Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam

 

 

 

ĐỰƠC CHỌN GIỮA LOÀI NGƯỜI
VÀ CHO LOÀI NGƯỜI  (x. Dt, 5.1)

 

GIÁO SĨ:

Xuất phát từ giáo dân, hiện diện vì giáo dân và cậy dựa vào giáo dân

 

ĐỂ CÙNG LÀM VINH DANH THIÊN CHÚA

 

www.conggiaovietnam.net                          giaosivietnam@gmail.com

Đặc San Điện Tử    Giáo Sĩ Việt Nam    Số 30, Chúa Nhật 17.12.2006


 CÁC SỐ BÁO ĐÃ PHÁT HÀNH             MỤC LỤC 

Sắc Lệnh về Canh Tân Thích Nghi Đời Sống Dòng Tu (tiếp theo)                          Vatican 2

LINH MỤC VÀ THÁNH GIÁ : NHƯ HẠT LÚA BỊ NGHIỀN NÁT                                      GSVN

HÔ LỚN LÊN  !                                                                                       Lm. Đỗ Vân Lực, op.

MÓN QUÀ GIÁNG SINH NĂM NAY                                                          Lm. Lê Văn Quảng

CHỜ MONG                                                                                              Trầm Tĩnh Nguyện

Một kỳ diệu nhỏ trong đêm Giáng Sinh                                                dịch giả Phương Tôn

BÀI CA HOANG ÐỊA                                                                                             Vân Thanh

ĐÊM ÂN TÌNH                                                                                                          Hoa Biển

BÍ QUYẾT SỐNG YÊN TÂM                                                                dịch giả Tôn Thất Bàng

Câu Chuyện Dài về Dị Ứng                                                                 Bác Sỹ Nguyễn Ý-Đức

GIÁNG SINH BUỒN,                                                                   Chuyện phiếm của Gã Siêu


Sắc Lệnh về Canh Tân Thích Nghi Đời Sống Dòng Tu (tiếp theo)

Về việc thành lập những hội dòng mới, phải cân nhác kỹ lưỡng xem có cần thiết, hay ít là có ích lợi lớn lao và có khả năng tăng triển không. Như thế mới tránh được sự thành lập bừa bãi những hội dòng vô ích hoặc thiếu sinh lực. Trong các Giáo Hội mới, hãy đặc biệt cổ võ và phát triển những hình thức dòng tu thích hợp với tính tình và phong hóa dân chúng, với tập tục và hoàn cảnh địa phương.

Các hội dòng phải trung thành duy trì và chu toàn phận sự riêng, hãy để ý đến lợi ích của toàn thể Giáo Hội và các giáo phận mà thích nghi công việc với nhu cầu thời đại và địa phương, xử dụng những phương thế thích hợp, cả những phương thế tân tiến, và loại bỏ những công việc nào ngày nay ít phù hợp với tinh thần và bản chất đích thực của hội dòng.

Tinh thần truyền giáo phải được tuyệt đối duy trì trong các hội dòng tùy bản chất  riêng của mỗi dòng mà thích nghi với hoàn cảnh hiện tại, để việc rao giảng Phúc âm giữa muôn dân được hữu hiệu.

 Còn các hội dòng và đan viện mà theo ý của các Đấng Bản Quyền liên hệ, sau khi đã nghe phán đoán của Tòa Thánh, không có hy vọng hữu lý để phát triển được, thì cấm nhận thêm tập sinh và nếu có thể, hãy sát nhập với một hội dòng hoặc một đan viện khác đang hưng thịnh hơn mà mục đích và tinh thần không khác nhau bao nhiêu.

còn tiếp

VỀ MỤC LỤC

LINH MỤC VÀ THÁNH GIÁ : NHƯ HẠT LÚA BỊ NGHIỀN NÁT

 

Có một chàng văn sĩ, trong lúc ngẫu hứng, đã có một ý tưởng lạ đời. Ý tưởng này luôn đeo đuổi và ám ảnh tâm trí anh ta. Đó là phải viết một câu chuyện tình, thật lâm ly và thật bi đát.

Thế nhưng, câu chuyện tình này chỉ gồm có một chương duy nhất. Và chương duy nhất này chỉ gồm có một trang mà thôi. Tuy nhiên, trang duy nhất này chỉ gồm có một giòng mà thôi. Và giòng duy nhất này chỉ gồm có một danh từ mà thôi. Dầu vậy, danh từ duy nhất này phải diễn tả một cách đầy đủ những tình tiết của câu chuyện, phải gói ghém tất cả những tư tưởng mà anh ta muốn trình bày.

Anh ta đã phải bóp trán suy nghĩ, ngày cũng như đêm, mất ăn mất ngủ vì cái ý tưởng lạ đời ấy, để rồi cuối cùng anh ta đành bó tay chịu thua và nhận ra rằng : Ngôn ngữ loài người thì nghèo nàn, không thể nào thực hiện được.

Thế nhưng, điều mà ngôn ngữ loài người đã bất lực, điều mà chàng văn sĩ kia đã không làm nổi, thì Thiên Chúa đã thực hiện được một cách tuyệt vời và vô cùng tốt đẹp.

Danh từ duy nhất gói ghém tất cả câu chuyện tình giữa trời và đất, giữa Thiên Chúa và nhân loại, được trải dài qua hàng ngàn vạn thế kỷ. Danh từ duy nhất đã nói lên tất cả màu nhiệm của mạc khải, cũng như tất cả chương trình cứu độ của Thiên Chúa được ươm mơ từ muôn ngàn thuở trước và được thực hiện qua giòng thời gian. Danh từ duy nhất gồm tóm trọn vẹn số phận của con người với mọi nỗi vui mừng và hy vọng. Danh từ duy nhất được gạn lọc từ những biến cố lịch sử và kết tinh lại thành niềm tin kiên vững của chúng ta.

Vậy danh từ duy nhất ấy là gì ?

Tôi xin thưa :

- Đó là thập giá.

Phải, thập giá đã nói lên được tất cả những tình tiết, những uẩn khúc mà tôi vừa mới nêu lên.

Hôm nay chúng ta bắt đầu phần ba của tuần tĩnh tâm : Linh mục và Thánh giá. Chúng ta sẽ tìm hiểu xem đâu là những cái đã kết thành cây thập giá đời thường của linh mục.

Giờ đây, chúng ta sẽ đi vào đề tài thứ năm : Như hạt lúa bị nghiền nát với những đau khổ và khó khăn mà linh mục gặp phải. Thế nhưng, trước hết chúng ta sẽ nói qua về thập giá trong cuộc đời Đức Kitô.

      

I- ĐỨC KITÔ VÀ THẬP GIÁ

Suy gẫm về thập giá Đức Kitô, chúng ta có thể rút ra được hai điểm chính yếu :

       1- Thập giá là dấu chỉ tình yêu của Đức Kitô đối với Chúa Cha.

Thực vậy, Đức Kitô đã xuống thế làm người “không phải để làm theo ý Ngài, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai Ngài” (Ga 6,39). Cũng vậy, khi bước vào trần gian, Ngài đã nói :

- Lạy Chúa, này con xin đến để thực thi ý Chúa.

Và thánh ý của Thiên Chúa là gì nếu không phải là tất cả chúng ta được thánh hóa và được cứu độ.

Vì thế, ngay từ giây phút đầu tiên khi nhập thể, Đức Kitô đã sống chết với ý định cứu độ của Chúa Cha :

- “Lương thực nuôi sống Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy và hoàn tất tốt đẹp công trình của Người”. (Ga 4,34).

Lễ hy sinh Đức Kitô dâng trên thập giá để “đền bù tội lỗi cả thế gian” (1Ga 2,2) là cách diễn tả sự thông hiệp tình yêu với Chúa Cha : “Sở dĩ Chúa Cha yêu mến tôi, chính vì tôi hy sinh mạng sống mình” (Ga 10,17). “Thế gian phải biết rằng tôi yêu mến Chúa Cha và làm đúng như Chúa Cha truyền cho tôi”. (Ga 14,31).

Ước muốn sống chết với ý định yêu thương cứu chuộc của Chúa Cha là động lực cho cả cuộc đời Đức Kitô, bởi vì thập giá và cuộc khổ nạn cứu độ là lý do khiến Ngài nhập thể :

- “Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này ! Nhưng chính vì giờ này mà con đã đến”. (Ga 12,27).

- “Chén đắng Chúa Cha đã trao cho Thầy, lẽ nào Thầy chẳng uống ?” (Ga 18,11).

Và trên thập giá, trước khi “mọi sự đã hòan tất” (Ga 19,30), Ngài còn nói :

- “Tôi Khát !” (Ga 19,28).

Sau khi chấp nhận ban phép rửa cho Đức Kitô giữa những kẻ tội lỗi, Thánh Gioan Tiền hô đã long trọng giới thiệu Ngài cho dân chúng :

- “Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian”. (Ga 1,29).

Như vậy, Thánh Gioan Tiền hô cho chúng ta thấy Đức Kitô vừa là Người Tôi tớ đau khổ, im lặng chịu dẫn đến lò sát sinh (Is 53,7) và gánh lấy tội lỗi muôn dân, vừa là Chiên Vượt Qua, biểu tượng cho việc Israel được cứu chuộc trong cuộc Vượt qua lần đầu (Xh 12,3-14). 

Toàn bộ cuộc đời của Đức Kitô diễn tả sứ mạng Ngài đã nhận lãnh nơi Chúa Cha, đó là “hầu hạ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc cho muôn người”. (Mc 10,45).

Chúng ta có thể mượn lời thánh Phaolô trong bức thư gửi tín hữu Philipphê như một kết luận : “Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giê-su, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: "Đức Giê-su Ki-tô là Chúa".(Pl 2,6-11).

       2- Thập giá là dấu chỉ tình yêu của Đức Kitô đối với con người.

Khi sống chết với tình thương của Chúa Cha dành cho con người bằng trọn trái tim nhân loại của mình, Đức Kitô “đã thương yêu họ đến cùng” (Ga 13,1), “vì không có tình thương nào to lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu”. (Ga 15,13).

Như vậy, qua thập giá với những đau khổ và nhất là với cái chết của mình, nhân tính của Đức Kitô đã trở thành dụng cụ tự do và hoàn hảo cho tình yêu cứu chuộc của Thiên Chúa được thực hiện.

Thực vậy, Ngài đã tự do chấp nhận chịu nạn và chịu chết vì yêu mến Chúa Cha và yêu mến loài người mà Chúa Cha muốn cứu độ :

- “Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình”. (Ga 10,18).

“Cũng như vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người bị liệt vào hàng tội nhân, thì nhờ một người duy nhất đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ được kể là công chính”. (Rm 5,19).

Nhờ vâng phục cho đến chết và chết trên thập giá, Đức Kitô đảm nhận hoàn toàn vai trò Người Tôi tớ đau khổ, “hiến mạng sống mình làm của lễ đền tội muôn dân”, khi làm cho họ nên công chính bằng cách chính Ngài gánh lấy tội lỗi của họ. (Is 53,10-12). Đức Kitô đã đền bù và đền tạ thỏa đáng cho Chúa Cha vì tội lỗi chúng ta.

Để cứu chuộc chúng ta, Đức Kitô chỉ cần phán một lời, hay đổ một giọt máu mà thôi, nhưng Ngài đã không làm như vậy, Ngài đã đổ ra cho đến giọt máu cuối cùng trên thập giá vì yêu thương chúng ta :

“Khi đến gần Đức Giê-su và thấy Người đã chết, họ không đánh giập ống chân Người. Nhưng một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người. Tức thì, máu cùng nước chảy ra”. (Ga 19,33-34). 

Và như vậy, đối với chúng ta, thập giá Đức Kitô chính là cao điểm tuyệt vời nhất của một tình yêu dâng hiến, của một tình yêu trao ban, của một tình yêu cứu độ bởi vì : Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu. (Ga 15,13).

Thập giá Đức Kitô chính là nội dung của Tin mừng, chính là trọng tâm của ơn cứu độ, chính là điểm quan trọng của niềm tin Kitô giáo : Vinh dự của chúng ta là thập giá Đức Kitô, nơi Ngài ơn cứu độ của ta, sức sống của ta và sự phục sinh của ta.

Với thập giá, đã tới lúc Đức Kitô thực hiện sự tự hạ đầy khiêm cung của mình : Ngài đã vâng phục cho đến chết và chết trên thập giá.

Với thập giá, đã tới lúc hy tế đền tội được hoàn tất : Ngài đã yêu thương chúng ta và đã nộp mình chịu chết vì chúng ta như một của lễ ngọt ngào dâng lên trước tôn nhan Thiên Chúa.

Với thập giá, đã tới lúc tình yêu tuyệt hảo nhất được tỏ lộ : Căn cứ vào điều này mà chúng ta biết được tình yêu của Thiên Chúa, đó là Ngài đã dâng hiến mạng sống vì chúng ta.

Với thập giá, đã tới lúc chúng ta phải suy nghĩ và đáp trả tình thương vô biên của Thiên Chúa : Hãy kính mến Thiên Chúa hết lòng, bởi vì Ngài đã yêu thương chúng ta trước.

Tóm lại, thập giá chính là dấu chỉ của một tình yêu vô biên, một tình yêu cứu độ mà Đức Kitô đã dành cho nhân loại chúng ta, bởi vì nếu không có thập giá thì cũng chẳng có ơn cứu độ.

Vậy thập giá là gì đối với chúng ta ? Thập giá nắm giữ vai trò nào trong cuộc sống người linh mục ?

      

II- LINH MỤC VÀ THẬP GIÁ : NHƯ HẠT LÚA BỊ NGHIỀN NÁT

Thập giá là hy tế duy nhất của Đức Kitô. “Đấng trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người” (1Tm 2,5). Nhưng vì khi nhập thể, Con Thiên Chúa “đã kết hợp với tất cả mọi người, nên đã ban cho mọi người khả năng được thông phần vào mầu nhiệm Vượt qua. Ngài mời gọi các môn đệ “vác thập giá mà theo Ngài” (Mt 16,24).  “Ngài đã chịu đau khổ vì chúng ta, đã để lại một gương mẫu cho chúng ta dõi bước theo Ngài”. (1Pr 2,21).

Cũng như Đức Kitô đã vâng phục cho đến chết và chết trên thập giá, trong mọi công việc mục vụ của mình, linh mục bao giờ cũng phải sẵn sàng tìm ý muốn Đấng đã sai mình, chứ không phải tìm ý riêng của mình.

Thực vậy, những công việc bổn phận linh mục hoàn thành, thường vượt quá khả năng và tầm mức của mình, bởi vì  “Thiên Chúa đã lựa chọn những gì yếu hèn trong thế gian để bêu xấu những gì mạnh mẽ”. (1Cor 1,27). Ý thức sự yếu hèn của mình, linh mục khiêm tốn làm việc trong  khi tìm xem điều gì đẹp lòng Thiên Chúa. Chính trong lúc chu tòan trách nhiệm của mình, linh mục thường gặp phải những khó khăn, những khổ đau. Chính những khó khăn và những khổ đau này đã kết thành cây thập giá đời thường Chúa muốn chúng ta vác lấy để bước theo Ngài.

Trong buổi chia sẻ kinh nghiệm sống, một linh mục trẻ đã được mấy bà hiền mẫu góp ý…nhẹ nhàng như sau : Đi tu như các cha, các thầy, các dì thế mà sướng, chứ còn đèo bòng như tụi con, khổ lắm cha ơi. Nghe vậy, ngài cũng chỉ biết nhún vai, mỉm cười và nói  : Có ở trong chăn mới biết chăn có rận và đoạn trường ai có qua cầu mới hay. Các bà cứ thử đi tu làm…cha mà coi xem có nổ đom đóm mắt ra không ?

Đúng thế, bông hồng nào mà chẳng có gai, cuộc đời nào mà chẳng có những đắng cay của nó. Định luật này được áp dụng cho mọi người, ở mọi nơi và trong mọi lúc, chẳng miễn trừ cho một ai, kể cả linh mục.

Nếu chỉ nhìn thoáng qua, chúng ta thấy con người và cuộc đời của linh mục được phủ đầy hào quang, thậm chí có kẻ còn liệt các ngài vào hàng : Ngồi nhà mát, mà ăn bát vàng. Muốn nói ngoa, thì làm cha mà nói. Hằng ngày chẳng phải bon chen với vấn đề cơm áo gạo tiền. Thấy vậy ai mà chẳng ham.

Tuy nhiên, nếu vào sâu hơn một chút, thi con người và cuộc đời linh mục cũng không thiếu những gian nan và thử thách. Yếu tố căn bản tạo nên tấm bi kịch của thân phận linh mục, chính là những mâu thuẫn chồng chéo. Có những mâu thuẫn từ bên ngoài, do hoàn cảnh mang tới. Nhưng cũng có những mâu thuẫn từ bên trong, do chính bản chất của linh mục gây nên.

       1- Những mâu thuẫn từ bên ngoài, xuất phát bởi những hoàn cảnh của cuộc sống.

Trong chủng viện, ngoài những sinh hoạt đạo đức, ngài được trau dồi về triết học và thần học, nghĩa là được tìm hiểu về những sự cao siêu. Sau khi lãnh nhận chức vụ linh mục và bước chân xuống cuộc đời, thì những sự cao siêu ấy bỗng biến đi đâu mất tiêu, để rồi phải đối đầu với những sự việc cụ thể dưới đất. 

Ngày xưa, ngài chỉ được học qua quít về… nghệ thuật giảng thuyết, thế mà bây giờ, giảng thuyết lại trở nên một trong những hoạt động chính yếu của ngài. Nếu ngài giảng về những sự cao siêu, giáo dân sẽ ngáp lên ngáp xuống. Họ đòi hỏi bài giảng của ngài phải cụ thể và xúc tích. Vậy phải làm thế nào để đáp ứng nhu cầu trên ?

Ngày xưa, ngài  đâu có được học về kiến trúc, thế mà bây giờ ngài phải nhúng tay vào hết mọi công trình, xây từ nhà thờ cho đến nhà bếp, xây từ nhà xứ cho đến nhà sinh hoạt, thậm chí đến cả chuồng heo, chuồng gà, bằng không thì sẽ bị chê là cù lần, chỉ biết cất mà không xây.

Và còn rất nhiều lãnh vực khác nữa, mặc dù hiểu biết còn rất lơ mơ và kinh nghiệm tích lũy chẳng bao nhiêu, thế mà ngài vẫn cứ phải dấn thân. Thôi thì ông cha đi trước, làng nước theo sau.

Một khó khăn nữa cũng đến từ bên ngoài, đó là cách cư xử. Ngài phải làm sao để dung hòa được những hoạt động của mình, luôn đứng ở giữa, không nghiêng bên nọ, cũng không ngả bên kia, bởi vì thái quá thì bất cập. Nếu vui vẻ thì bị hiểu là quá thân mật, còn nếu nghiêm nghị thì bị mang tiếng là khó tính, nếu bình dân ăn nói như mọi người thì bị chê là không có tác phong đứng đắn, còn nếu áo quần  tề chỉnh thì bị khép vào hạng người quan liêu và cách biệt, nếu hăng hái lao động thì bị kêu là kẻ ham mê của cải vật chất, còn nếu ít làm việc tay chân thì bị trách là con nhà trưởng giả… Thật đúng như cha ông chúng ta đã nói : Ở sao cho vừa lòng người,  Ở rộng người cười, ở hẹp người chê.

        2- Những mâu thuẫn từ bên trong, phát xuất bởi bản chất  của linh mục.

Con người linh mục thì yếu đuối, nhưng lại mang lấy một chức vụ cao cả, chức vụ trung gian giữa Thiên Chúa và nhân loại.

Nói theo kiểu thánh Phaolô thì chức vụ ấy chính là một kho tàng quý giá. Nhưng kho tàng quý giá này lại được đựng trong một chiếc bình sành dễ vỡ là thân xác linh mục. Gìn giữ chiếc bình này sao cho không bị bể vỡ cũng là chuyện rất cam go trong suốt cả cuộc đời linh mục.

Là trung gian giữa Thiên Chúa và nhân loại, nên linh mục vừa là tôi tớ của Thiên Chúa, nhưng đồng thời cũng phải là tôi tớ của con người. Dung hòa được hai điều này không phải là chuyện dễ. Vì thế, trong khi thi hành bổn phận, linh mục càng dấn thân vào đời bao nhiêu, thì lại càng phải gắn bó mật thiết với Chúa bấy nhiêu.

Ý thức mình chỉ là một con người yếu đuối, trong tay không có những phương tiện chính trị, những nguồn tài chánh, hay những vũ khí quân sự, thế nhưng linh mục lại chất chứa một sức mạnh vô song, sức mạnh của tình yêu và thập giá, hay nói đúng hơn là sức mạnh của chính Thiên Chúa, như thánh Phaolô đã viết : Chính lúc tôi yếu lại là lúc tôi mạnh.

Linh mục không phải chỉ là một con người vừa yếu lại vừa mạnh, nhưng còn là một con người vừa được yêu lại vừa bị ghét.

Thực vậy, trong cuộc sống,  linh mục thường được trọng kính, nhưng đồng thời cũng lại là người bị thù oán, bị chỉ trích nhiều hơn cả. Cũng như Đức Kitô, linh mục trở nên bia cho người ta chống đối. Bernanos, một nhà văn công giáo, đã có lý khi thốt lên : Phải bị ghét bỏ mới chính là linh mục đích thực của Đức Kitô.

Linh mục không phải chỉ bị những kẻ thù của Giáo hội hạ nhục mà còn bị chính con cái mình quay lưng chống đối.  Bằng chứng là những đơn kiện cáo các linh mục nơi phần đời cũng như nơi phần đạo tại Việt Nam hình như mỗi ngày một gia tăng.

Sau cùng, trong khi thi hành chức vụ, linh mục thường gặp phải một loại mâu thuẫn khác nữa, đó là mâu thuẫn giữa nhiều và chẳng có chi. 

Đúng thế, đôi khi linh mục cầm trong tay cả một đống tiền, thế mà nếp sống vẫn cứ đơn giản, vẫn cứ đạm bạc, bởi vì  đống tiền ấy chẳng phải là của riêng mình, nhưng là của chung và được tiêu dùng cho những công việc đem lại lợi ích cho mọi người,  thật đúng với cốt cách : có cũng như không.

Đặc biệt trong lãnh vực tình cảm, linh mục phải có một trái tim rộng mở để chia sẻ và cảm thông với hết mọi người, từ những đứa con nít cho đến những ông già bà cả, từ những kẻ giàu nứt khố đổ vách đến những người nghèo túng khố rách áo ôm. Tình yêu của ngài phải là một tình yêu không biên giới, không loại trừ, không phân cách. Tình yêu ấy phải được trải dài, trải rộng trên mọi người, nhưng lại không được phép đóng lại trên một ai cả. Ngài chẳng phải là của riêng một ai và chẳng một ai là của riêng mình ngài. Ngài yêu rất nhiều, nhưng cuối cùng lại chẳng được bao nhiêu. Ngài là bạn của mọi người, nhưng rốt cục lại là người cô đơn nhất. Cô đơn trong trách nhiệm và bổn phận. Cô đơn trong khó khăn và thử thách. Cô đơn trong đau yếu và tuổi già.

Khó khăn là như thế, và cay đắng bẽ bàng cũng là như thế.

      

KẾT LUẬN

Như hạt lúa phải được xay xát để làm nên tấm bánh, như trái nho phải được nghiền nát để làm nên chén rượu, cuộc đời linh mục cũng cần phải được xay xát, cũng cần phải được nghiền nát bởi muôn vàn khổ đau để làm thành một lễ vật dâng tiến Chúa.

Như người môn đệ, linh mục cũng phải biết chấp nhận và vác lấy cây thập giá đời thường mà bước theo Chúa.

Như Đức Kitô, linh mục cũng phải biết biến đời mình trở nên một hy tế đẹp lòng Chúa.

Tuy nhiên, chúng ta hãy can đảm ra khơi vì Chúa luôn ở bên cạnh chúng ta. Ngài sẽ nâng đỡ chúng ta ở mọi nơi và trong mọi lúc. Vì có Chúa thì có tất cả, bằng không thì chẳng có gì hết, có Chúa thì màng nhện cũng sẽ trở nên tường thành.  Bằng không thì tường thành cũng chỉ là màng nhện mà thôi.

Để kết luận, tôi xin nêu lên ở đây cuộc đời của cha “Piô Năm dấu”, như một chứng tá sống động cho mầu nhiệm thập giá :

“Cha luôn khao khát được thông phần đau khổ với Đức Kitô để cứu chuộc nhân loại. Cha thường nói: "Ai bắt đầu yêu thương, phải chuẩn bị đau khổ." Và quả thật, trong 50 năm trường, Cha đã phải đau khổ, không những về thề xác mà còn về tinh thần, vì những nghi ngờ, dèm pha, chống đối của chính anh em linh mục. Nhưng cha đã can đảm chịu đựng, vâng phục mọi mệnh lệnh của Tòa Thánh. Để có được sự khiêm tốn, cũng như sức mạnh để chịu đựng đau khổ, nguồn ơn sủng duy nhất mà cha luôn luôn tìm đến, đó là bí tích Thánh Thể trong Thánh Lễ mỗi ngày”.

GSVN

VỀ MỤC LỤC
HÔ LỚN LÊN  !

Phúc Âm Nhật Ký ngày 10.12.2006

(Lc 3:1-6)

Tuần qua, ÐGH Bênêđíctô XVI đã làm một chuyến tông du lịch sử sang Thổ Nhĩ Kỳ.   Đức Thánh Cha đã đóng góp “cho việc xây dựng một thế giới có khả năng nhận ra những chân lý chung trong tình huynh đệ và trong đối thoại, và không chiều theo đối kháng hay đầu hàng quyền lực sự chết.”[1]  Ðúng là một ngôn sứ thời đại !  Khi ÐGH về đến Roma, Giáo Hội bắt đầu bước vào Mùa Vọng.  Ðây thật là một dịp may cho những ai muốn tìm hiểu về ngôn sứ thời đại.

Ngày xưa, ngôn sứ Gioan Tẩy Giả xuất hiện đúng thời gian niềm hy vọng Ðấng Thiên Sai lên tới tột đỉnh.  Trước khi giới thiệu ông, thánh Luca đã ghi rất rõ thời điểm cả đời lẫn đạo.[2]  Sứ mệnh ngôn sứ luôn mang tính “hôm nay.”  Ngôn sứ sống giữa những thế lực đạo đời đang thi nhau chiếm ưu thế trong quần chúng. 

Giữa một khung cảnh ồn ào như thế, Lời Thiên Chúa âm thầm nhưng mãnh liệt đến với ông trong hoang địa.[3] Trong cảnh tĩnh mịch đó, ông nghe rất rõ tiếng Chúa.  Ông đã dành thời gian học hỏi, lắng nghe và trau giồi sức mạnh  để có thể đi khắp nơi kêu gọi mọi người trở về đường công chính.  Chỉ trong đường công chính, con người mới có thể tìm lại chính mình và “sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa.”[4]

Ông Gioan đạt tới chóp đỉnh đoàn sủng ngôn sứ, vì ông “đã thấy tận mắt, (...) đã chiêm ngưỡng, (...) đã chạm đến Lời sự sống,”[5]  nơi hiện thực toàn thể lời ngôn sứ.  Ông đã loan báo và thấy Ðấng Thiên Sai.  Ông đã không ngần ngại nói về Ðức Giêsu : “Tôi đã thấy và tôi chứng thực rằng Người là Ðấng Thiên Chúa tuyển chọn.”[6]   Có ngôn sứ nào có một chứng từ hùng hồn và dứt khoát đến thế không ?!

Dĩ nhiên, ông Gioan rao giảng cùng một nội dung và có một thái độ như các bậc ngôn sứ tiền bối.  Ông phải nhân danh Thiên Chúa nói những lời đã đón nhận từ Thiên Chúa cho anh em. Về căn bản, nội dung những lời rao giảng luôn giống nhau : Chúa đang ở gần bên dân Người, Chúa trung tín giữ lời Giao ước.   Ðối lại, con người phải trung thành và yêu mến Thiên Chúa, Ðấng yêu thương và không bỏ rơi họ.  Phải thay đổi sâu xa tận bên trong, con người mới có thể thấy Thiên Chúa đang hướng dẫn lịch sử về tột đỉnh giao ước và mạc khải[7] là Ðức Giêsu Kitô.

Ngôn sứ quan sát hiện tại một cách sâu sắc.  Ông chú ý tới các biến cố.  Sở dĩ thấy xa hơn những người đồng thời, vì cái nhìn của ông sâu hơn.  Không dừng lại ở hình thức bên ngoài, những bằng chứng sơ khởi, ông luôn suy tư, nghiền ngẫm.  ông xem xét các biến cố, hoàn cảnh, cử chỉ, sự lựa chọn và thái độ nội tâm của những nhân vật chính trong các biến cố.  Giữa các tiếng nói khác nhau trong lịch sử và thời đại, tiếng nói Thiên Chúa trổi vượt hẳn lên.  Bên kia những hiển thị, vẫn có những mũi nhọn sâu hơn của công lý và tình yêu.  Bằng chứng, giữa những bất công và sa đọa của xã hội đương thời, ông Gioan đã trở nên mũi nhọn đâm thẳng vào những bộ mặt phi nhân thời đại như nhóm Pharisêu, các vua chúa, quan quyền, linh tráng, con buôn v.v.

Ngoài việc tố cáo những tệ trạng xã hội, ngôn sứ còn phải nhắc cho mọi người biết Thiên Chúa đầy lòng thương xót.  Người sẽ đến cứu tội nhân.  Ngôn sứ cho thấy chân lý về cuộc sống con người không đóng khung trong những giới hạn hẹp hòi của tội lỗi.  Phải làm sao sám hối để lương tâm ngày càng ý thức hơn về việc lành phải làm và việc dữ nên tránh, đồng thời cần dấn thân để canh tân đời sống theo ân sủng.

Ông Gioan đã đến để công bố một thế giới mới sắp đến gần, nhổ tận gốc hỗn loạn của tội lỗi.  Một thế giới thái bình sống bằng ơn cứu độ do Thiên Chúa mang đến với con người của  Ðấng Thiên Sai.  Chắc chắn thế giới chúng ta đang sống chưa đạt được điều đó.  Vạn  vật vẫn còn rên siết trong cơn đau đớn như người phụ nữ sắp sinh con. 

Có thể nghe thấy tiếng rên siết đó nơi Giáo Hội toàn cầu trước tình trạng Âu châu đang chối bỏ nguồn gốc Kitô giáo của mình.  Một khi Âu châu không còn ý thức và đánh mất căn tính, niềm hãnh diện và sức mạnh cũng tiêu tan. Chỉ còn sự nhút nhát và ô nhục.  Nhân danh văn hóa, lòng kiên nhẫn, việc thiện, đa văn hóa,  người ta không dám quả quyết vê nhân quyền nữa.  Tây Phương nhút nhát trước những tấn công về văn hóa từ thế giới Hồi giáo.  Trong khi đó, những giá trị như nhân vị, bình đẳng, nhân quyền, tự do, dân chủ, sinh thái học, bất bạo động đều do Âu châu cống hiến cho các nền văn hóa thế giới khác.[8] 

Tại Resenburg, Ðức quốc, ÐGH Bênêđictô XVI chứng tỏ là vị ngôn sứ thời đại, khi lên tiếng đề nghị Âu châu làm sống lại ý thức và cởi mở với cuộc đối thoại toàn cầu.  Hai chủ đề được nhấn mạnh : “Tôn giáo không bạo động và sự hòa hợp đức tin và lý trí.”  ÐGH đã đưa ra lịch trình đặc biệt cho thế giới thiên niên kỷ thứ ba : cùng nhau suy tư về bạo động và bất bạo động, nhất là về những mối liên hệ giữa chúng với các tôn giáo và ý thức hệ ; cùng suy tư về việc duyệt xét lại các bản sách thánh, để có một giải thích xứng đáng với Thiên Chúa và Con người ; cùng suy tư về những đồ án xây dựng một xã hội công bình và nhân đạo hơn ; về những giá trị và giới hạn của tự do, về việc tục hóa và chủ nghĩa thế tục lành mạnh ; về các nền văn hóa và đa văn hóa v.v.[9]

Có thể kiếm thấy một ngôn sứ giống như ÐGH Bênêđictô XVI ở Việt nam hiện nay không ?  Còn đâu hình ảnh một GM Nguyễn Kim Ðiền ngày xưa ?   Phải chăng hiện tại GHVN đang lựa chọn cuộc sống mà quên đi căn tính hay bản chất của mình ?   Rất may, tới nay vẫn còn những linh mục và giáo dân ngoài Huế tiếp nối tinh thần Nguyễn Kim Ðiền, cương quyết lựa chọn theo chiều ngược lại.  “Giám mục Nguyễn Kim Điền là một tấm gương cho sự lựa chọn này. Và cái giá mà vị giám mục này phải trả chẳng phải chỉ là sự khó khăn, đau đớn và cái chết cho bản thân mình, mà toàn giáo phận Huế phải cùng chịu khó khăn và thiệt hại với Ngài. Chủng viện không được mở, không có linh mục mới, việc bổ nhiệm linh mục về các nhiệm sở theo nhu cầu không thực hiện được, các linh mục không được cử hành phụng vụ hay làm mục vụ ở nhiều nơi khiến giáo dân ở những nơi đó thiếu thốn những phương tiện tâm linh cần thiết, v.v… Những thiệt hại ấy không phải là nhỏ. Phần nào ngài đã đánh giá bản chất Kitô giáo quan trọng hơn đời sống hay sinh hoạt Kitô hữu! 

Trái lại, muốn tránh những thiệt hại to lớn ấy cho Giáo Hội, muốn Giáo Hội dễ thở và có thể phát triển, thì phải biết mềm dẻo, nhượng bộ, nghĩa là phải trả giá bằng sự im lặng hay bất động trước những điều mà cứ bình thường thì lương tâm buộc phải lên tiếng hay can thiệp. Một số giám mục Việt Nam đã chọn cách ứng xử này. Phần nào các ngài đã đặt nặng đời sống hay sinh hoạt Kitô hữu hơn bản chất Kitô giáo![10]  Lựa chọn như thế có khác gì Âu châu hôm nay ?   

Khi đánh mất căn tính, Giáo hội không còn sức mạnh làm chứng.  Vai trò ngôn sứ cũng phai tàn.  Sự hiện hữu không còn ý nghĩa và trở nên thừa thãi.  Thực vậy, Chúa Giêsu đã quả quyết : “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy : ‘Lạy Chúa !  Lạy Chúa !’ là sẽ được vào Nước Trời cả đâu!  Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Ðấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi.”[11]  Nói khác, không phải có đủ thứ đền đài, nghi lễ, hành hương, quyền bính v.v. mà xây dựng được Nước Trời ở trần gian.  Xây dựng Nước Trời trên những thứ đó có khác gì xây nhà trên cát?  Chỉ khi nào dám “làm chứng cho sự thật”[12] trước mặt thế quyền như Chúa, Giáo hội mới thấy rõ tại sao mình “sinh ra và đến trong thế gian.”[13]   Chính vì can đảm chứng cho sự thật, Ðức Giêsu và Gioan Tẩy Giả đã mất cả mạng sống và cơ hội đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng.  Nhưng nhờ chết đi, Chúa đã làm cho cả Giáo hội bừng dậy bao nhiêu thế hệ ngôn sứ.

Lạy Chúa, xin cho Giáo Hội Việt Nam luôn can đảm làm chứng cho sự thật để tự do, công lý, hòa bình  mau đến với  quê hương con .  Amen.

đỗ lực, 10.12.2006

dzuize@gmail.com


[1] Giampaolo Mattei, L’Osservatore Romano, ghi lại VietCatholicNews 05/12/2006.

[2] x. Lc 3:1-2.  [3] x. Lc 3:2.  [4] Lc 3:6.  [5] 1 Ga 1:1.  [6] Ga 1:34.

[7] x. Gr 31:31-37; Ed 34:11-30; 36:23-36.

[8] x. Samir, S. K., Violent Islam, cowardly Europe : from the cartoons to Regensburg, AsiaNews, 30.09.2006.  [9] ibid.

[10] Nguyễn Chính Kết, Thái Ðộ Im Lặng của Các Giám Mục Việt Nam, Tập San Dấn Thân, www.danthan.com   [11] Mt 7:21.  [12] Ga 18:34.  [13] ibid.

VỀ MỤC LỤC
MÓN QUÀ GIÁNG SINH NĂM NAY 

Chúng ta đang ở trong mùa vọng. Vọng là trông chờ, là hy vọng. Sống trong hy vọng thì thường đẹp hơn trong thực tế. Sống trong hy vọng, trong sự chờ mong chúng ta có một cảm giác vui thích hơn. Như cô dâu chú rể trước ngày làm lễ thành hôn, những tháng ngày chờ đợi đã khiến cho đôi nhân tình có một cảm giác về tình yêu thật tuyệt vời. Cả hai lúc nào cũng mơ tưởng đến nhau. Họ mơ tưởng đến một mái ấm gia đình mà trong đó hai trái tim vàng đầy ắp tình yêu. Họ cảm thấy quấn quít bên nhau, không thể xa lìa nhau được. Họ sợ làm phiền nhau nên rất tế nhị với nhau. Họ mong muốn người yêu được hạnh phúc và dẫu có phải hy sinh đến mạng sống thì lúc nầy họ cũng sẵn sàng.

Tâm tình mong đợi của những người ra đi đoàn tụ cũng vậy. Từ ngày được phỏng vấn và được chấp nhận, họ cảm thấy vui thích vì sẽ có ngày mình được đoàn tụ. Họ mơ ước một thiên đàng bên kia đại dương. Những tháng ngày tương lai của họ thật tươi sáng. Họ sống trong hy vọng, một hy vọng tuyệt đẹp và nhờ thế những năm tháng chờ đợi không chán nản, không quá dài. Họ có rất nhiều chương trình cho ngày đoàn tụ và cho những ngày sau khi đoàn tụ. Tương lai của họ thật huy hoàng. Nhưng họ có ngờ đâu khi đoàn tụ rồi thực tế quá phủ phàng và cay đắng, khiến họ vỡ mộng và rơi vào vực thẳm.

Hy vọng vào trần gian là như  vậy, vì người trần không thể mang lại cho con người tất cả những điều con người mong ước. Nhưng Thiên Chúa thì khác. Thiên Chúa có thể làm được tất cả những gì mà con người không thể nghĩ ra được. Vì thế, chúng ta có lý để sống tâm tình mùa vọng. Như cô dâu mong đợi tân lang, chúng ta nên chuẩn bị tất cả những gì có thể để đón mừng chàng rể đến.

Dẫu Au hay Á, bầu không khí giáng sinh ngày nay đã trở nên của muôn người. Dù thành thị hay thôn quê, giàu hay nghèo, mọi người đều cảm thấy nô nức phấn khởi đón mừng mỗi lần giáng sinh về. Trong nhà, người ta trưng  bày cây giáng sinh với những ngọn đèn mầu lấp lánh. Bên ngoài là cả một rừng ánh sáng với những bóng đèn chằng chịt được giăng đầy mái nhà. Đâu đâu khắp mọi nơi người ta cũng đều nghe thấy tiếng nhạc giáng sinh, mầu sắc giáng sinh, khiến mọi người càng thêm rộn rã chuẩn bị đón giáng sinh về.

Một trong những hân hoan thích thú mỗi độ giáng sinh về là được quà giáng sinh. Nhưng để được quà giáng sinh, chúng ta thường cũng phải chuẩn bị những món quà giáng sinh, và vì thế thời gian chuẩn bị nầy cũng là thời gian mang lại cho chúng ta một cảm giác vui vui thích  thích. Người ta âm thầm đi rảo hết phố nầy đến phố khác để tìm cho ra được những món quà vừa ý làm quà cho những người mình yêu. Một ngày không đủ, một tuần cũng chưa đủ, có khi người ta đã mất cả mấy tuần lễ liền để tìm mua cho được những món quà giáng sinh. Và niềm vui của họ là ở chỗ đó. Món quà có khi không quí  cho bằng thời giờ, công lao họ đã tiêu dùng cho nó. Và đó chính là ý nghĩa của món quà được trao gởi. Một cành hoa, một cuốn album, hay một kỷ vật, nó không là gì đối với thế giới con người ngày hôm nay, nhưng nó nói lên được cái liên hệ tốt đẹp giữa người với người. Nó có thể nói lên tâm tình của người trao tặng muốn bắt đầu một mối liên hệ tốt đẹp đối với người được trao tặng. Hoặc nó có thể nói lên tâm tình của người nầy muốn giữ mãi mối thâm tình tốt đẹp hiện đang có với người kia, và họ ước muốn cho mối thân tình ấy ngày một thêm phong phú. Món quà đó cũng có thể diễn tả một tâm tình biết ơn của một người thụ ơn đối với người đã làm ơn cho mình. Hay nó cũng có thể muốn nói lên tâm tình tạ lỗi của một con người đối với người mà mình đã trót làm phụ lòng nhưng vì hổ thẹn không đủ can đảm để nói lên lời xin lỗi. Cho dẫu là mang một ý nghĩa nào đi nữa thì những tặng vật đó cũng mang một ý nghĩa tốt đẹp, một mối giây liên hệ vẫn còn tốt đẹp giữa hai người. Chính vì thế, tặng vật rất cần thiết để tạo nên mối thân tình giữa con người ngày càng thêm mật thiết.

Nếu chúng ta đã hy sinh rất nhiều thì giờ và tiền bạc để đi tìm mua những món quà giáng sinh cho người thân yêu của chúng ta, tại sao chúng ta không tìm một món quà giáng sinh cho chính Chúa trong ngày sinh nhật của Ngài. Ngài mới chính là vai trò chủ yếu trong ngày đại lễ đó. Và chắc chắn Ngài cũng mong muốn mỗi người chúng ta có một món quà gì đặc biệt để tặng cho Ngài trong ngày sinh nhật của Ngài đó. Vấn đề là chúng ta không biết trao tặng cho Ngài món quà gì đây ?

Hãy nhìn vào hang đá, chúng ta thấy gì ? Một Thiên Chúa giáng sinh cho chúng ta. Một Thiên Chúa không sinh ra trong cung điện, trong căn nhà ấm cúng, mà trong một hang đá, trong đêm lạnh giá, giữa cánh đồng hoang vắng. Tất cả những cái đó nói lên cho chúng ta rằng sự lạnh lùng của con người đối với Thiên Chúa, một sự khước từ của con người đối với Thiên Chúa, một sự lạnh lùng giữa tình người với người.

Thiên Chúa đã đến với thân phận một kiếp người nghèo khó, một kiếp người tầm thường, không cao sang , không quyền quí, nên đã bị con người khước từ, xua đuổi. Vậy thì chúng ta phải làm gì cho Ngài trong đêm lạnh giá của mùa giáng sinh năm nay ?

Hãy dâng cho Chúa một chỗ trong gia đình chúng ta! Hãy dâng cho  Chúa một chỗ trong cung lòng chúng ta để Ngài được sưởi ấm bỡi mối tình nồng chúng ta trao tặng cho Ngài.

Nói đến đây tôi nhớ đến câu chuyện “Món quà giáng sinh của con nhện”. Câu chuyện được ghi lại một cách tuyệt đẹp như sau:

Không phải mọi người đều vui sướng khi hay tin Chúa Giê su sinh ra. Có một người không vui chút nào và rất lấy làm lo lắng, đó là vua Hêrôđê. Ông ra lệnh giết tất cả các trẻ em mới sinh với hy vọng Chúa cũng bị giết. Thánh Giuse và Mẹ Maria vội vàng đem Chúa đi trốn vào rừng sâu. Chiều đến, thánh Giuse tìm ra được một hang đá, nên tạm dừng chân qua đêm. Vì vất vả suốt ngày nên đêm đến các ngài đã thiếp đi trong giấc ngủ. Chủ nhân của cái hang là một chú nhện to tướng. Chú nhện cũng biết rằng Chúa mới sinh ra nên có nhiều người cũng như nhiều con vật đã đến thờ lạy Ngài. Vì thế, chú ước ao được làm một cái gì để làm món quà dâng Chúa. Điều duy nhất chú có thể làm được là kéo sợi làm một màng nhện mà thôi. Nghĩ rồi, chú đung đưa ra cữa hang làm một màng nhện thật đẹp để trang hoàng cho vị Vua đang ẩn trốn. Sáng hôm sau, quân lính của Hêrôđê lục lọi khắp nơi, mọi hang cùng ngỏ hẻm. Nhưng khi đến hang đó, chúng nhìn thấy màng nhện giăng mắc tứ tung ở cửa, chúng mới bảo nhau rằng màng nhện nhiều như thế nầy thì chắc chắn không có ai  chui vào đó, hơn nữa coi chừng có rắn độc. Thế là bọn họ đã kéo nhau đi và Chúa đã được cứu thoát.

Ngày nay  trên các hang đá hay cây giáng sinh, để nhớ món quà giáng sinh của con nhện, người ta thường giăng những sợi giây biểu tượng ruột lòng của con nhện đã đổ ra để bảo vệ Chúa.

Hãy bắt chước con nhện, không cần tặng một vật gì xa hoa, cũng không cần làm một điều gì kỳ lạ. Hãy làm điều chúng ta đang làm với ý hướng hy sinh, với tâm tình dâng hiến.

Không có món quà nào cao quí hơn là sự hy sinh và phục vụ những nỗi niềm mơ ước của nhau trong mùa giáng sinh năm nay. Và đây là những ước mơ bình thường của những người thân yêu chúng ta:

- Nỗi ước mơ của người vợ không gì khác hơn là mơ ước người chồng biết bớt đi những chè chén say sưa, những giận hờn gay gắt đối với vợ con, nhưng biết dịu dàng hơn, biết cộng tác với vợ trong việc giáo dục con cái và chăm lo hạnh phúc gia đình.

- Nỗi ước mơ của người chồng không gì lớn lao hơn là vợ biết sống hiền hòa, tận tụy, hy sinh, biết bảo vệ hạnh phúc gia đình như một nguời vợ Việt nam thuần tuý đáng yêu và đáng quí.

- Niềm ước mơ của con cái không gì hơn là ước muốn cha mẹ biết yêu thương và trung thành với nhau, cũng như luôn biết yêu thương, cảm thông và nhất là biết lắng nghe những ý kiến khác biệt của con cái.

- Niềm ước mơ của cha mẹ đối với con cái cũng không có gì cao siêu vĩ đại nhưng thật đơn giản và bình thường, là mơ ước con cái chăm lo học hành, biết   vâng lời cha mẹ, thảo kính ông bà, và biết lắng nghe những lời chỉ giáo khôn ngoan của cha mẹ trước ngưỡng cữa hôn nhân.

Hãy cố gắng đáp lại những niềm mơ ước đó để làm quà trao tặng cho Chúa và cho nhau. Đó là những món quà cao đẹp, có thể nói không còn món quà nào đẹp hơn những món quà gói đầy tâm tình hy sinh cao quí đó. Chúng ta hãy chuẩn bị những món quà đầy ý nghĩa đó để trao tặng Chúa và trao tặng nhau trong mùa Giáng Sinh nầy. Chắc chắn bé Hài Nhi sẽ cảm thấy ấm lòng và sẽ mỉm cuời cách sung sướng khi nhìn thấy những MÓN QUÀ GIÁNG SINH NĂM NAY.

lm. levanquang

VỀ MỤC LỤC
CHỜ MONG
  

CHỜ MONG

Trời cao hãy đổ sương xuống

Và ngàn mây hãy mưa Đấng chuộc tội

 

KHÁT KHAO

Cây hoa khát nước gục đầu,

Cơn mưa đi vắng ở đâu chưa về ?

Hoa khô, hoa héo ủ ê,

Thèm hơi nước mát đến thê thảm lòng.

Mưa ơi, mưa có biết không ?

                                                12.1987

 

BỤI

Bụi đâu bụi lắm thế này?

Bụi từ trên tóc, bụi đầy xuống vai.

Tôi đi trong bụi miệt mài

Mà lâu vẫn tưởng đi ngoài gió trăng.

Hóa ra mờ mịt bụi giăng

Nên tôi vẫn cứ ngỡ rằng hào quang !

Bụi đâu mà bụi phủ phàng,

Bụi đâu mà bụi ngổn ngang bộn bề !

Bụi dâng ngập cả lối về,

Bụi che cả mắt, bụi mê cả lòng.

 

Gió ơi, lạy Gió cuồng phong

Thổi lên cuốn hết bụi lòng tôi đi.

Kẻo mà tôi dại tôi si

Tôi vùi chết mất còn chi hỡi trời !

 

Gió ơi, lạy Gió tôi ơi

Thổi mau cuốn hết bụi đời tôi mang.

Kẻo tôi bụi đã phủ vàng !

                                                II Vọng 12.1987

 

GIÓ

Gió muốn thổi đi đâu thì thổi

Gió đâu Gió thổi lạ thường,

Gió đâu vào tận bên giường nỉ non.

Gió đâu vào tận trong hồn,

Mà nghe xao xuyến như tuồng tiếng Ai.

 Gió đâu Gió suốt đêm dài.

Gió đâu mà thổi từ đoài đến đông.

Gió đâu rung động cõi lòng

Mà nghe vời vợi cả vùng linh thiêng.

 

Chắp tay lạy Gió diệu huyền

Cho tôi tới bến tình duyên đợi chờ,

  Cho tôi chạm được trời mơ,

Cho tôi ngỏ hết lời thơ tâm tình.

 

Chắp tay lạy Gió thần linh

Cho tôi no thoả mối tình ước ao ./.

                                                11.1978

 

NGUYỆT THÁNH

Maria, Trăng của đời tôi.

Có một vầng Trăng rất đỗi cao,

Sáng lên vằng vặc, sáng làm sao.

Sáng cả đất trời, ô là sáng !

Sáng ngợp hồn tôi, sáng dạt dào.

 

Có một vầng Trăng rất đỗi êm,

Rất đỗi thanh cao, rất đỗi hiền.

Vầng Trăng ngà ngọc, Trăng huyền dịu.

Sáng rạng đời tôi, sáng triền miên.

 

Có một vầng Trăng rất đỗi trong,

Tinh khiết hơn muôn suối khơi dòng.

Sáng thấu tận cùng nơi u tối.

Sáng xuống hồn tôi, sáng mênh mông.

 

Có một vầng Trăng rất tinh khôi.

Nguyệt thánh, ôi Trăng của muôn đời.

Tôi nguyện ngước nhìn Trăng ân phúc

Để hướng hồn tôi mãi lên trời.

 

Nguyệt thánh, ô này Nguyệt của tôi.

Gọi tên, tôi gọi mãi không thôi.

Nguyệt thánh, lạy Trăng Trời Vĩnh Cửu,

Xin hãy là Trăng cứu đời tôi ./.

                                                12.1987

 

SƯƠNG SA

Trời cao, hãy đổ sương xuống

Tôi mở lòng tôi đón sương sa,

Hớp lấy hơi sương mát đậm đà.

Cho dịu hết đi cơn nóng bỏng,

Để nghe rười rượi cả thịt da.

 

Tôi mở lòng tôi đón sương sa,

Mới biết rằng tôi quả thật là

Một kẻ dại khờ, tên phá tử

Để cháy khô lòng, sương vẫn sa.

 

Tôi mở lòng tôi đón sương sa,

Căng hết lòng ra kẻo lỡ mà

Một xó xỉnh nào co quắp lại

Không thấm sương trời, đau xót xa.

 

Tôi mở lòng tôi đón sương sa,

Hít thở cho bưa, hít đẫy đà.

Cho sạch bớt ngông cuồng ngây dại,

Cho tan đi hết nỗi điên tà.

 

Tôi cảm ơn Trời đổ sương sa,

Tôi chết, vâng tôi chết thật mà.

Không sương, cháy bỏng sao sống nổi ?

Cảm tạ ơn Trời đổ sương sa./.

                                    I Vọng 12.1987

 

PHÙ VÂN

Mây vàng, mây đỏ, mây xanh,

Mây tan rồi tụ, mây gần rồi xa.

Mây vẽ bướm, mây thêu hoa,

Quay đi ngoảnh lại mây đà biệt tăm.

 

Tiếng ai khe khẽ khóc thầm !

                                                12.1987

 

NẮNG

Sáng nay trên ấy nắng làm sao ?

Tôi ở dưới đây nắng ngạt ngào.

Nắng ấm sưởi lòng tôi cũng ấm,

Mấy kẻ quanh tôi ửng má đào.

 

Tôi ra đầu ngõ : nắng vàng tươi.

Ai nấy vui lên, rộn rã cười.

Nắng chiếu long lanh trong đôi mắt,

Nắng đậu trên môi ánh hồng tươi.

 

Tôi ra phố chợ : nắng bừng lên.

Kẻ bán người mua dưới nắng hiền.

Nắng ôm tất cả, hôn tất cả.

Có kẻ ngây người, nét ngạc nhiên.

 

Tôi ra đồng ruộng : nắng tràn tuôn.

Cây lá hôm kia ủ rũ buồn,

Sáng nay chỗi dậy vui cùng nắng.

Đàn bướm vui lây, lượn chập chờn.

 

Tôi đi tôi tắm nắng vàng tươi,

Cho nắng tô thêm đẹp cuộc đời.

Chợt bỗng nghe bài ca của nắng :

”Nắng đến, ai ơi, nắng tự trời.

                                    II Vọng 12.1987

 

NÁO NỨC

Vui lên Sion, Chúa ngươi sắp tới

Tháng năm Chàng chẳng hẹn hò

Để em cứ đợi, cứ chờ thế kia !

  Song thưa lọt ánh trăng khuya,

Một mình ngơ ngẫn, đầm đìa lệ tuôn.

Tiếng gà giục giã đầu thôn

Càng thêm hối thúc tiếng hồn trong em.

Đông phong nhẹ lướt qua rèm

Càng thêm lay động nỗi niềm nhớ mong.

 

Nhớ Người cỡi áng mây hồng,

Nhớ Người rẽ gió mênh mông vượt trời,

Nhớ Người xuyên nắng hồng tươi,

Nhớ Người đi dựng cuộc đời an vinh.

 

Hôm kia cánh nhạn đưa tin

Rằng vài hôm nữa Người Chinh Phu về.

Thế mà đợi mãi đợi mê

Chàng chưa thấy về, héo hắt lòng em !

 

Hừng đông đã rọi qua thềm,

Vầng dương rạng rỡ đã lên trước nhà.

Nghe đâu vang lại bài ca,

Vẳng đâu vó ngựa từ xa vọng về.

 

Chinh Phu đang vượt sơn khê

Tiếng kèn chiến thắng bốn bề râm ran.

 

Cài trâm em bước vội vàng

Đi ra đầu xóm đón Chàng hồi hương ./.

                                                III Vọng 1987

 

VỀ NGUỒN

Lần theo dòng nước trong xanh

Đi ngược lên ghềnh tìm ngọn suối tiên.

Uống đi cho hết muộn phiền,

Tắm đi cho sạch nỗi niềm vấn vương.

 

            Đầu nguồn có ngọn suối Thương ./.

                                                III Vọng 1987

 

MẬT VÀ TIẾNG CƯỜI

Con ong hút nhụy cành hoa,

Còn tôi chia sẻ thịt da của Người.

Con ong góp mật cho đời,

Còn tôi xin góp tiếng cười nhỏ nhoi ./.

                                                12.1987

 

HÉ NỤ TRINH NGUYÊN

Búp non mới nhú hôm qua

Sáng nay đã thấy nở ra nụ hồng.

Môi còn ngậm hạt sương trong,

Tim còn ấp ủ hương nồng trinh nguyên.

Thẹn thùng hé nụ cười duyên ./.

                                                III Vọng 1987

 

LẶNG SÓNG

Cơn sóng hôm nay đã dịu rồi.

Căng buồm lên lướt gió ra khơi.

Biển xanh hiền hậu như lòng Mẹ,

Ru chiếc thuyền con vượt bể đời ./.

 

CHỜ SÁNG

 Mặt trời chưa lên

Mà đêm đã cuống cuồng bối rối.

Màn đêm vỡ vụn,

Từng mảnh tả tơi.

 

Anh nắng đầu tiên chưa rọi tới

Mà đêm đã trốn chạy rồi.

Giữa nỗi bàng hoàng của đêm đen

Trời đất căng lên chờ đợi

Một buổi Bình Minh tuyệt vời ./.

                                    III Vọng 1987

                                    Trầm Tĩnh Nguyện

VỀ MỤC LỤC
Một kỳ diệu nhỏ trong đêm Giáng Sinh
 

 Phương Tôn trích dịch từ

"Der kleine Frieden im Grossen Krieg" của Michael Jungs

Vào Giáng Sinh năm 1914,  giữa cao điểm của trận thế chiến thứ nhất , sau nhiều tuần lể giao chiến một bên là quân Đức còn bên kia là quân Anh, Pháp và Bỉ, có biết bao quân lính đã ngã gục. Binh lính của hai phe tại mặt trận miền Tây đã hạ súng  để cùng nhau ăn mừng đêm Thiên Chúa ra đời.

Bắt đầu chỉ có một giọng ca đơn độc được cất lên : "Stille Nacht, Heilige Nacht... - Đêm Thánh vô cùng, đêm yên bình..." trên bãi đất chiến trường đang đẫm đầy máu và đầy khói súng. Tiếng ca bắt đầu trông thật lẽ loi tội nghiệp. Không đầy 100 mét đối diện , dưới các lũy hào, quân Anh vẫn bất động im lặng không phản ứng. Tuy nhiên bên này chiến hào, quân Đức lại sôi nỗi lên : một vài người , hàng trăm cuối cùng thì đến hàng ngàn người cùng ngân cao "Stille Nacht, Heilige Nacht... - Đêm Thánh vô cùng, đêm yên bình..."

Khi âm thanh cuối cùng được chấm dứt, chỉ sau một phút yên lặng bổng có tiếng vỗ tay cùng những tiếng la hú vang vọng không phải từ một mà  đến cả ngàn người từ chiến tuyến quân Anh : "Good, old Fritz" và "Encore, encore" hoặc "More, more".

Để đáp lại quân Anh cũng hòa mình theo niềm vui mà cùng cất cao tiếng hát "Merry Christmas, Englishme" . Để chứng minh cho những tiếng la vang: " We not shoot, you not shoot" quân Anh đã cho đặt những cây đèn sáp được thắp sáng trên khắp chiến hào.

Qua ánh sàng lờ mờ của ánh đèn sáp, bên chiến hào Đức có bóng người đàn ông đứng lên. Với giọng ca thật mạnh và thật đúng điệu Anh, anh ta vừa đi vừa hát bài ca của Annie Laurie, bài ca mà ngay cả một đứa bé nhỏ bên Anh cũng còn biết, nay lại được một người của quân thù , của một người Đức hát cao đã làm quân Anh thật xúc động. Anh ta  từ từ tiến đến chiến hào của quân Anh: "Tôi là một Trung Úy của quân Đức, Gentlemen, Mạng sống của tôi hiện nằm trong tay của các bạn. Tôi đã ra khỏi chiến hào và đang đi đến các bạn. Xin gửi 1 Sĩ quan đến gặp tôi trên nữa đoạn đường".

Dần dần hình bóng của viên Trung Úy càng hiện rõ ra, hàng trăm họng súng chỉa thẳng đến anh. Bổng nhiên bên chiến hào Anh lại có 1 người đàn ông trèo lên chiến hào rồi chui qua hàng rào kẻm gai. Nay thì không còn mệnh lệnh nào có thể ngăn chận anh người Anh này lại được nữa. Anh ta tiến thẳng đến viên Trung Úy người Đức. Họ bắt tay cùng nhau, ôm nhau, miệng nói tay thì cỡi vất súng xuống đất.

Quân Đức làm tiếp thêm một việc thật ngoạn mục. Đem quà sang tặng cho quân Anh : Một cành thông Giáng Sinh đã được thắp sáng sẵn bởi những ngọn đèn sáp được đem tận chiến hào quân Anh . Súng vẫn không nổ. Suốt đêm quân lính ca hát những bài Giáng Sinh tùy theo ngôn ngữ của mình, họ chia nhau thức ăn , điếu thuốc lá hoặc ngụm rượu mạnh cho ấm bụng để cùng nhau mừng đêm Chúa ra đời.

Qua ngày hôm sau, họ dành thì giờ để chôn cất quân lính tử trận lâu nay bị tuyết lấp phủ. ngồi tâm sự chuyện gia đình, cho nhau xem hình ảnh của vợ con hoặc cùng nhau đá banh. Quân lính bổng nhiên nhận ra và cùng nhau nhất trí : "Schluss mit dem Krieg, no more war, à bas la guerre - Chấm dứt chiến tranh" . Chúng tôi chỉ muốn được sống , muốn được trở về nhà cùng gia đình mà thôi.

Sau 2 ngày vui đùa thoải mái thì lệnh trên từ 2 phía được truyền xuống: chấm dứt cuộc ngưng chiến. Ai không thi hành sẽ bị xử lý tại chổ. Binh lính lại giao hẹn với nhau là chỉ bắn lướt qua đầu mà thôi. Tuy nhiên giao hẹn chỉ được thi hành nội trong 1 ngày duy nhất, sau đó thì đâu lại vào đấy. Họ chém giết nhau tiếp tục. Cuộc chiến vô lý đã làm thiệt mạng 1 triệu người đến năm 1918 mới được chấm dứt.

 "Stille Nacht, Heilige Nacht... - Đêm Thánh vô cùng, đêm yên bình..." chỉ với bài ca ngắn, không nhiều, chỉ cần 1 đêm ngắn ngũi nhưng biết bao sinh mạng đã được cứu thoát.  "Stille Nacht, Heilige Nacht... - Đêm Thánh vô cùng, đêm yên bình..." đúng là 1 đêm kỳ diệu cho những người lính bé nhỏ vô tội.

 Phương Tôn
 

VỀ MỤC LỤC

BÀI CA HOANG ÐỊA


 

(Lc 3:1-6)

Giữa miền hoang địa âm u,

từng cơn gió nhẹ như ru cõi lòng,

tình yêu từ chốn thiên cung,

như làn khí mát tỏa vùng cô liêu.

bên ta sỏi đá dập dìu,

bao niềm hy vọng vươn theo tháng ngày.

lạc loài giữa cõi trời mây,

từng đêm nghe giọt đong đầy tình thương.

 

Tiếng hô vang dội đêm trường,

từ miền hoang địa dọn đường Chúa đi,

bước chân ra cõi kinh kỳ,

núi đồi thung lũng nghe gì hay không ?

Thiên Sai tựa ánh vầng hồng,            

chiếu soi vào tận cõi lòng nhân gian.

tuyển dân tiến bước hân hoan,

dưới muôn bóng mát  rừng xanh, quế trầm.

Chúa là muôn ánh vinh quang,

soi đường công chính, mở đàng từ bi.

 

Dù đời muôn vẻ sân si,

hồng ân Thiên Chúa độ trì muôn dân.

từ nay khắp cõi gian trần,

niềm vui theo dấu vết chân cứu đời

Khi Con Thiên Chúa làm người,

Tin Mừng chiếu sáng bầu trời tự do.

 

Con đường lồi lõm, quanh co,

như ngàn khúc ruột nhấp nhô đoạn trường,

niềm hy vọng khắp bốn phương,

từ nguồn thần lực Tin Mừng vươn cao,

một mùa ân huệ dồi dào,

thiên ân tấu khúc ngọt ngào yêu đương.

 

Giờ đây vạn nẻo quê hương,

bao nhiêu đồi núi cản đường chứng nhân,

bóng đêm bao phủ toàn dân,

làm sao lột bỏ màu tang nhục nhằn ?

khoác lên phẩm phục huy hoàng,

bình an hạnh phúc vinh quang muôn đời.

 

Có ai xây dựng Nước Trời ?!

có ai can đảm làm người sứ ngôn ?

 

vân thanh  10.12.2006 

VỀ MỤC LỤC

ĐÊM ÂN TÌNH



 

ĐÊM ÂN TÌNH

Đất với Trời cùng hòa hợp giao duyên .

Cho Maria Đấng Dịu Hiền cưu mang .

Đây Ngôi Hai Thiên Chúa đẹp huy hoàng .

Vừa xuống thế đem niềm tin cứu độ .

Ngài sinh ra trong bao nguồn biến cố .

Sống luân trầm nơi bể khổ trần gian .

Đêm yêu thương ban phát tấm lòng vàng.

Hằng mong mỏi với ân tình chờ đợi .

Thuyền tội lỗi hãy quay về bến mới .

Neo hồng ân cứu rỗi mọi linh hồn .

Thiên đàng kia : Cội rễ của sinh tồn .

Tình yêu Chúa cho ngàn đời bất diệt .

 

MERRY CHRISTMAS

Ôi vĩ đại : Một kỳ công tuyệt hảo ,

Mà Chúa Cha đã ban tặng cho đời .

Đêm nay trong gió lạnh sương rơi ,

Sự nhập thể nhiệm mầu nơi hang đá .

Kìa phương đông sáng soi vì sao lạ ,

Be Lem này máng cỏ Chúa sinh ra .

Ánh vinh quang nơi tăm tối chói lòa ,

Thiên Thần trỗi khúc ca mừng Ấu Chúa .

Ngài hạ sinh , không nằm trên nhung lụa ,

Nơi hang lừa ấp ủ trọn tình thương .

Sống khó khăn : Ôi thật quá khiêm nhường ,

Mặc xác thịt của phàm nhân tội lỗi .

Chốn Thiên cung , thôi cũng đành từ chối ,

Đem tình yêu hoán đổi cảnh khổ đau .

Mong Chúa Cha vơi bớt nỗi u sầu ,

Ngàn thống hối , nguyện cầu cho nhân loại .

 

DẠ THẦN

Giáng sinh rạng rỡ hoan ca ,

Chuông reo thánh thót ngân nga chúc mừng .

  

Đèn hoa nhấp nháy sáng trưng ,

Sương rơi lành lạnh giữa rừng cờ bay .

  

Sao soi sáng rực phương này ,

Cho gian trần biết là ngày Chúa sinh .

  

Ngôi Hai xuống thế một mình ,

Hạ sinh máng cỏ mặc nghìn khổ đau .

  

Hang kia Đức Mẹ âu sầu ,

Thương Con rét mướt khẩn cầu Chúa Cha .

  

Thiên thần được lệnh xướng ca ,

Phương Đông sao rọi rước Ba Vua về .

  

Mục đồng trổi nhạc Chúa nghe ,

Bò , lừa sưởi ấm cho mê giấc nồng .

  

Giáng sinh mừng Chúa Hài đồng ,

Quỳ bên hang đá một lòng khấn xin .

  

Chúa thương cứu vớt tội tình ,

Trần gian chúc tụng hiển vinh muôn đời .

      

EMMANUEL

Bao lần Chúa đã sinh ra ,

Xét lòng con vẫn thấy mình khô khan .

  

Chúa ban ân phúc vô vàn ,

Hồn con lẩn vẩn mênh mang nỗi buồn .

  

Phải chăng con đã vô ơn ,

Không cảm nhận được linh hồn đi hoang .

  

Làm sao con tới Thiên đàng ,

Khi mà Thánh giá chẳng mang theo mình ?

  

Noi gương sống của Thánh Linh ,

Chúa Cha chỉ có một mình Chúa Con .

  

Hy sinh Con Trẻ vuông tròn ,

Sao con để Chúa mỏi mòn đợi trông ?

  

Cho con trọn trái tim hồng ,

Chúa ơi ! Con quyết cải lòng ăn năn .

  

Đêm nay kỷ niệm vô ngần ,

Con vui trong Chúa thành tâm nỗi lòng .

                 

HOA BIỂN

VỀ MỤC LỤC

BÍ QUYẾT SỐNG YÊN TÂM

Nguyên tác Don´t Sweat The Small Stuff...and it´s all small stuff

của Richard Carlson, Ph.D

Dịch giả Tôn Thất Bàng,     www.khoahoc.net

 

Nên Ý Thức Ảnh Hưởng Quả Cầu Tuyết Của Sự Suy Nghĩ Của Bạn  (1)

Môt kỹ thuật đầy mãnh lực để trở nên bình an hơn là ý thức được độ nhanh của sự suy nghĩ tiêu cực và không an toàn có thể vượt khỏi tầm kiểm soát. Có khi nào bạn để ý đến mức độ căng thẳng bạn cảm nhận khi bạn bị kẹt trong suy nghĩ của bạn không? Và rắc rối thêm là càng để tâm vào những chi tiết của bất kỳ việc gì đang làm bạn bực mình thì bạn càng cảm thấy còn tệ hại hơn. Từ ý nghĩ này dẫn đến ý nghĩ khác, và cứ thế cho đến một lúc nào đó bạn trở nên lo lắng không thể tưởng tượng nỗi.

Chẳng hạn bạn có thể thức giấc nửa đêm và nhớ đến việc cần phải gọi điện thoại ngày mai. Rồi thay vì thấy nhẹ nhõm khi đã nhớ ra việc gọi quan trọng như vậy, bạn bắt đầu diễn tập một cuộc đàm thoại có thể xảy ra với ông chủ của bạn, khiến cho bạn càng bực bội hơn. Chẳng mấy chốc bạn tự nghĩ, ’Tôi không thể tưởng nỗi mức độ bận bịu của tôi. Tôi phải gọi năm mươi cú điện thoại một ngày’. Có ai sống như thế này không? và cứ liên tục như thế cho đến khi bạn cảm thấy tội nghiệp cho chính bạn. Đối với nhiều người kiểu ’tấn công tư tưởng’ này có thể tiếp diễn vô thời hạn. Thật vậy, các thân chủ của tôi đã kể cho tôi nghe họ phải bỏ nhiều ngày và nhiều đêm vào việc diễn tập đầu óc kiểu này. Tất nhiên bạn không tài nào cảm thấy bình an khi trong đầu có đủ thứ chuyện lo lắng và bực mình.

Cách giải quyết vấn đề này là chú ý đến việc gì đang xảy ra trong đầu của bạn trước khi những ý nghĩ của bạn có cơ hội tạo nên động lực. Bạn càng sớm bắt quả tang mình đang tạo quả cầu tuyết trong đầu thì việc chận đứng hành động đó càng dễ hơn. Trong ví dụ của chúng ta đây bạn có thể lưu ý đến sự suy nghĩ mang tính quả cầu tuyết ngay khi bạn khởi sự duyệt qua danh sách những việc bạn phải làm ngày hôm sau. Vậy thì thay vì ám ảnh về ngày sắp tới của bạn, bạn tự nhủ, ’Ôi, tôi lại đi vào con đường cũ nữa’, và tỉnh táo diệt nó tận mầm mống. Bạn chận đứng dòng tư tưởng trước khi nó có cơ hội khởi động. Sau đó bạn có thể chú ý không phải vào mức độ không kham nỗi của  bạn mà vào mức độ biết ơn vì đã nhớ đến cú điện thoại cần phải gọi. Nếu lúc đó là nửa đêm, bạn hãy viết lên một mãnh giấy và ngủ trở lại. Thậm chí bạn có thể cứu xét chuyện để sẵn bút giấy cạnh giường để ghi những việc như vậy.

Thật sự bạn có thể là một người rất bận bịu, nhưng nhớ rằng cứ để trong đầu đầy những ý nghĩ không kham nỗi công việc chỉ làm cho vấn đề trầm trọng thêm bằng cách làm cho bạn có cảm tưởng căng thẳng thậm chí nhiều hơn căng thẳng bạn đã bị. Hãy làm thử bài tập nho nhỏ giản dị này lần tới khi bạn bắt đầu thấy ám ảnh về thời khóa biểu của bạn. Bạn sẽ ngạc nhiên về mức độ hiệu quả có thể có của nó.

Đừng Lo Lắng Những Chuyện Nhỏ

Thường thường chúng ta cho phép chúng ta lo lắng về những chuyện mà khi xem xét kỹ càng hơn không phải là những chuyện thật sự quan trọng đến thế. Chúng ta tập trung vào những vấn đề và những điều quan tâm nhỏ rồi thổi phồng chúng quá mức. Chẳng hạn một người lạ có thể chạy xe chèn ngay trước mặt chúng ta khi đang lưu thông. Thay vì lờ đi và tiếp tục những chuyện trong ngày của chúng ta, chúng ta tự tin rằng chúng ta tức giận chuyện ấy là đúng. Chúng ta tiếp tục trong đầu một cuộc đụng độ tưởng tượng cho đến khi đạt được kết quả mới thôi. Nhiều người trong chúng ta thậm chí có thể sau đó kể lại cho một người khác nghe việc đã xảy ra thay vì chỉ cần cho nó qua đi.

Nếu bạn không làm gì được thì cứ để cho người lái xe kia nhận lấy sự rủi ro ở chỗ khác vậy. Bạn hãy cố gắng thương xót cho anh ấy, và nhớ rằng chạy xe vội đến mức đó rất khổ sở. Cách này giúp chúng ta có thể duy trì cảm giác an lạc và tránh được việc tự mình nhận lấy rắc rối của người khác.

Có nhiều ví dụ  ’chuyện nhỏ’ tương tự xảy ra hàng ngày trong đời sống của chúng ta. Dù chúng ta phải chờ đợi khi sắp hàng, phải nghe lời chỉ trích bất công, hay dù phải làm phần lớn nhất của công việc chúng ta cũng được những cái lợi to lớn nếu chúng ta biết không lo lắng những chuyện nhỏ. Rất nhiều người bỏ rất nhiều sinh lực của họ vào ’việc lo lắng những chuyện nhỏ’ đến nỗi họ hoàn toàn đánh mất cảm xúc với nét quyến rũ và vẻ đẹp của cuộc đời. Khi bạn dấn thân vào việc thực hiện mục tiêu này bạn sẽ thấy rằng bạn càng có nhiều năng lực để xử sự tử tế hơn và dịu dàng hơn.

Hãy Làm Hòa Với Sự Bất Hoàn Hảo

Tôi vẫn chưa gặp một người toàn hảo tuyệt đối nào có đời sống nội tâm đầy thanh tịnh. Nhu cầu về toàn hảo và ham muốn về thanh tịnh nội tâm mâu thuẫn với nhau. Bất cứ lúc nào chúng ta si mê có được một cái gì như thế nào đó, tốt hơn cái sẵn có của nó, cơ hồ như chúng ta đang tham gia vào một trận đánh đang thua. Thay vì bằng lòng và biết ơn về những gì chúng ta có, chúng ta lại để tâm vào cái khiếm khuyết của một chuyện gì đó và sự cần thiết phải sửa khiếm khuyết đó của chúng ta. Khi chúng ta chú tâm vào cái sai sót, điều đó ngụ ý là chúng ta bất bình, không bằng lòng.

Dù nó liên quan đến chúng ta như cái tủ áo không ngăn nắp, vết trầy trên chiếc ô-tô, một thành tựu không hoàn hảo, một vài cân chúng ta muốn xuống hay liên quan đến ’những cái không hoàn hảo’ của một người khác như dáng điệu, cung cách, hay cách sống của người ấy thì chính hành động tập trung vào sự bất hoàn hảo lôi kéo chúng ta ra khỏi mục tiêu của chúng ta: nên có thái độ tử tế và dịu dàng. Chiến thuật này không liên quan gì đến việc ngưng gắng sức của bạn mà liên quan đến việc si mê và chú trọng thái quá vào cái sai quấy của cuộc sống. Nó liên quan đến nhận thức rằng trong khi luôn luôn có một cách thực hiện một việc gì đó tốt hơn thì điều đó không có nghĩa là bạn không thể thưởng thức và quý trọng thực trạng đã có của các sự việc.

Giải pháp ở đây là bắt lấy chính bạn khi bạn rơi vào thói quen khư khư cho rằng các sự việc nên khác hơn sự hiện hữu của chúng. Ngay bây giờ bạn hãy dịu dàng nhắc nhở bản thân rằng đời sống được như thế này là tốt rồi. Không có sự phán xét của bạn, mọi việc cũng sẽ tốt đẹp. Một khi bạn bắt đầu loại bỏ sự đòi hỏi cần phải toàn hảo trong mọi lãnh vực của đời bạn, bạn sẽ bắt đầu khám phá cái toàn hảo trong chính cuộc sống.

Đừng Nghĩ Rằng Những Người Dịu Dàng, Thanh   Thản Không Thể Là Những Người Thành Công Vượt Bực

Một trong những lý do chính khiến nhiều người trong chúng ta cứ vội vã, kinh hãi, thích tranh đua và tiếp tục sống một đời sống như thể một cuộc cấp cứu khổng lồ, là sự lo sợ rằng nếu chúng ta trở nên bình an và nhân từ hơn, chúng ta sẽ đột ngột chấm dứt việc đạt được những mục tiêu của chúng ta. Chúng ta trở nên lười biếng và lãnh đạm.

Bạn có thể trấn an sự lo sợ này bằng cách ý thức rằng sự trái ngược lại mới thật là chân lý. Suy nghĩ sợ hãi, hốt hoảng làm tiêu hao một số năng lượng to lớn và làm cạn kiệt óc sáng tạo và động lực thúc đẩy xuất phát từ cuộc sống. Khi bạn lo sợ hay hốt hoảng, đúng là bạn bất động hóa tiềm năng lớn nhất của mình, chưa nói đến sự khoái lạc. Bất kỳ thành quả nào bạn đạt được cũng đều bất chấp sự lo sợ của bạn, nghĩa là không phải do lo sợ.

Tôi được cái may mắn có chung quanh tôi một số người rất thanh thản, bình an và nhân từ. Trong số ấy có những người là những tác giả những sách bán chạy nhất, những phụ huynh nhân từ, những người làm việc cố vấn, những chuyên gia điện toán, và những quản trị viên trưởng.  Tất cả đều thành công trong việc họ làm và rất có năng lực về nghề nghiệp của họ.

Tôi đã học được bài học quan trọng này: Khi bạn có được tâm thanh tịnh, bạn ít  bị phân tâm bởi những gì bạn muốn, bạn cần, bạn thích và bạn lo. Như vậy việc tập trung, chăm chú, thành tựu các mục tiêu của bạn và trả lại cho người khác sẽ dễ dàng hơn.

Hãy Làm Điều Tốt Cho Người Khác và Đừng Nói Cho Ai  Biết Chuyện Đó

Trong lúc nhiều người trong chúng ta thường xuyên làm những việc tốt cho những người khác, chúng ta gần như chắc chắn sẽ nói đến những cử chỉ tử tế của chúng ta với ai đó, tìm sự tán thành của họ một cách kín đáo.

Khi chúng ta chia sẻ sự tử tế hay độ lượng của chính mình với một người khác, hành động này làm cho chúng ta cảm thấy như chúng ta là những người có  nghĩ đến người khác, nó nhắc chúng ta nhớ đến mức độ tốt của chúng ta và mức độ đáng được đối xử tử tế của chúng ta.

Trong lúc tất cả những cử chỉ tử tế tự nó là tuyệt vời, thì có một cái gì đó còn kỳ diệu hơn về việc làm có nghĩ đến người khác mà không bao giờ đề cập đến việc ấy với bất cứ ai. Bạn luôn luôn cảm thấy sảng khoái khi bạn cho người khác. Thay vì làm giảm bớt những cảm giác lạc quan bằng cách nói cho người khác biết lòng tốt của chính bạn thì bạn có thể giữ lại tất cả những cảm giác lạc quan ấy bằng cách giữ nó trong lòng mình.

Quả thật ta nên cho vì mục đích là cho, chứ không phải cho để nhận lại một cái gì đó. Đây mới là đúng điều bạn đang làm khi bạn không đề cập gì đến lòng tốt của bạn với người khác -- phần thưởng của bạn là những cảm giác ấm áp đến từ cử chỉ biếu tặng. Lần sau khi bạn làm việc gì thật sự tốt cho ai, hãy giữ nó trong lòng và sung sướng trong niềm vui tràn ngập của việc tặng biếu ấy.

Hãy Phát Huy Tình Thương

Không có gì giúp chúng ta xây dựng cái nhìn sâu rộng của chúng ta hơn sự phát triển tình thương cho người khác. Tình thương là một cảm giác của sự thông cảm. Nó bao hàm sự sẵn lòng đặt địa vị mình vào địa vị người, bỏ đi cái quan trọng nơi bạn và tưởng tượng khi ở vào hoàn cảnh khó khăn của người khác bạn sẽ như thế nào và đồng thời cảm thấy thương người ấy. Đó chính là sự nhìn nhận rằng những khó khăn, nỗi khổ, và thất vọng của người khác mỗi chút đều thực giống như là của chính chúng ta -- thường thường còn trầm trọng hơn nhiều. Nhìn nhận sự kiện này và cố gắng cống hiến cách giúp đỡ nào đó tức là chúng ta mở cửa trái tim của chính chúng ta và làm tăng cảm giác tri ân của chúng ta lên rất nhiều.

Tình thương là cái gì bạn có thể phát huy bằng cách thực hành. Nó bao hàm hai điều: ý định và hành động. Ý định có nghĩa giản dị là bạn mở cửa con tim của mình để đón nhận người khác; bạn nới rộng tầm quan trọng của sự vật hay của con người từ chính bạn đến người khác. Hành động có nghĩa đơn giản là cái ’bạn làm gì liên quan đến ý định ấy’. Bạn có thể biếu một ít tiền hay thời giờ (hay cả hai) một cách đều đặn cho một lý do chính đáng gần gũi với tấm lòng của bạn. Hoặc có lẽ bạn sẽ nở một nụ cười xinh đẹp và mở lời ’xin chào’ chân thật với những người bạn gặp lúc đi đường. Cái điều bạn làm không quan trọng lắm, chỉ cái hành động của bạn mới là quan trọng. Như Mẹ Teresa nhắc nhở chúng ta, ‚Chúng ta không thể làm những việc vĩ đại trên quả đất này. Chúng ta chỉ có thể làm những việc nhỏ với tình thương vĩ đại’.

Tình thương phát huy cảm giác tri ân của bạn bằng cách vứt bỏ sự chú ý đến tất cả những chuyện nhỏ mà phần đông chúng ta đã học để xem chúng là quá quan trọng. Khi bạn thường xuyên để thì giờ suy gẫm về sự nhiệm mầu của cuộc đời -- sự nhiệm mầu là bạn có đầy đủ khả năng đọc sách này -- món quà thị giác, tình thương, và tất cả những món quà còn lại, nó có thể giúp nhắc nhở bạn rằng nhiều chuyện bạn nghĩ tới như ’chuyện lớn’ thực sự chỉ là ’chuyện nhỏ’ mà bạn đang biến thành  chuyện lớn.                                    

Hãy Tự Nhắc Nhở Khi Bạn Chết Công Việc Của Bạn Vẫn Không Hết

Rất nhiều người trong chúng ta sống đời mình như thể mục đích bí ẩn của nó là phải làm sao cho xong hết mọi việc. Chúng ta thức khuya, dậy sớm, tránh những cuộc vui, và cứ bắt người thân của chúng ta phải chờ đợi. Tiếc thay, tôi đã chứng kiến nhiều người đã bắt người thân của mình phải chờ quá lâu đến nỗi người thân không còn thích duy trì mối quan hệ với họ nữa. Chính tôi trước đây thường làm như vậy. Thường thường chúng ta tự tin rằng chuyện ám ảnh với danh sách những việc ’phải làm’ của chúng ta chỉ là tạm thời -- chứ một khi chúng ta vượt qua được danh sách ấy, chúng ta sẽ trầm tĩnh, thanh thản và sung sướng. Nhưng sự thật thì chuyện nầy hiếm khi xảy ra. Khi các mục trên danh sách  được loại ra thì những mục mới lại thay vào.

Đặc tính của ’chỗ đựng văn thư đến’ là chỗ có dụng ý để chứa các văn kiện đến chứ nó không có dụng ý là phải trống. Luôn luôn có những cú điện thoại phải gọi, những kế hoạch phải hoàn tất, và công việc phải làm. Tất nhiên có thể biện luận rằng một ’chỗ đựng văn thư đến’ đầy là quan trọng cho sự thành công. Điều này có nghĩa là đang cần đến thời giờ của bạn đó!

Tuy nhiên, bất luận bạn là ai hay bạn làm việc gì, hãy nhớ rằng không có gì quan trọng hơn cái cảm giác hạnh phúc và yên tâm của chính bạn và của những người thân. Nếu bạn bị ám ảnh là phải làm mọi việc cho xong, bạn sẽ không bao giờ có cảm giác an lạc! Trong thực tế gần như mọi việc đều có thể chờ. Trong đời làm việc của chúng ta rất ít chuyện thật sự rơi vào loại ’khẩn cấp’. Nếu bạn chăm chú vào công việc của bạn thì mọi cái sẽ xong đúng thời hạn.

Tôi thấy rằng nếu tôi (thường xuyên) tự nhắc nhở mục đích của cuộc sống không là  làm cho xong tất cả mọi việc mà để thưởng thức từng bước trên đường đi và sống một cuộc sống đầy tình thương thì dễ cho tôi nhiều hơn khi kiểm soát sự ám ảnh của tôi với việc hoàn tất danh sách những việc phải làm. Bạn hãy nhớ khi bạn lìa đời sẽ vẫn còn việc chưa xong cần được đảm trách.  Và bạn biết sao không? Có người khác sẽ làm việc ấy cho bạn! Đừng bỏ phí thêm nữa những giây phút quý báu của đời bạn để hối tiếc những chuyện không thể tránh được.

 

(1) ảnh hưởng lan rộng nhanh chóng, không thể kiểm soát được của sự suy nghĩ    

VỀ MỤC LỤC
Câu Chuyện Dài về Dị Ứng

 

Ðâu đây đã nghe thấy nhiều thân hữu ấm ức than phiền bị Dị Ứng quấy rầy. Nên xin cùng ôn lại về vấn đề này. Ðể cùng nhau phòng ngừa, tìm nơi chữa trị.

1-     Dị Ứng là gì?

Dị Ứng là một phản ứng quá đáng của cơ thể với một chất mà với cùng số lượng không gây ảnh hưởng gì cho người khác. Phản ứng xẩy ra khi người có thể bị dị ứng lại cứ liên tục tiếp xúc với các chất đó. Hậu quả của phản ứng là những triệu chứng khó chịu nặng nhẹ khác nhau, đôi khi đe dọa tới đời sống con người.

2- Bằng cách nào mà phản ứng bất thường đó có thể xẩy ra?

Ðây là một diễn tiến khá phức tạp với nhiều giai đoạn:

a- Giai đoạn đầu

Khi chất gây dị ứng xâm nhập cơ thể, tiếp xúc với hệ thống miễn dịch lần đầu thì chưa có chuyện gì xẩy ra. Nhưng cơ cấu phòng thủ này đã sửa soạn để đối phó với kẻ lạ mặt bằng cách tạo ra những kháng thể riêng với chúng, gọi là kháng thể IgE. Do đó người dễ bị dị ứng đều có lượng IgE khá cao trong máu.

b- Giai đoạn hai xẩy ra khi cùng chất gây dị đó lại vào cơ thể. Kháng thể IgE sản xuất trong giai đoạn đầu nhận ra kẻ lạ trước đây bèn bao vây, tiêu diệt. Rồi một loạt các hóa chất như histamine, protaglandins được tiết ra. Một nghịch lý là chính các hóa chất này lại gây ra các triệu chứng của dị ứng.

Histamine kích thích cơ thể khiến nước mắt nước mũi dàn dụa, ngứa ngáy trên da; nhức đầu, tim đập nhanh và không đều, giảm huyết áp; tăng tiết dịch vị bao tử, nhu động ruột non mạnh gây ra ngăm ngăm đau bụng; tâm thần bồn chồn, lo lắng

Protaglandins làm co thắt đường hô hấp, dãn mở huyết quản.

c- Giai đoạn ba. Trong giai đoạn này, một số bạch cầu được điều động tới để tiêu diệt chất sinh dị ứng. Trong cuộc chiến, các bạch cầu cũng tiết ra một số hóa chất khiến tế bào cơ thể bị viêm sưng nhiều hơn.

3- Những chất nào là “chất gây dị ứng”?

Hầu như mọi vật chất đều có thể gây ra dị ứng. Chúng có thể hiện diện trong môi trường chung quanh như phấn cây cỏ, bào tử mốc meo, không khí ô nhiễm từ các khu kỹ nghệ. Trong nhà ở thì có bụi mạt, mốc meo trong bếp buồng tắm, lông thú vật như chó mèo, các sợi len vải, mỹ phẩm, thuốc xịt tóc, khói thuốc lá, lớp sơn tường mới quét.

Một số thực phẩm thường gây dị ứng là sữa, trứng, hải sản, đậu phọng, đậu nành, xúc cù là...

Hóa chất trong dược phẩm cũng có thể gây dị ứng, nhất là thuốc kháng sinh penicillin, thuốc chống đau aspirin 

4- Xin kể các dấu hiệu khi bị dị ứng?

Thường thường chất dị ứng xâm nhập cơ thể qua đường hô hấp như mũi, cuống họng, cuống phổi và phổi.

Khi đường hô hấp trên bị kích thích thì bệnh nhân hắt hơi, sổ mũi, nghẹt mũi, ngứa mũi và cuống họng, chẩy nước phía sau mũi, ngứa và chẩy nước mắt. Khi chất dị ứng vào phổi thì nạn nhân cảm thấy nặng nặng nơi ngực, khò khè, khó thở, ho, hen.

Khi ăn phải chất dị ứng thì có buồn nôn, ói mửa, tiêu chẩy, đau bụng.

Ðôi khi chất gây dị ứng làm cho da sưng đỏ, nổi ngứa cùng mình.

5- Có mấy thứ dị ứng?

Dị ứng có thể xẩy ra theo mùa trong năm như là Sốt Cỏ Khô thường có nhiều vào mùa xuân và thu khi hoa bắt đầu nhả phấn.

Dị ứng quanh năm gây ra do lông chó mèo, mạt bụi, mốc meo...

6- Xin kể các dị ứng thường thấy nhất.

Ðó là Sốt Cỏ Khô (Hay fever), Hen Suyễn, Chàm Da (Eczema).

a- Sốt Cỏ Khô là gì?

Sốt Cỏ Khô là một loại dị ứng gây ra do phấn hoa của cỏ cây và các thực vật khác. Một trong các loại cỏ hay gây dị ứng nhất là Cỏ Phấn Hương ragweed với nhiều hạt phấn từ cuối mùa hạ tới đầu mùa đông. Triệu chứng chính của bệnh là viêm niêm mạc của mũi, đôi khi có viêm giác mạc. Vì thế tên y học của Hay Fever là Viêm Dị Ứng Mũi allergic rhinitis. Bệnh nhân bị hắt hơi, chẩy nước mũi hoặc nghẹt mũi, ngứa và chẩy nước mắt, tai như đầy nước. Bệnh thường xẩy ra vào mùa xuân, hạ, thu khi cây cỏ trổ hoa, nhả phấn theo gió theo ong tản mác khắp nơi.

Nếu xác định được chất sinh dị ứng thì có thể dùng phương pháp giải cảm thụ desentilization để trị bệnh.

b- Hen suyễn là bệnh gì vậy?

Ðây là một bệnh ảnh hưởng tới sự hô hấp và hai lá phổi. Bệnh nhân thở khò khè và khó thở vì sự co thắt của phế quản. Bệnh có thể nặng hơn khi tiếp xúc với một hay nhiều các chất sinh dị ứng như dược phẩm, phấn hoa hoặc khi làm việc mà cố gắng quá sức, hoặc khi có xúc đông mạnh hoặc bị nhiễm trùng.

c- Còn bệnh Chàm da?

Ðây là bệnh viêm da dị ứng, đặc biệt là biểu bì. Chàm gây ra ngứa với vết ban đỏ, bóng nước nhỏ trên da. Các bóng nước này thường rỉ nước rồi đóng vẩy, dầy lên và biến mầu. Chàm có thể do các nhân tố từ ngoài tới như khi ăn một vài thực phẩm, tiếp xúc với vài kim loại;  hoặc nội tại, không biết nguyên do. Chữa tùy theo nguyên nhân, thường là bằng thuốc steroid

7- Ngoài ba dạng trên, còn dạng dị ứng nào khác nữa?

Có chứ. Ta có thể bị dị ứng ở các bộ phận khác trong cơ thể với nhức đầu, đi tiêu chẩy, đau bụng, nổi mề đay.

8-Có gì khác biệt giữa “Dị Ứng” với “Nhậy cảm” và “Bất Dung”

Dị ứng chỉ dùng để diễn tả một phản ứng xẩy ra khi cơ thể tái tiếp xúc với một chất mà bình thường vô hại. Chất này được cơ thể nhớ ra do đã có tiếp xúc trước đây và đã sản xuất ra kháng thể IgE để đối phó.

Nhậy cảm (Sensitivity) là một phản ứng quá đáng với tác dụng phụ của một chất nào đó. Chẳng hạn thuốc hít để chữa hen suyễn mà dùng quá phân lượng thì bệnh nhân cảm thấy kích thích, run rẩy.

Bất dung (Intolerance) là cảm giác khó chịu khi ta ăn một món thực phẩm mà cơ thể không tiêu thụ được. Lý do là bao tử không tiết ra đủ dịch vị để tiêu hóa món ăn đó. Chẳng hạn nhiều người không có diêu tố lactase để tiêu hóa đường lactose trong sữa nên thường hay bị tiêu chẩy khi uống sữa.

9- Dị ứng có nguy hiểm không?

Dị ứng có thể chỉ thoảng qua với mấy khó chịu cục bộ tùy theo từng người và tùy theo chất gây dị ứng nhiều hay ít.

 Hiếm hơn nhưng rất trầm trọng là sốc phản vệ (anaphylactic shock) với phản ứng toàn thân. ảnh hưởng tới hệ tuần hoàn. Chất histamine tiết ra rất nhiều, làm cho mạch máu dãn mở, nước ứ ngoài tế bào gây sưng phù, co thắt cuống phồi, hạ huyết áp, suy sụp tuần hoàn đôi khi tử vong. Trường hợp cụ thể là khi có phản ứng với thuốc chích penicillin hoặc khi bị ong độc đốt.

10- Dị ứng có di truyền không?

Thực ra dị ứng không di truyền, nhưng có khả năng là nếu trong gia đình có nhiều người bị dị ứng thì mình cũng có thể bị theo.

11- Dị ứng có thường xẩy ra không?

Theo thống kê thì có tới 20% dân chúng bị dị ứng với một vật chất nào đó.

12- Vào tuổi nào thì dị ứng hay xẩy ra?

Dị ứng thường bắt đầu ở tuổi ấu thơ, nhưng cũng có thể xẩy ra ở bất cứ tuổi nào. Không bao giờ con người quá già để mà không bị dị ứng.

13- Có người nói khi lớn lên thì dị ứng hết, đúng hay sai.

Không đúng đâu. Có điều là dấu hiệu của dị ứng thay đổi với thời gian. Chẳng hạn khi còn bé thì dấu hiệu dị ứng là chàm da, đau bụng nhưng khi lớn lên thì có thể là hen suyễn, ban đỏ trên da. Ngay người cao tuổi cũng có các dấu hiệu dị ứng nhưng nhẹ hơn.

14- Khi bị dị ứng thì liệu tôi có phải đi khám bệnh với bác sĩ chuyên về dị ứng không?

Thực ra dị ứng có nhiều dấu hiệu khác nhau ở nhiều bộ phận, nên một bác sĩ tổng quát hoặc chuyên khoa nào đó, ngoài bác sĩ dị ứng, cũng chữa được.

Chẳng hạn khi ta bị chàm ngứa da thì bác sĩ bì phu có thể chữa được. Một em bé bị dị ứng với sữa bò thì đến bác sĩ chuyên về nhi khoa là có thể giải quyết được khó khăn.

15- Có cách nào để thử coi bị dị ứng không?

Có chứ. Hiện nay có ít nhất ba phương thức thử nghiệm, được thực hiện tùy theo triệu chứng bệnh và tình trạng của da.

a- Thử trên da. Có thể là Châm kim da, miếng dán trên da

- Châm kim trên da- skin prick testing.

Thử nghiệm này rất phổ thông đặc biệt trong các trường hợp hít hoặc ăn phải chất gây dị ứng và được thực hiện trên da,

Vùng da để thử nghiệm là ở mặt trong của cánh tay. Sau khi khử trùng sạch sẽ, một chút dung dịch chất gây dị ứng được đặt lên da. Với một mũi kim nhọn, châm nhẹ da để chất thử nghiệm ngấm vào. Có thể thử vài loại chất dị ứng một lần, đặt cách xa nhau.

Kết quả dương tính khi chỗ da thử ngứa, đỏ dầy lên, lan rộng tới 3-5 mm trong vòng 15 phút.

Trong phương pháp này, chỉ sử dụng một số lượng rất nhỏ chất sinh dị ứng, nên rất an toàn và có thể thực hiện ở mọi lứa tuổi. Ðây cũng là thử nghiệm đầu tiên mà các bác sĩ làm khi nghi ngờ bị dị ứng với một chất nào đó. Phương pháp rất giản dị, kết quả mau chóng, ít tốn kém

- Thử bằng miếng dán trên da.

Chất sinh dị ứng được đặt trên một miếng kim loại đường kính 1 phân. Miếng kim loại được gắn trên da, thường là ở lưng. Bệnh nhân cần giữ cho da không bị ẩm nước. Sau 48 giờ, gỡ miếng kim loại. Nếu da ở chỗ đó sưng đỏ lên thì kết quả dương tính, tức là người đó dị ứng với chất thử nghiệm. Thử nghiệm này được dùng đặc biệt cho dị ứng chàm da

- Chích dưới da với một chút síu chất nghi là gây ra dị ứng rồi coi kết quả như trên.

b- Thử máu.

Máu được lấy ở tĩnh mạch rồi gửi tới phòng thí nghiệm để tìm kháng thể IgE. Sau một tuần lễ thì có kết quả. Thử máu được dùng khi người bệnh có thể bị phản ứng mạnh với chất dị ứng đặt trên da, khi da bị chàm rộng không có chỗ đặt chất gây dị ứng.

c- Loại trừ chất sinh dị ứng.

Cách này thường được dùng để coi dị ứng với thực phẩm nào. Thực phẩm hay gây dị ứng là sữa, trứng, đậu phọng, đậu nành.

Thực phẩm khả nghi được loại  bỏ trong phần ăn trong vài tuần lễ. Bác sĩ và bệnh nhân cùng quan sát coi dấu hiệu dị ứng còn hay hết trong khi không ăn thực phẩm này. Sau đó ăn lại thực phẩm đó từ từ và để ý có dấu hiệu dị ứng không.

Có thể cho bệnh nhân ăn thực phẩm khả nghi rồi quan sát sự xuất hiện của triệu  chứng.

Cách này cần được thực hiện dưới sự theo dõi của bác sĩ và ở trong bệnh viện để đảm bảo là bệnh nhân ăn uống đầy đủ.

16- Xin nói cách điều trị ban đầu cho dị ứng.

Mục đích chính của điệu trị dị ứng là giảm thiểu hoặc ngăn ngừa các triệu chứng của bệnh và giúp nạn nhân duy trì nếp sinh hoạt bình thường mỗi ngày.

Trước hết là phải tìm hiểu lịch sử bệnh tình người bị dị ứng. Khi mà đã biết được chất sinh dị ứng thì cần phải tránh xa, loại bỏ chất đó. Chẳng hạn dị ứng vì lông chó thì phải tặng cho người khác, dị ứng với đồ trang sức thì phải cho bạn bè món đó, dị ứng với dâu, cua thì đừng ăn các thứ này nữa.

Nên nhớ là phấn hoa trong không khí cao nhất từ nửa đêm tới 8 giờ sáng, đặc biệt là vào những ngày nắng ấm và khô. Ta nên tránh ra ngoài trong thời điểm này hoặc mang khẩu trang.

Nếu không loại bỏ được thì phải dùng dược phẩm, dựa trên các dấu hiệu khó chịu của người bệnh.Chẳng hạn, khi dấu hiệu chính là nghẹt mũi thì thuốc xịt chống nghẹt được sử dụng. Nếu là chẩy nước mũi và ngứa lỗ mũi, khóe mắt thì phải dùng các loại chống histamine. Nếu có cả hai dấu hiệu thì phải phối hợp cả hai loại thuốc.

Khi dị ứng nhẹ vừa phải, bác sĩ thường cho các thuốc ít  gây ngủ như loratadine (Claritin), desloraladine (Clarinex), fexofenadine (Allegra), cetirizine(Zyrtec), hoặc thuốc xịt mũi như azelatine (Astelin). Các thuốc Seldane (Terfenadine) và Hismanal (Astemazole) đã không còn được bán trên thị trường Hoa Kỳ vì tác dụng ngoại ý quá mạnh lên nhịp tim.

Chống nghẹt mũi có các thuốc có chất pseudoephedrine uống hoặc xịt mũi.

Khi bệnh trầm trọng thì phải dùng thêm thuốc uống hoặc xịt mũi có chất steroids. Chất này rất tốt để làm giảm các triệu chứng của dị ứng nhưng đôi khi cũng gây ra nhiều tác dụng phụ ở một số người. Mấy loại thuốc xịt mũi mới ra lò thường làm giảm nghẹt mũi rất mau và ít gây ra tác dụng phụ

Các thuốc vừa kể cần có toa của bác sĩ, ngoại trừ Claritin được bán tự do.

Thuốc chống histamine mua tự do gồm có diphenhydramine (Benadryl), clemastine (Tavist, Chlorpheniramine(Chlor-trimeton); hydroxyzine (Atarax). Các thuốc này đều gây ra ngây ngất buồn ngủ nhưng khá công hiệu với dị ứng.

Miễn dịch trị liệu (immunotherapy) hiện nay đang được sử dụng và có nhiều triển vọng khả quan , nhưng khá tốn kém.

17- Xin nói về tác dụng phụ của các thuốc chống histamine và chống nghẹt mũi.

Vâng, đây là điều mà nhiều người thắc mắc và chúng ta cần ghi nhớ. Chúng tôi ghì tên riêng của thuốc cho dễ nhớ, dễ đọc.

a- Zyrtec.

- Chống chỉ định: không dùng khi có tiền sử dị ứng với thuốc này và thuốc hydroxyzine.

- Thận trọng: Cần điều chỉnh liều lượng với người bị suy thận, suy gan. Có thể gây rối loạn cho sinh hoạt tâm thần và thể chất. Không nên dùng chung với rượu hoặc thuốc an thần. Hỏi ý kiến bác sĩ khi có thai hoặc đang cho con bú sữa mẹ.

- Tác dụng ngoại ý: Hiện tượng ngủ gà; mệt mỏi, khô miệng, nhức đầu, viêm họng, chóng mặt, đau bụng, ho, chẩy máu cam, tiêu chẩy.

b- Allegra

- Chống chỉ định: Không dùng nếu đã bị dị ứng với thuốc này.

- Thận trọng: Cần cho bác sĩ hay nếu có bệnh tim, thận hoặc gan vì có thể phải điều chỉnh liều lượng thuốc khi có các bệnh vừa kể. Hỏi ý kiến bác sĩ trước khi dùng nếu đang có thai hoặc cho con bú sữa mẹ. Thuốc chưa được phép dùng cho trẻ em dưới 6 tuổi.

- Cách uống thuốc: Uống theo chỉ dẫn của bác sĩ, thường là hai lần vào buổi sáng và buổi chiều. Nếu quên một liều thì uống ngay khi nhớ ra, nhưng nếu đã tới giờ uống liều thứ hai thì không uống hai liều một lúc. Uống thuốc với một ly nước. Không nên uống Allegra khi uống thuốc chống acid bao tử như Rolaids, Maalox, Mylanta, Pepcid vì các thuốc này có thể làm giảm tác dụng của Allegra.

- Tác dụng ngoại ý: Buồn nôn, ói, nhức đầu, ho, đau lưng, khó chịu bao tử, nóng sốt, nhiễm trùng tai trong, mũi, cuống phổi.

c- Clarinex

- Chống chỉ định: Không dùng nếu đã bị dị ứng với thuốc.

- Thận trọng: Cho bác sĩ hay nếu đang có bệnh tim, thận để được thay đổi liều lượng thuốc. Tham khảo ý kiến bác sĩ trươc khi dùng nếu có thai, cho con bú sữa mẹ.

- Cách uống: Uống ngày một lần; có thể uống với thực phẩm hoặc khi đói bụng.

- Tác dụng ngoại ý: Khô miệng, mệt mỏi, buồn ngủ, đau họng, chóng mặt, muốn ói, đau nhức xương thịt, nhức đầu, ho, tiêu chẩy.

d- Benadryl: Cần cẩn thận khi dùng thuốc này nếu đang bị bệnh phổi, cao áp nhãn, khó khăn tiểu tiện vì sưng tuyến tiền liệt. Thuốc thường gây buồn ngủ, bẳn tính. Không nên dùng khi uống rượu, thuốc an thần, thuốc ngủ.

18- Chích ngừa dị ứng có tốt không?

Chích ngừa dị ứng rất công hiệu trong trường hợp hít thở phấn hoa, bụi bặm, meo mốc hoặc khi bị ong đốt. Trước khi chích, cần làm các thử nghiệm trên da để xác định chất gây dị ứng.

Bệnh nhân sẽ được chích một số lượng rất nhỏ chất sinh dị ứng một cách đều đặn, thường là mỗi tuần lễ. Phân lượng nhiều ít tùy theo bệnh nhân và bệnh trạng nặng nhẹ.

Sau khi chích vài tháng ta đã thấy kết quả ngay. Ðôi khi phải chích lâu hơn, hai ba năm..

Trên 80% bệnh nhân chích đều đặn có kết quả khả quan hoặc hết hẳn. Cần phải kiên nhẫn với phương pháp giải cảm thụ này. Và cũng khá tốn kém đấy.

Xin cầu chúc mọi người allergic free. Ðể an hưởng cuộc đời  và tự do ăn uống.

Bác sĩ Nguyễn Ý Ðức,       Texas- Hoa Kỳ.

VỀ MỤC LỤC

GIÁNG SINH BUỒN, Chuyện phiếm của Gã Siêu

 

Mấy bữa nay, trời Saigon đổ lạnh. Một cái lạnh họa hiếm và quí giá cho miền Nam oi bức. Đây là cơ hội ngàn vàng, một năm mới có một lần để cho phe đờn bà con gái trình làng các thứ áo lạnh, từ áo gió cho tới áo len. Còn cánh đờn ông con giai ngồi uống cà phê bên vỉa hè tha hồ ngắm nghía và đưa ra những lời bình luận loạn cào cào. Có tên đã dựa vào bao thuốc lá Salem mà phát ngôn rông rổng :

- Sao áo len em mỏng.

Một tên khác, đọc ngược lại với cặp mắt lim dim tuồng như đang mơ mộng :

- Mắt em là ánh sao.

Riêng phần gã, mỗi khi xuống phố, hai tay thọc vào túi quần, vừa đi vừa nghêu ngao nho nhỏ bài tình ca thuở nào :

- Lại một Noel nữa.

Mấy mùa Giáng sinh buồn.

Anh ở miền biên giới,

Thương về một khung trời.

Chắc Đàlạt vui lắm.

Mimosa nở vàng.

Anh đào khoe sắc thắm.

Hương ngào ngạt không gian…

Mà lạ thật, cứ mỗi độ Noel về, gã lại nhớ tới Đalạt một cách day dứt và quay quắt. Noel Đalat ngày xưa như có một cái gì thật thơ mộng và vấn vương, để lại trong đầu óc gã những kỷ niệm chẳng bao giờ nhạt phai, nhất là với cái lạnh.

Đúng thế, thời tiết Saigon chẳng phù hợp với bầu khí Noel tí nào. Có những năm trời nóng toát cả mồ hôi hột : trong nhà thờ quạt máy thổi vù vù, còn tại những vùng sâu vùng xa, ánh sáng điện đóm chưa chiếu tới, thì quạt nan, quạt giấy cứ phành phạch loạn cả lên…thế mà miệng vẫn cứ phải hát to :

- Đêm đông lạnh lẽo Chúa sinh ra đời.

Oái oăm hơn nữa, có những năm vào chiều ngày hai mươi bốn, ông trời bỗng giáng cho một trận mưa. Và thế là bao nhiêu công trình trang trí bỗng đi đoong. Lặng lẽ đứng nhìn những núi đá bằng giấy xi măng “vỡ ra tan tác” mà bụng rầu thối cả ruột.

Năm ấy, trời Đalat rét sớm. Chui vào khu chợ mới, rảo qua các hàng quán, rồi từ tầng trệt bước lên lầu, gã nhìn thấy một cô gái nhỏ người người thượng, đang co ro nơi góc cầu thang tăm tối. Ánh mắt van xin. Đôi tay run rẩy giơ ra như đợi chờ những đồng tiền lẻ bố thí.

Hình ảnh này khiến gã nhớ tới câu chuyện “Cô bé bán diêm” của Andersen, mà gã đã say mê đọc. Câu chuyện đại khái như thế này :

Buổi chiều ngày hai mươi bốn tháng mười hai, trời thật lạnh. Cô bé lảo đảo bước đi trong gió rét. Làm sao cô bé có thể bán hết những bao diêm trong một buổi chiều mà mọi người đều đang vội vã chuẩn bị cho một ngày lễ lớn.

Nhớ tới những bao diêm còn tồn đọng, cô bé không dám trở về nhà vì sợ bà dì ghẻ đay nghiến. Cô bé tìm một nơi ẩn khuất để ngồi nghỉ chân. Từng cơn gió lạnh thổi qua. Cô bé thầm nghĩ :

- Bây giờ mình thử quẹt một que diêm để sưởi ấm tí chút đôi lòng bàn tay.

Thế rồi, que diêm thứ nhất được quẹt lên. Cô bé thấy mình đang ngồi trong một căn phòng rộng lớn. Củi nơi lò sưởi cháy bừng bừng và tỏa ra hơi ấm. Thế nhưng, chỉ thoáng chốc, que diên lại vội tắt. Chung quanh cô bé chỉ là một màn đêm dày đặc.

Với que diêm thứ hai, cô bé thấy mình đang ngồi trước một bàn ăn thịnh soạn, được dọn sẵn cho cô bé trong đêm Giáng sinh. Nhưng rồi que diêm chợt tắt, trước mặt cô bé chỉ còn là băng giá.

Que diêm thứ ba được quẹt lên, cô bé thấy mình đang đứng trước một cây Noel với những món quà xinh đẹp. Giữa lúc cô bé đưa tay ra để ngắt lấy, thì que diêm lại tắt ngấm. Chỉ còn lại đường phố tấp nập, kẻ đến người đi.

Và cô bé vẫn ngồi đấy, lập cập trước từng cơn gió lạnh thổi tới. Một que diêm nữa, rồi lại một que diêm nữa. Bao nhiêu ước mơ êm đem nhất lần lượt xuất hiện, rồi lại tan biến theo ánh lửa yếu ớt của que diêm.

Cuối cùng cô bé thấy mẹ đến bên mình và cô bé đã van xin cho mình được đi theo mẹ. Hình như mẹ đã mỉm cười với cô bé.

Sáng hôm sau, người ta nhận ra cô bé đã chết vì giá lạnh giữa những que diêm đã cháy. Người ta chép miệng thở dài và nói :

- Thật tội nghiệp. Hẳn là cô bé muốn sưởi ấm cho mình đây, nhưng rồi lại chết, chết trong đêm Giáng sinh.

Hình ảnh cô gái nhỏ người thượng và hình cảnh cô bé bán diêm khiến gã liên tưởng tới lễ Giáng sinh đầu tiên được diễn ra nơi máng cỏ  và gã thầm nghĩ :

- Đây hẳn phải là một lễ Giáng sinh nghèo, thật nghèo.

Đúng thế, Giuse và Maria, cặp vợ chồng trẻ nhưng nghèo trở về Bêlem, quê hương bản quán, để khai hộ khẩu theo chiếu chỉ của hoàng đề Cêsar Augustô. Nhìn bộ dạng thiểu não và túng quẫn, cộng thêm vào đó, Maria đang bụng mang dạ chửa, sắp sửa tới ngày sinh nở, nên chẳng hàng quán nào thèm tiếp nhận. Thành thử hai vợ chồng phải dắt díu nhau ra ngoài đồng vắng tìm chỗ trú chân.

Và Hài Nhi Giêsu đã được sinh ra trong cảnh thiếu thốn như thế. Không nhung lụa êm ấm. Không hoàng cung rực rỡ. Mẹ Maria đã phải lấy tã bọc Hài Nhi Giêsu và đặt nằm trong máng cỏ.

Rồi những người khách đầu tiên đến viếng thăm là ai ? Họ là những người chăn chiên, hạng cùng đinh trong xã hội. cũng nghèo hèn và cơ cực.

Thực vậy, sau khi được thiên thần Chúa hiện ra trên cánh đồng Bêlem với lời loan báo:

- Ta mang đến cho các ngươi một tin vui và cũng là tin vui cho toàn thể dân Israel, hôm nay Đấng Cứu Thế đã sinh ra cho các ngươi trong thành vua Đavít.

Và thế là họ vội vã lên đường. Tuy nghèo về tiền bạc, nhưng họ lại giàu về tình bác ái yêu thương. Phải chăng chính tình bác ái yêu thương này đã sưởi ấm cho Hài Nhi Giêsu ?

Hình ảnh cô gái nhỏ người thượng và hình cảnh cô bé bán diêm, cũng như hình ảnh máng cỏ tại Bêlem thật khác biệt với bầu khi Noel hôm nay.

Đúng thế, hôm nay người ta đã đón mừng lễ Giáng sinh một cách tưng bừng và lộng lẫy. Người ta đã quốc tế hóa, thương mại hóa và tục hóa ngày lễ thánh thiện này.

Trước hết, người ta đã quốc tế hóa ngày lễ thánh thiện này.

Thực vậy, Không phải chỉ người có đạo tin theo Đức Kitô mới mừng, mà hầu như bàn dân thiên hạ đều mừng. Từ người già cho đến người trẻ, từ người phương tây cho đến người phương đông, từ  người dân ở thành thị cho đến người dân ở hóc bà tó, đèo heo hút gió…Tất cả đều mừng biến cố trọng đại Chúa sinh ra đời.

Cũng giống như cây thánh giá. Đúng thế, ngày xưa cây thánh giá dấu chỉ của người có đạo, còn hôm nay cây thánh giá đã trở thành một thứ đồ trang sức. Những cô gái trẻ đeo thánh giá toòng teng trên hai tai, mang thánh giá lủng lẳng ở trước ngực và không chừng có cô còn cột cả thánh giá ở hai mắt cá chân nữa. Gã không biết nên cười hay nên khóc trước cảnh tượng này.

Tiếp đến, người ta đã thương mại hóa ngày lễ thánh thiện này.

Thực vậy, ngay từ đầu tháng mười hai, những cây thông Noel, những hang đá Noel và những ông già Noel đã được dùng để trang trí khắp nơi khắp chốn.

Rồi những cửa tiệm bán thiệp Giáng sinh, bán đồ chơi cho trẻ em và bán quà tặng cho người lớn được mọc lên như nấm, nhất là tại các thành phố lớn. Đây là dịp để bàn dân thiên hạ mua sắm sau một năm vất vả kéo cày và cực nhọc lao động. Đây cũng là dịp béo bở để cho con buôn hốt bạc. Mỗi năm mới có một lần, làm sao mà chẳng mong chẳng đợi, còn hơn cả người có đạo sống tâm tình mùa vọng vậy.

Và sau cùng, người ta đã tục hóa ngày lễ thánh thiện này.

Thực vậy, đối với nhiều người, Noel chỉ là một dịp để gửi cho nhau những tấm thiệp với lời mừng chúc : Một mùa Giáng sinh vui vẻ và một năm mới bình an! A merry Christmas and a happy new year! Un joyeux Noel et une heureuse année!

Đối với nhiều người, Noel chỉ  là một dịp để trao cho nhau những món quà.

Cha mẹ tặng quà cho con cái để thưởng công chúng đã ngoan ngoãn, chăm chỉ và vâng lời đã đành, mà hơn thế nữa các nhân viên cấp dưới còn có bổn phận biếu xén cho các xếp lớn của mình, để cầu ơn mưa móc, để tạo được những ấn tượng tốt cũng như để tránh không bị trù dập. Chuyện đời là thế. Đồng tiền đi trước đồng tiền khôn. Nếu không biết điều, thì hãy liệu hồn đấy.

Nói tới ông già Noel, nhiều người chẳng cần tìm hiểu gốc gác, cội nguồn, để biết ông ta là hiện thân của thánh Nicôlas, vị giám mục thành Myre, sống vào đầu thế kỷ thứ tư.

Thánh nhân mở mắt chào đời tại Patara, xứ Lycia, mồ côi cha mẹ từ thuở nhỏ. Ngài luôn giúp đỡ những người nghèo túng và bất hạnh. Cuộc đời ngài được dệt bằng những huyền thoại.

Chẳng hạn nhờ lời cầu nguyện, ngài đã truyền cho sóng yên biển lặng trong cơn giông bão, vì thế ngài được đặt làm bổn mạng các thủy thủ.

Đặc biệt, ngài luôn yêu thương trẻ nhỏ : Chính ngài đã làm cho ba em bé bị tên đồ tể giết chết được sống lại và cũng chính ngài đã cứu ba cô gái bị cha mẹ bắt đi làm điếm chỉ vì không có của hồi môn để lấy chồng, vì thế, ngài cũng được đặt làm bổn mạng của giới thiếu nhi. Ngài qua đời vào khoảng năm 350 và được mừng kính vào ngầy 6 tháng 12.

Có lẽ vì lòng yêu thương tuổi thơ mà ngài được dân gian gán cho công việc phát quà đêm Giáng sinh. Các trẻ em bên phương tây, vào ngày lễ Giáng sinh, trước khi ngủ, thường đặt đôi vớ  hay cặp ủng của mình ở đầu giường, hay ở lò sưởi, cho ông già Noel để quà vào đó, vì ông già Noel thường vào nhà qua ngả ống khói.

Phải, nói tới ông già Noel,  hiện nay người ta chỉ nghĩ ngay đến một ông già tốt bụng, râu tóc bạc phơ, đội mũ đỏ và mặc áo đỏ, vai mang túi vải, có nhiệm vụ đi phát quà cho các em thiếu nhi trong đêm Giáng sinh. Hình ảnh này đã được một họa sĩ Thụy Điển vẽ vào năm 1890. Và đến năm 1931, được hãng Coca-Cola sử dụng cho chiến dịch quảng cáo của mình.

Đối với nhiều người, Noel chỉ là một lễ hội để ăn nhậu và nhảy nhót, nhất là đối với giới trẻ.

Thực vậy, ngay từ chiều ngày hai mươi bốn, người ta đã nhốn nháo đổ xuống đường phố, không phải là để tới nhà thờ tham dự thánh lễ, mà là để khoe khoang quần áo mốt miếc. Thiện chí lắm là làm một vòng, rảo qua mấy ngôi nhà thờ để ngó những kiểu cọ hang đá. Thấy người ta đi thì mình cũng đi, mà chẳng biết đi để làm gì ?

Tại những ngôi nhà thờ, hang đá hôm nay không còn phải là một hang hôi hám và tăm tối cho chiên bò ngủ đêm, nhưng là một cảnh tượng huy hoàng và rực rỡ với muôn ngàn bóng điện màu chớp nhá. Thế nhưng, cõi lòng người tin Chúa thì sao ? Có lẽ nó cũng hôi hám và tăm tối như hang chiên bò ngày xưa ?

Sau khi chen chúc ngoài đường phố, tạo nên cảnh tượng kẹt cứng trên các trục lộ giao thông, người ta kéo nhau về nhà mình hay đi tới những nhà hàng để ăn nhậu nhậu. Nào là những chai rượu đắt tiền đổ ra như nước lã. Nào là những món ăn quí hiếm mắc mỏ thừa bứa. Khi đã sừng sừng thì kéo nhau ra sàn gỗ để nhảy nhót và để lắc tới lắc lui, tơi bời hoa lá, quay cuồng trong tiếng nhạc xập xình. Nhảy nhót chán thì lại ăn nhậu tiếp cho tới sáng, khiến nhiều chiến binh đã phải gục ngã, cho chó ăn chè ngay tại bàn nhậu.

Một số khác khi đã sừng sừng thì nhảy lên xe, phóng bạt mạng như những hung thần ngoài xa lộ, tạo nên những cái chết thật oan uổng và đau đớn trong đêm cực thánh này.

Tất cả lễ Giáng sinh chỉ có vậy mà thôi : mua sắm, ăn nhậu, nhảy nhót… Người ta chẳng cần biết đến giây phút trọng đại nhất của lịch sử loài người. Giây phút Con Thiên Chúa xuống thế làm người để giải thoát nhân loại đang ngồi trong tăm tối và đang bị trói buộc dưới gông cùm tội lỗi, giây phút giao hòa đất với trời. Thậm chí người ta cũng chẳng biết đến Hài Nhi Giêsu là ai.

Viết tới đây, gã nhớ tới một mẩu chuyện của Gibran. Gã xin kể lại như một kết thúc. Mẩu chuyện ấy như thế này :

Vào một đêm giáng sinh, đường phố ngập tràn muôn ánh đèn màu và từng lớp người mừng vui bước đi.

Tôi muốn lẩn tránh những âm thanh ồn ào, tìm kiếm một vài phút giây thinh lặng để suy tưởng về con người vĩ đại nhất mà thiên hạ đang tôn kính.

Con người ấy đã sinh ra làm thân trẻ nhỏ nơi máng cỏ Bêlem, đã chết một cách ô nhục như một tên tội phạm với khổ hình thập giá trên đỉnh đồi Canvê.

Tôi dừng chân và ngồi trên chiếc ghế đá công viên, để mặc cho những tâm tư trào dâng. Một lúc thật lâu, tôi bỗng giật mình vì có một người đã ngồi bên cạnh tôi từ lúc nào tôi cũng chẳng hay biết. Người đó đang cầm một cành cây khô và vạch những đường nét bâng quơ trên đất. Tôi nghĩ rằng :

- Hẳn ông ta cũng là một kẻ cô đơn.

Dường như đọc được ý nghĩ của tôi, người ấy nói :

-Chào anh.

Tôi thận trọng đáp lễ :

-Dạ, xin chào ông.

Rồi tôi gợi chuyện :

-Hẳn ông là một kẻ xa lạ trong thành phố này ?

Người ấy đáp :

-Phải, tôi chỉ là một kẻ xa lạ trong thành phố này cũng như trong mọi thành phố khác.

Tôi hỏi tiếp :

-Chắc ông cũng cảm thấy vui trong bầu khí tưng bừng của ngày lễ Giáng sinh hôm nay chứ ?

Người ấy đáp :

-Vào những ngày như thế này, tôi lại càng cảm thấy xa lạ và cô đơn hơn bao giờ hết.

Tôi nói tiếp :

-Dường như ông đang cần một sự giúp đỡ ? Vậy xin ông vui lòng nhận lấy mấy đồng bạc này.

Tôi mở bóp và đưa tiền. Thế nhưng, người ấy vội xua tay, lắc đầu với nét mặt chán ngán :

-Tôi rất cần một sự giúp đỡ, nhưng không phải là tiền bạc.

Tôi đề nghị :

-Hay là ông về nhà tôi để chúng ta cùng nghỉ ngơi ?

Người ấy đáp :

-Tôi cần một nơi để nghỉ ngơi, một chỗ để tựa đầu, một mái nhà cho tâm tư chìm lắng. Tôi đã cố gắng đến mọi lữ quán, đã gõ cửa mọi căn nhà, nhưng tất cả đều chối từ. Tôi mệt mỏi nhưng không thất vọng. Đúng ra tôi không tìm một ngôi nhà, nhưng tìm một tâm hồn, tìm một nơi nghỉ ngơi trong lòng người.

Tôi nhìn thấy một giọt nước mắt rơi xuống trên gò má người ấy. Nói rồi, người ấy đứng lên, giơ hai tay ra phía trước. Tôi bỗng nhìn thấy những dấu đinh nơi lòng bàn tay.

Tôi bàng hoàng phủ phục và kêu lên :

-Ôi! Lạy Chúa Giêsu.

Lúc bấy giờ Chúa nói tiếp :

-Mọi người đang tôn vinh Ta, đang thêu dệt chung quanh Ta những huyền thoại, những hào quang rực rỡ. Còn về phần Ta, Ta mãi mãi vẫn chỉ là một kẻ xa lạ và cô đơn trên mặt đất này. Con cáo có hang, chim trời có tổ, nhưng Con người không có lấy được một hòn đá để tựa đầu.

Đúng thế, Hài nhi Giêsu vẫn còn cô đơn trong chính ngày lễ bàn dân thiên hạ mừng kính Ngài. Ngài vẫn còn âm thầm khổ đau giữa cảnh tưng bừng của ngày Ngài giáng sinh. Ngài vẫn còn xa lạ ngay cả đối với những người đã tin nhận Ngài.

Và hơn thế nữa, nếu Ngài thực sự hien diện nơi người khác, thì chính Ngài cũng đang bị hắt hủi nơi những cô gái nghèo hèn  người thượng, Ngài cũng đang bị chết dần chết mòn nơi những cô bé bán diêm túng thiếu, Ngài cũng đang bị quằn quại trong đau đớn nơi những em nhỏ lây nhiễm HIV ở Phi Châu, Ngài cũng đang bị vất ra ngoài đường nơi những người lâm cảnh màn trời chiếu đất tại những nơi đang xảy ra chiến tranh.

Nếu những chủ quán ngày xưa tại Bêlem đã không dành cho Ngài một chỗ cư ngụ, thì hôm nay biết bao nhiêu người cũng đã đóng kín cõi lòng và xua đuổi Ngài, để Ngài phải vất vưởng cùng giá rét.

Và rồi một giọng hát quen thuộc với nhạc phẩm “Bài thánh ca buồn” vang lên nơi tiệm cà phê của người hàng xóm :

- Bài thánh ca đó còn nhớ không em.

Noel năm nào chúng mình có nhau.

       ………………………………………

Rồi những đêm thánh thường đón Noel,

Lang thang qua miền giáo đường dấu yêu.

Tiếng thánh ca ngày xưa vang đêm tối,

Nhớ quá đi thôi giọng hát ai buồn.

Đêm thánh vô cùng lạnh giá hồn tôi.

Gã Siêu     gasieu@gmail.com

VỀ MỤC LỤC

- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến, bài vở..., xin gởi về địa chỉ

giaosivietnam@gmail.com

- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:

Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục vụ của Giáo sĩ;  Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh vực; Mỗi  Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)

- Quí vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại

www.conggiaovietnam.net

Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị

Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác nhau.

TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam

Lm. Luca Phạm Quốc Sử  USA

 

 

Được chọn giữa loài người và cho loài người; GÍAO SĨ: Xuất phát từ gíao dân, hiện diện vì gíao dân và cậy dựa vào gíao dân, để cùng làm VINH DANH THIÊN CHÚA

*************