Có một chàng
văn sĩ, trong lúc ngẫu hứng, đã có một ý tưởng lạ đời. Ý tưởng
này luôn đeo đuổi và ám ảnh tâm trí anh ta. Đó là phải viết một
câu chuyện tình, thật lâm ly và thật bi đát.
Thế nhưng, câu
chuyện tình này chỉ gồm có một chương duy nhất. Và chương duy
nhất này chỉ gồm có một trang mà thôi. Tuy nhiên, trang duy nhất
này chỉ gồm có một giòng mà thôi. Và giòng duy nhất này chỉ gồm
có một danh từ mà thôi. Dầu vậy, danh từ duy nhất này phải diễn
tả một cách đầy đủ những tình tiết của câu chuyện, phải gói ghém
tất cả những tư tưởng mà anh ta muốn trình bày.
Anh ta đã phải
bóp trán suy nghĩ, ngày cũng như đêm, mất ăn mất ngủ vì cái ý
tưởng lạ đời ấy, để rồi cuối cùng anh ta đành bó tay chịu thua
và nhận ra rằng : Ngôn ngữ loài người thì nghèo nàn, không thể
nào thực hiện được.
Thế nhưng,
điều mà ngôn ngữ loài người đã bất lực, điều mà chàng văn sĩ kia
đã không làm nổi, thì Thiên Chúa đã thực hiện được một cách
tuyệt vời và vô cùng tốt đẹp.
Danh từ duy
nhất gói ghém tất cả câu chuyện tình giữa trời và đất, giữa
Thiên Chúa và nhân loại, được trải dài qua hàng ngàn vạn thế kỷ.
Danh từ duy nhất đã nói lên tất cả màu nhiệm của mạc khải, cũng
như tất cả chương trình cứu độ của Thiên Chúa được ươm mơ từ
muôn ngàn thuở trước và được thực hiện qua giòng thời gian. Danh
từ duy nhất gồm tóm trọn vẹn số phận của con người với mọi nỗi
vui mừng và hy vọng. Danh từ duy nhất được gạn lọc từ những biến
cố lịch sử và kết tinh lại thành niềm tin kiên vững của chúng
ta.
Vậy danh từ
duy nhất ấy là gì ?
Tôi xin thưa :
- Đó là thập giá.
Phải, thập giá
đã nói lên được tất cả những tình tiết, những uẩn khúc mà tôi
vừa mới nêu lên.
Hôm nay chúng
ta bắt đầu phần ba của tuần tĩnh tâm : Linh mục và Thánh giá.
Chúng ta sẽ tìm hiểu xem đâu là những cái đã kết thành cây thập
giá đời thường của linh mục.
Giờ đây, chúng
ta sẽ đi vào đề tài thứ năm : Như hạt lúa bị nghiền nát với
những đau khổ và khó khăn mà linh mục gặp phải. Thế nhưng, trước
hết chúng ta sẽ nói qua về thập giá trong cuộc đời Đức Kitô.
I- ĐỨC KITÔ VÀ THẬP GIÁ
Suy gẫm về
thập giá Đức Kitô, chúng ta có thể rút ra được hai điểm chính
yếu :
1-
Thập giá là dấu chỉ tình yêu của Đức Kitô đối với Chúa Cha.
Thực vậy, Đức
Kitô đã xuống thế làm người “không phải để làm theo ý Ngài,
nhưng để làm theo ý Đấng đã sai Ngài” (Ga 6,39). Cũng vậy, khi
bước vào trần gian, Ngài đã nói :
- Lạy Chúa,
này con xin đến để thực thi ý Chúa.
Và thánh ý của
Thiên Chúa là gì nếu không phải là tất cả chúng ta được thánh
hóa và được cứu độ.
Vì thế, ngay
từ giây phút đầu tiên khi nhập thể, Đức Kitô đã sống chết với ý
định cứu độ của Chúa Cha :
- “Lương thực
nuôi sống Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy và hoàn
tất tốt đẹp công trình của Người”. (Ga 4,34).
Lễ hy sinh Đức
Kitô dâng trên thập giá để “đền bù tội lỗi cả thế gian” (1Ga
2,2) là cách diễn tả sự thông hiệp tình yêu với Chúa Cha : “Sở
dĩ Chúa Cha yêu mến tôi, chính vì tôi hy sinh mạng sống mình”
(Ga 10,17). “Thế gian phải biết rằng tôi yêu mến Chúa Cha và làm
đúng như Chúa Cha truyền cho tôi”. (Ga 14,31).
Ước muốn sống
chết với ý định yêu thương cứu chuộc của Chúa Cha là động lực
cho cả cuộc đời Đức Kitô, bởi vì thập giá và cuộc khổ nạn cứu độ
là lý do khiến Ngài nhập thể :
- “Lạy Cha,
xin cứu con khỏi giờ này ! Nhưng chính vì giờ này mà con đã
đến”. (Ga 12,27).
- “Chén đắng
Chúa Cha đã trao cho Thầy, lẽ nào Thầy chẳng uống ?” (Ga 18,11).
Và trên thập
giá, trước khi “mọi sự đã hòan tất” (Ga 19,30), Ngài còn nói :
- “Tôi Khát !”
(Ga 19,28).
Sau khi chấp
nhận ban phép rửa cho Đức Kitô giữa những kẻ tội lỗi, Thánh
Gioan Tiền hô đã long trọng giới thiệu Ngài cho dân chúng :
- “Đây là
Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian”. (Ga 1,29).
Như vậy, Thánh
Gioan Tiền hô cho chúng ta thấy Đức Kitô vừa là Người Tôi tớ đau
khổ, im lặng chịu dẫn đến lò sát sinh (Is 53,7) và gánh lấy tội
lỗi muôn dân, vừa là Chiên Vượt Qua, biểu tượng cho việc Israel
được cứu chuộc trong cuộc Vượt qua lần đầu (Xh 12,3-14).
Toàn bộ cuộc
đời của Đức Kitô diễn tả sứ mạng Ngài đã nhận lãnh nơi Chúa Cha,
đó là “hầu hạ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc cho muôn
người”. (Mc 10,45).
Chúng ta có
thể mượn lời thánh Phaolô trong bức thư gửi tín hữu Philipphê
như một kết luận : “Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa mà
không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên
Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ,
trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn
hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây
thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban
danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa
nghe danh thánh Giê-su, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm
phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi
loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: "Đức Giê-su Ki-tô là
Chúa".(Pl 2,6-11).
2-
Thập giá là dấu chỉ tình yêu của Đức Kitô đối với con người.
Khi sống chết
với tình thương của Chúa Cha dành cho con người bằng trọn trái
tim nhân loại của mình, Đức Kitô “đã thương yêu họ đến cùng” (Ga
13,1), “vì không có tình thương nào to lớn hơn tình thương của
người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu”. (Ga 15,13).
Như vậy, qua
thập giá với những đau khổ và nhất là với cái chết của mình,
nhân tính của Đức Kitô đã trở thành dụng cụ tự do và hoàn hảo
cho tình yêu cứu chuộc của Thiên Chúa được thực hiện.
Thực vậy, Ngài
đã tự do chấp nhận chịu nạn và chịu chết vì yêu mến Chúa Cha và
yêu mến loài người mà Chúa Cha muốn cứu độ :
- “Mạng sống
của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng
sống mình”. (Ga 10,18).
“Cũng như vì
một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người
bị liệt vào hàng tội nhân, thì nhờ một người duy nhất đã vâng
lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ được kể là công chính”. (Rm
5,19).
Nhờ vâng phục
cho đến chết và chết trên thập giá, Đức Kitô đảm nhận hoàn toàn
vai trò Người Tôi tớ đau khổ, “hiến mạng sống mình làm của lễ
đền tội muôn dân”, khi làm cho họ nên công chính bằng cách chính
Ngài gánh lấy tội lỗi của họ. (Is 53,10-12). Đức Kitô đã đền bù
và đền tạ thỏa đáng cho Chúa Cha vì tội lỗi chúng ta.
Để cứu chuộc
chúng ta, Đức Kitô chỉ cần phán một lời, hay đổ một giọt máu mà
thôi, nhưng Ngài đã không làm như vậy, Ngài đã đổ ra cho đến
giọt máu cuối cùng trên thập giá vì yêu thương chúng ta :
“Khi đến gần
Đức Giê-su và thấy Người đã chết, họ không đánh giập ống chân
Người. Nhưng một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người.
Tức thì, máu cùng nước chảy ra”. (Ga 19,33-34).
Và như vậy,
đối với chúng ta, thập giá Đức Kitô chính là cao điểm tuyệt vời
nhất của một tình yêu dâng hiến, của một tình yêu trao ban, của
một tình yêu cứu độ bởi vì : Không ai yêu hơn người hiến mạng
sống mình vì bạn hữu. (Ga 15,13).
Thập giá Đức
Kitô chính là nội dung của Tin mừng, chính là trọng tâm của ơn
cứu độ, chính là điểm quan trọng của niềm tin Kitô giáo : Vinh
dự của chúng ta là thập giá Đức Kitô, nơi Ngài ơn cứu độ của ta,
sức sống của ta và sự phục sinh của ta.
Với thập giá,
đã tới lúc Đức Kitô thực hiện sự tự hạ đầy khiêm cung của mình :
Ngài đã vâng phục cho đến chết và chết trên thập giá.
Với thập giá,
đã tới lúc hy tế đền tội được hoàn tất : Ngài đã yêu thương
chúng ta và đã nộp mình chịu chết vì chúng ta như một của lễ
ngọt ngào dâng lên trước tôn nhan Thiên Chúa.
Với thập giá,
đã tới lúc tình yêu tuyệt hảo nhất được tỏ lộ : Căn cứ vào điều
này mà chúng ta biết được tình yêu của Thiên Chúa, đó là Ngài đã
dâng hiến mạng sống vì chúng ta.
Với thập giá,
đã tới lúc chúng ta phải suy nghĩ và đáp trả tình thương vô biên
của Thiên Chúa : Hãy kính mến Thiên Chúa hết lòng, bởi vì Ngài
đã yêu thương chúng ta trước.
Tóm lại, thập
giá chính là dấu chỉ của một tình yêu vô biên, một tình yêu cứu
độ mà Đức Kitô đã dành cho nhân loại chúng ta, bởi vì nếu không
có thập giá thì cũng chẳng có ơn cứu độ.
Vậy thập giá
là gì đối với chúng ta ? Thập giá nắm giữ vai trò nào trong cuộc
sống người linh mục ?
II- LINH MỤC VÀ THẬP GIÁ : NHƯ HẠT LÚA
BỊ NGHIỀN NÁT
Thập giá là hy
tế duy nhất của Đức Kitô. “Đấng trung gian duy nhất giữa Thiên
Chúa và loài người” (1Tm 2,5). Nhưng vì khi nhập thể, Con Thiên
Chúa “đã kết hợp với tất cả mọi người, nên đã ban cho mọi người
khả năng được thông phần vào mầu nhiệm Vượt qua. Ngài mời gọi
các môn đệ “vác thập giá mà theo Ngài” (Mt 16,24). “Ngài đã
chịu đau khổ vì chúng ta, đã để lại một gương mẫu cho chúng ta
dõi bước theo Ngài”. (1Pr 2,21).
Cũng như Đức
Kitô đã vâng phục cho đến chết và chết trên thập giá, trong mọi
công việc mục vụ của mình, linh mục bao giờ cũng phải sẵn sàng
tìm ý muốn Đấng đã sai mình, chứ không phải tìm ý riêng của
mình.
Thực vậy,
những công việc bổn phận linh mục hoàn thành, thường vượt quá
khả năng và tầm mức của mình, bởi vì “Thiên Chúa đã lựa chọn
những gì yếu hèn trong thế gian để bêu xấu những gì mạnh mẽ”.
(1Cor 1,27). Ý thức sự yếu hèn của mình, linh mục khiêm tốn làm
việc trong khi tìm xem điều gì đẹp lòng Thiên Chúa. Chính trong
lúc chu tòan trách nhiệm của mình, linh mục thường gặp phải
những khó khăn, những khổ đau. Chính những khó khăn và những khổ
đau này đã kết thành cây thập giá đời thường Chúa muốn chúng ta
vác lấy để bước theo Ngài.
Trong buổi
chia sẻ kinh nghiệm sống, một linh mục trẻ đã được mấy bà hiền
mẫu góp ý…nhẹ nhàng như sau : Đi tu như các cha, các thầy, các
dì thế mà sướng, chứ còn đèo bòng như tụi con, khổ lắm cha ơi.
Nghe vậy, ngài cũng chỉ biết nhún vai, mỉm cười và nói : Có ở
trong chăn mới biết chăn có rận và đoạn trường ai có qua cầu mới
hay. Các bà cứ thử đi tu làm…cha mà coi xem có nổ đom đóm mắt ra
không ?
Đúng thế, bông
hồng nào mà chẳng có gai, cuộc đời nào mà chẳng có những đắng
cay của nó. Định luật này được áp dụng cho mọi người, ở mọi nơi
và trong mọi lúc, chẳng miễn trừ cho một ai, kể cả linh mục.
Nếu chỉ nhìn
thoáng qua, chúng ta thấy con người và cuộc đời của linh mục
được phủ đầy hào quang, thậm chí có kẻ còn liệt các ngài vào
hàng : Ngồi nhà mát, mà ăn bát vàng. Muốn nói ngoa, thì làm cha
mà nói. Hằng ngày chẳng phải bon chen với vấn đề cơm áo gạo
tiền. Thấy vậy ai mà chẳng ham.
Tuy nhiên, nếu
vào sâu hơn một chút, thi con người và cuộc đời linh mục cũng
không thiếu những gian nan và thử thách. Yếu tố căn bản tạo nên
tấm bi kịch của thân phận linh mục, chính là những mâu thuẫn
chồng chéo. Có những mâu thuẫn từ bên ngoài, do hoàn cảnh mang
tới. Nhưng cũng có những mâu thuẫn từ bên trong, do chính bản
chất của linh mục gây nên.
1-
Những mâu thuẫn từ bên ngoài, xuất phát bởi những hoàn cảnh của
cuộc sống.
Trong chủng
viện, ngoài những sinh hoạt đạo đức, ngài được trau dồi về triết
học và thần học, nghĩa là được tìm hiểu về những sự cao siêu.
Sau khi lãnh nhận chức vụ linh mục và bước chân xuống cuộc đời,
thì những sự cao siêu ấy bỗng biến đi đâu mất tiêu, để rồi phải
đối đầu với những sự việc cụ thể dưới đất.
Ngày xưa, ngài
chỉ được học qua quít về… nghệ thuật giảng thuyết, thế mà bây
giờ, giảng thuyết lại trở nên một trong những hoạt động chính
yếu của ngài. Nếu ngài giảng về những sự cao siêu, giáo dân sẽ
ngáp lên ngáp xuống. Họ đòi hỏi bài giảng của ngài phải cụ thể
và xúc tích. Vậy phải làm thế nào để đáp ứng nhu cầu trên ?
Ngày xưa,
ngài đâu có được học về kiến trúc, thế mà bây giờ ngài phải
nhúng tay vào hết mọi công trình, xây từ nhà thờ cho đến nhà
bếp, xây từ nhà xứ cho đến nhà sinh hoạt, thậm chí đến cả chuồng
heo, chuồng gà, bằng không thì sẽ bị chê là cù lần, chỉ biết cất
mà không xây.
Và còn rất
nhiều lãnh vực khác nữa, mặc dù hiểu biết còn rất lơ mơ và kinh
nghiệm tích lũy chẳng bao nhiêu, thế mà ngài vẫn cứ phải dấn
thân. Thôi thì ông cha đi trước, làng nước theo sau.
Một khó khăn
nữa cũng đến từ bên ngoài, đó là cách cư xử. Ngài phải làm sao
để dung hòa được những hoạt động của mình, luôn đứng ở giữa,
không nghiêng bên nọ, cũng không ngả bên kia, bởi vì thái quá
thì bất cập. Nếu vui vẻ thì bị hiểu là quá thân mật, còn nếu
nghiêm nghị thì bị mang tiếng là khó tính, nếu bình dân ăn nói
như mọi người thì bị chê là không có tác phong đứng đắn, còn nếu
áo quần tề chỉnh thì bị khép vào hạng người quan liêu và cách
biệt, nếu hăng hái lao động thì bị kêu là kẻ ham mê của cải vật
chất, còn nếu ít làm việc tay chân thì bị trách là con nhà
trưởng giả… Thật đúng như cha ông chúng ta đã nói : Ở sao cho
vừa lòng người, Ở rộng người cười, ở hẹp người chê.
2-
Những mâu thuẫn từ bên trong, phát xuất bởi bản chất của linh
mục.
Con người linh
mục thì yếu đuối, nhưng lại mang lấy một chức vụ cao cả, chức vụ
trung gian giữa Thiên Chúa và nhân loại.
Nói theo kiểu
thánh Phaolô thì chức vụ ấy chính là một kho tàng quý giá. Nhưng
kho tàng quý giá này lại được đựng trong một chiếc bình sành dễ
vỡ là thân xác linh mục. Gìn giữ chiếc bình này sao cho không bị
bể vỡ cũng là chuyện rất cam go trong suốt cả cuộc đời linh mục.
Là trung gian
giữa Thiên Chúa và nhân loại, nên linh mục vừa là tôi tớ của
Thiên Chúa, nhưng đồng thời cũng phải là tôi tớ của con người.
Dung hòa được hai điều này không phải là chuyện dễ. Vì thế,
trong khi thi hành bổn phận, linh mục càng dấn thân vào đời bao
nhiêu, thì lại càng phải gắn bó mật thiết với Chúa bấy nhiêu.
Ý thức mình
chỉ là một con người yếu đuối, trong tay không có những phương
tiện chính trị, những nguồn tài chánh, hay những vũ khí quân sự,
thế nhưng linh mục lại chất chứa một sức mạnh vô song, sức mạnh
của tình yêu và thập giá, hay nói đúng hơn là sức mạnh của chính
Thiên Chúa, như thánh Phaolô đã viết : Chính lúc tôi yếu lại là
lúc tôi mạnh.
Linh mục không
phải chỉ là một con người vừa yếu lại vừa mạnh, nhưng còn là một
con người vừa được yêu lại vừa bị ghét.
Thực vậy,
trong cuộc sống, linh mục thường được trọng kính, nhưng đồng
thời cũng lại là người bị thù oán, bị chỉ trích nhiều hơn cả.
Cũng như Đức Kitô, linh mục trở nên bia cho người ta chống đối.
Bernanos, một nhà văn công giáo, đã có lý khi thốt lên : Phải bị
ghét bỏ mới chính là linh mục đích thực của Đức Kitô.
Linh mục không
phải chỉ bị những kẻ thù của Giáo hội hạ nhục mà còn bị chính
con cái mình quay lưng chống đối. Bằng chứng là những đơn kiện
cáo các linh mục nơi phần đời cũng như nơi phần đạo tại Việt Nam
hình như mỗi ngày một gia tăng.
Sau cùng,
trong khi thi hành chức vụ, linh mục thường gặp phải một loại
mâu thuẫn khác nữa, đó là mâu thuẫn giữa nhiều và chẳng có chi.
Đúng thế, đôi
khi linh mục cầm trong tay cả một đống tiền, thế mà nếp sống vẫn
cứ đơn giản, vẫn cứ đạm bạc, bởi vì đống tiền ấy chẳng phải là
của riêng mình, nhưng là của chung và được tiêu dùng cho những
công việc đem lại lợi ích cho mọi người, thật đúng với cốt cách
: có cũng như không.
Đặc biệt trong
lãnh vực tình cảm, linh mục phải có một trái tim rộng mở để chia
sẻ và cảm thông với hết mọi người, từ những đứa con nít cho đến
những ông già bà cả, từ những kẻ giàu nứt khố đổ vách đến những
người nghèo túng khố rách áo ôm. Tình yêu của ngài phải là một
tình yêu không biên giới, không loại trừ, không phân cách. Tình
yêu ấy phải được trải dài, trải rộng trên mọi người, nhưng lại
không được phép đóng lại trên một ai cả. Ngài chẳng phải là của
riêng một ai và chẳng một ai là của riêng mình ngài. Ngài yêu
rất nhiều, nhưng cuối cùng lại chẳng được bao nhiêu. Ngài là bạn
của mọi người, nhưng rốt cục lại là người cô đơn nhất. Cô đơn
trong trách nhiệm và bổn phận. Cô đơn trong khó khăn và thử
thách. Cô đơn trong đau yếu và tuổi già.
Khó khăn là
như thế, và cay đắng bẽ bàng cũng là như thế.
KẾT LUẬN
Như hạt lúa
phải được xay xát để làm nên tấm bánh, như trái nho phải được
nghiền nát để làm nên chén rượu, cuộc đời linh mục cũng cần phải
được xay xát, cũng cần phải được nghiền nát bởi muôn vàn khổ đau
để làm thành một lễ vật dâng tiến Chúa.
Như người môn
đệ, linh mục cũng phải biết chấp nhận và vác lấy cây thập giá
đời thường mà bước theo Chúa.
Như Đức Kitô,
linh mục cũng phải biết biến đời mình trở nên một hy tế đẹp lòng
Chúa.
Tuy nhiên,
chúng ta hãy can đảm ra khơi vì Chúa luôn ở bên cạnh chúng ta.
Ngài sẽ nâng đỡ chúng ta ở mọi nơi và trong mọi lúc. Vì có Chúa
thì có tất cả, bằng không thì chẳng có gì hết, có Chúa thì màng
nhện cũng sẽ trở nên tường thành. Bằng không thì tường thành
cũng chỉ là màng nhện mà thôi.
Để kết luận,
tôi xin nêu lên ở đây cuộc đời của cha “Piô Năm dấu”, như một
chứng tá sống động cho mầu nhiệm thập giá :
“Cha luôn khao
khát được thông phần đau khổ với Đức Kitô để cứu chuộc nhân
loại. Cha thường nói: "Ai bắt đầu yêu thương, phải chuẩn bị đau
khổ." Và quả thật, trong 50 năm trường, Cha đã phải đau khổ,
không những về thề xác mà còn về tinh thần, vì những nghi ngờ,
dèm pha, chống đối của chính anh em linh mục. Nhưng cha đã can
đảm chịu đựng, vâng phục mọi mệnh lệnh của Tòa Thánh. Để có được
sự khiêm tốn, cũng như sức mạnh để chịu đựng đau khổ, nguồn ơn
sủng duy nhất mà cha luôn luôn tìm đến, đó là bí tích Thánh Thể
trong Thánh Lễ mỗi ngày”.
GSVN |