ nhãn hiệu, coi
thành phần hoạt chất trong thuốc, để tránh uống nhiều chất
thuốc một lúc. Chẳng hạn chất acetaminophen (Tylenol) có
trong nhiều chế phẩm chữa cảm cúm khác nhau. Nếu uống hai ba
thuốc có cùng hóa chất này thì mình đã tiêu thụ một lượng
quá lớn, có thể có tác dụng bất lợi.
- Với các cháu bé bị cảm
lạnh hoặc thủy đậu, không bao giờ cho uống thuốc giảm sốt
chống đau có chất aspirin. Chất này có thể gây ra hội chứng
Reye với hậu quả trầm trọng là tổn thương não bộ.
- Không nên dùng thuốc
xịt chống nghẹt mũi quá 3 ngày, để tránh tổn thương cho niêm
mạc của mũi cũng như nghẹt mũi gia tăng.
- Một vài loại thuốc cảm
cúm có thể làm cho các bệnh đang có trầm trọng hơn: thuốc
chống ngẹt mũi làm tim đập nhanh, huyết áp lên cao, thuốc
chống dị ứng gây ra chóng mặt, buồn ngủ ảnh hưởng tới việc
lái xe hơi.
- Ðể ý tới ngày hết hạn
dùng ghi trên chai thuốc.
Câu hỏi thường được nêu
ra là bị Cảm Cúm có cần đi bác sĩ để khám bệnh điều trị hay
không?
Bác sĩ chuyên khoa gia
đình Jerry Rogers, tiểu bang Minnesota, cho hay là các
bác sĩ ít khi điều trị Cảm Cúm, trừ khi bệnh nhân có các
biến chứng như viêm cuống phổi, sưng phổi, viêm tai,
viêm xoang do bội nhiễm vi khuẩn. Cảm Cúm thường thường
tự khỏi sau vài tuần lễ.
Nhiều người thấy bị cảm
cúm là vội vàng kiếm thuốc kháng sinh để uống. Nhưng xin nhớ
là thuốc kháng sinh không tiêu diệt được virus. Vì vậy, uống
kháng sinh không những vô ích, tốn tiền mà còn gây ra nhiều
hậu quả không tốt như tạo ra sự nhờn thuốc đối với một số vi
khuẩn, gây ra dị ứng, nhiễm khuẩn cơ quan sinh dục nữ, tiêu
chẩy, khó chịu bao tử.
Sau một tuần lễ mà bệnh
không thuyên giảm hoặc thấy đau ngực, nóng sốt cao, ho ra
đàm có mầu xám thì nên đi bác sĩ để được kiểm tra thêm. Có
thể là mình đã bị viêm sưng phổi và lúc này mới cần điều trị
với kháng sinh.
Cũng xin nhớ là:
- Ta không “bắt cảm lạnh”
(Catch a cold) vì nằm gần cửa sổ gió lùa.
- Không “bắt cảm lạnh”
khi ra ngoài trời với đầu tóc ướt.
- Không “bắt cảm lạnh” vì
thời thiết giảm nhiệt độ bất thình lình.
Các thuốc đặc nhiệm để
phòng ngừa và điều trị các virus cúm A và B là hai loại
thường gây ra bệnh Cúm, gồm có Tamiflu, Relenza, amantadine
và rimantadine. Thuốc có một số giới hạn như sau:
- Chỉ công hiệu nếu được
uống trong vòng hai ngày đầu sau khi có triệu chứng bệnh.
- Không làm bệnh bớt ngay
mà chỉ thu ngắn thời gian bị cúm khoảng một ngày.
- Không thay thế cho
vaccine tiêm ngừa cúm
- Không công hiệu với vi
khuẩn.
- Không loại trừ các biến
chứng của cúm như viêm phổi, viêm tai..
- Có một vài tác dụng phụ
như buồn nôn, khó chịu dạ dày...
Ngoài ra, trong thời gian
Cảm Cúm, nên:
- Nghỉ ngơi trên giường
vài ngày để thư giãn cơ bắp.
- Uống nhiều chất lỏng
như nước lã, nước cam, nước chanh, húp bát súp khoai tây cà
rốt hoặc cháo hoa hành tây nóng hổi...
- Gối đầu hơi cao để mũi
đỡ nghẹt.
- Hỉ mũi nhè nhẹ trong
khăn giấy mềm để loại bỏ chất nhờn
- Ðể máy phun hơi nước
(humidifier) trong phòng để không khí khỏi quá khô.
- Hít hơi ấm từ một bát
cháo nóng, một ly nước trà mới sôi hoặc tắm nước nóng để
giảm nghẹt mũi.
Theo kết quả của một số
nghiên cứu, uống sinh tố C với liều lượng lớn, dùng viên kẹo
ngậm có chất kẽm (zinc), ăn tỏi tươi.. có thể ngăn ngừa và
giảm thiểu bệnh trạng cũng như thời gian bị Cảm Cúm. Nhưng
các ý kiến này chưa được sự chấp nhận của các khoa học gia
vì chưa có bằng chứng rõ rệt.
Cũng trong mục đích giảm
thiểu Cảm Cúm, nên:
- Hàng ngày duy trì chế
độ dinh dưỡng đầy đủ, cân bằng hợp lý để đáp ứng nhu cẩu
năng lượng của cơ thể cũng như để tạo ra tính miễn dịch
mạnh, phòng chống bệnh tật. Nếu cần có thể dùng thêm vài
viên sinh tố, khoáng chất.
- Ngủ nghỉ đầy đủ. Mỗi
đêm cần ngủ khoảng 8 giờ. Thiếu ngủ làm suy yếu hệ miễn
nhiễm, mở đường cho bệnh hoạn.
- Vận động cơ thể đều
đặn.
- Bớt uống rượu, hút
thuốc và
- Bớt căng thẳng buồn bực
vu vơ trong đời sống.
Kết luận nghiên cứu vào
năm 2003 của Tiến sĩ Sheldon Cohen, Ðại học Carnegie Mellon,
Pennsylvania, cho hay: “Người nhiều sinh lực, yêu đời, thư
giãn đều tăng sức đề kháng của cơ thể, tăng miễn dịch tính
và ít bị cảm lạnh trong khi đó người hay cau có, buồn rầu,
nóng nẩy lại dễ dàng bị virus cảm viếng thăm”. .
Bác sĩ Vikki Burns, Ðại
Học Burmingham bên Anh cũng có cùng ý kiến: “Người có nhiều
căng thẳng trong đời sống đều có ít đáp ứng với vaccin ngừa
Cúm, do đó họ dễ bị bệnh”.
Vậy thì xin hãy cùng nhau
“Mỗi
ngày tôi chọn một niềm vui
Cùng với anh em tìm đến mọi người
Tôi chọn nơi này cùng nhau ca hát
Để thấy tiếng cười rộn rã bay xa”
-Trịnh Công Sơn.
Và nhớ rửa tay, khi thấy
cần!
Bác sĩ
Nguyễn Ý Ðức
Texas-Hoa Kỳ |
VỀ MỤC LỤC |
|
- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến,
bài vở..., xin gởi về địa chỉ
giaosivietnam@gmail.com
- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục
vụ của Giáo sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các
Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn
gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực
Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh
vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức
Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và
Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quí vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại
www.conggiaovietnam.net
Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị
Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã
sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác
nhau.
TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca
Phạm Quốc Sử
USA
|
|
*************
|
|