B. Sau công đồng Vatican II
Sau công đồng, thần học về đời tu chú trọng tới ý niệm thánh
hiến. Khuynh hướng này muốn làm nổi bật chiều kích hướng thượng
của đời sống thánh hiến và định nghĩa đời tu như là sự tận hiến
cho Thiên Chúa. Ý niệm này được giải thích rõ ràng trong văn
kiện Những yếu tố cốt yếu của đời tu (EE) của Bộ Tu sĩ,
từ số 5 đến số 12, năm 1983. Bên cạnh đó, thần học về đời tu
cũng đi theo một chiều hướng khác, dựa trên ý niệm đặc sủng/sứ
mệnh. Thần học về đặc sủng làm nổi bật tính cách năng động
truyền giáo, tính chất đa dạng của các hội dòng và đề cao tác
động của Chúa Thánh Thần. Trong khi đó, thần học về thánh hiến
khai triển chiều kích thần bí (hướng thượng) của đời tu, thích
hợp với các hội dòng chiêm niệm hơn là với các hội dòng hoạt
động và nó có khuynh hướng dẫn đến một mẫu số chung cho tất cả
các hội dòng, có nguy cơ làm mất đi tính cách đa dạng phong phú
của đời tu. Thật vậy, ý niệm thánh hiến đào sâu chiều kích
thiêng liêng, còn ý niệm đặc sủng nhấn mạnh đến sứ vụ. Như vậy,
thánh hiến hay đặc sủng/sứ mệnh tạo nên căn tính của đời sống
thánh hiến?
Sau công đồng, có nhiều văn kiện nói về thánh hiến và đặc
sủng/sứ mệnh như: tông huấn Hồng ân cứu độ (RD) đào sâu
về chiều kích thần bí của đời tu; văn kiện Mối tương quan
giữa các Giám mục với các tu sĩ (MR) đề cập chiều kích đặc
sủng/sứ mệnh; tông huấn Chứng tá Tin Mừng (ET), văn kiện
Những yếu tố cốt yếu của đời tu (EE) và huấn thị Về
việc đào tạo tu sĩ (PI) khai triển chiều kích thánh hiến và
sứ mệnh; Tông thư gởi các người tận hiến nhân dịp năm
Thánh Mẫu (22/5/1988) của Đức Gioan Phaolô II, mời gọi các
tu sĩ suy niệm với Đức Maria về ý nghĩa của đời sống thánh
hiến, dựa trên ba chủ đề: ơn gọi, thánh hiến và hoạt động tông
đồ; văn kiện Tu sĩ với sự thăng tiến con người nói về
việc tu sĩ tham gia vào sứ mệnh của Giáo hội đối với con người
và xã hội, v. v.
Tông huấn về đời sống thánh hiến (Vita consecrata, 1996)
của Đức Gioan Phaolô II đã đúc kết các văn kiện của Giáo hội,
cũng như những suy tư thần học về đời sống thánh hiến từ công
đồng Vatican II. Đặc biệt, tông huấn khai triển hai chiều kích
thánh hiến và sứ mệnh của đời sống thánh hiến. Đức Giáo hoàng có
vẻ nghiêng về ý niệm thánh hiến, vì ngài đã dùng ý niệm này để
định nghĩa căn tính của đời tu (Vita Consecrata). Nhưng tông
huấn đã nối kết và dung hòa hai ý niệm này. Hai ý niệm này bổ
sung cho nhau, tạo nên căn tính của đời sống thánh hiến.
1. Tông huấn Vita Consecrata
a. Chuẩn bị cho Tông huấn
Tông huấn Vita Consecrata của Đức Gioan Phaolô II được
ban hành ngày 25/3/1996, là kết quả của THĐGM thế giới về chủ đề
“Đời sống thánh hiến và sứ mệnh của đời sống này trong Giáo hội
và trong thế giới” (khai mạc ngày 2/10 và kết thúc vào ngày
29/10/1994). THĐGM thế giới bao gồm: ngoài 244 nghị phụ được mời
theo quy luật chung, còn có 75 dự thính viên thuộc các dòng tu
(51 nữ và 24 nam thuộc về các hội dòng, tu hội đời và tu đoàn
tông đồ), 20 chuyên viên (12 nam, 8 nữ) và 9 dự thính viên thuộc
các Giáo hội ngoài Công giáo.
Đức Giáo hoàng đã tham dự các phiên họp của THĐ, ngài không can
thiệp nhưng ghi chép lại những gì được đem ra thảo luận và trong
suốt thời gian họp THĐ, ngài đã mời mọi người, theo từng nhóm,
đến ăn tối với ngài.
Một trong số những vấn đề chính nổi lên trong các cuộc bàn luận
của THĐ là thần học về sự “thánh hiến”. Nó bị cho là có tính
cách hàm hồ: sự thánh hiến hay tận hiến là một hành vi của con
người hay của Thiên Chúa? Mọi Kitô hữu đều được thánh hiến trong
bí tích Rửa tội, vậy sự thánh hiến của tu sĩ có thêm gì mới hay
không? Ngoài ra, ý niệm thánh hiến chỉ nhấn mạnh đến chiều kích
thiêng liêng của đời tu, mà không thúc đẩy họ tham gia vào hoạt
động tông đồ.
Một vấn đề khác mà THĐ cũng không nhất trí được và xin Đức Giáo
hoàng tìm ra câu giải đáp khi soạn tông huấn, đó là: sự thánh
hiến của các tu sĩ có nằm trong bản chất của Giáo hội hay không
hay chỉ là con đẻ của lịch sử? Vì đời tu chỉ xuất hiện vào thế
kỷ III, như vậy nó không nằm trong ý định của Chúa Giêsu khi
thành lập Giáo hội.
Sau khi thảo luận, THĐ đã đúc kết thành 55 đề nghị (Propositiones)
trình lên Đức Giáo hoàng để ngài soạn thảo tông huấn, theo dàn
bài sau:
- Mở đầu (số 1- 2)
- Phần I: Đời sống thánh hiến (số 3- 27): phần này chủ yếu đưa
ra những vấn đề về bản chất, các hình thức và những yếu tố tinh
thần căn bản của đời sống thánh hiến
- Phần II: Sự hiệp thông (số 28- 34)
- Phần III: Sứ mệnh (số 35- 55)
Trong ba phần này, phần I (đề nghị số 3) được coi là quan trọng,
vì nó yêu cầu Đức Giáo hoàng xác định bản chất thần học của đời
tu.
Từ tài liệu làm việc (Instrumentum Laboris) đến các đề
nghị (Propositiones) và tông huấn đều theo một cấu trúc
giống nhau: thánh hiến- hiệp thông- sứ mệnh. Ba phần này ăn khớp
và bổ túc cho nhau, giống như khi trình bày và hiểu về Giáo hội.
Đây là mô hình về Giáo hội đã trở thành quen thuộc. Giáo hội
được trình bày như là Mầu nhiệm, hiệp thông và sứ mệnh (x. LG,
chương I; AG, chương I; CCC 748-975): chỉ có thể hiểu được Giáo
hội trong mối tương quan với Thiên Chúa Ba Ngôi (Mystery), nguồn
gốc của Giáo hội; qua đó, Giáo hội là bí tích của sự kết hợp mật
thiết với Thiên Chúa và của sự hiệp nhất toàn thể nhân loại
(Trinitarian Communion); và như một hệ quả, Giáo hội tham gia
vào sứ mệnh cứu độ của Thiên Chúa (Mission).
Khi nhìn đời sống thánh hiến dưới khía cạnh Giáo hội học này,
chúng ta mới hiểu được sự thánh hiến của đời tu, các đặc sủng,
sự đa dạng, tính năng động và sáng tạo của đời sống này.
b. Bố cục của Tông huấn
Ngoài phần mở đầu nói lên sự cần thiết của đời sống thánh hiến
trong Giáo hội (số 3) và sự đa dạng, phong phú của đời sống
thánh hiến (số 5- 12; x. số 62), tông huấn được triển khai theo
3 phần chính: Confessio Trinitatis (thánh hiến hay hướng
thượng): số 14- 40, Signum Fraternitatis (hiệp thông hay
hướng nội): số 41- 71 và Servitium caritatis (sứ mệnh hay
hướng ngoại): số 72- 103.
Phần I: Confessio Trinitatis (Tuyên xưng Thiên Chúa Ba
Ngôi- Nguồn gốc Kitô và Ba Ngôi của đời sống thánh hiến). Đây là
phần có nội dung thần học rất phong phú về đời sống thánh hiến,
bao gồm các chiều kích/khía cạnh sau:
1. Kitô (số 14- 24)
2. Ba Ngôi (số 17- 19)
a. Trong tương quan với Chúa Cha (số 17)
b. Trong tương quan với Chúa Kitô (số 18)
c. Trong tương quan với Chúa Thánh Thần (số 19)
d. Tương quan với Thiên Chúa Ba Ngôi qua các lời khuyên Phúc âm
(số 16- 21)
3. Đức Maria (số 23, 28, 34, 112)
4. Giáo hội (số 3, 25, 26, 29, 32- 34)
Phần II: Signum Fraternitatis (Dấu chỉ huynh đệ- Dấu chỉ
hiệp thông trong Giáo hội).
Sự hiệp thông huynh đệ bắt nguồn và dựa trên khuôn mẫu hiệp
thông của Ba Ngôi Thiên Chúa (số 41, 42). Đời sống huynh đệ
trong cộng đoàn là dấu chỉ rõ ràng sự hiệp thông của Giáo hội
(số 42a). Những người tận hiến là những chuyên gia về sự hiệp
thông (số 46a), trở thành men hiệp thông truyền giáo (số 47a) và
mở rộng sự hiệp thông tới toàn thể nhân loại (số 51). Thật vậy,
“Giáo hội ký thác cho các cộng đoàn sống đời thánh hiến một
nhiệm vụ đặc biệt: phát triển linh đạo hiệp thông trước tiên
trong chính cộng đoàn của họ, sau đó trong cộng đồng Giáo hội và
ngoài Giáo hội, bằng cách kiên trì theo đuổi cuộc đối thoại bác
ái, nhất là tại những nơi mà nhân loại ngày nay đang bị xâu xé
bởi hận thù chủng tộc hay bạo lực man rợ.” (số 51a)
Bên cạnh kiểu mẫu Ba Ngôi, tông huấn cũng nói đến cộng đoàn
Giêrusalem nguyên thủy (Cv 2, 42- 47; 4, 32- 35) như là kiểu mẫu
của tất cả các cộng đoàn tu trì (số 41a).
Sự hiệp thông được trình bày dưới những cấp độ sau:
1. Hiệp thông huynh đệ trong cộng đoàn (số 42- 45)
2. Hiệp thông với Giáo hội toàn cầu và địa phương (số 46- 51)
3. Hiệp thông giữa các dòng tu (số 52- 53)
4. Hiệp thông với giáo dân (số 54- 56)
Đây có thể nói là phần “nghèo nhất” của tông huấn, vì tựa đề của
phần này đã được diễn giải trong các văn kiện trước đó:
Mutuae Relationes (MR): Mối tương quan giữa các Giám mục với
các tu sĩ, 1978), Vita Fraterna in Communitate (FLC): Đời
sống huynh đệ trong cộng đoàn, 1994) và Potissimum
Insitutioni (PI): Về việc đào tạo tu sĩ, 1990). Vì có nhiều
vấn đề phức tạp trong phần này cũng như tông huấn muốn trả lời
những câu hỏi được ghi trong các đề nghị, nên tông huấn đã qui
chiếu vào những văn kiện này. Để hiểu rõ hơn phần này, chúng ta
cần đọc những văn kiện trên, đặc biệt văn kiện Vita Fraterna
in Communitate. Tông huấn cũng để ngỏ một số vấn đề (x. số
57- 58, 59, 60- 61, 62),
vì một văn kiện không thể giải đáp được mọi vấn đề, cũng như
không thể đưa ra được tất cả mọi qui tắc. Đây cũng là lý do tại
sao phần này không được cấu trúc một cách mạch lạc và ăn khớp
với nhau: sự hiệp thông, việc đào tạo, một số vấn đề của các
dòng tu, vai trò của phụ nữ, v.v.
Phần III: Servitium caritatis (Phục vụ bác ái- Biểu lộ
tình yêu Thiên Chúa giữa thế gian).
Người tu sĩ được thánh hiến để thi hành sứ vụ (số 72- 75). Vai
trò đặc biệt của đời sống thánh hiến trong sứ mệnh truyền giáo
là dấu chỉ/chứng tá (số 15, 25, 27, 32-35, 76, 92) và ngôn sứ
(số 84- 95). Tông huấn nói đến một số môi trường hoạt động tông
đồ sau:
1. Truyền giáo cho lương dân (số 77- 78)
2. Hội nhập văn hóa (số 79- 80)
3. Phục vụ người nghèo và người bệnh (số 82- 83)
4. Giáo dục (số 96- 97)
5. Truyền thông xã hội (số 99)
6. Đối thoại đại kết và liên tôn (số 100- 103)
Như vậy đời sống thánh hiến là lời tuyên xưng (Confessio),
dấu chỉ/ chứng tá (Signum) và sự phục vụ (Servitium).
Sự hiện diện của đời sống thánh hiến có tính cách chứng tá, ngôn
sứ và sứ mệnh. Do đó, đời sống thánh hiến đáp ứng những nhu cầu
căn bản của thời đại chúng ta (số 85a), là một “liệu pháp thiêng
liêng” (số 87) và sự hiện diện của nó càng cần thiết hơn bao giờ
hết (số 104- 105).
Theo ĐHY Martinez Somalo, Tổng trưởng Bộ Tu sĩ, ba phần này đáp
ứng ba khát vọng của thời đại:
- Khát vọng về giá trị tinh thần (hướng thượng)
- Khát vọng về tình tương trợ, liên đới (hướng nội)
- Khát vọng về bác ái vô vị lợi (hướng ngoại)
Phần I là phần phong phú nhất về thần học đời tu. Nó là chìa
khóa để hiểu được toàn bộ tông huấn: nguồn gốc Ba Ngôi của đời
sống thánh hiến (phần I) còn là căn bản và kiểu mẫu của sự hiệp
thông (phần II), và mọi đặc sủng (phần III) đều hướng về Chúa
Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần (số 36).
Tông huấn trích dẫn Lumen Gentium 38 lần, trong đó chỉ có
16 lần trích từ chương VI nói về đời tu: số 43 (1 lần), 44 (9),
46 (6), không trích các số 45 và 47. Perfectae Caritatis
được trích 14 lần: số 10 (4), số 1, 7, 8, 12, 15 (2). Như vậy,
tông huấn không dựa nhiều vào Vatican II, dù nó được coi là hoa
trái chín muồi của Vatican II. Tuy nhiên, tông huấn dựa vào và
đào sâu một số yếu tố đã có sẵn trong Lumen Gentium như
sự thánh hiến; các lời khuyên Phúc âm; các chiều kích Kitô, Thần
khí, Giáo hội, cánh chung của đời sống thánh hiến, v.v. So sánh
với Perfectae Caritatis, tông huấn có cái nhìn mở hơn khi
nói về những hình thức mới của đời sống thánh hiến, nhấn mạnh
đến nguồn mạch đời sống thiêng liêng của bất cứ sự đổi mới nào,
những chân trời mới cho các lời khuyên Phúc âm và đời sống huynh
đệ, mối quan hệ với người giáo dân, đề cao vai trò và phẩm giá
của người phụ nữ, những lãnh vực mới của sứ vụ, tân Phúc âm hóa,
đại kết,… Những yếu tố này đã được nói tới trong Perfectae
Caritatis, nhưng chúng được diễn giải trong bối cảnh của
những năm 60; nay tông huấn muốn nhấn mạnh đến sự “trung thành
sáng tạo” (số 37) để thích nghi với thế giới hiện tại.
Dù tông huấn đã đào sâu thần học về đời sống thánh hiến, nhưng
Đức Giáo hoàng “ước mong công việc suy tư này vẫn còn được tiếp
tục, nhằm giúp hiểu sâu hơn ân huệ lớn lao của đời sống thánh
hiến trong ba chiều kích thánh hiến, hiệp thông và sứ mệnh.” (số
13e)
2. Căn tính của đời sống thánh hiến theo Vita Consecrata:
thánh hiến và sứ mệnh
Hai chiều kích thánh hiến và sứ mệnh được gắn chặt với nhau, bổ
túc cho nhau. Sự thánh hiến bao hàm sứ mệnh, vì việc trở nên
đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô cũng có nghĩa là tham gia vào
sứ mệnh của Ngài. Và sứ mệnh lại dẫn đến thánh hiến, vì việc
truyền giáo của đời sống thánh hiến thiết yếu ở chứng tá của
chính sự tận hiến (số 76). Chứng tá quan trọng nhất của đời sống
thánh hiến là sự thánh thiện (số 32 - 35).
a. Thánh hiến (Phần I: số 14- 40)
Ngay số đầu tiên của phần I này, tông huấn đã cho thấy sự khác
biệt giữa sự thánh hiến của phép Rửa và sự thánh hiến của đời
tu. Sự thánh hiến của đời tu không phải là hệ quả tất yếu của sự
thánh hiến của phép Rửa; vì để bước theo Chúa Kitô, họa lại nếp
sống của Ngài, cần phải có một ơn gọi đặc biệt và nhờ một
ân huệ đặc biệt của Chúa Thánh Thần. Ơn gọi bao hàm sự tuyển
chọn và thánh hiến (số 14, 17, 30, 31). Ân huệ này Thiên Chúa
không ban cho tất cả mọi người, như chính Chúa Giêsu đã nói
trong trường hợp độc thân tự nguyện (x. Mt 19, 10- 12). Bí tích
Rửa tội không bao hàm một ơn gọi sống độc thân, sự từ bỏ của cải
và sự vâng lời một bề trên, như trong bậc sống tu trì (số 30b).
Mọi tín hữu đều được thánh hiến qua phép Rửa và Thêm sức, những
người lãnh tác vụ do bí tích Truyền chức và trong đời sống tu
trì “giả thiết một ơn gọi riêng và một hình thái thánh
hiến đặc biệt, nhằm chu toàn một sứ mệnh riêng… Những người
tận hiến tuyên giữ những lời khuyên Phúc âm, được thánh hiến một
cách mới mẻ và đặc biệt, dù không phải là bí tích, nhưng
ràng buộc họ chấp nhận lối sống độc thân, khó nghèo và vâng phục
mà chính Chúa Giêsu đã sống và đề nghị cho các môn đệ.” (số 31)
“Trong truyền thống Giáo hội, việc tuyên khấn của đời sống tu
trì được xem như việc đào sâu độc đáo và phong phú sự thánh hiến
đã lãnh nhận trong phép Thánh Tẩy. Nhờ việc tuyên khấn ấy, sự
kết hợp thâm sâu với Chúa Kitô đã khai mào trong phép Thánh Tẩy,
được triển nở thành một hồng ân trở nên đồng hình đồng dạng với
Ngài một cách rõ rệt và trọn vẹn hơn nhờ tuyên giữ các lời
khuyên Phúc âm… Việc tuyên giữ các lời khuyên Phúc âm cũng là
việc triển khai ân sủng của bí tích Thêm sức, nhưng nó vượt quá
những đòi hỏi thông thường của việc thánh hiến nhận trong bí
tích này. Vì vậy, cần có một ơn đặc biệt của Chúa Thánh
Thần để phát triển những khả năng mới, sản sinh những hoa trái
thánh thiện và tông đồ như lịch sử đời sống thánh hiến đã chứng
tỏ.” (số 30). Ba bậc sống trong Hội thánh tuy có cách thể hiện
khác nhau, nhưng đều là công trình của Chúa Thánh Thần. Chúa
Thánh Thần tạo nên sự đa dạng và chính Ngài cũng làm cho Hội
thánh trở thành một mối hiệp thông giữa các ơn gọi, đặc sủng và
thừa tác vụ (số 31) “Dù ba bậc sống khác nhau, đều biểu lộ mầu
nhiệm duy nhất của Chúa Kitô. Giáo dân có đặc tính riêng biệt,
tuy không độc hữu, là sinh hoạt trần thế; các chủ chăn có trách
nhiệm về tác vụ; còn những người tận hiến thì cố gắng trở nên
đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô khiết tịnh, khó nghèo và vâng
phục.” (số 31; x. số 32)
Nhưng tại sao đời sống thánh hiến không phải là bí tích như các
bậc sống khác? Đây là vấn đề đã và vẫn đang được bàn cãi. Chúng
ta có thể trả lời rằng không cần thiết để có thêm một bí tích
nữa, vì đời sống thánh hiến là một lối sống theo Thần khí để đào
sâu thêm, sống triệt để ba bí tích đã có sẵn: các bí tích khai
tâm Kitô giáo. Đây là ơn gọi đặc biệt và sứ mệnh của họ giữa dân
Thiên Chúa. Thật vậy, đời sống thánh hiến làm nổi bật sự thánh
hiến của Kitô hữu (bí tích Rửa tội), sự hiệp thông
(bí tích Thánh Thể) và sứ mệnh (bí tích Thêm sức) (số 31b), khi
bước theo Chúa Kitô trinh khiết, khó nghèo và vâng phục (số 1a).
Vì thế, tông huấn đã khai triển ba phần chính: thánh hiến, hiệp
thông và sứ mệnh, để nhấn mạnh đến ý nghĩa cũng như nội dung của
chúng. Qua đó, đời sống thánh hiến “biểu lộ rõ ràng bản tính sâu
xa của ơn gọi Kitô giáo”, “gắn chặt với nếp sống, sự thánh thiện
và sứ mệnh của Giáo hội” (số 3a), “nhắc nhở cho những người đã
được rửa tội về các giá trị cơ bản của Tin mừng” (số 33a).
Vatican II xây dựng thần học về đời tu trên nền tảng Kitô học:
đời tu là sự hiệp thông với Chúa Kitô, bắt chước Ngài qua việc
tuân giữ các lời khuyên Phúc âm. Tông huấn đã đánh dấu một bước
tiến mới trong thần học về đời tu khi lấy lại ý niệm “bước theo
Chúa Kitô” (số 15, 18) của công đồng và mở rộng đến tương quan
với Ba Ngôi. Nói cách khác, tông huấn đào sâu về nguồn gốc Kitô
và Ba ngôi của đời sống thánh hiến. Tông huấn khai triển những
chiều kích sau:
- Kitô (số 14- 24)
Theo truyền thống Latinh, đời tu được xem như là một đời sống tu
thân khắc kỷ, bỏ mình, vác thập giá theo Chúa; nhưng truyền
thống Đông phương lại chú trọng đến sự “biến hình”, biến đổi từ
con người trần tục sang con người thánh thiêng khi bước theo
Chúa. Mối phúc đối với người phương Đông là sự chiêm niệm: “Phúc
thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên
Chúa” (Mt 5, 8); còn đối với người phương Tây là “phúc thay ai
xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương.” (Mt 5,
7) Đức Gioan Phaolô II đã dung hòa hai cái nhìn trên khi sử
dụng khung cảnh Chúa Giêsu biến hình trên núi (Mt 17, 1- 9) làm
sườn cho cả văn kiện (số 14- 16): chủ đề thập giá và vinh quang
liên kết với nhau trong mầu nhiệm Vượt qua của Chúa Kitô. Con
đường tu đức không chỉ là con đường khổ chế, mà còn được coi như
là cuộc đi tìm cái đẹp. Người tận hiến trải qua kinh nghiệm của
ngôn sứ Giêrêmia: “Lạy Chúa, Ngài đã quyến rũ con, và con để cho
Ngài quyến rũ” (Gr 20, 7) (số 19). Người tu sĩ bị thu hút bởi vẻ
đẹp của Chúa, say mê chiêm ngưỡng Chúa, ở kề bên Chúa, đàm đạo
với Ngài, để rồi phản chiếu dung nhan rạng ngời của Ngài (số
27). Sau khi chiêm ngắm Chúa biến hình, các môn đệ còn phải trèo
lên núi Sọ (số 14, 40). Giống như Chúa Giêsu, họ cần phải qua
núi Sọ để bước vào vinh quang khải hoàn. Thật vậy, đời sống
thánh hiến phải được coi như là một cuộc “biến hình,” bước theo
Chúa Kitô khiết tịnh, khó nghèo và vâng lời (số 14, 16, 18, 22),
trở nên “đồng hình đồng dạng” với Chúa Kitô (số 16) và tham dự
vào mầu nhiệm thập giá và phục sinh của Ngài (số 23- 24).
Tuy khung cảnh “biến hình” thích hợp với phương Đông hơn là
phương Tây, nhưng tông huấn đã kết hợp Đông- Tây, hai lá phổi
của Giáo hội, một cách rất hài hòa và sinh động: phương Đông
“lên núi”, chiêm ngắm để hưởng vinh quang với Chúa; còn phương
Tây “xuống núi”, trở về với thực tại cuộc sống và “phục vụ”, can
đảm dấn bước trên con đường thập giá (số 14c). Sự khác biệt giữa
Đông và Tây tạo nên sự phong phú cho Giáo hội.
Tóm lại, tông huấn trình bày thần học về đời sống thánh hiến với
tất cả vẻ đẹp của nó trong khung cảnh Chúa Giêsu biến hình trên
núi; đồng thời, việc chiêm ngắm dung mạo Chúa Kitô biến hình
giúp người tận hiến cố gắng trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa
Kitô, tìm cách diễn lại nơi chính mình, chừng nào có thể, “nếp
sống Con Thiên Chúa đã chọn khi Ngài xuống thế” (số 16), để mọi
người có thể nhận thấy Chúa Kitô nơi khuôn mặt và cuộc sống của
họ (một cuộc sống “biến hình”). Tông huấn tô đậm chiều kích Kitô
của đời sống thánh hiến, nhưng chiều kích Kitô này là một chiều
kích Kitô Ba Ngôi như chúng ta thấy dưới đây
- Ba Ngôi (số 17- 19)
Khía cạnh Ba Ngôi của đời sống thánh hiến được tông huấn triển
khai khi nói về nguồn gốc của sự thánh hiến (số 17- 19), các lời
khuyên Phúc âm (số 20- 21), đoàn sủng (số 36), hiệp thông cộng
đoàn (số 41), huấn luyện (số 66), sứ mệnh (số 72), và kinh
nguyện dâng lên Ba Ngôi (số 111).
Việc trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô đương nhiên bao
hàm tương quan với Ba Ngôi Thiên Chúa, vì Chúa Kitô đã sống trọn
tình con thảo với Chúa Cha. Thật vậy, ngay từ đầu, tông huấn đã
xác định nguồn gốc Ba Ngôi của đời sống thánh hiến: “Đời sống
thánh hiến, bén rễ sâu trong gương mẫu và giáo huấn của Chúa
Kitô, là một ân huệ của Thiên Chúa Cha ban cho Giáo hội qua Chúa
Thánh Thần… Trải qua các thời đại, luôn có những người sẵn sàng
nghe theo tiếng gọi của Chúa Cha, dưới sự thúc đẩy của Chúa
Thánh Thần, đã chọn con đường đặc biệt để bước theo Chúa Kitô.”
(số 1) Đời sống thánh hiến hiện hữu không chỉ nhờ Ba Ngôi, mà
còn vì Ba Ngôi và cho Ba Ngôi. Ba Ngôi chính là nguồn gốc, cùng
đích và kiểu mẫu của đời sống thánh hiến. Thật vậy, Ba Ngôi hiện
diện trong tất cả nội dung nền tảng của đời sống thánh hiến: các
lời khuyên Phúc âm (số 20- 21), đời sống cộng đoàn (số 41, 42,
72) và sứ mệnh (số 22, 72, 75; trong hành trình của đời sống
tu: ơn gọi (số 17), “bước theo Chúa Kitô” (số 18) và thánh hiến
(số 19); và trong những đặc tính của các đặc sủng (số 36). Do
vậy, đời sống thánh hiến trở thành việc tuyên xưng Thiên Chúa Ba
Ngôi (Confessio Trinitatis) (số 16d), việc tuyên xưng và
dấu chỉ của Thiên Chúa Ba Ngôi (số 21f, 20b).
Sự kêu gọi và thánh hiến là do sáng kiến của Chúa Cha. Ngài tách
riêng một ai đó cho Ngài (số 17). Bước theo Chúa Kitô, được
thánh hiến nhờ tuyên giữ các lời khuyên Phúc âm, trở nên đồng
hình đồng dạng với Ngài. Ngài là con đường dẫn tới Chúa Cha và
sứ mệnh (số 18). Các đặc sủng, sự thánh hiến và sứ mệnh là công
việc của Chúa Thánh Thần (số 19). Có thể tóm tắt nguồn gốc Ba
Ngôi của đời sống thánh hiến như sau: sáng kiến ban đầu phát
xuất từ Chúa Cha (số 17), sự đáp trả qua việc bước theo Chúa
Kitô (số 18) và được thánh hiến bởi Chúa Thánh Thần (số 19):
+ Trong tương quan với Thiên Chúa Cha (số 17): Sự thánh hiến là
một hồng ân, hoàn toàn do sáng kiến phát xuất từ tình yêu của
Thiên Chúa Cha (x. Ga 15, 16). Chính Ngài đã tuyển chọn và thánh
hiến. Ngài mời gọi con người tiến lên trên đường trọn lành qua
việc bước theo Chúa Kitô, vâng nghe lời Con yêu dấu của Ngài (x.
Mt 17, 5). Để đáp trả tiếng gọi tình yêu huyền nhiệm đó, con
người muốn dâng hiến toàn thân cho Ngài và cho chương trình cứu
độ của Ngài (x. 1Cr 7, 32- 34). Sự tận hiến diễn ra trong khung
cảnh của một giao ước tình yêu.
+ Trong tương quan với Chúa Kitô (số 18): Chúa Kitô là con đường
dẫn tới Chúa Cha (x. Ga 15, 16). Chúa Kitô kêu gọi một số người
bước theo Ngài, họa lại nếp sống của Ngài, trở nên đồng hình
đồng dạng với Ngài qua việc sống triệt để các lời khuyên Phúc
âm, hoàn toàn hiến thân để phụng sự Thiên Chúa và tha nhân.
+ Trong tương quan với Chúa Thánh Thần (số 19): Trong khung cảnh
biến hình (x. Mt 17, 5), đám mây là hình ảnh của Chúa Thánh
Thần. Đời sống thánh hiến là một ân huệ do Chúa Thánh Thần,
nguồn gốc của mọi đặc sủng, khơi gợi lên. Chính Ngài gợi lên
nguyện ước đáp trả trọn vẹn, làm cho họ nên đồng hình đồng dạng
với Chúa Kitô khiết tịnh, khó nghèo và vâng phục, thúc đẩy họ
đảm nhận sứ mạng của Chúa Kitô.
+ Tương quan với Ba Ngôi qua các lời khuyên Phúc âm (số 16- 21):
* Ba lời khuyên Phúc âm họa lại nếp sống của Chúa Kitô (số 18;
x. 14a, 16c, 22ab, 29c, 31d, 111c).
* Giá trị phong phú của các lời khuyên Phúc âm được đặt trong
mối tương quan với Chúa Cha (giá trị tuyên xưng Chúa Kitô) (số
16c): sự khiết tịnh bắt chước tình yêu thanh khiết của Chúa Kitô
và tuyên xưng Ngài là Con Một, đồng nhất với Chúa Cha (x. Ga 10,
30; 14, 11); sự khó nghèo tuyên xưng Chúa Kitô là Con, lãnh nhận
mọi sự từ Chúa Cha và dâng mọi sự lại cho Chúa Cha vì yêu thương
(x. Ga 17, 7. 10); sự vâng phục tuyên xưng Chúa Kitô là Con rất
yêu dấu của Chúa Cha, luôn vui thích thi hành ý muốn của Chúa
Cha (x. Ga 4, 34).
“Do việc trở nên đồng hình đồng dạng với mầu nhiệm Chúa Kitô như
thế, đời sống thánh hiến thực hiện với một tư cách đặc biệt việc
tuyên xưng Thiên Chúa Ba Ngôi, đặc tính của mọi đời sống Kitô
hữu: nhận biết với lòng kính phục vẻ đẹp tuyệt vời của Chúa Cha,
Chúa Con và Chúa Thánh Thần, cùng hoan hỉ làm chứng về sự quan
tâm yêu thương của Thiên Chúa dành cho mọi người.” (số 16d)
* Ba lời khuyên Phúc âm là một ân huệ của Thiên Chúa Ba Ngôi (số
20a). “Đời sống thánh hiến trở thành một trong những dấu ấn hữu
hình mà Thiên Chúa Ba Ngôi để lại trong lịch sử, hầu mọi người
có thể nhận ra được sức hấp dẫn mê hoặc của vẻ đẹp thần linh.”
(số 20b)
* Ba lời khuyên Phúc âm biểu lộ tình yêu của Chúa Con đối với
Chúa Cha trong sự hợp nhất với Chúa Thánh Thần. Khi thực hiện
các lời khuyên này, người được thánh hiến sống một cách hết sức
sinh động đặc tính Ba ngôi và Kitô, là dấu ấn của toàn thể đời
sống Kitô hữu (số 21):
“Sự khiết tịnh biểu lộ sự dâng hiến một con tim không chia sẻ
cho Thiên Chúa
(x. 1Cr 7, 32- 34), phản ánh tình yêu liên kết Ba Ngôi Thiên
Chúa trong đời sống sâu thẳm nhiệm mầu của Ba Ngôi, tình yêu mà
Ngôi Lời Nhập Thể làm chứng cho đến hy sinh mạng sống, tình yêu
được Chúa Thánh Thần ‘đổ tràn vào lòng chúng ta’ (Rm 5, 5) và
thúc giục chúng ta đáp trả bằng tình yêu trọn vẹn dành cho Thiên
Chúa và cho anh chị em.” (số 21b; x. số 22b)
“Sự khó nghèo tuyên xưng Thiên Chúa là kho tàng đích thực duy
nhất của con người. Noi gương Chúa Kitô, ‘Người vốn giàu sang
phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó’ (2Cr 8, 9), sự nghèo
khó trở thành một cách diễn tả sự dâng hiến toàn thân như Ba
Ngôi Thiên Chúa trao ban trọn vẹn cho nhau. Sự trao ban dạt dào
ấy trào ra trong công cuộc sáng tạo và biểu lộ cách sung mãn
trong sự Nhập thể của Ngôi Lời và trong cái chết cứu chuộc của
Người.” (số 21c)
Sự vâng phục, noi gương Chúa Kitô, lấy thánh ý Chúa Cha làm
lương thực (x. Ga 4, 34), tuyên xưng tình yêu hòa hợp của Ba
Ngôi Thiên Chúa, biểu lộ một sự vâng phục hiếu thảo chứ không
phải nô lệ (số 21d; x. số 22b; 16c.
“Bởi đó, đời sống thánh hiến được mời gọi không ngừng đào sâu ân
huệ của các lời khuyên Phúc âm, bằng một tình yêu ngày càng chân
thành và mãnh liệt hơn trong chiều kích Ba Ngôi: tình yêu của
Chúa Kitô, mời gọi sống thân mật với Ngài; tình yêu của Chúa
Thánh Thần, chuẩn bị tâm hồn đón nhận những linh hứng của Ngài;
tình yêu của Chúa Cha, nguồn mạch đầu tiên và mục tiêu tối
thượng của đời sống thánh hiến. Như thế, đời sống thánh hiến trở
nên lời tuyên xưng và dấu chỉ về Ba Ngôi Thiên Chúa, mầu nhiệm
được tỏ bày cho Giáo hội như mẫu mực và nguồn mạch của mọi hình
thức đời sống Kitô hữu.” (số 21e)
Không phải ngẫu nhiên khi tông huấn đặt đời sống huynh đệ trong
cộng đoàn nằm ngay sau ba lời khuyên Phúc âm trong số 21
này (số 21f), vì một số tác giả ngày nay coi đời sống huynh đệ
như là “lời khuyên Phúc âm thứ tư”. Ngoài ra, tông huấn còn nối
kết ba lời khuyên Phúc âm với đời sống huynh đệ trong các số
72d, 85a, và 88-92. Thật vậy, giống như ba lời khuyên Phúc âm,
đời sống huynh đệ cũng có giá trị tuyên xưng Thiên Chúa Ba Ngôi:
đời sống huynh đệ tuyên xưng Chúa Cha, Đấng muốn cho mọi người
thành một gia đình duy nhất; tuyên xưng Chúa Con Nhập Thể, Đấng
muốn qui tụ những người được cứu chuộc; tuyên xưng Chúa Thánh
Thần là nguyên lý hiệp nhất trong Giáo hội (số 21f).
Các lời khuyên Phúc âm được tông huấn trình bày như là cốt lõi
của đời sống thánh hiến. Tông huấn không triển khai những khía
cạnh bên ngoài như pháp lý, khổ hạnh, luân lý,…, thường được nói
đến trong các văn kiện trước đấy (x. LG 39, 42; CCC 915); nhưng
đào sâu về thần học: chiều kích thần bí (Kitô và Ba Ngôi) của ba
lời khuyên Phúc âm. Mọi sự biểu lộ ra bên ngoài của các lời
khuyên Phúc âm đều phải là kết quả của sự kết hợp thâm sâu bên
trong này. Các lời khuyên Phúc âm không nên hiểu và sống như
những phương tiện để thanh luyện hoặc khổ chế, nhưng như là kinh
nghiệm, sự biến đổi và hậu quả của “ước muốn được hoàn toàn trở
nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô” (số 18c), “trở nên một
với Ngài, mặc lấy tâm tình và nếp sống của Ngài.” (18b) Chiều
kích thần bí này đã được nói đến trong một số văn kiện trước đó
(x. EE 14, 15; RD 7b; PI 12), nhưng tông huấn đã mở rộng và làm
phong phú thêm.
Tóm lại, Chúa Kitô là “Tảng đá góc” (Ep 2, 20), nhưng đó là Kitô
Ba Ngôi. Bên cạnh đó, tông huấn qui chiếu về Chúa Thánh Thần hơn
100 lần và Chúa Cha hầu như được nói đến trong khắp tông huấn.
Đây cũng là một sự tổng hợp Đông- Tây của tông huấn: Đông có
khuynh hướng thiên về chiều kích Ba Ngôi và Tây lại chú trọng
đến việc bước theo Chúa Kitô.
- Đức Maria (số 23, 28, 34, 112)
Tông huấn trình bày Đức Maria như là mẫu gương của đời sống
thánh hiến:
+ Mẫu gương tuyệt vời của việc thánh hiến hoàn hảo, vì Mẹ hoàn
toàn thuộc về Thiên Chúa và hiến thân trọn vẹn cho Ngài (số 28)
+ Mẫu gương trong việc bước theo Chúa Kitô (số 28)
+ Mẫu gương trong việc thông dự vào mầu nhiệm Vượt Qua: can
trường trước thử thách khi đứng gần thập giá Chúa Giêsu (x. Ga
19, 25- 27) (số 23)
+ Mẫu gương của một tình yêu phong nhiêu đặc biệt, góp phần vào
việc sinh ra và tăng triển sự sống thần linh trong các tâm hồn
(số 34).
Ngoài ra, Đức Maria còn là Mẹ của các người tận hiến, cầu bầu
cho họ trung thành với ơn gọi và trợ giúp họ rất hữu hiệu để
tiến tới trong việc đáp trả và sống sung mãn ơn gọi của mình. Vì
thế, tông huấn kết thúc với lời khẩn cầu Đức Trinh nữ Maria (số
112).
- Giáo hội (số 3, 25, 26, 29, 32- 34)
Đời sống thánh hiến nằm trong bản chất thánh thiện của Giáo hội.
Giáo hội có sứ mệnh chuyển thông Chúa Kitô cho nhân loại: không
chỉ thông truyền những lời giảng, nhưng còn cả nếp sống của Ngài
nữa. Do đó, đời sống thánh hiến, xét theo bản tính (họa lại nếp
sống của Chúa Kitô trinh khiết, khó nghèo và vâng phục), gắn
chặt với đời sống và sự thánh thiện của Giáo hội (số 3, 29),
thuộc về cơ cấu thần thiêng của Giáo hội (số 30- 31). Đời sống
thánh hiến họa lại nếp sống của Chúa Kitô trinh sạch, khó nghèo
và vâng phục- nếp sống biểu lộ tình con thảo của Ngài với Chúa
Cha (số 1a, 16, 18, 21...), nên nó có vị trí ưu việt
trong Hội thánh, là một ân huệ qúi báu và cần thiết cho hiện tại
và tương lai của dân Thiên Chúa (số 3, 18, 32, x. 105). Giáo hội
cần họ để họa lại nếp sống của Con Thiên Chúa. Sứ mệnh của đời
sống thánh hiến là làm chứng bằng chính đời sống thánh thiện (số
32- 35). Thêm vào đó, đời sống thánh hiến còn biểu lộ mối tình
duy nhất của Giáo hội dành cho Đức Lang Quân (số 3, 34). Như
thế, đời sống thánh hiến gắn liền với sứ mệnh (số 1, 25) và cánh
chung của toàn thể Giáo hội (số 26).
Tông huấn khẳng định một cách rõ ràng tầm quan trọng và sự cần
thiết của đời sống thánh hiến đối với Giáo hội (số 3, 6, 18,29,
32, 105). Mặc dù tông huấn cũng coi tất cả mọi Kitô hữu đều bình
đẳng như nhau, cùng có chung một phẩm giá, cùng được kêu gọi nên
thánh (số 31b, 18b) và mỗi người đều làm phong phú người khác
(số 33b), nhưng tông huấn cho thấy vị trí trổi vượt của đời sống
thánh hiến, vì người được thánh hiến sống triệt để nếp sống mà
Chúa Giêsu đã sống khi được Chúa Cha sai đến thế gian.
b. Đặc sủng / Sứ mệnh (số 72- 103)
Sứ mệnh của đời sống thánh hiến (phần III) được xem như là sự
phục vụ bác ái (Servitium caritatis). Biểu tượng chính ở
đây là Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ của Ngài (số 75). Phần
này là sự kết hợp giữa thần học và mục vụ.
Chủ đề “biến hình” trong tông huấn không những được nối kết với
việc say mê chiêm ngưỡng dung nhan rạng ngời của Chúa, mà còn
liên hệ tới sứ mệnh truyền giáo nữa. Sau khi chiêm ngắm Chúa
biến hình, các môn đệ được mời gọi xuống núi để phục vụ (số 75).
Ngay tựa đề của phần này, “Phục vụ bác ái- Biểu lộ tình yêu
Thiên Chúa giữa thế gian”, đã cho thấy tông huấn không chỉ đào
sâu về thánh hiến, nhưng còn nhấn mạnh đến sứ mệnh của đời sống
này trong thế giới nữa.
Đặc sủng luôn gắn liền với sứ mệnh truyền giáo. Đặc sủng của đời
sống thánh hiến nói chung và của mỗi hội dòng (nhận được qua
đấng sáng lập) là ân huệ của Chúa Thánh Thần (số 1, 5, 19, 25,
32, 36, 48). Chúa Thánh Thần là nguồn gốc mọi ơn gọi tận hiến,
nên cần phải trung thành sáng tạo với đặc sủng/đoàn sủng (số 36,
37, 73, 74), khi canh tân việc huấn luyện (số 65, 68, 71, 80),
sống linh đạo (số 37, 93) và hoạt động tông đồ (số 48, 63, 72).
Tông huấn trình bày đặc sủng trong mối quan hệ với Thiên Chúa Ba
Ngôi: “Mọi đặc sủng đều bao hàm ba định hướng: trước tiên, hướng
về Chúa Cha, với lòng con thảo muốn tìm kiếm thánh ý Cha trong
sự hoán cải liên tục, nơi mà sự vâng phục là nguồn mạch tự do
đích thực, sự khiết tịnh biểu lộ niềm thao thức của một con tim
không thể thỏa mãn bởi bất cứ tình yêu hữu hạn nào, sự khó nghèo
nuôi dưỡng lòng đói khát công chính mà Thiên Chúa đã hứa ban cho
thỏa lòng (x. Mt 5, 6). Trong viễn tượng này, đặc sủng của bất
cứ hội dòng nào cũng thôi thúc người được thánh hiến thuộc trọn
về Chúa… Các đặc sủng của đời sống thánh hiến cũng hướng về Chúa
Con: các đặc sủng mời gọi duy trì một sự hiệp thông với Ngài
trong đời sống thân mật vui tươi, noi gương Ngài quảng đại phụng
sự Thiên Chúa và phục vụ anh chị em… Sau cùng, bất cứ đặc sủng
nào cũng hướng về Chúa Thánh Thần, vì mọi đặc sủng đều mời gọi
con người hãy để cho Chúa Thánh Thần hướng dẫn và nâng đỡ trên
con đường thiêng liêng riêng biệt, cũng như trong đời sống hiệp
thông và hoạt động tông đồ… Thật vậy, chính trong mối tương quan
ba chiều này mà những đặc sủng sáng lập dòng xuất hiện, dù dưới
những nét riêng biệt của các hình thức sống khác nhau, bởi vì
đặc sủng nào cũng nổi bật niềm khát vọng sâu xa của tâm hồn muốn
được trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô, để làm chứng về
một khía cạnh nào đó thuộc mầu nhiệm của Ngài. Khía cạnh đó được
cụ thể hóa và phát triển trong truyền thống trung thực nhất của
hội dòng, phù hợp với quy luật và hiến pháp.” (số 36)
Đời sống thánh hiến được đặt ở ngay trung tâm của Hội thánh như
là một yếu tố quyết định cho sứ mệnh của Hội thánh. Chính Thần
khí thúc đẩy họ đảm nhận sứ mệnh của Chúa Kitô. Thật vậy, ý thức
về truyền giáo thấm sâu vào tận huyết mạch của mọi hình thức tu
trì. Nó bao trùm mọi khía cạnh của đời sống họ. Sự thánh hiến
luôn ẩn chứa một sứ mệnh và đặc sủng luôn gắn liền với sứ mệnh
đặc biệt của mỗi hội dòng. Bởi vậy, việc truyền giáo là điều cốt
yếu đối với mọi hội dòng, cả những hội dòng chuyên lo làm việc
tông đồ, lẫn những hội dòng sống đời chiêm niệm. Ý thức truyền
giáo luôn là ưu tiên số một của mọi hình thức tu trì (số 19, 25,
72).
Sứ mệnh truyền giáo của đời sống thánh hiến được tông huấn đề
cập ở phần III này (32 số, nhiều hơn các phần khác), nhưng phần
I (27 số) và II (31 số) cũng được liên kết với sứ mệnh truyền
giáo: thánh hiến bao hàm sứ mệnh truyền giáo (số 14, 18, 19, 21,
22, 25, 27,…) và sự hiệp thông dẫn đến sứ mệnh và chính nó trở
thành sứ mệnh truyền giáo (số 46, 47, 51,…). Thánh hiến và sứ
mệnh không thể tách rời. Cả hai trở nên một trong sự hiệp thông:
sống sự hiệp thông sâu xa là truyền giáo (số 46a). Chính ở đây
mà đời sống thánh hiến biểu lộ tình yêu Thiên Chúa trong thế
giới.
Theo tông huấn, sứ mệnh truyền giáo của đời sống thánh hiến bao
gồm ba yếu tố: thánh hiến, đời sống cộng đoàn và sứ mệnh đặc
biệt của mỗi hội dòng (số 72, 25). Qua số 72, chúng ta thấy mọi
sự đều liên quan đến sứ mệnh: việc bắt chước Chúa Kitô, trở nên
đồng hình đồng dạng với Ngài, chứng tá cộng đoàn và cá nhân, ơn
gọi, đặc sủng, các lời khuyên Phúc âm, đời sống huynh đệ trong
cộng đoàn, những hoạt động đặc biệt của mỗi hội dòng,… Tất cả
đều được nối kết với sứ mệnh. Không một khía cạnh nào có thể
được hiểu và sống riêng rẽ được.
Phản ánh đời sống Ba ngôi trong các lời khuyên Phúc âm, họa lại
nếp sống của Chúa Kitô đã là một sự truyền giáo rồi. Bên cạnh
đó, đời sống huynh đệ loan báo rằng nước Thiên Chúa đã hiện diện
trên trần gian rồi (số 21, 22c, 73, 85a,...). Mỗi hội dòng còn
có một sứ mệnh truyền giáo riêng biệt, tùy theo đặc sủng của
mình (số 72, x. 46a)…
“Người tận hiến càng sống một đời hoàn toàn hiến dâng cho Chúa
Cha (x. Lc 2, 49; Ga 4, 34), được Chúa Con chiếm hữu (x. Ga 15,
16; Gl 1, 15- 16), được tác động bởi Chúa Thánh Thần (x. Lc 24,
49; Cv 1, 8; 2, 4), thì càng cộng tác hữu hiệu vào sứ mệnh của
Chúa Kitô (x. Ga 20, 21) và góp phần đặc biệt vào việc canh tân
thế giới.” (số 25) Những người tận hiến luôn phải nuôi dưỡng
ngọn lửa nhiệt thành truyền giáo. Họ cần “làm cho Chúa Kitô
khiết tịnh, khó nghèo, vâng phục, đang cầu nguyện cũng như đang
rao giảng về nước Thiên Chúa, được hiện diện ngay cả giữa những
người không phải là Kitô hữu.” (số 77).
Việc họa lại nếp sống của Chúa Kitô đương nhiên kèm theo việc
họa lại trót tâm tình của Ngài, tận hiến hoàn toàn cho việc phục
vụ nước Thiên Chúa. Giống như Chúa Giêsu, Người được Cha thánh
hiến và sai đến thế gian (x. Ga 10, 36), những người được Thiên
Chúa kêu gọi, cũng được thánh hiến và sai đến thế gian để noi
gương Người và tiếp tục sứ mệnh của Người (số 3, 18, 22, 25, 27,
72- 75).
“Tình yêu Chúa Kitô thúc bách chúng ta” ( 2 Cr 5, 14): những
người được thánh hiến cần lập lại lời xác quyết này với thánh
Phaolô, bởi vì sứ mệnh của họ là hoạt động khắp nơi trên trái
đất để củng cố và mở rộng nước của Chúa Kitô, rao giảng Tin mừng
ở khắp mọi nơi, cả những nơi xa xôi hẻo lánh nhất.” (số 78).
Tông huấn lược qua một số môi trường hoạt động tông đồ truyền
thống, nhưng cũng đang gây ra những thách đố cho tu sĩ ngày nay,
như việc truyền giáo cho lương dân (số 77- 78), việc hội nhập
văn hóa (số 79- 80), phục vụ người nghèo và người bệnh (số 82-
83), giáo dục (số 96- 97), truyền thông xã hội (số 99), đối
thoại đại kết và liên tôn (số 100- 103).
Cách đặc biệt, đời sống thánh hiến phải trở thành dấu chỉ/chứng
tá (số 15, 25, 27, 32-35, 76, 85, 92, 104- 105) và ngôn sứ (số
33a, 39, 84- 95) trong thế giới hôm nay.
- Dấu chỉ/chứng tá
Việc truyền giáo của đời sống thánh hiến thiết yếu ở chứng tá
của chính sự tận hiến của họ (số 76). Chứng tá quan trọng nhất
của đời sống thánh hiến là sự thánh thiện (số 32 - 35). Chứng tá
của tình yêu thánh hiến hệ tại ở việc sống thân mật với Thiên
Chúa, cảm nghiệm được tình yêu sâu thẳm của Ngài và cố gắng đáp
lại tình yêu đó bằng đời sống noi gương Chúa Kitô trinh khiết,
khó nghèo và vâng phục một cách triệt để. Việc họa lại nếp sống
của Chúa Kitô làm cho Chúa Kitô luôn sống động trong cuộc sống.
Nền văn hóa hiện nay thường dễ bị tục hóa, nhưng lại rất dễ nhạy
cảm với ngôn ngữ của các dấu chỉ (số 25). Việc tuyên giữ các lời
khuyên Phúc âm biến những người tận hiến trở thành dấu chỉ ngôn
sứ cho cộng đoàn anh/chị em họ và cho thế gian (số 15). Nhờ đoàn
sủng của họ, những người tận hiến trở thành dấu chỉ của Thánh
Thần hướng về một tương lai mới mẻ trong niềm tin và hy vọng. Sự
mong đợi cánh chung này trở thành sứ mệnh để cho triều đại nước
Thiên Chúa có thể hiện diện ngay từ bây giờ, qua việc thiết lập
tinh thần các mối phúc, có khả năng khơi lên trong xã hội loài
người lòng khát khao đích thực về công bằng, hòa bình, tình liên
đới và sự khoan dung (số 27). Bên cạnh đó, đời sống cộng đoàn
là một dấu chỉ của mối dây liên kết, dấu chỉ sáng ngời của tình
phụ tử duy nhất đến từ Thiên Chúa, của tình huynh đệ phát xuất
từ Thánh Thần (số 92).
- Ngôn sứ
Sự liên kết với người nghèo và người bị áp bức đã dẫn Chúa Giêsu
đến chỗ đối đầu với những người có quyền thế. Tính cách ngôn sứ
của đời sống thánh hiến “tham gia đặc biệt vào chức vụ ngôn sứ
của Chúa Kitô” và nó “gắn liền với đời sống thánh hiến, vì nó
đòi buộc phải triệt để theo Chúa Kitô.” Công đồng coi đời sống
thánh hiến như là dấu chỉ, “một dấu chỉ có tính ngôn sứ về vị
thế trổi vượt của Thiên Chúa và của những giá trị Tin mừng trong
đời sống Kitô hữu. Chính do vị thế trổi vượt này, không có gì
đáng kể hơn là mối tình dành riêng cho Chúa Kitô và cho những
người nghèo, vì lẽ Chúa Kitô đang sống nơi họ.” (số 84) Người
tận hiến sống mật thiết với Chúa đến độ trở thành phát ngôn viên
của Ngài.
Trong thế giới hiện nay, dấu vết về Thiên Chúa dường như bị xóa
nhòa, nên cần có một chứng tá ngôn sứ mãnh liệt từ phía những
người được thánh hiến. Đặc biệt, người tu sĩ ngày nay cần có câu
trả lời ngôn sứ cho ba thách thức của xã hội đương thời: nền văn
hóa hưởng thụ phá bỏ mọi qui luật luân lý khách quan của tính
dục, chủ nghĩa vật chất ích kỷ, và những quan niệm lệch lạc về
tự do. Qua việc tuyên giữ các lời khuyên Phúc âm, họ trả lời
bằng thái độ và hành động ngôn sứ trong việc vui vẻ thực hành
đức khiết tịnh hoàn hảo, như chứng tá về quyền năng của tình yêu
Thiên Chúa trong sự mỏng dòn của thân phận con người; trong việc
bước theo Chúa Kitô nghèo khó, làm chứng cho Thiên Chúa, kho
tàng đích thực của trái tim con người, và luôn sống trong sự
liên kết với người nghèo, chia sẻ điều kiện sống của những người
cùng khốn nhất; và trong việc tuân phục thánh ý Chúa Cha, để
cùng nhau tiến bước trong sự hiệp thông huynh đệ (số 85- 92).
Sứ mệnh truyền giáo của đời sống thánh hiến được nói đến ở mọi
nơi trong tông huấn, ngay từ số đầu tiên. Mọi sự đều được hiểu
trong mối quan hệ với sứ mệnh. Mọi sự đều qui về sứ mệnh. Mọi sự
đều trở thành sứ mệnh. Sứ mệnh bao trùm toàn bộ đời sống của
những người tận hiến.
Tóm lại, các văn kiện về đời tu không đưa ra định nghĩa đầy đủ
và chính xác về đời sống thánh hiến, nhưng đào sâu yếu tố nền
tảng, nguồn gốc của nó cũng như chỗ đứng của đời sống này trong
Hội thánh. Tông huấn Vita Consecrata đúc kết những khuynh
hướng khác nhau về thần học và mục vụ trong suốt 30- 35 năm, kể
từ công đồng Vatican II, trong một tổng hợp mới giữa Đông và
Tây, dựa trên nền tảng Ba Ngôi, thấm đậm Kitô và sự hiệp thông
của Giáo hội. Đặc biệt, tông huấn nối kết hai ý niệm thánh hiến
và sứ mệnh: thánh hiến và sứ mệnh bổ túc cho nhau và đan quyện
vào nhau, tạo nên căn tính của đời sống thánh hiến. Không thể
hiểu cái này nếu không có cái kia. Người tận hiến không thể yêu
Chúa, mà lại không yêu người thân cận (x. Mt 22, 34-40; 1Ga 4,
20-21). Thánh hiến bao hàm sứ mệnh: thánh hiến để được sai đi.
Sứ mệnh lại dẫn đến thánh hiến, vì chứng tá quan trọng nhất của
đời sống thánh hiến là sự thánh thiện (số 32 - 35). Sự thánh
hiến, trước tất cả, là hành động của Chúa Cha; bước theo Chúa
Kitô trên con đường đến với Chúa Cha và phục vụ kế hoạch cứu độ
của Chúa Cha; Chúa Thánh Thần, nguồn gốc mọi đặc sủng, cụ thể
hóa sứ mệnh của đời sống thánh hiến trong những tình huống lịch
sử của nhân loại.
Mặc dù đang đứng trước cuộc khủng hoảng về ơn gọi do lối sống
“buông thả” của nhiều tu sĩ, tông huấn coi đó như là “những cám
dỗ” cần phải vượt qua (số 2, 13, 38, 43b, 46b, 70) và phó thác
vào lòng thương xót của Thiên Chúa (số 70, 110a). Bởi đó, tông
huấn mang một giọng văn tích cực: tạ ơn Chúa vì những hồng ân
Ngài đã ban cho Giáo hội qua đời sống thánh hiến, khuyến khích
các người tận hiến can đảm hướng đến tương lai để sống trọn vẹn
sự dâng hiến của mình cho Thiên Chúa.
Trần
Hữu Hạnh, fsf
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- J. Rovira, cmf. The Post-Synodal Apostolic Exhortation
“Vita Consecrata.” Philippines, Quezon City: ICLA, 2005.
- M. Ngọc Đính (Chuyển ngữ). Đời tu dưới ánh sáng công đồng
Vatican II & Giáo luật, Quyển I. The Daughters of St. Paul,
1986.
- Phan Tấn Thành. Giải Thích Giáo Luật Quyển 2- Dân Thiên
Chúa, tập 3, Các Hội Dòng Tận Hiến và các Tu Đoàn Tông Đồ.
Rôma, 1993, tr. 390-402; 415-425.
- Văn kiện Đời tu- Theo Chúa Kitô, 2002.
- Bình Hòa. “Thần học về Đời sống thánh hiến”. Thời sự Thần
học, số 8, tháng 6/97, tr. 7- 25
|