Một nhà thám hiểm nọ lênh đênh trên sóng
nước. Trong những ngày tháng cô đơn ấy, anh rất thèm được liên
hệ với thế giới bên ngoài. Thế nhưng, chỉ có một chú chim nhỏ,
sáng nào cũng đến và đậu trên chiếc bè của anh.
Rồi một ngày kia, chú chim nhỏ không đến
nữa và anh cảm thấy buồn khổ như mất đi một người bạn thân
thương nhất.
Không phải chỉ những nhà thám hiểm sống
trong hoàn cảnh đặc biệt như vậy, mà hơn thế nữa, tất cả chúng
ta, từ già tới trẻ, từ nam tới nữ, đều cảm thấy sợ hãi trước sự
cô đơn.
Đúng thế, một đứa bé mở mắt chào đời, mà
nếu thiếu vắng sự chăm sóc vỗ về đầy yêu thương của người mẹ,
thì nó sẽ chỉ là một đứa bé èo uột và yếu đuối mà thôi. Vì thế,
tại những nhà giữ trẻ, người ta thường hay cho phát ra những
tiếng đập nhẹ nhàng, như tiếng đập phát đi từ trái tim người mẹ,
làm cho những em bé sẽ ăn ngon hơn và ngủ kỹ hơn.
Còn những người đã đứng tuổi, khi nghĩ đến
cảnh xế chiều của mình, thường rùng mình trước sự vắng lặng cô
đơn, nhất là những lúc đau yếu và bệnh tật, nên phải cố đi tìm
cho mình một người bạn đời để cùng chia sẻ và nâng đỡ lẫn nhau,
như tục ngữ đã bảo :
- Con nuôi cha không bằng bà nuôi ông.
Không phải chỉ con người, mà ngay cả chính
Thiên Chúa dường như cũng ngán ngẩm trước nỗi cô đơn. Đúng thế,
khi nằm trên thập giá, lúc bị treo lên giữa trời và đất, Đức
Kitô đã phải lớn tiếng kêu cầu :
"Ê-li, Ê-li, lê-ma xa-bác-tha-ni", nghĩa
là "Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi
con?" (Mt 27,46).
Chính vì vậy, ngay từ thưở đời đời, Thiên
Chúa đã sống trong chan hòa yêu thương và cảm thông giữa Chúa
Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần như trong một mái gia đình đầm
ấm.
Từ những sự kiện trên, chúng ta thấy con
người là một con vật mang tính cách xã hội. Có nghĩa là chúng ta
không thể nào sống cô độc lẻ loi như một hòn đảo giữa biển khơi,
hay như một pháo đài biệt lập. Trái lại, chúng ta sống là sống
với người khác trong một cộng đoàn, trong một xã hội.
Riêng chúng ta, những tu sĩ, hiện nay
chúng ta đang chung sống với nhau trong một cộng đoàn và cộng
đoàn ấy chính là hội dòng chúng ta đã đầu tư suốt bao nhiêu năm
trời. Để cho cộng đoàn ấy được tồn tại và phát triển, thì chúng
ta không thể không sống tình bác ái huynh đệ.
TÌNH BÁC ÁI HUYNH ĐỆ
THEO CÁI NHÌN CỦA CHÚA
Thực vậy, đời sống tu trì sẽ không thể nào
tồn tại và phát triển, nếu chúng ta không thực thi tình bác ái
huynh đệ. Chính những sai lỗi về nhân đức này sẽ làm cho cuộc
sống chung trở nên ngộ ngạt , căng thẳng và nặng nề.
Vì vậy, bác ái yêu thương là một bổn phận
rất quan trọng, không phải chỉ cho người tu sĩ, mà còn cho bấy
kỳ những ai muốn mang danh hiệu Kitô hữu. Đúng thế, chúng ta hãy
nhớ lại quang cảnh của ngày phán xét chung, được thánh Matthêu
mô tả như sau :
"Khi Con Người đến trong vinh quang của
Người, có tất cả các thiên sứ theo hầu, bấy giờ Người sẽ ngự lên
ngai vinh hiển của Người. Các dân thiên hạ sẽ được tập hợp trước
mặt Người, và Người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách
biệt chiên với dê. Người sẽ cho chiên đứng bên phải Người, còn
dê ở bên trái. Bấy giờ Đức Vua sẽ phán cùng những người ở bên
phải rằng: "Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng
Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa.
Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho
uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng,
các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta
ngồi tù, các ngươi đến hỏi han." Bấy giờ những người công chính
sẽ thưa rằng: "Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói
mà cho ăn, khát mà cho uống; có bao giờ đã thấy Chúa là khách lạ
mà tiếp rước; hoặc trần truồng mà cho mặc? Có bao giờ chúng con
đã thấy Chúa đau yếu hoặc ngồi tù, mà đến hỏi han đâu?" Đức Vua
sẽ đáp lại rằng: "Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm
như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là
các ngươi đã làm cho chính Ta vậy." Rồi Đức Vua sẽ phán cùng
những người ở bên trái rằng: "Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho
khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và
các sứ thần của nó. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta
khát, các ngươi đã không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã
không tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc; Ta
đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm viếng." Bấy giờ
những người ấy cũng sẽ thưa rằng: "Lạy Chúa, có bao giờ chúng
con đã thấy Chúa đói, khát, hoặc là khách lạ, hoặc trần truồng,
đau yếu hay ngồi tù, mà không phục vụ Chúa đâu?" Bấy giờ Người
sẽ đáp lại họ rằng: "Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi
không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là
các ngươi đã không làm cho chính Ta vậy." Thế là họ ra đi để
chịu cực hình muôn kiếp, còn những người công chính ra đi để
hưởng sự sống muôn đời." (Mt 25,31-46).
Qua hoạt cảnh này, chúng ta nhận thấy trong
ngày sau hết, chúng ta sẽ bị Chúa hỏi về vấn đề gì, nếu không
phải là về tình bác ái yêu thương. Ngài không hỏi chúng ta làm
bề trên hay bề dưới. Ngài không hỏi chúng ta đã lấy được mấy tấm
văn bằng và đã viết được bao nhiêu cuốn sách. Ngài không hỏi
chúng ta đã thành công hay thất bại. Nhưng Ngài hỏi chúng ta về
tình bác ái yêu thương.
Tình bác ái yêu thương này phải được biểu
lộ bằng những hành động, những việc làm cụ thể, bởi vì tư tưởng
thì trừu tượng và khó kiểm chứng, còn lời nói thì nhiều lúc trở
nên bôi bác giả hình, chỉ có những hành động, những việc làm cụ
thể mới chứng thực tình bác ái yêu thương của chúng ta mà thôi.
Và như thế, Ngài sẽ hỏi chúng ta có thực hiện những hành động
bác ái yêu thương giúp đỡ những người chung quanh hay không ?
Số phận đời đời của chúng ta sẽ được Ngài
ấn định chỉ dựa trên những hành động bác ái yêu thương ấy :
"Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến
thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo
thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các
ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta
trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm
viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han." (Mt 25,34-35).
Cái chết là một hành trình đơn côi, bởi vì
chúng ta sẽ phải bỏ lại sau lưng những người chúng ta thương
mến, cùng với tất cả những gì chúng ta đã ra sức gầy dựng, chỉ
những hành động bác ái yêu thương mới là những người bạn trung
thành nhất, theo chúng ta qua bên kia cái chết và bào chữa cho
chúng ta trước ngai tòa Thiên Chúa. Như một câu danh ngôn đã bảo
:
- Đứng trước cái chết :
Những gì chúng ta chắt trồng hôm nay, thì
người khác sẽ chiếm hữu.
Những gì chúng ta mua sắm hôm nay, thì
người khác sẽ hưởng dùng.
Chỉ những gì chúng ta cho đi hôm nay, mới
mãi mãi thuộc hẳn về chúng ta mà thôi.
Sở dĩ những hành động bác ái yêu thương có
một giá trị to lớn trước mặt Chúa như thế, vì Ngài đã tự đồng
hóa mình với những kẻ nghèo túng và bất hạnh, như chính Ngài đã
xác quyết :
"Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một
trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm
cho chính Ta vậy." (Mt 25,40).
LỜI MỜI GỌI SỐNG TÌNH
BÁC ÁI HUYNH ĐỆ
Tới đây, chúng ta hãy âm thầm bước vào
phòng tiệc ly chiều thứ năm tuần thánh, tham dự bữa tiệc cuối
cùng của Chúa Giêsu, trước khi Ngài ra đi chịu chết. Chính trong
giờ phút riêng tư và xúc động ấy, Ngài đã gửi đến các môn đệ,
cũng như gửi đến mỗi người chúng ta lời mời gọi sống tình bác ái
huynh đệ.
Ngài coi tình bác ái huynh đệ chính là giới
luật mới của Ngài :
“Thầy ban cho anh em một điều răn mới là
anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy
đã yêu thương anh em.” (Ga 13,34).
Trong Cựu Ước có rất nhiều lệnh truyền và
lệnh cấm, nhưng đối với Chúa Giêsu thì giới luật yêu thương là
quan trọng hơn hết, bởi vì tất cả những lời các tổ phụ và các
tiên tri dạy bảo đều qui hướng về đó.
Ngài coi tình bác ái huynh đệ chính là dấu
chỉ để nhận ra người môn đệ Ngài :
“Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ
của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau." (Ga
13,35).
Như vậy, dấu chỉ để nhận ra người môn đệ
Chúa không phải là có tên trong sổ rửa tội của giáo xứ, không
phải theo đuổi một lý tưởng trong hội dòng, không phải là làm
dấu thánh giá và tham dự thánh lễ, nhưng là tình bác ái huynh
đệ. Nếu bây giờ thử gạt bỏ những phụ thuộc bên ngoài để chỉ căn
cứ vào tình bác ái huynh đệ, thì liệu chúng ta có còn là người
môn đệ đích thực của Ngài hay không ?
Và theo như Đức Cha Bùi Tuần đã diễn tả
trong cuốn “Giới luật yêu thương”, thì trong ngày sau hết sẽ có
một sự đảo lộn lớn : Kẻ vô thần không tin Chúa, chúng ta bảo họ
là dân vô đạo, còn chúng ta dù đã tin Chúa, nếu không thực thi
tình bác ái huynh đệ, thì cũng chỉ là một thứ dân vô đạo mà
thôi. Những người tin Chúa, tưởng mình là con cái trong nhà,
nhưng vì không sống tình bác ái huynh đệ, sẽ bị loại trừ. Còn
những kẻ vô đạo, chưa tin nhận Chúa, nhưng lại sống tình bác ái
huynh đệ, sẽ được Chúa đón nhận vào Nước Trời, như chúng ta đã
thấy trong hoạt cảnh ngày phán xét chung.
Ngài tha thiết mời gọi các môn đệ hãy yêu
thương nhau. Yêu thương đến độ dám hy sinh mạng sống mình vì
nhau :
“Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu
thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Không có tình thương
nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn
hữu của mình… Điều Thầy truyền dạy anh em là hãy yêu thương
nhau.” (Ga 15,12-17).
Tình bác ái huynh đệ ấy phải được biểu lộ
qua những việc làm cụ thể, như chính Ngài đã thực hiện trong
buổi chiều ngày thứ năm tuần thánh, đó là quì xuống rửa chân cho
các môn đệ. Ngài muốn chúng ta cũng hãy bắt chước Ngài mà làm
như vậy :
“Khi rửa chân cho các môn đệ xong, Đức
Giê-su mặc áo vào, về chỗ và nói: "Anh em có hiểu việc Thầy mới
làm cho anh em không? Anh em gọi Thầy là `Thầy', là `Chúa', điều
đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy, là Chúa. Vậy, nếu Thầy
là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng
phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em
cũng làm như Thầy đã làm cho anh em.” (Ga 13,12-15).
Hơn thế nữa cũng trong buổi chiều đáng ghi
nhớ ấy, Ngài còn khẩn khoản nguyện cầu cùng Chúa Cha cho các môn
đệ luôn biết yêu thương và hợp nhất cùng nhau :
“Lạy Cha chí thánh, xin gìn giữ các môn đệ
trong danh Cha mà Cha đã ban cho con, để họ nên một như chúng
ta.” (Ga 17,11).
Ngài không phải chỉ cầu cho các môn đệ, mà
còn cầu cho tất cả chúng ta, những người tin theo Ngài trong
dòng thời gian, cũng biết yêu thương và hợp nhất cùng nhau :
“Con không chỉ cầu nguyện cho những người
này, nhưng còn cho những ai nhờ lời họ mà tin vào con, để tất cả
nên một, như Cha ở trong con và con ở trong Cha. Như vậy, thế
gian sẽ tin rằng Cha đã sai con.” (Ga 17,20-21).
TÌNH BÁC ÁI HUYNH ĐỆ CỦA
NGƯỜI TU SĨ
Như đã trình bày : chúng ta không thể nào
sống cô độc lẻ loi như một hòn đảo hay như một pháo đài, trái
lại chúng ta sống là sống với người khác trong một xã hội, trong
một cộng đoàn. Và trong cuộc sống chung này, chúng ta không thể
nào tránh đi cho hết những va chạm, những bực bội, những buồn
phiền…bởi vì nhân vô thập toàn, ai cũng có những sai lỗi và
khuyết điểm của mình. Hơn thế nữa, bá nhân bá tánh, mỗi người
đều có một tính tình riêng. Vì thế, cần phải xây dựng cộng đoàn,
cần phải xây dựng cuộc sống chung trên tình bác ái huynh đệ.
Tình bác ái huynh đệ này cần phải được biểu lộ bằng những hành
động cụ thể.
Trước hết là đối với những sai lỗi của bản
thân và của người khác, chúng ta phải có thái độ như thế nào ?
Sống trong cuộc đời, chúng ta giống như
người đeo hai cái giỏ. Cái giỏ phía trước đựng những sai lỗi của
người khác, còn cái giỏ phía sau lưng đựng những sai lỗi của bản
thân. Vì thế, chúng ta thường nhìn thấy rất rõ những sai lỗi của
người khác để rồi lên tiếng phê bình chỉ trích một cách gắt gao.
Còn những sai lỗi của bản thân thì không nhìn thấy và nếu có
nhìn thấy thì cũng sẽ đưa ra một ngàn lẻ một lý do để bênh vực
vào bào chữa. Chúng ta thường cư xử một cách nghiêm khắc với
người khác mà khoan dung với chính bản thân. Trong khi đó, Chúa
dạy chúng ta phải khoan dung với người khác mà nghiêm khắc với
chính bản thân.
Đối với những sai lỗi của bản thân, chúng
ta cần phải nhận lỗi, xin lỗi và sửa lỗi, bởi vì chính những sai
lỗi ấy đã làm cho cuộc sống chung trở nên ngột ngạt và nặng nề.
Hơn thế nữa, có sửa lỗi, chúng ta mới thăng tiến bản thân, để
rồi mỗi ngày một trở nên tốt lành và thánh thiện hơn. Đừng xét
người, nhưng hãy xét mình. Đừng đấm ngực người, nhưng hãy đấm
ngực mình mà rằng :
- Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng.
Đối với những sai lỗi của người khác, chúng
ta cần phải biết khoan dung và tha thứ, như lời Chúa truyền dạy
:
“Bấy giờ, ông Phê-rô đến gần Đức Giê-su mà
hỏi rằng: "Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì
con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không?" Đức Giê-su
đáp: "Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần
bảy." ((18,21-22).
Nơi khác, Ngài cũng bảo :
“Dù nó xúc phạm đến anh một ngày đến bảy
lần, rồi bảy lần trở lại nói với anh: `Tôi hối hận', thì anh
cũng phải tha cho nó." (Lc 17,4).
Sở dĩ như vậy, bởi vì sự tha thứ cho người
khác chính là điều kiện để được Chúa thứ tha :
"Thật vậy, nếu anh em tha lỗi cho người ta,
thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em. Nhưng nếu
anh em không tha thứ cho người ta, thì Cha anh em cũng sẽ không
tha lỗi cho anh em.” (Mt 6,14-15).
Chúng ta không phải là quan tòa, nên đừng
vội kết án người khác :
“Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không
bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị
Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa
thứ tha.” (Lc 6,37).
Tha thứ cho nhau chưa đủ, chúng ta còn phải
tìm dịp thuận tiện, dùng những lời nói thành thực để giúp nhau
uốn nắn sửa đổi những sai lỗi ấy :
"Nếu người anh em của anh trót phạm tội,
thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi. Nếu nó
chịu nghe anh, thì anh đã chinh phục được người anh em.” (Mt
18,15).
Người sống tình bác ái huynh đệ sẽ không
làm gương mù gương xấu, cũng như không làm điều ác cho người
khác đã đành, còn phải cầu nguyện và ước mong cho họ được những
điều tốt lành, cũng như giúp đỡ họ bằng những việc làm cụ thể.
Người sống tình bác ái huynh đệ sẵn sàng
lấy ơn đền cho oán, lấy tình thương xóa bỏ hận thù, không mong
gì nơi người khác cũng như không chờ họ đền ơn đáp nghĩa. Hơn
thế nữa, tình bác ái huynh đệ ấy phải lan rộng đến với cả những
kẻ thù địch, như lời Chúa truyền dạy :
"Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng
loại và hãy ghét kẻ thù. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ
thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em. Như vậy, anh em
mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì
Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như
người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ
bất chính.” (Mt 5,43-45).
Trong trường hợp xảy ra bất đồng, người
sống tình bác ái huynh đệ phải đi bước trước tiến đến sự hòa
giải :
“Vậy, nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn
thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh,
thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh
em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình.” (Mt 5,23-24).
Nếu bị kẻ khác làm cho phải khổ đau buồn
phiền, người sống tình bác ái huynh đệ sẽ không nóng giận và mất
kiên nhẫn, để rồi lấy ác báo ác :
"Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Mắt đền mắt,
răng đền răng. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: đừng chống cự người
ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên
trái ra nữa.” (Mt 5,38-39)
Muốn được như vậy, người tu sĩ cần phải đặt
tình bác ái huynh đệ của mình trên căn bản của lòng mến Chúa,
hay nói cách khác, người tu sĩ cần phải yêu thương người khác
vì Chúa. Có như vậy, tình bác ái huynh đệ mới thực sự bền vững
và vượt qua được những khó khăn và thử thách.
Chính lòng mến Chúa sẽ biến tình bác ái
huynh đệ của chúng ta trở thành một nhân đức siêu nhiên, đồng
thời cũng chính lòng mến Chúa sẽ là như chiếc đũa thần, biến
những hy sinh nhỏ bé của chúng ta trở thành những sợi chỉ vàng,
dệt nên tấm vải cuộc đời, làm cho cuộc đời âm thầm và khiêm tốn
của chúng ta thực sự có được một giá trị trước mặt Chúa.
Hơn thế nữa, với lòng mến Chúa, cuộc sống
chung trong cộng đoàn sẽ đem lại cho chúng ta những lợi ích to
lớn trong việc thánh hóa bản thân. Chẳng hạn, Chúa cho chúng ta
sống bên cạnh một người có tính nóng nảy là để chúng ta tập cho
mình được kiên nhẫn và dịu hiền…Khuyết điểm của người khác có
thể gây nên đau khổ, nhưng cũng có thể đem lại lợi ích. Vì thế,
chúng ta cần phải nhẫn nại, tránh kêu ca và lẩm bẩm, phê bình và
chỉ trích.
Tính ích kỷ đòi mọi người phục vụ cho mình,
còn tình bác ái huynh đệ đòi mình phải phục vụ cho mọi người.
Phải vượt qua tính ích kỷ, chúng ta mới đạt tới mức độ trưởng
thành trong cuộc sống tu trì.
Thiết tưởng một mẫu gương đáng cho mọi hội
dòng noi theo và bắt chước, đó là mẫu gương của cộng đoàn
Giêrusalem vào thời Giáo hội mới được khai sinh. Sách Tông đồ
Công vụ kể lại như sau :
“Các tín hữu chuyên cần nghe các Tông Đồ
giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ
bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng. Mọi người đều kinh sợ, vì
các Tông Đồ làm nhiều điềm thiêng dấu lạ. Tất cả các tín hữu hợp
nhất với nhau, và để mọi sự làm của chung. Họ đem bán đất đai
của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tuỳ theo nhu cầu. Họ đồng
tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến Đền Thờ. Khi làm lễ bẻ
bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ. Họ ca tụng
Thiên Chúa, và được toàn dân thương mến. Và Chúa cho cộng đoàn
mỗi ngày có thêm những người được cứu độ.” (Cv 2,42-47).
Công đồng Vaticanô II cũng khuyên chúng ta
:
“Đời sống chung được nuôi dưỡng bằng giáo
lý Phúc Âm, Phụng vụ Thánh và nhất là Bí Tích Thánh Thể phải
được kiên trì trong lời cầu nguyện, trong sự hiệp thông cùng một
tinh thần (x Cv 2,42), theo gương Giáo hội sơ khai, trong đó các
tín hữu chỉ có một tấm lòng, một tâm hồn (x Cv 4,32). Là chi thể
của Đức Kitô, các tu sĩ hãy mang lấy gánh nặng của nhau (x Gal
6,2) và trọng kính lẫn nhau trong tình giao hảo huynh đệ ( x Rm
12,10). Thực vậy, khi được tình yêu của Thiên Chúa nhờ Chúa
Thánh Thần tràn đầy trong mọi tâm hồn (x Rm 5,5), cộng đoàn nên
như một gia đình thực sự, đoàn tụ nhân danh Chúa, được hưởng sự
hiện diện của Ngài (x Mt 18,20). Yêu mến là chu toàn luật pháp
(x Rm 13,10) và là dây liên kết sự trọn lành (x Col 3,14); nhờ
đức mến mà chúng ta biết rằng mình được chuyển từ cõi chết sang
cõi sống (x 1Gio 3,14). Hơn nữa, sự hiệp nhất huynh đệ loan báo
Đức Kitô đã đến (x Ga 13,35; 17,21) và phát sinh một năng lực
tông đồ mãnh liệt” (DT 15).
KẾT LUẬN
Để kết luận, tôi xin kể lại một mẩu chuyện
như sau :
Một ký giả, sau khi được dẫn đi tham quan
thiên đàng và hỏa ngục, đã viết một bài báo và cho biết :
Thiên đàng và hỏa ngục đều giống nhau,
nghĩa là những người ở hai nơi ấy đều được ngồi trước một bàn
tiệc thịnh soạn, cao lương mỹ vị, nhưng với một đôi đũa dài
những hơn một mét…
Tuy nhiên, có một điểm khác biệt duy nhất,
đó là những người ở dưới hỏa ngục thì cố gắng gắp và đút vào
miệng của mình, nhưng vì đôi đũa quá dài, thành thử họ chẳng ăn
được gì cả.
Trái lại, những người trên thiên đàng thì
cũng cố gắng gắp, nhưng sau đó, người này đút vào miệng của
người kia, nên tất cả đều được ăn no.
Cộng đoàn chúng ta cũng vậy. Tình bác ái
huynh đệ sẽ biến cộng đoàn chúng ta đang sống trở thành một
thiên đàng dưới trần gian. Bởi vì Thiên Chúa là tình yêu, nơi
nào có tình yêu, nơi ấy có Thiên Chúa. Và nơi nào có Thiên Chúa,
nơi ấy chính là thiên đàng vậy.
GSVN |