LTS.
Trong khả năng rất giới hạn, Đặc San
GSVN sẽ vinh dự được phổ biến nhiều kỳ liên tiếp vế tác phẩm hết
sức giá trị và thiết yếu cho đời sống Hội Thánh Việt Nam:
ĐÀO TẠO VÀ TỰ ĐÀO TẠO THIÊNG
LIÊNG CỦA CÁC LINH MỤC TƯƠNG LAI
TRONG BỐI CẢNH VIỆT NAM NGÀY
NAY
Nguyên bản tiếng Anh
Lm. Micae-Phaolô TRẦN MINH HUY
Bản dịch Việt ngữ
Lm. Vincentê Trần Minh Thực, Lm. Gioan Baotixita Nguyễn văn Hào
DẪN NHẬP
Thế giới hiện đại, với hiện tượng
toàn cầu hoá và môi trường kỹ thuật của nó, có ảnh hưởng không
nhỏ đối với cuộc sống mọi người trên mọi lãnh vực xã hội và tôn
giáo. Bên cạnh những lợi thế tích cực, sự xâm nhập của phong
trào tục hoá, với nền văn hoá duy vật và hưởng thụ, đã tác động
vào tinh thần con người và tạo nên một cuộc khủng hoảng trầm
trọng với nền văn minh. Vì thế, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã
kêu gọi mọi thành phần trong Hội Thánh và xã hội cùng “xây dựng
một nền văn minh tình thương, được đặt nền tảng trên những giá
trị phổ quát là hoà bình, công lý, liên đới và tự do.”1
Những truyền thống tôn giáo cũng
như những giá trị xã hội của Á Châu cũng không thoát khỏi những
tác động tiêu cực ấy do bầu khí toàn cầu hoá và chủ nghĩa tiêu
thụ. Xã hội Việt Nam cũng phải chịu chung bầu khí này với những
ảnh hưởng hết sức phức tạp của ý thức hệ cộng sản. Đức Gioan
Phaolô II cảm thông: “Trên những mảnh đất vốn vẫn được xem như
là vùng đất của sự hài hoà, thì ý thức hệ này, rất hấp dẫn trên
lý thuyết, vì nó có vẻ thật tốt khi muốn hoàn thiện lịch sử, hay
xây dựng một thế giới tự do, bình đẳng và công bằng, nhưng trên
thực tế lại chỉ có bất lương và tham nhũng. Và “người trẻ bị hụt
hẫng (trong những thực tại như thế) khi nhìn về tương lai.”2
Những thực tại này đòi hỏi khẩn thiết phải canh tân đời sống và
sứ vụ của Hội Thánh. Công đồng Vaticanô II xác tín rằng “công
cuộc canh tân này phần lớn tuỳ thuộc sứ vụ linh mục đã được
Thánh Linh Chúa Kitô thúc đẩy” và Công đồng “long trọng khẳng
định tầm quan trọng đặc biệt của việc đào tạo linh mục.”3
Sứ vụ quan trọng nhất của Hội
Thánh là sống, làm chứng và loan báo Tin Mừng cứu độ cho toàn
thể nhân loại. Để thi hành sứ vụ này, Hội Thánh tại Á Châu buộc
phải tổ chức và làm cho nhân sự của mình có khả năng giới thiệu
Chúa Giêsu Kitô Cứu Thế với một gương mặt Á Châu, vì “chính Đức
Kitô muốn là và muốn trở thành người Châu Á hơn.”4 Nhắc tới
nguồn gốc Châu Á của Chúa Giêsu, Đức Hồng Y Paul Shan Kuo-hsi
cũng đã nói rằng “Chúa Giêsu, Đấng đã sinh ra tại Châu Á, lại
được giới thiệu với chúng ta, những người Châu Á, như là một
người Châu Âu. Giờ đây là lúc chúng ta trả lại cho Ngài gương
mặt Châu Á và giới thiệu Ngài như là người Châu Á cho những
người Châu Á, qua những đường hướng và tư tưởng của Á Châu.”5
Trong cái nhìn Kitô học từ dưới
lên, Đức Giêsu Nadarét được giới thiệu như là bậc thầy khôn
ngoan, là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta,” là tôi tớ đau khổ, là
người thợ, người chữa bệnh, người an ủi, vị ngôn sứ của mọi
người, và là người giải phóng,… những hình ảnh thật gần gũi và
dễ hiểu, dễ được người Châu Á chấp nhận vì hầu hết họ là những
người sống trong cảnh đói nghèo, thất học, bị coi thường, bị
ngược đãi, bị đàn áp và trong chừng mực nhất định, họ bị bách
hại, đặc biệt là phụ nữ.6
Thế gian có thể tìm thấy Gương
Mặt Á Châu của Chúa Giêsu ở đâu? Người ta có thể nhận ra gương
mặt ấy qua lối sống và chứng tá xuất phát từ lòng yêu mến say mê
và tinh thần truyền giáo của các môn đệ Chúa: ưu tiên “Say mê
Chúa Kitô và Say mê con người.”7 Chính Ngài là Đấng đã nói: “Xem
quả thì biết cây” (Lc 6,44), hay “Cứ dấu này, mọi người sẽ nhận
biết anh em là môn đệ của Thầy” (Ga 13,35). Khi người Kitô hữu
bước đi trong ánh sáng và sống yêu thương, họ nên nhân chứng
hùng hồn của Thiên Chúa Cha (x. Ga 15,18). Đối với những ai muốn
phục vụ Dân Chúa thì điều này lại càng chân thực hơn nữa. Trở
thành môn đệ Chúa Giêsu, nên đồng hình đồng dạng với Ngài trong
hành động và sứ vụ, mặc lấy chính Ngài và ngày càng nên giống
Ngài hơn trong đời sống hằng ngày chính là ý nghĩa và mục đích
của việc đào tạo các linh mục tương lai. Trong công tác đào tạo
này, “việc đào tạo thiêng liêng là quan trọng nhất.”8
Tìm kiếm một hướng đào tạo thiêng
liêng thích đáng cho các chủng sinh trong bối cảnh Việt Nam hiện
nay, người nghiên cứu được những tư tưởng sau đây của cha ông
mình khích lệ: “Kế một năm không gì bằng trồng lúa, kế mười năm
không gì bằng trồng cây, kế trăm năm không gì bằng trồng người.”
Việc trồng người cũng như phương pháp trồng người trong Hội
Thánh phải có thể đáp ứng được những nhu cầu và hoàn cảnh hiện
tại ở Việt Nam.
Trong Tông Thư Hậu Công đồng
Pastores Dabo Vobis (Những Mục Tử Như Lòng Mong Ước), Đức Thánh
Cha Gioan Phaolô II đã khẳng định rằng đối mặt với những biến
đổi sâu xa và mau lẹ trong xã hội, với sự phong phú của các nền
văn hoá và tính đa diện của các bối cảnh, trong đó Hội Thánh
loan báo và làm chứng cho Tin Mừng, Hội Thánh cảm thấy được mời
gọi, bằng sự dấn thân đã được canh tân, sống lại tất cả mọi điều
Đấng là Thầy đã làm cùng các môn đệ và được thúc giục “bởi sự
cấp thiết phải duyệt xét lại nội dung và phương pháp đào tạo
linh mục.”9
Để đáp lại lời mời gọi này, mọi
người đều nhận thức được rằng chất lượng của các linh mục tương
lai tuỳ thuộc vào việc đào tạo khởi đầu các vị đó nhận được
trong chủng viện, và cũng tuỳ thuộc vào việc đào tạo thường
xuyên các vị đó tham gia trong đời sống linh mục tại môi trường
giáo phận. Trong công tác đào tạo linh mục ấy, đời sống thiêng
liêng bao gồm mọi thứ thực sự thuộc về con người được Chúa Thánh
Thần hướng dẫn: “Đời sống thiêng liêng là đời sống nhân bản được
sống trong Thánh Linh.”10
Đối diện với những đổi thay về
văn hoá như thế, phong trào tục hoá và lối sống mới có ảnh hưởng
sâu rộng trên đời sống và sứ vụ của nhiều linh mục giáo phận tại
Việt Nam, phong trào và lối sống ấy đặt ra những vấn nạn sau:
“Làm thế nào để các linh mục có thể sống và thực thi sứ vụ với
con tim và tinh thần mạnh mẽ trong những thời điểm khó khăn ấy?
Ngày nay, những khía cạnh nào trong đời sống linh mục cần được
canh tân và củng cố? Đời sống linh mục thiếu điều gì trong bầu
khí tục hoá và đa dạng hiện nay?”11
Mọi người đều tin rằng việc đào
tạo thiêng liêng cho các chủng sinh sẽ góp phần giải quyết những
vấn nạn đó. Sự tăng trưởng thiêng liêng thực sự về cơ bản sẽ
giúp họ đương đầu với những thách đố mà họ gặp phải và sẽ khích
lệ họ thực thi sứ vụ mục vụ trong tương lai cách xứng đáng. Vì
vậy, có thể trình bày các vấn đề căn bản cho họ theo những câu
hỏi sau đây:
1) Đâu là nền tảng, những thách đố và
cơ hội khả dĩ ảnh hưởng đến đời sống thiêng liêng và việc đào
tạo thiêng liêng của các chủng sinh ở Việt Nam hôm nay?
2) Đâu là những nguyên tắc chỉ đạo
được Giáo Huấn của Hội Thánh trình bày, cả phổ quát lẫn địa
phương, liên quan đến công tác đào tạo thiêng liêng cho các ứng
viên linh mục?
3) Làm thế nào để có thể đặt công tác
đào tạo thiêng liêng trong bối cảnh cụ thể của Việt Nam, khi làm
hài hoà và hội nhập tiến trình đào tạo thiêng liêng với đào tạo
nhân bản, đào tạo và tự đào tạo, đồng thời vẫn giữ được căn tính
bất di bất dịch của chức linh mục?
4) Về mặt đào tạo thiêng liêng, đâu
là những yếu tố đặc thù giúp chủng sinh trở thành những thừa tác
viên hữu hiệu cho Dân Chúa?
Một chương trình đào tạo thiêng
liêng thích đáng cho các chủng sinh sẽ không chỉ tái khẳng định
lời mời gọi và những thách đố cho chương trình đào tạo toàn vẹn,
mà còn chỉ ra hướng đi và những kỹ năng cần thiết cho các nhà
đào tạo và linh hướng trong sứ vụ cung cấp một chương trình đào
tạo toàn diện tại chủng viện. Chất lượng đời sống các linh mục
phụ thuộc rất nhiều vào việc đào tạo ban đầu được hấp thụ tại
chủng viện, và vào việc đào tạo thường xuyên12 được đảm nhiệm và
tăng cường trong đời sống thừa tác vụ. Vì lý do đó, Đức Gioan
Phaolô II đã nói rằng các linh mục nên tạo ra thói quen sống
thân mật với Chúa Kitô như là người bạn trong mọi chi tiết đời
sống mình và sống mầu nhiệm phục sinh của Chúa để biết cách khai
tâm cho những người được trao phó cho mình coi sóc.13
Mặc dù công trình nghiên cứu này
chỉ giới hạn vào việc đào tạo thiêng liêng, nó cũng giúp ích cho
các khía cạnh khác của công cuộc đào tạo linh mục. Nó hữu ích
theo nhiều cách khác nhau cho cả chủng sinh lẫn các nhà đào tạo,
khi đưa ra vai trò nền tảng, chắc chắn và cốt yếu của việc đào
tạo thiêng liêng tại chủng viện. Như vậy, công trình nghiên cứu
này chắc chắn sẽ giúp ích cho Hội Thánh tại Việt Nam.
Hơn nữa, mặc dù các Giáo Hội ở
các địa phương khác nhau có những nền tảng và những thách đố
khác nhau, công trình này cũng hữu ích cách nào đó đối với các
Giáo Hội tại Á Châu trong chương trình đào tạo của các Giáo Hội
này.
Công trình này cũng có giá trị
với những ai muốn tăng triển kiến thức và hiểu biết về tính phức
tạp của Hội Thánh Công Giáo tại Việt Nam, nhằm yêu mến và giúp
đỡ Hội Thánh tại Việt Nam cách tốt hơn.
Tuy nhiên trước hết, công trình
này giúp ích cho chính người nghiên cứu trong khi tìm tòi để
giúp đỡ các chủng sinh được ủy thác cho mình một cách hữu hiệu
hơn.
Công trình nghiên cứu này nhằm
khám phá và phát triển những yếu tố trong chương trình đào tạo
thiêng liêng, một chương trình sẽ thích ứng với các chủng sinh
Việt Nam đang sống và sẽ thi hành sứ vụ trong một bối cảnh luôn
luôn biến đổi.
Công trình này cũng giúp họ có
khả năng đối diện với những thách đố của phong trào tục hoá, duy
vật, hưởng thụ và chính sách cộng sản, với bình an nội tâm như
Chúa Giêsu từng khích lệ (x. Ga 14,27; 16,33).
Như thế, các chủng sinh sẽ được
trang bị những phương tiện tự nhiên và siêu nhiên cần thiết14 để
sống trọn vẹn đời sống chủng sinh hiện nay, và tiếp tục lớn lên
trong đời sống phục vụ của linh mục trong tương lai.
Người nghiên cứu phải tuân theo
những nguyên tắc chỉ đạo do Huấn Quyền Hội Thánh đưa ra. Đồng
thời cũng phải cố gắng thích nghi những nguyên tắc chỉ đạo này
với hoàn cảnh lịch sử đặc thù và cụ thể của Hội Thánh Việt Nam.
Nghĩa là chương trình đào tạo phải đáp lại và bắt nguồn từ một
nhận thức về tính phức tạp của văn hoá, não trạng, lối sống, các
điều kiện sống và những nhu cầu thuộc thừa tác vụ của con người
Việt Nam.
Với những kinh nghiệm sống đa
dạng và phong phú, người nghiên cứu sẽ phân tích nhiều văn kiện
của Hội Thánh nhằm nhận dạng những yếu tố của việc đào tạo
thiêng liêng. Công trình này cũng sẽ tìm cách kết hợp lý thuyết
và thực hành. Điều này sẽ được diễn tả theo nhiều cách. Người
Việt Nam, với kiểu nói “Học hành”, muốn nói rằng việc học và
việc thực hành phải đi đôi với nhau. Nghĩa là nếu ta chỉ trình
bày chương trình đào tạo cho các chủng sinh, nhưng nếu chính họ
lại không tiếp thu chương trình đó thành của mình, thì họ vẫn
chưa được dào tạo đầy đủ. Người Việt Nam ta còn có một kiểu nói
khác phản ánh khó khăn này: “Nước đổ lá môn” nói lên sự thiếu
hiệu quả, như nước rơi xuống lá môn không thấm nước. Ta cũng tìm
thấy một kiểu nói tương tự trong thư của thánh Giacôbê về đức
tin và những hành động chứng minh đức tin (x. Gc 2,18). Điều này
nhấn mạnh đến công việc tự đào tạo của chủng sinh.
Công trình nghiên cứu này không
đặt trọng tâm vào toàn bộ chương trình đào tạo các linh mục
tương lai, nhưng chỉ giới hạn vào công tác đào tạo thiêng liêng
cho các chủng sinh, bao gồm cả việc linh hướng và đời sống cầu
nguyện. Dĩ nhiên, việc cho rằng mình có thể xem xét kỹ càng mọi
khía cạnh của công tác đào tạo thiêng liêng sẽ là quá kiêu căng.
Vì thế, người nghiên cứu chỉ tự giới hạn trong những khía cạnh
hàng đầu của tiến trình này, chương trình mà người nghiên cứu
diễn tả bằng hạn từ Đào Tạo và Tự Đào Tạo Thiêng Liêng theo ba
thời kỳ: Tiền Chủng viện, Chủng viện và Hậu Chủng viện, đặc biệt
là trong năm năm đầu tiên của đời linh mục.
Bối cảnh của tiến trình đào tạo
thiêng liêng này là theo nhãn quan Giáo Hội học của Công đồng
Vaticanô II, về Truyền Giáo, về Hợp Tác với Giáo Dân, và về Đối
Thoại, nhằm định hình cho các chủng sinh nên giống Chúa Giêsu
Nadarét, mẫu gương tuyệt đối của mọi linh mục.
Cuối cùng, người nghiên cứu sẽ đề
cập đến lòng sùng kính đặc biệt đối với Chúa Giêsu Thánh Thể và
với Đức Trinh Nữ Maria,15 như là yếu tố quyết định cho sự thành
công và lòng trung thành của các linh mục tương lai.
LƯỢC TÓM
Một bản tóm lược của công trình
nghiên cứu này sẽ cho thấy một cái nhìn khái quát nhằm giúp đọc
giả dễ hiểu hơn.
Trước hết, ở phần đầu, người
nghiên cứu giới thiệu hoàn cảnh của Hội Thánh Việt Nam và việc
đào tạo linh mục tại đây trong tương quan với hoàn cảnh xã hội
Việt Nam, trải qua những hiểu lầm và bách hại của các triều đại
phong kiến, rồi những khó khăn và hạn chế về mặt tôn giáo dưới
chế độ cộng sản.
Hoàn cảnh sống và thi hành sứ vụ
trong hiện tại của các linh mục Việt Nam, cũng như việc đào tạo
thiêng liêng hiện nay cho các chủng sinh cũng sẽ được đề cập
tới.
Những bối cảnh nền tảng, những
thách đố và cơ hội khả dĩ này chính là bối cảnh trong đó các
chủng sinh hôm nay được đào tạo và các linh mục tương lai sẽ thi
hành sứ vụ.
Công tác đào tạo thiêng liêng và
những nỗ lực trong công tác này, những nỗ lực đáng kể, cần được
tiếp cận cách thích đáng và phù hợp với thế giới đang thay đổi
và với sứ mệnh tân Phúc Âm hoá của Hội Thánh.
Phần thứ hai làm nổi bật những
chỉ dẫn chính yếu trong những giáo huấn của Hội Thánh liên quan
tới việc đào tạo thiêng liêng cho các linh mục tương lai, việc
đào tạo khởi đầu và đào tạo thường xuyên. Những tư tưởng chủ đạo
và quyết định xuất phát từ Công đồng Vaticanô II. Những giáo
huấn này được củng cố và soi sáng nhờ những văn kiện của Toà
Thánh và các bài diễn văn của các Đức Thánh Cha, đặc biệt là Đức
Gioan Phaolô II. Những giáo huấn ấy được cụ thể hoá và áp dụng
theo những đường hướng của Liên Hiệp Hội Đồng Giám Mục Châu Á và
theo những chỉ dẫn của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam.
Hơn nữa, những suy tư thần học
làm sáng tỏ một số mặt trong hình ảnh các linh mục Châu Á, những
người vừa đượm nhuần nhân bản vừa đượm nhuần thiêng liêng, dựa
trên mẫu gương của mọi linh mục, là Chúa Giêsu Nadarét, hôm qua,
hôm nay và mãi mãi. Căn tính linh mục là bất biến giữa một thế
giới không ngừng biến đổi và còn tiếp tục biến đổi thật mau lẹ.
Ở phần thứ ba, việc đào tạo và tự
đào tạo thiêng liêng của các linh mục tương lai trong bối cảnh
Việt Nam hôm nay được bối cảnh hoá theo quan điểm của Giáo Hội
học của Vaticanô II, về Truyền Giáo, về Hợp Tác với Giáo Dân và
về Đối Thoại.
Bên cạnh việc đối thoại với các
nền Văn Hoá, với các Tôn Giáo khác và với Người Nghèo, hoàn cảnh
đặc thù của Việt Nam đòi hỏi phải có cuộc đối thoại thứ tư, Đối
Thoại với những người Cộng Sản.
Phần thứ tư miêu tả đầy đủ và chi
tiết việc đào tạo và tự đào tạo thiêng liêng theo ba giai đoạn:
Tiền Chủng Viện, Thời kỳ Chủng Viện và năm năm đầu tiên trong
đời linh mục của thời Hậu Chủng Viện.
Giai đoạn đào tạo Tiền Chủng Viện
là nền tảng tiên quyết trong mối tương tác giữa đào tạo nhân
bản, đào tạo Kitô và đào tạo linh mục: nếu không là người tốt,
không thể là Kitô hữu tốt; và nếu không là Kitô hữu tốt, không
thể là linh mục tốt được.
Giai đoạn đào tạo thiêng liêng ở
Chủng Viện là giai đoạn chính yếu và toàn bộ. Giai đoạn này được
triển nở qua việc linh hướng, đời sống cầu nguyện và đời sống
nội tâm, thông qua việc thực hành hài hoà giữa toà ngoài và toà
trong, nhằm giúp các chủng sinh có đủ tự do lương tâm trong việc
quyết định đời sống của mình.
Việc đào tạo và tự đào tạo thiêng
liêng như thế được thực hiện bởi một số nhân tố đào tạo, cụ thể
là cộng đoàn giáo dục của chủng viện, chính bản thân ứng viên,
các nhà đào tạo, vị linh hướng, vị giám đốc và hội đồng chủng
viện, nhóm nhỏ bạn hữu và môi trường hoạt động mục vụ.
Trong suốt giai đoạn này, có một
số việc lượng định và tự lượng định, đặc biệt là sự lượng định
cuối cùng để giới thiệu các ứng viên nhận Chức Thánh.
Năm năm đầu tiên đời linh mục
thời Hậu Chủng Viện nhằm kích hoạt việc đào tạo đã hấp thụ ở
chủng viện, nhằm giúp các linh mục trẻ sống đời sống linh mục và
thực thi kỹ lưỡng sứ vụ của mình giữa lòng Dân Chúa.
Để đạt được mục tiêu này, ta cố
gắng giúp các linh mục trẻ đẩy mạnh những mối liên hệ hài hoà,
quân bình và trưởng thành với chính mình, với người khác, với
thiên nhiên và một cách mật thiết với Thiên Chúa. Người ta chú ý
đặc biệt đến mối liên hệ của họ với các phụ nữ và nữ tu, trong
viễn cảnh những mối liên hệ và cách ứng xử của Chúa Giêsu.
Lòng sùng kính nhiệt thành đối
với Chúa Giêsu Thánh Thể và Đức Maria được giới thiệu như là nơi
nương tựa và bảo đảm cho sự thành công và ơn trung thành trong
đời sống và sứ vụ của mọi linh mục.
PHẦN I
BỐI CẢNH NỀN TẢNG, NHỮNG THÁCH
ĐỐ, CƠ HỘI KHẢ DĨ CỦA VIỆC ĐÀO TẠO
THIÊNG LIÊNG CHO CÁC LINH MỤC TƯƠNG LAI TẠI VIỆT NAM
Thiên Chúa thường kêu gọi các linh mục
của Ngài từ những môi trường nhân sinh và môi trường Giáo Hội cụ
thể. Dĩ nhiên các ngài chịu ảnh hưởng của những môi trường ấy,
và rồi các ngài cũng được sai tới chính những môi trường ấy để
phục vụ Tin Mừng của Chúa Kitô.16
Điều quan trọng nhất trong cuộc
sống con người là bài học mà họ đã tiếp thu từ quá khứ. Không ai
thay đổi được quá khứ, nhưng từ quá khứ, người ta có thể tạo ra
và xây đắp một tương lai tốt đẹp hơn.17 Những khó khăn và thách
đố có thể trở thành những cơ hội cho một công trình bền vững và
chắc chắn.
Đó là nền tảng của niềm hy vọng
trong việc giáo dục, nhất là việc đào tạo thiêng liêng, vốn là
công việc liên quan trực tiếp đến ân sủng Thiên Chúa và sự biến
đổi. Thiên Chúa có thể rút ra điều tốt lành từ điều xấu, điều
tích cực từ cái tiêu cực, và có thể biến đổi điều tốt thành điều
tốt hơn.
Trong tinh thần như thế, tác giả
muốn xem xét nền tảng và những thách đố trong bối cảnh Việt Nam.
Như thế những cơ hội tích cực sẽ được khám phá và những cơ hội
tích cực ấy sẽ dẫn đến việc đào tạo thiêng liêng thích hợp cho
các chủng sinh hôm nay; và mai ngày, những nhà lãnh đạo tương
lai ấy sẽ đảm nhận vai trò quan trọng trong việc xây đắp Nước
Thiên Chúa trong xã hội Việt Nam.
CHƯƠNG I
XÃ HỘI VIỆT NAM
Nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa
Việt Nam là một nước nhỏ ở Đông Nam Á. Dải đất có hình chữ “S”,
với chiều dài 1.500 dặm. Phía bắc Việt Nam tiếp giáp với Trung
Quốc, phía đông và phía nam tiếp giáp với Thái Bình Dương, và
phía tây tiếp giáp với Campuchia và Lào. Diện tích toàn bộ đất
nước khoảng 127.600 dặm vuông, với 2.500 hải lý bờ biển. Dân số
tại Việt Nam khoảng bảy mươi tám triệu, với khoảng hai triệu
người Việt phân tán trên khắp thế giới. Khoảng tám mươi phần
trăm dân số là người Kinh, số còn lại thuộc năm mươi tư nhóm
thiểu số riêng rẽ.18
Nước Việt Nam đã chịu ách đô hộ
của Trung Quốc trong khoảng một ngàn năm, ách thực dân Pháp
trong một trăm năm, và một cuộc nội chiến kéo dài ba mươi năm,19
với sự can thiệp của ngoại bang ở cả hai bên chiến tuyến sau
cuộc chia đôi đất nước vào năm 1954.
Lịch sử dài phải đấu tranh để tồn
tại như thế đã khuôn đúc nơi dân tộc Việt Nam một tính cách phức
tạp, thậm chí mâu thuẫn. Họ kiên nhẫn và yêu hoà bình, nhưng đôi
khi lại hiếu chiến và phản đối người ngoại quốc. Họ vừa sùng đạo
lại vừa chống tôn giáo. Tâm thức phức tạp này, cùng với quan
điểm tôn giáo – chính trị của họ đã tạo nên một bối cảnh tế nhị
và nền tảng đa dạng dẫn đến nhiều thách đố và cơ hội khả dĩ
trong mọi lãnh vực của cuộc sống.
Điều này đúng cho người Việt Nam,
cũng như người ngoại quốc, là khi nhìn lại quá khứ không nên hàm
ý phàn nàn, nhưng đúng hơn là ước muốn sử dụng bài học quá khứ
nhằm xây đắp một tương lai tốt đẹp hơn.
A. Bối Cảnh Lịch Sử Liên Hệ Đến Thời
Phong Kiến
1. Nguyên Do Gây Hiểu Lầm Và
Bách Hại Tôn Giáo
a. Ý Nghĩa Đích Thực Của Đạo
Ông Bà
Đạo Ông Bà bắt nguồn từ
thủa ban đầu trong lòng dân tộc Việt Nam. Lòng tôn kính ông bà
tổ tiên là biểu hiện tôn giáo quan trọng đối với họ.20 Họ tin
rằng nếu như sông có nguồn, cây có cội, thì nguồn cội của con
người là tổ tiên, và việc tôn kính tổ tiên là bổn phận quan
trọng nhất của họ. Đó là lòng kính trọng tri ân và tình con thảo
của con cái đối với tổ tiên, ông bà cha mẹ, còn sống cũng như đã
qua đời. Mỗi gia đình đều có bàn thờ tổ tiên.
Tâm điểm của sự tôn kính này
là Ông Trời, tương đương với Đấng mà chúng ta gọi tên là Thiên
Chúa. Ngài là hữu thể tối cao, là vị chỉ huy lớn nhất của mọi
thụ tạo hữu hình và vô hình. Mọi người đều phải tôn kính Ngài
với lòng biết ơn. Người Việt Nam tin rằng Trời là tuyệt đối và
vô biên. Mọi bàn thờ trong nhà đều không xứng đáng để Trời ngự ở
đó. Nhưng có một bàn thờ nhỏ đặt ở bên ngoài được gọi là Vọng
Thiên, có nghĩa là hướng về Trời. Trên bàn thờ này, người ta
dâng hoa trái, để từ trời cao, Ông Trời sẽ nhìn thấy và chấp
nhận lòng thành của con người.
Bên dưới Ông Trời là Vua,
Thầy, và Cha Mẹ. Người ta cũng ý thức điểm khác biệt sau đây:
Đức Vua cai trị và thần dân của ngài tuân hành luật lệ của ngài
với lòng tri ân; người Thầy dạy dỗ và học trò thực hành lời giáo
huấn của Thầy với lòng biết ơn. Không có bàn thờ cho Đức Vua và
Thầy. Chỉ có tổ tiên và cha mẹ là có bàn thờ trong nhà, nhờ thế
tổ tiên và cha mẹ được con cháu tôn kính. Chính việc tôn kính tổ
tiên như thế khiến con cháu hiệp nhất với nhau. Như thế, con
cháu có thể theo đuổi và duy trì di sản, vật chất cũng như tinh
thần, mà tổ tiên truyền lại. Ý thức về tổ tiên như thế giúp mỗi
thành phần sống tốt hơn lên theo nhiều chiều kích.21
Sau này, Nho giáo, Lão giáo
và Phật giáo du nhập vào Việt Nam và đã được người Việt Nam dễ
dàng chấp nhận, là vì những tôn giáo này có nhiều yếu tố gần gũi
với việc tôn kính tổ tiên. Dần dần, những tôn giáo này trở nên
đồng hoá với văn hoá và tâm thức người Việt Nam.
Trải qua thời gian, việc tôn
kính tổ tiên đã bị pha trộn và kết hợp thành một số yếu tố thuộc
về những thói quen của niềm tin và tôn giáo bình dân, và thậm
chí mê tín. Chính thứ thói quen phức tạp sau này mà nhiều người
ngoại quốc hiểu lầm đó là việc tôn kính tổ tiên. Sự nhầm lẫn lớn
tới mức ngay cả một số đông người Việt Nam hiện nay vẫn còn hiểu
lầm như thế.
b. Vai Trò Tối Cao Của
Ông Trời
Theo suy nghĩ truyền
thống của người Việt Nam, Ông Trời có vai trò tối cao và vượt
trên tất cả. Chính Ông Trời cai trị mọi người và mọi vật: “Lưới
Trời lồng lộng, thưa nhưng khó lọt.” Đối mặt với khoảng cách
giàu nghèo quá lớn, người nghèo phàn nàn: “Trời sao Trời ở không
cân, kẻ ăn không hết người lần không ra.” Người ta thường kêu
xin Trời giúp, hay kêu xin công lý.
Chỉ có Ông Trời mới đáng
hưởng sự tôn thờ cao nhất. Đức Vua được coi là “Thiên Tử” (Con
Trời), là đại diện của Trời, và cai trị dân chúng. Chính Đức Vua
cũng phải thờ Trời. Bằng chứng của điều này là bàn thờ ngoài
trời tại Nam Giao, Huế, Việt Nam, cũng giống như Điện Kính Thiên
tại Bắc Kinh, Trung Quốc. Nơi được dành cho Trời như thế cũng
tương tự như nơi trọng nhất dành cho Thiên Chúa trong Kitô giáo.
Ông Trời ở trên tổ tiên chứ
tổ tiên không ở trên Ông Trời. Tổ tiên rất được kính trọng và
tôn kính một cách gần gũi, nhưng việc thờ kính tổ tiên không
được xem giống hệt với việc tôn thờ Thiên Chúa.22
c. Lối Hiểu Nguy Hại
Trái lại, vì sự hiểu
lầm về việc thờ kính tổ tiên giống như là việc “thờ ngẫu tượng,”
các thừa sai Châu Âu đã phân biệt một cách hợp lý và hợp với
thần học rằng chỉ một mình Thiên Chúa mới xứng đáng được thờ
phượng. Vì vậy, họ hủy bỏ, hoặc yêu cầu các Kitô hữu tân tòng
địa phương hủy bỏ bàn thờ tổ tiên tại nhà mình. Hành động này
gây ra một phản ứng rất mạnh nơi dân chúng và giới quan quyền
Việt Nam, dẫn tới một kết luận đến nay vẫn còn, và ngăn cản bước
tiến của Tin Mừng. Người ta nói rằng “theo đạo Công giáo là từ
bỏ tổ tiên.”23 Hậu quả là đạo Công giáo bị nhiều người bác bỏ và
các Kitô hữu bị bách hại. Đây là một lý do rõ ràng giải thích
tại sao người Công giáo ở Việt Nam chỉ là một thiểu số, dù đạo
Công giáo đã được các thừa sai từ Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và
Pháp đưa đến đây bốn trăm bảy mươi năm trước đây (1633).
d. Đường Hướng Mới và Cơ
Hội Mới
Đối diện với hoàn cảnh
như vậy, Hội Thánh Công giáo phải điều chỉnh và tự mở ra một
đường hướng mới trong cách nhìn và cách liên hệ với nền văn hoá
Á Châu, để khởi đầu cho công cuộc Tân Phúc Âm hoá. Khi Hội Thánh
ý thức được những sắc thái ấy, Hội Thánh đã thay đổi lập trường
của mình và bắt đầu kính trọng việc tôn kính tổ tiên tại Trung
Quốc với Huấn Thị Plane Compertum Est (8-12-1939), và sau này
tại Việt Nam từ năm 1964.24 Trong chiều hướng ấy, Hội Thánh có
một quan điểm mới về việc hội nhập văn hoá. Đó là một quyết định
tốt đẹp và thích đáng, nhưng tự nó, quyết định này không thể
chữa trị thái độ thù địch vẫn còn tồn tại nơi một số người Việt
Nam. Sai lầm quá khứ cần được trình bày trong phần đào tạo Kitô
đối với các chủng sinh. Một diễn đàn phù hợp cho vấn đề này
chính là định hướng dẫn tới đối thoại và hội nhập văn hoá.
e. Ly Do Chính Trị Của Những Căng
Thẳng, Xung Đột Và Bách Hại
Bên cạnh những lý do
mang tính văn hoá và tôn giáo được nêu ra trên đây, cũng như
những xung đột do ảnh hưởng của một số thực hành của Phật giáo
và của một số truyền thống và giá trị của Khổng giáo, còn có
những căn cớ khác dẫn đến sự căng thẳng thường xuyên giữa các
nhà thừa sai và giới quan quyền địa phương trong các lãnh vực
chính trị, kinh tế và xã hội.
Trong thời gian người Pháp
chiếm Việt Nam làm thuộc địa, thật khó phân biệt giữa các vị
thừa sai Kitô giáo và những kẻ chinh phục, những kẻ đã biến nước
Việt Nam thành một thuộc địa của nước Pháp. Giới quan quyền
người Việt, vốn hoạt động trong hệ thống phong kiến, đồng hoá
các vị thừa sai ngoại quốc với những kẻ chinh phục và những tên
thực dân. Do đó người Pháp, dù họ là ai đi nữa, được xem là
những kẻ tước đoạt chủ quyền quốc gia. Vì thế, giới quan quyền
địa phương coi các Kitô hữu bản địa như những kẻ bán nước và
phản bội; và họ bị kết tội là cổ vũ cho sự tha hoá và mất bản
sắc dân tộc về mặt văn hoá. Sự hiểu lầm này dẫn đến hậu quả là
cuộc bách hại các Kitô hữu, và thái độ thù nghịch giữa các Kitô
hữu và lương dân. Điều này lại càng đúng hơn dưới triều đại Nhà
Nguyễn,25 giai đoạn thuộc ba triều đại Minh Mạng, Thiệu Trị và
Tự Đức.
Sứ mạng của thế hệ Kitô hữu
mới tại Việt Nam, đặc biệt là các vị lãnh đạo Giáo Hội, là khích
lệ việc đối thoại bằng chứng tá và bằng lối sống, nhằm tạo nên
sự hiểu biết giữa mọi thành phần dân tộc. Đó là con đường Phúc
Âm hoá đặt trọng tâm vào ơn cứu độ của toàn thể nhân loại. Đó là
sứ mệnh và mục đích cái chết và phục sinh của Chúa Giêsu, vị
Linh Mục Thượng Phẩm. Vì thế, việc đào tạo toàn diện cho linh
mục tương lai phải đặt nền tảng trên những nhận thức này, nhằm
thúc đẩy sự hiểu biết và chấp nhận lẫn nhau, nhờ những cuộc gặp
gỡ và trao đổi. Mọi người sẽ nhận ra rằng thành kiến cũ là vô
căn cứ và xuất phát từ bối cảnh chính trị lẫn lộn và phức tạp
của lịch sử đất nước.
B. Bối Cảnh Lịch Sử Liên Hệ với Giai
Đoạn Cộng Sản
1. Những Mối Liên Hệ Giữa Giáo
Hội Việt Nam và Chính Quyền Cộng Sản
a. Giai Đọan Đối Đầu
Đảng Cộng Sản được khai
sinh ngày 3-2-1930, trong cuộc chiến chống lại chủ nghĩa đế
quốc, và nhắm đến độc lập dân tộc. Do ý thức hệ vô thần của Chủ
Nghĩa Cộng Sản, một Tuyên Bố của hàng Giám Mục tại Hà Nội năm
1951 đã kết án chủ nghĩa cộng sản và ra vạ tuyệt thông những ai
vào đảng.26 Do đó, mối liên hệ giữa Hội Thánh Công giáo và Chính
Quyền Cộng Sản ngày càng trở nên căng thẳng.
Thất bại của nước Pháp tại chiến
trường Điện Biên Phủ năm 1954 đã kết liễu chế độ thực dân tại
Việt Nam, nhưng đất nước bị chia đôi tại vĩ tuyến mười bảy theo
Hiệp Định Giơnevơ. Ở miền Bắc, người cộng sản cai trị với sự ủng
hộ của Trung Quốc và Nga. Miền Nam theo chủ nghĩa quốc gia với
sự ủng hộ của Hoa Kỳ và các đồng minh. Cuộc phân tranh này gây
ra một cuộc nội chiến đẫm máu kéo dài tới ngày 30-4-1975 với
chiến thắng của miền Bắc, đánh dấu một khởi điểm mới trong lịch
sử đất nước. Kết quả của chiến thắng này là việc thống nhất đất
nước. Người Cộng Sản Việt Nam rất tự hào về thắng lợi của họ đối
với Mỹ, một nước vẫn được xem là đế quốc hùng mạnh nhất. Nhưng
thực ra, thắng lợi thuộc về cả dân tộc Việt Nam; Đảng Cộng Sản
chỉ là nhà tổ chức và lãnh đạo dân tộc thành công trong cuộc
chiến.
Mối liên hệ giữa người Công giáo
với Chính Quyền Cộng Sản trong một thời gian dài mang tính chất
đối đầu. Người cộng sản rất nhạy cảm và tỏ ra nghi ngờ đối với
người Công giáo. Mọi thứ liên quan đến Giáo Hội đều bị Công An
kiểm soát gắt gao. Giáo Hội bị buộc phải sống dưới chế độ hạn
chế và kiểm soát khắt khe. Ví dụ chỉ được dạy về tôn giáo trong
nhà thờ; các bài giảng bị giám sát; việc xưng tội bị ngăn cản.
Sách vở và các tạp chí thường kỳ bị đình bản hoặc đặt trong chế
độ kiểm soát gắt gao. Đất đai thuộc sở hữu của Giáo Hội và nhà
cửa bị trưng thu, bao gồm cả các trường học, bệnh viện, trại trẻ
mồ côi và một số nhà thờ, tu viện. Người trẻ Công giáo không
được tham gia phục vụ trong quân đội, không được vào trung học
hay đại học. Tại nhà trường, sinh viên bị nhồi nhét những kiến
thức đối kháng với đức tin Công giáo.
b. Giai Đọan Hiểu Biết Và Cộng
Tác
Không ai có thể phủ nhận
những điều đã xảy ra trong quá khứ. Nhưng thật may mắn là mối
liên hệ đã chuyển sang hướng hiểu biết và cộng tác: ngay sau khi
đất nước thống nhất, Giáo Hội Công giáo tại Việt Nam đã bắt đầu
canh tân nhãn quan của mình: Trong thư mục vụ năm 1976, các Giám
Mục Miền Nam Việt Nam đã cố gắng đem đến sự hoà giải với sự lãnh
đạo của người cộng sản, và kêu mời người Công giáo đón nhận diễn
biến lịch sử và cộng tác. Những đường hướng ấy được tóm tắt
trong câu: “Tích cực sống đạo bằng cách dấn thân và phục vụ giữa
lòng Dân tộc Việt Nam hôm nay.”27
Các vị lãnh đạo Giáo Hội địa
phương đã khích lệ các Kitô hữu trở nên thành phần của cộng đồng
dân tộc, chung tay “với mọi người để xây dựng đất nước, và làm
những gì lợi ích chung cho cộng đồng dân tộc mà không nghịch với
đức tin và lương tâm Kitô giáo.”28
Từ 24 đến 30-4-1980, Hội Nghị Các
Giám Mục Việt Nam tại Hà Nội đã ra Thư Mục Vụ kêu gọi người Công
giáo “sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc để phục vụ hạnh phúc của
đồng bào.”29 Và Thư Mục Vụ năm 2001 khẳng định: “Ta phải tiếp
tục đường hướng đồng hành với dân tộc, đồng cảm, chia sẻ hy vọng
và lo âu của dân tộc trong tiến trình phát triển xã hội và thăng
tiến con người.”30
Trong khi đó, Đức Thánh Cha Gioan
Phaolô II khuyên nhủ: “Hội Thánh tin vào một sự cộng tác lành
mạnh với chính quyền nhằm xây dựng một xã hội công bằng nhắm đến
lợi ích của mọi công dân, được dẫn dắt bằng tinh thần đối thoại
huynh đệ.”31
Hằng năm, một phái đoàn của Toà
Thánh viếng thăm Việt Nam để thảo luận về những vấn đề của Giáo
Hội địa phương với các quan chức Việt Nam. Và trong thư mục vụ
năm 2003, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã thúc giục người Công
giáo công bố Tin Mừng qua lời cầu nguyện, gương sống, và đối
thoại với những người không Công giáo.
c. Những Trăn Trở Mâu Thuẩn Do Hoàn Cảnh
Mới Gây Nên
Có những ý kiến đối
lập trong nội bộ cộng đồng Công giáo. Thực ra, nhìn vào một vật,
hai người có thể thấy nó một cách khác nhau.
Quả thế, năm 1986 là một
bước ngoặt quan trọng đối với Việt Nam, bước ngoặt được gọi là
Đổi Mới, do yêu cầu cải cách kinh tế mà các hoạt động chính trị
và thái độ của Chính Quyền Cộng Sản đối với các Tôn Giáo cũng
chịu ảnh hưởng tích cực. Nhưng vấn nạn “Có hay Không có tự do
tôn giáo tại Việt Nam” là một vấn nạn khó có câu trả lời dứt
khoát. Mọi chuyện tuỳ thuộc vào các mối liên hệ giữa vị lãnh đạo
Giáo Hội địa phương và các quan chức Chính Quyền địa phương. Với
những mối liên hệ tốt đẹp, mọi chuyện đều có thể. Với những mối
liên hệ không tốt, hầu như không có gì cả hoặc có làm được gì
cũng rất ít.
Sự phân biệt đối xử như thế cũng
gây ra những đánh giá không chính xác trong nội bộ Giáo Hội Địa
Phương. Người “cấp tiến”, hay “những người Công giáo có vẻ được
ưu đãi”, được gắn cho nhãn hiệu “quốc doanh” hay “giáo gian.”
Điều này phá vỡ sự hiệp nhất sống động của Hội Thánh, Thân Thể
Chúa Kitô. Tại sao những người của Thiên Chúa lại không vượt qua
được những thành kiến bất công này ngay trong nội bộ Giáo Hội?
Thật tuyệt vời khi ta biến thù
thành bạn và thật tồi tệ khi ta biến bạn thành thù. Một chương
trình đào tạo thiêng liêng thích hợp tại Việt Nam hôm nay không
được phép quên những nhân tố ấy trong đường hướng “sống Phúc Âm
giữa lòng dân tộc, xây dựng một nếp sống và một lối diễn tả đức
tin phù hợp với truyền thống dân tộc.”32
d. Dấu Chỉ Của Niềm
Hy Vọng
Dưới cái nhìn toàn
diện, hiện nay có một sự cởi mở đáng kể so với thời điểm người
cộng sản bắt đầu cai trị. Mốc son quan trọng nhất là sự tái lập
sáu Đại Chủng Viện trên toàn quốc với trên tám trăm chủng sinh
từ hai mươi lăm giáo phận. Viễn tượng này càng trở nên lạc quan
theo số thống kê năm 2003 về con số chủng sinh: một ngàn không
trăm tám mươi lăm đang học trong các chủng viện, hai trăm bốn
mươi mốt đã mãn trường (trong số đó, một trăm đã được truyền
chức linh mục) và một ngàn bảy trăm mười hai đang chờ đợi.33
2. Độc Quyền Giáo Dục Tại Việt Nam
Giáo dục được xem là nhân tố quan
trọng nhất, vì giáo dục xây dựng con người và tác động tới mọi
chiều kích của cuộc sống cũng như các hoạt động trong xã hội.
Giáo viên được định nghĩa là kỹ sư tâm hồn.
Trước năm 1954, Việt Nam chịu ảnh
hưởng của hệ thống giáo dục Nho giáo, và rồi chịu ảnh hưởng hệ
thống của Pháp. Sau năm 1954, miền Nam sử dụng hệ thống của Hoa
Kỳ và miền Bắc đặt nền tảng hệ thống giáo dục của mình trên các
học thuyết của Karl Marx và Vladimir Lenin nhằm xây dựng xã hội
Cộng Sản Chủ Nghĩa.
Vào năm 1975, miền Nam bị chinh
phục, và hệ thống Cộng Sản lan ra khắp đất nước. Đảng Cộng Sản
chống lại nền giáo dục do những người không cộng sản, và muốn
thay thế bằng nền giáo dục của riêng họ. Do vậy, hầu hết các
trường sở và các đại học của các Giáo Hội do các tu sĩ điều hành
đều bị giải tán. Nhiều trại tập trung và trung tâm học tập cải
tạo được mở ra để biến đổi người miền Nam thành “con người mới”
xã hội chủ nghĩa. Vì thế, nền giáo dục hiện nay được định hình
theo ý thức hệ cộng sản: một kiểu độc quyền về giáo dục tại Việt
Nam.
Tuy nhiên, ta cũng không được phủ
nhận nỗ lực tốt đẹp này: Chính Phủ Việt Nam đã nhập cuộc để mở
rộng cơ hội học hành cho các trẻ em trong nước. Dù vẫn còn là
một đất nước nghèo với thu nhập theo đầu người thấp, Việt Nam
cũng đã không ngừng đạt được những thành tựu lớn lao trong giáo
dục, và đã đạt được những tỷ lệ đến trường rất cao, so với các
quốc gia cũng có cùng thu nhập tính theo đầu người thấp như thế.
3. Một Kiểu Tôn Giáo Mới
Trên bình diện toàn cầu, chủ
nghĩa duy vật và chủ nghĩa tiêu thụ dẫn tới hiện tượng thờ ơ với
tôn giáo, hết quan tâm tới những gì liên quan đến Thiên Chúa, và
bỏ việc thực hành tôn giáo, được gọi là “vô thần thực tế.” Trong
bối cảnh này, một điều không được mong đợi đã xảy ra tại Việt
Nam: dường như có một kiểu tôn giáo mới, thứ tôn giáo có thể
được gọi là “tôn giáo Chính Quyền.” Thực ra, hầu như mọi quan
chức và các nhà lãnh đạo trong xã hội Việt Nam đều là thành viên
của ý thức hệ cộng sản. Đảng Cộng Sản dường như thành công trong
nỗ lực áp đặt ý thức hệ cộng sản thông qua độc quyền giáo dục,
và tôn vinh Chủ Tịch Hồ Chí Minh như vị anh hùng và người cha
già của đất nước. Tượng Chủ Tịch Hồ Chí Minh được tôn kính ở
những nơi công cộng quan trọng nhất. Ở một vài nơi trên đất
nước, người ta xây dựng những đền thờ Hồ Chủ Tịch như là ngôi
đền dành cho một vị thần của một kiểu tôn giáo mới. Không ai có
thể phủ nhận công lao của Chủ Tịch Hồ Chí Minh trong công cuộc
giải phóng đất nước, nhưng kiểu hoạt động như thế mang một ý
nghĩa mới và khác biệt.
4. Phục Hồi Tôn Giáo Bình
Dân
Một hiện tượng khác cũng
đáng được ghi nhận. Khi đã nắm quyền trên toàn cõi Việt Nam, các
viên chức chính quyền cộng sản phá huỷ mọi am miếu như là những
nơi mê tín dị đoan. Nhưng bây giờ, nhằm đáp lại những phản ứng
tiêu cực đối với những gì họ đã làm chống lại các tôn giáo, và
nhằm đáp lại nhu cầu mạnh mẽ đòi hỏi tự do tôn giáo, họ đang lập
lại những lễ hội và sự sùng bái nhân gian. Các lễ hội và sự sùng
kính bình dân là điều mà dân chúng vốn quen thuộc. Việc trở lại
với lối hành đạo truyền thống của tôn giáo bình dân là một thách
thức mới đối với những cố gắng nhằm hội nhập của Hội Thánh. Công
tác đào tạo chủng sinh cần cân nhắc và phân tích một cách trực
tiếp vấn đề này.
5. Phản Ứng Bằng Niềm Cậy Trông Thành
Tín
Đối diện với những sự kiện
này, nhiều người băn khoăn về việc mất cân bằng giữa thái độ đối
với những chuyện thế tục và thái độ tôn giáo của người trẻ.
Những người chỉ nhìn vào những khả năng của con người thì sợ hãi
cho tương lai. Nhưng công tác đào tạo thiêng liêng cho các chủng
sinh dĩ nhiên phải trang bị cho họ những suối nguồn mà họ đang
cần để trả lời cho những thách đố này.
Và điều quan trọng hơn là
phải nhớ rằng công tác đào tạo thiêng liêng là việc của Thiên
Chúa dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, chứ không chỉ giản
đơn là việc phàm nhân của các nhà đào tạo. Điều này không có
nghĩa là chúng ta bỏ qua nhu cầu đào tạo sự thánh thiêng và khôn
ngoan cho con người. Điều này giúp chúng ta đi tới trong đức tin
và đức cậy, hơn là lo âu sợ sệt.
C. Nhân Tố Văn Hoá Trong Tâm Thức Dân
Tộc
1. Từ Ngữ Uyển Chuyển Ẩn Giấu Cảm
Xúc Chân Thật
Tốt nhất là đừng quên tâm
thức của người Việt Nam. Có sự khác biệt đáng kể giữa phương
Đông và phương Tây trong cách nói và tiếp cận vấn đề.
Người phương Tây có xu hướng tự
bày tỏ một cách thẳng thắn, dứt khoát, và đầy đủ về một vấn đề
đang tranh cãi. Họ thấy những mâu thuẫn và phản ứng lại với
những mâu thuẫn ấy. Ví dụ, vì thấy mâu thuẫn giữa việc thờ kính
tổ tiên với việc thờ phượng Thiên Chúa, họ yêu cầu bất cứ người
Việt Nam nào theo Công giáo cũng phải bỏ việc thờ kính tổ tiên
và phá hủy bàn thờ dâng kính tổ tiên. Những khuynh hướng này dễ
gây ra xung đột và căng thẳng.
Trái lại, người phương Đông,
trong đó có người Việt Nam, lại hết sức tránh xung đột và căng
thẳng, nhưng tìm cách duy trì sự hài hoà. Họ có xu hướng nói và
phản ứng không trực tiếp. Họ chỉ trình bày một phần hoàn cảnh,
nếu như phần còn lại gây ra bất thuận hay căng thẳng. Họ duy trì
tính uyển chuyển trong lời nói và trong sự im lặng. Vì thế, họ
có thể hoặc ngoan ngoãn, hoặc rất ngoan cố. Những kiểu ứng xử
như vậy khiến người phương Tây thật khó mà hiểu được. Có thể họ
rất phản đối một quyết định, nhưng rồi họ sẽ nói “ĐƯỢC”, hay
“VÂNG”, hoặc “CÁM ƠN.” Lời nói của họ có thể trái ngược với suy
nghĩ của họ. Đối với người phương Tây, đó là một lời nói dối;
nhưng đối với người Việt Nam, đó là sự thận trọng đối với người
khác. Chúng ta có thể thấy rằng để hiểu được điều mà một người
phương Đông thực sự muốn nói, ta phải giải mã “gương mặt,” ngôn
ngữ và cử chỉ của người ấy. Và hầu hết người phương Tây thiếu sự
nhạy cảm đối với việc giải mã như thế.
2. Phân Biệt Giữa Phục Tùng Miễn
Cưỡng Và Vâng Lời Thật Lòng
Quả thực, cần phân biệt ba
loại tùng phục: “Quyền phục, lý phục và tâm phục” (tùng phục do
quyền lực, tùng phục do lý lẽ, và tùng phục do con tim). Trong
ba thứ, tùng phục do con tim (tâm phục) là quan trọng nhất, bởi
vì có thể có sự tùng phục do quyền lực và do lý lẽ, nhưng không
có sự tùng phục do con tim. Người Việt Nam có thể vâng lời một
cách miễn cưỡng những người có quyền lực hay giỏi lý lẽ, nhưng
rồi khi những người ấy không còn quyền lực hay nhữnng lý lẽ áp
đặt nữa, thì cũng sẽ không còn sự tùng phục nữa! Họ nhận định:
“Tức nước vỡ bờ”, nghĩa là sức mạnh âm ỷ của dòng nước có thể
phá vỡ con đê. Trong những trường hợp như thế, phản ứng khôn
ngoan là “đào sâu lòng sông và khơi dòng cho nước chảy” (ở đây
muốn nói tới lòng người và những bức xúc của con người). Nếu như
ta chiếm được trái tim họ, họ sẽ hoàn toàn vâng phục và trung
thành với ta, dù ta có thêm hay bớt quyền lực và lý lẽ.
Đó là hệ quả do ách đô hộ một
ngàn năm của người Tàu và một trăm năm của người Pháp. Dân Việt
hiểu rất rõ “lý của kẻ mạnh” và họ ý thức được sự yếu kém của
mình, nên họ phải kiên trì chờ đợi đến một thời điểm thích hợp
để vùng lên. Người khoẻ dùng sức, kẻ yếu dùng mưu. Họ phản kháng
một cách nhẹ nhàng trước uy quyền nhằm tìm kiếm lòng trắc ẩn.
Nếu không thay đổi được gì, họ phản ứng một cách tiêu cực hoặc
thụ động. Rút cuộc họ sử dụng biện pháp bất bạo động và bất hợp
tác: “Kính nhi viễn chi.”
3. Đặc Điểm Địa Phương Trong
Quê Hương
Về mặt tâm lý của người Việt
Nam, thậm chí có những khác biệt mang tính địa phương: Người
miền Nam có khuynh hướng dễ đón nhận và nhạy cảm hơn đối với
những giá trị tôn giáo, nhưng họ lại thiếu năng động. Người miền
Trung có cả hai khuynh hướng sâu sắc và năng động, nhưng họ lại
thường bảo thủ khép kín, và thường mang định kiến. Mặc dù người
miền Bắc có khuynh hướng vừa năng động, vừa có đầu óc cởi mở,
nhưng họ lại nghiêng về mặt nghi thức, tức là họ thường nhấn
mạnh đến các việc sùng kính và thực hành tôn giáo.34
4. Khuyến Cáo Hữu Ích Cho Việc Đào Tạo
Thiêng Liêng
Thật may mắn là nhiều nhân
tố, chẳng hạn như những cuộc tiếp xúc đa văn hoá, những thay đổi
trong lãnh vực kinh tế và giáo dục, v.v… đã giúp biến đổi những
phản ứng thụ động và tiêu cực. Tuy nhiên, để xây dựng được cả sự
tin cậy và cởi mở của các chủng sinh trong tiến trình đào tạo,
những người hữu trách trong việc đào tạo thiêng liêng, cũng như
đào tạo toàn diện, cần phải để tâm đến những khó khăn này. Siêu
nhiên không xa lạ hay trái ngược với tự nhiên; đúng hơn, siêu
nhiên ở ngay trong tự nhiên để nâng cao và hoàn thiện tự nhiên.
Còn tiếp nhiều kỳ
|