THIÊN CHÚA= TÌNH THƯƠNG
ĐẠO THIÊN CHÚA= ĐẠO TÌNH THƯƠNG
( Bài Số 03, tiếp theo kỳ trước)
ĐOẠN II.
QUẢNG DIỄN MỘT SỐ ĐỀ TÀI
Qua
NHÃN QUAN VĂN HÓA VIỆT NAM
Phần II của Thông Điệp
HỘI THÁNH, như “MỘT CỘNG ĐỒNG YÊU
THƯƠNG” Thực Hành ĐỨC BÁC ÁI
(Part II: CARITAS The Practice of Love by The Church as a
“Community of Love)
a/. Hoạt Động Bác Ái như Biểu Lộ Tình Thương của Thiên Chúa Ba
Ngôi. (coi số 19)
-Thánh Âucơtinh viết:” Nếu bạn thấy có lòng Bác Ái, là bạn thấy
Thiên Chúa Ba Ngôi”.Nhờ suy niệm về Cạnh Sườn Chúa Giêsu bị
đâm thấu(Gioan 19:37, Zech 12:10), ta nhìn nhận, vì Tình
Thương (Gioan 3:16) mà Đức Chúa Cha đã sai Con Một giáng
trần để chuộc tội chúng ta. Thánh Gioan :19,30 viết:” khi tắt thở
trên Thánh Giá, lúc”Chúa Giêsu ban Thần Khí”, tiên báo Ơn
Chúa Thánh Thần, sau khi Chúa Phục Sinh(Gioan, 20,22). “Những
dòng sông nước hằng sống” tuôn chảy từ tâm hồn các tín hữu, qua
việc Ơn Chúa Thánh Thần tràn lan( Gioan, 7:38-39). Thật vậy, Chúa
Thánh Thần là sức mạnh nội tâm, hòa hợp tâm hồn các tín hữu với Chúa
Cứu Thế, khiến họ Yêu Thương anh chị em như Chúa yêu mến họ,
khi cúi xuống rửa chân các môn đệ(Gioan, 13:1-13), và nhất là khi
hy sinh mạng sống cho ta (Gioan, 13:1; 15:13)
- Chúa Thánh Thần cũng là sức mạnh cải tạo tâm hồn của Cộng
Đoàn Hội Thánh, để làm chứng nhân giữa thế gian, về Tình
Thương của Chúa Cha ước muốn nhân loại trở thành một Gia đình
trong Con của Ngài. Mọi hoạt động của Hội Thánh đều biểu lộ Tình
Yêu Thương muốn cho con người được hoàn toàn tốt đẹp.Hội Thánh loan
báo Tin Mừng qua việc giảng dạy Lời Chúa, và ban các Nhiệm Tích; Hội
Thánh tìm nâng cao đời sống con người trong mọi lãnh vực hoạt động.
Bởi vậy, Tình Yêu Thương, chính là tinh thần Phục Vụ mà Hội Thánh
luôn theo đưổi để đáp ứng những nhu cầu, những đau khổ của con
người, kể cả những thiếu thốn về vật chất. Do đó, Đức Bác Ái
Phục Vụ, chính là chủ đích của “Phần II của Thông Điệp”
b/ Công Cuộc Bác Ái là Trách Nhiệm của Hội Thánh (số
20-25)
- Tình
Yêu Thương tha nhân, đặt nền tảng trên Tình Yêu Mến Thiên Chúa,
trước tiên và trên hết là trọng trách của mỗi cá nhân tín hữu, nhưng
cũng là nhiệm vụ của toàn thể cộng đồng Hội Thánh, ở mọi cấp: từ cấp
cộng đoàn địa phương đến giáo đoàn miền đến toàn thể Hội Thánh hoàn
vũ. Với tư cách là một Cộng đồng, Hội thánh phải thực thi Công
cuộc Bác Ái. Do đó, việc Bác Ái phải được tổ chức cho có thứ
tự lớp lang để phục vụ hữu hiệu cho Cộng đồng.
- Theo Lich Sử Hội Thánh thời sơ khai:” Các tín hữu hợp
nhất với nhau, mọi sự để làm của chung, họ bán ruộng đất, tư hữu, và
phân chia cho mọi người, tuỳ nhu cấu(Công Vụ:244-45). Thánh Sử
Luca định nghĩa về cơ cấu căn bản của Hội Thánh như sau: “Lời
Giảng của các Tông Đồ”, “Hiệp Thông”(koinonia),
“Bẻ Bánh” và Cầu nguyện”(CV, 2:42). Chữ “ Hiệp
Thông”(koinonia) không được định nghĩa , nhưng cụ thể là các
tín hữu bỏ của chung và giữa mọi người: không phân biệt giầu với
nghèo(Cv 4:32-37). Dĩ nhiên, khi Hội thánh trở thành lớn mạnh,
các tín đồ đông đảo, thì hình thức “tập chung”của cải như thế
không thể duy trì được. Nhưng điều căn bản, cốt tuỷ vẫn còn tồn tại:
trong cộng đồng tín hữu không khi nào để cho ai lâm cảnh nghèo nàn,
thiếu thốn, làm mất nhân phẩm.
- Gốc Tích Việc Lập Chức Vụ Phó Tế trong Hội Thánh. (số
21)
-Trong thời Hội Thánh sơ khai, các Tông đồ đảm nhiệm những
trách vụ chính như:” Cầu Nguyện”(như Bí Tích Thánh Thể
và Phụng vụ), “Giảng Lời Chúa”( giảng Kinh Thánh) và
“phục vụ Bàn ăn”. Nhưng công việc “giúp hầu bàn ăn”
rất bề bộn, nên các Tông đồ đã đề nghị chọn lấy
bảy Thầy Phó Tế lo việc “phục vụ Bàn ăn”, để các Ngài chỉ
chăm chú vào hai trách vụ khác, là Bí Tích và Lời Chúa.
- Các
Thày Phó Tế cũng là những vị “Đầy Thần Khí và Khôn ngoan”(CV
6:1-6), đảm trách việc phục vụ về vật chất kĩ thuật, nhưng cũng là
việc phục vụ thiêng liêng đích thực, vì là trách vụ cốt tuỷ của Hội
Thánh thực thi Đức Bác Ái đối với tha nhân, một cách có tổ chức, và
qui củ. Bởi vậy, nhóm bảy Thày Phó Tế tiên khởi”Diaconia”, là
phần tử cốt yếu trong cơ cấu của Hội Thánh.
- Thực Thi Đức Bác Ái là Căn Tính của Hội Thánh( số
22)
Theo thời gian, Hội Thánh được mở mang rộng lớn, ba trách vụ chính
vẫn là: ban các Bí Tích, giảng Lời Chúa và hoạt động Bác Ái
để giúp đỡ cô nhi quả phụ, các tù nhân, người đau yếu, tật nguyền..Bộ
ba trách vụ phải cùng được thực hiện, không được bỏ sót một trọng
trách nào cả.
Theo Lịch sử cho biết, đã có ba Vị Hữu trách trong Hội Thánh đã nêu
gương sáng như: Thánh Justin Tử Đạo(+155), Văn sĩ Tertullian(+220),
và Thánh Ignatius of Antioch(+117)
- Cơ Cấu Pháp Lý Liên Quan đến Việc Thực Thi Bác Ái trong Hội
Thánh( số 23)
- Tại Ai Cập, vào giữa thế kỉ IV, cơ chế “diaconia”
đã được thành lập trong các Đan Viện(Monastery), để
cứu trợ người hoạn nạn, nghèo đói, và đã được chính quyền Ai Cập
công nhận về mặt pháp lý. Hoạt động Bác Ái cũng đã lan rộng ra
trong các Địa phận Tây Phương và Đông Phương. – Vào thế kỉ VII,
VIII, ĐGC Gregoriô Cả(+604), tại Napoli, và tại Roma, cũng đã đề cập
đến chức ”diaconia”.
Noi theo đường lối hoạt động Bác Ái trong sách” Tông Đồ Công Vụ
“, Hội Thánh tại Rôma đã nêu gương sáng về cái chết
anh dũng tử vì đạo của Thánh Phó Tế Lawrence(+258). Sau này, Thánh
Ambroise(+397) đã diễn tả một cách chính xác về các hoạt động giúp
người nghèo tại Rôma.
- Ảnh Hưởng của Hoạt Động Bác Ái KyTô Giáo đối với Xã Hội Thế
Tục( số 24)
-Theo Lịch sử đế quốc La mã : Hoàng đế Juliano Kẻ Bội giáo( Julian
the Apostate, +363), khi lên ngôi Hoàng đế, thì vua muốn tái lập tôn
giáo của đế quốc La mã cũ, và bách hại Kitô giáo, vì thời đó đã được
Hoàng đế Constantinô thừa nhận làm quốc giáo. Không biết đúng hay
sai, nhưng Julianô qui tội giết sạch gia đình vua cho Hoàng đế
Constantinô, tự xưng là người Kitôhữu xuất chúng.
-Juliano cấm Đạo Thiên Chúa, nhưng Ông rất khâm phục những hoạt động
Bác Ái của Hội Thánh. Vì theo ông nghĩ, sở dĩ Đạo của những người
“Galilê”( quê hương Chúa Giêsu) được quần chúng theo vì họ thực hành
Đức bác Ái. Do đó, Ông muốn thành lập những hoạt động Bác Ái tương
tự cho tông giáo của Ông. Bởi vậy, theo tài liệu lịch sử, chính
Hoàng đế Julianô đã quả quyết : Hoạt động Bác Ái là nét đặc
thù nổi bật nhất của Hội Thánh Thiên Chúa Giáo
- Chúng ta có thể rút ra Hai sự Kiện Cốt Yếu ( số 25)
A/ Bản thể cốt tuỷ của Hội Thánh được biểu lộ ra bằng ba trọng
trách hàm chứa lẫn nhau, không thể tách rời, đó là: Tuyên
bố Lời Chúa( kerygma-martyria), Cử hành các Bí Tích(
leitourgia), và thực hành việc phục vụ Bác ái( diakonia)
Đối với Hội Thánh, công việc Bác Ái không phải là một thứ “hoạt
động cứu tế, an sinh xã hội”, nhường lại cho ai cũng có thể đảm
nhận được, nhưng chính là một thành phần thuộc bản thể , một
biểu lộ cần thiết của sự hiện hữu của Hội Thánh.
B/ Hội Thánh là Gia đình của Chúa nơi trần gian này.
Trong Gia đình này, không ai thiếu những nhu cầu thiết yếu cho đời
sống. Vì thế, Bác Ái -Vị Tha( Caritas-Agape) vượt biên cương của Hội
Thánh, thành một Tình Thương phổ quát, cứu giúp bất kì ai đang lâm
cảnh thiếu thốn, như Dụ ngôn: Người Samaritanô nhân hậu(Luca,10:31).
Dầu vậy, Hội Thánh cũng có trách nhiệm đặc biệt đối với những phần
tử trong Gia đình Đức Tin của Hội Thánh.( Thư gửi Galatians, 6:10)
Qua NHÃN QUAN VĂN HÓA VIỆT NAM:
-Trên đây là những lời giáo huấn vàng ngọc của Vị Đương Kim Giáo
Chủ Bênêditô XVI về nền tảng và trách vụ thực thi Đức bác Ái của
Hội Thánh trong Thiên Chúa Giáo.
Với cương vị là một công dân của Nước Việt Nam văn hiến,
ta tự hỏi, trong suốt dòng Lịch Sử dân tộc, động lực nào đã thúc
đẩy Người dân Việt ra tay cứu giúp anh chị em, khi lâm cảnh thiếu
thốn, hoạn nạn? Bất kể người theo tôn giáo nào, hay khuynh
hướng chính trị nào, giai cấp xã hội nào, mọi người dân Việt vẫn còn
mang nặng một chữ “TÌNH VỊ THA, VỊ NGHĨA, như Tình Người(Nhân
loại), Tình Đồng Bào(cùng Mẹ Âu Cơ?), Tình Đồng Hương(Làng Xóm),
Tình Gia Đình, Tình Gia Tộc, Tình Thầy-Trò, Tình Bằng Hữu.. Sau đây,
xin nêu ra một vài bằng chứng về “Tình Người”(Nhân Loại),
trong Ca Dao Tục Ngữ, tiếp đến là Tình Gia Đình, và Tình Non Nước,
Nghĩa Đồng Bào.
-CA DAO, TỤC NGỮ dùng để giáo huấn về Tình Vị tha, Tình Nhân
Loại, cứu giúp người hoạn nạn như:
-“ Thương Người như thể Thương Thân”
-“ Suy bụng ta, ra bụng người”
-“ Thấy Người hoạn nạn thì Thương,
“ Thấy Người cùng khổ lại càng Thương hơn”
-“ Lá lành đùm lá rách,
Lá rách đùm lá tả tơi”
-“ Một con ngựa đau, cả tầu bỏ cỏ”
-“ Bầu ơi ! Thương lấy bí cùng
“ Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.”
-‘ Một miếng khi đói, bằng một gói khi no”
- Trong Lịch Sử Việt nam, nhân vật được ca tụng có
lòng Nhân Ái , thương tù nhân đói rét như “thương con gái mình”,
đó là vua Lê Thánh Tôn (1442-1491). Không kể những công
trình thuộc chính trị như mở mang bờ cõi, cải cách xã hội như lập “Nhà
Tế Sinh”để nuôi dưỡng những người đau yếu, lập sở đồn
điền để khai khẩn đất đai, dự trữ lương thực khiến dân khỏi đói khổ,
nhà Vua còn sáng tác nhiểu bài thơ nôm, như bài vịnh: “Ông Ăn
Mày”( hay Người Ăn Mày). Xin trích dẫn ra đây, để chứng tỏ nhà
Vua biết “kính trọng”nhân phẩm một con người, dầu trong lúc sa
cơ, nghèo đói, phải đi “ăn xin”. Đáng nêu gương cho chúng
ta: vì “Cách cho còn giá trị hơn của cho”. Nhà vua sánh ví,
(một cách ám tỉ) nhân phẩm một” người ăn mày” cũng đáng kính
trọng như chức vị của một Ông Vua:
“ Chẳng phải ăn đong, chẳng phải vay,
Khắp hòa thiên hạ đến ăn mày.
Hạt châu, chúa cất trao ngang mặt,
Bệ ngọc, tôi từng đúng lượm tay.
Nam, Bắc, Đông ,Tây đều tới cửa,
Trẻ , già, trai gái, cũng xưng thầy.
Đến đâu dẹp hết loài muông cẩu,
Thu cả kiền khôn một túi đầy.”
- Toàn thể thế giới , nhất là tại Hiệp Chúng Quốc Hoa Kỳ,
mọi người phải ngạc nhiên và thán phục về “Tình Gia Đình keo
sơn gắn bó của Người Dân Việt”, di tản trên khắp năm châu.
Khởi đầu từ biến cố năm 1975, chỉ có một số ít người có
phương tiện rời khỏi quê cha đất tổ, -chừng tối đa hai trăm ngàn
người-, với một vài xách tay đồ cần dùng mang theo. Thế mà
ngày nay, theo các chuyên viên kinh tế, ngân hàng, mậu dịch,
người ta ước lượng con số người Việt sinh sống tại hải ngoại đã lên
tới hơn ba triệu( hơn hai triệu tại Hoa kì), và chuyển tiền
về giúp bà con họ hàng, làng xóm, họ Đạo.. một số tiến rất lớn mỗi
năm mấy tỷ Mỹ kim! Động lực nào đã thúc đẩy người dân Việt hy
sinh tiền bạc, công sức để gửi tiền nuôi sống và bảo lãnh gia đình
ra ngoãi quốc đông đảo như thế? – Xin thưa:”suy bụng ta, ra
bụng người”, chỉ vì Tình máu mủ Gia đình, Gia tộc. Nước
Việt Nam không có chế độ “An Sinh Xã Hội”(Welfare, Social
Security), hay các hãng Bảo Hiểm như tại Canada, Hoa Kỳ..Nhưng theo
truyền thống từ lâu đời: nếu con cháu bất ngờ lâm vào cảnh”màn
trời chiếu đất”, thì cũng được ông chú bà bác khá giả cho ở cho
ăn, qua cơn túng cực. Đó là ý nghĩa của các câu Ca Dao, Tục ngữ, hầu
hết đều nại đến căn cớ huyết thống, ruột thịt, máu mủ,
tức là tình “eros”, vị kỉ, nhưng đã được thanh luyện, để vượn lên
Tình Yêu Vị Tha, sẵng sàng ra tay cứu giúp bà con khi lâm nạn.
Cũng cần nhận xét về những số tiền gửi về biếu họ hàng bên Việt
nam: phần lớn do sự tiết kiệm, bớt chi tiêu, dành dụm, làm thêm giờ
và phần đông do người lớn tuổi, đã thấm nhuần Tình Nghĩa Gia đình,
Gia tộc.
-“Giọt máu đào hơn ao nước lã”
-“Máu chảy, ruột mềm”
-“ Ruột bỏ ra, da bọc lấy”
-“ Bé cậy cha, già cậy con”
-“ Mẹ già ở chốn lều tranh,
Sớm thăm tối viếng mới đành dạ con”
- “Chị
ngã em nâng”,
- “Anh
em như thể tay chân,
Rách lành đùm bọc dở hay đỡ đần”
- “ Anh em nào phải người xa,
Cùng chung bác mẹ một nhà cùng thân “
-“ Sẩy cha còn chú, sẩy mẹ bú dì”
-“Vì Tình vì Nghĩa không ai vì đĩa xôi đầy”
-“Một người làm quan cả họ được nhờ”
- Ngoài Tình Người, Tình Huyết Thống, Gia Đình, người Dân Việt
cũng nặng Tình Làng Xóm, Non Sông Đất Nước. Những cuộc
nội chiến được mô tả như”Nồi da xáo thịt” . Sau ngày
di cư ra các nườc ngoài, trong những dịp Tết, hoặc
khi có đám tang, đám cưới, của anh em con cháu, người dân Việt vẫn
còn tấp nập mua vé máy bay về thăm Quê Hương, làng xóm:
” Cận thân như cận lân”
- Trong Lịch Sử Dân tộc, không thấy ghi chép những nạn đói kinh
khủng, hàng triệu người chết như tại vùng đồng bằng Sông Hồng Hà,
Sông Thái Bình, vào những năm 1943-1944. Ai cũng biết, nạn đói này
do các thế lực thực dân, ngoại bang gây nên tại miền Bắc, trong khi
lúa gạo miền Nam lại dư thừa.
- Trên bình diện quốc gia, làng xã, công cuộc cứu tế, tương tế,
đặc biệt vào vào những lúc hạn hán, bão lụt, đã được những
cơ sở Từ Thiện do Làng Xã, Nhà Nước tổ chức, như những sự kiện Lịch
Sử ghi chép. Thật xứng đáng cho người Việt thời nay suy tư và so
sánh với tình trạng xã hội đầy bất công, cách biệt giũa người giầu,
người nghèo:
“Người ăn không hết/ Người lần không ra”
- Theo nhà nghiên cứu Triết Học và Văn Hóa Việt nam, Linh Mục
Lương Kim Định(1914-1997), trong Sách” Hưng Việt”(
trang 11-14, An Việt Houston,XB ), từ đời “Hồng Bàng Thị”(
HỌ Hồng Bàng), dân Việt đã có chế độ “CÔNG ĐIỀN”, bình
sản, nghĩa là tài sản chia dồng đều cho mỗi người dân. Không có
chế độ nô lệ, không có chủ điền , tá điền như bên Châu Âu hay
các nước khác. L.M.Kim Định đã trích câu văn của Paul Mus,
trong sách”Viet Nam Sociologie d’une guerre”, nguyên văn như
sau:” Le travailleur européen réduit à se vendre volontairement
parce qu’il ne lui reste rien d’autrui”( người thợ Tây Âu phải
tình nguyện bán chính bản thân vì không còn gì khác ngoài mình để
bán, mọi của cải đều thưộc về người khác). Trái lại, người Việt
nghèo thì nghèo, ít ra cũng làm chủ vài sào công điền, hay cũng có
một căn nhà tranh vách đất để che nắng mưa.( coi Kim Định,
“Hồn Nước với Lễ Gia Tiên”, Nam Cung XB, trang 62-63). Ngày xưa,
Nước Việt theo chế độ “quân phân tài sản”, gọi là phép
TỈNH ĐIỀN ( # ): một lô đất chia làm 9 phần lô nhỏ, như hình
chữ “Tỉnh, # (nghĩa là giếng nước). Lô ở giữa thuộc về vua, còn 8 lô
chia cho 8 gia đình.
- Văn Sĩ Phan Kế Bính ( 1875-1921), tinh thông Hán
học, Việt văn, và là tay kì cựu trong làng báo vào thời kì chuyển
tiếp giữa nền văn học cổ truyền và trào lưu Âu hóa. Sách nổi tiếng”Việt
Nam Phong Tục”của Ông đã ghi lại cùng với lời bình phẩm xác
đáng, không thiên vị, về những Phong Tục Tập Quán của Việt Nam thời
xưa. Xin trích ra đây mấy phong tục liên quan đến “Cứu Tế Xã
Hội” do dân làng tổ chức để đối phó với những cảnh”màn trời
chiếu đất”
Sách “Việt Nan Phong Tục”( trang 227-243, Nhà XB Văn
Hoá) có bàn đến “NGHĨA SƯƠNG”, tức là kho chứa thóc
của thôn xã, mỗi làng, để giúp dân nghèo khi gặp cảnh mất mùa đói
kém. Đây là một tổ chức được Triều đình chấp nhận, và những Điều Ước
để điều hành một cách hiệu quả, vừa gây quĩ sinh lời, vừa tránh lãng
phí, tham nhũng. Ngoài ra, trong Làng Xã còn lập ra nhiều Hội đoàn
để giúp đỡ nhau về phương diện, vật chất, tinh thần, tình nghĩa, và
nghề nghiệp như: Hội Chư Bà, Hội Tư Cấp như:Họ Mua bán, giúp
nhau có vốn để mua bán, Họ Hiếu, giúp nhau khi có “tứ thân
phụ mẫu” qua đời, Họ Hỉ, khi lo làm nhà, hay cưới vợ, gả
chồng cho con cái, Họ Ăn Tết. Để tương trợ về nghề nghiệp, có
Hội Bách Nghệ, gồm những người cùng làm chung một nghề, thì
tụ tập vào một Làng, một khu phố(coi: “Hà Nội ba muơi sáu phố
phường”), Làng làm gạch Bát Tràng…
- Theo học giả “Đào Duy Anh”, trong sách” Việt Nam Văn Học
Sử Cương”( trang 185-189, nhàXB, hội nhà văn), những Hội Tương
Tế, Cứu Tế của Làng Nước ngày xưa, còn giữ lại một phần nào, nhưng
phần lớn được thay thế bằng những Hội Từ Thiện của Thiên Chúa
Giáo( các viện Dưỡng Lão, trại Phong cùi, nhà Mồ Côi.).do
các Nữ tu đảm nhận, vì Đức Bác Ái. Ngoài ra, chính phủ cũng lập ra
các Bệnh Viện công..và nhiều Hội Từ Thiện”Cứu tế Xãi Hội” do
tư nhân điều hành.
- c/ Liên Hệ giữa Công Bằng và Bác Ái( số 26-29)
- Trào Lưu Chống Đối Hoạt Động Bác Ái của Hội Thánh, từ Thế Kỉ
XIX ( số 26)
Vào thế kỉ XIX, một trào lưu về học thuyết xã hội đặt
nền tảng trên triết học vật chất vô thần do học thuyết MácXít
chủ truơng, đã chống lại các Hoạt động Bác Ái của Hội Thánh(
và tất cả mọi Tông giáo), vì cho rằng những công cuộc Từ thiện, Bác
Ái, cứu giúp người nghèo khổ chẳng đem lại lợi ích gì, mà còn làm
chậm lại cuộc cách mạng chống bất công xã hội. Giới thợ thuyền
chỉ cần Công Bằng mà thôi, không cần Bố thí . Tuy lý thuyết
MácXít này có điều hay, những cũng chứa chất nhiều sai lầm, như sẽ
phân giải ở dưới:
- Ngoài những công cuộc Từ thiện Bác ái trợ cấp người thiếu thốn về
tinh thần và vật chất, đó là nhiệm vụ phải làm, vì là căn tính như
đã diễn giảng ở trên, Hội Thánh cũng chủ trương: mọi tín hữu cần
góp phần xây dựng một Xã hội Công Bằng hơn. Điều cần nhấn mạnh ở
đây là: Quốc gia mang trách nhiệm chính trong việc đặt ra các luật
lệ về công bằng, về quyền lợi và nghĩa vụ, để mọi người công
dân được lãnh phần lợi tức tương xứng với công việc của mình làm.
- Theo dòng Lịch sử tiến hóa trong các xã hội kỹ nghệ của các thế kỉ
cận đại, giới công nhân phải được trả lương tương xứng với công
việc, nghĩa là cần xét định một cách công bằng giữa
tiền vốn của chủ nhân và sức lao động của thợ thuyền. Nếu tiền
vốn và các phưong tiện sản xuất đều tập trung vào tay một số ít
người có thế lực để rồi đàn áp bóc lột quyền lợi của giới lao động,
thì phải chống lại.
- Hôi Thánh Quan Tâm Bảo Vệ Công Bằng Xã Hội và Quyền Lợi của
Giới Lao Động(số 27)
- Cũng phải nhìn nhận: các giói chức Hội Thánh đã chậm trễ
trong việc quan tâm nghiên cứu cách thức tổ chức các cơ cấu xã hội,
dựa trên nền tảng Công Bằng. Nhưng đã xuất hiện những hiệp hội,
Dòng tu, phong trào..được thành lập để chống lại sự nghèo đói, do
những bất công xã hội gây ra( GM Ketteler ở Mainz, 1877).
- Những Thông Điệp danh tiếng của các Vi Giáo Chủ về Công Bằng Xã Hội
như: -“Rerum Novarum”, ĐTC Lêô XIII, 1891; -“Qua dragesimo Anno”,
ĐTC Piô XI, 1931;-“Mater et Magistra”,ĐTC Chân Phước Gioan XXIII,
1961;-“ Populorum Progressio”, ĐTC PhaolôVI, 1967, và “Octogesima
Adveniens, 1971;- “Laborem Exercens”,1981, “Sollicitudo Rei
Socialis, 1987, “Centesimus Annus”, 1991, của ĐTC Giaon Phaolô II;
Cuốn “Compendium, Toát lược Giáo Huấn Xã Hội của Hội Thánh”, do Hội
Đồng Tòa Thánh về Công Lý và Hòa Bình xuất bản, 2004.
- Bức Thông Điệp của ĐTC Bênêditô nhấn mạnh: Thuyết MácXít chủ trương
chỉ có cách mạng và tập chung các phương tiện sản xuất là sẽ lập tức
biến đổi xã hội nên tốt đẹp hơn. Đó là một ẢO TƯỞNG đã
tan biến rồi! Ngày nay, với đà tiến hóa của kinh tế toàn cầu, Học
Thuyết Xã Hội của Hội Thánh trở nên những đường hướng chỉ đạo căn
bản giúp giải đáp một cách hữu hiệu những vấn đề vượt phạm vi của
Hội Thánh: trước sự phát triển liên tục của thế giới, những đường
hướng chỉ đạo của Hội Thánh cần được noi theo để đối thoại một cách
nghiêm chỉnh, giữa những ai quan tâm đến vận mạng của nhân loại và
thế giới này.
- Tương Quan Giữa CÔNG BẰNG và BÁC ÁI( số 28)
Cần phải phân biệt hai Phạm Vi căn bản, trong việc
phân định một cách chính xác mối tương quan giũa việc dấn thân cho
Công Bằng Xã hội, và phục vụ cho Hoạt động Bác
ái:
a/ Theo Truyền thống của Hội Thánh, công cuộc tổ chức Quốc gia hay
xã hội thế tục dựa trên luật pháp, nề nếp trật tự tốt đẹp, đó là
phận sự căn bản của Chính Trị, Chính Sách của Nhà Nước. Như Phúc Âm
theo Thánh Matthêu viết về sự phân biệt hai phạm vi:” Điều gì
thuộc vua Xêda, thì trả cho Xêda, sự gì thuộc Thiên Chúa thì trả về
cho Thiên Chúa”( Matt, 22:21). Công Đồng Vaticano II
cũng công nhận sự độc lập của lãnh vực trần thế. Bởi vậy, về mặt
Chính quyền, không được xen lấn vào nội bộ hay đàn áp các tôn giáo,
phải bảo đảm Quyền Tự Do Tôn Giáo, và sự giao hảo giũa
những tín đồ của các tôn giáo. Hội Thánh được độc lập, được kiến tạo
thành một cộng đồng đặt nền tảng trên Đưc Tin và phải được Chính
quyền công nhận. Tuy hai Phạm vi phân biệt, nhưng vẫn liên đới
với nhau.
- Chính trị phải lấy Công Bằng làm mục tiêu và làm tiêu chuẩn
nội tại cho mọi chính sách. Chính trị, Chính sách không phải
chỉ gồm một mớ những luật lệ về đời sống công cộng, nhưng nguồn
gốc cũng như mục tiêu của Công Bằng , tự bản thể liên quan đến Đao
Đức(Ethics). Công Bằng thuộc Lý Trí Thực Hành. Do đó, Lý trí hay Lẽ
Phải cần phải luôn luôn được thanh lọc khỏi một thứ Đạo lý mù quang
gây nên bởi những thế lực chính trị, những nhóm trục lợi.
- Vấn đề đặt ra ở đây là: Chính Trị và Đức Tin gặp nhau.
Đức Tin chính là sự gặp gỡ với Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa.
Đức Tin có sức thanh luyện Lý Trí khỏi mù quáng, giúp Lý trí nhìn
rõ đối tượng và hành động hữu hiệu hơn. Đây chính là Nền tảng
của Học Thuyết Xã Hội của Hội Thánh. Học Thuyết này không nhằm tạo
ưu thế quyền lực trên Quốc gia. Cũng không muốn áp đặt trên những ai
không cùng chia sẽ cách suy luận theo niềm tin, hay nếp sống riêng
theo niềm tin. Nhưng Học Thuyết Xã Hội của Hội Thánh chỉ nhằm
thanh luyện Lý trí và giúp Lý trí, tại đây và lúc này, hiểu biết và
đạt được cái gì là Công Bằng thật.
- Giáo Huấn Xã hội của Hội Thánh đặt nền tảng biện luận trên
Lý Trí và Luật Tự Nhiên, nghĩa là trên Bản tính tự nhiên của
Nhân Loại. Hội Thánh giúp huấn luyện Lương Tâm Lương Tri
trong sáng của Con Người để hành động trong lãnh vực Chính trị, giúp
xây dựng một xã hội Công Bằng: mỗi Người, mỗi Nhân Vị được làm
sở hữu phần của mình. Nhưng xây dựng một xã hội Công Bằng là
thuộc phạm vi, nhiệm vụ của Chính Quyền, không trực tiếp
thưộc thẩm quyền Hội Thánh. Nhiệm vụ chính của Hội Thánh, trong lãnh
vực Chính trị, là thanh luyện Lý trí và đào tạo Đạo Đức.
- Hội Thánh không thay thế Chính Quyền, nhưng không đứng bên lề cuộc
chiến cho Đức Công Bằng. Hội Thánh dùng những cách biện luận thuần
lý trí, và thức tỉnh năng lực tinh thần của con Người, để Đức Công
Bằng, luôn đòi hỏi sự hy sinh, có thể thắng thế và tăng trưởng. Tạo
dựng một xã hội công bằng là thành công của Chính Trị, không phải
của Hội Thánh. Nhưng Hội Thánh quan tâm một cách sâu xa về việc cổ
võ Đức Công Bằng qua những cố gắng giúp con người cởi mở tâm trí, và
đáp ứng những nhu cầu của Lợi Ích Chung.
b/ TÌNH THƯƠNG- CARITAS , luôn cần thiết trong một Xã Hội Công
Bằng nhất.
Tại sao? Không một Quốc gia nào được tổ chức qui củ
đến mức có thể loại bỏ, không cần đến vai trò phục vụ của Bác ái.
Ai muốn tiêu diệt Tình Thương thì cũng sẵn sàng tiễu trừ Nhân Vị
Con Người vậy! Sống trên đời này, Con Người luôn mắc phải
nhiều tai ương, hoạn nạn, đau khổ, cô đơn, cô thế.., cần sự an ủi và
giúp đỡ cụ thể về vật chất của tha nhân giầu Tình Bác ái.
- Chúng
ta không cần một Chính thể độc tài, quan liêu nắm hết mọi quyền
hành, và kiểm soát hết mọi việc, vì một chính quyền như thế
sẽ không bảo đảm được điều mà nhân loại khổ đau tha thiết nhất:
Mỗi Nhân Vị Con Người cần phải được quan tâm, thương mến.
Chính quyền tốt cần noi theo nguyên tắc Tài trợ, Trợ cấp,
công nhận một cách rộng lượng và nâng đỡ các sáng kiến của các
lực lượng xã hội khác nhau, và hòa hợp sự bộc phát nhảy cảm cấp cứu
và tình cảm thân cận thân thiết với những ai đang lâm cảnh thiếu
thốn túng cực.
- Hội Thánh chính là một trong những lực lượng đoàn thể sống
động đó: Hội Thánh linh hoạt, năng động nhờ Tình Bác ái của
Thánh Thần Chúa Kytô thiêu đốt. Tình Thương đó, chẳng những cung
cấp những nhu yếu phẩm về vật chất, nhưng cũng lo tu bổ và chăm sóc
phần tâm thần, linh hồn, còn cần hơn trợ giúp hơn nữa. Rút cục, lời
rêu rao rằng :những cơ cấu xã hội công bằng sẽ có thể biến công
cuộc hoạt động Bác ái thành vô dụng, đó là một mặt nạ che dấu một
quan niệm duy vật về Con Người: ý tưởng lầm lạc đó cho rằng Con
Người chỉ sống bởi “bánh, cơm gạo mà thôi”( Matt, 4:4; Dt,
8:3). Đây là một quyết tâm làm hạ giá Con Người và cuối cùng
không còn đếm xỉa gì đến nhu cầu thiết yếu của Con Người nữa.
- Cần bàn luận minh bạch hơn mối Tương Quan giữa việc chỉnh đốn một
Quốc gia Xã hội hợp với lẽ Công bằng và hoạt động Bác ái có tổ chức
qui củ. Như đã giải thích ở trên công việc xây dựng những cơ cấu xã
hội theo luật Công bằng, không trực tiếp thuộc nhiệm vụ của
Hội Thánh, nhưng thuộc lãnh vực của Chính Trị, thuộc quyền
tự trị của Lý Trí. Nhưng Hội Thánh có trách nhiệm gián tiếp
đóng góp và thanh luyện Lý Trí khỏi mù quáng và làm thức tỉnh
quyền lục của Luân Lý.
- Một mặt, Hội Thánh chủ trương: người tín hữu giáo dân
có bổn phận trực tiếp hành động để xây dựng một xã hội công
bằng ổn thỏa nề nếp. Vì là công dân của một Quốc gia, các tín hữu
được mời gọi tham gia vào việc Nước, tùy khả năng cá nhân. Do
đó, họ không được từ chối tham gia vào các lãnh vực như: kinh tế,
xã hội, luật pháp, hành chánh, văn hóa, để cổ võ “Công Ích”,
trong mọi cơ quan, hay trong Hiến pháp. Sứ mạng người tín hữu
giáo dân là : phác họa một đời sống xã hội lành mạnh, tôn
trọng quyền tự trị hợp pháp của xã hội, và hợp tác với các công dân
khác, tùy khả năng và chu toàn trách nhiệm của mình. Tuy không
được lẫn lộn những cách biểu dương Đức Bác ái của Hội thánh với
những hoạt động của Quốc gia, nhưng điều vẫn đúng là: Đức Bác ái làm
sống động, phục hoạt toàn thể đời sống của người tín hữu, và gồm cả
những hoạt động chính trị khác, tức là “Đức Bác ái Xã hội”.
-Mặt khác, tất cả những Cơ quan Bác ái của Hội Thánh, hợp
thành một “opus proprium”, nghĩa là “một trách vụ riêng”
thích hợp với chức năng của Hội Thánh. Hội Thánh không phải chỉ hợp
tác từ phía bên ngoài, nhưng thực sự chủ động với trách nhiệm
trực tiếp, đúng với bản tính của mình. Hội Thánh không
bao giờ được miễn trừ việc thực thi Bác ái như
một hoạt động có tổ chức qui củ của các tín hữu. Cũng không bao giờ
có tình cảnh: hoạt động Bác ái của mỗi cá nhân Kytô hữu là
không cần thiết, vì Con Người cần Công Bằng và cần Tình
Bác Ái nữa.
Qua NHÃN QUAN VĂN HÓA VIỆT NAM
- Những ai tôn trọng Chân Lý, Lý trí, và Công Bằng, đều phải ngưỡng
mộ trí thức uyên bác, và tài hùng biện lý luận của Đức Thánh Cha
Bênêditô XVI trong Bức Thông Điệp, đặc biệt trong vấn đề gây cấn
hiện nay trên thế giới: làm sao dung hoà một cách tốt đẹp giũa
Công Bằng(Nhà Nước, Chính Trị, Chính Quyền) và Bác Ái( Hội Thánh và
các Tổ chức Từ thiện). Rút cục, Công Bằng và Bác Ái phải điều
hòa kết hiệp với nhau để phụng sự Nhân Vị cao quí của Con
Người “: Nhân linh ư vạn vật”. Về Tuơng quan giũa Bác
ái( Hội Thánh) và Công Bằng(Nhà Nước), xin so sánh, đối chiếu với
thực trạng xã hội ngày nay, như sau:
a/ Không ai hiểu biết và phê bình Lý thuyết Mácxít, một
cách đầy đủ, thấu triệt bằng ĐTC Bênêditô XVI, vì nhiều lý
do: Ngài là người đồng hương Đức Quốc với Ô.Các Mác (Karl
Marx, 1818-1883) sinh tại Trèves, miền Nam-Đức. Cậu Joseph
Ratzinger , sau làm Hồng Y Tổng Giám mục Munich, và là Giáo Chủ
Bêneditô XVI, sinh năm 1927 tại Marktl-am-Inn, Bavière, miền
Nam-Đức. Ai đã từng làm việc hay du lịch miền này, thì thấy hai địa
danh trên không xa nhau là mấy. Hai nhân vật cùng chung một di sản
văn hóa, triết lý, ngôn ngữ. ĐTC đã từng làm Giáo sư tại những Đại
Học như Munster, Tubingen, Ratisbonne, trong gần 20 năm (1959-1977),
đặc biệt tại Đại học Bonn, nơi trước kia, Các Mác học Luật khoa,
năm 1835. Vì là Giáo Sư dạy những môn Thần Học Triết học, nên ĐTC
rất thông hiểu về các trường phái triết học, triết gia, tại Đức, đặc
biệt những triết thuyết đã ảnh hưởng đến thuyết Mác Xít, chẳng hạn
như: triết học Hegel, Fuerbach, Engels…(coi: sách “Karl Max, Con
Đường Huyễn Hoặc”: của Nguyễn nam Châu, 2002). Ngài đã nhận làm
chuyên viên soạn thảo các văn kiện của Công Đồng Vatican II,
rồi Tổng Trưởng Bộ Tín Lý, trước khi được bầu cử lên làm Giáo
Chủ Bênêditô XVI (04/19/2004). Chính Ngài đã chứng kiến sự
tan rã, phá sản của thuyết Mác Xít, và sự sụp đổ của nước Nga, các
nước chư hầu Đông Âu vì đã áp dụng chủ thuyết này. Rất may cho nhân
loại là hầu hết những nước nghèo, tại Phi Châu, Nam Mỹ, Á châu, Ấn
độ, Nam dương đã nhìn thấy những sai trái, và sớm xa lánh thuyết Mác
Xít. Ngày nay, tuy một vài nơi còn bám víu vào nó, nhưng bắt buộc
phải thay đổi, biến chất, để thích nghi với trào lưu tiến bộ của
thế giới tự do, dân chủ, và để có thể được chấp nhận gia nhập nền
Kinh tế Thị Trường Thế Giới (WTO).
b/ Trong hơn 20 năm làm Tổng Trưởng Bộ Tín Lý, và
Cố Vấn thân tín của Đức Cố Giáo Chủ Gioan Phao Lô II , trong các
vấn đề Giáo Lý, Luân Lý Xã hội..Ngài đã phải giải quyết hàng ngày
những mâu thuẫn, tranh luận về các vấn đề chính trị, kinh tế, xã
hội, nghèo đói, bệnh tật của nhân loại. Do đó, trong Thông Điêp,
Ngài đã mạnh mẽ cương quyết phi bác sự sai lầm của thuyết MácXít,
vật chất, vô thần chủ trương gạt bỏ Hoạt động Bác ái của Hội Thánh
ra khỏi các cơ cấu Xã hội.
- Chủ trương Mác Xít cho rằng: Chỉ cần Cách mạng và tổ chức
một Xã hội Công bằng, bằng cách tập thể hóa mọi phương tiện sản
xuất, lập công xã, tập trung mọi quyền hành vào độc Đảng, dùng bạo
lực đấu tố, gây căm thù, tạo ra giai cấp đấu tranh,.giết hại, cầm tù
hàng triệu triệu nhân mạng, thì xã hội sẽ lập tức trở nên tốt đẹp,
như ”thiên đàng sô viết”, chẳng cần gì những hoạt động Bác
ái, từ thiện nữa , vì vừa vô ích, vừa “ru ngủ” quần chúng, lại cản
trở bánh xe cách mạng.Theo sự phán xét của Vị Giáo Chủ Bênêditô:
XVI, đó là “Ảo Tưởng, như Lịch Sử cận đại đã
chứng minh. Trái ngược với những ước đoán của Các Mác, xã hội Mác
Xít, không có Công Bằng Xã hội, nhưng lại tạo ra sự cách biệt lớn
lao giữa một giai cấp mới, người giầu có vì nắm hết
mọi quyền hành, tham nhũng, hối lộ, và đại đa số quần chúng nghèo
đói, mất tự do, mất Nhân Quyền, Nhân Phẩm.
Đúng như câu Tục ngữ đã mỉa mai: “Được ăn được nói, được gói
đưa về”
- Một Quốc gia, Dân chủ Tự do, trọng Pháp luật, Công Bằng Xã
Hội và giầu có vào bậc nhất trên thế giới như Hoa kỳ…, vẫn
cần hàng ngàn, vạn các tổ chức Bác Ái Từ Thiện, Thiện Nguyện của
các tư nhân và Đoàn thể Tôn giáo phụ giúp các Chính phủ khi xẩy ra
những thiên tai bão lụt như bão Katrina, sóng thần tại Indonesia,
Thái Lan.. Thế giới luôn cần đến Lòng Bác ái thương Người bị bỏ rơi
như mắc bệnh phong cùi, HIV-AIDS, hoặc cứu vớt những em gái, phụ nữ
xếp hàng như những món đồ vật cho người ta lựa chọn, mua đi bán lại
kiếm lời.
c/ Giáo Huấn Xã hội của Hội Thánh phân biệt hai phạm vi hoạt
động, hai quyền hành, tuy vẩn liên quan với nhau. Hột Thánh
Công Giáo tôn trọng quyền độc lập về chính trị, tự do xây dựng một
Quốc gia Công Bằng. Nhưng Chính quyền cũng phải tôn trọng Tự
Do Tôn Giáo của Hội Thánh. Sứ Mệnh của Hội Thánh là thanh
luyện Lương Tâm Lương Tri của các nhà cầm quyền để noi theo lý
tưởng Bác ái, phục vụ Nhân Quyền, Nhân Phẩm của Con Người. Bởi vậy,
trong việc tham gia vào các hoạt động chính trị, vai trò của
người Tín Hữu Giáo Dân rất cần thiết, để làm trung gian giũa
Hội Thánh và Chính Quyền. Ngày nay, nhiều vị giáo dân tài đức đã ý
thức được nhiệm vụ của mình trong Hội Thánh, đã góp phần xây dựng xã
hội theo Luật Công bằng và Bác ái, và tranh đấu chống những tội ác
như phá thai, tham nhũng, buôn người, đàn áp tự do tôn giáo, bảo vệ
Nhân Quyền. Người Tín Hữu Giáo Dân vừa là con số đông đảo, vừa có
khả năng chuyên môn trong mọi sinh hoạt, nghề nghiệp, đặc biệt trong
giới Truyền Thông, nên có nhiều cơ hội đem Chân Lý và Tin Mừng của
Chúa Cứu Thế cho Nhân Loại.
(Xin Lưu Ý: Đón đọc tiếp bài số 04 trong số Báo kỳ tới:
“Thông Điệp CARITAS của Đúc Thánh Cha Bênêditô XVI”: Thiên Chúa =
Tình Thương, Đạo Thiên Chúa = Đạo Tình Thương)
Lm. Jos.Cao Phương Kỷ
|