Anh em thân mến, nếu anh em còn nhớ, đã có lần tôi nói với anh em,
dẫu chỉ là một cái kẹp tóc nhỏ xíu trên đầu, hay thô sơ như một đôi
dép lót dưới bàn chân, tất cả đều có giá của nó. Muốn có nó, anh em
phải bỏ một số tiền nhất định mà mua, mới có.
Ơn gọi mà tôi và anh em theo đuổi là một chọn lựa lớn. Đó là một
chọn lựa không dùng tiền mà mua được. Nhưng chọn lựa của chúng ta là
hiến thân cho Nước Trời. Không chỉ hiến thân, nhưng còn là hiến cả
cuộc đời.
Bao hàm trong ý nghĩa hiến thân này, đó là đức khiết tịnh. Nhưng để
giữ được đức khiết tịnh, đức tự chủ cũng quan trọng không kém. Bởi
thế, tôi sẽ dành phần lớn để nói với anh em về hai nhân đức này. Sau
đó, tôi mời anh em hãy ý thức bản thân mình để sống lý tưởng ơn gọi
mà mình đang cưu mang. Cuối cùng như một hệ luỵ xuất phát từ suy
nghĩ về hai nhân đức ấy, anh em cùng tôi lướt qua hậu quả của việc
thiếu tự chủ và xúc phạm đức khiết tịnh trong phần nói về liên quan
giữa hai điều răn thứ VI, thứ IX với điều răn thứ V.
I. ĐỨC KHIẾT TỊNH.
Sách Giáo Lý Công Giáo định nghĩa: “Sống khiết tịnh là làm chủ phái
tính, nhờ đó thống nhất được đời sống thể lý và tinh thần” (GLCG
2337).
Thông thường, nói đến đức khiết tịnh, người ta hay áp dụng cho những
người sống đời tu trì. Thực ra hiểu một cách hẹp hòi như thế là
khiếm khuyết. Giáo lý của Giáo Hội hiểu đức khiết tịnh cần cho mọi
người, mọi bậc sống.
Giáo lý viết: “Mọi tín hữu đều được mời gọi sống khiết tịnh. Kitô
hữu là người đã mặc lấy Đức Kitô, khuôn mẫu của đời sống khiết tịnh.
Ai tin vào Đức Kitô đều được mời gọi sống đời khiết tịnh tùy theo
bậc sống của mình. Khi nhận bí tích Thánh Tẩy, người tín hữu cam kết
giữ đức khiết tịnh trong đời sống tình cảm.
Mỗi người giữ đức khiết tịnh tùy theo bậc sống của mình: người này
trong bậc trinh khiết hay độc thân của đời thánh hiến, một cách thức
dễ dàng tận hiến trọn vẹn tâm hồn cho Thiên Chúa; kẻ khác trong bậc
gia đình hay độc thân, tùy theo luật luân lý xác định. Người có gia
đình được mời gọi giữ đức khiết tịnh trong đời sống vợ chồng; người
độc thân giữ đức khiết tịnh khi sống tiết dục” (GLCG 2348-2349).
Dù đức khiết tịnh, theo giáo lý của Giáo Hội, dành cho tất cả mọi
người. Nhưng những người mang trong mình ơn gọi tận hiến phải là
những người trước hết và trên hết, sống nhân đức này.
Dù anh em chưa thực sự bước vào nhà tu, nhưng định hướng cho cuộc
đời của anh em, sẽ là những người sống ơn gọi tận hiến. Đó cũng là
lý tưởng cao cả, tốt đẹp, hoàn hảo, đáng yêu quý, đáng trân trọng mà
anh em cùng chúng tôi đang theo đuổi. Bởi thế, đức khiết tịnh anh em
phải sống, là đức khiết tịnh dành cho bậc tu trì, là một đòi buộc
không thể thiếu, không được phép lơ đãng, càng không bao giờ được
phép coi thường.
Tôi muốn đưa ra mấy lý do để anh em thấy đức khiết tịnh là quan
trọng và cần thiết của đời tu.
1. Đức khiết tịnh giúp ta tự do để phục vụ
lý tưởng.
Ai cũng biết, căn bản của đức khiết tịnh trong bậc tu trì là sống
độc thân. Nhưng nhiều người lại thắc mắc: Vì sao đã đi tu thì không
lập gia đình? Chỉ có một câu trả lời của thánh Phaolô, tôi cho là
hay nhất: “Đàn ông không có vợ thì chuyên lo việc Chúa: họ tìm cách
làm đẹp lòng Người. Còn người có vợ thì lo lắng việc đời: họ tìm
cách làm đẹp lòng vợ, thế là họ bị chia đôi… Tôi nói thế là để mong
tìm lợi ích cho anh chị em. Tôi không có ý gài bẫy anh chị em đâu,
nhưng chỉ muốn đề nghị với anh chị em một điều tốt, để anh chị em
được gắn bó cùng Chúa mà không bị giằng co” (1Cr 7, 32-35).
Nếu chấp nhận sống đời tu trì, có nghĩa là chấp nhận sống ơn gọi
phục vụ: phục vụ Thiên Chúa, phục vụ Giáo Hội, phục vụ lợi ích cho
tâm hồn con người, thì lời thánh Phaolô bên trên phải là lời được
chúng ta thấu hiểu và sống, không phải một ngày, một bữa, mà là cả
đời mình. Vì chỉ có một đời sống độc thân khiết tịnh, ta mới không
bị chi phối, nhưng sẽ tự do hoàn toàn gắn bó mình với nghĩa vụ mà
mình lãnh nhận.
Nhưng đời tu không dừng ở chỗ từ chối một gia đình mà thôi. Khiết
tịnh trong đời tu đòi phải loại trừ tất cả nhữ ham hố thuộc về thân
xác, loại trừ những đam mê xúc phạm thân xác. Dù chỉ là những hình
ảnh thoáng qua trong tư tưởng, cũng không bao giờ được phép ấp ủ,
hoặc tự để cho tưởng tượng của mình miên mang trôi theo nó. Bởi chỉ
có một đời sống khiết tịnh hoàn toàn như thế, mới không làm ta xao
lãng bổn phận.
Cố gắng vượt qua để có một đời sống khiết tịnh, nghĩa là không để
cho mình trở thành kẻ lệ thuộc, nói mạnh hơn: nô lệ dục tính, ta mới
thật là người tự do. Có tự do trong ơn gọi khiết tịnh, ta sẽ dễ dàng
hiến thân phục vụ Nước Chúa.
2. Đức khiết tịnh làm nên giá trị của đời
tu
Nghe bên này, bên kia, hàng giáo sĩ có những chểnh mảng trong đời
sống khiết tịnh, thậm chí sự chểnh mảng đó đã bùng nổ đến mức trở
thành tiếng tăm lan rộng, đã gây nên vài ảnh hưởng không hay cho thế
giới Công giáo nói chung và cho hàng giáo sĩ nói riêng. Chúng ta cảm
thấy đau lòng khi nghe những thông tin đáng buồn như thế. Rõ ràng,
khi đời tu mà không còn giữ được đức kiết tịnh, đời tu chỉ là cái vỏ
bộc cho những thái độ sống thiếu tự chủ của con người. Bởi không thể
tự chủ, giá trị của đời tu, từ đó cũng trôi tuột.
Khi bắt đầu biết ai đó là nhà tu, ngay tức khắc, một cách tự nhiên
và kín đáo, trong đầu của người nghe hiểu rằng, kẻ được gọi là nhà
tu, sống độc thân khiết tịnh. Nó hình thành trong đầu người nghe tự
nhiên đến mức, gần như điều đó là nền tảng, ít là định nghĩa của nhà
tu: tu là độc thân khiết tịnh.
Chưa biết những suy nghĩ như trên là nông hay sâu, đúng hay sai,
nhưng nó đã trở thành nếp nghĩ thường xuyên của xã hội loài người từ
ngàn xưa đến hôm nay. Đó là một thực tế. Chúng ta không thể chối từ,
không thể không để ý đến thực tế ấy.
Bởi vậy, tôi chưa nói với anh em điều gì xa xôi, thâm thúy, cũng
chưa nói điều gì để gọi là luân lý, là tội lỗi, là sự phản bội Thiên
Chúa, phản bội Giáo Hội, mạnh hơn: lừa dối Thiên Chúa, lừa dối Giáo
Hội và dối trá với con người khi anh em bảo rằng mình muốn đi tu, mà
đời sống của anh em lại nghịch với những gì đời tu đòi hỏi.
Chỉ mới nói tới dư luận và suy nghĩ chung của mọi người khi nhìn
chúng ta với ánh mắt nhà tu, cũng đã đủ để cho thấy anh em và tôi
phải là những người, trước tiên, bảo vệ đức khiết tịnh trong bậc
sống tu trì của mình.
Anh em đừng cậy vào cái thế đang còn dự tu mà nguỵ biện rằng: Tôi
chưa là thầy tu. Tôi chỉ là một thanh niên sống giữa đời, bất quá
chỉ mới là kẻ tìm hiểu ơn gọi mà thôi, để rồi từ sự ngụy biện đó,
anh em muốn làm gì thì làm. Không được đâu anh em! Không bao giờ
được phép! Tôi dám nói một cách mạnh mẽ rằng, nếu anh em không gìn
giữ lý tưởng đời tu của mình một cách trong sáng và trong sạch, anh
em không có ơn gọi. Vì chỉ có ai bắt đầu tập sống đời tu trước khi
đi tu, người đó mới có thể giữ được ơn gọi của mình. Chắc chắn, một
kẻ “bắt cá bằng hai tay” như thế, cũng chính là kẻ thiếu trung thực
và trung thành, hướng chiều về sự tội, sẽ bị Thiên Chúa loại trừ.
Nếu người đời vẫn cứ nghĩ rằng, tu là độc thân khiết tịnh, thì khi
đức khiết tịnh trong đời tu bị xúc phạm, trước mắt người đời, đời tu
ấy chẳng còn giá trị nào.
Trước mặt Thiên Chúa, có thể Người sẽ tha thứ cho anh em. Nhưng
không dễ gì anh em nhận được sự tha thứ ấy từ phía anh chị em xung
quanh mình. Bởi vậy, xúc phạm đến đức khiết tịnh, cũng là xúc phạm
đến chính giá trị đời tu của bản thân anh em. Ngược lại, anh em bảo
vệ được đức khiết tịnh, chính là lúc anh em làm cho đời tu trổ sinh
những giá trị đẹp vô cùng.
3. Đức khiết tịnh là đòi buộc của luật Hội
Thánh.
Để chuẩn bị bước vào đời tu, người dự tu phải hiểu rằng, ơn gọi tu
trì đến từ Thiên Chúa, nhưng chỉ thực hiện được khi nào đương sự đáp
trả bằng thái độ dấn thân hoàn toàn để sống cho ơn gọi mà thôi.
Thái độ dấn thân hoàn toàn ấy được thể hiện qua nhiều nét của đời
sống như: sống các nhân đức siêu nhiên, các nhân đức nhân bản, có
tri thức nhất định, sự khôn ngoan, sức khỏe… Tuy nhiên, đức khiết
tịnh độc thân mới là nét đặc trưng, là vẻ đẹp trước tiên cho thấy
ước muốn dấn thân của người thanh niên muốn hiến dâng cuộc đời để
phụng sự Chúa, phục vụ Giáo Hội.
Nét đẹp của đức khiết tịnh độc thân được Giáo luật quy định tại điều
1037: “Người không lập gia đình muốn tiến đến chức Phó Tế vĩnh viễn,
cũng như người muốn tiến đến chức Linh Mục, sẽ không được nhận vào
hàng Phó Tế nếu không công khai đảm nhận trước mặt Thiên Chúa và
Giáo Hội nghĩa vụ sống độc thân qua một nghi thức luật định…”.
4. Đức khiết tịnh làm cho lương tâm thanh
thản, nhẹ nhàng.
Vì đó là một mối phúc. Qua môi miệng Chúa Giêsu, Thiên Chúa chúc
phúc cho người biết giữ mình thanh sạch: “Phúc cho ai có lòng trong
sạch, vì họ sẽ được nhìn ngắm Thiên Chúa” (Mt 5, 8).
Như vậy, không chỉ lương tâm được bình an, đức khiết tịnh, qua lời
chúc phúc của Chúa Giêsu, đã làm cho người trung thành giữ nó, đạt
tới sự thánh thiện như Thiên Chúa mong muốn. Đó cũng là điều mà
Giáo Lý Công Giáo khẳng định: “Những người có lòng trong sạch ngay
thẳng là những người biết dùng trí khôn và ý chí để sống thánh thiện
như Thiên Chúa đòi hỏi” (số 2518). Có còn điều gì tốt đẹp, lớn lao
và có thể sánh ví bằng một người có đời sống thánh thiện. Chắc chắn
lương tâm rất bình an, cuộc sống cũng sẽ thanh thản, nhẹ nhàng.
Bất cứ ai trong cuộc đời, dù bặm trợn, xấu xa đến đâu, khi sa ngã,
nhất là cố tình sai phạm, dù cố tìm cách chạy trốn, hay tìm mọi cách
để tránh mặt, để xa lánh mọi người, đều không thể thực hiện được.
Nếu ngày nào người đó còn có sự khôn ngoan, còn biết suy ngĩ, chắc
chắn vẫn phải đối diện với chính mình, vẫn nhận biết rõ ràng, mình
đã từng sai phạm.
Đức khiết tịnh là một nhân đức phải luyện tập, phải cố gắng nhiều
bằng sự nết na, mực thước, khiêm tốn, đứng đắn... Một người bình
thường đã được đòi hỏi phải đề cao đức khiết tịnh, huống hồ một
người muốn dấn thân cho ơn gọi tu trì. Vì thế, đi ngược lại những
đòi hỏi ấy, dù chỉ một người bình thường, đã không có bình an trong
tâm hồn, thì người dấn thân cho ơn gọi tu trì chắc chắn sẽ luôn luôn
bị lương tâm dằn xé.
5. Chúa Kitô yêu mến đời sống khiết tịnh.
Chính cuộc đời của Chúa Kitô là bằng chứng Người yêu mến đời sống
khiết tịnh. Người đã sống cả một đời và trải qua tuổi trẻ của mình
chỉ để làm cho “Danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến”. Người để lại
cho những ai muốn phục vụ “Danh Cha” và “Nước Cha” như Người, một
tấm gương của sự kết hợp hoàn toàn với Thiên Chúa, bằng một trái tim
không san sẻ, một tâm hồn không mảy may dính bén chút tỳ ố nào.
Không chỉ là cuộc đời, rất nhiều lần Chúa Kitô còn dạy ta phải giữ
đức khiết tịnh. Chẳng hạn:
- “Anh em nghe luật dạy người xưa rằng: ‘Chớ ngoại tình’. Còn
Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn,
thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi”. (Mt 5, 27-28).
- “Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly”
(Mt 19,6).
- Đó là những đòi buộc của Chúa Giêsu dành cho bậc hôn nhân.
Nhưng mối phúc thứ Sáu: “Phúc cho ai có lòng trong sạch, vì họ sẽ
được nhìn ngắm Thiên Chúa” (Mt 5, 8), lại có thể áp dụng cho mọi bậc
sống. Vậy anh em hãy cùng tôi ghi nhớ rằng: Chỉ có sống những gì
Chúa Kitô đã sống, ta mới trở nên con người hoàn thiện. Bởi đó, sống
đức khiết tịnh theo gương Chúa Kitô, ta sẽ là người được Chúa Kitô
yêu mến, vì Người yêu mến những ai biết gìn giữ nét đẹp vẹn toàn của
tâm hồn.
Chúa Kitô còn cho thấy Người yêu mến đời sống khiết tịnh khi chọn
cho mình một gia đình thánh thiện và thanh khiết. Khi sanh ra làm
người, Chúa Kitô bảo vệ đức đồng trinh vẹn tuyền của Đức Maria.
Người cũng nhìn thấy khả năng sống đức trinh khiết trọn đời nơi
thánh Cả Giuse, và đã chọn thánh nhân làm đấng bảo trợ của mình, bảo
trợ gia đình thánh, để trong gia đình đó, Người sinh ra và lớn lên.
Đến khi chọn mười hai môn đệ thân tín, để từ đó, thành lập Giáo Hội,
Chúa Kitô đã dành một tình cảm hết sức đặc biệt cho “Người môn đệ
Chúa yêu” – thánh Gioan tông đồ, người đã hiến thân hoàn toàn cho sự
nghiệp của Giáo Hội, của ơn cứu chuộc mà Chúa Kitô đã thực hiện.
“Người môn đệ Chúa yêu” ấy đã sống cả một đời trinh trong để làm
hoàn tất những gì mà Thầy Giêsu trao cho mình một cách tốt đẹp.
Tất cả những minh chứng trên cho thấy một cách khả dĩ, Chúa Kitô yêu
mến những ai có đời sống khiết tịnh.
6. Đức khiết tịnh là ơn Thiên Chúa ban.
Sách Giáo Lý Công Giáo cho biết: “Đức khiết tịnh là một nhân đức
luân lý. Nhưng đó cũng là hồng ân của Thiên Chúa, một ân sủng, một
hoa trái của Thánh Thần. Chúa Thánh Thần ban cho người tín hữu sức
mạnh để noi theo sự thanh khiết của Đức Kitô” (GLCG 2345).
Tuy nhiên, Chúa không ban ơn để rồi ơn của người làm thay ta tất cả,
nhưng bao giờ cũng cần sự cộng tác của chính bản thân ta. Cũng như
hạt giống phải được đưa vào trong đất, hạt giống mới phát triển. Ơn
Chúa ban chính là thửa đất. Đức khiết tịnh là hạt giống. Sự cộng tác
của bản thân anh em và tôi chính là cách thức đưa hạt giống khiết
tịnh của đời mình hòa vào ơn ban của Thiên Chúa, nhờ đó, đức khiết
tịnh sẽ nảy sinh trong tâm hồn sự cao trọng, thánh thiện, bình an…
Vì nếu ai biết sống khiết tịnh đúng theo bậc sống của mình, người ấy
đang tiến vào chân trời của ơn gọi nên thánh.
Chúng ta thật có lỗi khi không biết giữ gìn và cộng tác để biến
những gì Chúa ban trở thành vinh quang và danh dự cho chính mình.
Cách riêng, với những người mang trong tâm hồn lý tưởng tu trì, hơn
ai hết, là những người cần ơn Chúa vô cùng. Vì nếu không có ơn Chúa,
ta không thể lội ngược dòng sống những gì mà người đời cho là rất
khó, ngược đời và không thể hiểu được. Nhưng anh em chúng ta phải
dứt khoát khẳng định rằng, càng khó khăn bao nhiêu, càng cần phải
bám vào Chúa bấy nhiêu. Càng khó khăn bao nhiêu, càng cho thấy sức
mạnh của ơn Chúa mới thật lớn lao vô cùng.
Hãy nhớ rằng, chúng ta không thể tự mình đứng vững nếu không có ơn
Chúa. Bởi vậy thánh Phaolô mới nói với ta từ chính kinh nghiệm của
bản thân thánh nhân: “Ai tự hào hãy tự hào trong Chúa” (1Cr 1, 31;
2Cr 10, 17) và: “Ai tưởng mình đứng vững, hãy coi chừng, kẻo ngã”
(1Cr 10, 12). Đó là bài học trên hết mọi bài học áp dụng cho sự độc
thân khiết tịnh mà chúng ta phải học thuộc và nỗ lực sống trong đời
mình.
Sách Giáo Lý Công Giáo còn đưa ra những chỉ dẫn giúp ta sống đức
khiết tịnh: “Ai muốn trung thành với những lời hứa khi được rửa tội
và chống lại các cơn cám dỗ, phải dùng những phương thế sau: phải
biết mình, khổ chế tùy theo hoàn cảnh, tuân giữ các điều răn của
Thiên Chúa, thực hành các đức tính luân lý và chuyên cần cầu nguyện”
(số 2340).
II. ĐỨC TỰ CHỦ.
Để sống đời khiết tịnh, ngoài việc cầu nguyện, chay tịnh, hy sinh
hãm mình, chúng ta không thể nào không nói tới đức tự chủ. Vì “đức
khiết tịnh đòi hỏi phải học biết tự chủ, để sống như một con người”
(GLCG, số 2339).
1. Định nghĩa.
Trong đời sống thường ngày, người ta có thể kể đến đức tự chủ về
nhiều mặt, nhiều vấn đề như: dằn lòng để không tỏ ra nóng nảy, không
vui quá, không buồn quá, không nhờ vả ai, không để ai câu thúc, bình
tỉnh khi đứng trước đám đông, khi gặp việc rắc rối…
Tuy nhiên, ở đây chúng ta chỉ giới hạn đức tự chủ về mặt luân lý: tự
chủ để bảo vệ đức khiết tịnh.
Hiểu tự chủ về mặt luân lý, cha Phanxicô Saviê Nguyễn Hữu Tấn, cựu
Linh hướng Đại Chủng Viện thánh Giuse Sài Gòn định nghĩa: Người tự
chủ “là một người có nhiều nghị lực để chi phối, khắc phục và điều
khiển dục vọng của mình. Nói cách khác, người tự chủ không những làm
chủ mà còn hướng dẫn được sức tiến của dục vọng theo lý trí sáng
suốt một cách lâu bền”. Nói cách ngắn gọn, tự chủ là khả năng điều
khiển dục vọng của mình theo chiều hướng tốt.
2. Tự chủ là cộng tác với ơn Chúa ban.
Đời sống của một người luôn tắm mình trong cầu nguyện, sẽ được tràn
đầy ơn Chúa. Dù chúng ta không thấy ơn Chúa ban. Nhưng những người
tràn ngập ơn Chúa trong tâm hồn, dễ dàng hiển hiện trước mắt chúng
ta bằng tất cả vẻ đẹp thánh thiện toát ra nơi con người của họ.
Một trong những vẻ đẹp lộ ra từ phía những ai có đời sống thánh
thiện chính là đức tự chủ. Đức tự chủ của một người chính là sự gắn
bó với ơn Chúa ban của người ấy để tự hoàn thiện chính mình. Sự tự
chủ ấy là một thái độ chọn lựa đứng về phía ơn thánh để không làm nô
lệ dục vọng thấp hèn và trở nên bất hạnh, nhưng “chế ngự các đam mê
và được bình an” (GLCG, số 2339).
Chọn lựa đứng về phía ơn thánh, là biểu hiện của một người tự do. Đó
là một chọn lựa đúng đắn, làm cho bất cứ ai đã quý trọng nhân phẩm
của mình trong chọn lựa ấy, càng có giá trị lớn lao, đáng kính mến.
Đàng khác, chính đức tự chủ cũng lại là ơn Chúa ban. Vì thế, cộng
tác với ơn Chúa bằng cách nỗ lực sống tự chủ từng ngày, người ta
càng lớn lên trong ơn Chúa. Vì ơn Chúa và khả năng của con người có
một sự hổ tương rất lớn. Bởi vậy, ơn Chúa ban sẽ giúp ta hoàn hảo
hơn trong đức tự chủ. Và khi hoàn hảo ngày một hơn trong đức tự chủ,
tâm hồn sẽ như một thửa đất tốt để ơn Chúa càng sinh sôi, phát triển
không ngừng, và ngày càng vững mạnh. Cùng với ơn Chúa, nỗ lực sống
tự chủ như thế, ta sẽ đạt tới sự thiện như Chúa mong muốn.
3. Qua đức tự chủ, cho thấy một người:
a. Có bản lãnh.
Người ta hay ví von: “ruồi ưa mật”. Tôi không dám nói những người
ngụp lặn trong đam mê dục vọng là ruồi, một lối sống lăng nhăng
ngược với đức khiết tịnh là mật. Vì thế câu so sánh “ruồi ưa mật”
trong lúc này là khập khiểng. Dù sao chúng ta vẫn phải công nhận
rằng, những con ruồi dại là những con ruồi liều lĩnh ngã vào thùng
mật. Dại là vì thiếu nhận biết đâu là thức ăn, đâu là cái bẫy.
Dám tách mình khỏi những ham muốn xấu, vượt lên trên tất cả mọi cám
dỗ, chiến thắng dục vọng thấp hèn, sống như thế lại không phải là
người có bản lãnh hay sao!
Nếu anh em là những con người sáng suốt, hãy để lý trí phân định
đúng sai. Trước một vấn đề về giới tính, một đòi hỏi của đam mê xác
thịt, ngay cả những cám dỗ của bản năng đi nữa, anh em hãy sáng suốt
làm chủ chính mình. Vì nếu cái bẫy đầy mật ngọt sẽ giết chết con
ruồi, thì cuộc sống buông thả cũng là một cái bẫy giết chết chính
giá trị con người chúng ta. Càng nhận thức đâu là cái bẫy phải tránh
xa, nhân phẩm của anh em càng cao trọng. Nếu anh em biết dứt khoát
bảo vệ giá trị cuộc đời mình một cách mạnh mẽ như thế, ai dám nói
anh em không là người bản lãnh!
Khi giăng bẫy, ta ngụy trang để làm đẹp, để gây chú ý, nhằm đánh lừa
con vật ta muốn bắt. Đã gọi là bẫy, sự cám dỗ, nhất là cám dỗ về đức
khiết tịnh luôn có hấp lực của nó. Thánh Âugustinô đã từng đặt tên
cho những đam mê thấp hèn ấy là “Vũng bùn êm ái”. Khổ nỗi, đã là
“bùn”, nhưng lại “êm ái”, vì thế không dễ gì thoát ra.
Một cái bẫy như thế thật đáng sợ. Một khi vướng vào, có thể làm ta
đánh mất ơn gọi, đánh mất cả lý tưởng mà mình ấp ủ bấy lâu nay. Vì
biết bao nhiêu người, trẻ có, nhưng cũng không thiếu những người
được coi là chững chạc, cao cả, một lần nào đó, sa chân vào lối mòn
của tình cảm, đã trở nên mù quáng, vô tình đánh đổi cả những gì cao
quý nhất của đời mình: ơn gọi chẳng hạn. Đánh đổi như thế là đánh
đổi ơn gọi của trời cao để nghe theo tiếng gọi đam mê dục vọng trần
thế. Nếu so sánh ơn gọi đến từ trời cao là viên ngọc quý giá, thì
đánh đổi như thế là chối bỏ cả một kho tàng để chuốc lấy cái thấp
hèn, nếu không muốn nói là tội lỗi.
Anh em chưa phải là giáo sĩ, chưa bước vào đời sống của người có
thánh chức. Dù vậy anh em vẫn là người đang vươn tới lý tưởng linh
mục. Bởi thế, nỗ lực của những ai cố gắng gìn giữ đời tu của mình,
cũng phải là những bước tập tành dấn thân cho ơn gọi của chính anh
em. Ngược lại, nếu coi thường sự khiết tịnh và không tập làm chủ
chính mình, anh em cũng bắt đầu đùa giởn, nặng hơn, xúc phạm đến
chính ơn gọi và lý tưởng mà anh em đang ấp ủ.
Vì thế, một khi anh em biết nhận ra đâu là thực, đâu chỉ là cái bẫy,
để bảo vệ lý tưởng mà mình đã chọn lựa bằng một đời sống khiết tịnh
và tự chủ, anh em đã chứng minh mình là người bản lãnh.
b. Trưởng thành về đời sống.
Sống đúng mực và bản lãnh như thế, anh em cũng cho thấy chính anh em
là người trưởng thành và là người biết gìn giữ nhân cách của mình.
Người ta sẽ không thể chê cười, dù chỉ là một nụ cười nửa miệng, khi
anh em biết gìn giữ ngôn từ, diện mạo. Anh em cần cẩn thận trong
bước đi, dáng ngồi, lời ăn tiếng nói, cách cư xử, thái độ đúng mực
(hòa nhã, lễ phép, trịnh trọng, vui vẻ, thông cảm…) đối với từng
người, từng đối tượng mà ta tiếp xúc. Anh em tránh nói một lời hai
ý, hay nói “lóng” hướng về sự tục, không văng tục, không chửi thề,
tránh nói những lời thô kệch, đừng bao giờ có những kiểu cười hô hố,
cố gắng để không buông những lời chì chiết, chỉ trích nhưng hãy tìm
ngôn ngữ nhẹ nhàng hơn khi phải đề cập đến lỗi của ai đó… Trong cách
ăn mặc, tránh cầu kỳ, lố bịch, dị hợm… nhưng tướm tất, sạch sẽ.
Chắc anh em đã từng có kinh nghiệm, nhìn vào một người, do dáng đi,
giọng nói, nụ cười, cử chỉ… của họ, ta có những suy nghĩ, cách thức
cư xử thế này hay thế nọ đối với người ấy. Nếu họ là người ăn nói
khoang thai, từ tốn, cách ăn mặc nghiêm chỉnh, có thái độ bình tĩnh…
tự nhiên ta sẽ dành cho họ cách cư xử bặt thiệp, thân thiện hơn.
Chưa cần biết đó là người tốt hay xấu, họ đã có thể lấy lòng người
khác, dù chỉ ở mức độ ban đầu. Thể hiện ra bên ngoài được như thế,
có thể nói, nhìn ở khía cạnh nào đó, họ đã cho thấy những nét trưởng
thành trong đời sống, trong quan hệ.
Tắt một lời, khi anh em thể hiện mình là người ăn ở nết na, đứng
đắn, anh em có thể cho người khác thấy anh em là người có khả năng
làm chủ chính mình, do đó, cũng là người trưởng thành một cách nào
đó trong tương quan với mọi người.
c. Trưởng thành nhân cách.
Đã bàn đến sự trưởng thành trong đời sống, tôi còn muốn nhấn mạnh
với anh em một khía cạnh lớn trong sự trưởng thành ấy. Khía cạnh này
mang tính quyết định đời tu của chúng ta: trưởng thành nhân cách. Dĩ
nhiên đời tu cần được đánh giá về nhiều mặt khác nhau, nhưng xét về
phương diện nhân bản, trưởng thành trong nhân cách là một thành công
không nhỏ cho bất cứ ai chọn đời tu làm lẽ sống của mình.
Tôi còn nhớ, ngày mới vào Đại Chủng viện, một linh mục đã về hưu nói
với tôi thế này: “Anh cần phải sống linh mục trước khi làm linh
mục”. Thú thật, lúc đó tôi nghe mà cảm thấy xa lạ lắm. Sống linh mục
là sống thế nào? Chưa làm linh mục mà lại sống linh mục, nghĩa là
làm sao?
Nhưng khởi đi từ lời nói ấy, tôi bắt đầu suy nghĩ. Thêm vào đó, càng
sống lâu trong đời tu, tôi càng nhận ra cuộc đời là một chuỗi dài
những chiến đấu. Nhất là khi chọn cho mình lối sống độc thân tu trì,
lại càng phải chiến đấu thật nhiều vì bản thân mình, vì danh thơm
tiếng tốt của Giáo Hội và cũng vì biết bao nhiêu người khác trông
chờ, hy vọng nơi mình. Tôi bắt đầu tập chiến đấu với chính mình
nhiều hơn. Không phải lúc nào cũng thành công tuyệt đối, hay thành
công lúc này là đương nhiên thành công trong mọi lúc. Điều quan
trọng là không bao giờ bỏ cuộc, buông xuôi để mặc cho thời gian,
hoàn cảnh, cả cám dỗ từ phía bản thân nữa, lôi kéo tới đâu thì tới.
Nhưng phải nỗ lực, phải chiến đấu, phải luyện mình trong từng ngày
sống, và suốt cả đời.
Bởi thế, càng về lâu về dài, tôi thấy vị linh mục cao niên ấy nói
đúng. Có lẽ cha đã rút ra bài học kinh nghiệm suốt cả một đời làm
linh mục của mình. Vì sống linh mục chính là rèn luyện bản thân, là
chiến đấu để vươn lên hoàn thiện. Sống linh mục trước khi làm linh
mục như thế, để khi làm linh mục, người ta ĐÃ CÓ SẴN MỘT THÓI QUEN
SỐNG LINH MỤC.
Rèn luyện bản thân và chiến đấu với chính mình từng ngày trong suốt
cuộc đời, đó là thói quen sống tự chủ đấy anh em ạ! Một người có
thói quen thường xuyên đánh thức mình như thế, không phải là người
có nhân cách hay sao? Càng trưởng thành nhân cách bao nhiêu, nghĩa
là càng luyện tập và chiến đấu với chính mình bao nhiêu, anh em càng
nết na, đứng đắn, trong sạch, thanh khiết, ngoan ngùy, nhún nhường
và khiêm nhường… bấy nhiêu.
Tôi không thể đem nhân cách để trên bàn tay chỉ cho anh em đây là
nhân cách đã trưởng thành của tôi. Dù vậy một người có nhân cách hay
không, chính cuộc sống của họ, sẽ lồ lộ trước mắt mọi người bằng tất
cả nếp sống, nếp nghĩ, hành vi, việc làm của họ. Chắc chắn sẽ không
có định nghĩa nào có thể định nghĩa về nhân cách một cách hoàn hảo
nhất. Nhưng nhìn vào anh em, nhất là khi gần cận và sống với anh
em, người ta sẽ dễ dàng đánh giá anh em có trưởng thành trong nhân
cách hay không.
Đức tự chủ nói chung, và tự chủ trong đời sống khiết tịnh nói riêng,
sẽ giúp anh em thoát khỏi lối sống buông thả, chí ít là hướng chiều
về lối sống ấy. Anh em có biết rằng, một con trai đã phải trải qua
bao nhiêu rát xót, để những hạt cát nào đó vô tình chui vào vỏ trai,
trải qua năm tháng giày vò, tạo nên những hạt ngọc quý giá. Khi tập
chiến đấu, chúng ta cũng trở thành những con trai, trải qua bao
nhiêu can trường, cả đến hy sinh nhiều, để có được một nhân cách
trưởng thành lấp lánh như những hạt ngọc tuyệt vời. Vì thế anh em
đừng sợ chiến đấu. Vì chiến đấu chính là cách thức hay nhất bảo vệ
lý tưởng đời tu của anh em.
Có một cách chiến đấu hay nhất để bảo vệ nhân cách trong ơn gọi của
chính mình, đó là cầu nguyện và xét mình. Mỗi một ngày, anh em có
một hay nhiều khoảng thời gian dừng lại kiểm điểm bản thân, xem đã
làm hay chưa làm gì; hoặc đã đúng hay chưa đúng, từ đó rút tỉa kinh
nghiệm cho thời gian sắp tới của chính anh em. Đồng thời với việc
xét mình, anh em đừng quyên cầu nguyện. Vì chỉ nguyên việc cầu
nguyện, đã giúp anh em ý thức mình rất nhiều. Khó có ai vừa mới cầu
nguyện, lại có thể quay ra phạm tội ngay lập tức. Đó là chưa nói đến
ơn Chúa trợ giúp qua việc mình sốt sắng cầu nguyện. Vì chỉ trong ơn
Chúa, ta mới có thể chiến đấu và chiến thắng.
d. Tự chủ không có nghĩa là dồn nén.
Tân Ước có lần nhắc đến biển Chết. Đấy là một biển tù, không có bất
cứ sinh vật nào có thể sống được trong đó, vì thế người ta gọi là
biển Chết.
Cũng vậy, sự sống không phải được tạo dựng để bị giam hãm trong con
người, nhưng là ra đi đến với tha nhân. Đó là động tác tự nhiên của
con người sống. Vì không thể tự giam hãm mình mà lại có khả năng
trưởng thành. Con người sống là con người sống bởi hai chiều kích:
cho đi và đón nhận. Dĩ nhiên không phải cho đi hay đón nhận bằng mọi
giá, kể cả lao mình vào lối sống buông thả. Có như thế, con người
mới có thể phát triển toàn diện. Nếu không, đời sống co cụm trên
chính mình chỉ là một thứ biển chết.
Một lối sống dồn nén, co cụm là một lối sống ngụy tạo. Vì bên ngoài
có thể là một người, ai nhìn cũng cho đó là người tốt, nhưng bên
trong nội tâm của chính người ấy, lại chất chứa không biết bao nhiêu
điều tồi tệ, nguy hiểm. Chúng ta cứ tưởng tượng một quả bong bóng
càng căng đầy hơi bao nhiêu, càng dễ phát nổ, và tiếng nổ của nó
càng lớn bấy nhiêu. Dồn nén tâm lý là một quả bong bóng đáng sợ.
Chúng ta không thể tưởng tượng hết sức ép của sự dồn nén, nhất là sự
dồn nén về tình cảm, về nhục dục. Khi một người phải sống trong tâm
lý này không còn chịu nổi nữa, thì chuyện gì sẽ xảy ra? Nếu để đến
mức “tức nước vỡ bờ” thì thật là nguy hiểm. Sự dồn nén sẽ đến lúc
như một trái phá mà sức công phá lớn vô số kể.
Tự chủ không phải dồn nén. Vì tự chủ là biểu hiện của một người sống
quân bình, khôn ngoan, tỉnh táo, biết suy nghĩ và suy nghĩ chính
chắn, cân nhắc tường tận. Còn dồn nén là biểu hiện của một tâm lý
thiếu trưởng thành, thiếu quân bình, yếm thế, mặc cảm, lý trí khó
sáng suốt.
Để giải thoát mình khỏi sự dồn nén, có mấy việc chúng ta cần làm:
- Một lần nữa, tôi lại phải nhắc đến sự cầu nguyện. Cầu nguyện
vẫn luôn là liều thuốc không thể thiếu, được dùng để ngăn ngừa mầm
mống cũng như chữa trị mọi con bệnh của đức tin. Ngày nào anh em lơ
là với việc cầu nguyện, tệ hơn, anh em dám coi thường nó, đó là một
biểu hiện cho thấy anh em lao xuống dốc một cách trầm trọng trong
đời sống đức tin. Bởi thế, chúng ta không bao giờ được khoang nhượng
cho cơ thể, hay chiều theo cảm hứng, lấy cớ mệt mỏi rồi dung túng
cho sự lười biếng của mình. Là một người bước vào đời sống ơn gọi,
anh em phải đặt sự cầu nguyện lên hàng đầu. Cầu nguyện càng nhiều,
lòng anh em càng bình an, tâm hồn càng thư thái, anh em sẽ mạnh mẽ
trong sự tự làm chủ chính mình. Một tâm hồn có Chúa ngự, chắc chắn
tâm hồn ấy sẽ không có bất cứ một cám dỗ nào gây nên sự dồn nén.
- Anh em hãy chọn cho mình một vị linh hướng. Ngài sẽ đồng hành
với anh em, giúp anh em giải tỏa những căng thẳng của lòng mình. Anh
em hãy trình bày thật lòng với vị linh hướng. Ngài có trách nhiệm
cầu nguyện, thông cảm, chia sẻ những khó khăn anh em đang gặp phải.
Sau nữa, ngài sẽ giúp anh em làm sáng tỏ vấn đề khó khăn ấy. Có một
vị linh hướng đồng hành với mình, anh em sẽ không cảm thấy bất lực,
cô đơn khi phải đối đầu với những khó khăn riêng tư, kể cả sự dồn
nén do ức chế tâm lý. Ngược lại lòng anh em sẽ bình an thư thái hơn.
- Tình bạn trong sáng cũng là cách tốt, giúp ta thêm nghị lực
sống tự chủ đối với đức khiết tịnh trong đời sống của mình. Vì trong
tương quan với mọi người, ta sẽ sống cởi mở, vui tươi, vị tha, thông
cảm, yêu thướng, chia sớt, giúp đỡ, quan tâm đến nhau…, nhờ đó sẽ
làm cho lòng bình an, có khả năng giải tỏa mọi dồn nén. Sách Giáo Lý
Công Giáo cũng đề cập đến điều này: “Đức khiết tịnh nảy nở trong
tình bằng hữu, giúp người môn đệ bước theo và bắt chước Đấng đã chọn
chúng ta làm bạn hữu của Người… Đức khiết tịnh bộc lộ rõ ràng qua
tình thân với mọi người xung quanh. Tình thân hữu phát triển giữa
những người cùng phái, khác phái là điều tốt đẹp cho mọi người, dẫn
đến sự hiệp thông tinh thần” (GLCG, số 2347).
4. Đức tự chủ cần thiết với tất cả những
tội xúc phạm điều răn thứ VI và IX.
Trước mọi cám dỗ của tội lỗi, chúng ta cần phải sáng suốt gìn giữ
bản thân mình, nhằm tách mình khỏi những ảnh hưởng của tội. Đức tự
chủ sẽ là nhân đức cần thiết, giúp ta lướt thắng cám dỗ. Những tội
thuộc về điều răn thứ VI và thứ IX bao gồm mọi tội trong tư tưởng,
lời nói, việc làm xúc phạm đức khiết tịnh.
Sách Giáo Lý Công Giáo kể tên những lỗi phạm đến đức khiết tịnh: dâm
ô, thủ dâm, tà dâm; khiêu dâm; mại dâm; hiếp dâm; đồng tính luyến
ái; ngoại tình; ly hôn; đa thê, loạn luân; lạm dụng người chưa
trưởng thành; tự do sống chung; sống thử (2351-2359.2380-2391).
Ta có thể tóm những lỗi phạm đến đức khiết tịnh mà sách Giáo Lý đã
nêu trong bốn đặc điểm sau:
- Nhìn ngắm hoặc tưởng nghĩ những điều dâm ô.
- Nói những lời dâm ô, thô tục hoặc những lời ám hiểu ý tà, hoặc
phổ biến phim ảnh sách báo khiêu dâm (như chiếu phim, rủ rê, khoe mẻ
để mời gọi, cho mượn, cho thuê, mua bán, trao đổi… những sản phẩm
khiêu dâm).
- Tìm thú vui nhục dục bên ngoài cuộc sống hôn nhân, một mình
hoặc với người khác.
- Làm dịp cho những người khác phạm những tội trên.
Có lẽ trong số những tội mà sách Giáo Lý kể bên trên, có những tội
rất xa lạvới anh em. Chúng ta phải cám ơn Chúa về điều này, vì Người
đã yêu thương bảo vệ chúng ta. Dù vậy, không phải là vô ích khi anh
em và tôi, một lần nữa nhắc cho nhau những gì Thiên Chúa và Hội
Thánh đã dạy. Nhờ đó ta cảnh giác với tất cả mọi hình thức có thể
lôi kéo mình đi vào con đường sai phạm, ngay cả khi chúng mới xuất
hiện trong tư tưởng . Hoặc nếu anh em đã tốt, thì nhờ những gì chúng
ta nhắc nhở nhau, anh em hãy giữ cho mình nên tốt hơn.
III. Ý THỨC BẢN THÂN
Óc tò mò và không cương quyết tránh xa dịp tội là hai khuyết điểm
lớn dẫn dắt ta đi vào con đường của tội lỗi. Đặc biệt, những tội
liên quan đến đức khiết tịnh là những tội dễ kích thích óc tò mò.
Bởi tò mò, ta càng dễ rơi vào dịp tội.
1. Sa ngã tại địa đàng
Anh em hãy nhớ lại hình tượng Adong và Evà trong địa đàng thuở mới
tạo thiên lập địa. Dù chỉ là lời của kẻ cám dỗ mang hình ảnh con rắn
xù xì, Evà và sau đó là cả Adong, đã sa ngã, đã phạm tội thật. Bởi
đâu như thế? Cộng với lời cám dỗ ngon ngọt, đó là lòng thiếu cương
nghị đã đưa nguyên tổ mon men đến gần dịp tội, dù biết rõ nguy hiểm
do lời Chúa cảnh báo từ trước. Bởi đó nguyên tổ đã tự mình lao vào
dịp tội.
Thêm nữa, Nguyên tổ thiếu cương nghị, thiếu dứt khoát đã đẩy óc tò
mò lên cao chiến thắng lòng tốt của mình. Óc tò mò lớn đến nỗi, Evà
chưa một lần sờ vào trái cấm, vẫn nghiệm thấy một cách chắc chắn
“trái cây đó ăn thì ngon, trông thì đẹp mắt, và đáng quý vì làm cho
mình tinh khôn”, để cuối cùng vấp ngã thảm bại, khi “bà hái trái cây
mà ăn, rồi đưa cho cả chồng đang đứng đó với mình; ông cũng ăn” (St
3, 6).
Thật đáng tiếc cho Nguyên tổ, giữa một bên là lời yêu thương nhắn
nhủ của Thiên Chúa: “Hết mọi trái cây trong vườn, ngươi cứ ăn. Nhưng
trái cây cho biết điều thiện, điều ác, thì ngươi không được ăn. Vì
ngày nào ngươi ăn, chắc chắn ngươi sẽ phải chết” (St 2, 16- 17). Còn
bên kia là lời xảo quyệt mưu mô của kẻ cám dỗ: “Các ngươi cứ ăn đi,
Thiên Chúa cấm vì Người biết ngày nào các ngươi ăn, các ngươi sẽ nên
những vị thần biết thiện biết ác. Các ngươi cứ ăn, không chết chóc
gì đâu” (St 3, 4- 5). Vậy mà cả hai ông bà đã đánh đổi chính lời của
Thiên Chúa để nghe lời xảo quyệt.
Trong sự đánh đổi, cho thấy không những Nguyên tổ nghi ngờ Lời Chúa,
hay đúng hơn, Nguyên tổ nghi ngờ chính Thiên Chúa, mà còn hạ thấp
lời Thiên Chúa, qua đó hạ thấp chính Thiên Chúa là tác giả của lời
ấy. Nhưng nếu suy nghĩ cho kỳ cùng, khi so sánh giữa hai lời nói ấy
và thái độ chọn lựa của Nguyên tổ, ta còn thấy Nguyên tổ phạm một
tội nặng nề hơn: đó là khi chọn lựa nghe lời cám dỗ, vất bỏ Lời
Thiên Chúa, có khác gì Nguyên tổ đã chọn tên cám dỗ làm chúa của
mình thay cho Thiên Chúa.
Anh em thân mến, câu chuyện sa ngã tại địa đàng ngày xưa, vẫn là bài
học còn mới nguyên cho chúng ta hôm nay. Câu chuyện sa ngã ấy cần
cho anh em mình trong mọi dịp có thể lôi kéo chúng ta sa ngã. Nó
càng thích hợp hơn nhiều, để giúp ta can đảm dừng sự kích thích của
óc tò mò, can đảm tránh xa những dịp lỗi đức khiết tịnh. Vì những
lỗi xúc phạm đến đức khiết tịnh luôn là những cám dỗ dữ dằn.
Hãy nhìn vào gương của Nguyên tổ mà thấy, chỉ một chút yếu lòng, ông
bà đã để vuột tất cả ơn Chúa ban cho mình, đồng thời phạm tội nặng
không dễ gì tự mình có thể chuộc lại, mà phải nhờ đến chính Con Một
Thiên Chúa, ơn cứu chuộc mới được hoàn lại cho ông bà. Bởi vậy sự
nguy hại của tội là sự nguy hại khó lường. Anh em và tôi hãy can đảm
lên, nhận lấy bài học của Nguyên tổ làm bài học kinh nghiệm cho
mình.
2. Cái nhìn của vua David.
Như Evà ngày xưa phạm tội bắt đầu từ ánh mắt: nhìn thấy trái cây đẹp
rồi tưởng tượng nó ngon và quý, thế là sa ngã. Vua David cũng phạm
tội bắt đầu từ ánh mắt.
Thánh Kinh kể, vào một buổi chiều, khi nhà vua đang đi dạo trên lầu
thượng, bất chợt nhìn thấy bà Bat Seva, vợ của Urigia, một viên
tướng rất mực trung thành của David, đang tắm. Nhà vua đã không thể
kềm nỗi con thú dâm dục trong lòng mình. Thế là phạm tội. Nham hiểm
hơn, sau khi phạm tội với Bat Seva, và biết đã có con ngoại hông với
Bat Seva, David đã rắp tâm đẩy người chồng của bà là tướng Urigia đi
ra tuyến đầu của chiến trận, lúc đó đang đánh nhau với quân Ammon,
mượn tay quân thù thủ tiêu ông.
Ánh nhìn của chúng ta như con dao hai lưỡi. Cũng ánh nhìn ấy, nếu có
lòng yêu mến Chúa, nhìn vào vũ trụ, anh em nhận ra tình yêu của
Người. Cũng là ánh nhìn, nhưng nếu anh em tìm tòi những hình ảnh xấu
xa, dâm ô, thô tục, nó sẽ đốt cháy lòng anh em bằng những thèm khát
đầy dục vọng xấu xa. Nó cũng chính là động cơ thôi thúc ta nộp mình
cho tội lỗi nhanh chóng, dễ dàng. Đừng tò mò nhưng hãy tránh xa dịp
tội. Đó là nguyên tắc hàng đầu để anh em và tôi gìn giữ ơn gọi, gìn
giữ đời sống khiết tịnh cho ơn gọi ấy.
Cả Adong, Evà, lẫn David, mặc dù đã có thể lường được nguy hiểm của
tội mà họ dấn thân cho nó. Nhưng vì ánh nhìn đưa tới sự tội đã thiêu
đốt lòng họ, khiến lý trí tối tăm và nhục chí, cuối cùng thỏa hiệp
với tội. Từ đó cả ba bị tội lỗi đè bẹp bằng sự thống trị tàn nhẫn
của nó. Cả ba ngã nhào vào tội một cách đớn đau. Dẫu đã có lòng ăn
năn, nhưng dấu vết của tội không dễ gì xóa nhòa. Cách riêng đối với
David, lửa dâm dục đã đẩy ông đi từ phạm tội tà dâm và ngoại tình
đến chỗ giết người không thương tiếc, dẫu người đó là trung thần của
mình. Tội ác ấy là một vết khắc sâu trong lòng, khiến nhà vua ân hận
suốt đời.
Anh em thân mến, ai đó đã từng nói thế này: “Biết mình yếu, đừng ra
gió”. Một hình ảnh rất đời thường, rất bình dị, nhưng lại hàm chứa
cả một kinh nghiệm khôn ngoan. Chúng ta là những con người đầy yếu
đuối. Chỉ cần sơ hở một chút là phạm tội. Không biết tôi có bi quan
quá không, khi nói với anh em điều này: Hình như anh em mình phạm
tội dễ hơn vươn lên sống thánh thiện. Vì thế cảnh giác với cám dỗ,
Nhất là với những cám dỗ xúc phạm đức khiết tịnh, không bao giờ
thừa.
3. Đừng biến mình thành dịp tội.
Có hai đối tượng cho dịp tội: chính bản thân và tha nhân. Cả hai đối
tượng này, ta đều phải tránh, để không gây nguy hiểm, không tự nộp
mình cũng như nộp anh em mình cho tội.
a. Đừng nên dịp tội cho chính mình.
Có một câu chuyện người ta kể rằng: trong một khu rừng nọ có một con
thỏ cái sống bên cạnh một đàng thỏ con. Ngày nọ, khi các con đã lớn,
thỏ mẹ dẫn chúng ra đồng tìm mồi. Bỗng dưng từ đàng xa, xuất hiện
một tiếng rống nghe rất dữ tợn. Tức khắc, gương mặt thỏ mẹ hiện rõ
nét lo sợ. Nó vội làm hiệu cho các con về hang ẩn núp. Tuy nhiên, có
một chú thỏ con tò mò và hiếu kỳ, muốn biết tiếng rống to đó là gì.
Nó tách khỏi đàng, trốn mẹ, trốn anh em nấn ná ở lại để xem cho bằng
được. Tiếng rống mỗi lúc một gần hơn. Chẳng bao lâu sau, từ phía
tiếng rống ấy, không chỉ có tiếng rống mà còn xuất hiện một con hổ
to. Thỏ con không biết là hổ nhưng bắt đầu cảm thấy sợ, khi chứng
kiến một bộ mặt đầy sát khí, mắt và miệng thật to, hàm răng lởm chởm
và những chiếc răng nanh thật dài trông khủng khiếp. Thỏ con quá sợ
hãi, co chân chạy thật nhanh. Nhưng chính lúc thỏ con di động, là
lúc nó gây sự chú ý cho con hổ. Chỉ cần một cú nhảy thật mạnh của
con hổ độc ác, thỏ con đã nằm gọn trong miệng nó.
Đối với anh em, có lẽ biến mình thành dịp tội cho chính bản thân là
khả năng lớn nhất có thể xảy ra. Khẳng định điều này, chắc tôi không
chủ quan lắm, vì không có gì dễ cho bằng tự quay quắt, thỏa hiệp,
dung túng cho bản thân. Không có gì kín đáo cho bằng tự dẫn mình vào
lối mòn của tội lỗi. Tôi lấy ví dụ: Chúng ta đang sống trong thời
buổi mà các phương tiện truyền thông trở nên phổ biến, dễ dàng lôi
kéo mình vào ảnh hưởng của sự xấu. Anh em có thể đóng cửa phòng, tự
thỏa mãn với một bộ phim không lành mạnh, với một trang web thiếu
đứng đắn. Anh em có thể tìm thấy một cách quá dễ dàng những hình
ảnh, sách báo khiêu dâm, hay những lá bài đầy thô tục…
Tự tìm tòi để thỏa mãn óc tò mò là dịp lớn vô cùng để anh em tự băng
mình vào tội. Chú thỏ con đã không cưỡng lại óc tò mò của nó, vì thế
nó nằm gọn giữa hai hàm răng của con hổ đói. Ta cũng có thể coi tội
lỗi là một con hổ đói. Nếu không biết tránh xa dịp tội, ngược lại
liều bán mình cho nó, tội cũng sẽ chụp lấy và thống trị ta. Vì nếu
anh em coi xong một bộ phim, đưa tay tắt bộ phim, nhưng trong đầu
anh em có tắt được không? Những hình ảnh tồn tại trong suy nghĩ ấy,
nếu là những hình ảnh gợi dục, sẽ là những cơn cám dỗ triền miên đổ
về thiêu đốt lòng anh em. Trong anh em đang hiện diện đây có ai dám
chắc, những hình ảnh ấy sẽ không có khả năng xô ngã mình? Bởi vậy
anh em và tôi hãy quyết tâm không dung túng cho mình, để không trở
nên dịp tội cho chính bản thân.
b. Đừng nên dịp tội cho tha nhân.
Tôi cứ tin rằng anh em không tệ đến nỗi đã làm, hay mưu toan làm
điều này. Nên dịp tội cho tha nhân là một gương mù không thể tả. Đặc
biệt làm gương mù đối với trẻ con trong vấn đề khiết tịnh, đó là một
tội ác. Chúa Giêsu đã từng lên án việc làm tồi tệ này: “Ai làm cớ
cho một trong những kẻ bé mọn đang tin Thầy đây phải sa ngã, thì thà
treo cối đá lớn vào cổ nó mà xô cho chìm xuống đáy biển còn hơn” (Mt
18, 6. Mc 9, 42. Lc 17, 1-2). Có nhiều hình thức để một người nào
đó, làm gương mù cho người khác. Chẳng hạn: lời nói, việc làm xấu,
xúi giục, rũ rê, khuyến khích, giới thiệu những nơi, những điều
thiếu đứng đắn, lạm dụng tình dục trẻ em, quan hệ tình dục bừa bãi…
Tất cả những điều đó, đều là những việc rất xấu, phải tránh xa.
IV. LIÊN QUAN GIỮA HAI ĐIỀU RĂN VI, IX VỚI
ĐIỀU RĂN V.
Một khi người ta liều mình nhảy vào trong sự dâm ô, tội giết người
là điều có thể xảy ra. Nói theo kiểu bình dân một chút, giết người
để “bịt đầu mối”. Vua David giết chết Urigia để tự do đoạt vợ của
Urigia. Nhưng rất may, nhà vua đã nghe lời tiên tri Nathan, nên đã
ăn năn thật lòng. Tương tự, vào thời Chúa Giêsu, vua Hêrôđê vì lăng
loàn với vợ của anh mình là bà Hêrôđia, bị thánh Gioan Tẩy Giả phản
đối. Thay vì có một nghĩa cử sám hối như David, Hêrôđê lại nghe lời
Hêrôđia, giết chết thánh Gioan. Tất cả những hàng động ấy chỉ nhắm
một điểm duy nhất: “bịt đầu mối” để tự do vùng vẫy trong tội, cả đến
tội loạn luân.
Hành vi “bịt đầu mối” đó vẫn xảy ra trong cuộc sống đương đại này.
Có khi không ai biết nhưng rất nhiều lần các phương tiện truyền
thông, luật pháp và cả đạo đức xã hội đã vạch trần những bộ mặt sát
nhân ấy.
Dẫu cho chuyện giết người không phải là điều lạ, hay khó hiểu. Vì từ
xưa nhân loại đã sát hại nhau quá nhiều. Nhưng chúng ta cảm thấy đau
đớn lòng mình khi biết được những cuộc mưu sát cá nhân; những mưu đồ
giết người được phác thảo, bàn bạc; những tính toán hoặc đã chà đạp
mạng sống tập thể những con người, chẳng hạn những cơn diệt chủng
hàng loạt…, nhẹ nhàng cứ như giết chết một con gà vậy!
Nổi cộm lên trong vấn đề sát hại đồng loại, là chính cha mẹ giết
chết con mình. Phá thai là một bằng chứng. Nếu một ai đó bị sát hại
đã là một nỗi đau đớn, thì chính cha mẹ nhẫn tâm loại trừ đứa con
là máu, là thịt của mình, ngay khi nó còn chưa biết gì, chưa vướng
mắc bất cứ một tội vạ nào, đó không là nỗi đau đớn khôn cùng hay
sao!
Dù là thái độ dâm đảng, cuồng loạn, chơi bời phóng túng, rồi “bịt
đầu mối” hoặc chỉ vì kế hoạch hay vì lý do nghèo không nuôi con nổi,
tất cả đều không biện minh được cho vấn đề sát hại đứa con đang lớn
dần trong lòng mẹ nó. Vì đây là sự sống con người. Sự sống con người
là lý do ưu tiên hàng đầu, ngoài Thiên Chúa, không có bất cứ cái gì
có thể sánh ví được. Không thể nào chấp nhận được hành vi tội lỗi
của cha mẹ gây nên kết quả là chính đứa con trong lòng mình, lại
quay ra trút tất cả hậu quả lẽ ra thuộc về mình lên chính mạnh sống
của đứa con, ngay khi nó còn chưa kịp sinh ra.
Ngày xưa, vào thời Chúa Giêsu mới sinh, vua Hêrôđê, để chắc chắn
rằng, mình đã giết chết Hài Nhi Giêsu, Vua dân Do thái mới sinh, đã
ra tay giết chết hàng loạt trẻ em Do thái. Chuyện ngày xưa ấy,
Hêrôđê là kẻ đã giết chết vô vàng trẻ em là con của dân lành, thần
dân của mình. Nhưng chuyện của ngày hôm nay, Hêrôđê bây giờ không
phải là Hêrôđê giết con của người khác, mà khủng khiếp hơn, đó chính
là cha mẹ thủ tiêu con của mình ngay khi nó còn trong trứng nước.
Nếu Hêrôđê ngày xưa hiện nguyên hình là con ác quỷ vô lương tâm, thì
Hêrôđê của hôm nay, anh em chúng ta còn biết phải gọi là gì? Giết
chết con người là một ác quỷ. Còn giết chết chính đứa con của mình
thì thế nào đây? Biết nói làm sao, thưa anh em! Bởi vậy, khi nghe
tôi trình bày những suy nghĩ như thế, anh em có thấy đau đớn như
những gì tôi trình bày không? Lương tâm của chúng ta phải xót xa tận
cùng như thế mới được anh em ạ.
Lời Thiên Chúa từ rất xa xưa, mãi còn đó như nỗi oan khuất của bao
nhiêu người vô tội: “Tiếng máu của em ngươi từ dưới đất, đang kêu
thấu đến tai Ta” (St 4, 10). Tiếng máu ấy là tiếng máu của người bị
sát hại. Chính Cain đã sát hại Abel, người em ruột vô tội của anh
ta. Giết chết em, cứ tưởng đã dứt được một mối thù, nào ngờ Cain lại
phải đối diện với Thiên Chúa quyền năng và công thẳng của mình.
Hóa ra đụng chạm đến sự sống của con người, người ta không chỉ đụng
chạm đến chính bản thân người ấy, nhưng là đụng chạm đến chính Thiên
Chúa, Đấng là chủ tể sự sống. Vì chỉ có mỗi một mình Thiên Chúa mới
có quyền quyết định trên sự sống của con người mà thôi. Tiếm quyền
Thiên Chúa, giết chết con người, người ta xúc phạm nặng đến Thiên
Chúa của mình.
Bởi vậy, không tự chủ để bảo vệ đức khiết tịnh, đã là một nguy hiểm
lớn. Nhưng để xảy ra việc thủ tiêu một con người, nhất là khi con
người ấy hoàn toàn vô tội, đúng là một tội ác khủng khiếp.
Nói những điều này với anh em, có vẻ xa lạ phải không? Tôi vẫn tin
rằng, anh em là những người sống thánh thiện rất mực. Nhưng điều đó
không có nghĩa là anh em không cần phải biết. Ngược lại, trong trách
nhiệm của chúng ta, anh em rất cần học biết để đào tạo lương tâm của
mình. Đàng khác, anh em cũng phải giúp cho nhiều người mà anh em gặp
gỡ, hoặc có trách nhiệm với họ, hoặc khi họ cần đến anh em…
V. KẾT LUẬN
Tuy là vật mọn phàm hèn, nhưng thân xác lại được Thiên Chúa mặc cho
vinh quang lớn lao: Đó là đền thờ của Chúa Thánh Thần. Chính Thiên
Chúa làm người đã nhận lấy cho mình một thân xác để nên một con
người. Người đã phục sinh thân xác ấy, đồng thời ban vinh quang phục
sinh cho tất cả mọi thân xác của mọi con người. Và thân xác sẽ mặc
lấy sự phục sinh của Chúa, cũng sẽ đi vào vĩnh cửu để sống trong sự
sống của Thiên Chúa.
Thân xác con người cao quý là thế. Thiên Chúa tôn trọng thân xác con
người là thế. Chỉ có chúng ta mới là kẻ dại khờ đánh đổi vinh quang
tuyệt vời Thiên Chúa ban với lối sống tầm thường trong đam mê dục
vọng mà thôi. Bởi vậy, anh em chúng ta hãy chiến đấu để bảo vệ cái
đẹp vẹn toàn của thân xác bằng chính đời sống thanh khiết của mình.
Vì bảo vệ cái đẹp vẹn toàn của thân xác, không có nghĩa chỉ là của
thân xác, nhưng qua đó, chính là nét đẹp lộng lẫy của tâm hồn.
Nét đẹp của đức khiết tịnh trong tâm hồn luôn luôn là một nét đẹp
vượt trội. Nét đẹp ấy đưa con người vươn tới sự thánh thiện, và vươn
tới chính Thiên Chúa là Đấng Thánh. Vì thế, đức khiết tịnh, dù là
biểu hiện của thân xác, lại là của cải quý giá trên mọi thứ quý giá.
Vì nó chính là châu báu trang xức cho linh hồn.
Lm. VŨ XUÂN HẠNH
|