ĐÀO TẠO VÀ TỰ ĐÀO
TẠO THIÊNG LIÊNG CỦA CÁC LINH MỤC TƯƠNG LAI
TRONG BỐI CẢNH
VIỆT NAM HÔM NAY
Nguyên bản tiếng
Anh Lm.
Micae-Phaolô TRẦN MINH HUY
Bản dịch Việt
ngữ Lm.
Vincentê Trần Minh Thực, Lm. GB. Nguyễn văn Hào
CHƯƠNG IX
GIAI ĐOẠN CHỦNG VIỆN ĐÀO TẠO VÀ TỰ ĐÀO TẠO THIÊNG LIÊNG
A. Chương Trình Tổng Quát Trong Tiến Trình
Đào Tạo Của Chủng Viện.
Hầu hết các Đại Chủng Viện tại Việt
Nam đều chia chương trình đào tạo chủng viện làm hai giai đoạn.
Trước tiên là giai đoạn triết học, giai đoạn này kéo dài 2 năm hoặc
3 năm tuỳ theo mỗi chủng viện. Cuối giai đoạn triết học, chủng sinh
được đánh giá để có thể được gửi đi thực tập mục vụ tại mỗi giáo
phận.
Tiếp theo là giai đoạn thần học, giai
đoạn này cũng được chia làm hai nữa. Sau hai năm đầu giai đoạn thần
học, chủng sinh có thể được gửi tới một giáo xứ trong vòng một năm
để có được nhiều kinh nghiệm mục vụ của Linh mục. Việc phân chia
thời gian như thế này thuận tiện cho ba cuộc nhận định quan trọng về
chủng sinh. Nhận định thứ nhất xảy ra sau hai năm đầu giai đoạn
thần học. Nhận định thứ hai xảy ra sau khi đã đi thực tập mục vụ
(năm giúp xứ) trở về. Và nhận định thứ ba sẽ xảy ra trong hai năm
tiếp theo của giai đoạn thần học để chuẩn bị lãnh chức linh mục.291
Việc đào tạo thiêng liêng nhằm đến
con người toàn diện và làm cho người linh mục tương lai có thể đạt
tới sự trưởng thành nhân bản, trưởng thành trong đời sống kitô giáo
và trưởng thành trong đời sống linh mục. Vì thế, chủng sinh phải
được đào luyện với đời sống thần học kiên vững, tinh thần cầu
nguyện, tinh thần khổ chế, đức vâng lời đích thực và trưởng thành,
tinh thần khó nghèo Phúc âm và khiết tịnh vì Nước Trời. Chủng sinh
cũng phải học và thực hành những nhân đức nhân bản và xã hội vốn
được dân chúng ngưỡng vọng và đức ái đòi hỏi, chẳng hạn: lòng thành
thật, ý niệm về đức công bằng, trung thành giữ lời hứa, lịch thiệp
và tín cẩn, tinh thần phục vụ và dấn thân, khả năng làm việc chung,
có trách nhiệm, v.v…
Người ta nhấn mạnh đến sự tương tác
giữa việc đào tạo nhân bản và đào tạo thiêng liêng. Việc đào tạo
nhân bản cho ứng sinh được bắt đầu với sự trợ giúp của gia đình và
xứ đạo trước khi anh vào Chủng viện. Việc đào tạo nhân bản không chỉ
đem lại lợi ích cho ứng sinh trong thời gian học tại chủng viện mà
còn có một ảnh hưởng sâu xa đến sứ vụ tương lai của anh nữa. Nó tùy
thuộc phần lớn vào sự trưởng thành, sự quân bình tâm lý và sức mạnh
của ý chí của ứng sinh. Vì thế, việc đào tạo nhân bản luôn phải hòa
quyện với đào tạo thiêng liêng.
B. Đào Tạo Thiêng Liêng
1. Chuẩn Mực Của Đào Tạo Thiêng Liêng.
Việc đào tạo thiêng liêng thích hợp
nhằm giúp các linh mục tương lai tái khám phá căn tính của mình, từ
“bệ thờ” đến tham gia, từ người rao giảng cổ điển đến người mang
trong mình các mầu nhiệm, từ kiểu cách đơn độc đến sứ vụ hợp tác, từ
linh đạo đan viện đến linh đạo sống thánh giữa trần thế, từ việc cứu
giúp các linh hồn đến việc giải thoát con người,292 ở tất cả mọi cấp
độ.
a. Cấp Độ Cá Nhân
Linh đạo của chủng sinh triều mang
chiều kích Chúa Ba Ngôi và lấy Chúa Kitô làm trung tâm, gắn bó cá
nhân với Ngài, vừa hoạt động vừa chiêm niệm, cam kết sống đời cầu
nguyện mà Thánh Thể là trung tâm điểm, noi gương Đức Maria, canh tân
đời sống nội tâm và biến đổi mình, sống kỷ luật, sống đơn sơ, sống
quân bình nhân cách (thiêng liêng, tâm lý và giới tính).
b. Cấp Độ Giáo Hội Và Truyền Giáo
Linh đạo của linh mục triều mang
đặc tính: giáo hội, mục vụ và tông đồ, tinh thần hiệp thông, tập
thể tính linh mục, ăn khớp với giáo huấn của Hội Thánh, sẵn sàng đáp
ứng các dấu chỉ thời đại dưới tác động của ơn Chúa, lãnh đạo như tôi
tớ phục vụ, thấm nhuần đức tin và truyền giáo, liên đới với người
nghèo hèn bé nhỏ, đối thoại với các nền văn hoá, với những niềm tin
khác, với những người không tin, cả với người vô thần và cộng sản,
thăng tiến công bằng xã hội, hoà bình, quyền con người, văn minh
tình thương và sự sống, mở ra với thế giới nhưng không thuộc về thế
gian. 293
C. Việc Linh Hướng
1. Định Nghĩa
Linh hướng là một công tác mục vụ đặc
biệt nhằm giúp chủng sinh lớn lên trong tương quan với Chúa Cha, cởi
mở đáp lại Chúa Kitô và sẵn sàng để Chúa Thánh Thần hướng dẫn, ngõ
hầu biết phân định ơn gọi của mình và chuẩn bị cho sứ vụ linh mục
trong Giáo Hội.294
* Linh hướng là một tiến trình trưởng thành
liên nhân vị, qua đó tiếng gọi của Chúa được lắng nghe và đáp lại
trong đức tin.
* Linh hướng nhằm nuôi dưỡng một con tim
phân định can đảm đang tìm khám phá để đạt được ý Chúa.
* Linh hướng trước hết liên hệ với sự trưởng
thành toàn diện trong đức tin, trong khi đối mặt kịp thời với các
vấn đề và khủng hoảng. Nói cách khác, việc linh hướng kích thích đức
tin phát triển.
* Việc linh hướng sẽ hữu hiệu khi sự trưởng
thành được biểu lộ rõ nét trong sự gia tăng tình thương, lòng trung
thành và sự chăm sóc đầy trách nhiệm.
* Việc linh hướng cung cấp một bầu khí yêu
thương vô điều kiện. Môi trường này rập khuôn với bầu khí cầu
nguyện. Tiên vàn đó là công việc của Chúa Thánh Thần, và vị linh
hướng phải học biết làm cho dễ dàng, chứ không cản trở hoạt động của
ơn thánh.
* Dù có tính cách liên nhân vị, việc linh
hướng mang chiều kích cộng đồng và Giáo Hội rất cao. Nó nuôi dưỡng
viễn ảnh toàn cầu và cánh chung, nội tại lẫn siêu việt.
2. Những Nguyên Tắc Chung
Việc linh hướng thường nhắm đến những
mục đích sau:
* Giúp chủng sinh biết sống tương quan mật
thiết với Chúa;
* Giúp chủng sinh biết trực tiếp thưa chuyện
với Chúa và lắng nghe những gì Ngài chỉ dạy;
* Giúp chủng sinh sống thân mật với Chúa và
biết đối thoại với Ngài;
* Giúp chủng sinh bi?t nh?n ra và biết sống
những kinh nghiệm thực tế trong tương quan với Thiên Chúa: kinh
nghiệm sống đạo đối với việc linh hướng cũng giống như thực phẩm đối
với việc nấu nướng;
* Giúp chủng sinh biết lưu tâm mà đáp lại
tiếng Chúa mời gọi để càng ngày càng sống thân mật với Ngài hơn, và
sống những hậu quả của mối tương quan ấy;
* Giúp chủng sinh biết luôn đặt mình trước
mặt Chúa bằng cả con người và suốt cuộc đời mình;
* Giúp chủng sinh ý thức trách nhiệm của
mình để duy trì và phát huy trong ánh sáng của Chúa Thánh Thần, vốn
là vị linh hướng đích thực;
* Giúp chủng sinh tìm được con đường mà Chúa
mời gọi, để chọn lựa phù hợp ý Chúa, với ý thức và tự do nội tâm.295
Người ta nhấn mạnh rằng người thụ
hướng phải đi bước trước trong mối tương quan. Những đề tài thảo
luận phải đáp ứng được các nhu cầu của người thụ hướng. Một chương
trình đào tạo được thiết lập để giúp ứng sinh thực hiện một quyết
định đặc biệt, trong sự tôn trọng sứ vụ linh mục trong Giáo Hội. Vì
thế, một bản câu hỏi gợi ý296 được đề nghị như một chỉ dẫn để thảo
luận trong các lần gặp linh hướng.
3. Ba Vấn Đề Cơ Bản Và Quyết Định
Trong giai đoạn đầu tiên ở Đại
Chủng Viện, ứng sinh phải được giúp ý thức và làm thế nào để trực
diện với ba vấn đề cơ bản mang tính quyết định ngõ hầu đạt được một
đường hướng dứt khoát hơn cho cuộc đời anh. Nếu ba vấn đề này không
được “giải quyết,” chúng sẽ ảnh hưởng mạnh trên cách ứng xử của anh,
mà hậu quả sẽ là một khủng hoảng ơn gọi:
* Biết Mình
Tự biết mình là yếu tố rất quan
trọng để ứng sinh đạt được trưởng thành. Sau những năm học đại học,
có lẽ ứng sinh đã hiểu được mình là ai, với tất cả những điểm mạnh
và những điểm yếu. Nếu không có nhận thức rõ ràng về mình này, ứng
sinh dễ có khuynh hướng tự đề cao về mình bằng sự phòng vệ. Sự kiện
hầu hết chủng sinh không thể trực diện chính mình để biết mình là ai
giải thích tại sao có quá nhiều sự không trưởng thành hay tự đánh
giá thấp nơi các thầy thần học, ngay cả nơi các linh mục mới chịu
chức nữa.
* Vấn Đề Sự Thân Mật Và Tính Dục
Là sinh viên tốt nghiệp đại học,
nhiều chủng sinh có thể đã có người yêu trong thời gian học đại học;
vấn đề sự thân mật và tính dục trở nên có thật. Chủng viện sẽ xây
dựng một lối sống khả dĩ ngăn ngừa cách hữu hiệu các lối giải quyết
cho những chiến đấu của họ. Chọn sống độc thân là một chọn lựa tự
do. Họ phải đương đầu và làm việc để vừa thắng vượt các chiến đấu
này, lại vừa thăng tiến chọn lựa của mình. Nếu địa hạt này không
được trực diện và giải quyết, những vật lộn này sẽ trở lại với họ,
ngay cả sau khi đã thụ phong linh mục. Giáo Hội muốn tránh điều đó,
nhưng tiến trình khó khăn ấy cần có thời gian và những cố gắng chân
thành. Trong “Truyện Kiều,”297 Nguyễn Du diễn tả “dẫu lìa ngó ý còn
vương tơ lòng,” nghĩa là “tuy đã chia tay, sự gắn bó dịu dàng vẫn
còn.”
* Quyền Bính
Quyền bính quả là một cơn cám dỗ,
đặc biệt trong bối cảnh văn hoá tập trung quyền bính của Việt Nam,
do ảnh hưởng của Khổng Giáo và quyền bính phẩm trật của Đạo Công
giáo. Thật là ích lợi cho các chủng sinh khi được đối mặt với những
gương mặt quyền bính khác nhau, nhờ đó họ có cơ hội xác định và điều
khiển tự do của mình, hầu làm phát triển một thái độ lành mạnh đối
với quyền bính. Khả năng tạo thế quân bình giữa phục tùng và tự lập
nằm ở chính đức vâng lời. Việc linh hướng phải giúp chủng sinh biết
nhận ra, đối diện và giải quyết các vấn đề này, hầu tránh được các
vấn đề về quyền bính có thể nổ ra sau này, gây nên các mối liên hệ
căng thẳng với Giám mục và giáo dân. Ngoài ra, người ta cũng muốn
vượt thắng ba loại tùng phục (quyền phục, lý phục và tâm phục). Sự
kính trọng thái quá đối với các linh mục và chủng sinh của giáo dân
Việt Nam có thể gây cớ cho họ trở nên độc tài và quan liêu, hách
dịch.
4. Đánh Giá Động Lực Nội Tâm
Vị linh hướng sẽ giúp chủng sinh phân
tích và đánh giá hai yếu tố này:
a. Tính Hấp Dẫn Của Ơn Gọi
Thiên Chúa có thể nói gián tiếp
với chủng sinh qua Kinh Thánh, qua Giáo Hội, qua gia đình và qua
những nhu cầu của cuộc sống con người. Ngài cũng có thể trực tiếp
đánh động con tim và làm cho sự lôi cuốn lớn lên thành cốt lõi của
ơn kêu gọi. Nhưng tính hấp dẫn này phải được phân định qua việc linh
hướng để nắm chắc rằng chủng sinh đáp ứng được các khía cạnh thiêng
liêng và tông đồ của một cam kết dấn thân phục vụ Giáo Hội;
b. Biểu Lộ Cụ Thể Của Ý Hướng Ngay Lành
Tự do lương tâm là điều cần thiết
cho quyết định làm linh mục. Vị linh hướng phải giúp chủng sinh khám
phá ra những gì Thiên Chúa thực sự kêu gọi anh trở thành và thực
hiện. Đáp trả tự do của anh sẽ là cốt lõi sự cam kết của anh và động
lực xứng hợp sẽ đóng một vai trò quan trọng trong sự bền đỗ, khi anh
cụ thể bày tỏ ý hướng ngay lành muốn làm linh mục.
Trong năm thực tập mục vụ và hai năm
thần học cuối, chủng sinh phải tìm cho được lời khẳng định rằng
Chúa muốn anh quyết định trở thành linh mục. Theo Thánh Ignatio,
chủng sinh phải hiểu rõ sâu xa những điểm mạnh cũng như những điểm
yếu của mình. Anh phải được giúp tìm biết cách ý thức chính mình,
cũng như động lực vô thức của anh, ngõ hầu anh thấy được anh phải
biến đổi trong cái gì. Chủng sinh phải đánh giá lại lời mời gọi của
Chúa và sự đáp trả của anh để có được một cam kết sâu xa hơn. Anh
cũng phải nội tâm hóa dấn thân của anh, cũng như cụ thể hóa đời sống
sứ vụ của một linh mục triều, qua việc anh gặp gỡ Chúa Giêsu Kitô,
Đấng là nguyên thuỷ và cùng đích của mọi ơn gọi (x. Ga 15, 16).
Sau khi đã chú ý lắng nghe với biện
phân và khiêm tốn, vị linh hướng có thể khám phá được người thụ
hướng được Chúa gọi hay không. Nếu có, ngài xác định cho anh tiếp
tục đi tới với niềm vui tươi, hy vọng và hạnh phúc, mặc dù anh sẽ
gặp thấy những khó khăn và đen tối trong cuộc sống lữ hành của anh.
Nếu không, ngài nên gợi ý cho anh đổi hướng sống trong bình an,
đồng thời bước theo con đường Chúa mời gọi anh đi với can đảm và
hạnh phúc.
D. Đời Sống Cầu Nguyện Và Đời Sống Nội Tâm
1. Định Hướng Căn Bản Cho Đời Sống Thiêng
Liêng Sâu Xa:
Yếu tố quan trọng nhất trong việc đào
tạo thiêng liêng là cầu nguyện, vì việc cầu nguyện nuôi dưỡng đời
sống thiêng liêng.
Trước khi vào Chủng viện, các chủng
sinh đã từng kinh nghiệmvề kinh nguyện Kitô giáo: cầu nguyện cá
nhân, cầu nguyện cùng cộng đoàn và cầu nguyện trong phụng vụ. Họ đã
được khai tâm bởi nhiều người và nhiều cách khác nhau, tùy theo sự
khác biệt trong hành trình và sự đa dạng của các trào lưu đạo đức
trong Giáo Hội Công giáo.298 Như thế, ít nhiều chi họ cũng đã nếm
trải được niềm vui và sự khô khan trong việc cầu nguyện (x. Rm 8,
26). Do đó, việc huấn luyện cầu nguyện, vốn là cách biểu lộ đặc biệt
đức tin và đức cậy của chúng ta nơi Chúa, sẽ không bao giờ kết thúc.
Cầu nguyện sẽ giúp mỗi người sống tiếp thông với Chúa. Việc đổi mới
đời sống nội tâm này là điều kiện không thể thiếu của mọi cuộc canh
tân hiệu quả của Hội Thánh.299
Theo truyền thống, việc huấn luyện cầu
nguyện là đối tượng được quan tâm đặc biệt, dựa trên hai bàn tiệc
Lời Chúa và Thánh Thể.300 Việc đào tạo này lưu ý đến tâm thức đương
thời, tâm lý đạo đức của chủng sinh, cách thức họ sống đời tín hữu
và ước muốn trở thành linh mục. Việc đào tạo này nhằm giúp chủng
sinh thanh luyện và sửa chữa cách thức cầu nguyện của họ, đồng thời
học lời cầu nguyện tông đồ và mục vụ cho sứ vụ mai ngày của họ.
Một quan niệm tiên quyết và đích thực
phải có là cách cầu nguyện của linh mục triều khác với cách cầu
nguyện của linh mục dòng. Linh mục triều cầu nguyện bằng sứ vụ của
mình bất cứ giờ nào và bất cứ ở đâu. Gương mẫu của họ là chính Chúa
Giêsu, Đấng luôn sống thân mật với Chúa Cha: Chúa Giêsu cầu nguyện
với Chúa Cha, lúc ở nơi hoang vắng hay khi ở giữa đám đông dân
chúng, lúc ban ngày hay suốt đêm khuya, sáng sớm tinh sương hay muộn
màng lúc đêm về, lúc vui mừng vì phép lạ hay khi đau khổ nơi vườn
Giêtsimani, hoặc trên thập giá trong giờ tử nạn. Linh mục triều cầu
nguyện theo đường lối đó và trong sự hiện diện của Chúa.
Vì thế, chủng sinh phải học thiết lập
một kỷ luật cho mình, trong cả hai chiều kích của đời sống cầu
nguyện, cá nhân cũng như cộng đoàn. Anh nắm giữ kỷ luật ấy, cả trong
thời gian đang học ở chủng viện, và suốt cuộc đời linh mục của anh
trong tương lai. Hầu hết các linh mục rời bỏ chức linh mục là vì đã
sao lãng hay bỏ bê không cầu nguyện nữa. Họ thi hành sứ vụ như là
công chức vậy.
Việc huấn luyện cầu nguyện phải được
thực hiện tương tác với việc đào tạo thần học, trong các khía cạnh
đa dạng của nó, đời sống cộng đoàn, phụng vụ, khai tâm tiệm tiến vào
sứ vụ và đời sống linh mục, bằng khoa sư phạm phù hợp với những con
người, nơi chốn, thời gian và thực hành khác nhau.301
Vì thế, Đức Gioan Phaolô II đã nhắc
nhở các linh mục phải lấy Chúa Giêsu làm trung tâm đời sống và luôn
kết hợp mật thiết với Chúa bằng cầu nguyện, suy niệm cá nhân hàng
ngày, Phụng vụ các Giờ Kinh và Thánh Thể. Rồi Ngài kết luận : “Nếu
anh em đầy Chúa, anh em sẽ là những tông đồ đích thực của công cuộc
truyền giáo mới, vì không ai có thể cho cái mà họ không có trong
tâm hồn.” 302
2. Ba Đặc Tính của Cầu Nguyện:
a. Lời Cầu Nguyện Kitô Giáo303
Lời cầu nguyện Kitô giáo giúp
chúng ta khám phá và gặp gỡ Thiên Chúa, Đấng làm cho ý hướng phàm
nhân được siêu thoát. Đó là một dấn thân cá nhân của con người đáp
trả lời mời gọi của Thiên Chúa trong mỗi phút giây, nhờ Chúa Thánh
Thần trợ giúp (x. Rm 8,26). Lời cầu nguyện Kitô giáo được đồng hóa
với lời cầu nguyện của Đức Kitô, Đấng mang lấy cả loài người và dâng
chính mình lên Chúa Cha.
Trong hiệp thông với Hội Thánh, mỗi
người được mời gọi ca ngợi Thiên Chúa nơi các thánh, chiêm ngắm mầu
nhiệm thánh ý Chúa, nài xin thoát khỏi những lo âu phiền muộn, giữ
vững niềm tin, biết rằng mọi người trên thế gian đều phải gánh chịu
cùng một nỗi thống khổ; cầu xin ơn cứu độ, xác tín rằng Thiên Chúa
muốn mọi người được rỗi; hiến dâng chính mình và tất cả nhân loại,
nhờ công việc của Chúa Thánh Thần; ăn năn thống hối (x. 1 Ga 1, 9);
và cùng với mọi loài thụ tạo, tôn thờ Đấng Tạo Hóa.
Sau Chúa Kitô, Đức Maria là mẫu gương
về đời sống cầu nguyện của mọi tín hữu. Mẹ đã ca ngợi những kỳ công
của Chúa, đón nhận mầu nhiệm cứu độ và giữ vững đức tin sống động,
cả dưới chân Thập Giá. Mẹ hằng cầu bầu cho các tín hữu và trở thành
gương mẫu cho các linh mục trong đời sống cầu nguyện. Thật vậy, Tông
Huấn Pastores Dabo Vobis dạy: “Mọi chiều kích của việc đào tạo linh
mục đều có thể qui chiếu về Đức Maria … Nhờ gương mẫu và lời chuyển
cầu của Người, Đức Trinh Nữ luôn tĩnh thức dõi theo sự phát triển
các ơn gọi và đời sống linh mục trong Hội Thánh.” 304
b. Lời Cầu Nguyện Tông Đồ305
Nhờ hoạt động, người môn đệ Đức
Kitô loan báo Tin Mừng và khai mạc Nước Thiên Chúa. Nhờ cầu nguyện,
người môn đệ nhận ra và làm chứng rằng Nước Trời là một quà tặng của
Thiên Chúa, và ân huệ ấy phải được khẩn khoản nài xin bằng lời cầu
nguyện. Chính Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ của Ngài phải cầu nguyện
cho Nước Thiên Chúa ngự đến (x. Mt 6, 9-10).
Công Đồng Vaticanô II khuyên dạy
người Kitô hữu chúng ta cần để ý sâu xa hơn tới những khía cạnh tông
đồ. Mục đích của việc tông đồ là làm cho người khác nhận biết và yêu
mến Thiên Chúa, Đấng không ngừng qui tụ mọi người từ khắp muôn
phương. Như thế, chiều kích tông đồ thuộc về kinh nguyện kitô giáo.
Không thể có đối nghịch và phân rẽ giữa cầu nguyện và hành động.
Hành động là nơi người ta hao tốn nhiều sức lực, có khi đến cạn
kiệt; còn cầu nguyện là nơi con người tái nạp lại năng lượng. Lời
cầu nguyện tông đồ bảo đảm và ghi nhận xác tín rằng Nước Thiên Chúa
đến không tùy thuộc hành động của con người, nhưng lệ thuộc vào hành
động của Thiên Chúa.
Vì thế, việc đào tạo sống đời tông đồ
và đào tạo cầu nguyện không thể tách rời nhau được. Khi linh mục xác
tín hơn rằng mình phải ký thác cho Chúa Thánh Thần để trở thành dụng
cụ mềm mại trong tay Thiên Chúa cho hoạt động tông đồ, lúc ấy ngài
sẽ xác tín hơn về nhu cầu của lời cầu nguyện. Ngài sẽ hiểu rằng cầu
nguyện không phải là một bổn phận phải chu toàn, nhưng là mối tương
quan cần thiết với chính Thiên Chúa, Tác Nhân Chính Yếu của việc
Nước Trời đến. Ngài sẽ giao phó chính mình cho hoạt động của Chúa
Thánh Thần, ý thức rõ ràng hơn các dấu hiệu cụ thể của Nước Trời
đang đến và làm cho các dấu hiệu đó dễ dàng trở nên chất liệu để
chiêm ngắm.
c. Lời Cầu Nguyện Mục Vụ306
Lời cầu nguyện mục vụ là một trong
những bổn phận của người mục tử, cả khi giáo dân tham gia vào các
trách nhiệm mục vụ này. Những ai lãnh nhận trách nhiệm phục vụ cộng
đoàn sẽ mang lấy cộng đoàn ấy vào trong lời cầu nguyện của mình.
Hoa trái của công tác mục vụ không
phải là kết quả của sức con người, của tổ chức đẹp và linh hoạt tốt,
nhưng là do công việc của Chúa Thánh Thần, Đấng hoạt động cách nhiệm
mầu trong cộng đoàn và trong từng thành viên của cộng đoàn ấy.
Các mục tử phải để Chúa Thánh Thần
hướng dẫn chính họ, có thế thì các hoạt động của họ mới là của Ngài.
Họ cũng phải xin Chúa làm công việc của Ngài ở trong cộng đoàn: mở
lòng họ cho hoạt động của Ngài với tinh thần tông đồ.
Loại cầu nguyện này liên quan đến sứ
vụ của toàn thể Hội Thánh, nhưng đặc biệt cho những ai, do nhiệm vụ,
có trách nhiệm đối với cộng đồng Giáo Hội. Trách nhiệm này xuất hiện
rõ nét nơi sứ vụ chủ tọa Bí tích Thánh Thể và cử hành Phụng Vụ các
Giờ Kinh. Đối với vị mục tử, việc cầu nguyện cho dân chúng là một
phần trong toàn bộ trách nhiệm mục vụ của ngài, một nghĩa vụ thường
xuyên đích thực, “một mối nợ trong sứ vụ.”307
Lời cầu nguyện mục vụ là một hình thức
của việc thực thi đức ái mục tử và của tình yêu Đức Kitô dành cho
Hội Thánh và hết thảy mọi người. Vì thế, lời cầu nguyện mục vụ nhắm
đến toàn thể nhân loại mà Chúa Kitô đã hiến mình chịu chết, chứ
không chỉ giới hạn vào cộng đoàn đã được tập họp.
3. Phương Tiện Sư Phạm Trong Việc Huấn
Luyện Cầu Nguyện
a. Các Trách Nhiệm
Trách nhiệm đầu tiên của việc cầu
nguyện thuộc về Hội Thánh. Các nhà huấn luyện nhận lãnh trách nhiệm
hướng dẫn việc cầu nguyện của cộng đoàn, quan tâm đến sự tham dự của
cả cộng đoàn và của từng người. Các ngài cũng phải ý thức giúp đỡ
cộng đoàn Chủng viện và mỗi chủng sinh đi vào tinh thần của kinh
nguyện phụng vụ, ngõ hầu ai nấy đều có tâm thức Giáo Hội, hơn là
coi đó như những thực hành hay những ưa thích cá nhân.
Dầu vậy, không có đối nghịch giữa cầu
nguyện cá nhân và cầu nguyện cộng đồng, bởi vì bất cứ buổi cầu
nguyện cộng đồng nào cũng đòi hỏi mọi thành phần tham dự, và bất cứ
lời cầu nguyện cá nhân nào cũng đều là sự kéo dài của kinh nguyện
phụng vụ và đều hướng tới kinh nguyện phụng vụ. Nhưng cầu nguyện
cộng đồng không chỉ đơn giản là tổng số những lời cầu nguyện cá
nhân. Mỗi người đều có trách nhiệm về phẩm chất kitô và Giáo Hội của
lời cầu nguyện cá nhân cũng như của lời cầu nguyện của cộng đoàn
mình: sự hiệp nhất của các con tim đang cầu nguyện (x. Cv 2, 46).
Và lời cầu nguyện cộng đồng nâng đỡ lời cầu nguyện cá nhân: sự khích
lệ nhận được từ lời cầu nguyện cộng đồng sẽ giúp mỗi người vượt qua
những thử thách và những khó khăn mà mỗi người không thể tránh khỏi
trong cuộc sống, chủng sinh cũng như linh mục.
b. Những Nơi Chốn
Việc linh hướng là một chỗ đặc ân,
nơi đó, với tin tưởng và tự do, mỗi chủng sinh có thể nói về đời
sống cầu nguyện của anh, về phẩm chất kitô và Giáo Hội của lời cầu
nguyện đó, kiểm chứng tính kiên trì của việc anh cam kết cầu nguyện
cộng đồng cũng như cầu nguyện cá nhân, đặc biệt trong việc nguyện
gẫm.
Việc linh hướng cũng là nơi huấn luyện
cầu nguyện, vì nơi đây chủng sinh có thể bày tỏ những khó khăn,
những tiến bộ hay thụt lùi, chiến đấu và niềm vui của mình khi cầu
nguyện. Trong chiều hướng này, vị linh hướng có thể giúp người chủng
sinh, bị xô đẩy chán nãn, tìm ra hay tìm lại được con đường cầu
nguyện, bằng cách khám phá ra và thử nghiệm những phương pháp thích
hợp nhất sẵn sàng nâng đỡ anh và làm cho anh tiến bộ thực sự trong
việc cầu nguyện cá nhân.
Vị linh hướng cũng phải làm cho đời
sống cầu nguyện hội nhập hoàn toàn vào đời sống thiêng liêng, nhờ đó
mỗi chủng sinh càng ngày càng học được làm sao đọc ra ý nghĩa thiêng
liêng của các biến cố trong cuộc sống, chẳng hạn như lời mời gọi cá
nhân phải hoán cải, việc loan báo Tin Mừng và tình hiệp thông huynh
đệ …
c. Các Thời Khắc
Đây là điều rất quan trọng: giúp
chủng sinh ý thức sâu xa rằng đời sống thiêng liêng không thể chỉ
đơn giản giản lược vào những thời khắc đặc biệt dành cho việc đọc
kinh cầu nguyện, nhưng thời giờ cầu nguyện phải mở rộng ra trong
toàn bộ cuộc sống. Người ta phân biệt cầu nguyện độc hữu và cầu
nguyện liên lĩ. Giờ cầu nguyện độc hữu là chỉ dành cho việc cầu
nguyện mà thôi, không làm chi khác. Còn cầu nguyện liên lĩ là cầu
nguyện trong khi làm bất cứ việc gì.
Như thế, cầu nguyện góp phần vào sự
thống nhất đời sống ơn gọi của chủng sinh, dù đôi khi cuộc sống ơn
gọi đó gặp phải những khó khăn và thử thách. Các phương diện khác
nhau của công cuộc đào tạo phải được tập hợp nhắm tới việc thống
nhất đời sống, được kích hoạt bởi đức ái mục tử của Đấng Chăn Chiên
Lành. Tất cả mọi người đều được mời gọi giúp đỡ lẫn nhau để đón nhận
từ Chúa Cứu Thế sự phong phú nhiệm mầu của cuộc sống hiến dâng cho
Chúa Kitô và cho tha nhân.
4. Sự Thinh Lặng: Điều Kiện Thiết Yếu Cho
Đời Sống Nội Tâm
a. Ý Nghĩa và Mục Đích của Thinh Lặng
Sự thing lặng không thể bị chia
tách bên ngoài và bên trong được.308 Thinh lặng bên ngoài vừa là hy
sinh hãm mình vừa là phương tiện bảo đảm sự yên tĩnh của tâm hồn, để
hồi tâm và sống thân mật với Thiên Chúa.
Thinh lặng nội tâm là sự bình an của
linh hồn, nghĩa là nỗ lực kiểm soát các đam mê, kiềm chế những tưởng
tượng viển vông, lo âu, kích động thái quá hay những suy sụp chán
nãn. Những tâm hồn tìm kiếm sự thánh thiện phải luyện tập để có sự
bình an ấy: nếu không có thói quen tập luyện như vậy, thì cũng chẳng
có thói quen tập nghĩ đến sự hiện diện của Chúa.309 Thinh lặng nội
tâm là thái độ sâu xa của linh hồn tìm kiếm mọi sự từ Thiên Chúa và
hoàn toàn qui hướng về Ngài.
Thinh lặng nội tâm cần đến và nuôi
dưỡng thinh lặng bên ngoài, trong khi thinh lặng bề ngoài phục vụ
cho mục tiêu của thinh lặng nội tâm. Vì thế, luật sống của Chủng
viện phải coi thinh lặng bên ngoài như là ưu tiên, vì ở đâu thinh
lặng bên ngoài không hiện hữu thì thinh lặng nội tâm cũng vắng
mặt.310
b. Giá Trị của Thinh Lặng311
“Trong bối cảnh ồn ào và máy động
như của xã hội chúng ta, thinh lặng là bầu khí thiêng liêng và sống
còn để cảm nhận sự hiện diện của Thiên Chúa.”312 Do đó, việc đào tạo
thiêng liêng đòi hỏi sự thinh lặng của mỗi người trong cuộc sống
hằng ngày, trong đời sống phụng vụ, và trong những dịp đặc biệt của
những ngày tĩnh tâm hay cấm phòng. Nhờ sự thinh lặng, người chủng
sinh biết chỗ của mình trước mặt Chúa, đồng thời tỏ lộ lòng khiêm
tốn và khả năng lắng nghe của anh khi Chúa nói.
Nhờ sự thinh lặng của thân xác, của
trí óc và con tim, anh mới có thể đạt tới sự hiệp nhất và hiệp thông
với Chúa: “Hãy lặng thinh và hãy biết rằng Ta là Thiên Chúa” (Tv 46,
10). Như thế, “việc tìm kiếm thân mật với Chúa thực sự bao hàm nhu
cầu sinh tử về thinh lặng của toàn thể con người.”313 Sự thinh lặng
này không phải là một không gian trống rỗng, bởi vì Thiên Chúa luôn
có đó để lấp đầy. Nhiệm vụ quan trọng nhất là phải ý thức rằng ta
luôn ở trong sự hiện diện của Chúa và không thể tách khỏi Ngài.
c. Những Thách Đố của Thinh Lặng314
Thinh lặng là một trong những
thách đố lớn nhất trong đời sống con người. Một số người tìm kiếm sự
thinh lặng, nhưng nhiều người khác lại làm mọi cách để tránh nó.
Nhưng thinh lặng hổ trợ lời nói, chuẩn bị lời nói và làm cho lời nói
nên phong phú. Nếu không có thinh lặng thì có lẽ chẳng có ngôn ngữ.
Lời nói cần thiết vì là phương tiện thông tin. Ngôi Lời, chìm sâu
trong mầu nhiệm lặng thinh của Thiên Chúa để rồi giải thích và thông
truyền Thiên Chúa cho con người. Đòi hỏi của thinh lặng và lời nói
phải được cân bằng.
Vì thế, văn kiện Đào Tạo Thiêng Liêng
Trong Chủng Viện mô tả rõ “thinh lặng nội tâm” - “thinh lặng bên
ngoài”, và đòi hỏi thinh lặng nội tâm như là bầu khí đúng đắn của
việc giáo dục tổng quát.315 Đức Gioan Phaolô II ước mong rằng “chủng
viện phải là nơi của thinh lặng, là nhà cầu nguyện, nơi đó Chúa tiếp
tục qui tụ các môn đệ riêng ra, để họ sống cái kinh nghiệm mạnh mẻ
của sự gặp gỡ và chiêm niệm.”316 Thinh lặng là một thách đố cho bất
cứ ai muốn sống thật đầy ý thức, chăm chú, cảnh giác và hoàn toàn
hướng về Thiên Chúa. Mỗi người cần nhìn thấy và tìm ra được những cơ
hội khả dĩ cho thinh lặng và đem chúng vào trong cuộc sống mình.
d. Những Phương Tiện Thuận Lợi Cho Việc Giữ
Thinh Lặng317
+ Thinh Lặng trong Phụng Vụ
Thinh lặng luôn là một phần
của việc thờ phượng. Ta nên dùng kinh nguyện cộng đồng để dạy về
thinh lặng. Phụng vụ cung cấp nhiều cơ hội để thinh lặng: Ngưng nghỉ
một khoảng thời gian thích hợp sau mỗi bài đọc; nghỉ chốc lát để suy
niệm sau bài giảng, hay sau lời kêu mời “chúng ta dâng lời cầu
nguyện.” Sau hiệp lễ, nên dành một thời gian thinh lặng.
Trong Phụng vụ các Giờ Kinh cũng có
nhiều dịp để thinh lặng: Sau vinh tụng ca và trước điệp ca của thánh
vịnh kế tiếp, một chút ngưng nghỉ để cộng đoàn suy niệm về thánh vị
đó; sau bài đọc Lời Chúa và trước xướng đáp, một lúc thinh lặng hợp
lý để suy niệm.
Chúng ta chỉ chậm rải đi vào thinh
lặng sâu lắng khi chúng ta ý thức sự hiện diện bí ẩn của Thiên Chúa.
Cầu nguyện trở thành sự kết hợp những lúc thinh lặng và lời nói
trong một thái độ chiêm niệm, và đời sống thiêng liêng được ẩn giấu
với Chúa Kitô trong Thiên Chúa.318
+ Thinh Lặng Trong Nhà
Thật là quan trọng khi nhận
ra rằng có nhiều môi trường khác nhau trong nhà: Tầng trệt, sân
chơi, phòng ăn và phòng khách của chủng sinh là những nơi thích hợp
để chuyện vãn. Tuy nhiên, ở các hành lang trên lầu và các phòng của
chủng sinh thì nên kiềm chế việc nói chuyện. Mọi người đều phải cẩn
trọng để khỏi làm xáo trộn sự thinh lặng của người khác. Radio, máy
nghe băng, Tivi, âm lượng trao đổi… phải được điều chỉnh để bảo vệ
bầu khí chiêm niệm, vốn phù hợp cho đời sống cầu nguyện và học tập.
Không đòi phải thinh lặng tuyệt đối, nhưng cuộc trao đổi phải được
giữ ở mức tối thiểu.
+ Thinh Lặng trong Những Ngày Cấm Phòng hay
Tĩnh Tâm
Đời sống thiêng liêng và sự
trưởng thành thiêng liêng được triển nở khi thinh lặng trở thành một
phần của đời sống con người. Các cuộc tĩnh tâm dành cho việc đào tạo
và bồi dưỡng thiêng liêng là những cơ hội khả dĩ để trải nghiệm sự
thinh lặng.
Những ngày cấm phòng và tĩnh tâm là
những kinh nghiệm căn bản trong việc tìm lại nguồn năng lượng cho
đời sống cầu nguyện và đức tin. Chủng sinh sẽ dần dần khám phá ra
những điều kiện của đời sống cầu nguyện đích thực trong ơn gọi và
đời sống thiêng liêng của mình.
Những ngày cấm phòng và tĩnh tâm còn
là dịp để lấy lại sức lực cho thể xác, cho trí khôn và linh hồn.
Càng cảm thấy dễ chịu khi sống thinh lặng trong nhà, người ta càng
dễ đi vào những giai đoạn thinh lặng dài lâu hơn. Thinh lặng không
có nghĩa đơn giản là không nói. Do đó, người tĩnh tâm nên được
khuyến khích loại bỏ những mối bận tâm bên ngoài. Những thứ làm cho
mình mất sự thinh lặng bề ngoài như báo chí, truyền thanh, truyền
hình … Tuy những biến cố xảy ra trên thế giới là một phần của đời
sống cầu nguyện, chúng ta không cần phải quá chuyên môn để đem vào
hết mọi biến cố. Càng đi vào thinh lặng và càng thăng tiến đời sống
chiêm niệm, chúng ta càng có thể nghe tiếng Chúa với những âm thanh
khác nhau và mới lạ.
Thật là quan trọng khi nhận ra rằng
tĩnh tâm là thời gian để nâng cao ý thức. Người tĩnh tâm cần ở vị
trí “là” hơn là “làm.” Sự chú tâm sẽ đạt được bằng cách học cho
biết thụ động lắng nghe. Merton nói rằng mức độ truyền thông cao
nhất không phải là truyền thông nhưng là hiệp thông. Vì thế, trong
thinh lặng, trong không gian vắng lời nói, người tĩnh tâm có thể trở
nên một với Chúa. Nhiệm vụ thiết thực là phải thuyết phục rằng ngay
cả giữa cuộc sống bận rộn và xôn xao, chúng ta vẫn có thể kết hợp
nên một với Chúa. Thái độ chiêm niệm này là thích hợp, không những
trong chủng viện, mà còn trải dài trong suốt cuộc sống sứ vụ. Thái
độ cầu nguyện này có thể còn sinh hoa kết quả dồi dào hơn nữa.
5. Những Hình Thức Cầu Nguyện
a. Liên Quan Đến Lời Chúa
1) Lời Chúa
Trong sắc lệnh Chức Vụ và
Đời Sống Linh Mục, Công đồng Vaticanô II nêu rõ: “Nhiệm vụ đầu tiên
của linh mục là rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa cho mọi người,”319
Kitô hữu cũng như không phải là kitô hữu; và Tông Huấn Pastores Dabo
Vobis (Những mục tử như lòng mong ước) khẳng định “Linh mục trước
tiên phải là thừa tác viên của Lời Chúa.”320 Lương thực đầu tiên
nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng của linh mục là Lời Chúa (x. Mt
4,4). Ai giữ Lời Chúa thì sống trong Chúa và tình yêu của Chúa được
trọn hảo nơi người ấy (x 1Ga 2,5-6); và người ấy sẽ an toàn đi trên
chính lộ đến cùng Chúa Cha (x. Ga 14,6). Lời Chúa ban sự sống đời
đời (x. Ga 6, 68).
Suy niệm, sống và rao truyền Lời Chúa
là bổn phận và sứ vụ của mọi người kitô hữu, nhưng còn hơn thế, đó
là sứ vụ tiên quyết của linh mục (x. 1 Cr 9, 16). Chính Lời Chúa làm
cho đời sống và sứ vụ của linh mục được triển nở và sinh hoa kết
trái dồi dào trong chương trình cứu độ của thánh ý Chúa (x. Is
55,10-11, vì Lời Chúa khám phá ra điều bí ẩn trong linh hồn, chất
vấn, sửa chữa, hoán cải, đổi mới và thánh hoá con người, với “một
tâm hồn mới và một tinh thần mới” (x. Ezk 18,31), bằng cách làm cho
đời sống và hành động của con người được thấm nhuần những giá trị
Phúc Âm.
2) Lectio Divina
Ngày nay người ta tái khám
phá ra giá trị và hiệu quả của việc đều đặn đọc và cầu nguyện Thánh
Kinh, quen gọi là Lectio Divina. Nhiều linh mục và giáo dân làm
chứng rằng họ đã tìm được nguồn lương thực nuôi dưỡng đời sống
thiêng liêng trong việc đọc và suy gẫm Lời Chúa hàng ngày hay hàng
tuần. Bằng cách đặt cuộc sống mình dưới sức mạnh của Lời Chúa, người
ta bộc lộ thái độ của người môn đệ lắng nghe, của người tôi tớ vâng
lời, của Người Con đến để thi hành thánh ý của Cha. Lời Chúa đổi mới
cái nhìn của chúng ta về mọi sự. Lời Chúa soi sáng trí khôn, mời gọi
tới đức tin, mở lớn niềm hy vọng, thức tỉnh và đổi mới tình yêu.
Trong chủng viện, Lectio Divina được
để cho sáng kiến của chủng sinh, với sự giúp đỡ của vị linh hướng.
Khoa chú giải Thánh Kinh và Lectio Divina là hai bước biệt lập: qua
việc chú giải Thánh Kinh, người ta học làm sao để thực sự đọc một
bản văn với sự chú ý và khách quan, trong khi Lectio Divina gợi lên
lòng khao khát học toàn bộ Kinh Thánh để khám phá và sống mỗi ngày
một hơn sự phong phú bất tận của Lời Chúa.
3) Phụng Vụ Các Giờ Kinh
Phụng Vụ Các Giờ Kinh là lời
cầu nguyện của Hội Thánh. Nhịp điệu và cấu trúc của nó không ngừng
hướng con tim và ý tưởng chúng ta về Chúa, Đấng là nguồn mọi thiện
hảo. Đối với một số người, nguy cơ của việc cử hành cộng đồng Phụng
vụ các Giờ Kinh là để cho mình bị lôi đi cách máy móc hời hợt, thiếu
nội tâm hóa đầy đủ sự phong phú của lời kinh này. Nhưng việc đọc
riêng Thần vụ này còn khó khăn hơn, song đây lại là cái thông thường
trong đời sống của đa số các linh mục triều sau khi chịu chức.
Vì thế, trong các buổi gặp linh
hướng, người ta phải lưu ý “trắc nghiệm” các chủng sinh trong những
kỳ nghỉ và thời gian thực tập mục vụ: Sống xa chủng viện, lại nhiều
ít ở một mình, đâu là chỗ họ dành cho Kinh Nhật Tụng? Khuyến khích
các linh mục tương lai trung thành với Phụng vụ các Giờ Kinh được
nhìn nhận như là một bổn phận, hoặc đề nghị họ thực hành cộng đồng
thì chưa đủ. Cần làm cho họ có thể hiểu rõ sự phong phú và ý nghĩa
của việc thực hành này, ngõ hầu họ đảm nhận nó như một bổn phận quan
trọng của sứ vụ tương lai của họ, trong sự hiểu biết và xác tín.
4) Nguyện Gẫm
Nguyện gẫm cá nhân hằng ngày
là một thực hành cổ điển trong các chủng viện. Các chủng sinh được
khuyến khích và giúp đỡ do được dạy cho biết nhiều phương pháp
nguyện gẫm của nhiều trường phái linh đạo khác nhau. Họ có thể đi
sâu vào một phương pháp thích hợp và khám phá ra cách thức riêng của
mình để nguyện gẫm, vượt quá các phương pháp trên.
Hình thức cầu nguyện bằng trí khôn
này là một cuộc tìm kiếm đầy đủ và sâu xa sự hiện diện và hoạt động
của Thiên Chúa, như được mạc khải nơi các bản văn họ đọc. Họ đem hết
trí tưởng tượng, tình cảm, trí khôn và ý muốn để chiêm ngắm những
lời nói và việc làm của Chúa Giêsu trong Tin Mừng. Những khám phá
như thế dẫn tới những biến đổi trong thái độ nội tâm và các động
lực, ảnh hưởng đến cách ứng xử và làm phong phú mối tương quan của
họ với Chúa (x. Lc 24,32).
Việc nguyện gẫm được hướng dẫn bởi
các nhà đào tạo có thể giúp những người bắt đầu đi vào thực hành
nguyện gẫm và làm cho họ có thể tự do chấp nhận một cách thức cụ thể
để vượt qua các giai đoạn của thời gian cầu nguyện này. Thời gian
tĩnh tâm và cấm phòng là những thời khắc đặc ân để tập luyện thực
hành nguyện gẫm. Nhờ vào bầu khí lắng nghe, trao đổi và khích lệ của
các buổi gặp linh hướng, chủng sinh có thể nói và đánh giá những
niềm vui và những khó khăn họ gặp phải, nhịp độ và những khám phá đã
thực hiện. Đời sống nhóm cũng là nơi để trao đổi và chia sẻ hữu ích.
Nguyện gẫm phải là thời gian và nơi
chốn không gì có thể thay thế. Nó là một niềm vui và một trắc
nghiệm lòng trung thành với Chúa, trong sự hiện diện đầy yêu thương
của Ngài. Sự khô khan không thể tránh khỏi và sa mạc là những cuộc
tập luyện tốt để khỏi dính bén các ảo tưởng cho rằng mình trực tiếp
nắm bắt được Chúa.
Sau cùng, nguyện gẫm là nơi tiếp nhận
và tái khám phá Thiên Chúa, Đấng không ngừng tự hiến mình cho những
ai hằng tìm kiếm Ngài. Nhờ việc nguyện gẫm hằng ngày, người ta hiệp
thông với Chúa và kín múc được nghị lực phục vụ tha nhân.
5) Đọc Sách Thiêng Liêng
Cùng với Lectio Divina, phải
kể đến thực hành đọc đều đặn sách thiêng liêng của các Giáo phụ, để
có thể làm quen trong đức tin sứ điệp Tin Mừng được các chứng nhân
sống động chuyển tải và phiên dịch. Việc đọc sách thiêng liêng được
coi là suối nguồn rất giá trị giúp chủng sinh lớn lên trong tương
quan với Thiên Chúa và vận dụng cho các cuộc gặp linh hướng. Đọc
sách thiêng liêng là một con đường đức tin được chia sẻ trong kinh
nghiệm của người khác.
Điều quan trọng là sống làm sao. Tốt
hơn là đọc ít đoạn rồi dừng lại để suy gẫm, thay vì đọc nhiều trang
mà không để cho những điều đã đọc giúp mình tương quan thân mật với
Chúa. Các sách thiêng liêng cổ thời hay hiện đại đều có thể giúp
chúng ta lớn lên trong đời sống thiêng liêng mỗi ngày. Điều quan
trọng không phải là đọc một bản văn, nhưng là tìm ra từ bản văn ấy
cái giúp phát triển mối tương quan của một con người với Thiên Chúa.
b. Biểu Tượng và Nghi Thức
1) Bí Tích Thánh Thể
Thánh Thể là “nguồn suối
và chóp đỉnh của đời sống Kitô hữu, đồng thời là trung tâm của tất
cả đời sống chủng viện.”321 Nhờ Thánh Lễ, tất cả và từng người tham
dự vào lời cầu nguyện của Chúa Kitô. Thánh Lễ không phải là một lời
đáp trả cá nhân đối với tình yêu của Chúa Cha, nhưng là đại dương vô
tận của những lời cầu khẩn, ca khen và dâng hiến của Chúa Kitô.
“Thánh Thể nối kết trời với đất, ôm lấy và thấm nhuần tất cả tạo
thành.”322 Điều thiết yếu là học cho biết làm sao để được Chúa Kitô
“bắt lấy”, nên một với Ngài, nhờ đó trọn vẹn đời sống chúng ta là
một lễ vật.
Do đó, cử hành cách xứng đáng theo
đúng luật phụng vụ thôi chưa đủ, cần phải có mối hiệp thông tâm hồn,
nghĩa là sự tham dự sống động của tất cả mọi người. Trong chủng
viện, đề nghị nhiều hình thức khác nhau là điều tốt: từ việc “viếng
Mình Thánh Chúa” ngắn ngủi đến việc “thờ phượng” thường xuyên, như
“đêm thờ phượng”, “Giờ Thánh”, “chầu Thánh Thể liên tục”… Chúa Kitô
được tôn thờ dưới dấu chỉ khiêm tốn của miếng bánh là Đấng đã tự
hiến chính mình vĩnh cửu cho Chúa Cha và đã trở nên lương thực cho
tín hữu. Việc tôn thờ Thánh Thể thường xuyên giúp canh tân và xây
dựng các cộng đoàn Giáo Hội trên khắp thế giới. Việc tôn thờ này
mang lại nhiều nghị lực và hăng say cho các nhà truyền giáo, vì
Thánh Thể là dấu chỉ thường xuyên của tình yêu Thiên Chúa.323
2) Bí Tích Sám Hối
Việc cử hành Bí Tích Hối
Sám luôn là một cử hành phụng vụ, ngay cả với hình thức riêng tư của
nó. Quả thế, thực hành bí tích sám hối là một yếu tố trong đời sống
cầu nguyện của cả hai người, người xưng thú lẫn người nghe xưng thú.
Trong chủng viện, các vị linh hướng luôn là thừa tác viên thường
xuyên của bí tích này. Các ngài không chỉ khuyến khích các chủng
sinh đều đặn thực hành bí tích này, mà còn giúp họ hiểu biết tốt hơn
và cử hành nghiêm túc, vì bí tích này cũng là “một tập luyện tuyệt
vời về nhân đức, đền tội… là trường tu đức không thể thay thế, là
một sự trợ giúp thực sự trên con đường thánh hóa và linh hướng.324
3) Lòng Sùng Kính Đức Maria
Đa số chủng sinh đều tự phát
có lòng sùng kính Đức Maria với con tim chân thành. Trách nhiệm của
các nhà huấn luyện là giúp họ biết sống lòng tôn sùng ấy một cách
sâu xa. Lòng tôn sùng đích thực Đức Trinh Nữ Maria được đặc trưng
qua thái độ sống đơn sơ và khiêm tốn theo gương của Ngài. Lòng sùng
kính này được phát sinh từ việc chiêm ngắm mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập
Thể. Lòng sùng kính này hướng dẫn sống đời nội tâm và việc dâng
hiến đời mình theo gương mẫu của Đức Maria, trong lễ Mẹ Dâng Mình.
Người ta sẽ không thể quên đặt lên hàng đầu chiều kích truyền giáo
của lòng sùng kính Đức Mẹ.
Cách đơn giản, vô số tín hữu đã ưa
thích việc lần hạt mân côi như là phương thế kết hiệp với Chúa qua
kinh nguyện. Chuỗi mân côi là bản tóm lược của Phúc Âm. Cầu nguyện
chuỗi mân côi là tham dự vào đời sống và sứ vụ của Chúa Cứu Thế và
Mẹ Người, Đấng đã trở nên mẹ của hàng linh mục cách đặc biệt. Mẹ dẫn
dắt mọi người đến với Chúa Giêsu và Chúa Giêsu sẽ đưa họ tới Chúa
Cha. Đây hẳn là hành trình đức tin chắc chắn theo gương Đức Trinh Nữ
Maria.
6. Những Cách Cầu Nguyện Của Người Á Châu
Và Việt Nam
a. Từ Những Kinh Nghiệm Cầu Nguyện Trong Quá
Khứ
Người ta cố gắng tập trung vào cả
hai cách, cầu nguyện cộng đồng và cầu nguyện cá nhân. Vì thể xác có
thể trở nên căng thẳng, sự chú tâm bị phân tán và dao động, người ta
có thể dùng Kinh Thánh, các bài hát, đọc kinh, lần chuỗi để cầu
nguyện và suy gẫm. Người ta cảm nhận được mối tương quan tốt với
Chúa, nhưng đôi khi cũng bị chia trí, đôi khi rất căng thẳng và mệt
mỏi, và thường làm theo thói quen như bổn phận phải làm. Với cầu
nguyện cá nhân, đặc biệt là cầu nguyện thinh lặng và suy gẫm trong
tâm trí, nhiều sự chia trí chiếm lấy đầu óc và cản trở cầu nguyện.
Nhiều lúc người ta kết thúc giờ cầu nguyện với khô khan trống rỗng,
quên đi rằng nếu tinh thần có đi đâu đâu thì thân xác vẫn luôn có đó
ở trước mặt Chúa.
b. Đến Cầu Nguyện Trong Bối Cảnh Của Á
Châu325
Khám phá ra sự hiện diện của
Thiên Chúa hằng sống: Cách thức tín đồ Lão giáo, Khổng giáo và Phật
giáo tọa tĩnh tòa sen tụng niệm có thể giúp chúng ta tái khám phá
các hình thức chiêm niệm của cầu nguyện trong truyền thống kitô giáo
và hội nhập chúng, bằng cách hướng chúng ta chú ý hơn nữa tới tư thế
thân xác khi chúng ta cầu nguyện.326 Các thực hành Zen hay Yoga có
thể được dùng để giúp chủng sinh làm quen với ý thức sự hiện diện
của Chúa. Đó là một cảm nhận chính mình như một toàn thể
tinh-thần-thân-xác trong tương quan với Chúa. Dần dần người ta sẽ
đắc thủ được thói quen ý thức, bằng cách tập sống sự hiện diện của
Chúa, nghĩa là thường xuyên hướng chú ý của mình về sự hiện diện đầy
yêu thương và sống động của Chúa ở trong và quanh mình. Thời gian
thinh lặng của những ngày tĩnh tâm hay cấm phòng cống hiến những cơ
hội thuận lợi để phát triển sự ý thức này ở một mức độ sâu hơn.
Một cách tốt để các chủng sinh khởi
đầu là họ bỏ ra 15 hoặc 20 phút, hay lâu hơn nếu họ muốn, để tạo một
tư thế thư giản bằng cách kiểm soát hơi thở (hít vào và thở ra thật
sâu); đồng thời tẩy bỏ khỏi đầu óc bất cứ bận rộn hay suy nghĩ nào,
và để chìm sâu trong sự hiện diện của Chúa ở trong và ở quanh họ.
Sau một lúc, họ được nhắc nhở đi vào
một cuộc đàm thoại đơn sơ, sâu lắng với Chúa đang hiện diện, về bất
cứ cái gì đang chất chứa trong tâm hồn họ lúc đó. Có lẽ họ chẳng có
gì để nói mà chỉ thích ngồi lắng nghe Chúa. Giây phút thinh lặng này
thật bình an và thoải mái. Nếu cứ tập luyện mỗi ngày, họ sẽ khám phá
được rằng dần dần họ trở nên càng ngày càng chú tâm vào Chúa hơn,
và rằng họ đang lớn lên trong hiểu biết, nhẫn nại và yêu thương đối
với những người xung quanh.327
c. Ích Lợi của Cách Cầu Nguyện Á Châu
Các tôn giáo Á Châu giới thiệu
nhiều cách thức cầu nguyện đưa dẫn và thúc đẩy trọn vẹn con người
vào cầu nguyện: thể xác, trí khôn, con tim, trí nhớ, trí tưởng
tượng, hơi thở, tư thế thân xác và ngay cả môi trường bên ngoài đều
được sử dụng cho việc cầu nguyện, và người ta gọi đó là “thân xác
cầu nguyện.” Phương pháp này nâng cao phẩm chất của cầu nguyện, cũng
như phẩm chất của người cầu nguyện.
* Việc thực tập lắng nghe này làm chủng
sinh dễ dàng đi vào tiếp xúc và hiệp thông với Chúa. Sự ý thức thụ
động này giúp họ mở rộng lòng và “phó mặc” cho ơn Chúa hoạt động.
Thái độ đón nhận thụ động này mang lại sự thinh lặng nội tâm cần
thiết cho việc cầu nguyện, nhờ đó họ được Lời Chúa Kitô và ơn Chúa
Thánh Thần đánh động và biến đổi.
* Thực hành thư giãn tạo nên bình an nội
tâm và sự hài hòa làm cho tiến trình cầu nguyện được dễ dàng, trong
khi thực hành tập trung cao độ lại rất hữu ích cho đời sống cầu
nguyện. Nhịp thở có thể giúp gia tăng sự chú ý, tập trung và ý thức,
là những cái làm cho tiến trình cầu nguyện của con người được dễ
dàng.328
d. Cầu Nguyện Tập Trung Và Niềm Vui Thiêng
Liêng
Các bậc thầy Zen hay Yoga có thể
cầu nguyện (suy niệm và chiêm niệm) liên tục nhiều giờ. Họ cầu
nguyện bằng tâm trí hay chính xác hơn là bằng cách tập trung tư
tưởng.329 Đây là một hình thức cầu nguyện rất đơn giản, thường
không dùng lời nói (cầu nguyện bằng lời). Để đi vào cầu nguyện tập
trung, ta phải để mình hoàn toàn lệ thuộc vào Chúa và để cho tình
yêu của Chúa Thánh Thần chi phối. Hãy lặn xuống trong sâu thẳm cõi
lòng, nơi đó Thiên Chúa đang thực hiện những điều kỳ diệu; và hãy mở
lòng cho Chúa Thánh Thần đang cư ngụ trong ta.
Phương pháp của cầu nguyện tập trung
là:
* Ngồi yên lặng, tư thế thoải mái và thư
giãn;
* Nghỉ ngơi trong lòng khao khát Chúa;
* Hướng vào trung tâm bản ngã của mình;
* Trong yên lặng, ý thức sự hiện diện của
Chúa và bình an hấp thụ tình yêu của Ngài.330
Ngày nay, nhiều người công giáo học
theo phương pháp cầu nguyện này. Các nhà đào tạo có thể thực hành và
dạy chủng sinh áp dụng phương pháp này trong đời sống cầu nguyện của
họ. Nếu kiên trì tập luyện thì ngày qua ngày, cầu nguyện tập trung
sẽ giúp họ đi vào hiệp thông với Chúa ở mức độ sâu thẳm nhất của
chính họ. Họ sẽ cảm thấy bình an hơn và càng ao ước mối tương quan
yêu thương này với Chúa. Họ sẽ được thúc đẩy tìm kiếm sự kết hiệp
chiêm niệm sâu xa hơn nữa, mà bất cứ người sống đời dâng hiến nào
cũng đều được mời gọi.
Nếu nguyện gẫm được mô tả như lời cầu
nguyện của tâm trí tìm biến đổi con tim, thì chiêm niệm là lời cầu
nguyện của con tim sẽ biến đổi tâm trí. Cầu nguyện tập trung có thể
giúp những người tìm kiếm Chúa kinh nghiệm được lợi ích tuyệt vời
này. Thay vì dùng nhiều lời, ta có thể bắt đầu cầu nguyện tập trung
bằng cách chọn một lời thôi: một lời thánh thiêng mang một ý nghĩa
đặc biệt, có thể là một danh hiệu của Chúa, hay một lời rút ra từ
Thánh Kinh.
Sau khi đã ổn định được tư thế thoải
mái và thư giãn để cầu nguyện, hãy để nhịp thở nhẹ nhàng và đều đặn,
hãy nhắm mắt lại và nói lên trong thinh lặng lời thánh thiêng đó,
chú tâm vào sự hiện diện của Chúa và biểu lộ lòng ưng thuận của mình
cho hoạt động của Ngài nơi bản thân mình. Khi những tư tưởng hay cảm
nhận, những hình ảnh và kỷ niệm nổi lên làm chia trí, hãy nhẹ nhàng
quay trở lại với lời thánh thiêng đó và để nó chiếm lĩnh hiện trường
của ý thức. Không cần phải làm gì nhiều hơn thế. Không có gì đặc
biệt để phấn đấu hay bất cứ kết quả rõ ràng nào để đạt cho được. Khi
thời giờ cầu nguyện đã hết, từ sâu thẳm cuộc đối thoại thinh lặng
với Chúa, hãy từ từ trở về cùng thế giới bên ngoài và những hoạt
động thường nhật của mình.331
e. Vượt Qua Những Khó Khăn và Kiên Trì
Trong Đời Sống Cầu Nguyện332
Người ta phải nhắc các chủng sinh
nhớ những thực tế này: Họ có thể gặp nhiều khó khăn trong suốt hành
trình cầu nguyện của mình. Cầu nguyện không chỉ gồm toàn những kinh
nghiệm vui mừng và thích thú. Khô khan và tăm tối cũng là một phần
thiết yếu trong quá trình trưởng thành và biến đổi. Tự biết mình
không phải luôn luôn là một kinh nghiệm vui thích, nhưng thông
thường là một quá trình đau đớn của sự chấp nhận chính mình để được
chữa lành. Họ phải học sống khiêm nhường, siêu thoát, từ bỏ và quên
mình để chiến đấu chống lại tính kiêu căng tự mãn với tất cả những
sức kháng cự tiềm ẩn của nó. Chỉ với lòng khiêm tốn và sự cởi mở với
ơn Chúa, họ mới có thể đương đầu trong cuộc chiến đấu này.
Cách cầu nguyện Á Châu này thúc đẩy
trọn vẹn con người vào trong mối tương quan với Chúa và làm biến đổi
con người cách lớn lao trong mọi chiều kích (thể lý, tâm lý và
thiêng liêng): Siêu nhiên không phá hủy tự nhiên, nhưng thăng tiến
tự nhiên. Vậy, một khi áp dụng cách thực hành lắng nghe, thư giản và
tập trung, người ta càng trở nên ý thức hơn mình là ai và phải làm
gì, không chỉ trong lời cầu nguyện mà còn trong đời sống hằng ngày
của mình nữa.
7. Để Thành Người Lãnh Đạo Cầu Nguyện
a. Học Làm Sao Chủ Sự Cầu Nguyện
“Linh mục chỉ có thể huấn luyện
người khác trong trường cầu nguyện của Chúa Giêsu, nếu chính Ngài đã
được huấn luyện trong trường đó và tiếp tục nhận được sự đào luyện
này.”333 Một khía cạnh căn bản trong chiều kích mục vụ của cầu
nguyện là việc chủ sự cầu nguyện, phụng vụ và các bí tích, đặc biệt
là Bí tích Thánh Thể.
Các chủng sinh luân phiên với các nhà
đào tạo trong việc hướng dẫn giờ Kinh Sáng và giờ Kinh Chiều. Những
cơ hội này cung cấp cho họ kinh nghiệm hướng dẫn cầu nguyện, là một
trách nhiệm hàng đầu của linh mục. Một trong những vai trò của việc
cử hành là giúp cộng đoàn cầu nguyện, bằng cách làm cho cộng đoàn có
thể đi vào trong chính mầu nhiệm đang cử hành. Tất cả những tác viên
khác của cử hành phụng vụ đều có vai trò của họ, nhưng vai trò của
linh mục có tầm quan trọng hàng đầu. Sự hiện diện, những lời suy
niệm và phẩm chất các bài giảng của ngài đều mang tính thúc giục
quyết tâm.
Tuy nhiên, linh mục chủ sự đôi khi có
cảm giác mình không thể cầu nguyện sốt sắng được. Ngài thường bị chi
phối bởi tiến trình cử hành, bởi những chi tiết của việc tổ chức và
bởi những phản ứng của cộng đoàn. Đôi khi ngài cảm thấy không hài
lòng.
Vì thế, các linh mục tương lai cần
phải được chuẩn bị cho lời kinh phụng vụ mà họ sẽ chủ sự, về phương
diện kỹ thuật cũng như phương diện thiêng liêng, để họ sống những gì
họ nói và thấy. Nếu được chuẩn bị thực sự, vị chủ sự sẽ cảm thấy tự
do hơn để cầu nguyện và qui tụ lời cầu nguyện của cộng đoàn lên
Chúa. Vị chủ sự luôn nói “chúng ta:” ngài không thể cầu nguyện giống
hệt như các thành viên khác của cộng đoàn cầu nguyện, họ vốn không
có một trách nhiệm đặc biệt gì. Ngài phải hướng dẫn cộng đoàn cầu
nguyện, bằng cử chỉ và lời nói, và ngài cầu nguyện nhân danh toàn
thể cộng đoàn. Vị chủ sự phải chú tâm đến những lúc suy niệm trong
phụng vụ, đúng theo nghi thức. Như thế, khi vị chủ sự cầu nguyện
trong vai trò của mình và đúng theo vai trò của mình, ngài sẽ cầu
nguyện cách cá nhân.
Trong thời gian ở chủng viện, việc
huấn luyện phụng vụ phải cung ứng cho chủng sinh một sự chuẩn bị tốt
cho việc cử hành, không chỉ về mặt kỹ thuật, mà nhất là về mặt
thiêng liêng. Phải quan tâm cho các chủng sinh có cơ hội lên tiếng
trong cử hành phụng vụ (chẳng hạn vào lúc bắt đầu Thánh Lễ). Việc đó
khiến họ cố gắng giúp cộng đoàn đi vào cầu nguyện. Trong việc thực
thi sứ vụ của mình, các phó tế được chủ sự bí tích Thánh Tẩy, bí
tích Hôn Phối và nghi thức An Táng. Đừng quên tiếp tục đồng hành
giúp họ khám phá ra phận vụ của họ.
b. Học Hướng Dẫn Dân Chúa Trong Hành Trình
Thiêng Liêng của Họ
Các ứng sinh linh mục phải chuẩn
bị chính họ để trở thành Thày dạy Lời Chúa, Thừa tác viên Bí tích,
và Người Lãnh Đạo Cộng đoàn. Nói cách khác, họ phải học làm sao
hướng dẫn cộng đoàn Dân Chúa trong đời sống thiêng liêng, đặc biệt
trong việc linh hướng. Trong lãnh vực này, ta phải điều chỉnh lại
quan niệm cho rằng mọi linh mục đều có thể trở thành vị linh hướng,
vì ngày nay việc linh hướng và xưng tội có thể tách biệt nhau. Những
ai muốn và được cắt cử làm linh hướng phải được Chúa Thánh Thần kêu
gọi và phải được đào tạo kỹ lưỡng. Do đó, tất cả các chủng sinh,
nhất là các thày trong năm phó tế, phải học nghệ thuật và kỹ năng
làm linh hướng.334
còn tiếp
|