Sắc Lệnh về
Canh Tân Thích Nghi Đời Sống Dòng Tu (tiếp theo) |
Đời sống chung
được nuôi dưỡng bằng giáo lý Phúc âm, Phụng Vụ Thánh và nhất là
Bí Tích Thánh Thể phải được kiên trì trong lời cầu nguyện, trong
sự hiệp thông cùng một tinh thần (x. CvTđ2, 42), theo gương Giáo
Hội sơ khai, trong đó các tín hữu chỉ có một tấm lòng, một tâm
hồn (x. CvTđ 4, 32). Là chi thể Chúa Kitô, các tu sĩ hãy mang
lấy gánh nặng của nhau (x. Gal 6, 2), và trọng kính lẫn nhau
trong tinh thần giao hảo huynh đệ (x. Rm 12, 10). Thực vậy, khi
được tình yêu của Thiên Chúa nhờ Chúa Thánh Thần tràn đầy trong
mọi tâm hồn (x. Rm 5, 5), cộng đoàn nên như một gia đình thực
sự, đoàn tụ nhân danh Chúa, được hưởng sự hiện diện của Người
(x. Mt 18, 20). Yêu mến là chu toàn luật pháp (x.Rm 13, 10) và
là dây liên kết sự trọn lành (x. Col 3, 14); nhờ đức mến mà
chúng ta biết rằng mình được chuyển từ cõi chết sang cõi sống
(x. 1 Gio 3, 14). Hơn nữa, sự hiệp nhất huynh đệ loan báo Chúa
Kitô đã đến (x. Gio 13, 35; 17, 21) và phát sinh một năng lực
tông đồ mãnh liệt.
Để tình huynh đệ
giữa các tu sĩ đưọc mật thiết hơn, hãy để những người thường
được gọi là “trợ sĩ” hay những tên gọi tương tự, được liên kết
chặt chẽ với cuộc sống và hoạt động của cộng đoàn. Trừ khi hoàn
cảnh bắt buộc phải làm thế khác, phải liệu sao để trong các dòng
nữ chỉ có một bậc nữ tu độc nhãt. Giữa các chị em, chỉ còn sự
khác biệt do việc phân phối công tác đòi hỏi, công tác mà mỗi
ngườì lãnh nhận tùy theo ơn Chúa gọi đặc biệt hay do năng khiếu
riêng.
Còn các đan viện
và hội dòng nam không thuần túy dành cho giáo dân, tùy tính cách
riêng, theo tiêu chuẩn do hiến chương qui định, có thể chấp nhận
giáo sĩ và giáo dân trên cùng một đẳng cấp, có quyền lợi và
nghiã vụ như nhau, trừ những gì thuộc về chức thánh.
Luật nội cấm
giáo hoàng trong các đan viện nữ, chuyên sống đời chiêm niệm
thuần túy vẫn phải được duy trì, nhưng sau khi đã thu thập ý
nguyện của chính các đan viện, hãy thích nghi với hoàn cảnh thời
gian và không gian, bỏ những tập tục đã lỗi thời.
Còn các đan sĩ
khác, chuyên lo việc tông đồ bên ngoài theo định chế, được miễn
khỏi giữ luật nội cấm giáo hoàng, để có thể dễ dàng hơn mà chu
toàn bổn phận tông đồ đã được ủy thác, tuy nhiên vẫn giữ nội cấm
tùy theo hiến chương ấn định.
Y phục của tu sĩ
là dấu chỉ sự tận hiến nên phải giản dị và khiêm tốn, khó nghèo
và tề chỉnh, hơn nữa, phải phù hợp với sức khỏe và thích nghi
với hoàn cảnh thời gian, không gian cũng như nhu cầu của chức
vụ. Y phục của tu sĩ nam cũng như nữ, không thích ứng với các
tiêu chuẩn trên đây, cần phải được sửa đổi.
còn tiếp |
VỀ MỤC LỤC |
|
LINH MỤC VÌ THÁNH THỂ VÀ CHO THÁNH
THỂ |
Một du khách tới Mêhicô và vào một nhà thờ
công giáo nọ. Ông ta rất lấy làm ngạc nhiên khi thấy trong nhà
thờ lúc nào cũng có những người đang quì gối cầu nguyện, bất kể
sáng, trưa, chiều và tối.
Khi hỏi lý do của việc đạo đức này, ông ta
được trả lời như sau :
- Đó là cách giáo xứ chúng tôi cám ơn Chúa.
Đúng thế, cha xứ của chúng tôi qua đời cách đây 35 năm và chưa
có linh mục thay thế. Nhà tạm trống rỗng và ngọn đèn chầu cũng
đã tắt từ lâu. Chúng tôi chờ mong một linh mục. Hằng ngày tất cả
chúng tôi và nhất là các em thiếu nhi, đều hợp ý cầu nguyện để
có được một linh mục. Thế rồi sau 35 năm vắng bóng ấy, Chúa đã
thương gửi đến cho chúng tôi một cha xứ mới. Để tỏ lòng cảm tạ
Chúa, chúng tôi quyết định từ nay mà đi sẽ không bao giờ để Chúa
phải cô đơn. Chúng tôi thay phiên nhau chầu Thánh Thể, thay
phiên nhau thờ lạy Chúa tại nhà tạm này cả ngày lẫn đêm.
Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào phần
thứ hai của tuần tĩnh tâm : Linh mục và Thánh Thể. Chúng ta sẽ
đề cập tới mối liên hệ giữa mật thiết giữa linh mục và Thánh
Thể. Chúng ta sẽ nói đến việc linh mục phải sống mầu nhiệm Thánh
Thể như thế nào trong cuộc sống của mình ?
Giờ đây, tôi xin trình bày đề tài thứ ba :
Linh mục được thiết lập vì Thánh Thể và cho Thánh Thể.
I- CHỨC VỤ LINH MỤC QUA
GIÒNG THỜI GIAN
Như chúng ta vẫn thường định nghĩa : người
là một con vật có trí khôn. Nhờ trí khôn, khi chiêm ngắm những
kỳ công trong vũ trụ, chúng ta có thể khám phá ra sự hiện diện
của Thiên Chúa. Chính vì thế, chúng ta xác quyết được rằng :
- Người là một con vật có tôn giáo.
Hay như sách Giáo Lý Hội Thánh Công giáo
cũng đã viết :
- “Con người là một hữu thể tôn giáo”.
(GLHTCG 28).
Tuy nhiên, những cảm nhận đầu tiên này, qua
dòng thời gian, đã bị lệch lạc bởi những nguyên nhân từ bên
ngoài chẳng hạn như sự sợ hãi trước những hiện tượng thiên
nhiên, hay những nguyên nhân từ bên trong, chẳng hạn như sự thấp
kém về hiểu biết , sự quá lo toan về vật chất…để rồi đã dẫn tới
tình trạng mê tín dị đoan.
Tình trạng mê tín dị đoan này đã tràn lan
tại hầu hết các dân tộc sống trên mặt đất. Người ta cúi đầu thờ
lạy những thần tượng nhảm nhí, mà quên đi mối liên hệ với một
Thiên Chúa chân thật.
Chính vì thế, Thiên Chúa đã tuyển chọn dân
Do Thái làm dân riêng của mình, để duy trì một thứ tôn giáo
chính thống, đó là chỉ thờ phượng một Thiên Chúa duy nhất, đồng
thời để chuẩn bị cõi lòng họ đón nhận Đấng Cứu Thế đã được phán
hứa từ muôn ngàn thuở trước.
Qua Mô-sê, Thiên Chúa đã ký kết với họ một
giao ước :
Ông Mô-sê lên gặp Thiên Chúa. Từ trên núi,
ĐỨC CHÚA gọi ông và phán: "Ngươi sẽ nói với nhà Gia-cóp, sẽ
thông báo cho con cái Ít-ra-en thế này: Các ngươi thấy Ta đã xử
với Ai-cập thế nào, và đã mang các ngươi như trên cánh chim
bằng, mà đem đến với Ta. Vậy giờ đây, nếu các ngươi thực sự nghe
tiếng Ta và giữ giao ước của Ta, thì giữa hết mọi dân, các ngươi
sẽ là sở hữu riêng của Ta. Vì toàn cõi đất đều là của Ta. Ta sẽ
coi các ngươi là một vương quốc tư tế, một dân thánh. Đó là
những lời ngươi sẽ nói với con cái Ít-ra-en”. (Xh 19,3-6).
Một trong những sinh hoạt chính yếu trong
phạm vi tôn giáo, đó là dâng tiến những hy tế lên cho Thiên
Chúa, để biểu lộ cõi lòng thần phục và tôn thờ của mình.
Tuy nhiên, muốn dâng tiến những hy tế, thì
cần phải có những tư tế. Nhiệm vụ của tư tế là nhiệm vụ làm
trung gian. Vừa dâng lên Thiên Chúa hy tế của dân Ngài, vừa
chuyển đạt cho họ sự chúc lành của Thiên Chúa.
Và trong Cựu Ước, hàng tư tế đã được chính
Thiên Chúa tuyển chọn và thánh hiến để phụng sự Ngài. Thiên Chúa
đã phán với Mô-sê như sau :
"Phần ngươi, hãy tách A-ha-ron, anh ngươi,
và các con ông ra khỏi hàng ngũ con cái Ít-ra-en, để ông ở bên
cạnh ngươi mà thi hành chức tư tế phục vụ Ta: A-ha-ron và các
con của A-ha-ron là Na-đáp, A-vi-hu, E-la-da và I-tha-ma. Ngươi
sẽ may cho A-ha-ron, anh ngươi, những lễ phục để ông được vẻ uy
nghi rực rỡ”. (Xh 28,1-2).
Tuy nhiên, các tư tế trong Cựu Ước lại
không đủ khả năng thực hiện ơn cứu độ cho bản thân và cho dân
chúng. Họ cứ phải dâng lên mãi những hy tế mà vẫn không đạt được
sự thánh hóa dứt khoát. Vì thế, phải chờ đến Đức Kitô vì chỉ
mình Ngài mới thực hiện được điều ấy mà thôi.
Qua Tin Mừng, Đức Kitô không bao giờ tự gán
cho mình tước hiệu tư tế, nhưng Ngài lại dùng nhiều từ ngữ để ám
chỉ sứ mệnh tư tế của mình, nhất là với cái chết trên thập giá.
Thực vậy, với cái chết trên thập giá, Ngài
đã trở nên một hy tế tuyệt vời nhất : hy tế đền tội, hy tế giao
ước, hy tế vượt qua mà Cựu Ước đã diễn tả. Đồng thời, với cái
chết trên thập giá, Ngài còn trở nên một vị thượng tế. Trên bàn
thờ thập giá, Ngài đã dâng tiến hy lễ của mình như các vị tư tế
dâng tiến các lễ vật. Ngài là vị tư tế cho chính hy tế của mình.
Đức Kitô không phải chỉ tiếp nối công việc
của các tư tế trong Cựu Ước, mà hơn thế nữa, Ngài còn hoàn toàn
trổi vượt hơn họ vì hy tế thập gía của Ngài có thể đền bù và tẩy
xóa tội lỗi, thay cho tất cả những lễ vật trong Cựu Ước.
Theo Thánh Phalô trong bức thư gửi tín hữu
Do Thái, thì Đức Kitô là vị thượng tế duy nhất và thánh thiện.
Chính Ngài đã chấm dứt chức vụ tư tế của Cựu Ước.
“Phải, đó chính là vị Thượng Tế mà chúng ta
cần đến: một vị Thượng Tế thánh thiện, vẹn toàn, vô tội, tách
biệt khỏi đám tội nhân và được nâng cao vượt các tầng trời. Đức
Giê-su không như các vị thượng tế khác: mỗi ngày họ phải dâng lễ
tế hy sinh, trước là để đền tội của mình, sau là để đền thay cho
dân; phần Người, Người đã dâng chính mình và chỉ dâng một lần là
đủ. Vì Luật Mô-sê thì đặt làm thượng tế những con người vốn mỏng
giòn yếu đuối, còn lời thề có sau Lề Luật, lại đặt Người Con đã
nên thập toàn cho đến muôn đời”. (Dt 7,26-28).
Chu toàn chức vụ tư tế của mình đã đành,
Đức Kitô còn muốn mời gọi mọi thành phần dân Chúa chia sẻ chức
vụ tư tế với Ngài để Giáo hội được trở nên một dân tư tế của
Thiên Chúa.
Nhờ bí tích Rửa tội và Thêm sức, người tín
hữu được tham dự vào chức linh mục cộng đồng bằng cách biến đời
mình trở thành một hy tế của thập gía và một chứng tá cho tin
mừng, như công đồng Vaticanô II đã viết :
“Vì thế, tất cả các môn đệ của Đức Kitô,
trong khi kiên tâm cầu nguyện và cùng nhau ca tụng Thiên Chúa (x
Cv 2,42-47), họ phải dâng mình làm của lễ sống động, thánh
thiện, đẹp lòng Thiên Chúa (x Rm 12,1), phải làm chứng về Đức
Kitô trên khắp mặt đất và trình bày niềm hy vọng về cuộc sống
vĩnh cửu mà họ ôm ấp cho những ai đang khao khát. (GH 10).
Hơn thế nữa, Đức Kitô còn muốn chia sẽ chức
vụ tư tế của mình một cách đặc biệt cho một số người được tuyển
chọn qua bí tích Truyền chức. Chức tư tế này được gọi là chức
linh mục thừa tác. Công đồng cũng đã xác định :
“Chức linh mục cộng đồng của các tín hữu và
chức linh mục thừa tác, tuy khác nhau không chỉ về cấp bậc, mà
còn về bản chất, song cả hai đều bổ túc cho nhau. Thực vậy, cả
hai đều tham dự vào chức linh mục duy nhất của Đức Kitô theo
cách thức riêng của mình. Linh mục thừa tác, nhờ có quyền do
chức thánh, đào tạo và cai quản dân tộc tư tế, đóng vai trò Đức
Kitô cử hành hy tế tạ ơn và dâng của lễ ấy lên Thiên Chúa nhân
danh toàn thể dân chúng. Phần tín hữu, nhờ chức linh mục vương
gỉa, cộng tác dâng thánh lễ, và thi hành chức vụ đó trong việc
lãnh nhận các bí tích, khi cầu nguyện và tạ ơn, bằng đời sống
chứng tá thánh thiện, bằng sự từ bỏ và bác ái tích cực.” (GH
10).
Trong ngôn ngữ bình thường, khi nói tới
Linh mục, chúng ta phải hiểu đó là chức Linh mục thừa tác.
II- LINH MỤC VÌ THÁNH
THỂ
Sau khi đã tìm hiểu sơ qua về chức vụ Linh
mục trong dòng thời gian, chúng ta cùng nhau bàn tới mối liên hệ
chặt chẽ giữa Thánh Thể và Linh mục.
Thánh Luca đã kể lại việc Chúa Giêsu thiết
lập bí tích Thánh Thể như sau :
“Rồi Người cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ
ra, trao cho các ông và nói: "Đây là mình Thầy, hiến tế vì anh
em. Anh em hãy làm việc này, mà tưởng nhớ đến Thầy." Và tới tuần
rượu cuối bữa ăn, Người cũng làm như vậy và nói: "Chén này là
giao ước mới, lập bằng máu Thầy, máu đổ ra vì anh em.” (Lc
22,19-20).
Qua lời tường thuật này, chúng ta nhận thấy
: Chúa Giêsu đã thiết lập bí tích Thánh Thể và bí tích Truyền
chức trong cùng một lúc.
Thánh Phaolô còn nhấn mạnh hơn nữa :
“Thật vậy, điều tôi đã lãnh nhận từ nơi
Chúa, tôi xin truyền lại cho anh em: trong đêm bị nộp, Chúa
Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng tạ ơn, rồi bẻ ra và nói:
"Anh em cầm lấy mà ăn, đây là Mình Thầy, hiến tế vì anh em; anh
em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy." Cũng thế,
cuối bữa ăn, Người nâng chén và nói: "Đây là chén Máu Thầy, Máu
đổ ra để lập Giao Ước Mới; mỗi khi uống, anh em hãy làm như Thầy
vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy." (1Cr 11,23-25).
Từ đó, chúng ta có thể xác tín hai điểm
chính yếu sau đây :
1- Nếu không có Thánh Thể thì cũng chẳng có
Linh mục. Thực vậy, mục đích của Chúa Giêsu khi thiết lập bí
tích Truyền chức là gì nếu không phải là để cử hành Thánh Thể
theo lệnh truyền của Ngài : “Các con hày làm việc này mà nhớ đến
Thầy”. Và như vậy, Thánh Thể chính là nguồn gốc, chính là điểm
xuất phát của chức vụ Linh mục.
2- Nếu không có Linh mục thì cũng chẳng có
Thánh Thể. Sách Giáo lý Tân Định ngày xưa chúng ta học có câu :
Hỏi : Thánh lễ là gì ?
Thưa : Là hy tế Đức Chúa Giêsu nhờ tay Linh
mục, hợp cùng toàn thể dân Chúa, dâng mình cho Đức Chúa Cha, như
xưa Ngài đã dâng mình trên Thánh giá.
Sở dĩ ngày hôm nay, lễ Vượt qua của Đức
Kitô được tưởng niệm và lễ hy sinh độc nhất của Ngài được hiện
tại hóa và được tiến dâng lên Chúa Cha là nhờ các Linh mục.
Thực vậy, chỉ có các Linh mục mới được cử
hành Thánh Thể trong “tư cách” của Đức Kitô mà thôi. Đây cũng là
điều Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nhấn mạnh trong thông
điệp Ecclesia de Eucharistia, “Giáo Hội từ Thánh Thể” :
“Chính linh mục được truyền chức mới “ cử
hành Hy tế Thánh Thể trong tư cách của Chúa Kitô và hiến dâng
cho Chúa Cha nhân danh toàn thể tín hữu”. (GHTTT 28).
Chuyện kể rằng :
Vào thế kỷ 16, tại đảo Greenland xảy ra một
cuộc bách hại Công giáo. Tất cả các linh mục hoặc bị giết, hoặc
bị đuổi đi hết. Đã 50 năm trôi qua, mà trên hòn đảo lớn nhất thế
giới này vẫn không có thánh lễ.
Sau nửa thế kỷ, chỉ còn sót lại một ít
người công giáo sống rải rắc. Hàng năm, họ thường gặp nhau mừng
lễ Giáng Sinh trong một ngôi nhà phủ đầy tuyết.
Vào ngày trọng đại này, khi đã tụ tập và
đọc kinh chung với nhau, một cụ già đứng lên, đi tới chiếc tủ và
kính cẩn lấy ra một miếng vải vuông. Trước kia, miếng vải này
rất trắng, nhưng giờ đã cũ và ngả sang màu vàng ố. Đó chính là
tấm khăn thánh, trước đây rất nhiều lần đã được dùng để lót dưới
Mình Máu Đức Kitô trong thánh lễ.
Cụ già trang trọng nói với những tham dự
vài lời đơn sơ như sau :
- Anh em thân mến, 50 năm trước đây đã có
thánh lễ cuối cùng tại nơi này. Chính tôi đã giúp lễ hôm ấy.
Chúng ta hãy quì gối và tạ ơn Chúa vì thánh tích này đã được hân
hạnh chạm đến Mình và Máu Đức Kitô. Chúng ta hãy cầu xin Chúa
ban cho chúng ta một linh mục để dâng thánh lễ giữa chúng ta.
Không ai cầm được nước mắt và yên lặng quì
xuống cầu nguyện.
Tóm lại, không có Thánh Thể thì cũng chẳng
có Linh mục và ngược lại, không có Linh mục thì cũng chẳng có
Thánh Thể. Cả hai đều gắn bó mật thiết với nhau.
III- LINH MỤC CHO THÁNH
THỂ
Như chúng ta đã biết : mục đích chính yếu
của Đức Kitô khi đến trong trần gian là để cứu chuộc chúng ta,
giải thoát chúng ta khỏi vòng nô lệ tội lỗi. Mục đích ấy đã được
thực hiện một cách trọn vẹn qua cái chết của Ngài trên thập giá.
Hay nói cách khác thập giá chính là đỉnh
cao mà Ngài hằng nhắm đến trong suốt cả cuộc đời:
“Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này ! Nhưng
chính vì giờ này mà con đã đến”. (Ga 12,17).
“Chén đắng Chúa Cha đã trao cho Thầy, lẽ
nào Thầy chẳng uống”. (Ga 18,11).
Thế nhưng, đỉnh cao thập giá này đã được
thực hiện trước một phần nào khi Ngài thiết lập bí tích Thánh
Thể vào buổi chiều ngày thứ năm tuần thánh.
Thực vậy, hôm trước ngày chịu nạn, Đức Kitô
đã biến bữa tiệc ly với các tông đồ thành lễ tưởng niệm việc
Ngài tự nguyện hiến dâng cho Chúa Cha để cứu độ nhân loại :
“Cũng trong bữa ăn, Đức Giê-su cầm lấy
bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho môn đệ và nói:
"Anh em cầm lấy mà ăn, đây là mình Thầy." Rồi Người cầm lấy
chén, dâng lời tạ ơn, trao cho môn đệ và nói: "Tất cả anh em hãy
uống chén này, vì đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra cho muôn
người được tha tội” (Mt 26,26-28).
Bí tích Thánh Thể là lễ tưởng niệm hy tế
thập giá sẽ được thực hiện một cách đầy đủ và trọn vẹn vào chiều
hôm sau, ngày thứ sáu tuần thánh trên đỉnh đồi Canvê.
Đồng thời, Ngài mời gọi các tông đồ tham dự
vào lễ hiến dâng của Ngài và yêu cầu các ông lưu truyền hy lễ
này luôn mãi. Như thế, Đức Kitô cũng đã đặt các ông làm linh
mục, làm tư tế của Giao ước mới.
Nếu Đức Kitô đã hướng tới thập giá như chóp
đỉnh của đời mình, thì Ngài cũng hướng tới Thánh Thể như vậy,
bởi vì giữa thập giá và Thánh Thể có một mối liên hệ mật thiết.
Thánh Thể “hiện tại hóa” và lưu truyền hy lễ thập giá của Đức
Kitô cho đến tận cùng thời gian.
Còn với linh mục thì sao ?
Trái đất xoay quanh mặt trời thế nào, thì
cuộc đời của Linh mục cũng phải xoay quanh Đức Kitô, hay nói một
cách cụ thể hơn, cuộc đời Linh mục cũng phải xoay quanh Thánh
Thể như vậy.
Cũng trong chiều hướng ấy, Đức Thánh Cha
Gioan Phaolô II đã xác quyết :
“Nếu Thánh Thể là trung tâm và chóp đỉnh
của đời sống Giáo Hội, nó cũng là như thế đối với tác vụ linh
mục. Vì vậy, khi tạ ơn Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, tôi muốn
lặp lại rằng Thánh Thể là lẽ sống chính yếu và trung tâm của bí
tích truyền chức được khai sinh thực sự ngay từ lúc thiết lập
Thánh Thể và cùng với Thánh Thể.”(GHTTT 31).
Tất cả mọi hoạt động của Linh mục phải được
xuất phát từ Thánh Thể và phải được hướng tới Thánh Thể :
“Những hoạt động mục vụ của linh mục rất đa
dạng. Nếu nghĩ đến những điều kiện xã hội và văn hóa của thế
giới hôm nay, thì dễ hiểu rằng các linh mục bị rình rập bởi nguy
cơ phân tán trong nhiều công việc khác nhau. Công Đồng Vaticanô
II đã nhận thấy rằng bác ái mục vụ là mối dây liên kết đời sống
và hoạt động của các ngài. Công Đồng thêm: “ Bác ái mục vụ phát
xuất trước tiên từ nơi Hy Tế Thánh Thể, do đó Hy Tế Thánh Thể là
trung tâm và gốc rễ của toàn thể đời sống linh mục.”(GHTTT 31).
Và như vậy, Thánh Thể sẽ đem lại nguồn sức
mạnh cũng như niềm an ủi và khích lệ cho linh mục trong những
hoạt động của mình :
“Bằng cách thế nầy, Linh mục mới đủ sức
thắng vượt tất cả những căng thẳng làm cho ngài bị phân tán
trong cuộc sống; mới tìm thấy trong Hy Tế Thánh Thể, trung tâm
đích thực của đời sống và tác vụ, sinh lực thiêng liêng cần
thiết để đương đầu với những công việc mục vụ đa dạng. Như thế,
những ngày sống của ngài sẽ thực sự trở nên Thánh Thể. “ (GHTTT
31).
KẾT LUẬN
Như chúng ta đã trình bày : Giũa Thánh Thể
và linh mục có một sự gắn bó mật thiết với nhau : Linh mục có là
nhờ Thánh Thể và ngược lại Thánh Thể hiện diện là nhờ linh mục.
Hay nói cách khác : Linh mục được thiết lập là vì Thánh Thể và
cho Thánh Thể.
Trong sắc lệnh “Optatam Totius” về việc
“Đào tạo Linh mục, công đồng Vaticanô II đã đưa ra những chỉ dẫn
như sau :
“Phải dạy họ biết tìm gặp Đức Kitô trong
việc trung thành suy gẫm Lời Chúa, trong việc thông hiệp tích
cực các mầu nhiệm chí thánh của Giáo hội, nhất là bí tích Thánh
Thể và kinh nguyện thần vụ”. (ĐT 8).
Vậy chúng ta có siêng năng tìm gặp Chúa
Giêsu trong bí tích Thánh Thể hay không ?
GSVN |
VỀ MỤC LỤC |
|
Ơn Gọi (tiếp theo và hết) |
3. TÌM HIỂU ƠN GỌI TU
TRÌ
Thật khó khăn để biết chính xác rằng ta có ơn
gọi tu trì hay không; bởi vì ơn gọi, trước hết, là một mầu
nhiệm. Thiên Chúa không nắm lấy chúng ta và lôi chúng ta đi,
nhưng Ngài dùng những phương tiện thông thường để cho chúng ta
biết Ngài đang gọi chúng ta. Đây luôn là việc nhiệm mầu và có
tính cách riêng tư đối với mỗi người chúng ta. Thiên Chúa luôn
tôn trọng chúng ta và đối xử với chúng ta như những con người tự
do. Thiên Chúa tôn trọng tự do của con người và Ngài muốn chúng
ta sử dụng lý trí của mình để nhận thức về ơn gọi của chúng ta.
Trong lịch sử Giáo hội, nhiều nhà thần học cũng
như nhiều tác giả viết về đời sống thiêng liêng, đã nhận định
rằng Thiên Chúa sử dụng những dấu hiệu tự nhiên để hướng chúng
ta hoặc để thu hút chúng ta đến một ơn gọi nào đó. Bạn sẽ không
bao giờ biết một cách chắc chắn, nhưng bạn nên tự hỏi xem bạn có
nhận được những dấu hiệu mà giúp bạn phán đoán bạn có ơn gọi tu
trì hay không?
Ba dấu hiệu căn bản của một ơn gọi tu trì:
Có ba dấu hiệu căn bản, nhưng cũng rất là đơn
giản, của một ơn gọi tu trì. Đó là: ao ước sống đời sống đó,
động cơ đúng đắn cho đời sống đó và sự thích hợp cho đời sống
đó.
a. Trước
tiên, để tìm hiểu xem bạn có ao ước sống ơn gọi đó không, bạn
cần tự hỏi xem bạn có ý thích, có hướng chiều vể ơn gọi đó
không? Tôi có cảm thấy say mê, thỏa mãn, vui mừng hay có những
tình cảm tích cực tương tự như thế khi nghĩ về ơn gọi đó không?
Bạn cần nghiêm túc xét mình như thế, bởi vì Chúa không muốn thu
hút bạn về một ơn gọi mà nó lại đi ngược với ý muốn của bạn.
Nhiều người nghĩ rằng họ muốn đi tu, bởi vì Thiên Chúa muốn như
vậy. Nếu họ không làm theo ý Chúa, họ sẽ bị phạt hoặc sẽ gặp bất
hạnh. Thiên Chúa không hành động theo cách đó. Ngài lôi kéo
chúng ta theo chiều hướng tự nhiên của chúng ta. Nếu chúng ta có
chiều hướng về một ơn gọi nào đó, đó là một dấu hiệu tốt. Thiên
Chúa tôn trọng tự do của chúng ta và Ngài muốn lôi cuốn chúng
ta.
b. Ao ước
không thôi chưa đủ, bạn cần có thêm những dấu hiệu khác nữa. Dấu
hiệu thứ hai là muốn sống đời sống đó vì những lý do chính đáng.
Đây là vấn đề “động cơ thúc đẩy.” Động cơ nào nằm sau sự thích
thú và quan tâm của tôi? Có những lý do tinh thần tích cực như:
muốn phục vụ Chúa cách trực tiếp, muốn biết và yêu Chúa nhiều
hơn, muốn mở rộng nước Chúa, muốn hoàn toàn sống cho Chúa và tha
nhân,… Đây thực sự là những động cơ tốt đẹp. Chúng dựa trên đức
tin, động lực tinh thần, chứ không phải là những ao ước tự
nhiên. Có những lý do vụ lợi hoặc ích kỷ như: được người ta kính
trọng, có nhiều cơ hội để thăng tiến, cuộc sống được bảo đảm,…
Không ai có thể nói là mình có động cơ trong sáng trong tất cả
những công việc mình làm. Thường có sự pha trộn giữa những động
cơ tốt và những động cơ không tốt trong cuộc sống chúng ta. Cũng
có những động cơ pha trộn như thế trong việc ao ước sống đời tu
trì, nhưng động lực hướng dẫn ban đầu phải thật sự trong sáng và
vô vị lợi. Thật không luôn luôn dễ dàng để nhận thức về những
động cơ của chúng ta. Bởi đó, chúng ta cần cầu nguyện để biết
được thánh ý Chúa và cần có những vị linh hướng để giúp chúng ta
nhận định rõ hơn.
c. Dấu hiệu
thứ ba là sự thích hợp. Đó là khả năng để sống đời tu, sống một
cách thoải mái, vui vẻ, rộng lượng. Bạn phải thích hợp với đời
sống đó và đời sống đó phải thích hợp với bạn. Đây là những đức
tính tự nhiên và siêu nhiên giúp bạn tìm thấy niềm vui và hạnh
phúc trong đời dâng hiến. Đi tu là tu cả con người. Ơn thánh
không cản trở hay thay thế bản chất tự nhiên của ta, nhưng chỉ
thăng hoa và thánh hóa nó. Bản chất tự nhiên của ta không chết
đi và với thời gian có thể bùng lên. Bởi đó, việc nhận định ơn
gọi cần căn cứ vào những khả năng đạo đức, tâm lý và thể lý.
Giáo luật điều 642 nhấn mạnh đến yếu tố sức khoẻ, tính tình
thích đáng và có đủ các đức tính của sự trưởng thành. Nhiều
người thích đời tu nhưng lại không thể sống thích hợp với nó
được. Cũng vậy có nhiều người thích hợp với đời sống tu trì,
nhưng họ lại không muốn bước vào con đường đó. Họ không bị nó
thu hút. Thiên Chúa tôn trọng tự do của mỗi người và tôn trọng
cái cách mà họ là.
Tóm lại, để xác định ơn gọi tu trì, bạn phải có
cùng lúc ba dấu hiệu căn bản trên. Tuy nhiên, bạn vẫn phải tìm
hiểu và suy xét kỹ, vì nhiều khi “thấy vậy mà không phải vậy.”
Chẳng hạn, việc thích sống đời sống độc thân có thể là dấu hiệu
của ơn gọi tu trì, nhưng chúng ta phải tìm hiểu xem động lực của
việc thích sống độc thân là gì? Đó có phải là vì thích sống khép
kín và lập dị? Hay là không thích những người chung quanh? Tu là
dâng hiến, là cho đi, là phục vụ nên không thể chấp nhận lối
sống đó được. Thích cầu nguyện cũng có thể là dấu hiệu của ơn
gọi, nhưng phải tìm hiểu xem nguyên nhân nào thúc đẩy ta đến
việc cầu nguyện. Có phải vì ta sống cô đơn, không bạn bè, không
có người tâm sự, không biết chia sẻ cùng ai nên ta cầu nguyện để
tìm nguồn an ủi? Đời tu là tận hiến cho Thiên Chúa, sống thân
tình với Ngài, chứ không phải là nơi tìm an ủi cho bản thân. Có
những người nhút nhát, sợ trách nhiệm, sống dựa vào người khác,
nên muốn tìm đến đời sống tu như một nơi nương tựa, bảo đảm cho
cuộc sống. Đó không phải là dấu hiệu của một ơn gọi.
Ơn gọi là một ân huệ đặc biệt Thiên Chúa ban cho
một số người nào đó. Chúa có nhiều cách để gọi chúng ta mà chúng
ta không thể ngờ tới được. Điều quan trọng là chúng ta cần phải
ý thức và sống theo ý Chúa. Ơn gọi tu trì là một ân huệ, nên
chúng ta cần tìm hiểu, khám phá ra và nuôi dưỡng ơn gọi đó.
Ngoài ra, chúng ta còn cần dựa trên nhưng yếu tố
chính của một ơn gọi tu trì:
- Một niềm tin tưởng mạnh mẽ vào Giáo hội và
giáo huấn của Giáo hội.
- Yêu thích đời sống cầu nguyện.
- Sẵn sàng từ bỏ và hy sinh theo bước Chúa Kitô.
- Sống vị tha và có khả năng hiến thân phục vụ
tha nhân, nhạy cảm trước những nhu cầu của thời đại.
- Có ý chí vươn lên, khắc phục mọi khó khăn hiện
tại trước những đòi hỏi của Tin mừng.
- Có tinh thần đối thoại, cởi mở và biết lắng
nghe tha nhân.
4. SỰ ĐÁP TRẢ CỦA CON
NGƯỜI
Tất cả chúng ta đều phải nghiêm chỉnh tìm ra ơn
gọi cho cuộc đời của mình, như phần quan trọng nhất của thánh ý.
Ơn gọi chính là một mầu nhiệm, vì đó là sự gặp
gỡ giữa tự do của ơn Chúa và sự tự do đáp trả của con người. Con
người có toàn quyền tự do để đáp lại lời mời gọi của Chúa. Khi
dựng nên ta, Chúa không hỏi ý kiến ta. Ngài dựng nên ta vì Ngài
yêu ta, Ngài muốn điều tốt đẹp cho ta. Ngài ban cho ta điều qúi
giá nhất, đó là sự tự do. Nhưng khi muốn cứu chuộc ta, Ngài cần
sự cộng tác của ta, Ngài tôn trọng sự tự do của ta. Vì tự do,
chúng ta có thể phản bội Ngài, chống lại Ngài. Sự tự do lựa chọn
này luôn tạo ra những giằng co, những thử thách, những hy sinh,
đắng cay và đôi khi cả tủi nhục nữa.
Ơn gọi là một mầu nhiệm. Nếu Chúa mời gọi mà ta
không đáp trả, Chúa cũng phải chịu, vì Ngài tôn trọng tự do của
ta. Nhưng, nếu ta muốn mà Ngài lại không gọi, ta cũng phải hiểu
rằng, Ngài có lý do của Ngài. Bởi đó, ta luôn phải tìm hiểu
thánh ý Ngài: “Anh em đừng hoá ra ngu xuẩn, nhưng hãy tìm hiểu
đâu là ý Chúa.” (Eph 5, 17) Để biết được thánh ý Chúa, ta luôn
phải tỉnh thức và sẵn sàng, cầu nguyện và lắng nghe.
a. Tỉnh thức và sẵn
sàng
Chúng ta không thể biết trước được khi nào Chúa
mời gọi chúng ta và mời gọi như thế nào. Chúa có thể gọi ta bước
theo Ngài vào bất cứ lúc nào trong đời và bằng nhiều cách khác
nhau, tùy theo hoàn cảnh của mỗi người. Tỉnh thức và sẵn sàng sẽ
giúp ta đọc ra được những dấu chỉ, những tiếng gọi thầm kín và
nhẹ nhàng của Chúa ngay trong cuộc sống hằng ngày.
Trong Cựu ước, Chúa gọi Maisen nơi bụi gai bốc
cháy (x. Xh 3, 1-6), Chúa gọi Isaia trong đền thờ (x. Is 6,
1-8), Chúa gọi Samuen vào giữa đêm khuya (x. Sm 3, 1-20),… Có
khi Chúa gọi trực tiếp và rõ ràng như Chúa gọi Abraham (x. St
12, 1). Trong Tân ước, Chúa gọi các tông đồ Phêrô, Anrê,
Giacôbê, Gioan và Matthêu (x. Mc 1:14-20; 9, 9-13) đều đột ngột
và bất ngờ. Không ai trong các ông biết trước rằng vào một lúc
nào đó mình sẽ được gặp Chúa và Ngài sẽ gọi mình. Nhưng các ông
đã đáp lại tiếng gọi không một chút do dự. Không ai trong các
ông biết Chúa là ai? Họ đã bỏ tất cả và lập tức theo Ngài. Thánh
Antôn, khi vào nhà thờ nghe đoạn Tin mừng: “Nếu con muốn nên
trọn lành, hãy về bán hết…” (Mt 19, 21; Mt 6, 34), đã cảm nhận
được tiếng Chúa gọi ngài, và ngài đã bán hết của cải, bố thí cho
kẻ nghèo để bước theo Chúa.
Tỉnh thức và sẵn sàng nghĩa là khi Chúa đến, ta
gặp được Ngài; khi Ngài gọi ta: “Hãy theo Ta”, ta nghe được
tiếng gọi đó cách huyền nhiệm và ta “lập tức” đáp lại. Thật vậy,
không thiếu những dấu chỉ, những lời gọi trong đời sống của mỗi
người. Tỉnh thức để có thể nghe và hiểu được tiếng Chúa gọi, sẵn
sàng để đáp lại một cách quảng đại, không do dự.
Muốn tỉnh thức và sẵn sàng, ta cần phải biết cầu
nguyện và lắng nghe tiếng Chúa.
b. Cầu nguyện và lắng
nghe
Cầu nguyện là yếu tố then chốt để biết được
thánh ý Chúa.
Ơn gọi phát xuất từ Thiên Chúa. Do đó, cầu
nguyện để có thể nghe được tiếng gọi của Ngài. Đây là
điều kiện không thể thiếu cho một người luôn tỉnh thức và sẵn
sàng trước tiếng gọi của Chúa. Dụ ngôn “10 cô trinh nữ” (x. Mt
25, 1-13) cho thấy nếu muốn luôn tỉnh thức và sẵn sàng, thì phải
luôn dự trữ dầu đầy bình. Dầu ở đây chính là lời cầu
nguyện: khi không còn dầu, đèn sẽ tắt; khi không cầu nguyện, con
tim sẽ khô héo. Khi cầu nguyện, chúng ta lắng nghe được tiếng
Chúa nói. Cầu nguyện thực sự là tìm kiếm thánh ý Thiên Chúa và
tìm kiếm Thiên Chúa trong mọi sự. Bởi đó, để gặp được Chúa và
nghe được tiếng Người, ta cần phải liên lỉ cầu nguyện. Khi cầu
nguyện liên lỉ, chúng ta sẽ sống kết hợp mật thiết với Chúa. Và
nhờ đó, ta càng nghe rõ tiếng Người gọi ta, cũng như biết rõ
được ý định của Người cho ta. Khiêm tốn lắng nghe tiếng Chúa, ta
sẽ nghe được tiếng của Người.
Chúng ta cần cầu xin Chúa Thánh Thần, Ngài là
nguồn gốc mọi ơn gọi và đặc sủng, để xin Ngài mở lòng trí chúng
ta, giúp chúng ta luôn tỉnh thức và sẵn sàng.
Lời cầu nguyện liên lỉ sau đây sẽ giúp ta tìm
hiểu về ơn gọi của ta và lắng nghe ý Chúa:
Lạy Chúa, con đây, Chúa muốn con làm gì? Này con
xin đến để thực thi ý Chúa. Xin cho con biết được ý Chúa và vâng
theo ý Ngài. Chúa muốn con sống đời tu trì hay sống đời hôn
nhân? Nếu Chúa muốn, con xin hiến thân để phụng sự Chúa. Xin cho
con luôn can đảm và quảng đại để dấn thân phụng sự Chúa….
Không có một ơn gọi hay một bậc sống nào là dễ
dàng cả. Ơn gọi nào cũng đòi hỏi phải bỏ mình, hy sinh và dấn
thân. Khi biết được Chúa gọi ta, dù ta cảm thấy bất xứng và yếu
hèn, ta cần can đảm, tin tưởng và phó thác vào Chúa, vì “ơn Chúa
luôn đủ cho chúng ta” (2Cr 12, 9). Các tông đồ ngày xưa là những
con người quê mùa chất phát, nhưng Thiên Chúa đã tuyển chọn họ
để trở thành những sứ giả loan báo Tin Mừng. Thiên Chúa đã tuyển
chọn những con người tầm thường để làm nên những công trình
tuyệt tác của Ngài. Như vậy, ta mới nhận thức được rằng đó chính
là công trình của Thiên Chúa chứ không phải do người phàm, vì
đối với Thiên chúa không có gì là không có thể.
Đức Giáo hoàng Phaolô VI, nhân ngày cầu nguyện
cho ơn thiên triệu 13/5/1973, đã kêu gọi lòng quảng đại dấn thân
của các bạn trẻ: “Chúng tôi kêu gọi cách riêng các bạn trẻ mà
chúng tôi rất ưu ái. Các bạn chưa có một quyết định tối hậu nào
để các bạn tỏ ra hào hiệp hy sinh. Có rất nhiều tiếng gọi. Có
rất nhiều ngả đường đang mở ra trước mắt các bạn, kêu mời các
bạn tiến lên để phục vụ dân Chúa và Giáo hội. Phải chăng tiếng
gọi này sẽ không có đáp ứng? Phải chăng con đường ấy sẽ không có
người đi? Các bạn đầy rộng lượng hy sinh. Hãy hy sinh cho lý
tưởng ấy. Vì sao bạn dừng chân và chờ đợi? Trong khi đó thế giới
này đang thay đổi mau chóng. Từng đoàn người mới xuất hiện trên
trái đất. Tin mừng phải được rao giảng cho mọi người, cho người
nghèo khó hôm qua cũng như hôm nay và ngày mai. Luôn luôn có
những người đói khát, lao tù, những người bệnh tật trong thể xác
và tâm hồn. Họ đang chờ đợi bạn. Trong họ, Chúa Giêsu đang chờ
đợi bạn. Có việc cho mọi người. Có chỗ đang đón bạn.”
5. ĐỨC MARIA VÀ ƠN GỌI
“Đức Maria hoàn toàn thực hiện ý Chúa trong thực
trạng của đời sống. Đức Maria đã đón nhận Lời và đem ra thực
hành. Toàn bộ hành động của Mẹ thấm nhuần tình yêu và tinh thần
phục vụ. Tắt một lời, Đức Maria là người môn đệ đầu tiên và
tuyệt hảo nhất của Chúa Kitô. Tất cả điều đó có giá trị nêu
gương mãi mãi cho thế giới.”
Mẹ đã hiệp thông với sức mạnh và ân sủng của
Chúa Thánh Thần trong mầu nhiệm nhập thể của Chúa Giêsu và trong
biến cố hiện xuống, để xây dựng và phát triển Hội Thánh, là Thân
Thể và Hiền Thê của Chúa Kitô. Mẹ khiêm tốn nhìn nhận thân phận
nghèo hèn của mình, nhưng lại được Thiên Chúa đoái thương và
thực hiện những điều kỳ diệu (x. Lc 1, 49). Mẹ là nhà truyền
giáo đầu tiên khi vội vã đem Chúa đến cho bà Elizabeth (x. Lc 1,
56), là nhà chiêm niệm trong biến cố dâng Con tại Ðền thờ (x. Lc
2, 21-38), người phụ nữ có một tâm hồn rất tế nhị, nhạy bén
trước nhu cầu của đôi tân hôn tại tiệc cưới Cana (x. Ga 2, 1-12)
và nhất là người Phụ nữ can trường trước thử thách khi đứng gần
thập giá Chúa Giêsu (x. Ga 19, 25-27).
Mẹ đã kết hợp giữa chiêm niệm và hành động khi
đi thăm viếng bà Elizabeth, đã trở nên khí cụ trong kế hoạch của
Thiên Chúa. Sự can thiệp của Mẹ tại Cana đã mang lại kết quả bất
ngờ. Lời Mẹ dặn những người giúp việc cũng chính là lời Mẹ muốn
nhắn gởi mỗi người chúng ta: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm
theo.” Mẹ là Mẹ của Giáo hội và cũng là Mẹ của mỗi người chúng
ta. Mẹ đã Lắng Nghe và tuân giữ Lời Chúa trong suốt cuộc đời của
mình (x. Lc 8, 21; 11, 27-28). Vâng lời Mẹ, chúng ta sống theo
lời Chúa Giêsu dạy như Mẹ đã hoàn toàn vâng nghe thánh ý Thiên
Chúa. Hãy để Mẹ lo cho tương lai ơn gọi của bạn. Hãy thưa với Mẹ
như Ðức Gioan Phaolô II: “Toàn thân con thuộc về Mẹ. Xin
Mẹ hướng dẫn con trong mọi sự!”
Qui chiếu vào Mẹ, để mở lòng đón nhận và thấm nhuần Chúa Thánh
Thần (x. Lc 1, 35), trước sự chọn lựa và quyết định cho cả cuộc
đời của ta. Khi đã nghe được tiếng gọi của Chúa, ước gì chúng ta
sẽ đáp trả lời mời gọi đó bằng lời “Xin Vâng” như Mẹ Maria xưa.
Ngoài ra, Mẹ còn là mẫu gương tuyệt vời của việc thánh hiến hoàn
hảo, vì Mẹ hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa và hiến thân trọn vẹn
cho Ngài (x. VC 28). Mẹ còn là Mẹ của các người tận hiến, cầu
bầu cho họ trung thành với ơn gọi và trợ giúp họ rất hữu hiệu để
tiến tới trong việc đáp trả và sống sung mãn ơn gọi của mình.
Trần Hữu Hạnh, fsf |
VỀ MỤC LỤC |
|
THẦN TƯỢNG |
Phúc Âm Nhật Ký
12.11.2006
(Mc 12:38-44)
Thần tượng của giới
trẻ hôm nay là gì ? Nhìn vào các phim ảnh, truyền hình, sách báo,
internet v.v. chúng ta dễ dàng nhận ra các thần tượng. Hàng triệu
bạn trẻ đang say mê các tài tử, minh tinh, ca sĩ, nghệ sĩ, người mẫu
... Những ánh đèn mầu, trang sức, sân khấu, màn ảnh như những
phương tiện giúp họ tôn vinh các thần tượng đó .
Giữa lúc thiên hạ bị
các thần tượng đó cuốn hút, Chúa Giêsu lại đưa ra một thần tượng
chẳng hấp dẫn tí nào : bà góa nghèo với hai đồng tiền kẽm. Bà đã
trở thành thần tượng và người mẫu cho các môn đệ. Chúa đã giảng cho
các môn đệ một bài học thực tế ngay tại hiện trường. Ðó không phải
là một bài học luân lý hay bác ái rẻ tiền. Thực sự, qua bà góa,
Người muốn các môn đệ khám phá một con đường dẫn tới Thiên Chúa và
nhân loại . Nhưng liệu con đường đó có dẫn chúng ta đến một chân
trời tươi sáng hơn hôm nay không ? Tại sao bà dám liều “bỏ vào đó
tất cả những gì bà có, tất cả những gì để nuôi thân”[1]
? Bà không biết tai họa sắp chụp xuống trên đầu hay sao ?
So với những người
giàu, số tiền bà dâng cúng quá nhỏ. Tại sao Chúa không cảm kích
trước đống tiền kếch sù của các vị ân nhân và bảo trợ đang thi đua
xếp hàng trước thùng tiền nhà thờ ? Chúa không thấy có gì đặc biệt
trước những món tiền lớn lao đó. Ðó là những thứ dư thừa, không tạo
nổi ý nghĩa hay một giá trị nào. Ðó không phải là sự hy sinh hay
dấn thân thực sự.
Với số tiền không
mua nổi viên gạch, chắc chẳn bà góa không thể lọt vào danh sách ân
nhân. Nhưng đó lại là tất cả sự sống của bà. Bởi vậy, Chúa đã đưa
bà lên đầu bảng. Chúa thấu suốt tâm hồn bà. Tâm hồn quá quảng đại
và can đảm. Ý thức rất sâu xa về Thiên Chúa quan phòng đầy tình
yêu. Tinh thần trách nhiệm liên đới với cộng đoàn và anh em rất
mãnh liệt. Chỉ có bà góa mới dám hy sinh, vì bà đã dâng cúng với
một tình yêu mãnh liệt. Tình yêu đã khiến bà đã làm một việc rất giá
trị.
Phải chăng bà góa
thời Êlia, nhất là bà góa trong Tin Mừng Mátcô, đã điên dại và ngông
cuồng khi cho hết như thế ? Thực ra, lòng quảng đại của bà không
phải là kết quả của một phút bốc đồng. Ngoài Thiên Chúa, bà thấy
không còn gì cần thiết nữa. Bởi vậy, bà hy sinh tất cả để có tất
cả. Bà hoàn toàn tín thác vào lòng nhân lành của Chúa. Bà không
tính toán chút gì cho tương lai, vì bà tin vào tình yêu Thiên Chúa
quan phòng. Cuộc nghiên cứu mới đây tại Mỹ cho thấy, so với tài sản
riêng, những người lợi tức thấp lại là những người quảng đại nhất .
Sự kiện này chứng tỏ Chúa Giêsu đã nhìn rất đúng về bà góa.
Tận trong tâm hồn,
một luồng ánh sáng lớn cho bà thấy Thiên Chúa là chỗ dựa duy nhất
của cuộc đời. Ðó là mối phúc lớn nhất. Một mối phúc vĩ đại nằm
sâu trong tâm hồn nghèo khó. Mối phúc đó chính là ân sủng xuất phát
từ tình yêu vô cùng cao cả của Thiên Chúa. Ân sủng này là nguồn
phát sinh ơn cứu độ muôn dân. Ðó là tất cả phẩm giá người nghèo.
Rõ ràng tiêu chuẩn Thiên Chúa đánh giá con người khác xa trời vực
với loài người. Thế gian lúc nào cũng căn cứ vào quyền bính, kiến
thức, tiền của để đánh giá.con người. Bởi vậy, bà góa đã lọt xuống
tới nức thang chót trong xã hội.
Bà chỉ có hai đồng
tiền kẽm, nhưng bà nổi danh. Mua danh như thế có quá rẻ không ?
Phải chăng Chúa đã lầm khi đề cao bà ? Không ! Chúa không lầm khi
chọn bà làm gương mẫu cho các môn đệ hay Giáo hội. Trong cuộc đời
túng quẫn, hẳn nhiều lần bà từng bị cám dỗ. Nhiều con đường hấp dẫn
mở ra trước mắt. Rất nhiều bạn bè đã chọn con đường gian tà, lừa
đảo, trộm cắp để thoát khỏi cảnh nghèo. Riêng bà vẫn chọn con đường
công chính. Bà vẫn trung thành với Chúa. Thà sống nghèo và thiệt
thòi đủ mặt còn hơn phản bội Chúa. Bà không muốn hại ai. Trái lại,
bà còn tìm nhiều dịp để giúp đỡ mọi người bằng khả năng giới hạn,
nhưng với tất cả con tim. Khi bỏ hai xu vào hòm tiền trước mặt Thày
Trò Ðức Giêsu, bà có gì đâu để trình diễn ? Ðó không phải lần đầu
tiên và duy nhất bà đóng góp vào đền thờ. Một quá trình dài dặc và
âm thầm trong cuộc đời bà đã đi trên con đường của Chúa mà đến với
tha nhân và cộng đoàn.
Bà góa còn cho thấy
con đường dâng hiến chính bản thân, vượt lên trên mọi giới hạn hợp
lý. Khi chỉ cho các môn đệ thấy bà góa, Chúa muốn Giáo hội khám phá
con đường dẫn đến Thiên Chúa và nhân loại. “Ðó là con đường đầu
tiên Giáo hội phải đi qua để hoàn thành sứ mệnh : con người là con
đường đầu tiên và căn bản đối với Giáo hội, con đường do chính Ðức
Kitô vạch ra, con đường bất biến dẫn qua mầu nhiệm Nhập Thể và Cứu
Ðộ. Con người là con đường cho Giáo hội, nghĩa là, con người là nền
tảng mọi con đường Giáo hội phải bước đi, vì ai cũng được Chúa Kitô
Cứu Ðộ, và vì Chúa Kitô hiệp nhất với mỗi người một cách, ngay cả
khi con người không biết điều đó.”[2]
Cùng với Ðức Kitô, bà góa cũng là một con đường dẫn chúng ta vào
Nước Trời, nơi chúng ta gặp gỡ Thiên Chúa và tha nhân.
Con người không bao
giờ là một phương tiện để Giáo hội khai thác cho một mục tiêu
riêng. Trái lại, Giáo hội tôn trọng con người như chính Ðức Kitô,
vì Chúa liên kết chặt chẽ với từng con người. “Bởi đó, Giáo hội muốn
phục vụ một mục đích duy nhất này: mỗi người có thể thấy Chúa Kitô,
để Chúa Kitô có thể bước đi với từng người trên đường đời, với sức
mạnh chân lý về con người và thế giới hàm chứa trong mầu nhiệm Nhập
Thể và Cứu Ðộ, và với sức mạnh tình yêu xuất phát từ chân lý đó.”[3]
Khi nhìn ngắm bà góa theo hướng tay Chúa chỉ, các môn đệ đã sáng
mắt lên : một con đường trọn lành thật đơn giản và khiêm cung. Nhìn
hành động hy sinh cao cả của bà, họ thấy cả một tâm hồn đầy ắp tình
yêu đối với Thiên Chúa và cộng đoàn. Chúa không nhìn bà theo dáng
vẻ bên ngoài. Chúa cũng không dừng lại ở những giá trị bên trong
tâm hồn bà. Nhưng, hơn nữa, Chúa muốn liên kết với bà trong một mầu
nhiệm vĩ đại, mầu nhiệm Nhập Thể và Cứu Ðộ.
Bà góa hôm nay đã
trở thành một một dụ ngôn rất hấp dẫn và ý nghĩa về Giáo hội. Muốn
đến với thế giới hôm nay, Giáo hội không thể xuất hiện với hình ảnh
nào khác. Không khó nghèo và phục vụ với một tâm hồn quảng đại và
khiêm tốn, Giáo hội không thể Nhập Thế và Cứu Ðộ nhân loại. Hình
ảnh bà góa thời đại có thể thấy nơi Mẹ Têrêsa Calcutta. Tuy với
dáng vẻ bên ngoài không hấp dẫn, Mẹ vẫn thu hút cả nhân loại chú ý
tới người nghèo. Nhờ kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa, Mẹ đã có
khả năng cho đi lớn lao, vượt quá mọi toan tính và giới hạn bình
thường.
Sở dĩ hai bà góa
trong Kinh Thánh hôm nay có khả năng cho đi vượt mức, vì các bà đã
yêu Chúa hết lòng, hết sức, hết linh hồn, hết trí khôn. Các bà
không thể không muốn hoàn thánh ý muốn của Thiên Chúa. Thế mà “Chúa
muốn mọi người hiệp thông hoàn toàn trong tình yêu Chúa. Bởi đấy,
các bà yêu tha nhân theo con đường dẫn đến cuộc hiệp thông đó.”[4]
Các bà đến với tha nhân theo cùng một con đường đã dẫn tới Thiên
Chúa. Ðó là con đường tình ta đi. Ngoài con đường tình này, chúng
ta không thể gặp gỡ Thiên Chúa và tha nhân. Bởi thế, phải vận dụng
tối đa mọi phương tiện, thời giờ và tiền bạc để bồi đắp con đường
tình đó. Phải vượt qua mọi tự ái và tình cảm để hoàn thành sứ mạng
tình yêu. Nếu không, mọi giá trị và ý nghĩa cuộc đời sẽ tiêu trầm.
Tình yêu vô giới hạn mới là tình yêu đích thực.
Trong một thế giới
thiếu vắng tình yêu hôm nay, biết bao nạn nhân đang phải chịu cảnh
đàn áp, đói nghèo, tù ngục, v.v. Chỉ vì thiếu tình yêu, bao nhiêu
gia đình đã phải ly tán. Cảnh mồ côi, góa bụa tràn ngập xã hội.
Người bóc lột và ức hiếp người. Xã hội ngày càng khủng hoảng và bế
tắc về mọi mặt. Tình thương đã cạn hẳn trong con tim rất nhiều
người thời nay. Không ai dám đứng về phía người nghèo để bênh vực
họ, vì sợ liên lụy, phiền toái và mất đi những sinh hoạt bình
thường. Nhưng chỉ với người nghèo và bất hạnh, Giáo hội mới có cơ
hội sống đúng bản chất và sứ mệnh của mình. Không phải những cơ sở,
nhà thờ, tu viện nguy nga đồ sộ hay số lượng nhân sự khổng lồ với
những sinh hoạt rầm rộ khoa trương giúp Giáo hội đến với Thiên Chúa
và con người. Ngón tay Chúa chỉ vào bà góa hôm nay rõ ràng cho thấy
Giáo hội phải xét lại con đường đang đi hướng về đâu. Về người
nghèo hay người giàu có thế lực ?
Thiên Chúa luôn
đứng về phía người nghèo. Giáo hội cũng phải dành phần ưu tiên cho
người nghèo. Nếu thế, Giáo hội có gặp thử thách khi đứng về phía
người nghèo không ? Giáo hội khá thành công khi làm việc bác
ái. Nhưng Giáo hội có dám tranh đấu giành lại công lý cho những
người bị áp bức và nghèo khổ không ? Trong thế giới hôm nay, công
lý quan trọng và cần thiết hơn bác ái. Nhân loại không cần những
bàn tay phát chẩn bằng những cánh tay giơ lên tranh đấu cho công
bình xã hội. Cuộc tranh đấu này khó khăn hơn nhiều, vì đụng chạm
tới chính mạng sống. Công cuộc bác ái chỉ cung cấp phương tiện sống
qua ngày. Trong khi đó, công bình có một tầm mức ảnh hưởng rộng
lớn, sâu xa và lâu dài hơn.
Nhiều nơi trên thế
giới hôm nay, Giáo hội đang thiếu những con người hiến toàn thân
phục vụ một cách vô vị lợi. Giáo hội không nghèo đủ để có thể sống
thanh thoát theo tinh thần Phúc âm. Sức phục vụ yếu hẳn. Khi sai
các môn đệ lên đường thi hành sứ mệnh trọng đại, Chúa chẳng dạy các
môn đệ đừng đem gì ngoại trừ một vài nhu yếu đó sao ? Chúa còn muốn
họ đừng vướng mắc những mối liên hệ xã hội bình thường để thanh thản
bước vào một cuộc phiêu lưu lớn lao vì Nước Trời.
Hôm nay cần có những
ngôn sứ dám can đảm thức tỉnh Giáo hội trước sứ mệnh Nhập thể và Cứu
độ. Một trong những ngôn sứ thời đại đã lên tiếng : “Khi dạy chúng
ta sống bác ái, Tin Mừng huấn luyện chúng ta biết cách ưu tiên kính
trọng người nghèo và hoàn cảnh đặc biệt của họ trong xã hội : người
may mắn hơn nên từ chối một vài quyền lợi để đem tài sản mình phục
vụ tha nhân cách quảng đại hơn.”[5]
Tuy không mạnh bằng Chúa Giêsu, lời giáo huấn của vị Chủ Chăn Giáo
Hội cũng đủ đánh thức những ai đang sống trong sự bình an giả tạo,
một thứ bình an xây trên quyền bính, của cải, truyền thống, luật lệ
v.v.
Hôm nay nhiều Kitô
hữu vẫn sống như Thiên Chúa chưa xuống thế làm người. Họ không muốn
hòa nhập với mọi người. Họ dị ứng trước những người có ý kiến
khác. Nói tóm, họ thiếu hẳn tinh thần nhập thể và nhập thế. Trong
khi đó, “công cuộc Cứu Ðộ bắt đầu từ việc Nhập Thể. Con Thiên Chúa
chấp nhận tất cả những gì của con người, ngoại trừ tội lỗi, sống
theo tình liên đới do Thiên Chúa thiết lập, và ôm trọn vạn vật trong
Ân Tình cứu độ của Người. Toàn thể con người được tình yêu này đụng
chạm tới : con người gồm cả thể xác và tinh thần, tương quan liên
đới với tha nhân. Toàn thể con người - chứ không phải là linh hồn
tách biệt hay một hữu thể khép kín trong chính mình, nhưng là một
nhân vị và một xã hội con người – dấn thân vào công cuộc cứu độ của
Tin Mừng.”[6]
Chỉ có thể giải thoát toàn thể con người và nhân loại, khi chính
Giáo Hội không còn giữ lại một chút gì cho mình. Phải cho hết như
hai bà góa trong Kinh Thánh, mới có thể làm cho mọi người thấy Giáo
hội trung thành với Chúa Kitô trong sứ mệnh cứu độ muôn dân. Tự bản
chất, Giáo hội là “bí tích cứu độ phổ quát.”[7]
Nhưng thực tế, tinh thần cục bộ đang giết chết Giáo hội tại nhiều
nơi. Không gì nguy hiểm bằng thái độ đóng kín ...
Tóm lại, con đường
đến với Thiên Chúa và nhân loại có thể mở ra ở khắp nơi, ngay cả nơi
bất ngờ nhất là bà góa tại Ðền Thờ Giêrusalem. Quyền lực, kiến thức
và của cải không phải là những tiếng nói khôn ngoan và mạnh mẽ
nhất. Không chỉ trong nhà thờ, nhà trường, người ta mới có thể mở
mang kiến thức về Thiên Chúa và con người. Qua hình ảnh bà góa
nghèo khổ hôm nay, Chúa mạc khải con đường cứu độ cho muôn dân trong
khiêm tốn và tin tưởng tuyệt đối. Bà quả là một thần tượng tuyệt
vời cho những ai muốn sống hết tình với Thiên Chúa và dấn thân phục
vụ tha nhân. Chỉ tiếc thần tượng hôm nay không được nêu danh như anh
mù Batimê mà thôi !
Lạy Chúa,
hôm nay Chúa đã mạc khải con đường đến với Chúa và nhân loại nơi bà
góa nghèo khổ. Xin cho con biết tin yêu mãnh liệt như bà để có thể
cho đi tất cả. Xin cho con luôn dấn thân vào công cuộc Phúc âm hóa
đích thực Giáo hội đang thực hiện cho nhân loại hôm nay. Amen.
đỗ lực
dzuize@gmail.com
[1]
Mc 12:44.
[2]
Gioan Phaolô II, Redemptor Hominis, số 14.
[3]
ibid., số 13.
[4]
Crisez, G. Living a Christian Life, Franciscan Press
:1993,Vol. 2, tr.308
[5]
Phaolô VI, Octogesima Adveniens, 1971 : 23.
[6]
Hội Ðồng Giáo Hoàng về Công Lý và Hòa Bình, Tóm Lược Học
Thuyết Xã hội của Giáo Hội, Libreria Editrice Vaticana :
2005, tr. 29.
[7]
Công đồng Ðại Kết Vatican II, Hiến Chế Tín Lý Lumen
Gentium, 48: AAS 57 (1965), 53.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
Thánh
trong đời sống chúng ta |
Theo niềm tin và cũng là
thói quen trong Giáo hội, người tín hữu Công giáo chúng ta
thường tôn kính các Vị đã được Giáo hội tuyên phong là Thánh như
Thánh Phero, Thánh Giuse, Thánh Antôn, Thánh Vicentê, Thánh
Terexa, các Thánh Tử Ðạo Việtnam... Và chúng ta cũng thường hay
chạy đến cầu nguyện trước phần mộ, trước ảnh tượng của họ để xin
các ngài cầu thay nguyện giúp trước tòa Chúa, cho những ước mong
khấn xin của mình.
Ðây là việc phải đạo và
chính đáng.
Hằng năm, vào tháng Mười
Một, người Công giáo chúng ta dành riêng tháng này tưởng nhớ đến
những người đã qua đời. Và nếu hoàn cảnh
có thể, đi thăm viếng phần mộ của Ông Bà, Cha Mẹ đã qua đời.
Ðây là lòng đạo đức hiếu
thảo của con người.
1. Gương
mẫu thánh đức trong đời sống
Hai việc làm đạo đức sống
đức tin tình người này rất tốt đẹp luôn được duy trì từ ngàn xưa
nay trong Giáo Hội Công giáo.
Nghĩa cử tưởng nhớ đi thăm
viếng phần mộ Ông Bà, Cha Mẹ đã qua đời mang mầu sắc âm vang của
một tấm lòng yêu mến. Vâng có pha chút tâm tình hãnh diện cùng
buồn thương nhớ tiếc hiếu lễ nhiều hơn.
Ðang khi đến với các Vị
được tuyên phong lên hàng Thần Thánh, thấm nhuộm mầu sắc tôn
kính. Vâng với lòng tin tưởng cầu xin khấn nguyện, và đôi khi
còn có chút kính sợ nhiều hơn.
Nhưng xét cho cùng, theo
niềm tin của tôi, ông bà cha mẹ đã qua đời của chúng ta, dù chưa
hay không được Giáo Hội biết đến tuyên phong công nhận là Vị
Thánh tôn kính trên bàn thờ, các ngài cũng là Thánh.
Tạo sao có thể nói nghĩ
được như vậy ?
Trong lịch sử Giáo Hội, có
những vị Thánh do lòng sùng kính của người tín hữu được tung hô
công nhận là Thánh như các Thánh Tông đồ, Thánh Phaolô, Thánh
Gioan tẩy gỉa, Thánh Stephano, Thánh Giuse...Người tín hữu biết
được nơi đời sống của những vị này có nhiều gương mẫu thánh đức
cho việc sống đức tin vào Chúa, họ tôn kính các ngài là thánh.
Và dần dần trở thành nếp sống đạo đức tốt lành ăn rễ sâu vào đời
sống trong Giáo hội.
Cũng trong dòng lịch sử
Giáo hội, trước khi một vị nào được công nhận tuyên dương là
Thánh tôn kính trên bàn thờ, có tên trong lịch phụng vụ Giáo
hội, Vị đó phải được nhìn nhận là có đời sống anh hùng làm nhân
chứng cho tình yêu Chúa giữa con người khi còn sống, cũng như
khi đã qua đời làm phép lạ chứng minh được. Như Mẹ Á Thánh
Terexa Calcutta, như Á Thánh Giáo Hoàng Gioan 23., như Ðức Cố
Giáo Hòang Gioan Phaolô đệ nhị đang được mở vụ án phong Á Thánh,
các Vị Thánh Tử đạo...
Ông Bà Cha Mẹ chúng ta, đời
sống của họ không được mọi người biết đến, ngoại trừ trong vòng
gia đình con cháu. Nhưng các ngài khi còn sống trên trần gian
cũng đã trải qua những giai đoạn sống là những nhân chứng đức
tin vào Chúa giữa con người. Phải, có khi rất can đảm anh hùng
nữa. Các Ngài không chỉ giữ sống đức tin vào Chúa trong và cho
đời mình, mà còn là những vị truyền bá đức tin vào Chúa tiếp cho
con cháu trong gia đình. Như thế, trong giới hạn suy nghĩ của
người tín hữu, họ cũng xứng đáng là Thánh trước mặt Chúa, cùng
nêu gương thánh đức cho con cháu rồi.
Lẽ dĩ nhiên, đời sống của
mỗi người lúc trên trần gian, và sau khi đã qua đời, chỉ một
mình Thiên Chúa, Ðấng là cội nguồn đời sống, biết rõ và luận xét
công minh thôi. Là con người, là con cháu, chúng ta giữ tấm lòng
hiếu thảo, kính trọng cha mẹ, như điều răn Chúa truyền bảo: Con
phải thảo kính cha mẹ con!
2. Cha
mẹ, người cộng tác trong công trình sáng tạo
Ngay từ khi tạo dựng công
trình trong đất, Thiên Chúa đã dựng nên có người Nam và Nữ. Rồi
Ngài truyền cho họ sinh sôi cho đầy mặt đất (St 1, 26-30).Ngài
muốn công trình sáng tạo được tiếp tục, bằng cách Ngài tạo ban
cho khả năng truyền sinh giống nòi nơi con người và cả nơi cây
cỏ, nơi thú vật muông thú nữa. Ngài muốn con người cùng cộng tác
vào việc xây dựng công trình Ngài đã khởi đầu. Và đó là đời sống
cùng là hạnh phúc cho con người.
Nếu chỉ nhìn theo khía cạnh
vật thể sinh lý, hai yếu tố âm dương, nam nữ phối hợp tạo nên sự
sống mới. Nhưng đâu phải chỉ có như thế. Ðức tin nói cho ta hay:
đời sống cha mẹ chúng ta bắt nguồn từ Ðấng tạo dựng. Ngài ban
cho họ sự sống cùng tình yêu. Sự sống cùng tình yêu của các ngài
là qùa tặng phản ảnh sự sống tình yêu sáng tạo của Thiên Chúa.
Nên sự sống và tình yêu các Ngài là thánh đức.
Ngay từ khi là em bé chào
đời, rồi trong suốt đời sống, cha mẹ chúng ta đã thương yêu bảo
vệ con mình, nói dạy bảo cho chúng ta biết về Thần Thiêng thánh
đức, về Thiên Chúa, về bác ái tình yêu.
Lòng âu yếm lo lắng cho con
mình không chỉ dừng lại nơi nhu cầu quần áo đầm ấm, thức ăn sữa
bột, cơm canh no đủ. Nhưng còn thể hiện qua lời khuyên bảo dậy
dỗ, trong lời cầu xin khấn khứa, nhất là những khi gia đình, con
cái gặp khó khăn hoạn nạn. Cha mẹ làm tất cả những gì tốt đẹp
nhất cho con cái mình. Lòng yêu thương đó là tình yêu thánh đức
mà các ngài đã tiếp nhận từ Trời cao.
Con cái học được nơi cha mẹ
mình cách sống thế nào lòng đạo đức tình yêu giữa con người với
nhau và cách sống đức tin với Thiên Chúa. Các ngài dạy con cái
mình lối sống thánh thiện tốt lành với mọi người ngay trong lòng
cuộc sống. Ngay từ khi còn thơ bé cha mẹ đã cầm tay con mình dậy
cách làm dấu Thánh gía, dậy đọc kinh Lạy Cha, kinh Kính mừng,
dậy nói lời cầu nguyện cám ơn Chúa, xin Ngài ban ơn che chở phù
giúp được khoẻ mạnh, học hành tấn tới. Cũng nhờ cha mẹ mà chúng
ta biết đường đi tới thánh đường nhận lãnh các Bí tích của
Chúa.
Do nhờ các ngài chỉ dẫn mà
chúng ta khám phá nhận ra gía trị đời sống, cách ăn ở sao cho vệ
sinh sạch sẽ khỏe mạnh. Và do thúc đẩy khuyến khích của các ngài
mà chúng ta dần sống làm quen với không khí tình nghĩa con người
từ trong gia đình ra đến ngoài xã hội. Các ngài là thầy dậy dẫn
dắt chúng ta tới trường học, khi ở nhà thúc dục dậy học bài, làm
bài, dậy biết sống giữ lễ độ. Từ những căn bản đó, chúng ta phát
triển lớn lên thành người đi vào đời.
Chưa hết, cha mẹ là người
gợi ý khuyến khích giúp con cái đi vào đường đời sống riêng hoặc
lập mái ấm gia đình, hoặc chọn nếp sống dấn thân đời tu trì cho
việc truyền giáo trong Giáo hội.
Cha mẹ chúng ta tham gia
vào công trình sáng tạo của Thiên Chúa không duy chỉ trong việc
truyền sinh, nhưng còn cả việc giáo dục uốn nắn tâm hồn thân xác
cùng niềm tin đời con cái mình theo ý Chúa muốn, xây dựng gia
đình cùng xã hội. Chính công việc nặng nề, đòi hỏi nhiều hy sinh
kiên nhẫn này góp phần tô điểm làm cho khu vườn sáng tạo của
Thiên Chúa được vun trồng chăm sóc, sinh nhiều hoa trái tươi
tốt.
Xưa nay và ở khắp nơi, có
nhiều cha mẹ, thường cả hai ngưòi hay có trường hợp không may
mắn, một mình người mẹ, phải sống suốt cuộc đời hy sinh làm việc
cần cù vất vả, tiết kiệm từng đồng xu cắc bạc, để nuôi sống con
cái và lo cho họ ăn học nên người.
Các ngài đã sống và đã làm
công việc thánh thiện tốt lành cho con cái mình. Ðời sống các
ngài, như thế được Chúa chúc lành thánh hóa
3. Họ là
thánh, vì tin vào Chúa
Trong nghi lễ an táng người
qúa cố, Giáo hội tiễn đưa người qúa cố trở về lòng đất mẹ:
"Trong làn nước và trong Chúa Thánh Thần con đã được rửa tội.
Thiên Chúa hoàn tất nơi con những gì Ngài đã bắt đầu ngày con
nhận phép Bí tích Rửa tội.“ ; và "Thân xác con là đền thờ Chúa
Thánh Thần. Thiên Chúa ban tặng con niềm vui vĩnh cửu.“ ( Bản
nghi lễ bằng tiếng Ðức)
Những lời đó, không phải
chỉ là lời an ủi cho người còn sống trong lúc đau buồn tang tóc.
Nhưng những tâm tình thấm nhuộm chan chứa lòng tin tưởng đó là
đời sống của người qúa cố, cha mẹ chúng ta. Họ đã tin vào Chúa
là nguồn đời sống. Họ đã tin vào Chúa là Ðấng sinh thành đã trao
ban cho họ, cùng cho được cộng tác vào việc sáng tạo truyền bá
đức tin tình yêu Chúa. Họ tin được Chúa cứu độ thưởng công cho
về sống bên Chúa.
Khi xưa, lúc còn đang sống
trên trần gian, nếu chúng ta nói với cha mẹ mình: “Thầy mẹ, hay
thầy bu là thánh của chúng con!“. Chắc chắn các ngài sẽ nghiêm
nghị mắng chúng ta: "Bộ con điên rồi hả. Quân kiêu ngạo phạm sự
thánh! Chúng ta tất cả là tạo vật tội lỗi phàm hèn cùng là không
trước mặt Chúa thôi“ ...
Nhưng giờ đây họ đã qua đời
rồi. Tưởng nhớ đến họ, nhớ lại những công lao ân đức thánh thiện
tốt lành họ đã sống và đã làm cho gia đình con cái. Chúng ta với
niềm hãnh diện cám ơn Thiên Chúa đã ban cho đời mình cha mẹ có
đời sống tràn đầy niềm tin tưởng thánh đức, chan chứa lòng hy
sinh nhẫn nhục. Nhờ các ngài mà chúng ta biết thế nào là sự
thánh thiện tốt lành
Các ngài không là những vị
được Giáo hội tuyên dương phong Thánh tôn kính trên bàn thờ nơi
công cộng, có tên tuổi trong lịch phụng vụ. Nhưng trên bàn thờ
tâm hồn của con cái, các ngài là những vị Thánh bầu cử cho ta
bên ngai Thiên Chúa.
Họ là những vị Thánh đầy
lòng tin tưởng và hy vọng vào Chúa trong đời sống chúng ta khi
xưa và lúc này.
Lm.
Nguyễn ngọc Long |
VỀ MỤC LỤC |
|
KINH HẠT VÀ SỐNG ĐẠO |
Cách đây hơn một năm tôi có về thăm quê của
tôi là thôn nhỏ ở miền Bắc sau đúng hơn nửa thế kỷ tôi không
biết nơi chôn rau cắt rốn của mình như thế nào.
Tôi sinh ra tại một họ đạo (lẻ) là thuộc
giáo phận Hải Phòng. Họ đạo của tôi vì là một họ đạo lẻ nên từ
trước đến nay không có cha xứ thường trú. Vào những ngày chủ
nhật và lễ trọng, giáo dân phải đi lễ ở nhà xứ cách đó khoảng 3
cây số. Tuy vậy, họ đạo của tôi cũng có một nhà thờ tươm tất và
có một bề dày lịch sử đáng trân trọng. Nó được xây dựng cách đây
trên 100 năm. Ngày nay nhà thờ này đã hư nát nhiều nhưng vẫn còn
sử dụng được.
Sống trong Nam, bố mẹ tôi thường nhắc những
kỷ niệm vế quê hương ngoài Bắc, về cung cách sống đạo, đọc kinh,
xem lễ , về cách làm ăn, cày bừa, gieo mạ, gặt hái, trồng dưa …
và cả cách chống lại lụt lội và hạn hán. Qua những câu chuyện
như thế, tôi tưởng tượng ra trong trí những hình ảnh bàng bạc về
quê hương mình. Tôi chỉ tưởng tượng thôi vì khi rời khỏi quê,
tôi còn quá nhỏ nên không biết thực hư nó như thế nào. Tôi mong
có dịp nào đó sẽ về thăm quê cho biết nơi chôn rau cắt rốn của
mình và niềm ao ước ấy ngày một cháy bỏng trong lòng tôi.
Sau bao ngày mong đợi, cuối cùng thì tôi
cũng có dịp về quê. Tôi về quê với đứa con trai đầu của tôi. Hai
cha con đi bằng xe gắn máy. Vừa đi, vừa chiếu bản đồ, vừa hỏi
thăm đường xá và cuối cùng chúng tôi cũng tới nơi vào một buổi
chiều trời còn đang mưa tầm tã.
Tuy nhiên, có một chút hơi buồn là chúng
tôi không còn biết được ai ngay tại quê nhà và về quê cũng không
biết đến thăm ai. Họ hàng của tôi ở lại quê hầu như không còn
người nào. Lý do là vào năm 1954, những người có đạo trong làng
hầu hết đã ra Hải Phòng, xuống “tàu há mồm” để đi di cư vào Nam
dưới sự dẫn dắt của một cha xứ thuộc giáo phận Bắc Ninh. Sự việc
như thế diễn ra vào lúc tôi “chưa có trí khôn” nên chỉ nghe bố
mẹ kể lại như thế, ngoài ra chẳng biết gì hơn. Vì thế, về đến
làng cũ, lạ nước lạ cái, không quen đường xá xóm làng nên chúng
tôi đã đến Uỷ Ban Nhân Dân Xã để hỏi thăm.
Sau khi được một cán bộ xã chỉ đường ,
chúng tôi quyết định đến thăm nhà thờ trước. Thấy được nhà thờ
của quê mình, chúng tôi vui mừng không kể xiết! Lần đầu tiên sau
mấy mươi năm, tôi đã thấy tận mắt cái nhà thờ nhỏ bé và thân yêu
của quê cha đất tổ. Chúng tôi vội vã ghi lại những hình ảnh vào
chiếc máy ảnh mà chúng tôi mang theo. Hấp tấp, vội vã, hồi hộp
… như thể sợ cái nhà thờ thân yêu này của chúng tôi biến mất!
Sau đó, hai cha con tôi tiếp tục hỏi thăm
làng xóm và tìm được nhà của một gia đình họ hàng của tôi còn
sống tại quê mà trước khi đi về làng chúng tôi không hề biết.
Gia đình này không di cư vào Nam mà vẫn sống tại quê nhà cho đến
nay, hiện còn một cụ bà đã trên 80 tuổi và một vài người con
cháu. Rất mừng. Ông con cả của cụ vắng nhà nên tôi nói chuyện và
hỏi thăm cụ bà trước.
- Thưa cụ, sau khi một số giáo dân di cư
vào Nam, thì người có đạo ở lại quê nhà còn nhiều không?
- Không. Người lương còn nhiều chứ người có
đạo ở lại rất ít. Chỉ còn có 5 gia đình với số nhân danh khoảng
trên 20 người!
- Còn lại ít thế thì nhà thờ nhà thánh như
thế nào ạ?
- Vẫn cứ bình thường. Vào thứ bảy và chủ
nhật, tất cả 5 gia đình già trẻ lớn bé đều tới nhà thờ đọc kinh!
- Thế có cha tới làm lễ không ạ?
- Làm gì có cha! Kể cả nhà thờ xứ cũng
không có cha! Bên nhà thờ xứ cũng chỉ đến đọc kinh thôi! Thỉnh
thoảng ngày lễ lớn thì có cha từ trên huyện về làm phúc.
Bà cụ nói đến đây thì con trai lớn của cụ,
nay đã xấp xỉ 60 vừa về đến nhà. Chúng tôi lại được ông con cả
này cho biết là nhà xứ gần chúng tôi nhất đã có linh mục đến coi
sóc cách đây khoảng 10 năm và đang trùng tu nhà thờ của giáo xứ.
Vì ông là người được giao nhiệm vụ giữ chìa khóa nhà thờ họ của
tôi, nên tôi đề nghị ông mở cửa cho tôi được vào cầu nguyện bên
trong nhà thờ mà ít phút trước đó chúng tôi chỉ thấy nó từ bên
ngoài.
Vào bên trong tôi hết sức xúc động. Một
quang cảnh nhà thờ được bài trí theo lối cổ điển miền Bắc hiện
ra trước mắt tôi. Những tượng thánh được đặt trên bàn thờ sơn
son thếp vàng mà tôi không thể tưởng tượng được. Một quang cảnh
mà khi tôi còn bé cũng đi vào nhà thờ này nhiều lần nhưng tuyệt
nhiên ký ức của tôi không còn lưu lại được gì vì tôi còn quá
nhỏ.
Chúng tôi đứng giữa nhà thờ đọc kinh chung
với nhau. Có kinh tôi thuộc thì hai chúng tôi đọc chung, có kinh
quá xưa cũ tôi không thuộc thì ông đọc một mình. Hai chúng tôi
chưa từng gặp nhau bao giờ song bây giờ là anh em thắm thiết của
nhau qua lời kinh hạt. Tính hiệp thông chảy trong huyết quản của
hai chúng tôi . Chúng tôi từ đây coi nhau như anh em ruột thịt,
cùng có một Cha chung trên Trời, cùng đọc chung lời kinh nguyện,
cùng chia sẻ một tâm tình sống đạo như nhau. Sau đó, chúng tôi
quỳ gối cầu nguyện riêng…
Cuối cùng, tôi đề nghị ông dẫn chúng tôi
thăm lại cái nhà của gia đình tôi khi xưa nơi tôi sinh ra trước
khi vào Nam (nay không phải là nhà của mình nữa). Cái nhà này
ngày nay đã hoàn tòan thay đổi vì đã được xây lại cách đây vài
năm và hiện có ba chủ ở chứ không phải một. Ngoài ra, chúng tôi
còn quan sát kỹ lưỡng những con đường làng, vườn ao, cây cỏ,
cảnh quan của vùng quê… Duy có cái lũy tre làng mà tôi tưởng
tượng trong trí thì tôi không thấy. Không biết rằng ngày xưa
làng tôi có lũy tre hay không. Sau vài câu chuyện nữa, cha con
tôi xin kiếu từ.
Điều tâm đắc nhất mà tôi rút ra trong
chuyến về quê lần này là vai trò của việc đọc kinh lần hạt, gọi
tắt là kinh hạt. Quả là kinh hạt có một vai trò cực kỳ quan
trọng trong việc sống đạo, nhất là cho những giáo dân sống với
nhau không có thánh lễ, cho những họ lẻ không có cha, cho những
ai sống xa nhà thờ, những giáo dân vùng sâu vùng xa nơi mà linh
mục không thể tới được hoặc thậm chí nơi không có nhà thờ, cho
những ai gặp khó khăn thử thách trong đời muốn một mình cầu
nguyện với Chúa, cho những ai đang sống cô đơn nơi đất khách quê
người, cho những tâm hồn tội lỗi muốn sám hối, cho những ai đang
âm thầm cầu xin ơn riêng trước Đài Đức Mẹ mà nhà thờ nào cũng có
… Không sao kể hết được những hoàn cảnh cần đến những lời kinh
vừa sâu sắc, lại vừa giản dị như ngôn ngữ hàng ngày.
Chính điều này lý giải tại sao người giáo
dân Việt Nam vẫn thích kinh hạt. Họ thường cầu nguyện bằng cách
đọc kinh, xin ơn bằng cách đọc kinh, cầu bình an cho nhau cũng
bằng cách đọc kinh. Đám cưới đám giỗ cũng đều có lời kinh tiếng
hát. Mừng nhà mới cũng bằng cách đọc kinh. Câu nói cửa miệng
“cho tôi xin một kinh!” trước khi lên đường là cầu xin cho đi
đến nơi về đến chốn, làm yên lòng những lữ khách đang rong duổi
đường dài…
Giới trẻ ngày nay dưới mắt tôi có một số
hình như không còn coi trọng kinh hạt nữa. Đầu giờ lễ bao giờ
cũng có đọc kinh nhưng có ít nhiều thanh niên thiếu nữ chưa vội
vào nhà thờ mà con đứng ở ngoài nói chuyện và tâm sự với nhau,
chờ đến khi thánh lễ bắt đầu rồi mới vào… Những buổi đọc kinh
trong xóm đạo ngày càng vắng bóng thanh niên. Có lẽ những người
trẻ tuổi ấy coi kinh hạt là việc của những ông già bà cả chăng?
Vì kinh hạt có tác dụng lớn lao như thế nên
nhiều nhà thờ hiện nay vẫn còn duy trì việc dạy trẻ em vừa học
giáo lý, vừa học kinh. Những tân tòng cũng được dạy kinh sách
bên cạnh việc tìm hiểu và học hỏi Lời Chúa. Trước khi ăn cơm
cũng thường làm dấu và đọc kinh Lạy Cha chung với nhau. Buổi tối
trước khi đi ngủ cũng đọc vài kinh…
Nhiều giáo xứ hiện nay vẫn còn tổ chức
những buổi thi kinh và có khi còn được tổ chức trên quy mô của
toàn giáo phận nữa. Đó là những việc làm thật đáng trân trọng.
Âu đó cũng là một thói quen tốt và là một nét đặc trưng nổi bật
trong cách sống đạo của người Việt chúng ta.
Giuse Nguyễn Thụ
Nhân , Gia Lai 21.8.2006
|
VỀ MỤC LỤC |
|
CÕI LÒNG GÓA PHỤ
(Mc 12: 38-44) |
Từng dòng máu
ngược về tim,
mang bao thương
nhớ nỗi niềm đắng cay .
Trời cao nhìn
xuống đất dầy,
cõi lòng góa
phụ đêm dài giá băng.
Cuộc tình xưa
đã xa xăm,
quãng đời còn
lại với năm tháng dài,
bao nhiêu mộng
ước tàn phai,
bước đi một
bước chông gai chập chùng.
Qua bao thử
thách não nùng,
cõi lòng góa
phụ thủy chung một mầu,
dù đời mang
kiếp bể dâu,
tình yêu vẫn
muốn sôi trào con tim,
nắng mưa vật
lộn ngày đêm,
mới mong tìm
chút ấm êm hài hòa,
Hằng năm Ðại Lễ
Vượt Qua,
giục người lưu
lạc xa nhà tìm nhau,
bây giờ góa phụ
về đâu,
mà tìm hơi ấm
cho bầu trời mơ ?
con tim tuyệt
đối tôn thờ,
tình yêu Thiên
Chúa vượt bờ thời gian
Ðền Thờ giục
bước quan san,
càng đi càng
lạc giữa đoàn hành hương.
niềm vui tràn
ngập phố phường,
thi nhau tín
hữu bốn phương cúng dường.
Thương người
góa phụ cô đơn,
như thân sâu
róm cúi luồn trăm dâu,
hai đồng tiền
kẽm hư hao
sao đưa góa phụ
lọt vào mắt ai ?
không ngờ chỉ
một ngón tay,
Chúa cho môn đệ
học bài hiến dâng,
bạc vàng dù có
gấp trăm,
chỉ là những
áng phù vân dật dờ,
Kìa người quả
phụ sớm trưa,
sống bằng canh
cặn cơm thừa mà thôi.
hai
đồng là cả cuộc đời,
dâng
lên trọn kiếp nổi trôi bồng bềnh,
đường
đời góa phụ nhẹ tênh,
dù
cho lên thác xuống ghềnh trăm năm.
vân thanh
12.11.2006
|
VỀ MỤC LỤC |
|
NGÀY LỄ BẠC |
Tôi chết được 25 năm rồi. Hôm nay tôi trở lại tảo mộ lần thứ hai.
Tôi gọi là Ngày Lễ Bạc.
Sau khi chết được ba năm. Tôi tảo mộ lần thứ nhất. Lần đó tôi kể
trong tập sách Cô Ðơn và Sự Tự Do, đoản khúc số 59. Ngày đó mộ tôi
không có hoa. Không có ai đến mộ tôi cả. Tôi đứng đó hồi hộp suốt
buổi chiều. Mây xuống thấp, xám một hoàng hôn. Rồi trời tắt nắng
phía sau hàng cây. Tôi còn nhớ rõ hôm ấy trời không gió. Nghĩa trang
im lìm. Sau ba năm tôi chết, vẫn còn ít người nhớ và cầu nguyện cho
tôi. Nhưng không ai ra nhìn mộ tôi.
Tôi biết nếu trở lại vào năm sau thì cũng thế. Thản nhiên như một
cánh chuồn chuồn đậu hờ hững trên một bờ giậu thưa nào đó. Không có
gì hồi hộp nữa nên tôi không trở lại. Ðợi 25 năm sau. Một kỷ niệm
đặc biệt hơn. Ngày Lễ Bạc.
Tôi đang đứng trong nghĩa trang, chỗ tôi đứng lần thứ nhất cách đây
hơn 20 năm về trước.
Tên tôi vẫn còn. Tên được khắc vào mộ đá. Nhưng rêu lắm rồi, dơ bẩn
nữa. Mộ đá không còn sạch như ba năm sau khi tôi chết. Bây giờ sần
sùi, mốc rêu xanh. Ngày xưa không có cây cổ thụ ở chỗ này. Họ trồng
bao giờ thế? Cả cái nghĩa trang này bây giờ cũng khác. Ngôi mộ cạnh
tôi không còn. Họ bốc đem đi hồi nào mà bây giờ có một cái tên lạ
hoắc.
Trên cành cây già, một loại côn trùng nào đó rỉ rả tiếng kêu cuối
mùa. Hôm nay cũng không có gió như lần trước. Những chiếc lá lặng
lẽ. Nghĩa trang cũng yên tĩnh như ngày xưa.
Tôi đến gần mộ, nhìn xác tôi dưới đất sâu. Chiếc quan tài gỗ mục từ
bao giờ? Ðất sập kín lẫn với xương. Ðất dưới đó ẩm ướt. Có bùn sền
sệt. Nước quanh năm. Tôi không còn hình hài gì cả. Có những con
trùng trườn qua trườn lại trên khúc xương. Người ta bảo trắng như
xương. Thật không phải thế, xương lấm dơ đen, rỗ những vết bọ ăn,
bùn cắn chặt vào những kẽ nứt. Bọ ăn làm các xương không còn nhẵn
nhụi. Chiếc sọ đầu còn nguyên vẹn hơn cả. Hai cuồng mắt rất to. Tôi
nhìn xuống, chiếc sọ cũng giống như trăm nghìn chiếc sọ khác. Tôi
không thể phân biệt được. Ngày còn sống, tôi băn khoăn về làn da.
Nhìn kìa! Chỉ tuần lễ sau khi chết. Nó rữa ra. Ngày còn sống, tôi
chải chuốt mái tóc. Tôi tìm cách nhuộm cho người ta thấy mình trẻ.
Tôi băn khoăn về cái nhìn. Tôi muốn chinh phục. Bây giờ cái sọ trọc,
rỗng, nhúc nhích loại giun nào trong đó? Tôi đứng nhìn tôi, tôi nhìn
sang tất cả những xác chung quanh và tôi sợ. Tôi thấy xa lạ với
chính mình. Hình hài thân xác tôi đấy ư? Tôi đang mừng 25 năm, Lễ
Bạc sao? Còn đâu những lúc băn khoăn mùi nước hoa nào, Chanel số 5
hay 8?
Tôi biết chắc là không có ai đến mộ tôi 25 năm sau. Tôi biết là
không có hoa ở mộ. Tôi không hồi hộp gì cả, tôi không chờ đợi gì cả
khi trở về đây. Kỷ niệm 25 năm ngày tôi chết là của riêng tôi. Hôm
nay tôi có thì giờ nhìn ngắm tôi và những gì xảy ra nơi đây.
Ở một góc kia, người ta đang khóc. Một đám tang đang chôn. Có linh
mục mặc áo lễ. Lại cũng có ca đoàn hát. Sao mà giống tôi 25 năm về
trước thế. Hoa chung quanh mộ, rồi mấy hôm nữa hoa sẽ rữa, người
được thuê làm vệ sinh lại hốt đổ vào thùng rác.
Có những mộ bia không còn hình dạng. Họ ra đi trước tôi lâu rồi. Có
người mới chôn vài năm nay, có người mười năm, có người hai mươi
năm, có người cả trăm năm. Ghê nhất là những người mới chôn. Ngôi mộ
này của một người đàn bà. Chết đã tháng nay. Áo quần còn mới, nhưng
xác rữa rồi, lúc nhúc dòi bọ. Chiếc quan tài còn cứng, xác trong đó
phồng căng, sình rữa. Tóc bết lại. Áo nhung và thịt kết dính chặt
lại. Những con dòi trắng cắn loang lổ nhiều vùng vải lỗ chỗ. Ðấy
cũng là hình hài tôi 25 năm về trước.
Ngày còn sống tất cả những người đang nằm đây xum xuê từng ngọn tóc,
mà bây giờ thế ư?
Tôi đi tìm xem ai là người trí thức. Không thấy ai cả. Chết được vài
ngày, tất cả sọ người đều nồng nặc hôi thối.
Tôi đi tìm xem ai là người nổi tiếng. Tất cả chỉ là những mảnh xương
dính bùn đen đủi và toàn dòi bọ ở trong.
Tôi đi tìm xem ai là người giầu có. Không thấy ai cả. Tất cả đều
trần trụi không còn manh áo che thân. Tôi không thấy kim cương, vàng
bạc. Tôi tưởng người thân chôn theo, nhưng không, người ta giữ lại
hết. Người ta chỉ chôn xác thôi.
Tôi đi tìm xem ai là người lúc sống họ lên tiếng phải xây dựng Giáo
Hội thế này, phải cải tổ Giáo Hội thế kia. Không thấy ai cả. Lúc
đương thời, họ sống chết, ăn thua đủ với nhau chỉ vì “bảo vệ đức
tin.” Trong cái nghĩa trang này thân xác nào cũng hôi tanh.
Tôi lại nhìn tôi dưới ngôi mộ sâu.
Cái sọ kia ngày xưa đã bao
nhiêu suy nghĩ. Những giấc mơ ấy bay về đâu? Còn dưới đó không? Trái
tim ôm ấp bao nhiêu tình cảm. Cái mùi tanh hôi nồng lên khi nó rữa
ra.
Tôi lại nhìn tôi dưới ngôi mộ sâu.
Tôi nghe chung quanh tôi, trăm nghìn tiếng động xèo xèo. Nhiều xác
mới chôn đang rữa. Tiếng những con bộ ăn vào xương. Những xác chết
đang xảy ra giống tôi 25 năm về trước.
Ở phía kia, đám tang đã xong.
Nhiều người đứng xa mộ để có thể ra về sớm hơn. Họ còn nhiều việc
phải làm. Họ rất bận rộn. Họ không muốn ở đây lâu. Chiều xuống tối
rất mau. Người ta phải về. Xác mới chôn nằm đó. Vài ngày nữa sẽ có
ai đó tiếc thương đem hoa ra mộ. Rồi ba năm sau không còn ai. Rồi 25
năm sau nếu trở về đây cũng sẽ giống tôi bây giờ. Lần lượt ra đi
theo con đường đó. Giống nhau.
* * *
Bỏ nghĩa trang, tôi đi tìm lại con đường tôi đi năm xưa. Phần lớn
còn đó nhưng chỗ này mới hơn thì chỗ kia cũ kỹ đi. Nhiều tòa nhà bỏ
trống hoang phế. Tôi không còn gặp mấy người quen. Một vài người tôi
tìm mãi mới thấy. Vì họ thay đổi quá nhiều rồi. Họ chậm chạm, đau
yếu. Họ lẩn thẩn. Cái thế giới 25 năm về trước không còn. Ðất trời
còn đó. Mặt trăng vẫn thế. Cả gió biển và mầu xanh của sóng nữa.
Nhưng con người và thế giới lúc họ trẻ hết rồi. Ðời họ bây giờ ai
cũng lầm lũi. Tôi đứng nhìn họ mà không muốn hỏi chuyện vì bắt họ
nhớ lại những tháng ngày quá xa. Bây giờ họ chỉ muốn thầm lặng sống
qua ngày thôi. Vài người sót lại trong viện dưỡng lão, lặng lẽ.
Người tôi quen ngày xưa, chết hầu hết rồi.
Những tờ thư cũ, tấm hình năm xưa sau khi tôi chết, có vài người giữ
nó ít năm. Ðến lúc họ chết thì kẻ sau dọn phòng không biết tôi là
ai. Tất cả vào thùng rác sau khi người đó chết ít ngày. Bây giờ tôi
không còn dấu vết là bao.
Tôi đi tìm những chữ nghĩa ngày xưa tôi học. Vất vả toan tính. Ngày
ấy nuôi bao nhiêu mộng mị ở miếng bằng ra trường. Bám vào tên tuổi
muốn xã hội tặng ban. Cần treo tấm bằng ở nơi làm việc. Chụp chung
tấm hình với nhân vật tiếng tăm. Bây giờ chả còn gì.
Ðã 25 năm rồi, tất cả đồ dùng của tôi đã biến mất. Chiếc xe ngày xưa
tôi đau buồn vì trầy vết sơn. Ngày ấy không dám cho người khác mượn,
tôi lau chùi thật bóng. Bây giờ là bụi rác ở đâu? Tôi đứng đây nhìn
lại cuộc đời. Tất cả qua đi như con gió thoảng mà sao ngày ấy lòng
tôi bồn chồn, lo lắng, tiếc nuối những thứ này thế.
Tôi đi tìm những công trình tôi để lại. Người để công trình này,
người để công trình kia. Tôi để lại những bài diễn văn. Ai còn nhớ?
Họ quên ngay khi tôi rời cái mai-cô-phôn cơ mà. Ngay khi ra khỏi
phòng họp, ngay mấy phút sau. Vậy mà hôm nay tôi đi tìm nó như một
công trình để lại sao? Giật mình. Tôi thấy mình quá ngớ ngẩn. Vậy
tôi đi tìm gì hôm nay? Còn gì không? Ngay cả những người tôi quen
biết cũng không còn, thì tôi còn gì? Ai mà giữ những kỷ niệm của tôi
khi họ không biết tôi là ai?
Tôi không ngờ ngày lễ bạc này buồn tẻ hơn ngày tảo mộ lần thứ nhất.
Ngày ấy sau có ba năm tôi chết. Ðứng một mình ngoài nghĩa trang,
không có ai ra mộ tôi như hôm người ta chôn tôi. Nhưng ngày ấy trở
về tôi còn nhìn thấy nhiều bóng hình tôi quen. Tôi còn gặp vài tờ
thư tôi viết cho họ. Có kẻ còn giữ tấm hình tôi. Lần này hoang vu
quá. Trống trải. Ngày 25 năm Lễ Bạc mà vắng thật vắng.
Bây giờ tôi hiểu, Ngày Lễ Bạc là của chính mình. Một mình mình thôi.
Nhiều điều chết rồi mới thấy rõ. Lúc sống sao tôi không nhìn thấy.
Chẳng hạn như tôi băn khoăn làm sao để lại công danh cho đời. Ðời
chả cần gì tôi. Cần hay không, tiếng kêu của một cánh ve trong chiều
hè trống trải mênh mông? Chẳng hạn như tôi lo lắng ngày mai ra sao,
tôi phải tích góp bao nhiêu cho đủ? Bây giờ thấy quá rõ rồi, ngày
mai, tức là bây giờ tôi đang đứng đây. Trong nghĩa trang người ta
không không còn nhan sắc, người ta không cần chỗ ở.
Nếu bây giờ sống lại kiếp người, tôi sẽ rong chơi, tôi sẽ ca hát với
suối xanh, tôi sẽ với mây trời cho trái tim tôi bao dung. Nhưng trễ
quá rồi.
* * *
Tất cả những gì nhìn thấy đều không mang theo được khi tôi chết. Son
phấn. Sự nghiệp. Cũng không phải tất cả những gì thuộc tinh thần là
mang theo được đâu. Những điều thuộc tinh thần như tình yêu, lòng
thù ghét, niềm kiêu hãnh, sự ghen tị, giận dữ, bao dung cũng tùy đó.
Chỉ những gì tinh thần mà thuộc về Ðức Kitô mới tồn tại.
Như vậy cuộc đời người ta phải bỏ lại tới 98 phần trăm. Chỉ có hai
phần trăm mang theo là tình yêu Chúa và bao dung với người đời.
Lúc sống, tôi quá vất vả cho 98 phần trăm cái không mang theo được.
Hôm nay nhìn lại trong ngày kỷ niệm 25 năm tôi chết. Trở về tìm lại
những bến bờ đã đi qua. Chả còn gì. Nếu tôi được sống lại, tôi sẽ
sống như thế nào?
Hỏi mình vậy thôi, chứ tôi biết, quá trễ rồi.
Ðường tôi đi, bây giờ lại vẫn chỉ một mình, mình đi. Tôi lại nhủ
lòng: Ðường đi một mình.
Lm. Nguyễn Tầm Thường, sj.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
NGẬM ĐÁ TRONG MIỆNG |
Chắc bạn khó chịu khi nghĩ tới một miệng ngậm đầy đá sỏi; nhưng viên
đá ở trong miệng có thể cũng là điều mong muốn, có thể đúng với loài
chim sếu sống ở vùng núi Taurus miền nam Thổ Nhĩ kỳ.
Những con sếu này hay kêu ba hoa ầm ĩ, nhất là khi đang bay. Tiếng
ồn ào đó làm chim ưng chú ý, sà xuống bắt lấy chúng để ăn thịt.
Những con sếu kinh nghiệm thì tránh mối đe doạ này, bằng cách nhặt
đá lớn đủ để ngậm vào miệng. Nhờ vậy chúng không ba hoa ầm ĩ, và
không trở thành bữa ăn trưa cho loài chim ưng.
Đọc câu chuyện này làm tôi thấy mình hay bị sai lỗi và ân hận vì cái
miệng của mình. Sách Châm ngôn viết:
“Giữ mồm miệng là bảo toàn
mạng sống, khua môi múa mép ắt phải thiệt thân. (Cn 13,3) Ai lắm
mồm hay ăn nói lung tung sẽ gây nhiều đau khổ:
“Môi người ngu gây
ra tranh cãi, miệng của nó khiến nó chịu đòn. Miệng kẻ ngu làm cho
nó tàn tạ, mội của nó là cạm bẫy cho mình.” (Cn 18,6-7)
Biết bao hiểu lầm và rắc rối của tôi có thể được ngăn chặn, nếu tôi
biết kiềm chế miệng lưỡi! Biết bao cảnh đau lòng trong gia đình và
ngoài xã hội, tôi gây ra có thể tránh được; nếu tôi biết giữ gìn
miệng lưỡi của mình. Thánh Giacôbê nói: “Cái lưỡi là một ngọn
lửa, là cả một thế giới của sự ác. Cái lưỡi có một vị trí giữa các
bộ phận của thân thể ta, nó làm cho toàn thân bị ô nhiễm, đốt cháy
bánh xe cuộc đời, vì chính nó bị lửa hỏa ngục thiêu đốt.” (Gc 3,6)
Bạn và tôi có hay sai lỗi trong miệng lưỡi mình không? Nếu thấy lời
mình nói ra gây thiệt hại vật chất tinh thần cho người khác, làm họ
bực tức khó chịu, hận thù, âm thầm phải chịu, không muốn nhìn vào
mặt mình. Lúc này bạn phải cảnh giác, khiêm tốn cầu nguyện, xin lỗi,
sửa chữa, làm hoà ngay, để lâu, sẽ có hại cho mình đấy!
Nên nói ít thôi và cẩn thận trong lời nói! Hãy làm theo loài chim
sếu bỏ đá sỏi vào miệng, hay bằng một cách nào đó để giữ miệng.
Lời Chúa tôi ghi nhớ:
“GIỮ MỒM MIỆNG LÀ BẢO TOÀN MẠNG
SỐNG…” (Châm ngôn 13, 3)
Phó tế : GB Nguyễn Văn Định
* johndvn@yahoo.com
|
VỀ MỤC LỤC |
|
GIÁO HUẤN CỦA HỘI THÁNH
ĐỊA PHƯƠNG VỀ VIỆC ĐÀO TẠO THIÊNG LIÊNG |
Tác phẩm ĐÀO TẠO VÀ TỰ ĐÀO TẠO THIÊNG
LIÊNG CỦA CÁC LINH MỤC TƯƠNG LAI TRONG BỐI CẢNH VIỆT NAM NGÀY
NAY
Nguyên bản tiếng Anh
Lm. Micae-Phaolô TRẦN MINH HUY
Bản dịch Việt ngữ
Lm. Vincentê Trần Minh Thực, Lm. GB.
Nguyễn văn Hào
CHƯƠNG V
GIÁO HUẤN CỦA HỘI THÁNH
ĐỊA PHƯƠNG VỀ VIỆC ĐÀO TẠO THIÊNG LIÊNG
A. Phương Hướng Cụ Thể
của Liên Hội Đồng Giám Mục Á Châu (FABC)
Liên Hiệp Hội Đồng Giám Mục Á Châu áp dụng
giáo huấn của Hội Thánh hoàn cầu vào bối cảnh địa phương. Chiều
kích thiêng liêng phải được mang vào trong cuộc sống toàn diện
của mỗi người: Rao giảng Lời Chúa bằng cách sống Lời Chúa. Lãnh
đạo mà thiếu chứng tá về thánh thiện, khổ chế, và sự thống nhất
nhân vị là thiếu tính chân thực. Vì vậy, những nhiệm vụ chính
của việc đào tạo thiêng liêng được đưa ra: làm chứng cho Tin
Mừng qua lối sống giản dị, nghèo khó, độc thân, vâng phục, hiệp
thông, đối thoại và cầu nguyện.
1. Khuôn Mặt Á Châu của
Linh Mục
a. Chức Linh Mục Trung Tâm
của Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ
Chức linh mục của Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu
Độ là trung tâm. Công trình cứu độ nhân loại là công trình của
Một Chúa Ba Ngôi qua Chúa Giêsu Kitô và được tiếp tục trong Hội
Thánh dưới tác động của Chúa Thánh Thần. Linh mục tham dự vào
chức linh mục của Chúa Giêsu Kitô và cộng tác vào công trình cứu
độ của Ngài.
Vì vậy, việc đào tạo linh mục toàn diện,
đặc biệt là việc đào tạo thiêng liêng, nhắm làm cho linh mục
tương lai nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu Kitô, Linh Mục
Tối Cao. Nói cách khác, đào tạo linh mục nhắm làm cho chủng sinh
có khả năng hiểu biết, nội tâm hoá và sống chính con người, sứ
điệp và tầm nhìn của Chúa Giêsu, Đấng là cốt lõi của việc đào
tạo và là con tim của cuộc sống và sứ vụ của linh mục. Công
trình cứu độ này muốn giúp tất cả mọi người thoả mãn những khát
vọng sâu xa nhất và lòng khát khao sống mối tương quan trọn vẹn
với Một Thiên Chúa Ba Ngôi (Phúc Âm hoá), và xây dựng cộng đoàn
Hội Thánh (mục vụ). Để hoàn thành sứ mệnh và tác vụ này của Chúa
Giêsu, linh mục phải trung thành với ba tác vụ của Lời Chúa, Bí
Tích và Phục Vụ.114
b. Linh Mục, Người của Hội
Thánh
Để thực thi sứ mệnh và tác vụ của Chúa
Giêsu ở Á Châu, linh mục phải là người của Hội Thánh, nghĩa là
ngài phải đặt nền móng nơi Giáo Hội địa phương, có khả năng tạo
nên sự hiệp thông ngay trong các cộng đoàn Giáo Hội (các giáo
xứ, các nhóm canh tân, v.v…), mở ra để liên đới với các cộng
đoàn khác (các cộng đoàn giáo hội và tôn giáo khác, những người
thiện chí, những người nghèo). Là người của Hội Thánh như thế,
ứng sinh linh mục phải được đào tạo và tự đào tạo để trở nên một
con người thiêng thánh, một con người đối thoại (cả trong lẫn
ngoài Giáo Hội) và một con người khiêm tốn phục vụ.115
c. Cuộc Sống Và Vai
Trò Của Linh Mục Trong Bối Cảnh Á Châu
Theo PDV, có bốn chiều kích trong việc đào
tạo linh mục toàn diện (nhân bản, thiêng liêng, tri thức và mục
vụ). Bốn chiều kích này tuỳ thuộc lẫn nhau và cần được phối hợp
với nhau. Để nhận ra thừa tác vụ linh mục tại Á Châu hôm nay,
bốn chiều kích này cần được hội nhập văn hóa bằng tất cả tinh
thần và lối sống, chứ không chỉ bằng những hình thức bên ngoài.
Vì thế linh mục phải được giới thiệu như là một con người có
nhân cách chín chắn, một con người thánh thiêng, một con người
đối thoại, và một con người khiêm tốn phục vụ. Đặc biệt tại Á
Châu, con người thiêng thánh thật hết sức quan trọng. Trong
những tôn giáo khác ở Á Châu, sự thánh thiện được đánh giá rất
cao và những người thánh thiện được hết sức kính trọng.
Sự thánh thiện của linh mục gắn kết cách
nội tại với thừa tác vụ linh mục và triển nở nơi thừa tác vụ
linh mục. Nghĩa là, việc thi hành thừa tác vụ cách tận tuỵ làm
tăng triển sự thánh thiện, và sự thánh thiện lại làm thăng tiến
thừa tác vụ. Là tình yêu dành cho Thiên Chúa, sự thánh thiện này
nhất thiết phải hàm dưỡng tình yêu dành cho con người và thiên
nhiên. Tình yêu này được nuôi dưỡng nhờ cầu nguyện, nhờ suy niệm
sâu xa Lời Chúa, nhờ đời sống bí tích và phục vụ. Tiến trình đào
tạo cần đặt tiêu điểm nơi Chúa Kitô như là mô hình thánh thiện
cho linh mục. Các chủng sinh cũng cần những gương mẫu nhiệt tâm
và thánh thiện của linh mục nơi đội ngũ đào tạo. Để hướng dẫn
các chủng sinh hướng tới mức trưởng thành nhân bản và thiêng
liêng, thì sự tự do, kỷ luật và trách nhiệm phải đồng hành với
nhau.116
Trước sự đa dạng về tôn giáo và văn hoá tại
Á Châu, linh mục cần phát triển khả năng đối thoại lịch thiệp và
kính trọng với các tôn giáo khác và đại đa số những người không
Công giáo tại Á Châu. Do những khó khăn về kinh tế và xã hội của
mọi người, linh mục nên tiếp cận với họ như là một tôi tớ khiêm
tốn, quan tâm tới sự phát triển thực sự và thăng tiến con người,
với mối quan tâm đặc biệt dành cho người nghèo. Cuộc đối thoại
và phục vụ này phải mở ra cho công cuộc Phúc Âm hoá.117
2. Các Khía
Cạnh của Tiến Trình Đào Tạo
a. Kiểu Mẫu và Phương Pháp Đào
Tạo Ứng Viên
Kiểu mẫu và phương pháp đào tạo ứng viên
cần phải được nghiên cứu. Tiến trình đào tạo cần bao gồm việc
biện phân và tuyển lựa các ứng viên theo một số tiêu chuẩn. Họ
cần có những động lực thích hợp, những phẩm chất nhân bản phù
hợp và đời sống đức tin căn bản.118 Những phương pháp kỹ thuật
hiện đại, như là sự đánh giá về tâm lý học, có thể trợ giúp cho
tiến trình tuyển lựa. Tiến trình đào tạo cần hàm dưỡng đời sống
đức tin và ơn gọi cho các ứng viên. Việc đào tạo và tự đào tạo
cần được thu xếp trong một nhóm nhỏ, để cho sự hướng dẫn riêng
tư và mức trưởng thành nhân bản của các ứng viên được tăng
cường.
b. Phẩm Chất Thiết Yếu
của Người Đào Tạo
Việc tuyển lựa các nhà đào tạo cũng cần
được tiến hành theo một số tiêu chuẩn. Các ngài phải là những
con người thánh thiện với kinh nghiệm mục vụ và rao giảng Phúc
Âm hiệu quả, và có khả năng về trình độ học thuật. Những giáo
dân có khả năng cũng có thể được mời để họ cống hiến các ân huệ
Chúa ban cho tiến trình đào tạo ở chủng viện. Tất cả những người
có liên hệ với công việc huấn luyện ở chủng viện, cả giáo sĩ và
giáo dân, bao gồm những người cùng chủng sinh lo công tác mục
vụ, cần được xem như là thành phần của đội ngũ đào tạo.
Vị giám đốc và đội ngũ đào tạo trực tiếp
sát cánh với ngài có một vai trò quyết định trong việc tạo ra
một bầu khí bao gồm ý thức về sự thánh thiêng, về học vấn, về
đối thoại, và về phục vụ. Cần làm rõ chuyện này là không phải
bất cứ linh mục nào cũng có thể là nhà linh hướng hữu hiệu, vì
việc linh hướng không phải là một chức năng, nhưng là một nghệ
thuật.119
c. Cần Có Đường Lối Lượng
Định Hiệu Quả
Chủng viện không chỉ là một cơ chế hàn lâm.
Do đó, chủng viện cần thiết lập các phương tiện lượng định chủng
sinh. Các nhà đào tạo và chính các chủng sinh cần làm việc theo
phương cách hợp tác. Việc lượng định cần phải bao gồm mọi khía
cạnh của đời sống chủng viện: Nó phải toàn diện và đối xử với
chủng sinh theo một đường lối toàn bộ và thích đáng. Như thế,
việc lượng định phải do hội đồng và các giáo sư, chính chủng
sinh và nhóm anh em bạn thực hiện. Một số bản mẫu câu hỏi cũng
có thể thích hợp. Có lẽ một kỳ tĩnh tâm là cách tốt nhất để tiến
hành chuyện này. Sau cùng, đối với các chủng sinh đang lo phục
vụ nhiều người ở ngoài chủng viện, vị giám đốc cũng nên tham
khảo những người đó để họ cũng đánh giá về chủng sinh đó.
3. Đời Sống
Cầu Nguyện trong Việc Đào Tạo Thiêng Liêng cho Các Chủng Sinh
a. Ý Nghĩa Sống Còn của Cầu
Nguyện
Cầu nguyện là nguồn ánh sáng và nghị lực
xuất phát từ Chúa để làm sống động và nuôi dưỡng toàn bộ đời
sống và hoạt động của mỗi người và mỗi cộng đoàn, với ân huệ là
sự hiện diện của Chúa và việc làm của Chúa Thánh Thần trong lòng
người. Cầu nguyện làm cho con người có khả năng hướng về Thiên
Chúa và gọi Ngài là Cha với niềm tin tưởng. Cầu nguyện là quà
tặng Chúa ban và bám rễ sâu trong đức tin. Người ta cầu xin nhân
danh Chúa Giêsu, cầu xin Chúa Giêsu và cùng với Chúa Giêsu mà
cầu xin Chúa Cha, trong mối hiệp thông với Hội Thánh.
Thánh Thể, suối nguồn và tột đỉnh của việc
thờ phượng, là trung tâm của lời cầu nguyện Kitô giáo. Nơi Thánh
Thể, Chúa Giêsu tự hiến cho Chúa Cha và nhân loại, qua việc Ngài
chết và sống lại cho thế gian được sống. Bằng cách trao hiến
mạng sống vì chúng ta, Chúa Giêsu dạy chúng ta cũng trao hiến
mạng sống mình vì người khác (Ga 3,16). Nhờ ơn Thiên Chúa, kinh
nghiệm về sự hiện diện và hoạt động của Chúa Giêsu phải được
chúng ta tăng cường và đào sâu, và lòng chúng ta phải mở ra để
đón nhận dồi dào hoa trái của Chúa Thánh Thần: yêu thương, bình
an, tốt lành, dịu dàng (Gl 5,22).
b. Tương Tác Giữa Các Cách Thức
Cầu Nguyện Kitô Giáo và Á Châu
Việc đào tạo bằng cầu nguyện cho các ứng
viên linh mục theo các cách thức cầu nguyện và thờ phượng truyền
thống của Á Châu tìm được sự thích hợp và tầm quan trọng mang
tính sống còn: thống nhất cơ thể – tâm linh, nội tâm, nội tại,
các dạng chiêm niệm (Thiền, Yoga), khổ chế, các kiểu diễn tả đức
tin và lòng sùng đạo bình dân. Công việc đào tạo này phải vừa
đích thực Kitô giáo vừa đích thực Á Châu. Nó có thể làm cho ứng
viên trở thành người của Chúa và người cho kẻ khác, bằng việc
huấn luyện những người được trao phó cho họ đi vào con đường cầu
nguyện và trở lại với Chúa trong mọi biến cố thăng trầm của đời
sống hằng ngày.
Việc đào tạo như thế sẽ làm cho chủng sinh
quen thuộc với việc hội nhập văn hoá, bằng việc sử dụng tất cả
những gì là chân, thiện, mỹ trong các truyền thống và văn hoá Á
Châu (những tập tục, khôn ngoan, giáo huấn, nghệ thuật và các
khoa học) để chúc tụng Thiên Chúa và loan báo Tin Mừng. Thái độ
này sẽ trở nên thích hợp để tăng triển con người toàn diện trong
mối tương quan nhạy bén với người khác, đặc biệt là với người
nghèo, người bị áp bức và bị loại trừ (để nhìn bằng con mắt của
Chúa và yêu thương bằng con tim của Chúa). Đây là chứng tá hùng
hồn cho tình yêu Chúa và Nước Thiên Chúa. Tinh thần sẵn sàng và
cởi mở như thế chuẩn bị cho cuộc đối thoại vốn là một con đường
cấp bách để hiện diện và truyền giáo tại Á Châu.
B. Những Chỉ Thị và
Nguyên Tắc Chỉ Đạo của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam
Các Giám Mục Việt Nam cũng đã tỏ lòng lo
lắng và quan tâm ưu ái đối với việc đào tạo thiêng liêng cho các
chủng sinh thông qua các Thư Mục Vụ. Các ngài đã chọn thái độ
lắng nghe và nỗ lực hiểu biết Dân Chúa trong hoàn cảnh mới, chú
tâm đào tạo đúng theo những định hướng của Công Đồng Vaticanô
II, đi vào thế giới đương đại bằng cách làm chứng tá cho giá trị
Tin Mừng giữa những thực tại trần thế của đất nước và của dân
chúng. Các ngài cố gắng hiểu biết những điều kiện của người khác
và kêu gọi canh tân Giáo Hội địa phương qua cầu nguyện và các bí
tích.
Trong Thư Mục Vụ 1976, các ngài kêu gọi Dân
Chúa sống đức tin một cách tích cực bằng cách dấn thân phục vụ
với tấm lòng cởi mở, khiêm tốn, cộng tác nhằm đến hạnh phúc của
mọi người, theo mẫu gương của Chúa Kitô nhập thể, qua đường lối
đối thoại và cộng tác, vượt qua khác biệt giữa Công giáo và Cộng
sản,121 đề cao giá trị của lao động.122 Các ngài nhắc nhở các
linh mục và chủng sinh hình ảnh Chúa Kitô, căn tính của linh
mục:123 như là những thừa tác viên của Lời Chúa và các Bí Tích,
đặc biệt là Thánh Thể, lòng khiêm tốn và vâng phục, luôn hoán
cải và canh tân đời sống theo thánh ý Thiên Chúa, trong tình
hiệp thông và liên đới.
Trong Thư Mục Vụ 1980, các Giám Mục Việt
Nam đã nhấn mạnh định hướng mục vụ: sống gần gũi với Chúa Giêsu
và hiệp thông với Hội Thánh Hoàn Cầu, gắn bó với Đức Giáo Hoàng
và với nhau như cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi và trung thành với
tinh thần Công Đồng Vaticanô II. Điều này đòi hỏi một sự hoán
cải lương tâm liên tục và thay đổi đời sống cho phù hợp với Tin
Mừng, bằng cách lắng nghe Lời Chúa và đón nhận các bí tích, kiên
trì cầu nguyện và kiểm điểm đời sống mình một cách chân
thành.124 Các ngài kêu gọi người Công giáo “sống Phúc Âm giữa
lòng dân tộc với tinh thần phục vụ hạnh phúc của mọi người.”125
Các ngài đặc biệt nhắc nhở các linh mục luôn tìm kiếm ý Chúa qua
việc loan báo Tin Mừng và cử hành các bí tích để xây dựng Hội
Thánh, và làm cho Chúa Kitô hiện diện giữa các tín hữu bằng tinh
thần phục vụ khiêm tốn và chuyên cần trong mối hiệp nhất với
Giám Mục của mình.
Với Thư Mục Vụ 1989, các ngài thúc giục
người Công giáo về sứ mệnh truyền giáo, đáp lại lời kêu gọi của
Đức Giáo Hoàng về tân Phúc Âm hoá bằng cách chia sẻ niềm vui và
hy vọng, đau khổ và buồn sầu với đồng bào,126 và bằng cách xây
dựng một cuộc sống hoàn hảo (Pl 4,8). Các ngài phó thác việc này
cho Trái Tim Vẹn Sạch Mẹ Maria.
Về các linh mục và việc đào tạo linh mục,
Thư Mục Vụ 1998 nhắc nhở rằng các Kitô hữu cần có những mục tử
nhiệt thành và người hướng dẫn thiêng liêng; rằng gương mẫu bản
thân của các nhà đào tạo có một vai trò then chốt trong tiến
trình đào tạo.127 Với ước mong rằng các ơn gọi tu sĩ và linh mục
luôn được chăm sóc và nuôi dưỡng, các Giám Mục Việt Nam nhắc nhở
các linh mục về cả hai sứ mệnh đồng thời là loan báo Tin Mừng và
canh tân Giáo Hội, củng cố lòng tin và căn tính Kitô hữu, bởi vì
một khi được chia sẻ, đức tin sẽ còn tiến xa hơn và tự củng cố
chính mình.128
Các Giám Mục Việt Nam nhấn mạnh đến các yếu
tố canh tân đời sống thiêng liêng trong Thư Mục Vụ 2001: Lời
Chúa, các Bí Tích và đời sống cầu nguyện là những cách thức hiệu
quả có khả năng tự canh tân. Mối hiệp thông sâu xa với Thiên
Chúa cũng sẽ tẩy sạch nơi chúng ta lòng ích kỷ và cho chúng ta
sức mạnh để quảng đại phục vụ người khác, theo mẫu gương của
Chúa Giêsu Kitô.
Trong Thư Mục Vụ 2003, các ngài thúc giục
người Công giáo loan báo Tin Mừng qua cầu nguyện, qua chứng tá
đời sống và đối thoại với người không Công giáo, bằng cầu
nguyện, thăm viếng, cùng làm việc và chia sẻ những của cải vật
chất. Những đường lối loan báo Tin Mừng / Truyền Giáo được rút
ra từ nguồn sống của Chúa Ba Ngôi, theo gương Chúa Giêsu Kitô,
trung thành với truyền thống của Giáo Hội tiên khởi và vâng nghe
giáo huấn của Hội Thánh.
Và mới đây trong Thư Mục Vụ 2004, các ngài
tập trung vào tâm điểm và tột đỉnh của đời sống thiêng liêng:
Chúa Giêsu Thánh Thể. Các ngài nhấn mạnh rằng chức linh mục thừa
tác có cội nguồn từ Thánh Thể và dẫn đưa tới Thánh Thể. Các linh
mục phải làm chứng về lòng tin, lòng sùng kính và yêu mến đối
với Thánh Thể. Điều này diễn tả qua cách thức cử hành, cầu
nguyện trước Thánh Thể và mang Thánh Thể tới cho người bệnh.
Lòng sùng kính Thánh Thể là suối nguồn phong phú dồi dào cho đời
sống và thừa tác vụ linh mục130 Các ngài mời gọi các linh mục
nhìn lại việc cử hành phụng vụ của mình và thúc giục các linh
mục cử hành bằng lòng sùng mộ theo đúng qui tắc phụng vụ. Đồng
thời các ngài đề nghị dành một vị trí đặc biệt cho việc viếng
Thánh Thể,131 ta sẽ tìm được nguồn trợ lực và an ủi như lời Chúa
Giêsu đã nói (x. Mt 11,28). Đó là lý do tại sao Đức Giáo Hoàng
Gioan Phaolô II khuyên dành thời gian với Chúa Giêsu hiện diện
dưới hình bánh rượu nơi Thánh Thể: “Biết bao lần tôi đã cảm
nghiệm điều này, và rút được từ đó sức mạnh, nguồn an ủi và nâng
đỡ.”
Tóm lại, từng bước một, ta luôn nhắm mục
đích giúp các ứng viên lớn lên không ngừng và tiệm tiến trong
mối tương quan cá nhân với Chúa Giêsu Kitô và trong việc họ cam
kết dấn thân cho Hội Thánh. Nghĩa là giúp họ thiết lập nên những
thái độ, thói quen, và cách thực hành đời sống thiêng liêng mà
họ sẽ tiếp tục duy trì sau khi chịu chức.
còn tiếp |
VỀ MỤC LỤC |
|
Chăm Sóc Cha Mẹ Gìa |
Câu Chuyện Thầy Lang
Bác sĩ Nguyễn Ý-ĐỨC
Nhân ngày “Từ Phụ”, chúng tôi xin cùng
quý thân hữu đi vào một vấn đề có tính cách gia đình. Vì nhìn
gần xa, thấy các vị đàn anh và một số bạn đồng tuế đang từ từ
vướng mắc. Và con cháu cũng rất ưu tư suy nghĩ.
Đang ngồi họp, Vân được cho hay có điện
thoại khẩn cấp. Chị vội đứng lên, về phòng. Bà hàng xóm nơi mẹ
Vân ở, cho hay bà cụ vừa được đưa vào nhà thương. Bà cụ té ngã.
Vân vào cáo lỗi với ông chủ rồi vào bệnh viện thăm mẹ.
Trên đường đi, nàng dùng điện thoại di động
báo cho Huân, chồng nàng hay. Huân hiện đang đi công tác ở miền
Trung, tuần sau mới về. Rồi suốt mười lăm phút lái xe, nàng suy
nghĩ mung lung, với nhiều lo âu, bối rối. Sự việc mà nàng nghĩ
trước sau gì cũng xẩy ra thì bây giờ nó đã đến, hơi sớm một
chút.
Sau khi ba Vân mất cách đây dăm năm, mẹ Vân
dọn về ở với vợ chồng nàng. Qua một thời kỳ thích nghi với hoàn
cảnh mới, nếp sống mới của người góa phụ, bà cụ dọn ra ở riêng.
Cụ tới khu người già trong khuôn viên chùa
Linh Sơn. Cụ nói lên đây ở đi lễ bái cho gần, lại có mấy cụ già
luẩn quẩn với nhau cho vui. Nhất là có hai người bạn học từ thuở
xưa, mà họ thường hay liên lạc chuyện trò.
Khu người già được lập ra từ hơn mười năm,
có 40 phòng, dành cho các cụ độc thân, còn đủ sức khỏe, đi lại
được, còn tự chăm sóc ăn uống, giặt giũ. Các cụ sống hợp quần
với nhau rất vui. Ngày ngày các cụ lên chùa lễ bái, tụng kinh
rồi làm công quả. Lâu lâu nhà chùa tổ chức đi thăm viếng đây đó
hoặc đi lễ hội chùa tỉnh khác. Đôi khi trời mưa, các cụ ở nhà rủ
nhau làm vài hội chắn để tiêu khiển, giải trí..
Nhưng từ trong thâm tâm thì cụ không muốn
phiền con cháu quá lâu. Từ trước tới nay cụ là người rất hoạt
động, phải nói là đảm đang nữa. Cùng chồng, cụ đã nuôi nấng, gây
dựng cho sáu mặt con. Cháu nội ngoai các cụ có hơn một tá.
Mọi việc xuôi sẻ cho đến ngày hôm nay.
Thực ra thì từ năm ngoái, cụ đã không được
khỏe lắm. Huyết áp lên cao, các khớp xương thì mỗi khi trái gió,
trở trời là đau nhức, khiến cụ mất ngủ. Có đêm, cụ chỉ ngủ được
có vài ba giờ, nên ban ngày mệt và hay kêu chóng mặt.
Cách đây ba tuần cụ phải nằm bệnh viện mất
mươi ngày vì sưng phổi. Sau khi xuất viện, vợ chồng Vân muốn mời
cụ về ở chung một thời gian cho khỏe nhưng cụ một mực từ chối,
nói không sao. Vân đã cho anh chị em biết về tình trạng của cụ
và mọi người định là tháng tới sẽ về để cùng thảo luận coi nên
làm gì.
Tơi nhà thương, Vân được cô y tá cho hay tự
sự. Số là sáng nay, mấy ông bà hàng xóm sang rủ cụ lên chùa tụng
niệm, như lệ thường. Gõ cửa không ai có tiếng trả lời, một lão
ông bèn đẩy cửa bước vào. thấy mẹ Vân nằm phục dưới đất, cạnh
bàn điện thoại, nét mặt nhăn nhó. Cụ sửa soạn lên chùa thì bị
một cơn chóng mặt, xỉu đi và ngã xuống nền nhà. Cụ cố với tới
điện thoai để kêu cứu, nhưng đau quá, không lết thêm được.
Bác sĩ đã khám, chụp hình thì thấy cụ bị
gẫy xương hông. Cụ hiện đang nằm trong phòng cấp cứu. Bác sĩ chờ
thân nhân tới để thảo luận vì cụ cần được giải phẫu ngay.
Vân vào phòng, thấy mẹ nằm thiu thiu mà
nước mắt trào ra. Da mặt bà cụ xanh nhợt, vẫn còn phảng phất nét
đau đớn. Vân nhẹ nhàng ngồi xuống ghế, để mẹ tiếp tục ngủ. Nhìn
mẹ mà lòng vân bối rối. Cả trăm vấn đề hiện lên trong đầu Vân.
Sau giải phẫu, mẹ sẽ ra sao? Liệu có đi lại được không? Huyết áp
cao, bệnh phong thấp hoành hành, lại mất ngủ thì sức khỏe chắc
là phải sa sút.
Mấy tháng trước, khi vợ chồng Vân đến
thăm, thấy cụ cứ than là ăn không ngon miệng, nên đôi khi chẳng
thèm nấu cơm, mà chỉ uống ly sữa cho khỏi đói bụng. Coi tủ lạnh,
Vân thấy mấy món ăn thiu đã lên men. Vào buồng tắm thấy nước vặn
bỏ quên không khóa. Vợ chồng Vân đã lo ngại...
Rồi Vân nghĩ tới hoàn cảnh của mình.
Trong sáu người con, Vân là người duy nhất
ở gần mẹ. Mà bà cụ vẫn có cảm tình đặc biệt với Vân, nên trước
sau cụ vẫn nói là mai mốt nếu cần “tao chỉ ở với vợ chồng con
Vân thôi. Nó bướng bỉnh nhưng có lòng”.
Vợ chồng Vân được hai trai một gái đã vào
đại học nên cũng nhẹ gánh. Vân mới được lên chức và trong tương
lai gần, sở sẽ cho nàng đi học thêm để lấy bằng chuyên môn. Vân
đã sắp xếp như vậy cho mình. Chồng nàng thì cứ vài tháng phải đi
công tác xa mươi ngày.
Bây giờ, cơ sự sẩy ra như thế này, mọi dự
tính của Vân đều phải xét lại. Để chờ cụ giải phẫu xong rồi tuần
sau anh chị em về sẽ tính. Nhưng Vân có linh tính rằng nàng sẽ
là người đứng mũi chịu sào. Mẹ mình vẫn muốn vậy, nàng tự nhủ...
Bà cụ chợt tỉnh giấc, mở mắt. Nhìn thấy
Vân, Cụ gượng cười. Và trong đôi mắt của mẹ, Vân đọc thấy những
nét thất vọng, sợ hãi, chịu thua...
Trường hợp của chị Vân là một trong cả trăm
ngàn trường hợp tương tự.
Tuổi thọ con người kéo dài lâu hơn. Số
những người cao tuổi mỗi ngày mỗi gia tăng. Sức khỏe người già
có khá hơn nhờ các cụ biết giữ gìn nếp sống cũng như được cung
cấp dịch vụ y tế, thuốc men đầy đủ.
Nhưng một cơ thể lâu đời vẫn có những thay
đổi tự nhiên theo chiều đi xuống cộng thêm những bệnh kinh niên,
những tai nạn bất ngờ, với hồi phục chậm chạp. Biết bao nhiêu
mất mát đã chồng chất lên niên kỷ, những xói mòn làm mong manh
thân xác.
Dù vậy nhiều người già vẫn gắng gượng tự
lo, chưa muốn phụ thuộc vào các con. Họ cũng có những kiêu hãnh
riêng tư, những niềm tự trọng, đôi khi cũng chỉ e ngại “cảnh cha
mẹ nuôi con như trời như bể, con nuôi cha mẹ con kể từng ngày ”.
Nhưng sức gắng gượng chỉ có hạn, rồi một ngày nào đó cũng yếu
đi. Như căn nhà tranh trước gió bão, cần được chống đỡ.
Và cũng là lúc con cái phải suy nghĩ, xem
ai sẽ là người lãnh trách nhiệm. Chắc phải là người có thiện
chí, có điều kiện, khả năng và hoàn cảnh thuận tiện.
Phục vụ thân nhân cao tuổi là một vinh dự
cho con cái đồng thời cũng là vấn đề quan trọng của nhiều xã hội
hiện nay, khi mà người đàn bà phải xông pha kiếm cơm toàn thời
gian. Nó ảnh hưởng dây chuyền tới nhiều lãnh vực khác. Sẽ có
nhiều người vắng mặt ở sở hoặc đi làm trễ; sẽ có dùng nhiều điên
thoại để lấy hẹn bác sĩ, gọi mua thuốc. Nhiều nhân viên tới sở
than phiền mỏi mệt mất ngủ. Tai nạn tại chỗ dễ sẩy ra. Thay đổi
việc làm nhiều hơn. Và số người bị trầm cảm, đau ốm sẽ gia tăng.
Trong thực tế thì có rất ít gia đình đã sửa
soạn sẵn để giải quyết việc chăm sóc cha mẹ khi về già. Nhiều
việc xẩy đến bất thường, đòi hỏi có quyết định ngay.
Ông bố đang có sức khỏe tốt, đột nhiên bị
tai biến não, liệt nửa thân, nằm bất động cần giúp đỡ với nhu
cầu căn bản, thiết yếu hàng ngày: ăn uống, tắm rửa, đại tiểu
tiện, cho uống thuốc... Con dâu đang vừa đi làm vừa trông nom bà
mẹ chồng, giờ đây con dâu cũng thường đau ốm. Ai là người sẽ
lãnh trách nhiệm săn sóc ông bố ? Ai sẽ tiếp tay với mình trông
nom mẹ chồng?
Theo kinh nghiệm thì dù có nhiều anh chị
em, nhưng trách nhiệm chăm sóc không đồng đều chia sẻ khi bố mẹ
cần. Có thể là người con gái lớn với cả một bầy con hoặc cô út
chưa đi ở riêng, hoặc nàng dâu nhà ở gần bố mẹ. Đôi khi là cậu
con trai cưng, Nhưng thường ra thì chỉ có một người đóng vai
chính, thường xuyên.
Nói như vậy không có nghĩa lã không có chia
sẻ về tài chánh, về công việc chăm sóc mà qua người này mọi việc
được giáo phó, phối hợp và thông báo cho người khác khi cần. Một
tiểu gia đình cộng thêm hai cụ thân sinh. Thế hệ người chăm nuôi
được ví như thế hệ của một chiếc “ bánh mì kẹp chả” , với trách
nhiệm làm cha mẹ, bổn phận làm con và đời sống riêng tư của
mình.
Nói đến người săn sóc thường thường là ta
nghĩ đến vai trò của người phụ nữ: con gái, con dâu, chị em,
cháu. Cũng chẳng ai hiểu tại sao. Có lẽ đó là thiên chức của họ
sinh ra với những nét dịu dàng, nhậy cảm, những quan tâm, linh
động, nhất là đức tính hy sinh, thông cảm để chăm sóc chồng con,
bố mẹ. Điều đó cũng đúng vì việc tề gia nội trợ, việc chăm sóc
nâng niu thì làm mà sao qua khỏi tay các bà được.
Cho nên khi một bà cụ khoe “tôi ở với con
trai ” thì thực ra phải hiểu là bà cụ đang ở với con dâu mới
công bằng, chính xác. Đàn ông cũng làm được công việc đó nhưng
tổng quát hơn, sắp đặt nhiều hơn là đi vào chi tiết. Mà những
chi tiết mới là điều mà người phụ thuộc cần và quan trọng đối
với họ.
Người đàn bà có chín tháng mười ngày sửa
soạn để đón chào đứa con ra đời, nhưng họ không có một phần mười
thời gian đó để sẵn sàng cho trách nhiệm nuôi cha nuôi mẹ .Vì sự
việc xẩy ra không lường trước.
Vả lại, nuôi con là thấy mỗi ngày nó vươn
ra khỏi vòng phụ thuộc, còn nuôi bố mẹ già thì nhu cầu giúp đỡ
mỗi ngày mỗi tăng, mỗi đi sâu vào sự lệ thuộc. Nhiều người như
bơi lội quay cuồng trong vai trò mới của mình. Kinh nghiệm chưa
có, làm sao học được cách thức điều dưỡng trong vài ngày. Tài
chánh giới hạn. Sức khỏe kém. Công việc trở ngại. Ngoài việc làm
kiếm gạo, mỗi ngày cũng phải dành ra vài giờ cho việc săn sóc.
Họ cảm thấy cô đơn, buồn chán, nhiều khi bực bội, bất mãn, tuyệt
vọng. Không còn riêng tư cho mình. Tương lai như ngưng lại. Họ
mủi lòng cho người thân, người mà bạn đường đã sớm bỏ ra đi, sức
khỏe đang hao mòn và biết rằng đang là gánh nặng cho con cháu.
Tình nghĩa gia đình, lòng hiếu thảo, mặc
cảm chịu ơn là những hỗ trợ để người chăm sóc tiếp tục. Họ nghĩ
là có bổn phận phải chăm sóc cha mẹ như cha mẹ đã nuôi nấng,
trìu mến họ.
Nhưng dù có cứng nhưng cũng có ngày ngả
nghiêng trước gió táp. Những chia xẻ trách nhiệm, những giúp đỡ
từ anh chị em, thân nhân đã tới lúc cần có vì việc chăm sóc là
trách nhiệm chung của cả gia đình.
Thường thì một người tình nguyện chăm sóc
thường xuyên. Còn người khác phụ giúp khi được yêu cầu hay khi
có cơ hội thuận tiện. Sắp xếp sao để tránh khỏi một người bị
kiệt sức. Hoặc đưa tới bất hòa giữa anh chị em. Một người mẹ có
thể chăm sóc cả bầy con mười đứa, nhưng khi mẹ già thì mười đứa
con không chăm sóc được một mẹ. Kể cũng éo le, tội nghiệp.
Sau một thời gian cố gắng, người chăm nom
bắt đầu có những dấu hiệu khó khăn. Đôi khi họ cố tình gạt bỏ
những nhu cầu riêng, quên những đau ốm cá nhân để lo cho người
thân yêu. Có người từ chối sự tiếp tay của anh chị em hoặc
bạn bè, nhóm hội. Họ cứ nghĩ có đủ sức làm mọi việc và nếu nhận
sự tiếp tay là thú nhận thất bại, kém khả năng. Có người cho là
chỉ có mình mới chăm sóc chu đáo, không tin ở người khác.
Để rồi kiệt sức, ngã bệnh. Thử tưởng tượng
một người không có sức khỏe dồi dào, săn sóc một người không
khỏe lắm, thì chắc kết quả cũng chẳng được mấy hoàn hảo, như ý
muốn của đôi bên.
Theo mấy ông bà thống kê thì người cống
hiến chăm sóc bị ba lần trầm cảm, bốn lần bực bội, cau có hơn
người nhận. Họ bất mãn vì đã cố gắng hết mình mà tình trạng
người thân mỗi ngày mỗi suy kém, nên họ phải cố gắng hơn trong
việc chăm sóc. Họ có cảm tưởng như mình là người duy nhất có thể
trông nom chu đáo được cho người thân, luôn luôn e ngại rằng sự
săn sóc của anh chị em sẽ làm cha mẹ già suy yếu hơn.
Đôi khi họ thấy không có được một thì giờ
dành cho mình, một chút riêng tư với chồng con. Rồi tính tình
thay đổi, hay cau có, bực tức, giận dỗi vu vơ; cảm thấy khó chịu
với người mình đang trông nom, đã chẳng chịu hợp tác lại còn
bướng bỉnh, đòi hỏi.
Lâu lâu họ thấy trong người mệt mỏi, ngủ
không được. Nhiều sáng họ sợ không dám thức dậy, sợ phải đương
đầu với những thường lệ mỗi ngày lại diễn ra.
Ngoài ra, dịch vụ chăm sóc cũng gây trở
ngại cho công việc làm ăn, cho đời sống giao tế hàng ngày. Và
đôi khi họ không còn thấy vui vẻ kiêu hãnh về trách nhiệm của
mình, hoặc cảm thấy tội lỗi về những ý nghĩ không tốt của mình
đối với người thân.
Rồi một lúc nào đó ngã bệnh, buông xuôi...
...Để tiếp tục chăm lo cho mẹ, Vân đã dành
cho bản thân chị một vài chăm sóc, nhân nhượng. Vân đã như nghe
thấy từng thớ thịt kêu gào với Vân, cho tôi nghỉ chút xíu chứ,
bạn đã sử dụng quá sức lao động của tôi để phục vụ bà cụ rồi đó!
Vân đã sẵn sàng, dễ dãi tiếp nhận sự giúp
đỡ của anh chị em.
Cô Lan ơi, tuần sau lên đón mẹ về với em,
đỡ hộ chị mươi ngày nhé, anh chị định đi xả hơi ngoài biển. Anh
Hoan ơi, bác sĩ nói mẹ cần uống thêm sữa đậu nành, hay là anh
nói với chị làm hộ em mỗi tuần vài lít nhé.
Chị đã xen kẽ xả hơi và chăm sóc để duy trì
sinh lực, lấy lại nhiệt tâm.
Dạo này Vân để ý đến ăn uống đầy đủ dinh
dưỡng hơn. Ngày nào chị cũng dành 15 phút để vận động cơ thể.
Nàng lo nhất là bị rối loạn giấc ngủ. Ban
đêm nhiều khi Vân phải thức dậy giúp đưa mẹ vào phòng tắm, lấy
miếng nước, viên thuốc cho mẹ. Vân biết là mất ngủ sẽ mau đưa
tới mọi tiêu hao tinh thần thể xác.
Chị cũng đã nghĩ đến một ngày nào đó phải
cần đến sự giúp đỡ của vài tổ chức trong cộng đồng tôn giáo, xã
hội, những nhóm hỗ trợ tư nhân.
Nhưng quan trọng nhất vẫn là nói chuyện với
anh chị em. Để phân chia công việc săn sóc, phụng dưỡng người mẹ
cô đơn được chu đáo trong những năm tháng còn lại của Mẹ...
Vì “ Mẹ già như chuối chín cây”. Rụng lúc
nào, không biết.
Cũng như Cha đã về nguồn cách đây mấy năm.
Bác sĩ Nguyễn Ý-ĐỨC
Texas- Hoa Kỳ |
VỀ MỤC LỤC |
|
- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến,
bài vở..., xin gởi về địa chỉ
giaosivietnam@gmail.com
- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục
vụ của Giáo sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các
Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn
gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực
Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh
vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức
Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và
Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quí vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại
www.conggiaovietnam.net
Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị
Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã
sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác
nhau.
TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca
Phạm Quốc Sử
USA
|
|
*************
|
|