Sắc Lệnh về Canh Tân Thích Nghi Đời Sống
Dòng Tu (tiếp theo) |
Nhờ khấn giữ đức
vâng lời, các tu sĩ tận hiến ý muốn mình như của lễ bản thân
dâng lên Thiên Chúa, nhờ đó, được kết hợp với ý muốn cứu rỗi của
Ngài cách kiên trì và chắc chắn hơn. Vậy, theo gương Chúa Kitô,
Đấng đã đến để làm theo ý Chúa Cha (x. Gio 4, 34; 5, 30; Dth 10,
7; Tv 39, 9) “tự nhận thân phận tôi tớ” (Ph 2, 7) và đã học tập
đức vâng lòi với những điều phải chịu đựng (x. Dth 5, 8), các tu
sĩ, được Chúa Thánh Thần thúc đẩy, lấy đức tin tùng phục các vị
Bề Trên, đại diện Thiên Chúa, và nhờ các ngài hướng dẫn, họ phục
vụ mọi anh em trong Chúa Kitô, như chính Chúa Kitô, vì tuân phục
Chúa Cha đã phục vụ anh em va hiến mạng sống để cứu chuộc mọi
người (x. Mt 20, 28; Gio 10, 14 - 18). Như thế, họ được liên kết
chặt chẽ hơn với sứ mệnh phục vụ của Giáo hội và nỗ lực đạt đến
mức tuổi sung mãn của Chúa Kitô (x. Eph 4, l3).
Vậy các tu sĩ
hãy khiêm tốn vâng phục Bề Trên của mình theo tiêu chuẩn qui
luật và hiến chương, trong tinh thần tin kính và yêu mến đối với
thánh ý Chúa, dùng tất cả năng lực trí tuệ, ý muốn cũng như năng
khiếu và ơn Chúa ban để thi hành các giới lệnh và chu toàn những
phận vụ đã được ủy thác cho mình, vì biết mình đang góp công xây
dựng Thân Thể Chúa Kitô theo như ý định Thiên Chúa. Như thế, đức
vâng lời trong đời tu trì chẳng những đã không giảm bớt phẩm
giá, nhưng còn giúp nhân vị trưởng thành nhờ phát triển tự do
của con cái Thiên Chúa.
Các vị Bề Trên
sẽ phải trả lẽ về các linh hồn đã được ủy thác cho mình (x: Dth
13, 17), nên hãy ngoan ngoãn tuân hành thánh ý Chúa khi chu toàn
bổn phận và hãy thi hành quyền bính trong tinh thần phục vụ anh
em, làm sao để minh chứng được mối tình Thiên Chúa đã yêu họ.
Với lòng kính trọng nhân vị, các ngài hãy cai quản những kẻ
thuộc quyền như là những con cái Thiên Chúa bằng cách phát triển
sự vâng phục tự nguyện. Phải đặc biệt để cho họ được tự do cần
thiết trong việc xưng tội và linh hướng. Hãy hướng dẫn các tu sĩ
biết cộng tác với tinh thần vâng lời tích cực và trách nhiệm,
trong những bổn phận phải chu toàn và những sáng kiến cần có.
Nên các Bề Trên hãy sẵn sàng lắng nghe các tu sĩ và khuyến khích
họ cộng tác mưu lợi ích của hội dòng và của Giáo Hội, tuy nhiên
vẫn phải duy trì quyền ấn định và truyền dạy những gì phải làm.
Các tu nghị và
các hội đồng phải trung thành chu toàn bổn phận quản trị đã được
ủy thác và tùy theo cách thức riêng mà phản ảnh sự tham gia và
lo âu của mọi tu sĩ đối với lợi ích của toàn thể cộng đoàn.
còn tiếp
|
VỀ MỤC LỤC |
|
LINH MỤC: HIỂU, SỐNG VÀ GIẢNG LỜI
CHÚA |
Như chúng ta đã trình bày : Đối với các
Kitô hữu và nhất là đối với các linh mục, cuốn sách “gối đầu
giường”, cuốn sách quan trọng nhất phải là cuốn Thánh Kinh.
Thực vậy, Thánh Kinh chính là chúc thư của
Thiên Chúa, chính là cuốn sách bởi trời, qua đó Thiên Chúa nói
với chúng ta và gửi đến cho chúng ta những chân lý, những sứ
điệp soi dẫn cho đời sống tôn giáo cũng như luân lý.
Suốt hai ngàn năm qua, Thánh Kinh đã tạo
được một ảnh hưởng sâu đậm hơn bất kỳ một cuốn sách nào khác. Và
cho tới ngày hôm nay, Thánh Kinh vẫn còn là một cuốn sách được
in nhiều nhất, được bán nhiều nhất và được đọc nhiều nhất.
Năm 1978, số sách Kinh Thánh được bán là
163 triệu cuốn. Năm 1987 là 200 triệu cuốn. Vậy chúng ta có bổn
phận nào đối với Thánh Kinh, hay nói cách khác, chúng ta có bổn
phận nào đối với lời Chúa ?
I- HIỂU LỜI CHÚA
Một trong những khác biệt căn bản giữa
người Công giáo và anh em Tin lành, đó là vấn đề Thánh Kinh.
Thực vậy, anh em Tin lành cho rằng Thánh
Kinh có một giá trị tuyệt đối, làm nền tảng cho đức tin, đồng
thời mỗi người tín hữu đều có thể cắt nghĩa Thánh Kinh dưới sự
soi dẫn của Chúa Thánh Thần, mà chẳng cần đến một quyền huấn nào
cả.
Có lẽ vì để phản bác lại những lập trường
sai lạc của anh em Tin lành, mà trong một thời gian dài Thánh
Kinh đã bị sao lãng phần nào nơi Hội Thánh Công Giáo. Nếu so
sánh với các mục sư và các anh em Tin lành về phương diện Thánh
Kinh, chúng ta phải thành thật thú nhận rằng mình đã thua…một
bàn trông thấy.
Rất may công đồng Vaticanô II đã đặt lại
tầm mức quan trọng của Thánh Kinh trong lòng Giáo hội.
Trước hết, công đồng xác định Giáo hội phải
“cố gắng hiểu biết Thánh Kinh ngày càng sâu rộng hơn, hầu không
ngừng lấy lời Chúa nuôi dưỡng con cái mình”. (MK 23).
Công đồng đòi buộc các đấng bản quyền “phải
mở rộng lối vào Thánh Kinh cho các tín hữu”. (MK 22).
Đồng thời khuyến khích việc nghiên cứu
Thánh Kinh :
“Phần các nhà chú giải Thánh Kinh Công giáo
và những người chuyên về Thần học thánh phải ân cần lo lắng,
dưới sự trông nom của Quyền Giáo huấn thánh, và dùng những
phương thế thích hợp, để nghiên cứu và trình bày Thánh Kinh, hầu
cung ứng nhiều thừa tác viên lời Chúa hết sức có thể, nhờ đó
lương thực Thánh Kinh được ban bố dồi dào cho dân Chúa”. (MK
23).
Công đồng cũng nhận định rằng việc nghiên
cứu Thánh Kinh phải là linh hồn của khoa thần học và khoa thần
học phải dựa trên Thánh Kinh, như trên một nền tảng vững chắc,
nhờ đó mà được củng cố và được trẻ trung, bởi vì Thánh Kinh chứa
đựng lời Chúa và thực sự là lời của Chúa vì được linh ứng. (MK
24).
Trong phạm vi cá nhân, hẳn rằng mỗi người
chúng ta đều đã có một hay nhiều cuốn Thánh Kinh. Vì thế, việc
cần phải làm ngay đó là hãy cầm lấy và đọc. Đây cũng là điều
công đồng tha thiết và đặc biệt khuyến khích các tín hữu và cách
riêng các linh mục và tu sĩ hãy siêng năng đọc Thánh Kinh, để
học biết khoa học siêu việt của Đức Kitô, bởi vì không biết
Thánh Kinh là không biết Đức Kitô. Thế nhưng, chúng ta phải dọc
Thánh Kinh như thế nào ?
Kinh nghiệm cho thấy có nhiều cách đọc khác
nhau.
Cách thứ nhất là đọc phớt qua theo kiểu
cưỡi ngựa xem hoa. Từ khi có internet đến giờ, thú thực đôi lúc
tôi cũng mắc phải tật xấu này. Do lượng thông tin quá nhiều, mà
thời giờ lại eo hẹp, thành thử tôi cảm thấy như tối tăm cà mặt
mũi, nhất là khi phải vắng nhà dăm ba bữa. Vì thế, có những tài
liệu tôi chỉ liếc qua từ đầu trang đến cuối trang, hay chỉ đọc
những tựa đề, rồi chọn lựa những gì cần, thì sẽ đọc kỹ hơn, bằng
không thì sẽ xóa bỏ đi.
Cách thứ hai là đọc để giải trí như khi đọc
một cuốn truyện hay một cuốn tiểu thuyết. Cắm đầu cắm cổ đọc một
lèo từ đầu đến cuối, chẳng cần phải suy nghĩ và cũng chẳng càn
phải ghi chú. Thậm chí có khi đọc ngày không đủ còn tranh thủ
đọc cả ban đêm, có khi đọc bỏ cả ăn và quên cả uống. Xong xuôi,
gấp sách lại và thở phào nhẹ nhõm.
Cách thứ ba là đọc để học hỏi. Cách đọc này
có phần nghiêm túc hơn. Đọc một cách chăm chú đã đành, mà tay
còn phải lăm le cầm lấy cây bút. Chỗ nào hay thì gạch ở dưới. Tư
tưởng nào đẹp thì ghi vào một cuốn vở để tiện bề tra cứu. Đọc
xong lại còn phải suy nghĩ và đánh giá xem tác giả nói đúng hay
sai. Nếu đúng thì đúng ở chỗ nào, còn nếu sai thì sai ở đâu ?
Hẳn rằng mỗi người còn có thể đưa ra những
cách đọc khác nữa mà mình đã từng sử dụng. Còn đối với lời Chúa
thì sao ? Theo tôi nghĩ, đối với lời Chúa thì đọc một cách chăm
chú theo kiểu đọc để học hỏi mà thôi chưa đủ. Chúng ta còn phải
đọc trong tinh thần cầu nguyện.
Thực vậy, ngôn ngữ Việt Nam của chúng ta
thật phong phú và tài tình trong việc ghép các chữ lại với nhau.
Chẳng hạn hai chữ “học hành”, đã học thì phải hành, nghĩa là
phải làm. Chẳng hạn hai chữ “nhịn nhục”, đã nhịn thì nhiều lúc
cũng nhục lắm. Các nhà đạo đức cũng đưa ra một sinh hoạt rất cần
thiết cho đời sống thiêng liêng, đó là nguyện ngắm. Chúng ta
ngắm nhìn rồi chúng ta cầu nguyện.
Với lời Chúa cũng vậy. Chúng ta nghe đọc
lời Chúa, rồi từ đó chúng ta cầu nguyện cùng Chúa.
Đây cũng là điều công đồng nói đến :
“Mọi người cũng nên nhớ rằng kinh nguyện
cũng phải đi đôi với việc đọc Thánh Kinh, để có sự đối thọai
giữa Thiên Chúa và con người, vì chúng ta ngỏ lời với Ngài khi
cầu nguyện và chúng ta nghe Ngài nói lúc chúng ta đọc các sấm
ngôn thần linh”. (MK 25).
Trước mỗi câu hay mỗi đọan của lời Chúa,
thiết tưởng chúng ta nên dừng lại để suy nghĩ, rồi tự vấn lương
tâm và thưa lên cùng Chúa :
- Lạy Chúa, Chúa muốn nói với con điều gì ?
Chúa muốn con phải hành động như thế nào ?
Có ngắm và nguyện như thế, chúng ta mới
được kết hiệp mật thiêt với Chúa, mới rút ra được những xác tín
cho bản thân và những áp dụng cho cuộc sống, cũng như mới đáp
ứng được mong mỏi của công đồng :
“Ước gì nhờ việc đọc và học hỏi Thánh Kinh,
lời Thiên Chúa được trôi chảy và sáng sủa. Và ước gì kho tàng
mạc khải, đã được ủy thác cho Giáo hội, ngày một tràn ngập tâm
hồn con người”. (MK 26).
II- SỐNG LỜI CHÚA
Tuy nhiên, đọc lời Chúa mà thôi chưa đủ,
suy gẫm lời Chúa mà thôi cũng chưa đủ, điều quan trọng và cần
thiết hơn cả, đó là chúng ta phải biến niềm tin thành việc làm,
phải biến xác tín thành hành động, có nghĩa là chúng ta phải
sống lời Chúa, phải thực thi những điều Ngài truyền dạy, như lời
Ngài đã phán :
“Thật, tôi bảo thật các ông: ai tuân giữ
lời tôi, thì sẽ không bao giờ phải chết." (Ga 8,51).
Nơi khác Chúa Giêsu cũng nói :
"Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha
Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với
người ấy. Ai không yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy. Và lời
anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha,
Đấng đã sai Thầy”. (Ga 14,23-24).
Và như vậy, lời Chúa sẽ trở thành ngọn đèn
cháy sáng, soi đường dẫn lối cho chúng ta bước đi trong một cuộc
sống đầy phong ba và bão táp, đầy gian nan và thử thách.
Tại một cuộc hội thảo về những bản dịch
Thánh Kinh, đang khi người ta phê bình bản dịch này, người ta
chỉ trích bản dịch kia, thì một anh sinh viên đã giơ tay xin
phát biểu. Anh ta đứng lên và nói :
- Tôi cũng có một bản dịch tuyệt vời.
Mọi người đưa mắt nhìn anh ta và vô cùng
ngạc nhiên, bởi vì anh ta không phải là một chuyên viên Thánh
Kinh. Người ta bèn hỏi :
- Bản dịch ấy như thế nào ?
Anh ta mỉm cười và trả lời :
- Bản dịch Thánh Kinh tuyệt vời nhất mà tôi
hiện có, đó là mẹ tôi, bởi vì bà đã làm, đã thực thi những gì
Chúa đã truyền dạy. Bà đã dịch Thánh Kinh bằng chính cuộc sống
của bà.
Chúng ta đừng bao giờ quên lời Chúa đã căn
dặn :
“Tại sao anh em gọi Thầy: Lạy Chúa! Lạy
Chúa!, mà anh em không làm điều Thầy dạy? Ai đến với Thầy, và
nghe những lời Thầy dạy mà đem ra thực hành, thì Thầy sẽ chỉ cho
anh em biết người ấy ví được như ai. Người ấy ví được như một
người khi xây nhà, đã cuốc, đã đào sâu và đặt nền móng trên đá.
Nước lụt dâng lên, dòng sông có ùa vào nhà, thì cũng không lay
chuyển nổi, vì nhà đã xây vững chắc.
Còn ai nghe mà không thực hành, thì ví được
như người xây nhà ngay mặt đất, không nền móng. Nước sông ùa
vào, nhà sụp đổ ngay và bị phá huỷ tan tành”. (Lc
6,46-49).
III- RAO GIẢNG LỜI CHÚA
Như chúng ta đã biết : nỗi ưu tư số một của
Chúa Giêsu trong cuộc sống công khai, đó là tìm những người cộng
tác với mình trong công cuộc truyền bá Phúc âm.
Chính vì thế, Ngài đã kêu gọi và tuyển chọn
các Tông Đồ, đã trực tiếp huấn luyện và đào tạo các ông bằng
cách cho các ông sống với Ngài để được nhìn thấy những việc Ngài
làm và lắng nghe những lời Ngài giảng, cũng như đã sai các ông
đi để rao giảng Tin mừng :
“Rồi Người lên núi và gọi đến với Người
những kẻ Người muốn. Và các ông đến với Người. Người lập Nhóm
Mười Hai, để các ông ở với Người và để Người sai các ông đi rao
giảng, với quyền trừ quỉ”. (Mc 3,13-15).
Hơn thế nữa, trước khi về trời, Ngài đã
chính thức ban truyền cho các ông cái “lệnh lên đường”, cái
“lệnh xuất phát” :
"Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ,
loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. Ai tin và chịu phép rửa,
sẽ được cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án”. (Mc
16,15-16).
Chính trong ý nghĩa ấy mà các Tông Đồ là
những người được Chúa sai đi. Nhưng sai đi để làm gì ?
Tôi có thể trả lời một cách vắn tắt : sai
đi để truyền giáo. Nhưng truyền giáo là gì ?
Truyền giáo là làm chứng cho Đức Kitô, như
lời sách Công Vụ Tông Đồ đã viết :
“Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy
tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho
đến tận cùng trái đất”. (Cv 1,8).
Truyền giáo là làm cho Đức Kitô được hiện
diện :
“Nhờ lời rao giảng và việc cử hành các bí
tích, mà trung tâm và tuyệt đỉnh là phép Thánh Thể, hoạt động
truyền giáo làm cho Đức Kitô, Đấng tác thành công trình cứu rỗi,
được hiện diện”. (TG 9).
Truyền giáo là rao giảng để mọi người nhận
biết Đức Kitô :
“Giáo hội rao giảng và có bổn phận phải
kiên trì rao giảng Đức Kitô, Đấng là “đường, sụ thật và sự
sống”(Ga 14,6), nơi Ngài, con người tìm thấy đời sống tôn giáo
sung mãn và nhờ Ngài, Thiên Chúa giao hòa mọi sự với mình”. (NK
2)
Nói cách khác, truyền giáo cũng chính là
loan truyền lời Chúa :
“Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở
thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con
và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy đã
truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến
tận thế”. (Mt 28,19-20).
Vâng lệnh Đức Kitô, cũng như bước theo dấu
chân của Ngài, các Tông Đồ đã hăng say lên đường truyền giáo,
“rao giảng lời chân lý và khai sinh các giáo đoàn”. Rồi từ đó
cho tới nay, những đấng kế vị các Tông Đồ vẫn hằng tiếp tục công
việc cao cả này, để “lời Chúa được lan tràn và sáng tỏ”, nước
Chúa được công bố và thiết lập trên trần gian.
Vì vậy, công đồng đã xác quyết :
“Tự bản chất, Giáo hội lữ hành phải truyền
giáo, vì chính Giáo hội bắt nguồn từ sứ mạng của Chúa Con và
Chúa Thánh Thần theo ý định của Thiên Chúa Cha”. (TG 2).
Cũng vậy, linh mục là người môn đệ của
Chúa, nên cũng được Ngài sai đi để truyền giáo, để rao giảng lời
Chúa. Đây là một nhiệm vụ, một bổn phận căn bản và quan trọng
của linh mục.
“Dân Chúa được đoàn tụ trước hết là nhờ lời
Thiên Chúa hằng sống. Lời này phải được đặc biệt tìm thấy nơi
miệng lưỡi các linh mục”. (LM 4).
Nhờ việc loan báo Tin Mừng cho mọi người,
linh mục chia sẻ sứ mạng truyền giáo của Hội Thánh, đó là thiết
lập dân Chúa và làm cho dân Chúa ngày càng thêm đông, bởi vì lời
Chúa sẽ khơi động đức tin nơi những người chưa tin, cũng như
nuôi dưỡng đức tin nơi những người đã tin. Chính đức tin này sẽ
làm cho cộng đoàn tín hữu được phát triển. Vì thế :
“Các linh mục mắc nợ với mọi người về việc
thông truyền cho họ chân lý Phúc Âm mà các ngài đã nhận được nơi
Chúa”. (LM 4).
Hơn thế nữa, linh mục được tham dự chức vụ
tiên tri, tư tế và vương đế của Đức Kitô. Vậy tiên tri là gì nếu
không phải là người chuyển đạt lời của Thiên Chúa đến cho dân
chúng. Bởi đó, rao giảng lời Chúa phải là điều thuộc bản chất
của linh mục.
Công đồng viết như sau :
“Dù khi các ngài sống một đời sống tốt lành
giữa các dân ngọai để làm cho họ tôn vinh Thiên Chúa, dù khi các
ngài công khai giảng thuyết để loan truyền mầu nhiệm Đức Kitô
cho những người chưa tin, dù khi dạy giáo lý Kitô giáo hay giải
thích giáo thuyết của Giáo hội, dù khi chăm lo nghiên cứu những
vấn đề thời đại dưới ánh sáng Đức Kitô : trong mọi trường hợp,
phận sự của các ngài không phải là giảng dạy sự thông biết của
mình, nhưng là giảng dạy lời Chúa và phải khẩn thiết mời gọi mọi
người cải thiện và nên thánh”. (LM 4).
Vậy linh mục đem lời Chúa đến cho người
khác bằng cách nào ?
Trước hết, linh mục đem lời Chúa đến cho
người khác bằng việc loan truyền, nhất là bài giảng trong thánh
lễ.
Bước vào lãnh vực mục vụ của mình, linh mục
có rất nhiều dịp để trình bày lời Chúa, chẳng hạn như khi dạy
giáo lý cho trẻ nhỏ, người lớn và tân tòng, khi đào luyện và ban
huấn dụ cho các hội đoàn, cũng như khi gặp gỡ riêng tư…Trong tất
cả những sinh họat ấy, bài giảng trong thánh lễ phải chiếm một
chỗ đứng quan trọng nhất. Những bài giảng phải được nuôi dưỡng
và gia tăng sinh lực nhờ lời Thánh Kinh.
Thực vậy, trong chiều hướng canh tân phụng
vụ, công đồng đã đặt nặng vấn đề lời Chúa. Công đồng đã chia
thánh lễ thành hai phần, đó là phần phụng vụ lời Chúa và phần
phụng vụ Thánh Thể. Hai phần này được liên kết chặt chẽ với nhau
đến nỗi đã tạo thành một hành vi phụng thờ duy nhất.
Công đồng khuyên các linh mục phải hết sức
trung thành chu toàn thừa tác vụ giảng giải của mình.
Đồng thời, bài giảng phải được múc lấy từ
nguồn Thánh Kinh và Phụng vụ, bởi vì khi rao giảng là chúng ta
loan truyền những việc kỳ diệu của Thiên Chúa trong lịch sử cứu
rỗi hay trong mầu nhiệm Đức Kitô. Chính mầu nhiệm này hằng hiện
diện thiết thực và tác động trong chúng ta, nhất là qua các cử
hành phụng vụ.
Công đồng cũng đã đưa ra những nguyên tắc,
những chỉ dẫn như sau :
“Để bàn tiệc lời Chúa được bày dọn một cách
phong phú hơn cho các tín hữu, phải mở rộng kho tàng Thánh Kinh
hơn nữa. Muốn thế, trong khoảng một số năm ấn định, phải đọc cho
dân chúng phần Thánh Kinh quan trọng hơn”. (PV 51).
“Bài giảng phải căn cứ vào Thánh Kinh để
trình bày các mầu nhiệm đức tin và những qui tắc cho đời sống
Kitô giáo trong suốt chu kỳ năm phụng vụ, rất đáng được coi như
một phần của chính phụng vụ. Hơn nữa, trong những thánh lễ được
cử hành vào ngày Chúa nhật và lễ buộc có dân chúng tham dự,
không được bỏ giảng, nếu không có lý do hệ trọng”. (PV 52).
Tiếp đến, linh mục đem lời Chúa đến cho
người khác bằng chính đời sống gương mẫu của mình.
Thực vậy, người Việt Nam chúng ta thường
nói :
- Trăm nghe không bằng một thấy.
- Lời nói như gió lung lay,
Việc làm như tay lôi kéo.
- Lời nói thoảng bay, gương bày lôi kéo.
Chính việc sống lời Chúa, chính việc thực
thi những điều Chúa truyền dạy, hay nói cách khác chính đời sống
gương mẫu của linh mục, một đời sống đạo đức và thánh thiện, một
đời sống ngập tràn tình bác ái và yêu thương, một đời sống thấm
đậm tinh thần của Đức Kitô mới thực là một bài giảng hùng hồn và
lôi cuốn người khác đến cùng Đức Kitô.
Lịch sử Giáo hội đã để lại nhiều bằng chứng
tuyệt vời trong lãnh vực này. Chẳng hạn cuộc sống của mẹ Têrêsa
thành Calcutta với hành động giúp đỡ những người nghèo túng
không nhà không cửa, những người hấp hối bị bỏ rơ bên lề
đường…đã thực sự là một bài giảng, tuy không lời nhưng lại thật
hấp dẫn đối với mọi người.
Cách đem lời Chúa đến cho người khác bằng
việc làm, bằng đời sống gương mẫu là cách thích hợp với con
người thời nay hơn cả, bởi vì họ cần thực hành hơn lý thuyết.
Nếu bảo đạo của chúng ta là đạo thật, nhưng đời sống của chúng
ta lại chẳng tốt lành, thì ai dại gì mà tin theo.
Đúng thế, trong đời thường rất nhiều lần
chúng ta được nghe nói :
- Tin đạo, chứ đừng tin kẻ có đạo.
Thế nhưng, bổn phận của chúng ta, linh mục
cũng như giáo dân, là phải đảo ngược lại câu nói ấy :
- Tin vào cuộc sống gương mẫu của người có
đạo, rồi người ta sẽ tin theo đạo.
Sở dĩ như vậy, vì con người thời nay “cần
đến những chứng nhân hơn là cần đến những thầy dạy”.
Thiết tưởng chúng ta cũng nên nhớ lại lời
Đức Giám Mục đã khuyên nhủ chúng ta trong ngày lãnh nhận chức vụ
linh mục :
- Hãy dạy điều con tin và làm điều con dạy.
KẾT LUẬN
Để kết luận, tôi xin mượn lời công đồng
Vaticanô II đã viết trong hiến chế Dei Verbum, về sự Mạc khải
của Thiên Chúa như sau :
“Nếu đời sống Giáo hội được tăng triển nhờ
năng lãnh nhận bí tích Thánh Thể, cũng thế, rất có thể hy vọng
đời sống thiêng liêng được đổi mới nhờ thêm lòng sùng kính lời
Chúa, là lời hằng tồn tại muôn đời”. (MK 26).
GSVN |
VỀ MỤC LỤC |
|
ƠN GỌI LÀ GÌ? |
LTS.
Cuộc sống cũng có thể được tóm tắt bằng liên tiếp những chọn
lựa, trong đó chọn lựa Ơn Gọi là một chọn lựa căn bản, quan
trọng và quyết liệt. Sự chọn lựa chỉ thực sự hoàn hảo khi chúng
ta hiểu biết đầy đủ các thông tin liên quan..., tác giả
Trần Hữu Hạnh, fsf. xin cung cấp cho các bạn trẻ một vài căn
bản thiết yếu đó...
1. ƠN GỌI LÀ GÌ?
Mỗi người đều được Thiên Chúa kêu gọi. Ơn gọi là tiếng gọi yêu
thương của Chúa cho con người và Chúa mời gọi ta đáp lại tình
yêu đó. Chính Thiên Chúa gọi ta và Người mong một ngày nào đó ta
nghe được tiếng Người. Đây là tiếng gọi từ muôn thuở, từ lúc
chưa có loài người sống trên mặt đất, chưa có đất trời, núi đồi,
biển cả... Ngài yêu từng người, như thể chỉ có mình họ trên đời;
do đó, Ngài cũng gọi từng người và đặt họ vào những con đường
khác nhau từ lúc họ chưa được tạo thành:
“Trước khi cho ngươi thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi;
trước khi ngươi lọt lòng mẹ, Ta đã thánh hoá ngươi, Ta đặt ngươi
làm ngôn sứ cho chư dân.” (Gr 1, 5)
“Thiên Chúa đã dành riêng tôi ngay từ khi tôi còn trong lòng mẹ,
và đã gọi tôi nhờ ân sủng của Người.” (Gl 1, 15)
“Mỗi đời sống là một ơn gọi.”
Việc ý thức đời sống như một ơn gọi sẽ khơi dậy trong con người
niềm khát vọng trước tương lai, đồng thời loại bỏ quan niệm về
một đời sống thụ động, buồn nản và tầm thường. Như thế, đời sống
luôn mang giá trị của “ân ban đã lãnh nhận mà theo bản tính nhằm
trở nên điều thiện hảo được ban lại cho kẻ khác.”
Thiên Chúa còn mời gọi con người vào một bậc sống nào đó và trao
cho họ một sứ mệnh. Chúa có thể kêu gọi những người hèn mọn, bất
tài, cả những người đang chống lại Chúa, để làm những công việc
vĩ đại cho Ngài.
Mỗi đời sống là một ơn gọi, nên có nhiều ơn gọi khác nhau. Ở đây
chỉ bàn đến những ơn gọi chung và chính yếu.
2. NHỮNG ƠN GỌI CHUNG VÀ CHÍNH YẾU
a. Ơn gọi làm người
Ơn gọi làm người là ơn gọi đầu tiên và là nền tảng của mọi ơn
gọi tự nhiên. Ơn gọi làm người đã được các triết thuyết, các hệ
tư tưởng, các nền văn hóa nói tới. Làm người là một con đường
dẫn tới sự hoàn thiện. Con người luôn phải chiến đấu với thói hư
tật xấu của mình để trở thành người hơn. Nhưng làm người, theo
nghĩa tích cực nhất, là làm người trong mối tương quan với Thiên
Chúa. Con người phải tôn kính Trời và tuân theo sự sắp đặt quan
phòng của Thiên mệnh (Ý Trời), vì Thiên mệnh là nguồn gốc của
mọi luật lệ đạo đức. Bởi đó, Khổng Tử nói: “Kẻ nào không nhận
biết Thiên mệnh, sẽ không bao giờ là một hiền nhân.”
Sống theo thiên nhiên, tuân giữ luật của thiên nhiên là sống
theo Thiên mệnh.
Thế nhưng, Kinh thánh nói gì về mối tương quan này?
Từ hư vô con người trở thành hiện hữu do ý muốn của Thiên Chúa.
Thiên Chúa đã tạo dựng con người “theo hình ảnh mình và giống
mình.” (St 1, 26) Ngài đã trao vũ trụ cho con người làm chủ và
mời gọi con người bước vào một mối tương quan yêu thương mật
thiết với Ngài. Thiên Chúa nghĩ đến ta trước cả khi Ngài tạo
thành vũ trụ. Thực ra đó là lý do Ngài đã tạo dựng thế giới.
Thiên Chúa đã hình thành hành tinh này cho chúng ta để chúng ta
sống và hưởng dùng. “Ðặc tính cao cả nhất của phẩm giá con người
nằm trong ơn gọi con người được hiệp thông với Thiên chúa. Thiên
Chúa khởi sự mời gọi con người đối thoại với Ngài, cùng với sự
xuất hiện của họ trên đời. Bởi vì, nếu con người hiện hữu, là vì
yêu thương mà Thiên Chúa đã tạo dựng họ, và cũng vì yêu thương
mà ngài luôn cho họ được sống. Và con người chỉ sống hoàn toàn
theo chân lý, nếu tự do nhìn nhận tình yêu đó và phó thác cho
Ðấng tạo dựng nên mình.” (GS 9).
Chúng ta sẽ sống một cuộc sống thanh thản hơn, có ý nghĩa và tốt
đẹp hơn, nếu chúng ta biết rằng Thiên Chúa đang điều khiển và
quan phòng mọi sự. Ngài hài lòng với việc chúng ta tôn thờ Ngài,
coi Ngài là trung tâm của cuộc sống. Và như vậy chúng ta phải
luôn tiếp xúc với Ngài bằng cầu nguyện, lắng nghe tiếng Ngài,
hiệp thông với Ngài. Chúng ta được tạo dựng để làm đẹp lòng
Thiên Chúa. Mỗi người chúng ta được tạo dựng một cách độc đáo,
không ai giống ai, cả về thể xác, tâm hồn, tính tình và năng
khiếu. Bởi đó, không có ơn gọi nào giống ơn gọi nào. Mỗi người
là tác phẩm nghệ thuật độc đáo và độc nhất vô nhị của Thiên
Chúa.
Thiên Chúa quan tâm đến từng chi tiết của thân thể chúng ta:
“Tạng phủ con, chính Ngài đã cấu tạo, dệt tấm hình hài trong dạ
mẫu thân con. Tạ ơn Chúa đã dựng nên con cách lạ lùng, công
trình Ngài xiết bao kỳ diệu!” (TV 139, 13-14) “Xương cốt con,
Ngài không lạ lẫm gì, khi con được thành hình trong nơi bí ẩn,
được thêu dệt trong lòng đất thẳm sâu.” (Tv 139, 15)
Không những Chúa tạo hình ta, Ngài còn tiếp tục tiến trình định
hình ta. Ngài đã lên kế hoạch trước những ngày sống của đời ta
khi ấn định chính xác ngày ta sinh ra và ngày ta chết:
“Con mới là bào thai, mắt Ngài đã thấy; mọi ngày đời được dành
sẵn cho con đều thấy ghi trong sổ sách Ngài, trước khi ngày đầu
của đời con khởi sự.” (Tv 139, 16).
Ngài thấu suốt những công việc ta làm, ngay cả tư tưởng của ta
Ngài cũng am tường hết:
“Lạy Chúa, Người đã dò xét con và Người biết rõ, biết cả khi con
đứng con ngồi. Con nghĩ tưởng gì, Người thấu suốt từ xa, đi lại
hay nghỉ ngơi, Chúa đều xem xét, mọi nẻo đường con đi, Người
quen thuộc cả...Người bao bọc con cả sau lẫn trước, bàn tay của
Người, Người đặt trên con.” (Tv 138, 1-5).
Ngài luôn nâng đỡ và hướng dẫn ta trên mọi nẻo đường đời:
“Ta đã nâng các ngươi từ trong lòng mẹ, đã hứng các ngươi từ lúc
chưa chào đời. Cho đến khi các ngươi già nua tuổi tác, trước sau
gì Ta vẫn là Ta; cho đến khi các ngươi da mồi tóc bạc, Ta vẫn
còn gánh vác các ngươi. Như xưa nay Ta vẫn từng đối xử: Ta sẽ
nâng niu, gánh vác các ngươi, và ban ơn cứu thoát.” (Is 46, 3-4)
Qua đó nói lên rằng không gì xẩy ra trong đời ta mà lại không
mang một ý nghĩa gì. Chúa uốn nắn ta theo mục đích tạo dựng của
Ngài. Làm một công việc gì, chúng ta đều nhắm tới mục đích nào
đó. Người không có mục đích cũng giống như con thuyền không bánh
lái, như lục bình trôi sông. Khi tạo nên chúng ta, Thiên Chúa
cũng có mục đích của Ngài và Ngài muốn chúng ta hoàn thành. Nếu
chúng ta không hoàn thành, thì ai sẽ thay thế chúng ta, vì mỗi
người đều có công việc của riêng mình.
Vì thế, chúng ta phải luôn tự hỏi mình: Tôi sống ở trên đời này
để làm gì? Đâu là ý nghĩa của sự hiện hữu của tôi? Nếu ta muốn
biết lý do tại sao ta được đặt trên hành tinh này, ta phải bắt
đầu từ Thiên Chúa. Ta không tạo dựng được chính ta; do đó, ta
không thể bảo rằng tôi được tạo dựng để làm gì? Tôi muốn trở nên
thế nào? Đâu là những mục tiêu, những tham vọng, những kế hoạch,
những ước mơ của tôi? Tập trung vào mình như vậy ta sẽ không bao
giờ biết được mục đích chính của đời sống ta. Chính Thiên Chúa
tạo dựng nên ta và Ngài có mục đích của Ngài. Ta không thể biết
được mục đích của một phát minh mới, nếu người phát minh không
nói cho ta biết. Ta không thể đạt tới mục đích đời ta bằng cách
bắt đầu tập trung vào chính mình. Ta phải bắt đầu với Thiên
Chúa, Đấng tạo hình nên ta. Ta chỉ hiện hữu vì Thiên Chúa muốn
ta hiện hữu. Chỉ trong Thiên Chúa ta mới khám phá ra được nguồn
gốc, căn tính, ý nghĩa, mục đích, cách thể hiện và số phận của
ta. Tất cả các con đường khác đều dẫn đến bế tắc. Ta được tạo
dựng cho Thiên Chúa; và vì thế, cuộc sống của ta là để Ngài sử
dụng cho các mục đích của Ngài, chứ không phải ta sử dụng Ngài
cho mục đích riêng của ta. Nếu ta chỉ tập trung vào chính mình,
kiên trì và quyết tâm theo đuổi những mục tiêu ta đề ra, ta có
thể đạt được thành công rực rỡ, nhưng vẫn còn thiếu những mục
đích Thiên Chúa mong muốn khi tạo dựng nên ta.
Con người được tạo dựng cho vĩnh cửu. Chính Thiên Chúa đã tạo
dựng ta theo hình ảnh Ngài, để sống trong cõi vĩnh hằng. Cuộc
đời này không phải là tất cả. Nó là một sự chuẩn bị cho đời sống
mai hậu. Mạnh giỏi lắm ta có thể sống một trăm năm trên trái đất
này, nhưng ta sẽ sống muôn đời trong cõi đời đời. Đời sống chúng
ta trên dương thế này chỉ là tạm bợ nơi đất khách quê người. Quê
hương chúng ta là ở trên trời; do đó, đừng quá dính bén vào
những của phù vân, đừng lo chiếm đoạt mọi thứ trên đời. Tất cả
rồi sẽ qua đi… Mối giây liên hệ của ta với Thiên Chúa trên trần
thế này sẽ xác định mối giây liên hệ với Ngài trong cõi đời đời.
Nếu đo bằng cây thước vĩnh cửu, thời gian của chúng ta trên cõi
đời này tựa như một chớp mắt, nhưng hậu quả của nó sẽ kéo dài vô
tận.
Nhiều người để cho tiền bạc, danh vọng, lạc thú, tội lỗi, sự sợ
hãi,… điều khiển đời sống của họ. Và kết quả là họ luôn sống
trong bất an, tầm thường và vô nghĩa. Nếu ta tin tưởng và phó
thác vào Thiên Chúa, các mục đích của Ngài sẽ dẫn dắt đời sống
chúng ta: “Thế gian đang qua đi, cùng với dục vọng của nó. Còn
ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa thì tồn tại mãi mãi.” (1Ga 2,
17)
Nếu không có Thiên Chúa, hẳn tất cả sự hiện hữu của chúng ta đều
là do “ngẫu nhiên.” Đó là kết quả của may rủi do thiên nhiên vận
hành bừa bãi trong vũ trụ. Và như thế, đời sống chẳng có ý nghĩa
gì, chẳng có tốt xấu, đúng sai, chẳng có hy vọng… Nhưng có
Thiên Chúa, Đấng đã tạo hình ta; và vì thế, đời sống của ta có
một ý nghĩa sâu xa.
Việc tìm hiểu ý định của Thiên Chúa kéo dài suốt đời ta. Chúng
ta chỉ biết được ý nghĩa và mục đích của đời sống chúng ta khi
chúng ta biết được Thiên Chúa là ai và Ngài làm gì cho chúng ta:
“Khởi đầu mỗi bước đường ơn gọi, đều có Ðấng Em-ma-nu-en, Thiên
Chúa ở-cùng-chúng-ta. Chính Ngài mặc khải cho chúng ta biết,
chúng ta không đơn độc khi xây dựng đời sống mình, bởi vì Thiên
Chúa luôn đồng hành với chúng ta giữa những biến cố liên tiếp,
và nếu ta muốn, Ngài sẽ xây dựng với mỗi người chúng ta một cuộc
tình kỳ diệu, độc nhất và không giống nhau, nhưng đồng thời lại
phù hợp với con người và vũ trụ. Khám phá ra sự hiện diện của
Thiên Chúa trong lịch sử đời mình, sẽ không cảm thấy mình mồ côi
nữa, nhưng biết rằng mình có một Người Cha mà ta có thể hoàn
toàn tin cậy nơi Ngài: đó là khúc rẽ quan trọng có thể biến đổi
triển vọng con người, và như Hiến chế Gaudium et Spes quả quyết,
con người ‘chỉ nhận ra mình cách trọn vẹn, nhờ việc hiến thân
chân thành’ (Số 24)”
Định hướng này sẽ chiếu sáng cho cách sống của ta, cách ta thi
hành công việc hằng ngày, cách đối xử với người khác, cách đánh
giá sự việc,… Ta sẽ sử dụng thời giờ và tiền bạc một cách khôn
ngoan hơn. Nhiều công việc, kế hoạch, mục tiêu và ngay cả nhiều
vấn đề xem ra quan trọng, sẽ trở thành tầm thường, nhỏ nhặt và
không đáng quan tâm nữa. Ta càng sống gần Thiên Chúa, các sự vật
càng trở nên tầm thường, nhỏ bé.
b. Ơn gọi làm Kitô hữu
Ơn gọi thứ hai và cũng là nền tảng cho mọi ơn gọi siêu nhiên là
ơn gọi làm Kitô hữu. Thiên Chúa không chỉ là điểm khởi đầu của
cuộc sống chúng ta, Ngài còn là nguồn mạch và đích điểm của đời
sống chúng ta. Để khám phá ra mục đích đời ta, ta phải qui chiếu
về Lời của Ngài, chứ không phải về những lẽ khôn ngoan của con
người. Lời của Ngài đã chỉ cho chúng ta thấy: “Thiên Chúa là
Đấng làm nên mọi sự theo quyết định và ý muốn của Người, đã tiền
định cho chúng tôi đây làm cơ nghiệp riêng theo kế hoạch của
Người, để chúng tôi là những người đầu tiên đặt hy vọng vào Chúa
Ki-tô, chúng tôi ngợi khen vinh quang Người.” (Eph 1, 11- 12).
Bản văn Kinh thánh này đã chỉ cho chúng ta thấy rằng chúng ta
khám phá ra căn tính và mục đích của chúng ta nhờ liên kết với
Chúa Giêsu Kitô. Khi ta liên kết với Chúa Kitô, đời sống của ta
sẽ thay đổi, mọi giá trị sẽ đảo lộn như thánh Phaolô nói: “Những
gì xưa kia tôi cho là có lợi, thì nay, vì Chúa Ki-tô, tôi cho là
thiệt thòi.” (Pl 3, 7).
Từ sự hiện hữu đơn thuần nhân loại, con người được mời gọi bước
vào một sự hiện hữu thần linh, do công trình tái tạo của Thiên
Chúa trong Chúa Kitô: “Vì được dìm vào trong cái chết của Người,
chúng ta đã cùng được mai táng với Người. Bởi thế, cũng như
Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của
Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới.” (Rm 6,
4) Thật vậy, qua phép Rửa, chúng ta được tái sinh trong Chúa
Kitô, từ bỏ con người cũ để mặc lấy con người mới, cùng vác thập
giá với Người để rồi cùng được hưởng vinh quang với Người. Ý
định cứu chuộc này đã được Thiên Chúa hoạch định từ trước cho
chúng ta: “Ân sủng đó, Người đã ban cho chúng ta từ muôn thuở
trong Chúa Ki-tô Giê-su, nhưng giờ đây mới được biểu lộ, vì Đấng
cứu độ chúng ta là Chúa Ki-tô Giê-su đã xuất hiện.” (2Tm 1,
9-10) “Chúng ta là tác phẩm của Thiên Chúa, chúng ta được dựng
nên trong Chúa Ki-tô Giê-su, để sống mà thực hiện công trình tốt
đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta.” (Ep 2:10) “Chúng tôi
giảng dạy lẽ khôn ngoan nhiệm mầu của Thiên Chúa đã được giữ bí
mật, lẽ khôn ngoan mà Thiên Chúa đã tiền định từ trước muôn đời,
cho chúng ta được vinh hiển. Không một ai trong các thủ lãnh thế
gian này đã được biết lẽ khôn ngoan ấy, vì nếu biết, họ đã chẳng
đóng đinh Đức Chúa hiển vinh vào thập giá. Nhưng, như đã chép:
Điều mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người không hề
nghĩ tới, đó lại là điều Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai mến
yêu Người.” (1Cr 2, 7-9)
Đây là ơn gọi căn bản và phổ quát, vì là ơn gọi đầu tiên và là
ơn gọi chung cho mọi Kitô hữu. Ơn gọi này là ơn Chúa ban cho
chúng ta cách nhưng không, là một món quà vô giá mà không phải
ai cũng nhận được.
Chúng ta được tạo hình cho gia đình của Thiên Chúa. Thiên Chúa
tạo dựng con người để trở nên các phần tử trong gia đình của
Ngài và Ngài sai Con Một của Ngài, Chúa Giêsu, đến trần gian để
hướng dẫn chúng ta nhận biết Ngài là Người Cha nhân hậu và chúng
ta là con cái của Ngài, là anh em với nhau. Chúng ta được tạo
dựng trở nên giống Chúa Giêsu. Như vậy, mục tiêu tối hậu của
cuộc sống không phải là xây dựng cho mình một cuộc sống đầy đủ
tiện nghi về vật chất, nhưng quan trọng hơn chính là việc phát
triển đời sống tâm linh. Làm sao để cuộc sống mình biến đổi theo
hình ảnh Chúa Giêsu và những lời giảng dậy của Ngài. Giáo hội
chính là gia đình thiêng liêng của Ngài. Mục đích của đời sống
chúng ta là học hỏi lòng yêu thương của Ngài. Sống đạo không chỉ
là tin, nhưng quan trọng hơn cả là thuộc về Ngài, thuộc về Giáo
hội của Ngài. Sống đạo là sống tình thân hữu với Thiên Chúa và
với mọi người. Do đó, chúng ta được tạo hình là để phục vụ Thiên
Chúa. Sống được như vậy, mỗi Kitô hữu cần loại bỏ não trạng lo
vun xới cho chính mình để hiến thân phục vụ người khác. Lời
thánh Phaolô luôn nhắc nhở chúng ta: “Anh em đừng có rập theo
đời này, nhưng hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới
tâm thần, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa: cái gì là tốt,
cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo.” (Rm 12, 2)
Ơn gọi luôn gắn liền với sứ vụ. Chúng ta được Chúa kêu gọi là để
sống với Ngài và để được Ngài sai đi (x. Mc 3, 13- 15). “Sống
chứng nhân là cách thế biểu thị sống động nhất về sức mạnh yêu
thương cứu độ của Thiên Chúa. Cũng như Chúa Giêsu đã đến trần
gian không để tìm vinh quang cho chính mình, nhưng là để làm
vinh danh Thiên Chúa và cứu độ con người, Kitô hữu bước theo
Chúa Giêsu để được Tin Mừng của Người biến đổi, và qua đó họ trở
nên những người đem Tin Mừng cho thế giới này.” (HĐGMVN, Thư Mục
vụ 2006, số 4) Bậc sống giáo dân cũng có nhiều “ơn gọi” khác
nhau: đó là những cách sống và việc tông đồ khác nhau tùy theo
môi trường sống của mỗi người: “Mỗi người tùy theo ơn Chúa ban
mà phục vụ kẻ khác, như những người quản lý trung tín giữ mọi ân
sủng của Thiên Chúa.” (1 Pt. 4:10)
Mọi ơn gọi khác đều phát xuất từ ơn gọi làm người và một cách rõ
nét trong ơn gọi làm Kitô hữu.
Có nhiều loại ơn gọi: có loại ơn gọi dành cho hết mọi người, có
loại chỉ dành cho một số ít người; có loại ơn gọi cho cả đời
người, có loại ngắn hạn… Loại ơn gọi cho cả đời người chính là
ơn gọi bậc sống của mỗi người: sống độc thân, lập gia đình, hoặc
tu trì. Với cuốn sách mỏng này, người viết chỉ nói sơ qua về ơn
gọi sống đời hôn nhân và bàn sâu hơn về ơn gọi tu trì
c. Ơn gọi sống đời hôn nhân hay tu trì
Sau ơn gọi nền tảng tự nhiên và siêu nhiên, chúng ta có bổn phận
đi tìm thánh ý Chúa cho ơn gọi riêng của mình. Đối với những
người lập gia đình, họ có thêm ơn gọi sống đời đôi bạn hay làm
cha mẹ. Ngoài ra, một số người còn có ơn gọi làm linh mục hay tu
sĩ. Ơn gọi đời sống hôn nhân hay tu trì, không mâu thuẫn với ơn
gọi làm Kitô hữu; trái lại, nó củng cố, làm thăng tiến và phong
phú hơn. Hai ơn gọi này dẫn đến hai bậc sống khác nhau: bậc sống
tu trì và bậc sống hôn nhân. Nhưng tất cả đều được kêu gọi trở
nên trọn lành (x. Mt 5, 48). Công đồng Vatican II cũng đã khẳng
định mọi Kitô hữu đều được kêu gọi nên thánh trong bậc sống của
mình và có nhiều con đường để nên trọn lành (x. LG 11, 42), chứ
không chỉ qua con đường tu trì. Ở đây, chúng ta cần phân biệt
“nên thánh” trong bậc giáo dân và “nên thánh” trong bậc tu trì:
sự thánh hiến phổ quát và sự thánh hiến riêng biệt, ơn gọi phổ
quát nên thánh và ơn gọi cụ thể nên thánh theo từng bậc sống.
Trong Cựu ước, có sự thánh hiến của toàn thể dân Chúa và cũng có
sự thánh hiến của riêng các ngôn sứ. Cũng vậy, trong Tân ước,
ngoài sự thánh hiến phổ quát dựa trên bí tích Rửa tội, còn có sự
thánh hiến đặc biệt của bí tích Truyền chức (x. CCC
1535, 1556-1559), của bí tích Hôn nhân (x. GS 48; CCC 1535), của
các hình thức tu trì (x. CCC 916, 931; LG 44; PC 5). Mỗi người
phải sống theo đặc sủng đã nhận được (x. 1Cr 7, 7- 20). Chính
Chúa Thánh Thần làm cho Giáo hội trở thành một mối hiệp thông
hữu cơ, trong sự đa dạng về các ơn gọi, các đặc sủng và các thừa
tác vụ (x. AG 4; LG 4, 12, 13; GS 32, CL 30-31). Nói chung, nên
thánh là con đường của đức ái. Càng yêu nhiều, càng thánh thiện.
Ơn gọi là một lời mời gọi để sống trong tình yêu với Thiên Chúa
và để minh chứng tình yêu đó. Dù sống trong bậc sống nào, chúng
ta cần phải hiểu rằng TÌNH YÊU là sức sống nền tảng của mọi ơn
gọi: “Một cách đơn giản, ơn gọi là một tiếng gọi để tôi hoàn
toàn lệ thuộc vào Ðức Kitô, với ý thức rằng, không gì có thể
tách tôi ra khỏi Tình yêu của Người. Ơn gọi là một lời mời gọi
để sống trong tình yêu với Thiên Chúa và để minh chứng tình yêu
đó. Tôi yêu mến Chúa thế nào? Tôi minh chứng tình yêu của tôi
cho Thiên Chúa thế nào? Thưa, bằng cách làm thật tốt đẹp công
việc được trao phó, bằng cách thực hiện một cách đơn sơ những gì
Chúa ủy thác cho tôi dưới bất kỳ dạng thức nào. Như thế, dù bạn
được trao phó cho bất kỳ công việc gì, với tư cách một tu sĩ,
hay một giáo dân - đó là phương tiện cho bạn để bạn dành tình
yêu của bạn cho Thiên Chúa trong một hành vi sinh động, trong
một hành vi của tình yêu... Bất kỳ khi nào bạn mỉm cười với một
người nào đó, nụ cười đó là một hành vi của tình yêu, là một món
quà cho người đó, một cái gì thật đẹp... Do đó, nếu tôi biết làm
thế nào để yêu mến Ðức Kitô, nếu tôi muốn biết tôi có thực sự ở
trong tình yêu với Thiên Chúa không, tôi chỉ cần nhìn xem tôi đã
làm công việc Ngài đã trao phó cho tôi như thế nào - Có bao
nhiêu tình yêu tôi đã đặt vào trong công việc của tôi. Bạn thấy
đó, vấn đề của ơn gọi không hệ tại ở chính công việc - ơn gọi
của chúng ta là thuộc trọn về Ðức Giêsu với ý thức rằng, không
gì có thể tách lìa chúng ta ra khỏi tình yêu của Người. Ơn gọi
không phải là những gì chúng ta đang làm, hay chúng ta làm được
bao nhiêu việc, mà là bao nhiêu tình yêu tôi đã đặt vào công
việc tôi đã được trao phó. Những gì bạn đang làm, có thể tôi
không làm được... Những gì tôi đang làm, có thể bạn không làm
được, nhưng tất cả chúng ta đều có thể làm cái gì đó thật đẹp
cho Thiên Chúa.” (Mẹ Têrêxa Calcutta)
Cha mẹ của thánh nữ Têrêxa Hài đồng Giêsu, ông Martin và bà
Guerine, đã đi tìm hiểu ơn gọi tu trì, nhưng Chúa không muốn cho
họ đi con đường ấy và họ đã bước vào cuộc sống hôn nhân và nên
thánh. Chúng ta phải nhấn mạnh rằng hôn nhân Kitô giáo là một ơn
gọi nên thánh và gương của những cha mẹ thánh thiện là điều kiện
thuận lợi đầu tiên cho việc nở hoa những ơn gọi linh mục và tu
sĩ.
Từ khởi nguyên, Chúa đã muốn con người sống có đôi: “Ðàn ông ở
một mình không tốt.” (St 2, 18) Nhưng Chúa, nhất là trong Tân
ước, cũng mời gọi chúng ta bước đi trên con đường hẹp của Tin
Mừng, sống hiến dâng trọn vẹn cho Thiên Chúa bằng một tình yêu
không chia sẻ (x. Mt 19, 12; VC 88). Cũng như ơn gọi làm Kitô
hữu, ơn gọi làm linh mục hay tu sĩ là ơn Chúa ban nhưng không.
Chúa là người đi bước trước, là người đưa ra sáng kiến kêu gọi
chúng ta theo Ngài: “Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng
chính Thầy đã chọn các con.” (Ga 15, 16)
Bởi đó, mỗi người đều được đặt trước một sự chọn lựa. Hạnh phúc
cả cuộc đời tùy thuộc vào sự lựa chọn này. Sự chọn lựa luôn bao
gồm trách nhiệm. Chọn lựa cũng bao gồm sự hy sinh và dấn thân.
Hy sinh và dấn thân để theo đuổi điều mình chọn lựa. Chúng ta
chọn lựa một cách dứt khoát, nhưng hy sinh và dấn thân thì kiên
trì, bền bỉ và kéo dài suốt cuộc đời. Nếu chọn lựa sống đời Kitô
hữu hoàn hảo đã phải chiến đấu nhiều với chính bản thân, thì
chọn lựa sống đời tu trì còn phải chiến đấu nhiều hơn nữa. Vì
chọn lựa ấy đòi buộc sống giữa đời nhưng không để bị vương vấn
mùi đời.
Trước khi lựa chọn, ta cần suy nghĩ, tìm hiểu về từng ơn gọi,
rồi tự xét xem mình tự nhiên hướng chiều mạnh mẽ về đời sống
nào? Đối với việc tìm hiểu về đời sống hôn nhân, thiết tưởng
chúng ta đã biết nhiều rồi, ở đây chỉ xin bàn về ơn gọi tu trì.
còn tiếp
|
VỀ MỤC LỤC |
|
MỘT CÚ NHẢY XA VÀ NHẢY CAO TUYỆT VỜI !
|
Quý độc giả Ephata và
Giáo Sĩ Việt Nam thân mến,
Trên kênh truyền hình VCTV 2, mỗi đêm,
nhà đài đang phát lại phim “Blouse Trắng”. Tôi đã được xem phim này
lần này là lần thứ hai, thật ra thì lần trước và cả lần này tôi vẫn
chỉ là xem được tập nào hay tập đó, chẳng bao giờ xem được hoàn toàn
bộ phim, vì những bận rộn và những bổn phận cắt ngang.
Nhân vật cuốn hút tôi trong bộ phim này
là người nữ bác sĩ tên Oanh, dĩ nhiên mỗi ngưòi có một lối nhìn và
một cách đánh giá vấn đề khác nhau, nhưng nơi tôi, tôi cảm nhận và
yêu mến nhân vật này, dẫu biết rằng đó chỉ là một nhân vật hư cấu,
nghĩa là được dựng lên theo truyện phim mà thôi.
Sống bản lĩnh, tỉnh táo trước mọi vấn
đề, đánh giá đúng thực trạng, không bị dư luận đưa đẩy và quyết tâm
làm điều đúng mà mình đã nhận định. Thân phận con người đã không
tránh cho nhân vật này thoát khỏi những khổ đau, trăn trở và kể cả
những thất bại cách này cách khác.
Câu truyện trong
Phúc Âm về người mù Ba-ti-mê làm cho tôi rõ hơn trong quả quyết Ơn
Gọi của đời mình. Một khi đã xác định đúng con đường của mình, nhất
là con đường ấy mang tên Giê-su, thì chẳng ngại ngần gì mà không
vững bước.
Cái đám đông cay
nghiệt và xu nịnh luôn là một trở ngại lớn cho ý chí của những ai
không đủ bản lĩnh và quyết tâm. Trước đó vài phút, một đám đông của
những kẻ tưởng mình mạnh, tưởng mình sáng mắt và tưởng rằng mình hữu
lý, họ đãù quát nạt anh Ba-ti-mê và bảo anh im đi. Có lắm khi mình
không đổ vỡ vì lỗi lầm hoặc hình phạt, nhưng vì những ánh mắt ghẻ
lạnh, những cái nhìn soi mói ác độc, đánh gục những con người đang
thoi thóp chờ một sự cảm thông. Người bạn ngày hôm qua còn đi lại
với mình hôm nay bỗng lạnh lùng tránh né, vẫn có những ngày đụng
thất bại trong cuộc đời, không tìm được một cuộc gặp gỡ để nhận sự
nâng đỡ.
Tôi nhớ lại một hình ảnh mà tôi thường
gặp ở ngay Xứ Đạo nhà tôi ngày tôi còn bé, bây giờ vẫn còn, có cái
là vị trí của tôi hôm nay đã khác với ngày xưa trong cùng một tình
huống đó. Tạ ơn Chúa, vì ngay từ dạo ấy, Chúa đã cho tôi có được một
góc nhìn từ vị trí một chú bé, để rồi ấn tượng đó sẽ giúp tôi lưu
tâm đến cách ứng xử của chính mình trong cương vị một Tu Sĩ Linh Mục
hôm nay. Góc nhìn đặc biệt ấy, ấn tượng không phai ấy chính là khung
cảnh một đám đông những ông Trùm, bà Quản, xô đẩy quát tháo dân
chúng, dẹp đường lấy lối cho cha xứ đi qua.
Trong một lần tôi về công tác ở một
Giáo Phận xa xôi, ngày ấy còn khó khăn lắm, Đức Cha cho tôi sử dụng
chiếc xe Niva ( loại xe thể thao của Liên Xô, hai cầu, để di chuyển
trong các địa hình phức tạp ) duy nhất của Đức Cha, thầy lái xe phải
khó khăn chật vật lắm mới vượt qua được đám đông Giáo Dân tụ về
trung tâm Giáo Phận để đón rước Đức Cha như trong một ngày Lễ Hội.
Bỗng vị Linh Mục đi cùng với tôi ( trong vai trò hướng dẫn ) mở cửa
xe, nhảy xuống, trong chiếc áo chùng đen, không biết lấy ở đâu mà
trong tay đã có sẵn một cây tre, ngài vung tay phát roi và la hét để
dẹp đám đông, mở đường cho xe Đức Cha len đi. Lúc đó tôi ngồi sững
trên xe, ngượng chín cả người, không biết phải độn thổ đi đâu !
Tôi cảm phục Đức
Cha Louis Phạm Văn Nẫm, nhiều lần, lúc sinh thời, đến dâng Thánh Lễ
ở đâu đó, thật bất ngờ, ngài tươi cười xuất hiện ở phòng áo và chào
mọi người, cả một đám đông với bao nhiêu là quan chức, cổng chào,
khăn áo, cờ quạt đã đón hụt ngài, vì ngài chỉ dùng chiếc xe hai
bánh, trang phục bình thường và len lén đi bằng cửa... sau. Hôm ấy,
chắc là không đứa bé lơ ngơ nào, không người đàn bà nghèo hèn tội
nghiệp nào bị quát nạt vì đã dám chạy ngang qua đám đông để chào đón
Đức Cha, hay chồm mình để nhìn cho được vị Giám Mục thân yêu của
mình.
Khi Chúa Giê-su cất tiếng gọi hỏi
Ba-ti-mê, thì đám đông tráo trở đã vội đổi ngay giọng với anh và
nhắc anh một cách tích cực, lại còn ân cần bảo: “Hãy cứ yên tâm”.
Người mù lúc nãy đã chẳng đếm xỉa gì đến lời quát nạt của đám đông
thì bây giờ cũng chẳng quan tâm mấy đến lời những đẩy đưa của bọn
họ. Thế mới thấy được sức mạnh của một con người đã biết chọn đúng
đường, chọn đúng đích, nhất là đường đó, đích đó lại mang tên
Giê-su.
Tôi với cha Quang
Uy, hai anh em đã có hơn một lần ngồi “tán” với nhau thật “đã” về
cái cú “nhảy chồm lên” của anh mù theo cách dịch của cha già Nguyễn
Thế Thuấn trong Dòng, tưởng tượng ra cái khoảng không đen tối trước
mặt, cái liều lĩnh can đảm, cái dứt khoát của lòng tin, cú nhảy của
anh mù quả thật là cú nhảy “muôn đời còn được nhắc đến”. Cú nhảy đó
xuyên qua màn đêm tối dẫn vào miền ánh sáng, cú nhảy khởi đầu một
chặng đường mới của một người cảm nhận Giê-su là tất cả của mình để
đi theo. Cú nhảy đó còn là cú nhảy xuyên qua cái xu nịnh nông nổi
của thế gian, cái vào hùa với định kiến, cái đón gió trở cờ và cái
quyền thế không nhắm đến việc phục vụ tha nhân mà đám đông ngày xa
xưa ấy quanh Chúa Giê-su và cả đám đông chúng ta hôm nay đang theo
đuổi một cách mù quáng khờ khạo !
Nếu chúng ta xác định được đường và
đích của mình mang tên Giê-su, thì nào, xin mời chúng ta hãy cùng
liều lĩnh nhảy chồm về phía Ngài, lao mình đến với Ngài.
Lm. VĨNH SANG,
DCCT, Chúa Nhật 29.10.2006
|
VỀ MỤC LỤC |
|
CHÓI CHANG |
(Mc 10:46:52)
Bóng đêm vây phủ quanh tôi,
ngày càng dầy đặc chơi vơi
ngàn trùng,
bước đi như giữa quãng
không,
tôi tìm ánh sáng cuối vùng
trời mây.
niềm hy vọng vuột tầm tay,
bao nhiêu mộng ước vươn dài
tháng năm,
càng mong càng thấy bặt tăm
. . .
Bóng tối tựa gọng kìm siết
chặt
ngàn cân đè đôi mắt ngày
đêm,
vùng trời hoang lạnh vô
biên,
ngàn cơn uất nghẹn nhận
chìm tấm thân.
Nhưng cơ hội ngàn vàng đã
tới,
tâm hồn tôi khấp khởi reo
mừng,
Bóng đêm như muốn nổ tung,
khi nguồn ánh sáng oai hùng
vươn lên.
Từ muôn thuở toàn dân
ngưỡng vọng,
bước Thiên Sai mở rộng quan
san,
niềm tin tô thắm địa đàng,
từ nay ánh sáng ngập tràn
lối đi.
Thày đứng đó uy nghi cao
cả,
suối tình yêu nhiệm lạ vô
song,
Tiếng Thày vang vọng không
trung,
như ngàn thác đổ vào lòng
thế nhân.
Con nhận biết muôn phần tội
lỗi,
như bức tường đêm tối bủa
vây,
từ nguồn ân sủng cao dầy,
từng luồng ánh sáng xé thây
đêm trường .
Thày lấy cả tình thương
trời bể,
lắng nghe từng lý lẽ con
tim,
từ nay sức mạnh niềm tin,
đẩy lui nỗi sợ khỏi miền tử
vong.
Khi vào tận cõi lòng hoang
vắng,
Thày khơi nguồn ánh sáng
chói chang,
bầu trời thánh sủng hân
hoan,
dậy niềm hy vọng chứa chan
ân tình.
Từ ngày Chúa Phục sinh vinh
hiển,
cơn mây mù tan biến hư
không,
Thày đi từng bước chập
chùng,
gieo mầm sống mới khắp vùng
nhân sinh.
Chính khi chọn đóng đinh
thập giá,
Thày thực thi “phép lạ”
Thiên Sai.
Khi vừa mới gặp chông gai,
môn đồ cao chạy xa bay, mặc
Thày.
Khắp thế giới đêm dầy bao
phủ,
cúi xin Thày quy tụ muôn
dân,
Tin Mừng vang nhịp thiên
thần,
trần gian rộn khúc tri ân
muôn loài.
Quê hương cát bụi tung bay,
trông chờ đến lúc đổi thay!
Bao giờ ?!
vân thanh
29.10.2006 |
VỀ MỤC LỤC |
|
SỐNG
LÀ CHUẨN BỊ CHẾT |
Suy tư về cái chết là suy tư về
cái sống. Chết là một phần của sự sống bỡi lẽ trong sự sống đã có sự
chết. Nó là cánh cữa nối liền hai thế giới như cữa sông đưa giòng
nước vào nguồn biển rộng mênh mông. Nó là người bạn trung thành nhất
của chúng ta. Nó là người bạn duy nhất không bao giờ quên chúng ta
và nó có thể đến viếng thăm chúng ta bất cứ lúc nào, vào sáng sớm
tinh sương hay vào lúc đã về xế chiều.
Chúng ta không cần nói đến
những cái chết đến với chúng ta từ những nguyên nhân bên ngoài như
do tai nạn, sự mưu sát, hay một nguyên nhân nào khác không cần biết.
Chỉ cần nói đến sự chết đang nằm sẵn trong bản tính con người chúng
ta. Như một hoa trái đang chín dần, mỗi ngày sống là một bước đi
chúng ta đang tiến dần về với cái chết đang chờ đợi mỗi người chúng
ta. Bên cạnh đó, trong cuộc sống hằng ngày cũng còn có rất nhiều
những mất mát, những thua thiệt khiến chúng ta cũng đã chết đi phần
nào trong con người chúng ta như mỗi khi chúng ta phải lựa chọn hay
mỗi khi phải ra đi. Mỗi lúc lựa chọn là mỗi lúc phải quyết định từ
bỏ. Từ bỏ khiến chúng ta phải mất đi một phần những cái thuộc về
chúng ta và điều đó làm chúng ta đau khổ và chết đi không ít. Mỗi
khi chúng ta phải lên đường ra đi vì công việc hay vì cuộc sống cũng
vậy. Chúng ta phải dứt bỏ tình cảm quen thuộc, dứt bỏ sự quyến luyến
tự nhiên mà một khi đã quen nhau chỉ muốn ở gần nhau. Sự ra đi lúc
nầy quả thật là một sự thương đau và cũng là một sự chết đi trong
lòng không ít cho người phải ra đi, vì không có ra đi nào không làm
lòng mình tê tái, cũng không có ra đi nào không để lại nỗi nhớ
thương. Nhưng chưa hết, không phải chỉ lúc chúng ta ra đi chúng ta
mới cảm thấy đau thương mà cả sự ra đi của những người thân yêu
chúng ta cũng để lại những cảm giác thương đau rất nhiều. Mỗi người
chúng ta thảy đều có kinh nghiệm nầy: cứ mỗi lần có một người bạn
thân hay một người trong gia đình chúng ta vĩnh viễn ra đi, chúng ta
thấy gì trong con người chúng ta ? Chúng ta cảm thấy con người chúng
ta cũng chết đi với họ, bằng chứng là chúng ta thấy mất hẳn sinh
lực, mất hẳn tinh thần, cũng như mất hẳn niềm vui để sống.
Cứ theo định luật tự nhiên, con
người được sinh ra, lớn lên, già đi và chết. Đó là định luật chung
của con người. Không ai có thể sống mãi mà không chết ngay dầu các
vua chúa ngày xưa đã cố gắng đi tìm thuốc trường sinh bất tử nhưng
họ cũng không tránh khỏi định luật khắc nghiệt ấy. Vì thế, chối từ
sự chết là lừa dối chính mình. Để sống cách trọn vẹn, người ta phải
can đãm chấp nhận sự sống lẫn sự chết. Sự sống quá tự nhiên đến nỗi
chúng ta không nghĩ đến ngày nó kết thúc.
Thái độ của con người đối với
sự chết luôn là một sự giằng co giữa sự lôi cuốn và sự khước từ. Mọi
người đều nhận ra rằng sự sống là mỏng manh, là ngắn ngủi và nó có
thể kết thúc bất cứ lúc nào.
Chính những tư tưởng về sự chết
đưa chúng ta đến vấn nạn nầy: Cái gì là chính yếu, là trường cửu đối
với con người chúng ta ? Chúng ta cần phải làm gì để đối đầu với cái
chết đang đến với chúng ta ? Vì thế, phản ảnh về sự chết là học cách
chúng ta phải sống hôm nay.
Người xưa đã sống đời sống như
có một sự sống khác quan trọng hơn là cuộc sống ở đây và bây giờ,
khiến họ sống cách xa cuộc sống hiện tại. Nhưng đối với giới trẻ hôm
nay, họ không thể chấp nhận cuộc sống như thế.
Thật vậy, nếu chối từ cuộc sống
chúng ta đang sống hiện tại hoặc chỉ chú trọng đến cuộc sống hôm nay
mà không nghĩ đến ngày mai chúng ta sẽ chết, cả hai đều không thực
tế. Vì thế, một số các nhà tâm lý học có khuynh hướng KiTô giáo hiện
đại đang có khuynh hướng nầy: Sống là chuẩn bị cho con người đi về
với cái Chết. Chính tư tưởng nầy đã giúp rất nhiều người thoát khỏi
khủng hoảng trầm trọng khi con người đối diện với cái chết, và nhờ
đó cũng đã giúp nhiều người chuẩn bị sẵn sàng để lên đường ra đi
cách an bình về với Thiên Chúa và về với những người thân yêu của họ
bên kia thế giới. Cũng chính những tư tưởng nầy đã giúp rất nhiều
nhà giàu sang phú quí thực thi đức bác ái, biết dùng của cải đời nầy
để mua lấy nước trời bằng cách chia xẻ phần nào những của cải của họ
cho những người nghèo khổ và nhờ thế nhiều người bất hạnh đã có được
một đời sống tương đối xứng đáng với phẩm giá con người hơn.
Nói đến đây, tôi nhớ đến câu
chuyện về hành vi thiếu bác ái của một người bạn đồng nghiệp của
tôi. Câu chuyện xem ra quá bình thường nhưng đã để lại một ký ức
không mấy tốt đẹp cũng như đã để lại một sự hối hận suốt đời cho
người bạn già của tôi. Hy vọng nó có thể giúp chúng ta có thêm kinh
nghiệm sống cho những ngày còn lại của chúng ta trên trần gian nầy.
Trong chuyến du hành sang Hy
Lạp, trên con đường từ Athens đến Kalambaka, người bạn già của tôi
đã kể cho tôi nghe câu chuyện của ông như sau:
Chiều hôm đó, khi đi ngang qua
một làng nhỏ của người da đen trong sa mạc Sahara. Như thường lệ,
khi có một người khách đến, mọi người trong làng chạy ra vây bao
quanh xe khách hoặc tò mò, hoặc để giành lấy những thực phẩm mà du
khách thường mang theo để tặng họ. Hôm đó, tôi có nhìn thấy một ông
lão già đang run lập cập vì lạnh. Nói về cái lạnh trong sa mạc xem
ra là khó tin nhưng thực tế là thế. Sahara thường được gọi là xứ
lạnh vào đêm nhưng rất nóng dưới ánh quang mặt trời. Mặt trời lặn
rồi, ông lão lạnh cóng. Bấy giờ, tôi có ý nghĩ cho ông ta một trong
những chiếc mền của tôi, nhưng tôi lại để tư tưởng đó qua đi vì tôi
nghĩ đêm đến tôi cũng sẽ cóng lạnh như vậy. Dầu tôi lý luận: ông có
thể quen với thời tiết ở đây hơn tôi, nhưng một chút bác ái trong
tôi cũng đã khiến tôi suy nghĩ lần nữa, tốt hơn là cho ông ta một
chiếc dẫu tôi có lạnh hơn một chút. Tuy vậy, khi tôi rời bỏ ngôi
làng, những chiếc mền vẫn còn nằm nguyên vẹn trên chiếc xe của tôi.
Bấy giờ, lương tâm tôi bắt đầu cắn rứt.
Khi đến nơi tôi có ý định đến,
tôi rảo một vòng đi tìm một chỗ để yên nghỉ và tôi đã tìm được một
nơi vừa ý thích. Tôi cố gắng nằm yên tựa chân lên một hòn đá lớn,
nhưng rồi tôi vẫn không yên tâm được. Tôi nhớ cách đó một tháng, một
người da đen đã bị nghiền nát bỡi một tảng đá to rơi xuống. Nên tôi
đã ngồi dậy để xem tảng đá chỗ tôi đang nằm có bảo đảm không. Tôi
thấy nó không được cân bằng cho lắm nhưng không đến nỗi nguy hiểm.
Tôi lại nằm xuống. Nếu tôi kể
lại điều mà tôi mơ thấy, có lẽ bạn sẽ cảm thấy lạ lùng. Điều đáng
buồn cười là tôi mơ thấy tôi đang ngủ dưới một hòn đá lớn và rồi vào
một lúc, tôi thấy hòn đá di động và rơi xuống trên tôi. Tôi nghe
thấy tiếng xương kêu răng rắc và tôi cảm thấy mình sắp chết vì cả
thân xác bị nghiền nát dưới tảng đá ấy. Nhưng tôi ngạc nhiên vì
không cảm thấy mình đau đớn gì cả, chỉ có một điều là không thể cử
động được. Bấy giờ tôi thấy ông lão đang run rẩy trước mặt tôi.
Không do dự một chút nào cả, tôi vội vàng lấy ngay một chiếc mền
không được dùng đến đang nằm đàng sau tôi để trao cho ông. Tôi cố
gắng giang tay ra để đưa nó cho ông. Nhưng viên đá khổng lồ ấy khiến
tôi ngay cả một cử động nhỏ cũng không thể làm được. Tôi sợ quá nên
chợt tỉnh giấc. Chính cơn ác mộng ấy đã giúp tôi suy nghĩ và hiểu
được luyện ngục là gì, cũng như đã hiểu được nỗi khổ đau của các
linh hồn là không còn có thể làm được điều mà trước đây họ có thể và
lẽ ra nên làm.
Có ai biết được bao nhiêu năm
trời sau đó tôi cứ phải bị ám ảnh và ray rứt trong lương tâm mỗi khi
nhìn thấy chiếc mền như một bằng chứng cho sự ích kỷ của tôi cũng
như cho sự chưa đủ trưởng thành của tôi để vào nước của Tình Yêu?
Tôi cố gắng nghĩ đến bao lâu
tôi đã phải ở dưới hòn đá khổng lồ ấy ? Và có sự đáp trả cho tôi
rằng cho đến khi tôi có thể làm được một hành động của tình yêu trọn
vẹn. Bấy giờ, tôi cảm thấy mình hoàn toàn bất lực.
Tôi đưa mắt hướng nhìn đi nơi
khác và tôi đã nhìn thấy những bia đá đang nằm trước mặt tôi không
gì khác hơn là những nấm mồ của những người đã nằm xuống. Họ cũng
vậy, cũng bị xét xử theo hành động trọn vẹn của tình yêu của họ, và
giờ đây họ nằm ở đó đang mong chờ Vị Cứu Thế đến giải cứu họ trong
ngày sau hết.
Hành động trọn vẹn của tình yêu
là gì ? Là Chúa Giêsu đi lên đỉnh đồi Calvê để chết cho hết thảy
chúng ta. Như những phần tử của nhiệm thể, chúng ta cũng sẽ được hỏi
để cho thấy chúng ta có đủ tình yêu trọn vẹn ấy để theo Ngài lên
đỉnh đồi Calvê không ? Sự khước từ làm những việc bác ái cho những
người anh em chúng ta nói lên cho chúng ta thấy rằng chúng ta còn có
cả một con đường dài nữa phải đi. Nếu chúng ta đã có thể đi qua một
người anh em đang run rẩy vì lạnh, một người anh em đang gặp hoạn
nạn bên vệ đường, làm cách nào chúng ta có thể dám chết đi cho những
người anh em khác như Chúa đã chết đi cho hết thảy chúng ta.
Nếu chúng ta không muốn nằm lâu
bất động dưới những viên đá khổng lồ đó thì bây giờ ngay khi còn
sống, hãy làm những gì chúng ta có thể làm được cho những người anh
em chúng ta để làm hành trang chuẩn bị sẵn sàng cho ngày Chúa gọi
chúng ta lên đường về bên kia thế giới.
Lm. Lê Văn
Quảng
|
VỀ MỤC LỤC |
|
Lời
từ tấm bia mộ |
Vào những dịp giỗ chạp, ngày
lễ cầu cho các Linh hồn đã qua đời, dịp đầu Năm mới hay dịp nào về
thăm quê nhà...chúng ta thường dành thời giờ ra nghĩa trang thăm
viếng phần mộ người thân nằm nơi đó.
Nghĩa cử này nói lên sâu đậm
tâm tình lòng trung thành và biết ơn của người còn sống với người đã
qua đời.
Ðến thăm viếng nơi đó, lẽ dĩ
nhiên, ta chỉ có thể tâm tình một mình với người nằm chôn sâu kín
trong lòng đất. Người đã qúa cố không biết có nghe được ta nói gì
không? Ta thì không nghe thấy họ nói gì với ta. Dẫu thế, ta tin là
mối dây liên lạc thần giao cách cảm linh thiêng nối kết hai thế giới
người chết và người còn sống lại với nhau. Và tấm bia đá đặt dựng
trên nấm mộ của họ nói cho ta một vài tâm tình, như nói thay cho
người nằm dưới đó
"Tôi
là một tảng đá nặng nề vô hồn được đặt dựng trên nấm mồ của người
nằm dưới đây. Tôi không phải là người canh mồ, cũng không phải là
vật chắn lối cản trở người khác đến gần nấm mồ đâu.
Người đã qúa cố bây giờ nằm
chôn sâu kín trong lòng đất, vâng xương thịt đã tan rã thành bụi
đất. Nhưng họ không biến mất hẳn khỏi sân khấu cuộc đời đâu. Tên
tuổi, ngày chào đời, ngày sau cùng đời sống và quê quán của họ, và
có khi cả hình chụp khi xưa nữa, được đục khắc ghi vào bia đá đây.
Dù trải qua năm tháng nắng mưa ở giữa trời, nhưng còn vẫn rõ nét,
vẫn đọc được. Bia đá ghi giữ lại căn cước của người qúa.
Cây Thánh gía dấu hiệu lòng
tin của người qúa cố cũng được đục khắc ghi sâu đậm nét vào bia đá.
Cây Thánh gía không phải là dấu hiệu của sự chết. Nhưng là dấu chỉ
lòng tin ơn cứu độ, mà Chúa Giêsu đã đem lại cho con người.
Cây thánh gía là biểu hiệu
của sự sống. Chúa Giêsu đã chết trên thập gía và đã sống lại. Ngài
đã biến đổi cây thánh gía thành cây mang lại sự sống ơn cứu độ.
Chắc chắn, trong đời sống ai
cũng phải trải qua nhiều giai đoạn lên xuống, đau khổ, hy sinh, thất
vọng, bệnh tật đau đớn... Ðó là những giăng ngang lối cuộc đời. Cây
Thánh gía khắc ghi trên phần mộ nói lên: cuộc đời người qúa cố nằm
nơi đây không thiếu những bước giăng ngang lối cuộc đời như bao
người khác!
Chiều dọc thẳng đứng của cây
Thánh gía diễn tả sự liên đới giữa Thiên Chúa với người đã qua đời.
Và chiều ngang cây Thánh gía nói lên sự tương quan giữa người qúa cố
với người còn đang sống trên trần gian.
Trong đời sống ai cũng phải
trải qua nhiều chặng đường thông thường cũng như bất thường. Vì thế:
Xin đừng buồn sầu thất vọng
về đời sống, dù khi gặp phải cảnh phức tạp khó khăn. Nhưng hãy vững
niềm tin: Thiên Chúa là nguồn hy vọng sẽ vực dậy cho sống lại.
Xin đừng nói mình bị lôi
cuốn vào vòng đau khổ bệnh tật. Nhưng hãy vững niềm tin: Thiên Chúa
cảm hóa chúc lành cho cuộc đời.
Xin đừng nghĩ rằng bị đẩy
xa khinh chê cô đơn trong đời sống. Nhưng hãy vững niềm tin: Thiên
Chúa không bỏ rơi ai. Người hằng hướng dẫn đời sống, như người mẹ
cầm tay dẫn con mình đi.
Xin đừng cho rằng một mình
phải vượt qua những cay đắng trên đường đời. Nhưng hãy vững niềm
tin: Thiên Chúa hằng đồng hành giúp đỡ.
Xin đừng định kiến rằng mọi
sự chấm dứt với cái chết. Chết là hết! Nhưng hãy vững niềm tin:
Không, chết không phải hết, nhưng là khởi đầu một đời sống mới.
Chính Chúa Giêsu đã trải qua
sự chết trước khi sống lại. Ngài là chúc phúc lành cho niềm hy vọng
của con người.“.
Lm. Nguyễn
ngọc Long
|
VỀ MỤC LỤC |
|
Niềm vui
trong Chúa là sức mạnh con |
Có làm là có thất bại. Con
chỉ không thất bại, khi không bao giờ làm cái gì mà thôi. Thường
thường khi làm việc (việc tư cũng như việc công, việc nhà cũng
như việc cộng đoàn), thành công nhiều hơn thất bại. Nhưng nếu
thành công, con coi đó là tự nhiên. Tự nhiên nên mau quên. Nhưng
nếu thất bại, con coi đó là bất thường. Bất thường nên ám ảnh.
Tuy biết « thất bại là mẹ thành công », nhưng khi thất bại, bị
ám ảnh lâu dài, con sẽ thôi không làm nữa. Do đó, thất bại
thường có nghĩa là đã bắt đầu khai tử thành công.
Con họat động là để đi tìm
niềm vui. Niềm vui phục vụ. Phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân.
Con chỉ vui khi thành công, mà hoạt động nào cũng có thất bại,
nên trong khi đi tìm vui, có thể con sẽ gặp buồn. Thấy buồn, vì
con đánh gía mình bằng thành công. Thấy buồn, vì không đựợc
người đời kính phục. Ðời chỉ kính phục những người thành công.
Nhưng Chúa đánh gía con
không phải do thành công hay thất bại, mà do con có chịu làm hay
không làm : làm cho Chúa và làm cho tha nhân. Chân lý ấy làm cho
con vui, dù việc con đang làm có thể mang lại thất bại hoặc
chẳng bao giờ gặt hái được thành công. Gía trị của con do Chúa
đánh gía thì khác với gía trị của con do người hoặc do chính con
đánh gía con. Niềm vui của con là hoa trái Thánh linh (Gal.
5,22), bắt nguồn nơi Chúa, không bắt nguồn nơi người hoặc bắt
nguồn nơi con. Niềm vui đó thúc đẩy con làm việc và vẫn có thể
ca hát trong thất bại cay đắng. Thi hào R. Tagore cho rằng :
« Thượng Ðế kính phục tôi, khi tôi làm việc, nhưng Ngài yêu mến
tôi, khi tôi ca hát ».
Lạy Chúa ! Con cố gắng làm
cả hai. Con vẫn không ngừng ca hát khi làm việc, bất kể thất bại
hay thành công. Vì con biết có Chúa kính phục con và yêu thương
con là đủ rồi.
Cố Lm.
Giuse Vũ xuân Huyên + |
VỀ MỤC LỤC |
|
TÌNH CẢM HAY
TÌNH YÊU |
Phúc Âm
Nhật Ký Ngày
22.10.2006
(Mc 10:35-45)
Cách đây hơn 21 năm,
nhân kỷ niệm 20 năm kết thúc Công đồng Vatican II, Giáo hội đã lên
tiếng : “Ngày nay, khắp nơi chúng ta chứng kiến thế giới gia tăng
nghèo đói, đàn áp, bất công và chiến tranh, đau khổ, khủng bố, và đủ
loại hình thức bạo lực khác. Cần phải có một suy tư thần học mới và
sâu xa hơn để giải thích các dấu chỉ thời đại này dưới ánh sáng Tin
Mừng.”
Lạ chưa ! Giữa lúc ai cũng tránh xa và không muốn nghĩ tới những
tai họa đó, Giáo hội lại thấy đó là những dấu chỉ thời đại và nỗ lực
tìm kiếm giá trị cứu độ nơi những khổ đau đó. Vì xét cho cùng, “tự
bản chất hiệp thông, Giáo hội là một nhiệm tích cứu độ nhân loại.”
Trước một nhân loại
và dân tộc đang đau khổ về nhiều mặt như thế, thường người ta đặt ra
câu hỏi : Giáo hội phải làm gì ? Nhưng đó chỉ là câu hỏi phóng về
tương lai. Cần phải hỏi ngược về quá khứ hay về tận nguồn để thấy
toàn thể vấn đề. Câu hỏi về tận nguồn đòi chúng ta phải nhìn vào
lòng đời để thấy được lòng mình.
Nói khác, những hiện trạng đau thương đó có tố cáo thực trạng tâm
hồn và cuộc sống người Kitô hữu không ? Liệu chúng ta có thể phủi
tay được trước những đau khổ của người khác không ? Cách nào đó,
phải chăng những nạn nhân thời cuộc không do những bàn tay lông lá
của chúng ta gây ra ? Những câu hỏi này không do tưởng tượng phi
lý. Rõ ràng trước thánh lễ chúng ta vẫn đấm ngực cả về “những điều
thiếu sót” nữa. Ðây chính là lúc chúng ta cần xét đến những điều
thiếu sót trong sứ mệnh làm chứng hôm nay. Nếu chúng ta sống sát
Tin Mừng, liệu nhân loại có đau khổ như vậy không ? Từ những vấn
nạn đó, đi đến một câu hỏi sâu hơn : khi được sai vào trần thế,
chúng ta đã sống và hoạt động theo hướng nào ?
Muốn tìm được câu
trả lời đích xác, chúng ta cần dựng lại khung cảnh và tâm trạng các
môn đệ theo Chúa Giêsu ngày xưa. Các ông là những người rất đặc biệt
vì đã được tuyển chọn làm tông đồ (tiền thân của giám mục). Nhưng
tinh thần thế tục vẫn chưa gột sạch khỏi đầu óc. Các ông tìm mọi
cách để “cỡi lên đầu lên cổ người ta.”
Muốn đổi đời, phải biết mình đang sống theo tinh thần nào.
Không thể lấy tinh thần thế tục mà cải hóa thế gian.
Ngay giữa hàng ngũ
tông đồ, các ông không đối thoại với nhau. Bằng chứng, thấy sự kiện
Chúa nhỏ to với ông Giacôbê và ông Gioan, “mười môn đệ kia đâm ra
tức tối.”
Ðúng là tình cảm đã làm cho con người tự ái quá mức, khiến họ
không còn nhìn thấy vấn đề và hiểu thấu nỗi khổ tâm của anh em nữa.
Họ có biết câu truyện kết thúc thế nào đâu. Tai họ chỉ nghe phần
mở đầu câu truyện. Phần kết nếu có lọt vào tai cũng không lọt tới
tim họ. Không hiểu hết câu truyện, họ cũng chẳng thèm hỏi lại cho
rõ. Trái lại, cứ phản ứng theo ý mình. Họ chỉ nghe những điều muốn
nghe. Ðó là chỗ bế tắc. Không có hiệp thông, cũng không có đối
thoại. Mỗi người chỉ biết có mình. Họ không thông cảm với hai anh
em đang muốn “độn thổ” vì bị Chúa “gài độ.” Hai anh em đỏ bừng
mặt. Giữa lúc “tẽn tò” như thế, hai anh em lại đụng phải sự tức tối
và cái nhìn hằn học từ phía các bạn cùng Nhóm Mười Hai. Tại sao
không trực tiếp nói truyện với hai anh em để tìm hiểu đầu đuôi câu
truyện và giải quyết vấn đề ? Ðối thoại hoàn toàn bế tắc.
Ðây là cơ hội ngàn
vàng để Chúa dạy một bài học đắt giá về bản chất môn đệ khi được
Chúa Kitô sai đi làm chứng và cứu độ nhân loại.
Bài học đó khởi đầu
từ một hướng sống Chúa vạch ra khi đi vào trần gian : “Con Người đến
để phục vụ.”
Nếu không phục vụ, chắc chắn Chúa đã không thể nâng con người lên
địa vị con Thiên Chúa. Thánh nhân là Tông đồ dân ngoại, vì đã vất
vả và thành công vượt mức trong việc truyền giáo. Thành quả cao quí
đó bắt nguồn từ thái độ rất khiêm tốn của Thánh Nhân.
Thực vậy, “là nhà truyền giáo có nghĩa là cúi xuống phục vụ những
nhu cầu của mọi người, như người Samaritanô nhân hậu, nhất là những
người nghèo túng và những người cùng khổ nhất, bởi vì ai yêu thương
bằng con tim của Chúa Kitô thì không mưu tìm lợi ích riêng, nhưng
chỉ tìm vinh danh Thiên Chúa và điều thiện hảo cho tha nhân.”
Như thế, muốn phục
vụ hữu hiệu, nhà truyền giáo phải tìm hiểu và quan tâm tới nhu cầu
tha nhân. Chủ quan vạch ra những đường hướng theo ý mình, và tưởng
đó là ý Chúa, họ sẽ không thể phục vụ mọi người. Không hiểu tha
nhân đang cần gì, mà chỉ chú ý đến chương trình và kế hoạch đã vạch
sẵn, sẽ làm cho quần chúng xa rời và chán nản. Nếu có một quả tim
như Thiên Chúa, chắc chắn họ đã có thể tìm được một đường hướng phục
vụ hữu hiệu rồi. Nếu không, vinh danh Thiên Chúa và thiện ích tha
nhân phải nhường bước cho tư lợi hay tham vọng quyền bính. Ðó chính
là nguyên nhân dẫn đến thất bại trong việc truyền giáo.
Công cuộc truyền
giáo ở Việt nam hiện tại có vấn đề không ? Làm cách nào giải quyết
những vấn đề “thâm căn cố đế” trong Giáo hội Việt nam ?
Trước hết, ÐGH
Bênêđictô XVI nhắc lại lời ÐGH Gioan Phaolô II. “Linh hồn của mọi
hoạt động truyền giáo: Tình yêu đã là và vẫn sẽ là sức mạnh chủ đạo
của việc truyền giáo, đồng thời cũng là tiêu chuẩn duy nhất để xét
đoán điều gì phải làm hay không nên làm, phải thay đổi hay không
thay đổi. Tình yêu là nguyên tắc hướng dẫn mọi hành động và là mục
tiêu để mọi hoạt động nhắm tới. Khi chúng ta hành động vì đức ái,
hoặc được khởi hứng bởi đức ái thì không có gì là không thích đáng
nhưng tất cả đều tốt.”
Như vậy, tình yêu vừa là động lực, mục tiêu và nguyên tắc hướng dẫn
cho công
cuộc
truyền giáo. Không theo đúng hướng đó, tất nhiên không thể có kết
quả như mình mong muốn. Gieo nhân nào gặt quả đó. Sống trong nghi
kỵ, ghen tương, ganh đua, lấn lướt, làm sao có thể hiệp thông ?
Không hiệp thông làm sao có bác ái ? Không bác ái, thì lấy gì rao
giảng ?
Tình yêu là tất
cả. Nếu đúng vậy, ai dám trách cứ chúng ta không có tình yêu khi
dấn thân truyền giáo ? Có dân tộc nào nổi tiếng giàu tình cảm hơn
chúng ta ? Vậy mà, thực tế lịch sử truyền giáo Việt nam có quá
nhiều vấn đề. Chúng ta thua xa Giáo hội Ðại Hàn. Kinh nghiệm cho
thấy chúng ta giàu tình cảm chứ không giàu tình yêu. Tình yêu khác
với tình cảm. Có lẽ cần phải đọc lại thông điệp đầu đời Giáo hoàng
của Ðức Bênêđictô, để thấy rõ sự khác biệt giữa agape và
eros. Một dân tộc giàu tình cảm như chúng ta có lẽ ít ai vượt
qua ải eros để tới lãnh vực agape. Tình cảm dễ làm
con người mù quáng, không nhìn thấy gì ngoài cái tôi cồng kềnh của
mình. Nhất là khi nắm được quyền bính trong tay, cái tôi càng nối
dài với mũ gậy cân đai, tôi càng khó đến với anh em. Cuộc đối thoại
bế tắc vì những rào cản ngất ngưởng.
Nếu chỉ có tình cảm
mà không tình yêu, con người không thể phục vụ đúng nghĩa. Tình cảm
khiến con người co cụm lại. Cái tôi được thổi phồng quá mức, đến
nỗi không còn nhìn thấy tha nhân và những nhu cầu thực sự của họ
nữa. Chính vì thế, người Pháp mới nói trong mỗi người Việt nam có
một ông quan. Nhưng, như tôi đã từng nhận định, không phải một ông
quan, nhưng là một ông tướng đang phùng má trợn mắt trong mỗi người
Việt nam chúng ta.
Tình cảm bao giờ
cũng đòi hai chiều. Có đi có lại mới toại lòng nhau. Hòn đất ném đi
hòn chì ném lại. Bánh ích đi bánh quy tới. Tình yêu mới hoàn toàn
vô vị lợi. Khi yêu nhau thực, chúng ta sẽ biết lắng nghe, học hỏi
và chấp nhận nhau. Chúng ta sẽ biết cách tôn trọng những khác biệt
của người khác. Không yêu nhau, chúng ta sẽ chỉ tìm cách lấn lướt
người khác và thiếu vắng hẳn sự thông cảm. Nhìn vào khung cảnh sống
giữa Thày Trò Chúa Giêsu sẽ thấy ngay vấn đề. Chỉ nghĩ đến mình và
thiếu khiêm tốn, nên hai ông Giacôbê và Gioan đã vẽ cho Chúa một
tương lai hoàn toàn có lợi cho mình.
Các ông khác cũng không khá hơn.
Trung tâm cuộc sống chỉ là cái tôi mà thôi. Nhóm Mười Hai quy tụ
những cái tôi kếch xù. Cuộc va chạm nhiều khi nảy lửa. Thày bị gạt
qua một bên. Thày có đó. Nhưng mọi người coi Thày như “pha.”
Nhưng Thày không
phải là một con người yếu bóng vía và kém bản lãnh. Thày thiết lập
quân bình rất nhanh. Phải thấy được hướng sống của Thày phát xuất
từ một tình yêu tuyệt vời, mới hiểu tại sao Thày hy sinh cao độ như
vậy. Không tình yêu, Thày không thể nào phục vụ cho đến chết. Thày
chết không phải để chết. Nhưng mục tiêu tối hậu của việc phục vụ đó
là “giá chuộc muôn người.”
Nhờ vậy, Người “sẽ làm cho muôn người nên công chính.”
Rõ ràng Người đã lấy chính mạng sống mình để xây dựng Nước Thiên
Chúa. Người hy sinh mạng sống cho mọi người sống hạnh phúc và bình
an .
Theo gót Thày Chí
Thánh, Giáo hội cũng phục vụ quyền lợi của nhân loại, chứ không nhằm
bành trướng tổ chức của mình. “Ðức ái, linh hồn của Truyền giáo,”
mở rộng mọi biên cương. Không có một biên giới văn hóa, chủng tộc,
kinh tế, chính trị nào có thể ngăn cản được bước chân nhà truyền
giáo. Quả thực, “chứng tá tình yêu, linh hồn của truyền giáo, liên
quan tới mọi người. Phục vụ Tin Mừng là một bổn phận chung nối kết
mọi cộng đồng.”
Thực tế, có chỗ nào
Giáo hội tìm được những “chứng tá tình yêu” cho bằng gia đình ?
Giữa cuộc khủng hoảng gia đình rộng lớn hôm nay, sứ mệnh truyền
giáo của gia đình càng quan trọng. Công cuộc tân Phúc Âm hóa phải
bắt đầu từ gia đình. Giá trị gia đình có được bảo đảm, tôn trọng và
phát huy, con người mới có đủ đức tính để phục vụ lợi ích đồng
loại. Nếu không có gia đình, con người không được giáo dục để thấu
hiểu giá trị đích thực của tình yêu và không có khả năng phục vụ.
Do đó, họ cũng không thể tham gia vào công cuộc Phúc âm hóa toàn
cầu.
Chính trong gia
đình, tình yêu được nẩy nở và trở thành động lực cho mọi sinh hoạt,
kể cả truyền giáo. Từ đó đức ái mới được hiểu đúng nghĩa, vượt qua
giới hạn của eros, tới lãnh vực agape. Chỉ có tình
yêu này mới là đức ái thực sự. “Nếu truyền giáo không được đức ái
định hướng, nghĩa là, nếu không phát xuất từ hành vi yêu mến Chúa
sâu xa, thì có nguy cơ chỉ còn là hoạt động từ thiện xã hội mà
thôi. Thật vậy, tình yêu mà Thiên Chúa dành cho mỗi con người tạo
thành cốt lõi của sức sống và lời rao giảng Tin Mừng, và đến lượt
tất cả những ai cảm nhận tình yêu
ấy đều trở thành chứng nhân cho Tin
Mừng.”
Ðịnh hướng truyền
giáo như thế, Giáo hội thấy rõ bản chất của việc truyền giáo hay
Phúc âm hóa. “Ngày nay truyền giáo hay Phúc âm hóa không phải là
việc bành trướng Giáo hội cũng không còn là lời kêu gọi ưu tiên gởi
đến những người ngoài Kitô giáo nữa. Ðúng hơn, sống truyền giáo
theo nghĩa Phúc âm hóa là phục vụ thế giới một cách vô vị lợi, noi
theo bản tính Thiên Chúa luôn hướng tới tha nhân.”
Ðó là agape đúng nghĩa nhất và là động lực mạnh nhất bảo đảm
cho công cuộc truyền giáo đạt kết quả tốt đẹp nhất.
Nhìn lại chính con
người mình, tôi cảm thấy thật xấu hổ. Tự bản chất, tôi là người
Việt nam. Bởi thế, tôi cũng không khỏi bị tình cảm chi phối. Sự
thật và tình yêu nhiều lúc cũng xa tít mù khơi. Bởi đó, không những
không làm gì nên hồn, tôi còn nhìn đời bằng màu đen. Chúa dạy phải
yêu kẻ thù. Thực tế, tôi không yêu nổi anh em. Khi hứng chí, tôi
làm chết bỏ. Lúc chán nản, tôi không muốn động tay động chân động
não. Tôi sống như người không biết Chúa Kitô. Nhất là khi gặp những
thất bại hay thất vọng, tôi dễ buông xuôi. Tôi thích nghe nhạc buồn
hơn là tìm đến Lời Chúa.
Giữa lúc đó, tự đáy
con tim, bỗng vang lên : “Con Người đến không phải để được người ta
phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn
người.”
Tôi bừng tỉnh. Trung tâm cuộc sống đã thay đổi. Nỗi buồn tắt
ngúm. Niềm vui vang dậy với bản tình ca Alleluia !
Lạy Chúa,
xin cho con sống thật tình với Chúa để con có thể vận dụng tất cả
trái tim và bàn tay tham gia vào công cuộc Phúc âm hóa nhân loại
hôm nay. Amen.
đỗ lực
22.10.2006
dzuize@gmail.com
x.
Kavunkal J.,
Mission or
Evangelization?
Mission Studies,
Volume 21, Number 1, 2004, pp. 55-64 (10)
Mc 10:45.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
ĐÀO
TẠO VÀ TỰ ĐÀO TẠO THIÊNG LIÊNG (tiếp theo) |
Tác phẩm ĐÀO TẠO VÀ TỰ ĐÀO TẠO THIÊNG
LIÊNG CỦA CÁC LINH MỤC TƯƠNG LAI TRONG BỐI CẢNH VIỆT NAM NGÀY
NAY
Nguyên bản tiếng Anh
Lm. Micae-Phaolô TRẦN MINH HUY
Bản dịch Việt ngữ
Lm. Vincentê Trần Minh Thực, Lm. GB.
Nguyễn văn Hào
PHẦN II
NHỮNG GIÁO HUẤN CỦA HỘI
THÁNH VỀ VIỆC ĐÀO TẠO THIÊNG LIÊNG
CHO CÁC CHỦNG SINH
Các ứng sinh linh mục phải chuẩn bị một
cách có ý thức để lãnh nhận và sống ân huệ của Thiên Chúa và
luôn hiểu rằng Hội thánh và thế giới đang rất cần đến họ.70
Đời sống thiêng liêng phải bao gồm và chi
phối toàn bộ đời sống con người, vì đời sống thiêng liêng là đời
sống nhân bản được sống trong Chúa Thánh Thần. Môi trường hiện
tại dẫn đến một hoàn cảnh và hoàn cảnh này lại gây ra những thay
đổi sâu xa trong Hội thánh và thế giới. Hoàn cảnh ấy buộc chúng
ta phải đặt ra vấn nạn: “Hội Thánh ngày nay và thế giới ngày nay
cần kiểu linh mục nào?” Câu trả lời cho vấn nạn này sẽ giúp ích
rất nhiều cho công việc hình thành một chương trình đào tạo phù
hợp. Trong khi tìm kiếm một số hướng trả lời, tác giả sẽ quan
sát, lượng định, và phân tích một số giáo huấn của Hội Thánh về
đời sống thiêng liêng, đặc biệt là đời sống thiêng liêng của các
linh mục.
Như đã được đề cập trên đây, việc đào tạo
thiêng liêng là yếu tố trung tâm trong sứ mệnh của bất cứ chủng
viện nào, vì thế “thiếu đào tạo thiêng liêng, việc đào tạo mục
vụ sẽ không có nền tảng.”71
Một số tài liệu của Hội Thánh về tiến trình
đào tạo thiêng liêng sẽ được nghiên cứu gồm:
* Optatam Totius (Đào Tạo Linh Mục) và
Presbyterorum Ordinis (Sứ Vụ và Đời Sống Linh Mục) của Công Đồng
Vaticanô II;
* Pastores Dabo Vobis (Những Mục Tử Như
Lòng Mong Ước) và Ecclesia in Asia (Hội Thánh tại Á Châu), Tông
Thư Hậu Thượng Hội Đồng Giám Mục của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô
II;
* Ratio Fundamentalis Institutionis
Sacerdotalis (Lược Đồ Cơ Bản cho Việc Huấn Luyện Linh Mục) và
Spiritual Formation in Seminaries của Thánh Bộ Giáo Dục Công
Giáo.
* Một số Bài Diễn Văn của Đức Thánh Cha
cũng được đề cập tới.
* Các tài liệu của Liên Hiệp Hội Đồng Giám
Mục Á Châu (FABC), và của Hội Đồng Giám Mục Việc Nam (HĐGMVN)
cũng sẽ được nghiên cứu.
CHƯƠNG IV
GIÁO HUẤN CỦA HỘI THÁNH
HOÀN VŨ
VỀ VIỆC ĐÀO TẠO THIÊNG
LIÊNG
A. Tài Liệu của Công
Đồng Vaticanô II
1. Đào
Tạo Linh Mục (Optatam Totius)
Optatam Totius đưa ra nghiên cứu súc tích
nhất về những mục đích của bất cứ chương trình đào tạo nào và
nhấn mạnh đến việc đào tạo thiêng liêng.72
Trước hết, Đời Sống Thiêng Liêng Sâu Xa và
Cảm Thức về Mầu Nhiệm Hội Thánh: Đời Sống Thiêng Liêng Sâu Xa
phải giúp các chủng sinh tập sống trong tình hiệp thông mật
thiết và liên tục với Chúa Ba Ngôi, bằng các biện pháp: trung
thành suy ngẫm Lời Chúa, tích cực tham dự vào các mầu nhiệm
thánh của Hội Thánh, đặc biệt là Thánh Thể và Kinh Thần Vụ, tìm
kiếm Chúa Kitô nơi người khác, đặc biệt là những người nghèo khổ
và nhỏ bé, và lòng tôn kính hiếu thảo với Đức Trinh Nữ Maria.73
Cảm Thức về Mầu Nhiệm Hội Thánh sẽ được
diễn tả bằng lòng gắn bó con thảo với Đức Giáo Hoàng, bằng việc
trung thành cộng tác với các Giám Mục, bằng sự hoà hợp với anh
em linh mục, để làm chứng về sự hiệp nhất của Hội Thánh. Họ phải
bày tỏ lòng sẵn sàng đón nhận quyền bính với xác tín sâu xa và
vì những lý do siêu nhiên. Bằng lòng yêu mến như thế đối với Hội
Thánh, họ củng cố đời sống thiêng liêng.74
Thứ đến, Đời Sống Độc Thân Linh Mục phải
được trình bày hết sức kỹ lưỡng cho các chủng sinh như là một
món quà quí giá của Thiên Chúa, với tình yêu không chia sẻ vì
Nước Trời. Công tác đào tạo này cần được bổ sung bằng những khám
phá mới nhất của khoa sư phạm và tâm lý lành mạnh,75 nhằm biết
làm thế nào tránh được những hiểm nguy đe doạ đức trong sạch,
làm thế nào đạt tới mức trưởng thành về nhân bản và làm chủ suy
nghĩ, cơ thể, bản năng, tình cảm và những đam mê của mình.
Các chủng sinh cần được huấn luyện trong
tinh thần vâng phục của linh mục, tinh thần nghèo khó và từ bỏ,
để họ có thể tự nguyện từ bỏ ngay cả những thứ hợp pháp nhưng
không thiết thực. Họ phải khiêm tốn hướng tới và đáp lại đời
sống độc thân linh mục một cách tự do và quảng đại dưới ơn trợ
giúp và tác động của Chúa Thánh Thần, với những phẩm chất tốt
đẹp như thành thật, lòng yêu mến lẽ công bình, lòng trung thành
với những lời cam kết, thái độ lịch lãm trong hành động, lòng
khiêm tốn và bác ái trong lời nói.76
Và sau cùng, Optatam Totius ước mong sao
các Giám Mục dành riêng ra một khoảng thời gian thích hợp để
chuẩn bị kỹ lưỡng hơn về thiêng liêng và sắp xếp công việc mục
vụ để thử thách mức độ phù hợp của các ứng viên tiến tới chức
linh mục.77
2. Sứ
Vụ và Đời Sống Linh Mục (Presbyterorum Ordinis)
Presbyterorum Ordinis tập trung vào những
đòi hỏi thiêng liêng.78
Trước hết, Lòng Khiêm Tốn và Vâng Phục: Đức
tính quan trọng nhất của các linh mục là luôn sẵn sàng nhận ra
và thi hành ý Chúa, chứ không phải ý riêng mình. Ý thức được sự
yếu đuối của mình (1 Cr 1,27), các ngài khiêm tốn làm việc và cố
gắng làm điều đẹp lòng Chúa (Ep 5,10), các Ngài hiểu và dấn bước
theo khát mong của Thiên Chúa trong những tình huống bình thường
của đời sống hằng ngày.
Lòng bác ái mục tử thôi thúc các linh mục
dâng hiến ý muốn của riêng mình bằng lòng tuân phục nhằm phục vụ
Thiên Chúa và người khác. Bằng tinh thần đức tin, các ngài vâng
phục Đức Giáo Hoàng, Giám Mục Bản quyền và các Bề Trên của mình,
trong nhiệm vụ được trao, dầu tầm thường và vô danh, để xây dựng
Nhiệm Thể Chúa Kitô. Lòng tuân phục này thăng tiến tự do trưởng
thành. Bằng lòng khiêm tốn và tuân phục có trách nhiệm, các ngài
trở nên thích hợp với Chúa Kitô (Pl 2,7-9; Rm5,19).
Thứ hai, Món Quà Đời Sống Độc Thân: Được
Hội thánh Latinh quyết định và bó buộc, Đời Sống Độc Thân được
gìn giữ và đánh giá như là món quà của Thiên Chúa, được đón nhận
và tuân giữ như một giá trị cao quí của đời sống linh mục. Nó là
một dấu chỉ của đức bác ái mục tử và là một suối nguồi đặc biệt
của sự phong phú thiêng liêng.
Thực ra, đời sống độc thân có nhiều khía
cạnh thích hợp với chức linh mục. Qua đời sống độc thân, được
tuân giữ vì Nước Trời, các linh mục kết hợp với Chúa Kitô dễ
dàng hơn bằng một con tim không san sẻ (1 Cr 7,32-34). Qua Chúa
Kitô, họ hiến dâng bản thân để phục vụ Thiên Chúa và Dân Ngài,
và như thế các ngài dễ dàng trở nên dấu chỉ sống động của một
thế giới tương lai.
Các linh mục phải khiêm tốn và nhiệt thành
cầu nguyện cho đời sống độc thân và đón nhận đời sống ấy như là
một món quà thuộc về ân sủng Thiên Chúa. Cùng với Hội Thánh, họ
phải khiêm tốn và kiên định cầu nguyện cho ơn trung thành và sử
dụng mọi sự trợ giúp siêu nhiên cũng như tự nhiên, đặc biệt là
lối thực hành khổ chế đã được kinh nghiệm của Hội Thánh chấp
thuận. Cả các linh mục và tín hữu đều phải ấp ủ và nài xin Thiên
Chúa quà tặng quí giá là đời sống độc thân linh mục.79
Thứ ba, Đức Nghèo Khó Tự Nguyện: Sống trong
thế gian và sử dụng thế gian, các linh mục phải học cách thế
không thuộc về thế gian và trở nên ngoan ngoãn với tiếng Chúa
trong đời sống hằng ngày. Từ sự tự do và ngoan ngoãn này mà sự
tự do thiêng liêng lớn mạnh. Nơi sự tự do thiêng liêng, các linh
mục tìm được mối tương quan thích hợp với trần gian và của cải
trần gian, từ đó các ngài có thể sử dụng của cải cách đúng đắn
theo ý Thiên Chúa và từ bỏ những gì phương hại cho sứ vụ của
mình.
Vì thế, các ngài phải tránh mọi thứ bề
ngoài xa hoa và phù phiếm, và xếp đặt nhà ở sao cho phù hợp để
các ngài không tỏ ra xa cách với bất cứ ai, thậm chí những người
khiêm tốn nhất cũng dễ dàng thăm viếng các ngài. Do đó, các ngài
được mời gọi sống theo đức khó nghèo tự nguyện, nhờ đó các ngài
nên phù hợp với Chúa Kitô một cách rõ ràng hơn và trở nên nhiệt
thành với tác vụ thánh.80
Sau cùng, Cuộc Sống Nội Tâm của các linh
mục cần được cổ vũ nhờ các phương tiện thiêng liêng để thánh hoá
bản thân: hợp nhất với Chúa Kitô trong mọi trạng huống của cuộc
sống; sống nhờ hai bàn tiệc Lời Chúa và Thánh Thể, hai bàn tiệc
này được cử hành trong Thánh Lễ và được sùng kính trong Bí Tích
Cực Thánh; tự xét lương tâm hằng ngày; đọc sách thiêng liêng để
tìm ý Chúa nhờ tác động của Chúa Thánh Thần; các dấu chỉ thời
đại và các biến cố cuộc sống; lòng sùng kính đối với Đức Trinh
Nữ Maria; các cuộc tĩnh tâm và linh hướng; và các dạng khẩu
nguyện và suy nguyện khác.81
B. Các Tài Liệu của
Toà Thánh
1. Những Mục Tử Như Lòng Mong Ước
(Pastores Dabo Vobis)
Pastores Dabo Vobis khai triển những ý niệm
này một cách cụ thể hơn về công việc đào tạo thiêng liêng.82
Trước hết, Sự Thinh Lặng và Tiếng Chúa: Cho
dù cá nhân con người vẫn mở ra trước siêu việt, trước tuyệt đối,
thì việc lắng nghe tiếng Chúa và hiểu rõ giá trị của thinh lặng
trong sâu thẳm lòng người, nơi họ hiện diện một mình với Thiên
Chúa,83 cũng là việc rất khó trong xã hội hiện đại. Sự thinh
lặng cho phép chúng ta nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa và để
cho sự hiện diện này chiếm đoạt.
Thứ hai, Thánh Thể: không chỉ vì Thánh Thể
là suối nguồn và tuyệt đỉnh đời sống thiêng liêng, mà còn vì
Thánh Thể hàm dưỡng những thái độ quyết định nơi cá nhân: Các
chủng sinh phải được huấn luyện để góp phần tích cực hằng ngày
và coi việc cử hành Thánh Thể như là thời điểm cốt yếu trong
ngày sống của mình. Những tâm tình quan trọng bậc nhất được
Thánh Thể nuôi dưỡng là lòng tri ân, tự hiến, bác ái, và tôn
thờ.
Thứ ba, Bí Tích Sám Hối: Hết sức nhạy bén
đối với giá trị và sức mạnh của Thánh Thể, PDV thúc giục việc
tái khám phá vẻ đẹp và niềm vui của Bí Tích Sám Hối bằng việc
phát huy cảm thức về tội lỗi, về khổ chế, kỷ luật nội tâm, tinh
thần hi sinh và Thập Giá.
Thứ tư, Khiêm Tốn Phục Vụ: Các chủng sinh
cần một chương trình huấn luyện thích hợp theo tinh thần khiêm
tốn phục vụ của Chúa Giêsu (Ga 13,15), theo tình bác ái, đặc
biệt là bằng tình yêu thương ưu tiên với người nghèo và lòng
thương xót đối với tội nhân.84
Thứ năm, Đời Sống Độc Thân Linh Mục được
nêu bật như là một ân huệ và quà tặng đặc biệt của Thiên Chúa,85
như là lựa chọn một tình yêu không chia sẻ và mạnh mẽ hơn vì
Chúa Kitô và vì Nước Thiên Chúa. Đời sống độc thân cần được
trình bày rõ ràng, không hàm hồ và theo cách tích cực. Các chủng
sinh cần đạt mức trưởng thành về tính dục và tâm lý đầy đủ và
một cuộc sống cầu nguyện siêng năng và đích thực, dưới sự hướng
dẫn của cha linh hướng. Những điều đó sẽ hàm dưỡng khả năng đánh
giá giá trị của hi sinh, xả kỷ, tự hiến hết mình, tự giác kỷ
luật, đón nhận sự cô tịch và thập giá. Mọi công việc đào tạo nội
tâm phải sinh hoa trái trong chính lối sống của ứng sinh: Các
ứng sinh phải tìm kiếm Thiên Chúa nơi người khác qua việc phục
vụ thừa tác vụ được trao ban nhưng không và đức bác ái mục tử.
2. Hội
Thánh tại Á Châu
a. Những Ưu Tiên của
Hội Thánh tại Á Châu
Ecclesia in Asia dành những ưu tiên tuyệt
đối cho việc loan báo Tin Mừng (EA số 19) và cho linh đạo về
Truyền giáo, tại Á Châu điều này có nghĩa là loan báo Chúa Giêsu
như là Đấng Cứu Độ duy nhất (EA số 20), bằng phương tiện hội
nhập văn hoá (EA số 21-22), trong suy tư thần học, phụng vụ, và
công tác đào tạo linh mục với sự tương tác cả chiêm niệm lẫn
hành động.
Để cho sứ vụ truyền giáo được hữu hiệu, Hội
Thánh tại Á Châu phải sống hiệp thông mật thiết với Chúa Giêsu
Kitô, hiệp thông trong lòng Hội Thánh (EA số 25), hiệp thông
bằng đối thoại: đối thoại đại kết giữa các giáo hội, đối thoại
với các nền văn hoá, đối thoại với các tôn giáo khác (EA số
29-30), đối thoại bằng cuộc sống với người nghèo (EA số 34), dấn
thân để thăng tiến nhân vị, đặc biệt là người nghèo trong mọi
chiều kích về phẩm giá, kinh tế, cuộc sống, về hoà bình và về
môi trường (EA số 41).
Sau hết, Hội Thánh tại Á Châu phải đẩy mạnh
việc làm chứng cho Tin Mừng (EA số 42-49), nghĩa là Hội Thánh
phải thực sự sống điều mình rao giảng.
b. Đào Tạo Thiêng Liêng
cho Các Chủng Sinh
Theo lời Đức Hồng Y Paul Shan Kuo-hsi trình
bày,86 Hội Thánh tại Á Châu cần các linh mục quân bình về tâm
lý, trưởng thành về tình cảm, lành mạnh về phán đoán, chính
thống về giáo lý, mạnh mẽ về ý chí, nhanh nhẹn về lòng bác ái,
luôn sẵn lòng phục vụ người khác, nhiệt tâm đối với việc Phúc Âm
hoá và việc mục vụ, có đời sống thiêng liêng bám rễ sâu trong
mối hiệp thông mật thiết với Ba Ngôi Cực Thánh và đặt Chúa Giêsu
Kitô làm trung tâm. Trước khi vào chủng viện, ứng sinh phải trải
qua một trắc nghiệm tâm linh, tốt nhất là do một linh mục chuyên
gia hướng dẫn.87 Với trắc nghiệm này, ít nhất ứng sinh phải
chứng tỏ mình có những dấu hiệu tiềm tàng và tích cực của những
phẩm chất nêu trên, và không có những vết tích quá tiêu cực trái
ngược.
Những phẩm chất được nêu trên của linh mục
cần được ứng sinh thủ đắc dần dần trong những năm dài của quá
trình đào tạo. Mặc dù các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng không đưa ra
đề nghị chính thức về việc đào tạo tâm lý, tuy nhiên, các ngài
đã bàn về điều này trong những cuộc thảo luận theo nhóm nhỏ và
những cuộc đàm luận riêng tư. Các ngài đặc biệt quan tâm đến
việc đào tạo về độc thân, các tương giao nhân bản và hợp tác hài
hoà với người khác. Các ngài cũng hết sức nhấn mạnh tới việc cầu
nguyện, chiêm niệm và cô tịch trong việc đào tạo thiêng liêng.
Cầu nguyện, suy niệm, chiêm niệm và cô tịch là những đường hướng
thiêng liêng truyền thống dẫn dắt con người tới sự thánh thiện
và hoàn hảo trong tất cả các tôn giáo lớn ở Á Châu. Phúc Âm hoá
hữu hiệu không chỉ đòi hỏi việc loan báo tích cực, những công
việc phục vụ bác ái xã hội, những hoạt động văn hoá và giáo dục,
nhưng còn đòi hỏi một đời sống cầu nguyện sâu xa với suy niệm,
chiêm niệm, cô tịch và kết hợp với Thiên Chúa.88
3. Lược Đồ
Cơ Bản cho Việc Huấn Luyện Linh Mục
(Ratio Fundamentalis
Institutionis Sacerdotalis)
a. Những Nguyên Tắc Chỉ Đạo
Tổng Quát
Trước hết, những linh mục tương lai cần
học:89
* sống gần gũi và luôn đồng hành cùng Chúa
Ba Ngôi;
* thường xuyên tìm được Chúa Kitô trong mối
hiệp thông thân mật của lời cầu nguyện;
* giữ Lời Chúa với lòng yêu mến ăn rễ sâu
trong niềm tin, và trao Lời Chúa cho người khác;
* thăm viếng và thờ lạy Chúa Kitô hiện diện
nơi bí tích Thánh Thể;
* có lòng mến yêu thân thiết đối với Đức
Trinh Nữ Maria là Đấng liên kết cách đặc biệt với công trình Cứu
Độ;
* tham khảo các tài liệu thánh truyền, các
tác phẩm của các Giáo Phụ, và mẫu gương của các thánh;
* biết cách tra xét và phán đoán lương tâm
và những động cơ của chính mình với lòng lương thiện và thành
thật.
Thứ hai, việc đào tạo thiêng liêng cho các
chủng sinh là một tiến trình bao gồm những giai đoạn khác nhau;
mỗi giai đoạn cần được thích ứng với tuổi tác, kinh nghiệm, và
khả năng của các chủng sinh. Hiệu quả của việc đào tạo này được
nâng cao đáng kể nhờ một số những thời kỳ ấn định cho việc huấn
luyện chuyên sâu hơn. Những thời kỳ này có thể là: lúc mới vào
chủng viện, lúc bắt đầu học thần học, và khi họ tiến gần tới
ngày chịu chức linh mục.
b. Những Khía Cạnh Cụ Thể
Mục đích trước tiên của việc đào tạo thiêng
liêng là đức ái hoàn hảo. Mức hoàn hảo này giúp các chủng sinh
trở nên Chúa Kitô khác. Được thấm nhuần Thần Khí của Chúa Kitô
cách sâu xa, họ sẽ nhận ra điều họ đang làm khi cử hành mầu
nhiệm sự chết của Đức Kitô phục vụ (Mt 20,28). Từng bước một, họ
phải hiểu biết rõ ràng và chắc chắn về ơn gọi linh mục của mình,
và như thế họ làm cho mình có nhiều khả năng thủ đắc những đức
tính và thói quen của đời sống linh mục. Họ được kêu gọi cố gắng
hết sức để hoàn thiện đời sống của chính mình và đời sống chung
trong chủng viện nên một tâm hồn (Cv 2, 44-46).
Nhờ đó, cộng đoàn vui hưởng sự hiện diện
của Thiên Chúa, triệt để tuân giữ luật lệ và đạt được mối liên
kết hoàn hảo.90 Đời sống cộng đoàn như thế chuẩn bị cho các ứng
sinh để họ có thể nên một trong tình “huynh đệ bí tích” với cộng
đoàn rộng lớn hơn là hàng giáo sĩ giáo phận, nhờ mối liên kết
bác ái, cầu nguyện, và sự hợp tác trong nhiều khía cạnh, nhằm
xây dựng Hội Thánh, một bổn phận đòi hỏi nhiều trách nhiệm và
những c anh tân hợp thời.91
Mục đích thứ hai là đời sống độc thân linh
mục, một nguyên tắc được Hội Thánh Latinh đặt ra cho những ai,
nhờ ân sủng Thiên Chúa, tự nguyện đón nhận vì Nước Trời. Ở tình
trạng này, các linh mục dễ dàng ở gần Chúa Kitô hơn với một trái
tim không chia sẻ; tự do hơn trong việc trao hiến chính mình
phục vụ Chúa và Dân Chúa, và đón nhận chức linh mục với lòng
quảng đại.92
Bởi vậy, các linh mục tương lai phải ý thức
và đón nhận đời sống độc thân như là một món quà đặc biệt Chúa
ban. Nhờ đời sống dành trọn cho việc cầu nguyện, cho mối hiệp
nhất với Chúa Kitô, cho đức ái huynh đệ chân thành, các thầy có
thể giữ gìn cách hân hoan và trọn vẹn đời sống độc thân của
mình. Các thầy cần có được tự do hoàn toàn về tâm lý, cả bề
trong lẫn bề ngoài, và đạt mức ổn định về tình cảm, để hiểu rõ
và sống đời độc thân như là sự kiện toàn bản thân. Một nền giáo
dục thích đáng về giới tính sẽ dẫn đưa các thầy tới một tình yêu
trong trắng đối với con người hơn là một nỗi lo âu nhằm tránh
tội, như vậy nhằm chuẩn bị cho họ dấn thân vững vàng vào tác vụ
mục vụ trong tương lai.93
Một khía cạnh khác của việc đào tạo thiêng
liêng là mối tương quan thân mật với Chúa Kitô, “vẫn là một, hôm
qua, hôm nay, và mãi đến muôn đời” (Dt13,8). Các chủng sinh nên
nhắm tới mối tương quan bằng hữu gần gũi với con người và sứ vụ
của Chúa Kitô, Đấng đã hoàn thành nhiệm vụ mình với lòng khiêm
tốn tùng phục thánh ý Chúa Cha như là lương thực của mình (Ga
4,34). Các thầy được kêu gọi dâng hiến ý muốn riêng mình để phục
vụ Thiên Chúa và tha nhân, nhờ lòng vâng phục với niềm tin.
Họ không chỉ học đón nhận thánh giá, nhưng
là yêu mến thánh giá, và gánh vác những trách nhiệm nặng nề được
uỷ thác nhằm thi hành sứ mạng tông đồ của mình. Họ cần sống đức
vâng phục chân thành đối với Đức Giáo Hoàng và Giám Mục của
mình. Bằng việc sống tinh thần phục vụ khiêm tốn và lòng hiếu
thảo, họ trở thành những cộng tác viên trung thành của các
ngài.94
Thứ tư, các chủng sinh phải học nuôi dưỡng
Tinh Thần Nghèo Khó để chu toàn việc tông đồ: tin vào sự Quan
Phòng của Chúa Cha, họ cần biết thế nào là dư dật và thiếu thốn,
thế nào là đói khổ và no đầy, thế nào là có nhiều và có ít, bắt
chước gương thánh Phaolô (Pl 4,12). Bước theo gương mẫu Chúa
Kitô (2 Cr 8,9), họ nên coi người nghèo và người kém may mắn
như là bổn phận đặc biệt của mình và làm chứng cho đức nghèo
khó, với tinh thần từ bỏ chính mình trước những của cải không
cần thiết.95
Thứ năm, việc đào tạo thiêng liêng bao trùm
con người toàn diện. Ân sủng không bóp nghẹt tự nhiên, nhưng
nâng tự nhiên lên mức độ cao hơn. Các chủng sinh phải tập sống
thành thật, luôn quan tâm tới công lý, và những cách ứng xử tốt
trong giao thiệp với con người với tinh thần bằng hữu và phục
vụ, tinh thần sẵn sàng làm việc, và khả năng làm việc với người
khác. Họ phải giữ lời, tự chủ và ân cần trong giao tiếp. Vì
nhiệm vụ rao giảng Tin Mừng cho mọi người, họ phải học nghệ
thuật, nghĩa là biết nói chuyện với người khác cách đúng đắn,
kiên nhẫn lắng nghe và có khả năng diễn đạt ý mình.96
Sau cùng, sinh lực và sự mới mẻ trong đời
sống linh mục là Thánh Thể và Bí Tích Sám Hối. Các chủng sinh
hằng ngày phải tham dự vào việc cử hành Thánh Thể, “suối nguồn
và tột đỉnh của cả đời sống Kitô giáo” và là trung tâm toàn bộ
đời sống chủng viện. Việc tôn thờ Thánh Thể phải gắn liền với
Kinh Thần Vụ. Nhờ Thánh Thể, phụng vụ và lời cầu nguyện, các
thầy sẽ có thể kiên tâm gắn bó thân tình và thật sự với Chúa
Kitô và Hội Thánh.97 Bí tích Sám Hối phải được thấm nhuần vào
các linh mục tương lai, để họ có thể được canh tân hằng ngày.
Mỗi chủng sinh phải khiêm tốn và tin tưởng cởi mở lương tâm mình
trước vị linh hướng, thông qua việc linh hướng, để thầy được
hướng dẫn cách an toàn trên con đường của Chúa.98
Thầy phải từng bước thủ đắc đời sống thiêng
liêng trưởng thành thật sự qua sự tự đánh giá, tĩnh tâm thường
kỳ, và những dạng luyện tập khác, luôn ý thức rằng những hoạt
động thiêng liêng ấy sẽ giúp phát triển và tăng cường đời sống
thiêng liêng của thầy.99 Thầy phải được huấn luyện quan sát
chính xác những dấu chỉ thời đại và phán đoán các sự kiện nhờ
ánh sáng Tin Mừng. Theo nghĩa này, thinh lặng bên ngoài là bắt
buộc, vì thiếu thinh lặng bên ngoài sẽ chẳng có thinh lặng nội
tâm trong linh hồn.
4. Đào
Tạo Thiêng Liêng Trong Các Chủng Viện
Thánh Bộ Giáo Dục Công Giáo chỉ ra bốn
nguyên tắc chỉ đạo khẩn thiết của việc đào tạo thiêng liêng cho
các linh mục tương lai:100
Trước hết, Lời Chúa: Ứng sinh phải tạo
được một cảm thức về thinh lặng nội tâm thực sự để có thể lắng
nghe và hiểu sâu xa Lời Chúa, và kiên nhẫn tìm Chúa Kitô qua
chính kinh nghiệm lắng nghe tiếng Chúa trong cầu nguyện của
mình. Kinh nghiệm này giúp thầy trở thành thầy dạy cầu nguyện
cho người khác. Thinh lặng nội tâm tìm được nơi Chúa Kitô suối
nguồn và mục đích: là phó thác cho Chúa Cha và tuỳ thuộc vào
Ngài, là sự thân mật nội tâm và đối thoại thực sự với Chúa.
Thinh lặng bên trong và thinh lặng bên ngoài ảnh hưởng lẫn nhau
và nuôi dưỡng nhau. Trong một chủng viện, nơi mà thinh lặng bên
ngoài không hiện hữu thì thinh lặng nội tâm cũng vắng bóng. Luật
Sống ở chủng viện phải thu xếp ưu tiên cho việc này.101
Thứ hai, ứng sinh phải sống hy tế cứu độ và
làm cho hy tế của Chúa Kitô hiện diện nhờ Thánh Thể và làm cho
người tín hữu hiệp thông cách xứng đáng với hy tế này.102
Thứ ba, thầy phải lớn lên trong hy tế
thiêng liêng nhờ đón nhận và vác thập giá theo vết chân từ bỏ
chính mình của Chúa Kitô, nghĩa là có lòng vâng phục thực sự và
có cảm thức sám hối.
Và sau cùng, thầy phải có lòng hiếu thảo và
tin tưởng đối với Đức Trinh Nữ Maria, Đấng mà Chúa Giêsu trên
thập giá đã ban cho chúng ta như người mẹ. Mầu nhiệm Đức Maria
dẫn đưa tới cuộc tiếp xúc tuyệt vời hơn với Chúa Kitô và thập
giá của Ngài. Kitô học cũng là Thánh Mẫu học. Tình yêu và lòng
sùng kính với Đức Trinh Nữ Maria phải được dậy dỗ và thực hành
trong chủng viện với một nguồn sinh lực nội tâm.103
Tài liệu này cũng đề nghị chủng viện có một
thời kỳ chuẩn bị dành riêng cho việc đào tạo thiêng liêng. Thời
kỳ chuẩn bị này nên diễn ra trước, hoặc cách nào đó ngoài thời
gian chủng viện, các sinh viên có cơ hội để hoàn tất một thời
gian học tập thiêng liêng thực sự.104
C. Giáo Huấn của Đức
Giáo Hoàng Gioan Phaolô II
1. Đóng Góp
của Khoa Tâm Lý Học trong Việc Đào Tạo Linh Mục 105
a. Đóng Góp Thích Đáng và Hạn
Chế của Khoa Tâm Lý Trong Tiến Trình Đào Tạo Linh Mục
Theo Đức Giáo Hoàng, sự đóng góp chuyên môn
của các nhà tâm lý có thể được sử dụng thích hợp vào thời gian
mới nhập học, cũng như trong toàn bộ tiến trình đào tạo. Ý kiến
chuyên môn này phải được đưa vào sử dụng theo một đường lối quân
bình, nhằm bảo vệ giá trị lớn lao của việc linh hướng. Những can
thiệp tâm lý này106 không loại bỏ khó khăn và căng thẳng nơi con
người, nhưng khuyến khích làm triển nở một nhận thức rộng rãi
hơn và một rèn luyện khoảng khoát hơn tự do cá nhân của con
người.
Theo đường hướng này, con người có thể đón
nhận một cuộc đấu tranh cởi mở và thành thật, nhờ sự trợ giúp
không thể thay thế của ân sủng. Vì vậy, các nhà đào tạo cần chú
ý đến phẩm chất tôn giáo của các chuyên gia tâm lý, cũng như khả
năng chuyên môn khoa học của họ. Nhà tâm lý học cần hiểu biết
thấu đáo quan điểm Kitô giáo về cuộc sống, và về ơn gọi linh
mục, nếu muốn cung cấp một trợ giúp hữu hiệu cho sự hòa hợp cần
thiết giữa các chiều kích nhân bản và siêu nhiên.
b. Đào Tạo Thiêng Liêng Và Đời
Sống Độc Thân
Đức Giáo Hoàng dạy rằng các ứng viên phải
được giới thiệu thực hành cầu nguyện, suy niệm và khổ chế cá
nhân dựa trên các nhân đức đối thần được sống trong đời sống
hằng ngày. Cả đức ái tông đồ trong Giáo Hội và giáo luật đều đưa
ra những bó buộc thích hợp cho tác vụ tương lai của ứng viên.
Đời sống độc thân vì Nước Trời phải được trình bày như một chọn
lựa rất thuận lợi cho việc hân hoan loan báo Chúa Kitô Phục
Sinh.
2. Chuẩn Bị
Vững Chắc Cho Các Linh Mục
Đức Gioan Phaolô II nói rằng việc lựa chọn
chính xác các ứng viên là một tiến trình phức tạp. Bởi thế, ta
phải lập tức bắt đầu tiến trình chuẩn bị các ứng viên được chọn
lựa để sau này trở nên các linh mục tốt lành, thánh thiện. Việc
đào tạo thiêng liêng và dạy dỗ giáo lý cho các sinh viên phải
được kết hợp hài hoà với nhau và do các nhà đào tạo được huấn
luyện chu đáo giám sát. Phải nhấn mạnh tới nhu cầu chính yếu là
thường xuyên cử hành các bí tích, đặc biệt là Bí Tích Sám Hối,
cùng với việc cầu nguyện riêng tư và sốt sắng và thường xuyên
gặp một vị linh hướng.
Đức Giáo Hoàng nhấn mạnh rằng chức linh mục
phải được xem như một ơn gọi hướng tới sự phục vụ vị tha và yêu
thương; rằng đời sống độc thân, món quà quí giá và mọi thứ liên
quan đến đời sống ấy, “phải được coi như là phần không thể thiếu
của đời sống bên trong và bên ngoài của linh mục.”10
3. Việc Đào
Tạo Thiêng Liêng Thích Ứng với Những Thách Đố Truyền Giáo
Đức Gioan Phaolô II yêu cầu mọi người Công
giáo Việt Nam tiến tới một đường lối mới trong việc Phúc Âm hoá;
luôn sống nghiêm túc ơn gọi tín hữu đã lãnh nhận từ khi chịu
phép rửa và “đảm nhận vai trò của mình trong đời sống và sứ mệnh
của Dân Chúa, là chứng nhân của Chúa Kitô, ở mọi nơi mà họ hiện
diện.”108
Đối với việc đào tạo người trẻ, ngài yêu
cầu các Giám Mục Việt Nam lưu tâm tới những điều kiện đào tạo
tri thức và thiêng liêng thích ứng với những thách đố truyền
giáo mà giới trẻ phải đối mặt, bằng việc tuyển chọn kỹ lưỡng
những người huấn luyện và các giáo sư, những vị đã thủ đắc mức
trưởng thành về nhân bản và đời sống linh mục. Các ngài phải ý
thức rằng nhiệm vụ Phúc Âm hoá liên quan tới mọi thành phần Dân
Chúa và đòi hỏi lòng nhiệt thành mới, những phương pháp mới và
ngôn ngữ mới.109
D. Giáo Huấn của Đức
Bênêđitô XVI
1. Chúa Giêsu
Kitô Là Chuẩn Mực Chân Thực
Ngay trước khi được bầu, Đức Giáo Hoàng
Bênêđitô XVI tổng kết rằng nhiều luồng ý thức hệ và mốt nghĩ đã
làm giao động và hất con thuyền bé nhỏ là lối suy tư của các
Kitô hữu đi từ thái cực này sang thái cực khác: từ chủ nghĩa Mác
sang chủ nghĩa tự do, rồi chủ nghĩa phóng đãng; từ chủ nghĩa tập
thể sang chủ nghĩa cá nhân triệt để; từ chủ nghĩa vô thần sang
hiện tượng thần bí tôn giáo mơ hồ; tư thuyết bất khả tri đến
tạp giáo. Mỗi ngày, các giáo phái mới được sinh ra, dẫn đến lầm
lạc (x. Eph.4:14). Đức tin rõ ràng đúng theo Tín Điều của Giáo
Hội thường bị chụp mũ là chủ nghĩa cơ bản tuyệt đối dựa vào Kinh
Thánh, trong khi thuyết tương đối dường như là thái độ xứng hợp
của thời đại chúng ta. Một sự độc tài của thuyết tương đốichẳng
nhìn nhận điều gì là tuyệt đối, ngoài cái tôi và những ý nghĩ
chợt nảy ra.
Nhưng chúng ta có Con Thiên Chúa, là Con
Người Thật như là chuẩn mực cho thuyết nhân bản đích thực. Đức
tin trưởng thành và chín chắn là đức tin bám rễ sâu trong tình
bằng hữu với Chúa Kitô. Tình bằng hữu này làm chúng ta mở ra với
mọi điều tốt đẹp và cho chúng ta chuẩn mực để biện phân giữa cái
gì là chân thực và cái gì là giả dối, giữa sự dối trá và chân
lý. Chúng ta cần phải trở nên chín chắn trong đức tin trưởng
thành này; phải dẫn đưa đoàn chiên Chúa Kitô tới đức tin này. Và
đức tin này, đức tin duy nhất, tạo ra sự hiệp nhất và xây dựng
trong đức ái như là nền tảng của đời sống Kitô hữu.110
2. Hội Thánh
Không Sợ Tương Lai
Trong Sứ Điệp cho các Hồng Y,111 Đức
Bênêđitô XVI cam kết sẽ luôn luôn nghe theo những linh hứng của
Chúa Thánh Thần, với lòng khiêm tốn phó thác cho sự quan phòng
của Thiên Chúa, để tiếp tục con đường của các vị tiền nhiệm là
loan báo cho toàn thế giới sự hiện diện sống động của Chúa Kitô.
Ngài mạnh mẽ khẳng định quyết tâm tiếp tục dấn thân thi hành
Công Đồng Vaticanô II. Ngài cũng cố gắng xây dựng sự hiệp thông
trong lòng Hội Thánh, dựa trên sự hiệp thông trọn vẹn với Chúa
Kitô Phục Sinh, biểu lộ nơi Thánh Thể.
Trong tương quan với bên ngoài, ngài lấy
việc tái lập sự hiệp nhất trọn vẹn và hữu hình nơi những người
theo Chúa Kitô, thông qua việc “thanh tẩy ký ức”, như là cam
kết ưu tiên. Ngài thúc đẩy Hội Thánh làm sống lại ý thức Truyền
Giáo để làm cho ánh sáng Chúa Kitô chiếu soi trước mọi dân tộc
ngày nay. Ngài quả quyết sẽ tiếp tục một cuộc đối thoại cởi mở
và chân thành với các tôn giáo khác, với các nền văn hoá và văn
minh khác nhau, đặc biệt là với những người nghèo và những người
nhỏ bé. Ngài cũng tuyên bố rằng mọi người Công giáo sẵn lòng
cộng tác để nhắm tới sự phát triển xã hội đích thực vì phẩm giá
mọi người, với hy vọng rằng nhờ sự hiểu biết lẫn nhau, hoàn cảnh
sẽ làm nảy sinh một tương lai tốt đẹp hơn cho mọi người.
3. Mở Rộng
Cửa cho Chúa Kitô
Sau hết, trong Thánh Lễ Nhậm Chức,112 ngài
lặp lại lời Đức Gioan Phaolô II “Đừng sợ! Hãy mở rộng cửa cho
Chúa Kitô!” Đấng “sẽ chẳng lấy đi điều gì thuộc về tự do và nhân
phẩm của con người … Chỉ trong tình bằng hữu này chúng ta mới
cảm nghiệm được vẻ đẹp và sự giải thoát.”
còn tiếp
|
VỀ MỤC LỤC |
|
Kỹ Thuật Thông Tim
|
Câu Chuyện Thầy Lang
Bác sĩ Nguyễn Ý Ðức
Nói là “Thông Tim” thì cũng không chính xác
lắm. Ðúng ra là thông Ðộng Mạch Vành nuôi dưỡng trái tim thân
yêu của chúng ta. Thay vì trơn tru
mở rộng thì động mạch đã bị thoái hóa, tắc nghẽn với nhiều chất
khác nhau bám vào thành của huyết quản.
Ðộng Mạch Vành coronary artery bao bọc trái
tim như một cái vương miện với hai nhánh phải và trái và nhận
máu trực tiếp từ Ðộng Mạch Chủ aorta. Tế bào tim được tiếp tế
oxy và chất dinh dưỡng từ động mạch vành. Nếu vì một lý do nào
đó mà động mạch này bị nghẹt thì sự nuôi dưỡng bị trở ngại, tim
thiếu dưỡng khí, báo động bằng cơn đau thắt ngực.
Trong đa số các trường hợp, tắc nghẽn là do
chất béo bám vào mặt trong của thành động mạch. Ðó là bệnh Vữa
Xơ Ðộng Mạch.
Ngày nay, nhiều người cứ nói vữa xơ là hậu
quả của nếp sống dư thừa trong thời văn minh tiến bộ hiện đại.
Thực ra dấu hiệu vữa xơ đã tìm thấy ở xác ướp Ai Cập cả nhiều
ngàn năm về trước.
Vữa xơ động mạch atherosclerosis là bệnh
trong đó các mảng gồm nhiều chất bám vào mặt trong thành động
mạch khiến cho sự lưu thông của máu bị gián đoạn. Thành phần
chính của mảng này là chất béo, chất cholesterol cộng thêm các
chất phụ khác như calcium, tế bào xơ. Mảng xơ vữa có thể tan vỡ,
đưa tới chứng huyết khối.
Ðây là một diễn tiến phức tạp, phát triển
chậm, xuất hiện từ tuổi nhỏ và trầm trọng lên với thời gian.
Theo nhiều khoa học gia, bệnh bắt đầu với sự tổn thương ở lớp tế
bào trong cùng của động mạch.
Theo Hội Tim Mạch Hoa Kỳ, ba rủi ro đã
được chứng minh làm tổn thương lòng động mạch là 1) Mức độ
cholesterol và triglyceride trong máu lên quá cao; 2) cao huyết
áp; 3) ảnh hưởng của hút thuốc lá.
Ngoài ra vữa xơ còn hay xẩy ra ở người béo
phì, mắc bệnh tiểu đường, có nhiều căng thẳng tâm thần và không
vận động cơ thể.
Di truyền cũng tham dự phần nhỏ. Nếu cả cha
lẫn mẹ bị vữa xơ thì con có nhiều triển vọng bị bệnh.
Cũng còn phải kể
tới tuổi tác và giới tính.
Người dưới năm
mươi tuổi ít vữa xơ hơn người trên tuổi này.
Trước khi mãn
kinh, phụ nữ ít bị vữa xơ hơn nam giới nhờ sự bảo vệ của kích
thích tố nữ, nhưng từ tuổi mãn kinh thì nam nữ bị vữa xơ bằng
nhau.
Vữa xơ có thể thấy ở các động mạch cỡ trung
và lớn. Nếu ở đõng mạch vành nuôi dưỡng tim thì đưa tới nhồi máu
cơ tim; động mạch cảnh nuôi dưỡng não bộ sẽ có tai biến mạch máu
não, động mạch nuôi dưỡng chi dưới với hoại tử chi; động mạch
võng mạc đưa tới khiếm thị, mù lòa...
Tắc nghẽn thì phải kiếm cách thông, giống
như thông ống cống nước từ bếp ra vườn. Nhưng thông cống chỉ
việc tống cây sào dài vào hoặc đổ nửa lít nước hóa chất là xong.
Còn mạch máu thì nằm ở xa lại mỏng manh, khó mà đạt tới. Cũng
đã có nhiều dược phẩm để giải tỏa tắc nghẽn nhưng công hiệu
chậm. Nên nếu thông được như thông cống thì hay biết mấy.
Thế là các nhà y khoa học lại vắt tay lên
trán, tìm kiếm kỹ thuật, thuốc men.
Và mở đầu với sự tò mò , mạo hiểm của một
sinh viên nội trú y khoa người Ðức, anh Werner Frossmann.
Ðó là vào năm 1929. Từ lâu, anh ta vẫn muốn
tìm cách để thám hiểm trái tim mà không gây ra thương tổn gì.
Sau khi đã có một ý niệm, anh trình bầy với
các vị thầy, các vị đàn anh về điều anh định làm. Nhưng mọi
người đều không tin tưởng và cấm không cho anh thực hiện ý tưởng
điên rồ đó trong bệnh viện.
Anh bèn năn nỉ một nữ điều dưỡng viên cho
mượn một ống thông. Anh đưa ống thông từ mạch máu ở khuỷu tay
của mình, luồn dần lên tim. Ðặt ống xong, anh lại năn nỉ một
đồng nghiệp điện tuyến, chụp cho một tấm hình X -Quang ngực. Và
thấy đầu ống thông đã an toàn nằm ở tim mà không gây ra khó khăn
gì cho sức khỏe của mình.
Werner hăm hở tường trình sự việc với ông
thầy. Chẳng những không được khen mà còn bị khiển trách, không
cho thực tập ngành tim tại bệnh viện. Anh ta đành học về tiết
niệu và tiếp tục lén lút nghiên cứu, thọc thêm tới 15 lần nữa
vào tim mạch của mình. Nghiên cứu được anh công bố trong y giới,
nhưng không ai để ý. Buồn tình, anh về một tỉnh lẻ, hành nghề y,
kiếm bạc cắc cho qua ngày.
Rồi một ngày đẹp trời của năm 1956, Werner
được mời ra nhận giải Nobel với hai nhà Tim học Andreas Frderic
Coumand và Dickinson W. Richards. Hai vị bác sĩ này đã dựa trên
kết quả các mạo hiểm trước đây của Werner để tìm cách chữa tắc
nghẽn động mạch. Năm 1941, hai ông đã thành công trong việc
dùng ống thông tim để đo lưu lượng máu từ tim ra.
Các nhà y khoa học tiếp tục nghiên cứu.
Tới năm 1977 thì bác sĩ Andreas Gruentzig
của Bệnh Viện Ðại Học Zurich, Thụy Sĩ là người đầu tiên thực
hiện kỹ thuật thông mạch máu bằng bóng balloon ở người. Ông này
sau đó sang định cư tại Hoa Kỳ, tiếp tục tìm hiểu về bệnh tim và
làm giầu trí thức cho quốc gia này. Balloon làm bằng một loại
plastic gọi là polyethylene terephthalate (PET) rất bền bỉ và
thay đổi hình dạng dễ dàng
Ngày 3 tháng 8 năm 1994, cơ quan Thực Dược
Phẩm Hoa Kỳ công nhận Balloon-Expandable –Stent do bác sĩ
Richards Schatz chế biến để làm thông và mở rộng động mạch tim
bị tắc nghẽn vì mỡ đóng lên.
Ngày nay, cả triệu bệnh nhân nghẹt tim được
thông bằng kỹ thuật này. Kỹ thuật rất phổ thông, được mang ra
dùng tại hầu hết các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt
Nam.
Phương pháp thông tim giản dị và dễ thực
hiện hơn là giải phẫu bắc cầu by-pass surgery , nhưng một trở
ngại là từ 30 – 50% bệnh nhân cần thông lại vì mạch có thể bị
nghẹt lại. Và stent được các nhà chuyên môn đặt để tránh sự
tái tắc nghẹt này.
Xác định tắc nghẽn mạch máu.
Vữa xơ động mạch được xác định bằng kỹ
thuật chụp X-Quang cardiac catheterization. Ðây là một kỹ thuật
rất hữu ích và khá chính xác để biết tình trạng tốt xấu của hệ
thống tuần hoàn.
Một ống hướng dẫn bằng plastic mềm nhỏ được
đưa vào mạch máu ở cánh tay hoặc ở bẹn. Ống được đẩy dọc theo
mạch máu để vào lòng trái tim hoặc động mạch nuôi tim. Một loại
hóa chất cản quang đặc biệt được chuyền vào ống hướng dẫn. Chất
này giúp ta nhìn rõ được tình trạng trong lòng mạch máu hoặc
các phòng trái tim qua máy X-Quang.
Chụp X-Quang mạch máu được áp dụng trong
các trường hợp sau:
-Khi ta có dấu hiệu đau động mạch tim như
là cơn đau trước ngực;
-Ðau không biết nguyên nhân ở ngực, cằm,
cổ, cánh tay mà các thử nghiệm khác đều không xác định được tại
sao;
-Khi có cơn đau mới xẩy ra ở ngực;
-Không có triệu chứng gì nhưng vài thử
nghiệm khác cho là ta có thể bị bệnh tim mạch;
-Khi sẽ có phẫu thuật không liên hệ tới tim
mạch nhưng ta có thể có rủi ro bệnh tim trong khi giải phẫu;
-Khi ta sẽ có giải phẫu về van tim;
-Khi ta đã có bệnh tim bẩm sinh;
-Khi ta đang bị suy tim;
-Khi có chấn thương ngực
hoặc một bệnh tim nào đó.
Thông Tim-Ðặt Lưới
Khi tình trạng vữa xơ động
mạch tim không có kết quả tốt với thay đổi nếp sống, dược phẩm,
hoặc khi cơn đau tim ngày càng trầm trọng thì bác sĩ có thể đề
nghị làm thông tim- đặt lưới angioplasty balloon.
Trước khi thực hiện, bệnh
nhân sẽ được khám tổng quát và làm một số thử nghiệm như:
1- Chụp một phim x-Quang
đen trắng của lồng ngực.
Việc này rất dễ thực hiện
nhưng cho ta nhiều điều cần biết: hình dạng lớn nhỏ của trái
tim, của đại động mạch và tĩnh mạch phổi; tình trạng toàn hảo
của hai lá phổi, màng phổi và phế quản.
2- Làm Ðiện Tâm Ðồ.
Mỗi làn trái tin đập một
nhịp thì có những dòng điện phát ra từ một số tế bào đặc biệt
của trái tim. Luồng điện chạy phắp tim, khiến tim co bóp. Ðiện
tâm đồ ghi lại các sinh hoạt điện năng này.
Nhìn hình tâm đồ, bác sĩ có
thể chẩn đoán các rối loạn về nhịp đập của tim; cấu tạo bất
thường to nhỏ của tim, sự nuôi dưỡng của tế bào tim với oxy; có
tiền sử hoặc đang có cơn đau tim; theo dõi tình trạng tim khi
đang giải phẫu hoặc khi thông động mạch.
3- Thử nghiệm máu để coi
mức cao thấp của cholesterol lành HDL, cholesterol dữ LDL; của
các yếu tố giúp máu bớt loãng prothrombine, fibrinogen; các diêu
tố tim CPK, LDH, Troponin mà khi lên cao có thể là dấu hiệu của
cơn đau tim...
Tới ngày thông tim thì được
nhắn nhủ không ăn từ nửa đêm hôm trước, điều chỉnh liều lượng
hoặc ngưng một vài loại thuốc, nhất là thuốc loãng máu, thuốc
tiểu đường.
Kỹ thuật sẽ được một bác sĩ
chuyên khoa tim có tu nghiệp thêm về phương pháp này thực hiện
với sự tiếp tay của một nhóm chuyên viên điều dưỡng và kỹ thuật.
Kỹ thuật thường được làm ở một trung tâm y tế có đơn vị tim
mạch, để phòng hờ trường hợp cần cấp cứu giải phẫu tim.
Thông tim thường thực hiện
ở động mạch đùi, đôi khi động mạch cánh tay hoặc cổ tay. Bệnh
nhân không cần gây mê tổng quát mà chỉ một chút thuốc tê được
chích vào háng để giảm đau. Do đó ta tỉnh táo trong suốt thời
gian phương pháp được thực hiện.
Một vết cắt nhỏ trên da ở
bẹn được rạch và một ống ngắn nhỏ được đặt vào động mạch. Qua
ống này, một ống thông hướng đạo dài hơn, có thể uốn cong, được
luồn vào trong. Dưới sự hướng dẫn qua X quang, ống thông được
đưa lên động mạch tim, nơi bị nghẹt. Ống đi lên rất nhẹ nhàng,
ta không cảm thấy đau gì, ngoại trừ một chút thôn thốn ở bẹn mà
thôi. Nếu đau thì cho bác sĩ hay ngay để họ đối phó.
Một chút dung dịch mầu cản
quang được bơm vào ống, tới động mạch vành để chụp hình X quang,
coi tắc nghẽn lớn nhỏ ra sao.
Rồi một ống khác nhỏ hơn
đầu có mang một bong bóng xẹp được chuyền vào trong ống hướng
đạo. Khi lên tới chỗ bị tắc nghẽn, thì bong bóng được bơm phồng
lên. Lúc này máu tới tim sẽ giảm chút ít và ta thấy hơi đau nhói
nơi ngực. Bong bóng được bơm lên, xẹp xuống vài lần, sẽ đè vào
nơi động mạch dính đầy chất béo, làm lòng động mạch mở rộng.
Xong nhiệm vụ, bóng được làm xẹp trở lại.
Công hiệu của nong bóng
không vĩnh viễn. Theo thống kê, có tới 1/3 bệnh nhân có thể bị
nghẹt trở lại trong vòng tháng.
Ðể ngăn ngừa tái tắc nghẽn,
một lưới gọi là stent nhỏ xíu được phát minh. Lưới nằm trên ống
hướng đạo bong bóng, được đưa tới chỗ nghẹt. Bóng được bơm
phồng, lưới mở ra và bám ép vào thành động mạch. Lưới an toàn
nằm đó suốt đời người như một cái giá chống đỡ không cho động
mạch nghẹt trở lại. Lưới làm bằng hợp kim không rỉ không hư hao,
không di chuyển và không trở ngại khi ta đi qua máy rà kim loại
ở phi trường hoặc chup X-Quang cơ thể..
Ống hướng dẫn được rút ra
và phương pháp thông tim đặt lưới hoàn tất. Trước sau chỉ mất
vài giờ đồng hồ, đôi khi chỉ ba mươi phút dưới bàn tay điêu
luyện của một chuyên viên đặt ống giầu kinh nghiệm.
Thường thường ta cần nằm
lại nhà thương khoảng 24 giờ để bác sĩ theo dõi tình trạng sau
giải phẫu.
Các ống đều được rút ra.
Vết cắt trên da nơi bẹn và động mạch được băng bó để tránh chẩy
máu, nhiễm trùng và để vết thương mau lành. Tim được tâm điện đồ
theo dõi, để phát hiện và phòng ngừa biến chứng. Nên nằm nghỉ,
chân duỗi thẳng
Một vài thuốc chống huyết
cục như aspirin, thuốc kháng tiểu cầu, thuốc an thần được bác
sĩ biên toa. Nên uống thuốc theo liều lượng, thời gian mà bác sĩ
đã dặn.
Về nhà, nên nghỉ ngơi,
tránh làm việc quá nặng trong dăm ngày, uống nhiều nước để loại
chất mầu cản quang.
Ðể ý các dấu hiệu bất
thường như chẩy máu, nhiễm trùng sưng đỏ, đau nơi vết thương ở
bẹn, nhiệt độ cơ thể lên cao, trong người mệt mỏi, đau ngực, khó
thở. Thông báo cho bác sĩ ngay.
Vài tuần sau, khi bác sĩ
đồng ý, ta có thể đi làm trở lại được.
Và nhớ giữ ngày tái khám
theo hẹn của bác sĩ.
Thế là từ nay ta không còn
đau ngực, không còn lo ngại cơn suy tim, tai biến não, tàn phế
cơ thể. Nhiều người thấy da dẻ hồng hào, mặt mũi tươi rói, sinh
hoạt gia tăng, yêu đời hơn.
Nhưng nên lưu ý lành mạnh
nếp sống, bỏ hút thuốc lá, ăn nhiều rau trái cây, bớt chất béo
bão hòa động vật, vận động cơ thể đều đặn, giảm cân nếu quá mập
phì, chữa các bệnh kinh niên như cao huyết áp, cao cholesterol,
bệnh tiểu đường.
Và nhẹ nhàng sống trong
niềm vui của Tâm Thân An Lạc với gia đình, thân hữu.
Bác sĩ
Nguyễn Ý Ðức
Texas-Hoa Kỳ. |
VỀ MỤC LỤC |
|
- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến,
bài vở..., xin gởi về địa chỉ
giaosivietnam@gmail.com
- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục
vụ của Giáo sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các
Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn
gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực
Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh
vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức
Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và
Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quí vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại
www.conggiaovietnam.net
Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị
Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã
sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác
nhau.
TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca
Phạm Quốc Sử
USA
|
|
*************
|
|