Trong kinh cầu Đức Bà, chúng ta thấy
Giáo hội đã dùng :
- Nhiều tước vị khác nhau để ca tụng
Mẹ, chẳng hạn như : Rất thánh Đức Mẹ Chúa Trời, Đức Mẹ Chúa
Kitô, Đức Mẹ thông ơn Thiên Chúa, Đức Mẹ chỉ bảo đàng lành, Đức
Mẹ sinh Chúa Cứu Thế…
- Nhiều hình ảnh khác nhau để ngợi
khen Mẹ, chẳng hạn như : Đức Bà như hoa hồng mầu nhiệm vậy, Đức
bà như lầu đài Đavit vậy, Đức bà như tháp ngà báu vậy, Đức Bà
như đền vàng vậy, Đức bà như hòm bia Thiên Chúa vậy…
- Và cũng rất nhiều mẫu gương để
tung hô Mẹ : Nữ Vương các Thánh Tổ tông, Nữ vương các Thánh Tiên
tri, Nữ Vương các Thánh Tông đồ, Nữ Vương các Thánh Tử vì đạo,
Nữ Vương các Thánh Hiển tu, Nữ Vương các Thánh Đồng trinh…
Tuy nhiên trong thông điệp “Ecclesia
de Eucharistia”, (Giáo hội từ Thánh Thể), Đức Thánh Cha Gioan
Phaolô II đã dành cho Mẹ một danh hiệu khá đặc biệt. Ngài gọi Mẹ
là Người Nữ Thánh Thể.
Vậy giữa Mẹ Maria và Thánh Thể có
mối dây liên hệ với nhau như thế nào ? Và Người Nữ Thánh Thể ấy
có phải là một mẫu gương cho chúng ta nói chung và cho các Linh
mục nói riêng, để noi theo hay không ?
Đó là những điều chúng ta cùng nhau
tìm hiểu và chia sẻ hôm nay.
I- ĐỨC MARIA,
NGƯỜI NỮ THÁNH THỂ:
SỰ HIỆN DIỆN VÀ THÁI ĐỘ NỘI TÂM CỦA MẸ
Nếu chỉ nhìn thoáng qua, chúng ta
thấy Phúc Âm chẳng hề đề cập tới vấn đề này. Và trong bài tường
thuật về việc Chúa Giêsu thiết lập Bí tích Thánh Thể vào buổi
chiều ngày thứ năm tuần thánh, các tác giả sách Tin Mừng cũng đã
không nói gì đến vai trò Mẹ. Thế nhưng, Đức Thánh Cha đã xác
quyết :
“Nếu chúng ta muốn khám phá lại
trong tất cả sự phong phú của Bí Tích Thánh Thể, mối liên hệ
thâm sâu nối kết Giáo Hội và Bí Tích Thánh Thể, chúng ta không
thể nào quên Đức Maria, là Mẹ và mẫu gương của Giáo hội…Thực
vậy, Đức Maria có thể hướng dẫn chúng ta đến Bí Tích cực thánh
nầy, vì giữa Mẹ và bí tích này có một mối liên hệ sâu xa.”
(GHTTT 53).
Sở dĩ Đức Thánh Cha gọi Mẹ là Người
Nữ Thánh Thể vì những lý do sau đây :
1-
Sự hiện diện của Mẹ :
Ngay sau khi Chúa Giêsu về trời, Mẹ
đã hiện diện giữa các Tông Đồ để cùng với các ông cầu nguyện và
cử hành nghi thức Bẻ Bánh :
“Ai cũng biết là Mẹ đã có mặt với
các Tông Đồ, hiệp nhất “cùng một lòng trong lời cầu nguyện”
(x.Cv 1,14) trong cộng đoàn tiên khởi được qui tụ sau khi Chúa
lên trời, trong khi chờ đợi Chúa Thánh Thần hiện xuống. Chắc
chắn, không thể thiếu vắng sự hiện diện của Mẹ trong những cử
hành Thánh Thể giữa các tín hữu của thế hệ đầu tiên rất chuyên
cần “trong nghi lễ bẻ bánh.” (Cv 2,42). (GHTTT 53).
2-
Thái độ nội tâm của Mẹ :
Tuy nhiên, điều quan trọng hơn, đó
chính là thái độ nội tâm của Mẹ. Mẹ đã sống đức tin Thánh Thể
của mình ngay cả trước khi Bí tích này được thiết lập. Thái độ
nội tâm này được biểu lộ ở mọi nơi, trong mọi lúc và qua mọi
hoàn cảnh để rồi suốt dọc cuộc đời, Mẹ xứng đáng mang danh hiệu
là Người Nữ Thánh Thể.
Với biến cố Truyền tin :
Qua lời “Xin vâng”, Mẹ đã dâng hiến
cõi lòng của mình cho Ngôi Lời nhập thể và tin rằng Người Con
mình đang cưu mang chính là Con Thiên Chúa. Và Người Con ấy sau
này sẽ thực sự hiện diện trong Bí tích Thánh Thể :
“Theo một nghĩa nào đó, Đức Maria đã
sử dụng đức tin Thánh Thể của mình ngay trước khi Bí Tích Thánh
Thể được thiết lập, bởi vì Mẹ đã hiến dâng cung lòng trinh vẹn
của Mẹ để Ngôi Lời của Thiên Chúa nhập thể…Lúc truyền tin, Đức
Maria đã thụ thai Con Thiên Chúa trong chính thực tại thể lý
thân xác và máu huyết, thực hiện trước trong Mẹ, những gì được
thực hiện một cách bí tích, trong một mức độ nào đó, nơi mọi tín
hữu được lãnh nhận dưới hình bánh rượu, Mình và Máu Chúa.”
(GHTTT 55).
Như vậy có một sự liên hệ rất thâm
sâu giữa lời “Xin Vâng” của Mẹ trong hoạt cảnh truyền tin với
tiếng “Amen” chúng ta thưa lên khi đón nhận Mình Thánh Chúa :
“Chúa đã đòi hỏi Đức Maria phải tin
rằng Đấng mà Mẹ thụ thai “nhờ hoạt động của Thánh Thần” là “Con
Thiên Chúa” (Lc 1, 30-35). Tiếp nối đức tin của Đức Maria, Chúa
cũng đòi hỏi chúng ta tin rằng, trong Mầu Nhiệm Thánh Thể, cũng
Chúa Giêsu đó, Con Thiên Chúa và Con của Đức Maria, hiện diện
cách trọn vẹn gồm cả nhân tính lẫn thần tính của Ngài dưới hình
bánh và rượu.” (GHTTT 55).
Với biến cố thăm viếng :
Sau khi đã có Chúa trong cõi lòng
của mình, Mẹ đã vội vã đem Chúa đến cho người khác bằng cuộc
hành trình viếng thăm bà chị họ là Isave. Lời chào kính của bà
Isave : “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những
gì Ngài đã nói với em,” (Lc 1,45), cho chúng ta thấy trong mầu
nhiệm Nhập Thể, Mẹ đã đi trước đức tin Thánh Thể của Giáo hội.
“Lúc đi viếng (bà Isave), Mẹ đã mang
trong cung lòng Ngôi Lời làm người, Mẹ trở nên một “nhà tạm” một
cách nào đó – “nhà tạm” đầu tiên trong lịch sử - trong đó Con
Thiên Chúa, chưa thấy được với mắt loài người, được bà Isave tôn
thờ, như thể “chiếu tỏa” ánh sáng của Ngài qua ánh mắt và tiếng
nói của Đức Maria.” (GHTTT 55).
Và đặc biệt qua lời kinh
“Magnificat”, Giáo hội đã mặc lấy tinh thần của Mẹ, để được kết
hiệp hoàn toàn với Đức Kitô và hy tế của Ngài. Như thế, chúng ta
có thể đọc lời kinh tuyệt vời này trong chiều hướng Thánh Thể.
Thực vậy, nếu Thánh Thể trước hết là
một lời ngợi khen và cảm tạ, thì lời kinh này cũng chính là
“thái độ Thánh Thể” của Mẹ :
“Khi Đức Maria thốt lên : “Linh hồn
tôi ngợi khen Đức Chúa và lòng trí tôi nhảy mừng trong Thiên
Chúa, Đấng Cứu Độ tôi”, Chúa Giêsu đang ở trong cung lòng của
Mẹ. Mẹ ngợi khen Chúa Cha “thay cho” Chúa Giêsu, nhưng Mẹ cũng
ngợi khen Chúa Cha “trong” Chúa Giêsu và “cùng với” Chúa Giêsu.
Đó chính là “thái độ Thánh Thể” đích thực.” (GHTTT 58).
Qua lời kinh này, Mẹ không phải chỉ
nhắc đến những việc lạ lùng Thiên Chúa thực hiện trong lịch sử
cứu độ, như đã được phán hứa với các tổ phụ, mà còn hướng đến
khía cạnh quang lâm của Thánh Thể:
“Mỗi khi Con Thiên Chúa xuất
hiện cho chúng ta trong sự “nghèo nàn” của những dấu chỉ bí
tích, bánh và rượu, hạt giống của lịch sử mới, trong đó những kẻ
quyền thế bị “lật đổ khỏi ngai vàng” và những người hèn mọn được
“nâng cao” (x. Lc 1,52) đã được gieo trong thế gian. Đức Maria
hát lên “trời mới” và “đất mới”, chúng được thực hiện trước
trong Bí Tích Thánh Thể, và theo một nghĩa nào đó, “dự định về
chúng” đã được sắp đặt.” (GHTTT 58).
Nếu lời kinh “Magnificat” diễn tả
đường lối thiêng liêng của Mẹ, thì cũng sẽ là một linh đạo giúp
chúng ta sống mầu nhiệm Thánh Thể, để rồi cũng như Mẹ, toàn bộ
cuộc sống chúng ta sẽ trở nên một lời ngợi khen và cảm tạ.
Với biến cố giáng sinh :
Mẹ đã xác tín Người Con do Mẹ sinh
ra, Hài Nhi nằm trong máng cỏ, chính là Con Thiên Chúa :
“Và cái nhìn say đắm của Đức Maria,
chiêm ngắm khuôn mặt Chúa Kitô vừa mới sinh ra và bồng ẵm Ngài
trong vòng tay, phải chăng là mẫu gương tình yêu khôn sánh gợi
hứng cho ta mỗi lần ta rước Chúa?” (GHTTT 55).
Hơn thế nữa, sau mỗi biến cố xảy ra,
các Phúc Âm đều ghi nhận :
“Còn Maria, thì hằng ghi nhớ những
kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng.” (Lc 2,19).
Đây cũng chính là thái độ chúng ta
phải có mỗi khi đến với Thánh Thể, nhất là trong những việc tôn
sùng ngoài Thánh lễ.
Với biến cố dâng Chúa trong đền
thờ :
Trong suốt cả cuộc đời, Mẹ đã lấy
chiều kích hy tế của Bí tích Thánh thể làm của mình. Chẳng hạn
như khi dâng Chúa trong đền thánh, Mẹ đã nghe cụ già Simêon loan
báo rằng Trẻ này sẽ là một “dấu hiệu chia rẽ” và rồi một “lưỡi
gươm” sẽ đâm thâu qua trái tim Mẹ :
“Như thế bi kịch của Người Con chịu
đóng đinh đã được tiên báo, và trong cách thế nào đó, cảnh
“stabat Mater” (Mẹ đứng đó) của Đức Trinh Nữ dưới chân Thánh
Giá, đã được hình dung trước.” (GHTTT 56).
Đối với Mẹ, mỗi ngày là một “chuẩn
bị lên đỉnh đồi Canvê”, và như vậy :
“Đức Maria đã sống một thứ “Thánh
Thể đã có trước” nào đó, đó là một cách “hiệp lễ thiêng liêng”
bằng ước muốn và hiến dâng. “Thánh Thể đã có trước” này sẽ được
hoàn tất bằng sự hiệp nhất với Con Ngài trong cuộc khổ nạn. Điều
đó sẽ được diễn đạt, sau Phục Sinh, qua sự tham dự của Mẹ vào
việc cử hành Thánh Thể mà các tông đồ chủ sự để tưởng niệm cuộc
Khổ Nạn của Chúa.” (GHTTT 56).
Với biến cố tiệc cưới trại Cana :
Mẹ sẽ nâng đỡ và hướng dẫn chúng ta
sống trọn vẹn niềm phó thác vào Chúa. Thực vậy, khi nghe đọc
lệnh truyền của Chúa : “Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy,” (Lc
22,19) trong khi cử hành Thánh thể, chúng ta đón nhận cùng một
lúc lời Mẹ mời gọi chúng ta vâng phục Chúa không chút do dự :
“Hãy làm những gì Ngài bảo.” (Ga
2,5).
Và như vậy, Mẹ cũng muốn nói với
chúng ta :
“Đừng do dự, hãy tin vào những lời
của Con Mẹ, Ngài có thể biến nước thành rượu ngon, Ngài cũng có
thể biến bánh và rượu trở nên Thịt và Máu Ngài, thông truyền cho
các tín hữu, trong mầu nhiệm này, việc tưởng nhớ sống động cuộc
Vượt Qua của Ngài để trở nên “bánh sự sống.” (GHTTT 54).
Với biến cố thiết lập Bí tích
Thánh Thể :
Mặc dù không có mặt trong lúc Chúa
Giêsu thiết lập Bí tích Thánh Thể, nhưng Mẹ luôn hiện diện với
các Tông Đồ khi cử hành nghi thức Bẻ Bánh. Vì thế, khi nghe từ
miệng các Tông Đồ những lời trong bữa Tiệc ly : “Này là Mình
Thầy sẽ bị nộp vì các con,” (Lc 22,19), chắc hẳn Mẹ phải xác tín
rằng thân mình được dâng lên làm lễ tế và được biểu thị bằng dấu
chỉ bí tích, cũng là thân mình của Đấng mà Mẹ đã cưu mang trong
cung lòng. Hơn nữa, đối với Mẹ :
“Nhận lấy Bí Tích Thánh Thể như là
đón nhận một lần nữa trong cung lòng Mẹ quả tim đã đồng nhịp với
quả tim của Mẹ và như sống lại những gì Mẹ đã đích thân cảm
nghiệm dưới chân Thập Giá.” (GHTTT 56).
Với biến cố Thập giá :
Nếu Thập giá là đỉnh cao cuộc đời
Chúa Giêsu, thì đối với Mẹ cũng vậy, giây phút quan trọng nhất
chính là giây phút Mẹ đứng dưới chân cây Thập giá, kết hiệp
những đau khổ của Mẹ với hy tế của Chúa Giêsu, để trở thành Đấng
Đồng Công Cứu Chuộc nhân loại :
“Như thế Đức Trinh Nữ cũng đã tiến
bước trong cuộc lữ hành đức tin, trung thành hiệp nhất với Con
cho đến bên Thập giá, là nơi mà theo ý Thiên Chúa, Mẹ đã đứng ở
đó (Ga 19,25). Đức Maria đã đau đớn chịu khổ cực với Con Một của
mình và dự phần vào hy lễ của Con, với tấm lòng của một người mẹ
hết tình ưng thuận hiến tế lễ vật do lòng mình sinh ra.” (GH
58).
Những gì Đức Kitô đã thực hiện trong
cuộc khổ nạn và cái chết của Ngài, thì ngày hôm nay đều hiện
diện trong Thánh lễ, tưởng niệm hy tế trên đỉnh đồi Canvê. Và
như vậy, trong Thánh lễ Mẹ cũng nắm giữ vai trò mà ngày xưa Mẹ
đã nắm giữ khi đứng dưới chân cây Thập giá.
Với tất cả những biến cố kể trên,
Đức Thánh Cha thật có lý khi tuyên xưng Mẹ là Người Nữ Thánh
Thể.
II- MẸ MARIA, MẪU
GƯƠNG CHO CÁC LINH MỤC
Những gì ngày xưa Chúa Giêsu đã hoàn
tất đối với Mẹ, thì hôm nay Ngài cũng hoàn tất cho chúng ta.
Thực vậy, nếu ngày xưa Ngài đã trao phó người môn đệ yêu dấu là
thánh Gioan cho Mẹ, thì hôm nay trong người môn đệ ấy, Ngài cũng
trao phó mỗi người chúng ta cho Mẹ : “Này là con bà!” Cũng thế,
Ngài sẽ nói với mỗi người chúng ta : “Này là mẹ con.” (Ga
19,26-27).
Hơn ai hết, các Linh mục cần phải
noi gương thánh Gioan, đó là đưa Mẹ về nhà. Điều ấy có nghĩa là
chúng ta phải cố gắng để trở nên giống Đức Kitô, bằng cách học
với Mẹ và để cho Mẹ hướng dẫn chúng ta. Hay nói cách khác Mẹ
chính là mẫu gương tuyệt vời cho các Linh mục noi theo và bắt
chước, đặc biệt trong phạm vi Bí tích Thánh Thể, bởi vì như Đức
Thánh Cha đã viết :
“Nếu Giáo Hội và Bí Tích Thánh Thể
làm thành một cặp song đôi không thể tách rời, thì giữa Đức
Maria và Bí Tích Thánh Thể cũng vậy. Chính vì thế việc kính nhớ
Đức Maria trong cử hành Bí Tích Thánh Thể được thi hành đồng
loạt, từ thời xa xưa trong các Giáo Hội Đông Phương và Tây
Phương.” (GHTTT 57).
Vậy chúng ta sẽ học nơi Mẹ những gì
? Tôi chỉ xin đưa ra một vài điểm chính yếu để chúng ta cùng
nhau suy nghĩ và bắt chước :
1-
THÁI ĐỘ SUY NIỆM
Thực vậy, thái độ suy niệm là một
thái độ chính yếu và nổi bật trong cuộc sống thầm lặng của Mẹ.
Sau khi nghe các mục đồng kể lại
những điều được nói về Hài Nhi, thì Mẹ “hằng ghi nhớ những kỷ
niệm ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng.” (Lc 2,19).
Sau khi tìm thấy Chúa trong đền thờ
và chẳng hiểu gì về những lời Chúa nói, Thánh Giuse, Mẹ Maria
cũng như con trẻ Giêsu đều trở về Nagiarét. Và thánh Luca đã ghi
nhận : “
Riêng Mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất
cả những điều ấy trong lòng.” (Lc 2,50).
Chúng ta cũng có thể nói được rằng
sau mỗi biến cố xảy đến trong cuộc đời, Mẹ đều ghi nhớ và suy
gẫm trong lòng.
Đây cũng chính là thái độ các Linh
mục phải có trước Thánh Thể. Thực vậy, chúng ta không phải chỉ
tôn thờ Thánh Thể trong Thánh lễ, mà còn phải tôn thờ Thánh Thể
ngoài Thánh lễ :
“Việc tôn sùng Thánh Thể ngoài thánh
lễ mang một giá trị vô song trong đời sống Giáo Hội. Việc tôn
sùng được phối hợp chặt chẽ với việc cử hành Hy tế Thánh Thể.”
(GHTTT 25).
Các Linh mục có bổn phận không những
phải khuyến khích mà còn phải làm gương cho mọi người. Thái độ
thinh lặng để suy gẫm hay chiêm niệm chiếm một chỗ đứng thật
quan trọng trong việc tôn thờ Thánh Thể ngoài Thánh lễ :
“Trò chuyện thân mật với Ngài, và
nghiêng mình vào lòng Ngài như môn đệ yêu dấu (Ga 13,25), xúc
động trước tình yêu vô biên của trái tim Ngài là một điều thiện
hảo. Quả thật vào thời đại chúng ta, Kitô giáo phải trổi vượt
nhất là trong “ nghệ thuật cầu nguyện”, làm sao ta không cảm
thấy lại có nhu cầu mới được ở lại lâu giờ, trò chuyện thiêng
liêng, tôn thờ im lặng, trong thái độ yêu thương, trước mặt Chúa
Kitô hiện diện trong bí tích thánh ?” (GHTTT 22).
Công đồng cũng khuyên nhủ :
“Phải dạy họ biết tìm gặp Đức Kitô
trong việc trung thành suy gẫm Lời Chúa, trong việc thông hiệp
tích cực các mầu nhiệm chí thánh của Giáo hội, nhất là bí tích
Thánh thể và kinh nguyện thần vụ ?” (ĐT 8).
Như Mẹ, chúng ta cũng hãy biết thinh
lặng để suy gẫm, để chiêm niệm trước Thánh Thể Chúa.
2- CỬ
HÀNH THÁNH LỄ HẰNG NGÀY
Ngay từ những tháng ngày đầu tiên
khi Giáo hội vừa mới được khai sinh, Mẹ luôn có mặt cùng các
Tông Đồ để cầu nguyện và cử hành nghi thức Bẻ Bánh như sách Công
vụ Tông Đồ đã ghi nhận. Sự hiện diện của Mẹ phải là một mẫu
gương đáng cho các Linh mục noi theo trong việc cử hành Thánh
lễ.
Thực vậy,
hiện nay một số Linh mục đã không cử hành Thánh lễ trong những
ngày nghỉ của mình. Các Linh mục này cho rằng trong
những ngày nghỉ thì mình cũng giống như một người giáo dân, chỉ
buộc phải tham dự Thánh lễ ngày Chúa nhật mà thôi.
Quan niệm trên là
không đúng với chủ trương của Hội Thánh, bởi vì Giáo luật đã qui
định :
“Các Linh mục luôn nhớ rằng công
trình cứu chuộc được liên tục thực hiện trong mầu nhiệm Hiến tế
Thánh Thể, nên các ngài phải năng cử hành; hơn nữa, các ngài
được khẩn khoản kêu mời cử hành hằng ngày, việc cử hành này
mặc dầu không thể có các tín hữu hiện
diện, vẫn là hành động của Đức Kitô và Giáo hội; cử
hành như vậy là các Linh mục chu toàn nghĩa vụ của mìnnh.” (GL
903).
Đức Thánh Cha cũng đã lặp lại đường
lối trên khi viết :
“Vì thế, người ta hiểu được tầm quan
trọng cho đời sống thiêng liêng của Linh mục, cũng như cho lợi
ích của Giáo Hội và thế giới, của việc thực thi lời khuyên của
Công Đồng là cử hành Bí Tích Thánh Thể hằng ngày, “dù việc cử
hành không thể có giáo dân hiện diện , vẫn là hành động của
Chúa Kitô và Giáo Hội.” (GHTTT 31).
3-
SỐNG TINH THẦN HY TẾ
Trong suốt cả cuộc đời, Mẹ đã mang
lấy chiều kích hy tế của Bí tích Thánh Thể làm của mình. Mỗi
ngày đối với Mẹ là một chuẩn bị tiến lên đỉnh đồi Canvê. Mẹ đã
sống một thứ “Thánh Thể đã có trước” nào đó, Mẹ đã “hiệp lễ
thiêng liêng” bằng ước muốn và hiến dâng. “Thánh lễ đã có
trước” này sẽ được hoàn tất khi Mẹ đứng dưới chân cây Thập giá,
kết hiệp những đớn đau của mình vào cuộc khổ nạn của Đức Kitô.
(GHTTT 56).
Vì thế, noi gương Mẹ chúng ta cũng
phải chấp nhận những hy sinh gian khổ trong cuộc sống vì lòng
yêu mến Chúa, bởi đó chính là cây Thập giá đời thường Chúa muốn
chúng ta vác lấy để bước theo Ngài.
Đồng thời hãy kết hiệp những hy sinh
gian khổ ấy với hy tế trên bàn thờ mà dâng lên Chúa, nhờ đó
biến cuộc sống chúng ta trở thành một Thánh lễ nối dài, cũng
như trở thành một của lễ đẹp lòng Chúa.
KẾT LUÂN
Nói tới đây, tôi xin mượn lời khuyên
của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trong Tông thư “Mane nobiscum
Domine”, (Lạy Chúa xin ở lại với chúng con) , nhắn gửi các Linh
mục như một kết luận :
“Các linh mục thân mến, hằng
ngày các con lặp lại lời thánh hiến, làm chứng nhân và người
loan báo phép lạ tình yêu vĩ đại xảy ra ngay trên bàn tay các
con, hãy luôn tự vấn, nhờ hồng ân của Năm đặc biệt này, để cử
hành Thánh Lễ mỗi ngày với niềm hân hoan và sốt sắng như cử hành
Thánh lễ đầu tiên, và các con hãy sẵn lòng dành nhiều thời giờ
cầu nguyện trước nhà tạm.” (LCXOLVCC 30).
GSVN |