Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam

 

 

 

ĐỰƠC CHỌN GIỮA LOÀI NGƯỜI
VÀ CHO LOÀI NGƯỜI  (x. Dt, 5.1)

 

GIÁO SĨ:

Xuất phát từ giáo dân, hiện diện vì giáo dân và cậy dựa vào giáo dân

 

ĐỂ CÙNG LÀM VINH DANH THIÊN CHÚA

 

www.conggiaovietnam.net                          giaosivietnam@gmail.com

Đặc San Điện Tử    Giáo Sĩ Việt Nam    Số 15, Chúa Nhật 21.5.2006


 CÁC SỐ BÁO ĐÃ PHÁT HÀNH             MỤC LỤC

NHỮNG PHƯƠNG TIỆN GIÚP ĐỜI SỐNG LINH MỤC                                                                Vatican 2

LINH MỤC SỐNG MẦU NHIỆM HY TẾ                                                                                                   GSVN

Giáo Dục Đức Tin                                                                                                             + Gm. GB. Bùi Tuần

CANH TÂN VIỆC GIẢNG LỜI CHÚA TRONG THÁNH LỄ                           + Gm. Phaolo Bùi Văn Đọc

CẦU NGUYỆN: MỘT BÍ QUYẾT TUYỆT VỜI                                            Lm. Trần Mạnh Hùng, C.Ss.R

CHA MẸ LÀ MỤC TỬ  THEO GƯƠNG CHÚA KITÔ MỤC TỬ                                   Lm. Vũ Xuân Hạnh

Chiếu Bí                                                                                                                                Trầm Tĩnh Nguyện

TINH THẦN VƯỢT QUA VÀ CÁNH CHUNG CỦA BA LỜI KHUYÊN PHÚC ÂM    Tu sĩ JB. Bùi Ngọc Điệp

CHÍNH CHA ĐÃ CHỌN CON                                                                                            Lm. Lê Văn Quảng

Trái Tim Lạc Lõng nhưng Nhân Hậu                                                                      Bác sĩ Nguyễn Ý Đức


III NHỮNG PHƯƠNG TIỆN GIÚP ĐỜI SỐNG LINH MỤC

LTS :

Kính thưa Quí vị,

Bốn mươi năm sau Thánh Công Đồng Vatican II, Dân Chúa tại Việt Nam vẫn chỉ biết rất ít về những nội dung canh tân mà Giáo hội toàn cầu đã công bố rộng rãi. Trước sự thúc bách ấy và trong khả năng hạn hẹp của minh, GSVN sẽ cố gắng giới thiệu những bản văn quan trọng. Trước hết là sắc  lệnh PRESBYTERORUM ORDINIS, về chức vụ và đời sống các Linh muc. (Bản dịch của GHHV Pio X, 1975).

Sắc Lệnh về Chức vụ & Đời sống các Linh mục

Chương III: Đời Sống Linh Mục

III. NHỮNG PHƯƠNG TIỆN GIÚP ĐỜI SỐNG LINH MỤC

Để có thể sống kết hiệp mật thiết hơn với Chúa Kitô trong mọi cảnh ngộ cuộc đời, ngoài việc thực hành một cách ý thức thừa tác vụ của mình, các Linh Mục còn hưỏng nhờ những phương tiện chung và riêng, mới và cũ mà Chúa Thảáh Thần không bao giờ ngừng khơi dậy trong Dân Chúa và Giáo Hội hằng khuyến khích, đôi khi còn buộc dùng, đế thánh hóa các chi thể mình. Trong tất cả các phương thế thiêng liêng, quan trọng hơn cả là những hoạt động giúp các Kitô hữu được nuôi dưỡng bằng Lời của Thiên Chúa nơi Thánh Kinh và Bàn Thánh Thể; ai cũng biềt rằng việc siêng năng lui tới bàn thánh quan trọng chừng nào cho việc thánh hóa bản thân các Linh Mục.

Các thừa tác viên của ân sảng bí tích kết hợp mật thiết với Chúa Kitô là Đấng Cứu Thế và là Chúa Chiên nhờ chịu các phép Bí Tích cách hiệu quả, nhất là trong việc năng chịu Bí Tích Cáo Giải, đuợc chuẩn bị bằng sự xét mình hàng ngày, vì nó sẽ giúp nhiều cho việc thật lòng trở về với tình yêu của Cha từ bi. Dưới ánh sáng đức tin được nuôi đưỡng bằng việc đọc Sách Thánh, các ngài có thể tận tâm tìm kiếm những dấu hiệu cuả thánh ý Chúa và những thúc đẩy của ơn thánh Ngài trong những biến cố khác nhau của đời sống, và như thế ngày càng trở nên dễ dàng vâng phục sứ mệnh đã nhận lãnh trong Chúa Thánh Thần hơn. Các ngài luôn tìm thấy gương mẫu lạ lùng về sự dễ vâng phục đó nơi Đức Trinh Nữ Maria, Người được Chúa Thánh Thần dẫn dắt đã hiến toàn thân cho mầu nhiệm cứu chuộc loài người; các Linh Mục phải lấy lòng con thảo thành kính tôn sùng và mến yêu Đức Trinh Nữ Maria là Mẹ của Linh Mục Thượng Phảm vĩnh viễn, là Nữ Vương các Tông Đồ và là Đấng bảo trợ thừa tác vụ Linh Mục.

Để trung thành chu toàn thừa tác vụ của mình, các ngài phải chuyên tâm đàm đạo hằng ngày với Chúa Kitô trong lúc viếng Mình Thánh Chúa và trong việc cá nhân tôn sùng phép Thánh Thể Chí Thánh; các ngài hãy tự ý chăm lo việc tĩnh tâm thiêng liêng và mến chuộng việc linh hướng. Bằng nhiều cách, nhầt là bằng tâm nguyện vẫn được thực hành trong Giáo Hội và bằng những hình thức kinh nguyện khác nhau tùy các ngài tự ý lựa chọn, các Linh Mục tự luyện và cố tâm khẩn cầu Chúa ban cho mình một tinh thấn thờ phượng đích thực, nhờ đó các ngài cùng với dân được trao phó sẽ kết hiệp mật thiết với Chúa Kitô là Đầng Trung Gian của Giao ước Mới, và như thề, họ có thế kêu lên như những nghĩa tử “Abba, Cha” Rm (8, 15).

Trong lễ nghi truyền chức, Đức Giám Mục khuyên bảo các Linh Mục hãy “trưởng thành trong sự hiểu biết” và lời giáo huấn của các ngài phải là “linh dược thiêng liêng cho Dân Chúa”. Nhưng kiền thức của thừa tác viên thánh cũng phải thánh vì nó phát xuất từ nguồn mạch thánh và quy hướng về cùng đích thánh. Vì vậy, kiến thức đó trước hết được rút ra từ víệc đọc và suy gẫm Sách Thánh, nhưng nó cũng được nuôi dưỡng hữu hiệu bằng việc nghiên cứu những tài Iiệu của các Giáo Phụ, các Thánh Tiến Sĩ và các tài liệu khác của Thánh Truyền. Ngoài ra, đề trả lời thỏa đáng những vấn đề do người thời nay nêu lên, các Linh Mục phải hiểu biết cho thâú đáo những tài liệu của Quyền Giáo Huân, nhất là các Công Đồng và của các Đức Giáo Hoàng, cũng như phải tham khảo những tác giả thần học thời đanh nhất và đã được thừa nhận.

Thực ra; trong thời đại chúng ta, văn hóa nhân loại và ngay đển những khoa học thánh cũng tiến thêm một bước mới nên khuyên các Linh Mục hãy hoàn bị kiền thức của mình về Thiên Chúa và về nhân loại một cách thích hợp và liên tục, và như thế, các ngài tự chuẩn bị để đối thoại với những người đương thời một  cách thích hợp hơn.

Để các Linh Mục nghiên cứu dễ dàng hơn cũng như để học hỏi những phương pháp rao giảng Phúc âm và làm việc tông đồ một cách hiệu quả hơn, phải hêt sức lo cho các ngài có những phương tiện thích hợp, như tổ chức những khóa học tập hay những khóa hội thảo tùy hoàn cảnh chung của từng địa hạt, thiết lập những trung tâm học hỏi mục vụ thành lập những thư viện và cắt đặt thích ứng những người có khả năng điều khiển công việc học tập. Ngoài ra mỗi Giám Mục riêng biệt hay nhiều Giám Mục hợp lại, phải cân nhắc đề tìm ra phương cách thích hợp nhât, hầu tât cả các Linh Mục của mình có thể lui tới khóa học, vào thời gian ấn định, nhất là một vài năm sau khi chịu chức; nhờ vậy, các Ngài có dịp vừa để thâu nhận thêm những kiến thức đầy đủ hơn về phương pháp mục vụ và khoa thần học, vừa để củng cố đời sồng thiêng liêng và đề cùng trao đổi với anh em những kinh nghiệm tông đố. Cũng nên dùng những phương tiện này và những phương tiện thích nghi khác đặc biệt  giúp đỡ những cha sỏ mới và những vị đã được chỉ định cho một công cuộc mục vụ mới, hoặc những vị được sai đến một giáo phận hay một quốc gia khác.

Sau hết, các Giám Mục nên lo liệu cho một số Linh Mục chuyên về các khoa học thánh để không bao giờ thiếu các giáo sư đầy đủ khả năng đào tạo hàng Linh Mục, để giúp các Linh Mục khác và các tín hữu lãnh nhận được nền giáo thuyềt cần thiết và để khuyến khích sự tiến triển lành mạnh trong các môn học thánh, vì sự tiến triển đó rất cần thiết cho Giáo Hội.

Nhờ hiến thân phụng sự Thiên Chúa trong việc chu toàn nhiệm vụ được trao phó, các Linh Muc được lãnh một số thù lao cân xứng vì “thợ đáng ăn lương của mình” ( Lc 10, 7) và “chúa đã định liệu những ai rao giảng Phúc âm được sồng bởi Phúc âm” ( 1 Cor 9, 14). Bởi thế; nơi nào không có sẵn thù lao cần xứng cho các Linh Mục, thì chính các tín hữu phải nhận lấy trách nhíệm lo cho các ngài được những điều cần thiết hầu bảo đảm cho các ngài một mức sống đầy đủ và xứng đáng, vì các ngài cống hiến hoạt động của mình để phục vụ họ. Còn các Giám Mục phải nhớ nhắc cho các tín hữu trách nhiệm này và phải lo liệu hoặc vị nào cho giáo phận này, hoặc tiện hơn là nhiều vị chung nhau cho một vùng lập ra những quy luật giúp bảo đảm đúng mức một sự trợ cấp xứng đáng cho những vị đang thi hành hay đã thi hành một vài chức vụ trong việc phục vụ Dân Chúa. Phần thù lao cấp phát cho mỗi vị phải được ấn định hoặc tùy theo bản chất của chức vụ hoặc tùy theo hoàn cảnh địa phương và thởi gian. Nhưng phần thù lao căn bản phải đồng đều cho tất cả các vị có cùng một hoàn cảnh, phải xứng hợp với hoàn cảnh của các ngài, và hơn nữa phải giúp các ngài chẳng những có thể cấp một phần thù lao cân xứng cho những kẻ hy sinh giúp việc các ngài, nhưng còn có thể tự mình giúp đỡ những kẻ thiếu thốn vì một lý do nào đó; thực vậy, việc phục vụ kẻ nghèo khó ngay từ thuở ban đầu đã được Giáo Hội luôn luôn nhiệt liệt tán thưỏng. Ngoài ra, cũng phải lo liệu làm sạo cho phần thù lao này có thể giúp các Linh Mục hằng năm có một thời gian nghỉ ngơi thích đáng và đầy đủ; các Giám Mục phải lo cho các Linh Mục có thể có thời gian nghỉ ngơi đó.

Tuy nhiên, phải dành tầm quan trọng bậc nhất cho chức vụ do các thừa tác viên thánh thi hành. Vì thề, hệ thồng mệnh danh là “ân bổng” phải được bãi bỏ, hoặc ít ra phải được cải tổ thế nào để phần ân bổng, nghĩa là quyền thụ hưởng những lợi tức bởi chức vụ, được coi như chuyện phụ thuộc, và theo luật, phải nhường địa vị chính yếu cho chính chức vụ của Giáo Hội, mà từ nay được hiểu là bất cứ nhiệm vụ nào được trao phó cách lâu bền đế được thi hành nhằm mục đích thiêng liêng.

Phải luôn luôn nhớ đến gương mẫu của các tín hữu thời Giáo Hội sơ khai ở Giêrusalem đã đặt “mọi sự làm của chung” (CvTđ 4, 32) và “phân phát cho mỗi người tùy nhu cầu” (Cv Tđ 4, 35 ).

Vì vậy ít ra trong những miền mà sự cấp dưỡng cho giáo sĩ tùy thuộc hoàn toàn hoặc phần lớn vào việc dâng cúng của các tín hữu, thì rất nên có một tổ chức giáo phận nào đó thu góp những của dâng cúng nhằm mục đích này; tổ chức này do Giám Mục điều khiển với sự trợ giúp của những Linh Mục được ủy nhiệm, cũng như của cả những giáo dân thông thạo trong lãnh vực kinh tế nếu thấy là hữu ích. Ngoài ra, cũng ước mong rằng nều có thể nên thành lập một công quỹ trong mỗi gìáo phận hay mỗi miền để nhờ đó các Giám Mục có thể thỏa mãn các bổn phận khác đối với những người phục vụ Gìáo Hội và trợ giúp những nhu cầu khác nhau trong giáo phận, và cũng nhờ đó các giáo phận giàu hơn có thể giúp đỡ các giáo phận nghèo hơn để sự dư dật của giáo phận này bù đằp cho sự thiếu thốn của giáo phận khác. Công quỹ này phải được thiết lập trước hết do những của cải các tín hữu dâng cúng, nhưng cũng còn do những nguỗn lợi khác như đã được qui chế ấn định.

Ngoài ra, trong các qụốc gia mà sự bảo hiểm xã hội cho hàng giáo sĩ chưa được tổ chức cách thích hợp, các Hội Đồng Giám Mục luôn căn cứ trên gíao luật và dân luật để lo liệu cho có những cơ quan đó trong các giáo phận -- và có thể liên hiệp chung với nhau -- hoặc những cơ quan liên giáo phận hoặc một hiệp hội thiết lập cho toàn lãnh thổ nhằm phối trí, dưới sự kiểm soát của hàng Giáo phẩm những dự liệu và sự chăm sóc sức khỏe đầy đủ và đảm nhận săn sóc các Linh Mục lúc bệnh tật, tàn phế và già yêu. Các Linh Mục phải giúp đỡ các tổ chức được thành lập như thế với một tinh thấn liên đới với anh em mình và thông cẳm những nỗi khố tâm của họ. Đồng thời, chính vì không phải bận tâm đến tương lai, các ngài có thề hoàn toàn tận hiến cho phần rỗi các linh hồn và thực hành đức khó nghèo trong tinh thần Phúc âm một cách hăng say hơn. Những vị có trách nhiệm phải cố gắng liên kết các tổ chức như thế thuộc các quốc gia khác nhau để chúng thêm vững chắc và được phổ biến rộng rãi hơn.

Còn tiếp

VỀ MỤC LỤC
LINH MỤC SỐNG MẦU NHIỆM HY TẾ

     

 Để nhận biết Thiên Chúa, chúng ta có hai con đường.

Con đường thứ nhất là con đường mạc khải, con đường từ trên đi xuống: Thiên Chúa đã dùng các tổ phụ, các tiên tri và chính Con Một Ngài là Đức Kitô để tỏ lộ cho chúng ta.

Con đường thứ hai là con đường suy luận, con đường từ dưới đi lên. Thực vậy, người là một con vật có trí khôn. Với trí khôn, khi chiêm ngắm những kỳ công trong vũ trụ, con người nhờ suy luận mà nhận biết Thiên Chúa. Vì thế, chúng ta nói được rằng : Người là một con vật có tôn giáo.

Một khi đã nhận biết Thiên Chúa, con người cũng cảm thấy có bổn phận phải thờ phượng  và cảm tạ Ngài. Đồng thời, để biểu lộ tâm tình thờ lạy và cảm tạ ấy, con người thường dâng lên Đấng Tối Cao những lễ vật của mình.

I-  HY TẾ TRONG CỰU ƯỚC

    1- CÁC HY TẾ

Giống như các tôn giáo khác, chúng ta nhận thấy Do Thái giáo trong Cựu Ước  cũng có nhiều thứ lễ vật.

Chẳng hạn như hy tế toàn thiêu, toàn bộ các lễ vật như chiên, bò, dê…phải được thiêu đốt cho cháy hết, để diễn tả một sự hiến dâng trọn vẹn và không thể đòi lại.

Chẳng hạn như hy tế hiệp thông với hình thức một bữa tiệc, trong đó một phần lễ vật được dâng lên Thiên Chúa, chủ tể của sự sống, được diễn tả qua việc máu đổ, mỡ cháy…Còn một phần được dùng để đãi khách hay những người tham dự.

Chẳng hạn như hy lễ xá tội, để cầu xin ơn tha thứ…

    2- CHIỀU KÍCH NỘI TÂM

Tuy nhiên, điều quan trọng là phải vượt lên trên những nghi thức bên ngoài, để tiến tới một chiều kích nội tâm, với những tình cảm chân thành xuất phát tự bên trong :

Hy tế trước hết có mục đích tuyên xưng uy quyền tuyệt đối của Thiên Chúa. Ngài là chủ tể mọi loài. Là Đấng trao ban sự sống cho người và vật.

Tiếp đến, hy tế cũng có mục đích là nguôi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, hầu xin Ngài thứ tha những lầm lỗi đã vấp phạm.

Và sau cùng, hy tế còn diễn tả niềm vui mừng và cảm tạ vì những ơn lành đã nhận được từ lòng bàn tay Thiên Chúa.

Tuy nhiên, hy tế còn mang một đặc tính thánh thiêng. Thực vậy, khi dâng tiến một lễ vật, con người hy sinh một phần tài sản hay hoa lợi của mình cho Thiên Chúa. Từ nay, lễ vật ấy thuộc về Thiên Chúa và mang lấy đặc tính thánh thiêng. 

Thế nhưng, đặc tính này không phải chỉ được áp dụng cho lễ vật, mà còn được áp dụng cho cả những người tham dự. Thực vậy, một phần lễ vật được dâng cho Thiên Chúa, còn một phần lễ vật được Thiên Chúa ban lại cho con người, qua hình thức một bữa tiệc hiệp thông, như để thực hiện một sự kết hiệp giữa Thiên Chúa và con người.  

II- HY TẾ CỦA ĐỨC KITÔ

     1- HY TẾ THẬP GIÁ, ĐỈNH CAO CUỘC ĐỜI CỦA ĐỨC KITÔ

Mục đích của Chúa Giêsu khi xuống thế làm người là gì nếu không phải là để chu toàn thánh ý Chúa Cha. Và thánh ý Chúa Cha là gì nếu không phải là cứu chuộc nhân loại. Thế nhưng, công trình cứu chuộc ấy đã được thực hiện bằng chính hy tế thập giá.

Đức Kitô, Con Thiên Chúa “từ trời xuống, không phải để làm theo ý Ngài, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai Ngài.” (Ga 6,38). “Khi vào trần gian, Ngài nói : Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài…Chính theo ý đó của Thiên Chúa, mà chúng ta được thánh hóa nhờ Đức Giêsu Kitô đã hiến dâng thân mình làm lễ tế,chỉ một lần là đủ.” (Dt 10,5-10).

Ngay từ phút đầu tiên khi nhập thể, Chúa Con đã sống chết với ý định cứu độ của Thiên    Chúa : “Lương thực nuôi sống Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất tốt đẹp công trình của Ngài.” (Ga 4,34). Lễ hy sinh của Đức Kitô “đền bù tội lỗi cả thế gian” (1Ga 2,2), là cách diễn tả sự hiệp thông tình yêu với Chúa Cha : Sở dĩ Chúa Cha yêu mến tôi, chính vì tôi hy sinh mạng sống mình.” (Ga 10 17). “Thế gian phải biết rằng tôi yêu mến Chúa Cha và làm đúng như Chúa Cha đã truyền cho tôi.” (Ga 14,31).(GLHTCG 606).

Ước muốn sống chết với ý định yêu thương cứu chuộc của Chúa Cha là động lực cho cả cuộc đời Đức Kitô, vì cuộc khổ nạn cứu thế là lý do khiến Ngài nhập thể : Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này ! Nhưng chính vì giờ này mà con đã đến.” (Ga 12,27). “Chén đắng Chúa Cha đã trao cho Thầy, lẽ nào Thầy chẳng uống ?” (Ga 18,11). Và trên thập giá, trước khi “mọi sự đã hoàn tất” (Ga 19,30), Ngài còn nói : “Tôi khát !”(Ga 19,28).(GLHTCG 607).

Đức Kitô chịu chết vừa là hy tế Vượt Qua, hoàn tất việc cứu độ chung cuộc loài người, vì “Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa   bỏ tội trần gian” (Ga 1,29), vừa là hy tế Giao Ước mới cho con người hiệp thông lại với Thiên Chúa nhờ “máu được đổ ra cho muôn người được tha tội.” (Mt 26,28).(GLHTCG 613).

“Cũng như vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người bị liệt vào hàng tội nhân, thì nhờ một người duy nhất đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ được kể là công chính” (Rm,19). Nhờ vâng phục cho đến chết, Đức Kitô đảm nhận hoàn toàn vai trò Người Tôi Tớ đau khổ, hiến mạng sống mình làm của lễ đền tội muôn dân, khi làm cho họ nên công chính bằng cách chính Ngài gánh lấy tội lỗi của họ (Is 53,10-12). Đức Kitô đã đền bù và đền tạ thỏa đáng cho Chúa Cha vì tội lỗi của chúng ta.” (GLHTCG 615).

Tóm lại, với hy tế thập giá, Đức Kitô đã đem ơn tha tội đến cho nhiều người, đã ký kết một giao ước mới có tính cách vĩnh viễn, để khai sinh một dân tộc mới, đồng thời bảo đảm ơn cứu chuộc cho con người.

Chính vì những hậu quả tuyệt vời này,  hy tế thập giá của Ngài trổi vượt và thay thế tất cả những hy tế của Cựu Ước, như sách Giáo lý Hội thánh Công giáo đã xác quyết :

“Hy tế của Đức Kitô là duy nhất, hoàn tất và vượt trên mọi hy tế. Trước hết, hy tế này là một hồng ân của chính Chúa Cha : Chúa Cha phó nộp Con mình để giao hòa chúng ta với Ngài. Kế đến, đây cũng là việc Chúa Con làm người, với ý chí tự do và vì mến yêu (Ga 15,13), hiến dâng mạng sống mình (Ga 10,17-18) cho Chúa Cha trong Chúa Thánh Thần, để đền bù sự bất tuân của chúng ta. (GLHTCG 614).

    2-  THÁNH THỂ VÀ HY TẾ THẬP GIÁ

Như chúng ta đã trình bày : giữa bí tích Thánh Thể và hy tế Thập giá có một sự liên hệ mật thiết với nhau. Vậy mối liên hệ mật thiết ấy là như thế nào ?

Trước hết, Bí tích Thánh Thể chính là “lễ tưởng niệm” (1Cr 11,25) hy tế của Ngài.

Thực vậy, vào đêm bị nộp, Đức Kitô đã diễn tả việc tự hiến bản thân Ngài trong bữa tiệc ly với các tông đồ. Ngài đã biến bữa tiệc ấy thành lễ tưởng niệm việc Ngài tự nguyện hiến dâng cho Chúa Cha để cứu độ nhân loại : “Đây là Mình Thầy hiến tế vì anh em” (Lc 22,19). “Đây là Máu Thầy để lập giao ước sẽ đổ ra cho muôn người được tha tội” (Mt 26,28). (GLHTCG 610).

Khi cử hành bí tích Thánh Thể, Giáo hội tưởng nhớ cuộc Vượt Qua của Đức Kitô. Cuộc Vượt Qua này đã trở nên hiện diện giữa cộng đoàn, vì lễ tế của Đức Kitô trên thập giá chỉ dâng một lần là đủ và luôn sống động để đem lại ơn cứu độ.

Vì thế, bí tích Thánh Thể cũng là một hy tế, bởi vì qua đó, Đức Kitô trao ban chính thân mình đã tự hiến trên thập giá vì chúng ta, cũng như trao ban chính máu Ngài đổ rao cho nhiều người. Đức Thánh Cha viết như sau :

“Nhờ liên hệ mật thiết với hy tế Golgotha, Bí Tích Thánh Thể là một hy tế theo nghĩa đen, chứ không chỉ theo nghĩa chung chung, như thể đây chỉ là một hiến dâng thông thường mà Chúa Kitô đã trao ban làm lương thực thiêng liêng cho các tín hữu. Quả thật, sự dâng hiến trong tình yêu và trong vâng phục của Ngài cho đến chết (x. Ga 10,17-18) trước tiên là sự dâng hiến cho Cha Ngài. Đó chính là một hồng ân  cho chúng ta và cho cả nhân loại (x. Mt 26,28; Mc 24,14; Lc 22,20; Ga10,15), nhưng trước hết chính là sự dâng hiến cho Chúa Cha: “hy tế mà Chúa Cha đã ưng nhận, khi Người đáp lại sự dâng hiến  vẹn toàn của Con Ngài, Đấng đã “ vâng phục cho đến chết” (Pl 2,8), bằng sự ban tặng đầy tình phụ tử, nghĩa là ban cho Con sự sống mới và vĩnh cửu trong sự phục sinh.” (GHTTT 13).

Đồng thời, Ngài còn kết hiệp các tông đồ vào lễ hiến dâng ấy và yêu cầu họ lưu truyền hy lễ này mãi mãi. Như thế, Đức Kitô đã đặt các tông đồ làm tư tế của Giao Ước Mới. (GLHTCG 611).

Tưởng niệm mà thôi chưa đủ, chúng ta còn có thể xác quyết mạnh mẽ hơn : Hy tế Thập giá và Hy tế Thánh Thể chỉ là một.

Thực vậy, lễ vật duy nhất là Đức Kitô, xưa chính Ngài dâng trên thập giá, còn nay được dâng lên nhờ thứa tác vụ Linh mục. Chỉ khác biệt ở cách dâng : “Vì trong hy lễ thần linh được cử hành trong thánh lễ, chính Đức Kitô, Đấng đã một lần dâng mình bằng  cách đổ máu trên bàn thờ thập giá, cũng hiện diện và được sát  tế mà không đổ máu, nên hy tế này thực sự có giá trị đền tội.” (GLHTCG 1367).

Từ đó, chúng ta đi tới những kết luận như sau :

Nhờ Thánh Thể, hy tế Thập giá được hiện tại hóa :

“Thánh Lễ hiện tại hóa hy tế thập giá, không thêm bớt gì mà cũng không nhân lên được.. Những gì được lặp lại, chính là việc cử hành bằng tưởng niệm, việc “trình bày bằng tưởng niệm” (memorialis demonstratio)  của hy tế, nhờ đó hy tế cứu độ duy nhất và dứt khoát của Chúa Kitô được hiện diện trong thời gian. Bản chất hy tế của Mầu Nhiệm Thánh Thể không được hiểu như một cái gì đó hiện hữu trong chính mình, không liên hệ gì với Thập Giá, hay chỉ quy chiếu một cách gián tiếp về hy tế trên đỉnh đồi Canvariô mà thôi.” (GHTTT 12).

“Khi Giáo Hội cử hành Bí Tích Thánh Thể,  tưởng niệm sự chết và phục sinh của Chúa mình, biến cố trung tâm nầy của ơn cứu độ thực sự trở nên hiện tại và như vậy, công trình cứu độ chúng ta được thực hiện. Hy tế nầy có tính quyết định đối với việc cứu độ loài người đến nỗi Chúa Giêsu Kitô chỉ hoàn thành và trở về với Chúa Cha sau khi đã để lại cho chúng ta phương thế tham dự vào, như thể chúng ta đã có mặt lúc bấy giờ.” (GHTTT 11).

“Giáo Hội liên tục sống nhờ hy tế cứu độ, và đạt đến hy tế đó không phải bằng một kỷ niệm đơn thuần đầy niềm tin mà thôi, nhưng còn bằng một tiếp xúc hiện tại, vì hy tế nầy trở nên hiện diện, hiện diện luôn mãi cách bí tích, trong mọi cộng đoàn hiến dâng nó, qua tay của thừa tác viên được thánh hiến.”(GHTTT 12).

Nhờ Thánh Thể, hy tế Thập giá được tiếp tục và kéo dài trong dòng thời gian :

“Bí Tích Thánh Thể không chỉ là việc khơi gợi biến cố đó, nhưng còn là tái hiện mang tính bí tích của biến cố ấy. Đó là hy tế Thập Giá được tiếp tục trong thời gian. Người ta thấy trong nghi lễ latinh một cách diễn tả rất thích hợp về chân lý nầy trong những lời tung hô mà dân chúng đáp lại lời công bố “mầu nhiệm đức tin” của linh mục :  “Lạy Chúa, chúng con loan truyền Chúa đã chịu chết”. (GHTTT 11).

Công đồng Vaticanô II trong hiến chế về Phụng vụ cũng xác quyết như sau :

“Trong bữa tiệc sau hết vào  đêm bị nộp, Đấng Cứu Chuộc chúng ta đã thiết lập Hy Tế Tạ Ơn bằng Minh Máu Ngài, để nhờ đó Hy Tế Thập giá được kéo dài qua các thời đại cho tới khi Ngài lại đến và cũng để ủy thác cho Hiền Thê yêu quí của Ngài là Giáo hội việc tưởng nhớ cái Chết và sự Sống Lại của Ngài…” (PV 47).     

II- LINH MỤC SỐNG MÀU NHIỆM HY TẾ

Với lời truyền dạy : “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”, Đức Kitô đã ủy thác cho Giáo hội sứ mạng kéo dài và hiện tại hóa hy tế Thập giá bằng bí tích Thánh Thể. Vì thế, Thánh lễ cũng chính là hy tế của Hội Thánh :

“Là thân thể của Đức Kitô, Hội Thánh tham dự vào hy tế của Đức Kitô là Đầu. Cùng với Ngài, Hội Thánh cũng được dâng hiến trọn vẹn cho Chúa Cha.” (GLHTCG 1368).

Vì thế, mọi phần tử trong Giáo hội và nhất là các Linh mục đều có bổn phận không những phải cử hành và tham dự Thánh lễ, mà hơn thế nữa còn có bổn phận phải sống mầu nhiệm hy tế, biến đời mình trở thành một của lễ dâng lên Thiên Chúa.

“Khi ban cho Giáo Hội hy tế của Ngài, Chúa Kitô đồng thời cũng muốn biến hy tế thiêng liêng của Giáo Hội thành hy tế của mình, Giáo Hội đã được mời gọi tự  hiến chính mình cùng với hy tế của Chúa Kitô. Đó là lời của Công Đồng Vaticanô II dạy, liên hệ đến các tín hữu: “khi tham dự vào Hy Tế Thánh Thể, nguồn suối và đỉnh cao của tất cả đời sống Kitô hữu, họ hiến dâng lên Thiên Chúa tế phẩm và tự hiến chính mình với tế phẩm đó.” (GHTTT 13).

Để sống mầu nhiệm hy tế, thiết tưởng chúng ta có một số việc cần làm nay :

      1- KẾT HIỆP NHỮNG HY SINH ĐỜI MÌNH VÀO HY TẾ CỦA ĐỨC KITÔ.

Chúng ta có thể nói được rằng trót cả cuộc đời Đức Kitô là một hy tế do hành động vâng phục thánh ý Chúa Cha, mà cao điểm chính là Thập giá :

 “Đức Kitô đã vâng phục cho đến chết và chết trên thập giá.” (Pl 2,6-11).

Trong thư chung năm 2004, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam cũng đã viết :

 “Nơi Chúa Giêsu, mọi sự đều là của lễ, từ lời giảng dạy đến các phép lạ, từ những cử chỉ và lời nói thông thường cho đến sự hy sinh lớn lao nhất là hy sinh mạng sống. Mọi sự đều biểu lộ tình yêu dâng hiến trọn vẹn cho Chúa Cha. Sự dâng hiến của Chúa Giêsu được hoàn tất bằng cái chết và trong cái chết tự nguyện trên Thập giá.” (GHSMNTT 3).

Như chúng ta vốn thường nói : bông hồng nào mà chẳng có gai, cuộc đời nào mà chẳng có những đắng cay của nó. Tất cả những khổ đau, những vất vả chúng ta gặp phải trong cuộc sống đã kết thành cây Thập giá đời thường mà Chúa muốn chúng ta vác lấy để bước theo Ngài :

“Qua các Thánh lễ, dân lữ hành của Thiên Chúa công bố mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô “cho tới khi Ngài lại đến” (1Cr 11,26) và “theo con đường hẹp của Thập giá”, để tiến vào bàn tiệc thiên quốc; bấy giờ những người được tuyển chọn sẽ đồng bàn trong Nước Chúa.” (GLHTCG 1344).

Như hạt lúa phải được xay xát để làm nên tấm bánh và như trái nho phải được nghiền nát để làm nên chén rượu, cuộc đời chúng ta cũng phải được xây xát và nghiền nát bởi muôn vàn khổ đau để làm thành một lễ vật dâng tiến Chúa.

Như Đức Kitô, chúng ta cũng phải biến đời mình trở thành một  hy tế đẹp lòng Chúa.

      2- THỰC HIỆN NHỮNG HÀNH ĐỘNG BÁC ÁI YÊU THƯƠNG

Trong thư chung, các Đức Giám Mục đã viết :

“Màu nhiệm Thánh Thể làm nên một Giáo hội biết yêu thương, vì đã học yêu thương, đã không ngừng cử hành mầu nhiệm tình yêu sâu thẳm nhất. Giáo hội được Thiên Chúa yêu thương và sống nhờ tình yêu của Thiên Chúa. Khía cạnh mà Giáo hội kinh nghiệm nhiều hơn cả là tình yêu tự hiến của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô, vì Giáo hội không ngừng đón nhận và sống bằng sự tự hiến ấy. Giáo hội sống bằng Thân Mình bị nộp của Chúa Giêsu, bằng Máu của Chúa đổ ra cho mọi người được tha tội, bằng Thần Khí hằng hữu thúc đẩy Đức Kitô tự hiến mình làm lễ hy sinh vô tì tích dâng lên Thiên Chúa (x Dt 9,14).

Giống như tấm bánh bị bẻ ra để xây dựng một thế giới mới, Giáo hội tự hiến trở nên lương thực bồi bổ cho cộng  đồng nhân loại mỗi ngày càng thêm lớn mạnh. Dù bên ngoài, nhiều người còn dửng dưng với Giáo hội, Giáo hội vẫn không ngừng tự hiến như Chúa Giêsu đã hiến mình cho Giáo hội.

Nếp sống tự hiến ấy của Giáo hội thể hiện rõ nét nơi những người biết dâng hiến đời sống, biết quên mình phục vụ Thiên Chúa và tha nhân.” (GHSMNTT 8).

Như tấm bánh bị bẻ ra để trở nên lương thực nuôi sống con người, Linh mục cũng phải sẵn sàng dùng cuộc đời của mình, qua những hành động bác ái yêu thương, để phục vụ Chúa nơi những người anh em mà mình có dịp tiếp xúc với.   

KẾT LUẬN

Mặc dù trong một ngày, chúng ta có những giờ giấc và những công việc nhất định, giờ nào việc nấy. Thế nhưng, chúng ta không sống đạo theo kiểu chia ngăn, cũng không coi đức tin là như một chiếc áo chúng ta khoác vào để đến nhà thờ…Trái lại, chúng ta phải sống đạo trong nhà thờ cũng như giữa lòng cuộc đời.

Như thế có nghĩa là đức tin và lòng mến của chúng ta phải thấm nhiễm vào từng tư tưởng, từng lời nói, từng việc làm của chúng ta.

Hay nói một cách khác, chúng ta phải biến cuộc đời chúng ta trở thành một thánh lễ nối dài, như một bài hát đã diễn tả :

“Ta về thôi khi thánh lễ đã hết, nhưng đời ta là Thánh lễ nối dài, đem tình thương Thiên Chúa đến  mọi nơi, ta sống sao để thành chứng nhân…”

Chấp nhận những hy sinh gian khổ và thực thi những hành động bác ái yêu thương chính là cách thức giúp chúng ta sống mầu nhiệm hy tế, và biến cuộc đời chúng ta thành một của lễ sống động dâng lên Chúa.

GSVN

VỀ MỤC LỤC
Giáo Dục Đức Tin

 

Một sự kiện rõ rệt nhận thấy nơi giới tín hữu trưởng thành, là sự chênh lệch giữa các cá nhân về trình độ tôn giáo. Có những mức độ khác nhau về lòng mộ đạo, về hiểu biết giáo lý, về thói quen lui tới nhà thờ và lãnh nhận bí tích. Sự chênh lệch được hình thành do nhiều hoàn cảnh khác biệt, như nền giáo dục quá khứ, tập quán, số tuổi, và ảnh hưởng xã hội. Với những chênh lệch, đời sống đức tin của họ có những diễn biến khác nhau và có thể đi theo những chiều hướng khác nhau.

Thêm vào đó, là ảnh hưởng của cuộc sống hôm nay. Trong môi trường văn hoá và chính trị tích cực vô thần, người lớn phải có những lựa chọn về tín ngưỡng. Họ sẽ can đảm, hoặc sẽ sợ sệt trong việc xưng đạo, hành đạo, bênh đạo và truyền đạo. Chính sách kinh tế với kế hoạch phân bố lao động, và với cách làm ăn tập thể, mặc dầu không nhắm vào tôn giáo, nhưng cũng ảnh hưởng nhiều đến việc hành đạo. Khó tránh được những hạn chế về thời giờ, về phương tiện đi lễ đọc kinh. Cuộc sống mới dần dần cũng tạo nên lương tâm mới. Người ta dễ dàng phạm tội.

Tuy nhiên, chính vì gặp khó khăn thử thách, nhiều người lớn đã trở nên tốt hơn khi họ nhận ra chỉ có Chúa là Đấng cứu độ, đem lại hy vọng và lẽ sống. Nhiều người có suy nghĩ, khi nhìn thấy Giáo Hội Việt Nam hiện nay đang sống thực sự đời sống của mình với tinh thần khó nghèo, với lòng tin bất khuất, với niềm cậy trông trơ trụi, và với nỗ lực vươn lên không ngừng, thì càng lạc quan vững tin vào Chúa hơn nữa.

Chưa bao giờ đạo Công Giáo Việt Nam, được đại chúng chú ý như ngày nay. Được chú ý hay bị chú ý cũng vẫn tốt hơn là bị quên lãng trong dửng dưng, lạnh nhạt.

Tình hình tổng quát trên đây cho thấy việc giáo dục đức tin cho giới trưởng thành là việc rất khó, nhưng phải cố gắng thực hiện.

Giáo dục cách nào? Đó là vấn đề đặt ra để suy nghĩ. Hoàn cảnh rất phức tạp. Đưa ra một kế hoạch qui mô phức tạp là điều không thực tế. Dưới đây là mấy gợi ý cho hoàn cảnh Việt Nam hôm nay. Áp dụng được nhiều ít là tùy nơi, tùy người.

1. Tại Việt Nam hôm nay, giáo dục đức tin người lớn, là đưa họ vào một cộng đoàn, để đức tin của họ được nuôi dưỡng nâng đỡ trong cộng đoàn, nhờ cộng đoàn

Mặc dầu sống đức tin là nổ lực của bản thân mỗi người, để gặp gỡ Chúa, chọn lựa Chúa và sống với Chúa. Nhưng nổ lực cá nhân nếu muốn hữu hiệu, cần được hỗ trợ bởi nhiều người. Bình thường là thế. Cộng đoàn môi trường là gầy dựng, là sức mạnh bảo vệ. Cộng đoàn nói đây, cụ thể là một họ đạo, một xóm đạo, một nhóm bạn hữu. Chúa Kitô đã qui tụ những kẻ tin Ngài, để họ nương tựa vào nhau mà sống. Ecclesia là qui tụ, là hội lại. Tông huấn Evangeli Nuntiandi (1975), đề cao vai trò của những cộng đoàn trong việc loan báo Tin Mừng (số 58). Xã hội Việt Nam càng ngày càng đi sâu vào chế độ tập thể. Đời sống đức tin cũng nên đi sâu vào sức sống cộng đoàn, trong tinh thần hiệp nhất và hiệp thông. Hoàn cảnh càng khó, người Công Giáo càng cần gắn bó với cộng đoàn, nhất là gia đình.

Giáo dục đức tin người lớn là tìm đưa họ vào một điểm tụ. Dù ở nông trường, dù ở cơ quan, dù ở trại lính, dù ở vùng kinh tế mới, đi đâu, họ cũng tìm những người cùng tín ngưỡng, để quen, để biết nhau, để chia sẻ với nhau về cuộc sống, về tư tưởng và những sinh hoạt đạo đức.

2. Tại Việt Nam hôm nay, giáo dục đức tin người lớn là vun trồng nơi họ một lòng sùng mộ bình dân nào đó

Như mộ mến lần chuỗi Mân Côi, tôn sùng Đức Mẹ, làm việc Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, mặc áo Đức Mẹ, tôn kính thánh cả Giuse, thương giúp các linh hồn... Tông huấn Evangeli Nuntiandi khuyến khích điều đó như một phương cách giáo dục đức tin (số 48). Cách này rất có hiệu nghiệm tại nhiều địa phận Việt Nam. Trong những hoàn cảnh khó khăn, nhiều người giữ được đức tin chỉ nhờ có thế.

3. Tại Việt Nam hôm nay, giáo dục đức tin người lớn là phải dùng lễ Chúa Nhật như một phương tiện thuận lợi nhất

Hiện nay, mọi sinh hoạt tôn giáo, thường thu gọn trong nhà thờ. Tại đây, linh mục gặp được giáo dân. Nhưng phần đông người lớn chỉ đến nhà thờ lễ Chúa Nhật. Vì thế, tất cả chương trình giáo dục tôn giáo cần được tập trung trong lễ đó: Vừa cầu nguyện, học hỏi giáo lý, vừa có phụng vụ Lời Chúa, vừa có bí tích, vừa có chia sẻ bác ái. Để được kết quả, thiết tưởng ngày Chúa Nhật:

- Về kinh đọc trước lễ, nên chọn những kinh có nhiều nội dung tín lý, luân lý và dạy cách sống đạo.

- Về giáo lý, nên chọn vắn gọn, rõ ràng trong sáng, hợp thời, để mọi người có thể đọc chung đối đáp thuộc lòng.

- Về giảng huấn, nên vắn gọn trong sáng, để tất cả mọi hạng người: Ngoan đạo, khô đạo, vô đạo và nghịch đạo, đều có thể tiếp thu, và tiếp thu đúng.

- Về phụng vụ, nên tổ chức lễ thật gọn, đẹp và nghiêm trang sốt sắng.

- Về bác ái, nên đem ý hướng xây dựng tinh thần yêu thương đoàn kết vào những gặp gỡ, trò truyện, và các sinh hoạt huynh đệ trước, sau buổi lễ.

4. Tại Việt Nam hôm nay, giáo dục đức tin người lớn phải chú trọng đến việc giáo dục gia đình

Chương trình có thể nhấn mạnh mấy điểm sau đây:

- Cần chuẩn bị kỹ hơn cho các đôi hôn phối để họ sống tốt và hạnh phúc trong đời sống gia đình.

- Hằng ngày, cần quan tâm đúng mức các buổi kinh tối, kinh sáng. Nên đọc chung với nhau.

- Nên tổ chức những ngày lễ của gia đình: Lễ bổn mạng, ngày sinh nhật, ngày giỗ. Nên chuẩn bị bằng việc xưng tội rước lễ.

5. Sau hết, tại Việt Nam hôm nay, giáo dục đức tin người lớn là phải quan tâm đến việc phát huy đức ái chân thành, quảng đại đối với dân tộc Quê Hương

Trong hoàn cảnh của chúng ta, lòng yêu Tổ Quốc chân thành và tích cực xây dựng Quê Hương là ngôn ngữ dễ hiểu nhất và mạnh mẽ nhất của Phúc Âm. Tích cực trong việc làm và xây dựng những liên hệ tốt, đó là một trách nhiệm mục vụ quan trọng, có ảnh hưởng lớn đến đời sống đức tin của mình và của cộng đoàn.

Trên đây là những gợi ý rút từ kinh nghiệm. Kinh nghiệm nhỏ bé, thì gợi ý cũng hạn hẹp. Hoàn cảnh càng giới hạn, thì việc giáo dục đức tin càng phải là một cố gắng. Còn những thiện chí trung kiên. Nhưng giải đáp sau cùng vẫn trong tay Chúa.

+ Gm. GB. Bùi Tuần

VỀ MỤC LỤC

CANH TÂN VIỆC GIẢNG LỜI CHÚA TRONG THÁNH LỄ

 

Khi cử hành thánh lễ, đặc biệt là thánh lễ Chúa Nhật, linh mục có nhiệm vụ sữa soạn cho giáo dân hai bàn tiệc: bàn tiệc thánh thể và bàn tiệc lời Chúa. Cả hai bàn tiệc đều quan trọng, và có quan hệ mật thiết. Bàn tiệc Lời Chúa vừa nuôi sống, vừa chuẩn bị cho người kitô hữu hiệp thông mật thiết với Đức Kitô trong bí tích.

Chúng ta dừng lại bàn tiệc Lời Chúa, và cách đặc biệt ở bài giảng lễ, vì đây là một nhiệm vụ vừa quan trọng, vừa vô cùng khó khăn. Giảng lễ còn là một nghệ thuật cần phải không ngừng trau dồi, vừa có hiệu năng nhờ ân sủng siêu nhiên. Hai yếu tố tự nhiên và siêu nhiên trong việc giảng lễ có tương quan hữu cơ với nhau. Yếu tố này tuỳ thuộc và phát huy sức mạnh nhờ yếu tố kia.

1.    Yếu tố siêu nhiên :

Trước hết linh mục cần xác tín rằng giảng không phải là diễn thuyết: dùng tài hùng biện để thuyết phục quần chúng, làm cho quần chúng say mê, ngưỡng mộ và cuối cùng đi theo mình, theo quan điểm lập trường của mình. Trong giảng thuyết, có hùng biện, nhưng hùng biện không phải là điểm chính.

Điều quan trọng là làm thế nào để lời lẽ của linh mục trở thành dụng cụ cho sự thuyết phục của Chúa Thánh Thần. Lời lẽ của linh mục trở thành lương thực nuôi dưỡng đức tin của giáo dân. Linh mục vừa cung cấp một nội dung đức tin, vừa chia sẻ sự sống đức tin.

Nội dung đức tin được cung cấp dựa vào Lời Chúa, vì Lời Chúa mới là Lời sự sống, là ánh sáng chỉ đường, là Lời mặc khải chờ đợi sự đáp trả. Linh mục chỉ quảng diễn Lời, vắn tắt, dễ hiểu, làm nổi bật bật Lời, chứ không che lấp Lời. Không buộc linh mục quảng diễn mọi nội dung của các bài đọc, vì bài giảng không là một lớp học kinh thánh. Nhưng ít nhất phải có một vài nội dung chính yếu nào đó, một vài ý làm thành một nội dung thống nhất, chứ không phải một mớ những ý tưởng rời rạc .

Đức tin không chỉ là nội dung tư tưởng, mà còn là sự sống, là ân sủng do Thiên Chúa ban qua trung gian của linh mục. Lòng tin được khơi dậy bởi Chúa Thánh Thần nhờ tác động của lời nói của linh mục. Linh mục truyền đạt một đức tin sống động, chứ không phải một mớ ý tưởng. Chính vì thế lòng tin của linh mục hết sức quan trọng. Linh mục phải tin, xác tín vào những điều mình nói. Linh mục phải sống ít nhất là một phần nào điều mình nói, phải có kinh nghiệm về những điều mình nói, không nói những lời trống rỗng, mà những lời chân lý, những lời có chất lượng.

Giảng là truyền đạt đời sống đức tin, nên nội dung được truyền đạt phải được tiêu hoá, trở thành lương thực. Để được như vậy linh mục phải cầu nguyện trước khi dọn bài giảng, trước khi giảng, cầu nguyện xin ơn đức tin cho mình và cho những người nghe. Linh mục phải suy niệm trong lòng, và quyết tâm thi  hành.

Giảng là loan báo Tin Mừng Cứu Độ. Mà trọng tâm của Tin Mừng là Chúa Giêsu Kitô. Nên bài giảng, nhất là giảng lễ Chúa Nhật, phải đề cập đến Đức Giêsu. Giảng còn là giúp cho giáo dân đưa Tin Mừng vào cuộc sống thực tế, nên phải nói về Chúa Giêsu như thế nào để cho giáo dân thấy rõ tương quan giữa Ngài và đời sống đạo của họ hôm nay. Điều này đòi hỏi linh mục động não, suy tư, vận dụng sáng tạo nội dung của Mặc Khải.

Theo sự hướng dẫn của Bộ giáo sĩ, thừa tác vụ Lời Chúa  phải có nội dung trong sáng về thần học, tu đức, phụng vụ và luân lý, và con người phục vụ Lời phải luôn nghĩ đến những nhu cầu, các đau khổ, các vấn đề của những người mình phục vụ. Nhưng nguồn chính của bài giảng lễ vẫn phải luôn là Kinh Thánh.

2.    Yếu tố tư nhiên :

Vì giảng lễ là loan báo, là truyền đạt, nên giảng cũng là một nghệ thuật. Linh mục , dù đã giảng lễ nhiều năm, vẫn nên tiếp tục trau dồi nghệ thuật giảng thuyết, để việc giảng thuyết không trở thành một gánh nặng cho mình và cho người nghe. Bài giảng cần có một số đặc tính của nghệ thuật truyền đạt cho đại chúng:

Trước hết, bài giảng phải thật rõ ràng, dễ hiểu. Ai cũng hiểu được, dù  là một nhà bác học hay một người không biết chữ. Bố cục rõ,  từ ngữ dùng  dễ hiểu, giọng nói  rõ, không quá mau. Không cần phải lớn tiếng quát tháo để tạo ấn tượng, cũng không cần thì thào như người đang tâm sự. Chỉ cần nói cách tự nhiên, bình thường.

Đặc tính thứ hai là vắn gọn, không dài dòng, không lặp đi lặp lại. Sự vắn gọn làm cho người nghe không chán ngán. Theo thánh Tôma tiến sĩ, người ta chỉ có thể cầm trí liên tục khoảng 10 phút. Khi giảng lễ quá 10 phút, người nghe khó nắm bắt được hết nội dung điều ta muốn nói. Cho dù có nắm bắt được, tâm hồn của thính giả , không còn sự nhạy cảm . Dỉ nhiên ở đây cần phân biệt giảng lễ với giảng cấm phòng.

Thời đại bây giờ, khán thính giả không đòi buộc phải giảng buông, không cầm giấy. Vấn đề chính là nắm vững điều mình nói, tạo được nhịp cầu với những người nghe đang hiện diện . Truyền cảm là một yếu tố quan trọng trong nghệ thuật giảng thuyết. Thiếu truyền cảm, sẽ không có tác dụng trên người nghe. Có lẽ đây là yếu tố khó nhất trong nghệ thuật thuyết giảng. Một linh mục thuyết giảng hằng ngày, khó có thể ngày nào cũng truyền cảm.

Những cử chỉ linh mục làm trong khi giảng, có thể góp phần làm cho bài giảng thêm sống động, nhưng không nên khoa tay múa chân nhiều quá, làm cho khán thính giả rối mắt và mệt mõi. Cũng không nên lặp đi lặp lại quá nhiều lần cùng một cử chỉ, dễ làm khán thính giả nhàm chán. Phải biết phối họp cử chỉ,nét mặt , giọng nói với nội dung .

3.    Chuẩn bị :

Công đồng Vatican II dạy rằng linh mục, nhất là linh mục triều thánh hoá bản thân bằng thừa tác vụ, là chính công việc mục vụ của mình. Trong các công việc của linh mục, làm lễ và giảng là những công việc chính yếu. Làm lễ, tuy là công việc hết sức quan trọng, trọng tâm mọi sinh hoạt của Giáo Hội, trong thực tế không đòi hỏi sự lao nhọc của linh mục. Chỉ có việc giảng lễ đòi hỏi nhiều nơi linh mục. Và chính sự lao nhọc của linh mục trong việc chuẩn bị bài giảng, góp phần rất lớn vào việc thánh hoá linh mục.

Theo thư luân lưu của Bộ giáo sĩ gởi các linh mục, hiệu quả của thừa tác vụ Lời Chúa, tuy chủ yếu tuỳ thuộc vào ơn Chúa, vẫn đòi hỏi trình độ cao nhất có thể có được nơi người giảng. Công việc giảng dạy đòi hỏi linh mục chuẩn bị từ xa. Linh mục hãy cố gắng tìm thì giờ đọc sách, nhất là những sách về Kinh Thánh, Mục Vụ… Hãy soạn bài giảng lễ Chúa Nhật hẳn hoi. Ngoại trừ những hoàn cảnh đặc biệt bất khả kháng, sự khiêm tốn và cẩn mẫn của linh mục đòi hỏi phải có ít nhất  một dàn bài cẩn thận  những gì mình định nói với giáo dân.

Chính sự chuẩn bị xa góp phần rất lớn nuôi dưỡng đời sống tinh thần và đạo đức của linh mục. Khi linh mục được bồi dưỡng hẳn hoi thì chính giáo dân cũng được hưởng nhờ. Sự chuẩn bị gần như viết ra bài giảng, đọc lại bài giảng, học thuộc lòng bài giảng, cầu nguyện trước khi giảng, sẽ làm cho linh mục trở thành người thuyết giảng xác tín, có chất lượng, đầy Thần Khí, có sức truyền cảm và thuyết phục.

Khi giảng, nếu linh mục quyết tâm giảng cho chính mình, để cho mình được hoán cải và trở nên tốt hơn, thì lời nói của linh mục sẽ có sức tác động mạnh mẽ, vì nó phát xuất từ nơi thâm sâu nhất của con người linh mục. Linh mục đã lắng nghe được tiếng nói của Thánh Thần nơi mình, và Thánh Thần chắc chắn sẽ nói qua lời lẽ của linh mục. Muốn là mục tử tốt, hãy là con chiên ngoan.

4.    Những điều tối kỵ trong bài giảng lễ :

Không được dùng Lời Chúa trong các bài đọc kinh thánh để la mắng giáo dân, phê bình chỉ trích những người vắng mặt. Lời Chúa là Lời Sự Sống và là sứ điệp tình yêu. Không được tự ý mình Lời Chúa thành lời phán xét. Và nhất là bóp méo Lời Chúa theo ý mình để lên án người này người nọ. Dùng Lời Chúa la mắng giáo dân, sẽ làm cho người ta sợ Lời Chúa, và sẽ không dám đón nhận Lời Chúa. Đừng xét đoán để khỏi bị xét đoán là Lời  linh mục phải luôn tâm niệm khi đứng trên Toà Giảng.

Không được dùng kinh nghiệm trong Toà giải tội, đem ra làm ví dụ trong bài giảng, vì chắc chắn sẽ làm cho nhiều người đau khổ, và coi chừng lỗi ấn toà giải tội. Nếu dùng những kinh nghiệm gần nhất của Toà giải tội trong bài giảng lễ, dù là để răn đe giáo dân  hay để dạy giáo dân cho cụ thể sống động, vẫn lỗi  ấn toà giải tội một cách gián tiếp ( đ.983, đ.1388 ):

Cha giải tội nào vi phạm trực tiếp ấn bí tích, phải bị mắc vạ tuyệt thông tiền kết dành cho Toà Thánh. Còn ai chỉ vi phạm gián tiếp, sẽ bị phạt tuỳ theo mức nặng nhẹ của tội phạm.

Cũng không được dùng toà giảng để đấu với các linh mục khác, hay đấu với giáo dân, vì điều đó chắc chắn  phát sinh những gương xấu trầm trọng. Nếu là trường hợp nặng có thể dẫn tới tội phạm thánh công khai, vì xúc phạm nặng đến thánh lễ là mầu nhiệm cực thánh ( sacrosanctum mysterium ).

Kinh nghiệm cho thấy rằng, khi không chuẩn bị bài giảng hẳn hỏi, linh mục dễ bị cám dỗ rầy la mắng giáo dân lắp vào chỗ trống và nói nhiều chuyện linh tinh vặt vãnh, làm cho thánh lễ không còn bầu không khí linh thiêng thánh thiện. Chúng ta không nên quên rằng cấu trúc thánh lễ gồm hai phần là phụng vụ Lời Chúa và phụng Thánh Thể. Cả hai phần đều quan trọng và gắn liền mật thiết với nhau. Và bài giảng lễ thuộc về phụng vụ Lời Chúa.

Nếu sự trau dồi của linh mục trong suốt cả cuộc đời chỉ nhằm một mục tiêu là giảng lễ cho tốt , nuôi dưỡng đời sống tâm linh của giáo dân, giúp giáo dân tiếp xúc với Lời Chúa, sống Lời Chúa, dạy giáo dân sống đạo, tạo điều kiện cho giáo dân gặp gỡ Chúa, thì sự trau dồi ấy có một ý nghĩa sâu xa và một giá trị rất cao. Sự trau dồi ấy vừa thăng tiến, vừa mang lại hạnh phúc cho bản thân linh mục, vừa mang lại niềm vui và sự sống cho nhiều người.

Linh mục hoàn thành sứ vụ rao giảng Tin Mừng là một chức năng quan trọng và cơ bản nhất trong đời sống linh mục.

+ Gm. Phaolô  BÙI VĂN ĐỌC

VỀ MỤC LỤC
 CẦU NGUYỆN: MỘT BÍ QUYẾT TUYỆT VỜI

  

 Linh mục Dòng Tên, John Polkinghorne, tác giả cuốn sách Belief in God in an Age of Science, (1) đã phát biểu như sau khi ngài chia sẻ kinh nghiệm cá nhân về đời sống cầu nguyện:

“Throughout my life, whether as a Physicist or as a Priest and all the time as a human being, I have been sustained by the practice of prayer.”(2)

Cảm tưởng ấy đã đánh động tôi rất mạnh, vì đó cũng là niềm xác tín của riêng cá nhân. Cho nên, khi tôi đọc những dòng tư tưởng này của vị linh mục Dòng Tên khả kính, mà tôi rất ngưỡng mộ từ lâu, nó làm cho tôi liên tưởng đến một lời khuyên vàng ngọc của một vị linh mục đàn anh, Dòng Chuá Cứu Thế, thuộc tỉnh Dòng Canberra (Úc Đại Lợi)  dành cho tôi, khi tôi sắp sửa nhận sứ vụ linh mục. Vị linh mục ấy viết cho tôi những lời lẽ đại ý  như sau: Anh Hùng thân mến, nhân dịp anh sắp sửa lãnh nhận sứ vụ linh mục, tôi không có gì quí báu để tặng anh làm quà kỷ niệm. Tôi chỉ có một lời khuyên đơn giản, xuất phát từ tấm lòng thành của tôi đối với anh. Tôi biết rồi mai đây, sau khi anh chịu chức linh mục, anh sẽ rất bận rộn với biết bao công tác mục vụ ..., nhất là, anh còn phải tiếp tục con đường học vấn của anh tại Đại Học, cho nên, tôi khuyên anh điều này:

“Mỗi ngày anh hãy cố gắng bỏ ra ít nhất là 15 phút để CẦU NGUYỆN, vì không có đời sống cầu nguyện, anh sẽ không có đời sống kết hiệp mật thiết với Chúa và như thế hành trình ơn gọi của anh sẽ rất dễ bị lung lay. 3 Tôi chia sẻ với anh điều này từ chính kinh nghiệm của bản thân, sau hơn 25 năm làm linh mục.”

Lời khuyên vô cùng quí báu ấy của vị linh mục đàn anh khả kính, vẫn luôn vang vọng trong tôi ... và tôi luôn ghi nhớ mãi ... cho đến giây phút hiện tại và tôi đã cố gắng thực hành lời khuyên ấy mỗi ngày.

Lẽ đó mà hôm nay, tôi xin mạo muội được phép chia sẻ với quí vị độc giả một vài nguyên tắc căn bản, hầu hy vọng giúp cho anh chị em, mỗi người trong chúng ta thăng tiến đời sống cầu nguyện của chính mình. Vì chủ đề "CẦU NGUYỆN" hiện nay được xem như là một vấn đề thiết yếu cho thời đại mà chúng ta đang sống. Cho nên, tôi xin mạn phép được đề nghị một cách hết sức vắn gọn 10 điểm, được coi như là nền tảng căn bản giúp cho việc cầu nguyện có kết quả tốt đẹp.

Điểm 1:  Hãy sống thực với chính mình.

Tại sao đây là điều kiện tiên quyết trong việc cầu nguyện?

Bởi vì Thiên Chúa (T.C) muốn chúng ta sống cái giây phút hiện tại, mà cái giây phút hiện tại ấy chính là trở nên một tông đồ cầu nguyện. T.C tạo dựng nên con người để con người đối thoại với T.C, để sống trong sự hiệp thông với ba ngôi T.C. Đây có thể được coi như là một trong những mục đích chính khi T.C tạo dựng nên con người.

Karl Rahner, thần học gia Dòng Tên người Đức, được coi như là lỗi lạc nhất của thế kỷ 20, đã không ngần ngại để nhận định về con người như sau: "Chúng ta là kẻ lắng nghe Lời." (4) Điều mà trong thực tế, Rahner muốn ám chỉ đó chính là: chúng ta được tạo dựng để đối thoại, để hàn huyên, để ngắm  nhìn dung mạo, và để sống trước tôn nhan T.C.

Đi xa hơn một tí nữa, Rahner cho rằng: con người tự bản chất luôn hướng đến sự hiệp thông và ao ước được kết hiệp với Đấng Siêu Việt. Tư tưởng này rất phù hợp với suy tư của Thánh Augustinô khi ngài cho rằng: linh hồn con người được dựng nên là để cho chính T.C, lẽ đó mà bao lâu nó chưa được nghỉ yên trong cung lòng của T.C, thì bấy lâu nó vẫn còn khắc khoải. (5) Bao lâu mà chúng ta chưa mật thiết kết hiệp với Chúa, thì bấy lâu ta vẫn còn khoắc khoải ưu tư.

Vậy đâu là hệ quả của chân lý trên đối với vấn đề cầu nguyện? Nó đơn giản chỉ là: tất cả những gì chúng ta cần thiết cho việc cầu nguyện đều đã được ban tặng cho chúng ta. Cầu nguyện sốt sắng, trước tiên, không phải là việc học cho bằng được một kỷ thuật, nhưng đúng hơn là được bắt đầu bằng chính với thực tại con người của chúng ta với tất cả những gì đã được T.C phú bẩm cho con người.

Điểm 2:  Có tinh thần kỷ-cương.

Thánh Thômasô Aquinô, vị tiến sĩ Hội Thánh, lừng danh thời Trung cổ đã xây dựng nền thần học của chính mình trên quan điểm: "ân sủng được xây dựng trên nền tảng tự nhiên."

Chúng ta có thể đem điều này áp dụng vào trong thực tế của việc cầu nguyện và rút ra một nguyên tắc như sau: Đừng chỉ có dựa vào ân sủng của Chúa mà lãng quên cái bổn phận tự nhiên mà chúng ta cần phải làm. Tôi xin mạn phép đơn cử một tỷ dụ để làm sáng tỏ vấn đề. Muốn thăng tiến trong đời sống cầu nguyện mà không bao giờ chịu khó vất vả để ngồi yên tịnh hầu suy gẫm, nhưng cứ chỉ trông vào ơn thánh của Chúa ban cho ta để có thể nói tiếng lạ ngay lập tức!!!

Làm thế nào để bạn có thể trở thành một tín đồ cầu nguyện sốt sắng? Và qua đó có thể kết hiệp mật thiết với Chúa.

Xin được đề nghị một nguyên tắc chung: đó là thực hành. Chỉ có siêng năng thực tập mới giúp ta trở nên hoàn chỉnh. Chúng ta đạt đến mức độ tuyệt đỉnh của bất kỳ một lãnh vực nào, thì trong đó chỉ có một phần nhờ bởi khả năng thiên phú, nhưng hầu hết hai phần còn lại, có lẽ quan trọng hơn, là nhờ bởi sự dày công luyện tập. Do đó, đối với lãnh vực cầu nguyện, ta có thể coi khả năng thiên phú là ân sủng và việc dày công luyện tập là kỷ-cương.

Có rất nhiều người trong anh chị em chúng ta đã không trở thành một tông đồ cầu nguyện sốt sắng, mặc dù T.C đã ban cho họ ơn biết cầu nguyện, nhưng vì họ đã không chịu khó dành thì giờ để chăm lo luyện tập việc cầu nguyện của chính mình. Nên ta cần ghi nhớ nguyên tắc căn bản của luật tự  nhiên: chỉ có tập luyện mới trở nên hoàn hảo. Người Việt nam ta có câu: "Văn ôn, võ luyện", thiết nghĩ đây là túi khôn của ông bà tổ tiên ta để lại.

Một trong những khó khăn thường hay gặp phải trong việc cầu nguyện, đó chính là: sự kiên tâm bền chí. Để khắc phục được cái khó khăn này, chúng ta cần phải thực hành việc cầu nguyện mỗi ngày. Điều quan trọng không hệ tại ở chỗ, là chúng ta cầu nguyện lâu hay ít, nhưng hệ tại ở chỗ là chúng ta có trung thành cầu nguyện mỗi ngày hay không. Do đó, gỉa sử chúng ta quyết định là mỗi ngày, tôi sẽ để dành ra 10 phút để cầu nguyện với Chúa, thì chúng ta nên cố gắng giữ đúng như vậy. Dần dà điều ấy sẽ trở thành một thói quen tốt lành. Một điều khôn ngoan là đừng nên bao giờ  đặt ra cho mình một chương trình (đề án), mà xét về lâu về dài không thể thực hiện được, như vậy chúng ta sẽ bỏ cuộc dọc đường và sẽ không trau dồi được cái nhân đức kiên trì.

Điều 3:  Học hỏi việc suy gẫm.

Thánh Phanxicô đệ Salê nói rằng: "Không ai trong chúng ta có thể phát triển đời sống tâm linh mà không cần đến việc học hỏi Lời Chúa và thực hành việc suy gẫm." Ngài cũng dạy rằng: việc suy gẫm rất đơn giản, không phức tạp như chúng ta mường tượng, nó là việc gợi lên các suy tư về T.C trong trí não của chúng ta, hầu hướng lòng hoặc nâng tâm hồn ta lên với T.C.

Nhìn thoáng qua, ta thấy điều này rất đơn giản, nhưng đi sâu vào vấn đề, nó quả thực rất ư phong phú và sâu xắc. Nếu ta để ý và phân tích tư tưởng sau cùng của định nghĩa trên về việc suy gẫm, do thánh Phanxicô đệ Salê đề xướng thì chúng ta sẽ nhận thấy rằng: điều quan trọng của việc suy gẫm hệ tại ở chỗ là nâng tâm hồn ta lên với T.C. Việc suy gẫm còn được giả thiết xây dựng trên và liên quan đến những cảm xúc của con người. Tất cả những cảm xúc mà ta cảm nghiệm được - có lúc vui, có lúc buồn - sẽ đánh động chúng ta và giúp chúng ta nâng hồn mình lên với Chúa và cùng lúc để bầy tỏ tâm tình cảm tạ tri ân hoặc yêu mến Chúa.

Điều 4:  Cần đọc sách thiêng liêng.

Nếu sự phát triển trong đời sống tâm linh nhờ vào việc học hỏi và thực hành việc suy gẫm, và suy gẫm là hành động tập trung các tư tưởng của chúng ta vào chính Chúa hầu có thể nâng tâm hồn mình lên với Chúa, trong sự kết hiệp mật thiết. Do đó, chúng ta cần đến sự giúp đỡ từ các sách thiêng liêng, với mục đích cung cấp cho chúng ta những tư tưởng để suy gẫm về T.C.

Thánh Têrêsa thành Avila đã thú nhận rằng: trong suốt 14 năm liền, thánh nữ đã không khi nào, mỗi khi đi vô nhà nguyện, mà không cần dùng đến sách thiêng liêng. Tôi xin phép được trưng dẫn một đoạn ngắn trong sách tự thuật của ngài như sau:

"Đọc sách thiêng liêng rất hữu ích cho việc suy niệm. Trong suốt 14 năm liền, tôi không bao giờ bắt đầu việc cầu nguyện mà không dùng đến sách thiêng liêng, ngoại trừ sau khi rước mình thánh Chúa.

Tôi luôn cảm thấy khô khan khi tôi không đọc sách thiêng liêng và thông thường những lần như vậy, tâm hồn tôi cảm thấy bồi hồi xao xuyến, có lắm khi rối bời... và tư tưởng tôi rất hổn loạn. Nhưng khi tôi bắt đầu đọc một đoạn sách thiêng liêng thì tôi có thể cầm lòng, cầm trí lại được, và tôi có thể bắt đầu suy niệm."

Điều 5:  Nếu nó hữu ích đối với bạn, thì bạn hãy thực hiện.

Điều này, có lẽ chúng ta đã được các cha linh hướng chỉ bảo rất nhiều lần. Và có lẽ chúng ta, đặc biệt cho quí vị nào đã từng đảm trách việc hướng dẫn đời sống thiêng liêng cho người khác, cũng đã từng được nghe những câu hỏi tương tự như sau:

"Có được phép nghe băng nhạc khi tôi cầu nguyện?"; "Tôi có phải quỳ gối mỗi khi cầu nguyện không?" hoặc "Trong khi lần hạt, có được phép hút thuốc hay không?" Điều này làm tôi nhớ đến một câu truyện dí dỏm, có tính cách chọc ghẹo phá phách anh em. Chuyện xảy ra giữa một cha dòng Thánh Phanxicô và một cha dòng Tên.

Một hôm cha dòng Phanxicô đến gặp cha linh hướng của mình để tham kiến. Ngài hỏi:

- "Thưa cha, con có được phép hút thuốc khi cầu nguyện không?"

Vị linh hướng trả lời:

- "Dĩ nhiên là không."

Sau đó, vị linh mục  dòng Tên cũng vô gặp cha linh hướng. Ngài hỏi:

- "Thưa cha, trong khi hút thuốc con có được phép cầu nguyện không?"

Vị linh hướng trả lời:

- "Dĩ nhiên là được, cái đó còn gì tốt bằng!!!"

Ngang qua câu truyện dí dỏm của vị linh mục dòng Tên, chúng ta có thể tìm thấy câu trả lời như sau: Nếu điều đó hữu ích cho bạn, giúp bạn có thể nâng tâm hồn lên với Chúa trong lúc cầu nguyện thì bạn cứ vậy mà làm. Nên nhớ rằng: Thánh thần Chúa luôn luôn dùng tất cả mọi cách thức và mọi giác quan của con người chúng ta để giúp ta cầu nguyện. Nếu ta cảm thấy rằng: tôi cầu nguyện sốt sắng hơn khi quì gối, thì ta hãy làm như vậy.

Điều 6:  Để việc cầu nguyện sinh hoa kết trái, cần phải có đời sống liêm chính.

Điểm này được thánh I-nhaxiô thành Loyola, vị sáng lập dòng Tên, nhấn mạnh trong phương pháp linh thao của ngài. Thánh nhân trả lời các vấn nạn của việc tâm hồn tự cảm thấy nguội lạnh và không sinh hoa kết trái trong đời sống cầu nguyện của chính mình.

Một trong những điều mà thánh nhân hay thường đặt câu hỏi, đó chính là: "Liệu bạn có trung thành với giới răn của Chúa không?" Hay "Bạn đã trở nên thờ ơ lãnh đạm với việc yêu mến thánh ý Chúa?" Vậy trước khi ta đặt vấn đề, tại sao tôi không cảm thấy sự hiện diện của Chúa trong giờ cầu nguyện, ta cần nên hỏi chính mình trước hết là tôi đã yêu mến và sẵn sàng đón nhận thánh ý Chúa chưa?

T.C mà chúng ta tìm kiếm qua việc cầu nguyện, chính là T.C đấng dựng nên con người và vũ trụ. Khác với con người, nơi T.C không có sự phân biệt giữa việc T.C hiện hữu và điều T.C muốn. Từ đó ta có thể suy tư rằng: Thiên Chúa là Thiên Chúa muốn (God is what God wants). Cả hai là một, được quyện lẫn với nhau trong thực tại bản chất của T.C. Bởi lẽ đó, việc ta sống hiệp thông và kết hiệp với Chúa thì cũng chính là chu toàn thánh ý Chúa. Cố Hồng Y Leo  Suenens, tổng giám mục giáo phận Malines-Bruxelles, Bỉ, trong tác phẩm Le Roi Baudouin: Une Vie Qui Nous Parle,  đã viết như sau: “Cầu nguyện là ở trong Chúa và tất cả ý muốn của Thiên Chúa trở thành tâm nguyện của chúng ta, và tâm nguyện của chính chúng ta cũng sẽ trở thành thánh ý Thiên Chúa.” (6)

Để có thể sống trong sự hiệp thông, rồi dẫn đến hiệp nhất, ta cần sự thật. Chỉ có sự thật mới có thể xây dựng đời sống kết hiệp mật thiết. Mới có được một tương quan lành mạnh trong sự liên đới. Không có sự thật thì chỉ gây nên chia rẽ và đi đến thất bại. Một gia đình, một cộng đoàn, một xứ đạo, một quốc gia sẽ không có sự hiệp nhất, nếu mỗi người trong chúng ta, ai cũng biết nói dối, và bóp mép sự thật. Vì điều này sẽ giết chết đời sống hiệp thông và đời sống cộng thể. Lẽ đó, đời sống tâm linh và đời sống luân lý phải đi đôi với nhau.(7) Cho nên, ta có thể đưa ra một nguyên tắc như sau: Đời sống cầu nguyện sẽ sinh hoa kết trái bằng việc sống liêm-chính, và để múc lấy nghị lực cho đời sống thanh liêm chính trực cần có đời sống cầu nguyện.

Điều 7:  Đừng lượng giá việc cầu nguyện bằng cảm xúc.

Một trong những cám dỗ rất mạnh mẽ và thường hay xảy ra cho chúng ta trong đời sống cầu nguyện đó chính là: ta hay thường xuyên đánh giá việc thành công hay thất bại trong tiến trình cầu nguyện của chính mình bằng các cảm xúc có được.

Một điều ta cần để ý là mục đích duy nhất của việc cầu nguyện tựu trung ở chỗ "kết hiệp" với Chúa. Kết hiệp với Chúa qua việc cầu nguyện, có thể có hoặc không tạo nên cho ta những cảm giác sảng khoái.

Khi chúng ta cầu nguyện là chúng ta tìm kiếm Chúa, Đấng ngự trị đằng sau và vượt lên trên tất cả các cảm xúc của con người. Nếu chúng ta chỉ chủ trương tìm kiếm và đặt trọng tâm của việc cầu nguyện nơi các cảm xúc thanh thản, nhẹ nhàng và sảng khoái, thì có lẽ ta đã đặt sai mục đích của việc cầu nguyện. Vì T.C trỗi vượt hơn tất cả những điều ấy. Cho nên, một trong những nguyên tắc tối cần thiết là chúng cần phải phân biệt giữa việc kết hiệp với Chúa và các trạng thái cảm xúc của mình. Điều trước tiên, ta nên am tường là T.C có thể ban cho ta những cảm giác tích cực và tiêu cực trong khi ta cầu nguyện. Cả hai trạng thái này đều có thể đem lại kết qủa mỹ mãn cho ta, thể theo như thánh ý Chúa muốn. Tôi xin đơn cử một vài ví dụ để hy vọng làm sáng tỏ vấn đề.

Một bà mẹ cầu nguyện để có đủ nghị lực và lòng kiên nhẫn hầu may ra có thể can tâm chịu đựng sự ngỗ nghịch và bất tuân của đứa con trai hoang đàng của bà. Bà ta có thể được Chúa ban cho những cảm giác bình an và thanh thản trong tâm hồn, sau khi cầu nguyện. Điều này được coi như là một cảm giác tích cực. Nhưng ngược lai, một người chồng phạm tội ngoại tình, khi cầu nguyện thì chỉ cảm thấy sự bất an trong tâm hồn và ông ta cảm thấy lòng mình như bị rối bời ... Điều này là một cảm giác tiêu cực, nhưng cái cảm giác tiêu cựu ấy đã giúp ông ta ăn năn hối lỗi và đã cải tà qui chánh. Sau này ông ta đã hồi tâm quay trở về với vợ con và lo lắng cho gia đình.

Cho nên, ta thấy rằng, cả hai trạng thái cảm xúc khác nhau, T.C đều hiện diện, và Ngài đã dùng những cảm giác ấy để lôi kéo và hướng dẫn chúng ta quay trở về với đường ngay nẻo chánh, theo như thánh ý của Ngài.

Vậy thì làm sao chúng ta có thể phán đoán và định giá kết quả của việc cầu nguyện. Chúa Giêsu trong Phúc Am của Thánh Luca 6: 43-45 đã trả lời một cách cụ thể như sau:

"Cây tốt thì không thể sinh trái xấu, ngược lại cây xấu không thể sinh trái tốt, thật vậy xem quả thì biết cây ..."

Điều 8:  Đừng quá kỳ vọng.

Sống trong thế giới hiện đại và đầy dẫy những phát minh mới lạ về khoa học kỹ thuật. Con người ngày nay thường xuyên bị ảnh hưởng bởi những trào lưu cổ võ cho việc phát triển không ngừng. Lẽ đó, một cách rất tự nhiên ngay cả trong đời sống cầu nguyện, ta luôn kỳ vọng ở nơi sự thăng tiến liên tục của chính mình. Nhưng có điều là trong đời sống tâm linh và cầu nguyện, mực thước đo lường của việc phát triển thì dường như không có. Định giá đời sống cầu nguyện thì được ví như ta đang đứng và ngắm nhìn sự phát triển của một cây kiểng. Nếu như ta muốn, ta có thể làm cái công việc ấy, nhưng tôi xin bảo đảm với quí vị là nó sẽ không mang lại một kết quả tích cực nào hết.

Tất cả cây cối đều phát triển mỗi ngày trước mắt của chúng ta, nhưng cho dù chúng ta có nhìn ngắm một cách chăm chú đi chăng nữa, thì chúng ta vẫn không thể nào nhìn thấy được sự tăng trưởng của nó một cách tỏ tường. Một cách thức tương tự như thế, nếu đem so sánh với đời sống cầu nguyện của chúng ta thì tôi thiết nghĩ, nó cũng rất ư xứng hợp. Bằng việc trung thành cầu nguyện từng ngày một, và hy vọng sau một thời gian lâu dài, ta may ra nghiệm thấy phần nào sự thăng tiến trong đời sống cầu nguyện của chính mình. Tỷ như cây ổi mà ta trồng, rồi 5 năm sau ta trở lại và khám phá ra, bây giờ nó đã xum xê lớn mạnh và đâm hoa kết trái.

Một yếu tố căn bản để ta có thể nhận định phần nào sự tăng trưởng trong đời sống cầu nguyện của chính mình, là việc cầu nguyện nếu có hiệu nghiệm sẽ thăng tiến cuộc sống và biến đổi con người của ta, nhưng sự kiện này có thể xảy ra là do ân sủng của T.C, chứ không tất yếu do ta định đoạt. Bạn nào muốn mình trở thành nhà chiêm niệm chỉ trong nháy mắt thì đó quả thực là một ảo vọng.

Điều 9:  Cầu nguyện là công việc của Đức Kitô và của Giáo Hội hơn là công  việc của mỗi cá nhân.

Chúng ta thông thường nghĩ rằng: cầu nguyện là việc làm của mỗi người, do đó nó mang tính chất cá nhân. Nhưng trong thực tế, việc cầu nguyện thì nó vượt lên trên lãnh vực chiều kích cá nhân và mang tính chất hiệp thông và có tính cách phổ quát.

Truyện kể lại, có một chàng thanh niên nghiện ngập ma túy và đã mắc phải chứng bệnh AIDS. Vào thời điểm gần cuối của cuộc đời, trước khi anh giã từ cuộc sống ở trần gian, anh ta được các cô y tá và các người làm việc thiện nguyện tắm rửa, thay áo quần, lo cho ăn uống……. nói chung họ săn sóc cho những nhu cầu của anh thật chu đáo. Anh hết sức cảm động trước tấm lòng tốt và quảng đại của họ. Cho nên, anh ta đã bày tỏ ước nguyện của mình: là anh ta rất muốn làm một nghĩa cử nào đó để đền đáp phần nào cho cân xứng tấm lòng ưu ái của họ. Anh ta không thể tự mình di chuyển và ra khỏi giường được nữa, nên một nữ tu đã đề nghị với anh ta: là bạn hãy cầu nguyện cho những người này, như một cách thức để đền đáp công ơn họ. Trước đề nghị như vậy, anh ta đã ôn tồn trả lời rằng: tôi xin lỗi, không biết ma sơ có tin rằng, Chúa sẽ nhận lời cầu khẩn của một kẻ tội lỗi như tôi, vì suốt cả cuộc đời, tôi luôn lang thang sống trên các vỉa hè phố.

Vị nữ tu điềm nhiên trả lời: vậy anh đã được rửa tội chưa?

Thưa có.

Vậy thì Thiên Chúa Cha không thể tách biệt lời cầu nguyện của anh và của Chúa Giêsu, con chí ái của Ngài. Vì khi anh cầu nguyện, Chúa Cha chỉ nghe có giọng Chúa Giêsu.

Mầu nhiệm của bí tích thanh tẩy là chúng ta được tháp nhập vào trong thân thể nhiệm mầu của Đức Giêsu Kitô. Cho nên trở thành người Kitô hữu là trở nên một Chúa Kitô khác. Một khi đã lãnh nhận bí tích thanh tẩy, bạn cầu nguyện là Chúa Giêsu cầu nguyện. Cho nên thánh Phaolô đã khẳng định rằng: mỗi khi ta cầu nguyện là ta dâng lời cầu nguyện với Chúa Giêsu, trong Chúa Giêsu và nhờ Chúa Giêsu. Cho nên khi Chúa Cha nhìn Chúa Giêsu, Ngài thấy trong Chúa Giêsu tất cả chúng ta. Vậy mỗi khi cầu nguyện, ta hãy nhớ kết thúc bằng câu: nhờ Đức Kitô con Chúa, Chúa chúng con, như Giáo hội vẫn dạy.

Điều 10:  Cầu nguyện là chiêm ngắm.

Người ta kể lại một câu truyện như sau: có một ông lão kia, mỗi buổi trưa ông đều đi đến một ngôi thánh đường nọ, và luôn luôn ngồi ở dãy ghế sau cùng. Sau một thời gian lâu dài, mọi người đều quan tâm để ý đến ông. Họ không biết rõ gốc tích và lai lịch của ông lắm, nhưng họ rất đỗi ngạc nhiên và thắc mắc: “không biết ông lão kia đã làm gì trong suốt khoảng thời gian ông ta ngồi cầu nguyện ở phía cuối nhà thờ?” Rồi một ngày kia, một người trong đám họ, bèn mạnh dạn hỏi thăm ông lão: "Xin ông vui lòng nói cho chúng tôi biết, ông đã làm gì mỗi khi ông cầu nguyện?"

Ông lão vui vẻ và điềm nhiên trả lời: "Đôi khi tôi đến đây và tôi ngồi để nói chuyện với Chúa Giêsu. Dịp khác, tôi chỉ ngồi và ‘ngắm nhìn’ Chúa Giêsu. Nhưng phần nhiều là tôi chỉ ngồi để chiêm ngắm Ngài."

Như chúng ta đã nói với nhau là mục đích của việc cầu nguyện tựu trung ở chỗ là gặp gỡ và kết hiệp mật thiết với Chúa. Chúng ta muốn hiện diện trước tôn nhan Chúa và chúng ta biết rằng: khi chúng ta cầu nguyện là chúng ta đặt mình trước mặt Chúa và Chúa đang hiện diện với chúng ta. Chúng ta mong ước được Thiên Chúa tuôn đổ tràn đầy trong tâm hồn chúng ta những tâm tình yêu mến, và chúng ta cũng khao khát được trở nên một với Chúa, ngang qua việc kết hiệp mật thiết với Ngài.

Thiên Chúa luôn nhìn ngắm chúng ta bằng ánh mắt đầy lòng yêu mến, và ta đáp lại bằng ánh mắt tâm hồn rực tràn lửa yêu thương. Và trong giây phút như vậy, ngôn ngữ loài người trở nên vô hiệu lực. Trong bối cảnh như vậy, theo truyền thống Kitô Giáo, thì sự kiện như thế được gọi là chiêm niệm, cho nên lời nói và hành động cần được nhường chỗ cho việc chiêm ngắm. Sự chiêm ngắm này được ví như thể "cái nhìn" say đắm của hai tình nhân đang yêu nhau. Và đối với họ việc có mặt bên nhau hầu như đã nói lên tất cả. Chiêm niệm, hẳn nhiên không phải là công viêc dễ dàng đạt được, tuy nhiên tất cả đều là khả thể đối với Thiên Chúa.

Chúc các bạn thành công và thăng tiến  luôn mãi trong đời sống CẦU NGUYỆN.

L.mục. Trần Mạnh Hùng, C.Ss.R (Úc Châu)

Alphonsian Academy

Via Merulana, 31

00185 - Roma - Italia.

hungroma@yahoo.com                       

1 .  John Polkinghorne, S.J.,   Belief in God in an Age of Science  (United States: Yale University, 1998). Cha Polkinghorne đã được The John Templeton Foundation trao giải thưởng năm 1999, vì tác phẩm này được coi như là một trong những kiệt tác về Thần Học và Khoa Học Tự Nhiên.

2 . Phỏng dịch: “Trong suốt cuộc đời,  tôi đã được trợ-giúp bằng việc thực hành cầu nguyện, dù là một nhà Vật lý học hay là một linh mục, cũng như trong cuộc sống của một kẻ lữ hành.” Xem tác phẩm Spiritual Evolution (1998),  được soạn thảo bởi John Mark Templeton and Kenneth Seeman Giniger.

3 . Sau này tôi may mắn được đọc tác phẩm của cha Timothy Radcliffe, O.P.,  cựu Bề Trên Tổng Quyền Dòng Đa Minh. Tựa đề là: Sing a New Song: The Christian Vocation  (Dublin: Dominican Publication, 1999). Cha Radcliffe đã viết những dòng như sau: “Chúng ta có thể đi hết hành trình ơn gọi của mình mà chả cần đến việc  cầu nguyện không?” xem  trang 52.

4 . Lời ở đây xin được hiểu theo ý nghĩa thần học của tác giả Phúc Am thứ 4.

5 . “You have made us for Yourself, and our hearts are restless until they rest in You.”  Xem The Confession of  St. Augustine, Revision of the Translation of Rev. J. M. Lelen, Ph.D. (New Jersey: Catholic Book Publishing Co., 1997), Chương thứ I, trang 19.

6 . Xem bản Việt Ngữ do G.S. Nguyễn Đăng Trúc chuyển dịch  Âm Hưởng Một Cuộc Đời  (France: Định Hướng Tùng Thư Xuất Bản, 1998), trang 102.

7 . Đây cũng chính là một đề tài hấp dẫn mà hiện nay, một số các thần học gia luân lý đang tìm cách đẩy mạnh và phổ biến qua việc viết lách và giảng dạy. Xem Dennis Billy, C.Ss.R  and Donna L. Orsuto, (eds.)  Spirituality and Morality: Integrating Prayer & Action  (New York: Paulist Press, 1996). Also Marciano Vidal,  C.Ss.R.  Morale  e Spiritualità: della separazione alla convergenza  (Assisi: Cittadella Editrice, 1998). Đặc biệt hơn cả là tác phẩm của thần học gia luân lý Richard M. Gula, S.S.,  The Good Life: Where Morality and Spirituality Converge  (New York: Paulist Press, 1999).

VỀ MỤC LỤC

CHA MẸ LÀ MỤC TỬ  THEO GƯƠNG CHÚA KITÔ MỤC TỬ

 

Nếu bạn để ý, sẽ nhận ra rằng: các Chúa nhật đầu mùa phục sinh, Hội Thánh muốn chúng ta suy niệm các trình thuật Tin Mừng liên quan đến biến cố phục sinh. Nhưng Chúa nhật này, cũng trong bối cảnh mùa phục sinh, Hội Thánh lại cho ta biết, Chúa Kitô là Đấng chăn chiên nhân lành. Bạn thử nghĩ xem, Hội Thánh muốn dạy điều gì khi làm như thế?

Hội Thánh muốn dạy rằng: Chúa Kitô vẫn là mục tử nhân lành cho đến đời đời.

Chúa đã là Mục Tử tốt lành hiến dâng mạng sống để cứu lấy đoàn chiên. Chính khuôn mặt đau thương của thập giá đã biểu lộ mạnh mẽ tình yêu không giới hạn của vị Mục Tử tốt lành tối cao ấy. Chúa Kitô đã nói như thế về mình trong bài Tin Mừng hôm nay: “Ta thí mạng sống vì đàn chiên… Vì lẽ này mà Cha yêu mến Ta là Ta thí mạng sống, để rồi sẽ lấy lại. Không ai cất mạng sống của Ta, nhưng tự Ta, Ta thí mạng sống. Ta có quyền thí mạng sống và cũng có quyền lấy lại”.

Hôm nay, sau khi đã phục sinh, Chúa vẫn tiếp tục chăn dắt đoàn chiên, chăng dắt từng người, từng người một. Ngườ tiếp tục chăn dắt mỗi chúng ta bằng Thánh Thần của Người. Bởi qua sự hiện diện mới mẽ, hiện diện nhờ Thánh Thần, trong Thánh Thần, với Thánh Thần, sự hiện diện ấy trở nên sự hiện diện tròn đầy nhất: sự hiện diện thần linh, một sự hiện diện vượt trên tất cả mọi cách thế hiện diện. Chính nhờ được chăn dắt bằng Thánh Thần, đoàn chiên lãnh nhận một tình yêu phục sinh, một sức sống mới tràn đầy. Và vì thế, mãi mãi Chúa Kitô vẫn hiện diện giữa đoàn chiên, không ngừng hiện diện. Người vẫn là Mục Tử, không ngừng là Mục Tử. Người là Mục Tử nhân từ và yêu thương vẫn không ngừng nhân từ, không ngừng yêu thương.

Như Chúa Kitô, tất cả mọi người đều có thể trở thành mục tử, chia sẻ chức vị mục tử của Chúa Kitô. Nhưng cách riêng, trong lễ Chúa chăn chiên nhân lành hôm nay, tôi muốn hướng về những ai mang trọng trách làm cha, làm mẹ.

Còn nhớ, một lần, tôi đến thăm một đôi vợ chồng trẻ. Cuộc thăm viếng này để lại trong tôi lòng cảm phục, vì đối với tôi, đôi vợ chồng này đã phải chịu đựng và vượt qua những khắc nghiệt quá sức con người.

Họ là một đôi vợ chồng nghèo có ba đứa con. Cả ba đều không hiểu biết gì, không nói được. Đứa con trai đầu có khuôn mặt dị dạng trông rất sợ. Lúc tôi đến thăm, anh đã đi ra rẫy, còn chị đang ngồi đan từng chiếc nan tre để kiếm thêm tiền chợ, vừa phải trông con. Chị nói về ba đứa con của chị trong nước mắt: “Nhiều lúc con muốn chết cho rồi, nhưng nghĩ lại ba đứa con, con phải gượng sống. Cha nhớ cầu nguyện cho vợ chồng con can đảm chịu đựng”.

Bạn cứ nghĩ mà xem, trong tình cảnh đó, ta sẽ làm gì? An ủi ư? Tôi nghĩ, lời an ủi lúc đó sẽ vô nghĩa, sẽ thừa thải, sẽ lạc điệu vô cùng. Tôi đã im lặng nghe chị kể, để người mẹ đau khổ ấy vơi bớt nỗi lòng, cũng là để sự thông cảm trong tôi lắng sâu hơn, mạnh hơn đối với những người cha, người mẹ đáng trân trọng ấy.

Người mục tử yêu mến đàn chiên thật, sẽ là người chấp nhận hao mòn sức lực, một mực bảo vệ sự sống đàn chiên. Cũng thế, ba đứa bé tật nguyền kia, nếu chúng không được sống hạnh phúc hơn do những khiếm khuyết trên cơ thể, thì trong tình yêu của cha mẹ, chúng đang sống hết sức dồi dào.

Ta cứ tưởng tượng, nếu ngày nào đó, chúng suy nghĩ được, và ai bảo chúng chết cho người cha, người mẹ của chúng, chắc chúng sẽ không dám chối từ . Bởi chính vì chúng, cha mẹ chúng đã đành chấp nhận mất mát. Mất quá nhiều. Mất cả cuộc sống cho riêng mình.

Còn chính trong tình yêu dành cho những đứa con, anh chị đã trở thành mục tử khắc họa hình ảnh của vị Mục Tử Giêsu, Đấng mà chính anh chị luôn tôn thờ. Tình yêu ấy đã làm tăng nghị lực, tăng sức mạnh, tăng sự chịu đựng. Bởi anh chị đã từng nghĩ đến cái chết, để có thể tự giải thoát mình. Nhưng cũng đã có đến hai lý do kéo anh chị trở về. Đó là lòng kính thờ Chúa và lòng yêu thương con. Gọi là hai, thực chất chỉ là một lý do: tình yêu. Chính tình yêu là sức mạnh giúp anh chị vượt thắng ý nghĩ tìm về cái chết.

Bạn và tôi, ai cũng từng là những đứa con, vẫn là những đứa con. Tôi cứ tin rằng, cha mẹ chúng ta là những mục tử tốt lành. Hãy sống thảo hiếu, hãy cầu nguyện, và làm tất cả những gì có thể làm để cha mẹ vui lòng. Không bao giờ được phép coi khinh cha mẹ. Hãy yêu mến cha mẹ của chúng ta. Tình yêu sẽ cho ta biết phải làm gì, phải sống thế nào để gọi là hiếu thảo!

Riêng các bậc cha mẹ, ta vui mừng nhận thấy những người cha, người mẹ Công giáo đều yêu thương con mình và chăm lo cho con tận tình, tận lực. Họ yêu con, nhưng không có nghĩa là chiều chuộng con. Họ biết cách giáo dục con thành người trưởng thành. Họ bất kể ngày đêm nặng nhọc, để lo cho con ăn học, lo cho con từng chén cơm khi con đói, từng viên thuốc khi con ốm đau…

Chúa Kitô đã làm trọn vai trò mục tử nhân lành của Người khi nhập thể làm người để cùng sống kiếp người với ta. Người đã chịu tử nạn, đã phục sinh để chứng minh rằng, Người yêu ta bằng cả cuộc đời, bằng cả sự sống của Người. 

Ngoài hình ảnh Chúa Kitô Mục Tử, tôi đã kể câu chuyện rất thật về đôi vợ chồng trẻ kia để chứng minh rằng, đã từng có những bậc làm cha, làm mẹ phản chiếu hình ảnh mục tử của vị Mục Tử nhân lành tối cao. Bạn và tôi hãy xem đó mà học lấy như bài học cụ thể cho mình. Nhờ đó, ta cũng sẽ hoàn tất cách tốt đẹp nhất vai trò mục tử trong chức phận mà Chúa đã trao phó cho ta

Lòng yêu thương mang một trái tim mục tử của những bậc cha mẹ như thế, sẽ cho ta một tình yêu dũng cảm xả thân vì trách nhiệm, vì ơn cứu rỗi của các linh hồn. Mang tình yêu mục tử, ta sẽ không nề hà, nhằm phục vụ con người, phục vụ thế giới, với tất cả tình yêu không ích kỷ, không độc chiếm, nhưng hiến dâng thực sự, hiến dâng trọn vẹn. Bạn và tôi hãy nhớ rằng, nếu ta mang trong lòng trái tim mục tử của những bậc cha mẹ như Chúa Giêu yêu ta, chắc chắn sẽ không có kẽ hỡ làm lọt đứa con nào ngoài tình thương yêu trời bể của ta. 

Như Chúa Kitô Mục Tử, xin kính chúc những người cha, người mẹ cũng là những mục tử tốt lành. Như chúng ta yêu mến Chúa Kitô, xin chúc những người con biết yêu thương cha mẹ mình.

Lm. VŨ XUÂN HẠNH.

VỀ MỤC LỤC
CHIẾU BÍ !

 

“Này là Mình Thầy !”. Câu nói của Chúa Giêsu trong bữa Tiệc Ly vẫn được các linh mục thay mặt Ngài tuyên đọc trong phút cao điểm của thánh lễ đã trở nên quá quen thuộc đến nỗi đôi khi chỉ còn là một phần phải có trong  “công thức truyền phép” và chẳng  làm cho linh hồn tôi phải lay động, trí óc tôi phải niệm suy. Ay thế mà có một lần, câu nói ấy đã khiến cho tôi giật nẩy mình bối rối và chết trân đi, y như khi đang ngon trớn “bày binh bố trận” trong một ván cờ tướng thì bị chiếu bí !

Chuyện xảy ra thế này :

Hồi còn “lang thang phiêu bạt” ở thành phố Sài Gòn, tôi và các anh em “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu” vẫn thường tụ họp lại để nâng đỡ nhau trong đời sống chứng nhân. Trong nhóm có một vài anh em là linh mục, nên trong những lần họp mặt ấy chúng tôi thường dâng lễ “nội bộ” trong những căn phòng nhỏ xíu, anh em đứng sát vào nhau và sát vào bàn dâng lễ. Hôm ấy là ngày tạ ơn của một anh em vừa lãnh nhận tác vụ linh mục ở một giáo phận khác trở về. Anh làm chủ tế, hai anh nữa đồng tế. Trong bầu khí vui mừng và ấm áp tình huynh đệ, tôi thấy mình lâng lâng khi tham gia dâng lễ… Tâm tình tạ ơn dần dần dâng cao. Thế rồi đột nhiên, lúc các anh đọc lời truyền phép, một anh đồng tế giơ tay lên, và tôi hoảng hốt chết lặng người khi cảm thấy anh chỉ thẳng vào mặt tôi mà đọc “Này là Mình Ta !” Trời đất ơi ! Tôi không thể tránh vào đâu được vì căn phòng dâng lễ nhỏ quá, tôi thấy cánh tay của anh “chiếu tướng” ngay mặt mình. Thật bí quá ! Không có  “sĩ, tượng” nào che chắn cho mình, cũng không còn khoảng trống nào để mình có thể chuyển dịch “con tướng” đi nơi khác. Trong tích tắc đồng hồ đó, tôi cảm nhận được một điều mà trước đây tôi chỉ cảm nhận một cách khá lý thuyết và hơi mơ hồ : lễ vật dâng trên bàn thánh không chỉ là bánh rượu tượng trưng cho con người và cuộc-đời-của-con-người-nói-chung, mà là chính mỗi một con người cụ thể đang tham gia cử hành thánh lễ trong hiện tại. Câu nói “Này là Mình Ta !” không chỉ tác động đến bánh rượu dâng trên bàn thờ, mà còn tác động đến tất cả mọi người đang tham gia dâng lễ. Bánh  rượu được hoá nên Mình và Máu Chúa Kitô. Mọi người dâng lễ cũng được hoá nên Mình và Máu Ngài. Nhiệm Thể Chúa Kitô được thể hiện một cách trọn vẹn trong thánh lễ, với Ngài là Đầu và tất cả mọi người dâng lễ là các chi thể. Và như thế thì lời “Hãy nhận lấy mà ăn. Hãy nhận lấy mà uống.” mang một ý nghĩa kép : tôi hãy nhận lấy Mình Máu Thánh Chúa Giêsu mà ăn mà uống, nhưng đồng thời tôi cũng hãy nhận lấy anh chị em mình mà ăn mà uống, và cũng hãy trao ban chính bản thân cho anh chị em để họ cùng ăn cùng uống. Như vậy mọi người cùng ăn cùng uống Chúa Kitô và cùng ăn cùng uống chính bản thân nhau. Thật là “rối” quá và cũng thật là ngán quá !

Trước tiên là “rối” nơi bản thân : Tôi có dám cho anh chị em “nhai nuốt” mình không, có dám chấp nhận cho mọi loại “hàm răng” cắn ngập vào cuộc đời của mình và “tiêu hoá” nó theo “khẩu vị” của họ không ? Tôi là thứ lương thực gì cho anh chị em : là “thực phẩm an toàn” – chứ chưa nói là thực phẩm giàu chất dinh dưỡng – hay là thứ  thực phẩm bị ô nhiễm trầm trọng mà anh chị em tôi ăn uống vào liền bị “ngộ độc” ? … Kế đến là “rối” nơi người khác : Tôi có dám vui vẻ “ăn uống” tất cả anh chị em mình, ngay cả những người trông thật khó mà “nhai nuốt” nổi hay không ? … Chỉ ngần ấy câu hỏi thôi cũng đủ làm cho tôi thấy “ngán” rồi !

“Này là Mình Máu Ta, hãy nhận lấy mà ăn uống”. Nếu chỉ nghe các linh mục tuyên đọc như thế, rồi lên rước lễ thì khá là dễ thở vì ít thấy lời đó đụng chạm tới mình. Đàng này, cú “chiếu tướng” xảy ra làm cho việc tham gia dâng lễ của tôi trở nên “khó thở” hơn, vì nó chạm ngay cái “nọc” trong “thâm cung bí sử” của tôi !

Kể từ sau thánh lễ đó, tôi trở nên thích nhìn anh chị em mình lên rước lễ. Tôi thích nhìn để tập đón nhận họ trong mọi nét riêng biệt của họ, ít nữa là ở dáng vẻ bên ngoài. Họ đó : kẻ lớn người bé, kẻ cao người lùn, kẻ đẹp người xấu, kẻ “dễ thương” người “khó ưa”… Tất cả đều là anh chị em của tôi. Tất cả đều đã được Lời quyền năng của Chúa Giêsu làm cho trở nên Thân Thể của Ngài. Tôi đến rước Chúa Giêsu, cũng là rước tất cả  họ vào lòng mình để nên Một với họ nhờ việc nên Một với Chúa Giêsu. Nên Một cách khá vô hình nhưng rất thật, thật hơn tất cả mọi sự “đoàn kết nhất trí” kề vai sát cánh khác ngoài xã hội. “Này là Mình Ta, này là Máu Ta”. Họ là Mình, là Máu của Chúa Giêsu và cũng là mình và máu của tôi. Làm sao tôi có thể không đón nhận họ. Làm sao tôi có thể không thương yêu họ ? Họ là “Mình ơi !” của tôi, thì tôi phải đối xử với họ sao đây ? Thiệt là “rối”, vì việc rước lễ bắt tôi phải đặt lại vấn đề cho cung cách ứng xử của tôi đối với các anh chị em đồng đạo, rồi  từ đó mở rộng ra với mọi con người trong tư cách là anh chị em của một Cha chung trên trời. Thiệt là “rối”, nhưng cũng thiệt là đáng bõ công để gỡ cho hết mọi cái “rối rắm” mà hoà chung vào nhau thành Một nơi Chúa Giêsu để nhờ Ngài mà nên Một với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Cú “chiếu bí” tưởng là gây rắc rối thì lại mở ra cho tôi một chân trời thoáng đãng và hoan lạc hơn nhiều so với trước đây, khi tôi còn nại vào “sĩ, tượng…” để che chắn cho mình !

Trầm Tĩnh Nguyện        04-05-2006

VỀ MỤC LỤC

TINH THẦN VƯỢT QUA VÀ CÁNH CHUNG CỦA BA LỜI KHUYÊN PHÚC ÂM

 

1. Mở bài - Lời khuyên Phúc Âm và người tu sĩ:

Mỗi khi nói đến các tu sĩ, người ta liên tưởng ngay tới những người sống đời tận hiến, khấn giữ ba lời khuyên Phúc Âm: Thanh tịnh, Thanh bần và Thanh tuân. Như vậy việc tuyên giữ ba lời khuyên Phúc Âm cấu tạo nên bản chất cuộc đời của các tu sĩ. Ngoài ba lời khuyên kể trên mỗi Dòng còn có lời khấn thứ tư hoặc thứ năm tùy thuộc vào đặc sủng hay tính độc đáo riêng của mỗi Dòng. Ví dụ: Dòng Biển Đức có lời khấn vĩnh cư và cải hóa.

Thật ra, Phúc Âm không chỉ có ba lời khuyên mà thôi, nhưng ba lời khuyên kể trên được coi là cô đọng tinh thần Phúc Âm hơn cả.

Nhìn lại hành trình tìm kiếm ơn gọi, chúng ta sẽ thấy cuộc đời là thực tại về nó hay là ao ước cho nó? Là bi quan hay lạc quan? Là bể khổ hay thiên đường?… Đó là những câu hỏi canh cánh trong lòng mỗi người chúng ta, và để có thể tiệm cận sự thật về nó, chúng ta thử nhìn lại cuộc đời mình bằng từng ấy tuổi xuân, xem chúng ta đã lê gót qua những nẻo phù sinh nào?: trông gai hay êm ả, thống khổ hay hạnh phúc, để buông thả giữa những quy luật an bài của định mệnh hay mải mê tìm kiếm cho cuộc đời mình một lựa chọn tự do, tự quyết. Dù sự lựa chọn ấy đòi hỏi một sự can trường, thách đố hay dấn thân.

Vì thế. Nếu đời tu chỉ mạ vàng với những lời khấn dòng mà không có tình yêu, sự quyết tâm và cam kết đầu tư trọn cả chính mình để cho Cộng đoàn và Hội Thánh được tiến triển càng ngày càng nên trọn hảo thì chỉ cần một điều trái ý nhỏ nhặt cũng đủ làm chúng ta phật lòng, nổi quạu; nếu không có một tấm lòng tự nguyện cho đời dâng hiến thì chúng ta không thể chịu hy sinh hay chịu bất kỳ gian khổ nào cách tình nguyện dễ dàng được.

2. Tinh thần vượt qua và cánh chung của ba lời khuyên Phúc Âm:

Tinh thần vượt qua và cánh chung của lời khấn Dòng nói chung và của đời sống tận hiến nói riêng đó chính là sự đào sâu các ý niệm: “tình yêu, giao ước, dấn thân, chia sẻ và hiệp thông vào công trình cứu chuộc của Thiên Chúa với nhân loại”. Nhờ lời khấn Dòng người tu sĩ trải qua sự khổ luyện và cải hóa trong hành động tự do tự quyết của mình mà nhận ra chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa nơi bản thân, nơi cộng đoàn và nơi mọi người.

Lời khấn Dòng là dấu chỉ hữu hình thể hiện một dự phóng gắn chặt cuộc đời hiện thực này vào cuộc đời hằng sống mai sau, bằng những ràng buộc trong lời tự do cam kết của chính mình với cộng đoàn với Giáo hội và với Thiên Chúa.

Xin được nêu lên tinh thần vượt qua và cánh chung - lần lượt nơi từng lời khấn:

+ Lời Khấn Thanh Tịnh hay còn gọi là Lời Khấn Khiết Tịnh: Lời khấn này chính là lời “giao ước” mà những người tình nguyện chọn lựa đời sống độc thân vì Nước Trời. “Không lấy vợ hoặc không lấy chồng”. Lời khấn này đòi hỏi một giá trị nhân bản, vượt trên tự nhiên nhưng không phá hủy tự nhiên mà làm sung mãn và siêu hóa nó. Vì thế đời sống độc thân thanh tịnh không phải là chuyện coi thường thể xác, hay là vấn đề khinh thường hôn nhân, nhưng nó có thể chia sẻ lòng người.

Hơn nữa, phần lớn thời gian của người độc thân thì lo việc Chúa cách hữu hiệu hơn (x. ICo 7,32-34). Cách chung sự thanh tịnh đời tu nằm trong viễn tượng cộng đoàn: vừa là vì Chúa Ki-tô, chuyên lo việc Chúa nhưng cũng vì các anh em, chị em mà chúng ta muốn sống thanh tịnh đời tu. Người ta rất thường xuyên nhấn mạnh đến sự nâng đỡ được mang lại do tình thương mến huynh đệ trong đời sống cộng đoàn. Đó cũng chính là những lý do khích lệ lòng kiên trung giữ đức thanh tịnh và bảo vệ thanh tịnh.

Là người tu sĩ chúng ta cần phải thường xuyên cầu nguyện để biết luôn mãi đón nhận ơn Chúa trợ giúp mình sống thanh tịnh càng ngày càng hơn, hầu mưu ích phục vụ Thiên Chúa và tha nhân cách dồi dào hơn.

+ Lời Khấn Thanh Bần hay còn gọi là Lời Khấn Khó Nghèo: Về mặt nhân bản từ “khó nghèo” cần được hiểu một cách khách quan và đúng đắn, tránh những quan niệm hàm hồ về từ ngữ. Từ “khó nghèo” ở đây cần phải hiểu trên tinh thần vì Nước Trời (x. Tám mối phúc, Matthêu chương 5). Nghĩa là tinh thần này đặt con người vào vị trí thái độ khiêm tốn trước mặt Thiên Chúa, không vênh váo tự tôn, tự ti, lấy thịt đè người, mà là cùng tập thể, cùng mọi người vươn lên trong sự hợp nhất và chia sẻ. Đức Giáo Hoàng Phao-lô VI trong Tông Huấn “Chứng Tá Tin Mừng” ngài dạy rằng:

- Khó nghèo có nghĩa là cần cù làm việc.

- Khó nghèo có nghĩa là liên đới phục vụ người nghèo, giúp họ thăng tiến đời sống của họ.

- Khó nghèo có nghĩa là chia sẻ của cải, lương thực cho người nghèo khổ, bệnh tật, cô thế, cô thân…

Thường tình sự khó nghèo được xét trong liên hệ tài sản vật chất. Sống khó nghèo có nghĩa là sống bình dị, không tạo ra nhu cầu giả tạo; thậm chí lại còn phải chấp nhận những thiếu thốn cơ cực nữa. Sống khó nghèo cũng có nghĩa là không dính bén với các đồ vật đang hưởng dùng và không phụ thuộc vào nó. Dần dần tâm tình khó nghèo còn áp dụng rộng hơn vào những lãnh vực khác như: không ham hố chức quyền danh vọng, là dứt bỏ khuyến luyến kể cả những tình cảm cao thượng. Do đó ta thấy đức khó nghèo có liên hệ mật thiết với đức thanh tịnh và vâng phục. Nó đòi hỏi chấp nhận sự từ bỏ kể cả những yêu sách chính đáng nhất như: sự thành công, hay như những thành quả công tác đã bao năm tốn công gầy dựng. Khó nghèo còn là chấp nhận những giới hạn của sức con người như: bệnh tật, ốm yếu, tuổi già…

Sự khó nghèo theo Tin Mừng là một chiều kích của tình yêu. Đời tu thuộc chiều kích của chính bối cảnh này. Giai đoạn lịch sử của chúng ta hiện nay rất khác với giai đoạn đời tu của những thập niên trước đây, lại đang trong đà phát triển với những đặc sủng lạ lùng và đặc biệt. Vì thế sự sống và tinh thần khó nghèo trong đời tu cần phải được thích ứng và uyển chuyển tùy nơi, tùy thời.

Vậy. Sống đức khó nghèo là để gắn bó với Thiên Chúa hơn và là để xây dựng Nước Trời tại trần gian bằng cách xây dựng công bằng xã hội, tái tạo lại phần nào sự công bằng đã mất. Đức Ki-tô kêu gọi mọi người yêu thương nhau, chia sẻ cho nhau. Những người nào muốn theo Ngài, muốn làm đồ đệ Ngài, muốn theo con đường của Ngài, thì lời đầu tiên mà Ngài đề nghị là: “Nếu anh muốn nên hoàn thiện, thì hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi” (Mt 19,21). Bán tài sản là chấp nhận sống nghèo, và mục đích trực tiếp của việc sống nghèo là để chia sẻ: chia sẻ của cải cho người nghèo mà cũng là chia sẻ thân phận hẩm hiu của họ. Đó là một hành vi yêu thương, một hành vi làm hoàn thiện chính con người thực hiện nó. Mục đích của việc tự nguyện sống nghèo hay sống Đức Thanh Bần chính là thực hiện Đức Ái.

+ Lời Khấn Thanh Tuân hay còn gọi là Lời Khấn Vâng Phục: Trong ba nhân đức của sự trọn lành và đời sống tận hiến, hai nhân đức Thanh Tịnh và Thanh Bần mang nhiều tính cách cá nhân, nên có thể gọi là “tư đức”, còn Đức Vâng Phục rõ ràng mang nhiều tính xã hội và Giáo hội, nên có thể gọi là “công đức”. Thật vậy, nhờ Đức Vâng Phục, người tu sĩ gắn bó chặt chẽ với Giáo hội hơn giáo dân, nên tu sĩ cũng là nền tảng và là trụ cột nâng đỡ tòa nhà Giáo hội. Như vậy, xét về khía cạnh xã hội và Giáo hội, Đức Vâng Phục quan trọng hơn hai nhân đức kia. Nó là một yếu tố quan trọng quyết định sự sống còn của Giáo hội. Giáo hội Công giáo là một Giáo hội phẩm trật, nên Đức Vâng Phục là nhân đức hết sức nền tảng của Giáo hội.

Vì thế, các tu sĩ phải là mẫu gương, hay có thể nói mạnh hơn nữa là chính các bậc tu trì phải là rường cột của Giáo hội, và tất cả những ai muốn tận hiến cho lý tưởng sống trọn lành, cần phải tuyên khấn hay tự nguyện thực hành Đức Vâng Phục như một nhân đức căn bản của đấng bậc mình. Nhờ sự vâng phục của các tu sĩ cũng như giáo dân, Giáo hội mới có thể đứng vững và luôn luôn phát triển bất chấp những hoàn cảnh lịch sử hết sức khó khăn. Công Đồng Vatican II xác nhận: “Đức Vâng Phục là sức mạnh đặc biệt của các thừa tác viên Chúa Ki-tô, Đấng đã dùng sự vâng phục để cứu nhân loại” (Ad gentes 24, 2). Nếu người ta nói: “Kỷ luật là sức mạnh của quân đội”, thì ta có thể nói: “Đức Vâng Phục chính là sức mạnh của Giáo hội”.

3. Đức Vâng Phục và các dây liên hệ:

Vâng phục bề trên là vâng phục Thiên Chúa: Những người được trao quyền làm bề trên của ta một cách hợp pháp, thì quyền đó phát xuất từ Thiên Chúa, được ban qua các vị đại diện của Người ở trần gian, hoặc qua những người được các vị đại diện đó ủy quyền. Vì thế, thông thường mà nói, vâng phục bề trên chính là vâng phục Thiên Chúa.

Quyền bính từ Thiên Chúa xuống đến các vị bề trên cho dù là cấp thấp nhất. Vì thế, vâng phục các ngài là vâng phục chính Thiên Chúa, là tuân theo thánh ý Người. Công Đồng Vatican II nhắn nhủ các tu sĩ: “Các tu sĩ hãy khiêm tốn vâng phục bề trên của mình trong tinh thần tin kính và yêu mến đối với thánh ý Thiên Chúa” (Perfectae caritatis 14, 2).

Người lãnh đạo tốt phải là người vâng phục tốt: Đương nhiên, để có sự sáng suốt khôn ngoan mà lãnh đạo, chính bề trên cũng cần biết vâng phục: “vâng phục Thiên Chúa”. Nhưng vì Thiên Chúa không trực tiếp ra lệnh, nên con người cần phải nhận ra mệnh lệnh hay ý muốn của Ngài qua lương tri và lương tâm trưởng thành của mình, qua luật pháp của Chúa, của quốc gia, của tu viện, qua các bổn phận đột xuất và thường hằng của đấng bậc mình, cụ thể nhất qua lệnh của các bề trên và qua ý kiến của các bề dưới mình.

Vậy, cả người ra lệnh lẫn người thi hành lệnh, cả bề trên lẫn bề dưới, đều phải vâng phục: (vâng phục Thiên Chúa, vâng phục bề trên của mình). Như thế là chẳng ai nên làm theo ý riêng mình cả. Và khi nhắm thực hiện thánh ý Thiên Chúa, thì cả hai đều thực hành Đức Vâng Phục.

Đức Vâng Phục phải thể hiện Đức Ái: “Thiên Chúa là Tình Yêu” (IGa 4,8), và đạo của Người là Đạo Tình Yêu: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con yêu thương nhau” (Ga 13,35). Tất cả mọi lề luật, mọi nhân đức, mọi nghi thức, hay tiếng lương tâm… đều chỉ qui về một mối là Tình Yêu. Cốt tủy của Đức Vâng Phục là thực thi thánh ý Thiên Chúa. Mà thánh ý của Thiên Chúa cuối cùng cũng chỉ là làm sao để Tình Yêu được thể hiện nơi con người, trong bản thân mỗi người, trong gia đình, trong xã hội, trong Giáo hội. Vì thế, cái làm cho hành vi vâng phục trở thành nhân đức cũng là Đức Ái, là tình yêu thương thực sự. Hành vi vâng phục nào phản lại yêu thương thì không phải là nhân đức.

Đức Vâng Phục đòi hỏi sự đối thoại: Đối thoại để biết rõ ý Chúa hơn. Bản chất và mục đích của Đức Vâng Phục là thi hành Thánh ý Thiên Chúa, nên Đức Vâng Phục, tự bản chất, đòi hỏi phải có “sự đối thoại”. Nhờ đối thoại, Thánh ý Thiên Chúa mới được nhận biết chính xác, đúng mức. Nhờ đối thoại, lệnh của bề trên mới có nhiều cơ may đúng với Thánh ý Thiên Chúa hơn. Vì khi bề trên ra lệnh, “vấn đề quan trọng không phải là lệnh của mình có được tuân hành không, mà là Thánh ý Thiên Chúa có được thi hành hay không”. Làm sao một bề trên có thể tự hào là mình luôn luôn sáng suốt, biết rõ Thánh ý Thiên Chúa để ra lệnh, mà không cần bàn hỏi ai, nhất là bàn hỏi với những người có nhiệm vụ thi hành lệnh của mình? Sự khôn ngoan thận trọng mà bản chất Đức Vâng Phục đòi hỏi – tức thánh ý Thiên Chúa phải được thực hiện – buộc rằng vâng phục phải được thực hành trong đối thoại, nhất là trong những việc quan trọng.

Vậy mục đích của Đức Vâng Phục là thực hiện thánh ý Thiên Chúa đồng thời duy trì và phát triển trật tự tốt đẹp trong đời sống cá nhân cũng như trong cọng đoàn, hay trong xã hội, Giáo hội. Đức Vâng Phục đó phải luôn luôn mang hai chiều kích: “cá nhân và xã hội”. Hai chiều kích đó phải hòa hợp với nhau: vừa phải làm cho đời sống cá nhân tốt đẹp, vừa phải làm cho trật tự xã hội được hoàn hảo. Tất cả đều phải được thực hiện trong tinh thần yêu thương của Đức Ái Ki-tô-giáo.

4. Nhận định thay lời kết:

Nhờ Lời khấn Dòng người tu sĩ sát tế ý riêng mình làm của lễ dâng lên Thiên Chúa. Hy lễ đó là hy lễ đẹp lòng Thiên Chúa nhất, vì sát tế trong ba nhân đức của lời khấn cũng là sát tế chính mình. Sát tế những thứ khác không có giá trị bằng. Và đó cũng là phương thế hữu hiệu bậc nhất để tự thánh hóa bản thân. “Hạt lúa rơi xuống đất mà không chết đi thì mãi mãi vẫn chỉ là hạt lúa, nhưng nếu chết đi thì nó sẽ sinh hoa kết trái gấp trăm” (Ga 12, 24).

Đức Thanh Tịnh làm cho tâm hồn ta trong sạch, thanh cao, nó giúp ta lo việc Chúa cách hữu hiệu hơn. Đức khó nghèo giúp ta gắn bó với Thiên Chúa và góp phần xây dựng công bằng, bác ái. Đức Vâng Phục làm cho “cái tôi” của ta chết đi, nhường chỗ cho Đức Ki-tô ở trong ta lớn lên. Chính Đức Ki-tô đã nêu gương sát tế ấy cho chúng ta. Ngài đã sống đời Thanh tịnh, Khó nghèo và Vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá: ”Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2,6-8).

Chúng ta khấn và giữ ba lời khuyên Phúc Âm chính là chúng ta thể hiện tình yêu của chúng ta dành cho Thiên Chúa và dành cho Thiên Chúa một cách: “Hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực” (Mc 12,30). Yêu như vậy là yêu mắc-xi-mum, yêu hết ga, yêu hết cỡ..., Chúng ta thường nghe người ta hát: “Yêu là chết ở trong lòng một ít...”, nhưng yêu Chúa chúng ta phải chết trọn cả con người chứ không phải chỉ là một ít đâu, phải chấp nhận đóng đinh chính mình vào thánh giá Chúa Ki-tô, để được sống với Người trong cuộc sống mới tràn đầy hạnh phúc và niềm vui.

“Khấn là để sống trung thành với Ơn gọi, với Cộng Đoàn, với Giáo hội và với Thiên Chúa”. Các bạn có thấy khó không? Thật là khó phải không các bạn: Chúa thì chẳng có hương, có sắc - còn người ta thì có sắc, có hương thơm; Chúa thì nói trong tận thâm sâu cõi lòng, nhiều khi lắng mãi mà chẳng nghe được - trong khi người ta lại muốn dâng cái hương, cái sắc đầy hấp dẫn và quyến rũ ấy cho ta với những lời ngọt ngào, chân thành và nồng cháy thế có chết không cơ chứ?; Chúa thì kêu gọi ta bằng tiếng nói của lương tâm - người thì kêu gọi ta trong lương tiền, thực tế thế có mê không chứ? Ai mà chẳng ham tiền?; Chúa thì kêu gọi ta bằng tiếng vọng trầm lặng của con tim - người thì kêu gọi ta bằng tiếng mô-bi-phôn thánh thót, thế có dễ động lòng không cơ chứ?; v.v… Nhưng phải dứt khoát thôi! không chần chừ được, lừng khừng chần chừ thì chỉ có từ chết đến bị thương…; nghĩa là không thể tu trọn kiếp được đâu !!!..., vì “Không ai có thể làm tôi hai chủ” (Mt 6,24; Lc 16,13).

Muốn được như vậy, chính mỗi người chúng ta phải có được tình yêu nồng cháy trong con tim của mình. Làm sao có được tình yêu nồng cháy? - Phải tha thiết và thường xuyên cầu nguyện thôi. Mỗi người chúng ta phải chân thành cầu xin Chúa Ki-tô Phục sinh, trao ban Thánh Thần tình yêu của Người đến, để Ngài đốt lên ngọn lửa yêu mến, đổ tràn tình yêu vào trái tim nhỏ bé, chai đá, ích kỷ, đầy tham vọng… của mỗi người chúng ta bằng những chất liệu của khiêm nhường, vị tha, hy sinh, quảng đại... Và như thế trái tim của chúng ta mới thực sự là trái tim yêu thương và biết yêu thương đúng nghĩa. Có như thế, ba lời khuyên Phúc Âm mà chúng ta khấn hứa mới thể hiện được ý nghĩa vượt qua và cánh chung cách trọn vẹn như lòng Chúa mong ước; và có như thế mới có thể mô phỏng được phần nào hình ảnh đời sống mai sau trên Quê Trời hằng sống.

JB. BÙI NGỌC ĐIỆP

VỀ MỤC LỤC
CHÍNH CHA ĐÃ CHỌN CON

Nhân ngày cầu cho Ơn Gọi, tôi muốn chia xẻ một chút tâm tình về đoạn đường Ơn Gọi mà tôi đã đi qua.

Không phải con đã chọn Cha,

Nhưng chính Cha đã chọn con.

Đó là câu kinh thánh mà tôi cảm thấy rất ứng nghiệm cho cuộc đời tận hiến của tôi, một cuộc đời đã phãi trải qua một đoạn đường dài hai mươi lăm năm trời làm chủng sinh (1964-1989) với đầy những nước mắt và mồ hôi. Một cuộc đời chất chứa đầy những gian lao và thử thách, có những lúc tưởng chừng như sắp chết vì những trận cuồng phong bão tố hay những đám mây mù dày đặc bao phủ quanh tôi. Trong cái tối tăm của cuộc đời đó, tôi cũng đã cảm thấy chán chường và thất vọng vì lý trí không còn sáng suốt nữa, con tim đã trở nên khô cằn, sức mạnh dường như đã rời xa tôi, và tôi cũng đã cảm thấy không dễ để vượt thắng.

Trong cơn khủng hoảng ấy, tôi không biết đi tìm nơi đâu một ý nghĩa cho cuộc sống, cho những đau khổ đang có của tôi, cuối cùng tôi cũng đã chạy đến với Cứu Chúa của tôi. Tôi có thể nói được rằng chính Ngài là một sự khó hiểu vì nếu Ngài tốt lành, sao Ngài lại để tôi cứ mãi đau khổ thế nầy? Nếu Ngài có thể làm được mọi sự, sao Ngài cứ để tôi lẩn quẩn mãi trong những khó khăn không thể thoát ra được ? Ngài muốn tôi làm gì cho Ngài ? Dường như Ngài đã lãnh đạm trước những khổ đau tôi, trước những nỗi chán chường của tôi. Vâng, chính Ngài là Đấng đã gởi cho tôi những thử thách lớn lao nầy.

Nhưng rồi, với thời gian tôi đã khám phá ra điều nầy: may mắn cho cuộc đời tôi là đã nhận biết Thiên Chúa và vẫn còn tin tưởng vào Ngài. Vì bao lâu tôi còn tin vào Ngài tôi cảm thấy Ngài không bao giờ để tôi quá đau khổ đến nỗi thất vọng vì chính Ngài đã phán: Hỡi những ai yếu nhọc và gánh nặng, hãy đến cùng Ta, Ta sẽ nâng đỡ và bổ sức lại cho. Tôi tin rằng Ngài không bao giờ lừa dối tôi và đó chính là sức mạnh của tôi. Vì thế, tôi đã tin vào Ngài và chạy đến với Ngài ngay khi lòng tin của tôi bị thử thách. Tôi vẫn tin vào Ngài dẫu cho chân trời tăm tối bao phủ quanh tôi trong những nỗi buồn khổ và tủi hờn. Tôi đã phó thác vào Ngài vì tôi biết Ngài luôn luôn trung thành dẫu tôi có bất tín. Và vì Ngài luôn trung thành nên tôi tin rằng Ngài sẽ cắt nghĩa cho tôi những điều mà bây giờ tôi không hiểu chút nào về những biến cố mà Ngài đã gởi đến cho tôi. Tôi không hiểu tại sao Ngài đã làm những điều đó, nhưng tôi biết từ kinh nghiệm rằng mọi sự Ngài làm đều tốt đẹp vì tôi biết Ngài yêu tôi. Ngài không thể muốn hoặc làm cái gì khác ngoài động lực ước muốn chia xẻ sự tốt lành của Ngài cho tôi. Ý muốn của Ngài là hướng về sự toàn thiện như thánh Phaolô đã viết :

 Điều mà Thiên Chúa muốn là để chúng ta nên thánh thiện. Tất cả những gì xảy ra dưới sự quan phòng dẫn dắt của Ngài thảy đều có lợi cho chúng ta, đưa chúng ta đi vào sự thiện hảo và hạnh phúc mà thôi.

Quả thật như vậy, kinh nghiệm của cuộc đời tôi đã cho tôi xác quyết điều đó. Chính Ngài đã hướng dẫn mọi biến cố để dẫn dắt đời tôi. Trước đây, quả thật tôi không bao giờ dám nghĩ đến việc mình sẽ được đi xuất ngoại, và càng không bao giờ dám nghĩ rằng mình sẽ được đi du học. Rồi biến cố ba mươi tháng tư xảy đến, tôi vẫn ở lại để cùng sống và cùng chia sẻ tất cả những vui buồn sướng khổ của khúc quanh lịch sử với tất cả những người anh em của tôi suốt một đoạn đường cũng khá dài chín năm trời. Nhưng rồi số phận đã đưa đẩy tôi vào một con đường mà không có một lối nào khác để lựa chọn, nên tôi đã ra đi. Chính nhờ ở cái ngõ cụt bế tắc đó mà tôi có thêm được sự can đảm để dám đối đầu với tất cả những nguy hiểm có thể xảy đến trong cuộc hành trình vượt biển đầy gian nan, và rồi nó cũng đã giúp tôi khắc phục được tất cả những khó khăn của cuộc đời trên những vùng đất mới.

Nói đến đây tôi nhớ đến nhà tâm lý học Alfred Adler, ông tổ của trường phái tâm lý học của tôi, đã cho chúng tôi một quan niệm cơ bản rất chí lý nầy là: chính ý chí và trách nhiệm của mỗi người đóng một vai trò rất quan trọng đối với chính tương lai của họ. Với ông, điều quan trọng không phải là Ong Trời đã cho chúng ta bao nhiêu khả năng, bao nhiêu nén vàng: mười nén, năm nén, hay một nén. Nhưng điều quan trọng là chúng ta đã dùng hết tất cả những khả năng, những nén vàng mà Trời đã trao tặng cho chúng ta chưa ? Một người được trao cho mười nén, nhưng họ chỉ dùng có ba nén còn bảy nén đem chôn cất đi thì chắc chắn không thể tốt hơn người được trao tặng chỉ có năm nén nhưng họ đã biết dùng tận lực để phát triển.

Kinh nghiệm cũng cho chúng ta thấy rằng bao lâu chúng ta còn nuôi lấy quyết tâm chấp nhận những gian khổ để đi đến thành công bấy lâu chúng ta vẫn còn sức mạnh để chịu đựng và tiếp tục cuộc hành trình của chúng ta. Trái lại, bao lâu chúng ta có tư tưởng đầu hàng nghĩ rằng mình không thể nào chịu đựng được nữa, bấy giờ ngay tức khắc chúng ta cảm thấy có một cái gì sụp đổ hẳn trong con người chúng ta và chúng ta sẽ thấy mình kiệt sức và tuyệt vọng. Điều đó có thể giúp ta hiểu được lý do tại sao biết bao nhiêu người trẻ tuổi đã đành bỏ cuộc quá sớm trong vấn đề học hành trong khi có rất nhiều người già nua vẫn có thể tiếp tục đi học và họ đã thành công trên con đường học vấn cũng như con đường công danh sự nghiệp của họ. Cứ để cho mọi người có cơ hội tốt để phát triển khả năng của họ bấy giờ ta mới thấy rõ ai là người có khả năng để làm việc. Cũng nhờ biến cố ba mươi tháng tư mà nhiều người Việt Nam có được cơ hội để ra đi học hỏi những điều hay cái đẹp của những nước văn minh trên thế giới. Và có thể nói được rằng tôi cũng là một trong số những người đã được hưởng cái may mắn đó.

Thật vậy, tôi có thể nói một cách xác tín rằng chính Thiên Chúa đã hướng dẫn mọi biến cố để đưa tôi vào con đường Ngài muốn tôi đi. Và càng ngẫm nghĩ tôi càng cảm thấy thâm tín điều nầy là: KHÔNG PHẢI CON ĐÃ CHỌN CHA NHƯNG CHÍNH CHA ĐÃ CHỌN CON VÀ SAI CON ĐI.

Quả thật, nếu nói rằng linh mục là người có đầu óc thông minh và lỗi lạc thì trong số những anh em đồng bạn của tôi còn có nhiều đầu óc trổi vượt hơn tôi. Nếu nói rằng linh mục là những người lành thánh thì chắc hẳn trong quí vị không thiếu gì những tâm hồn đạo đức và thánh thiện hơn nhiều. Nhưng vì tình yêu vẫn còn là một cái gì cao siêu và huyền nhiệm khiến chúng ta không thể thấu hiểu được. Nhiều lúc chúng ta cũng đã từng thắc mắc hỏi nhau một cách rất ngạc nhiên: tại sao cái anh như thế nầy lại đi lấy cái chị thế ấy ? Hay tại sao cái chị như thế ấy lại đi lấy cái anh thế nầy? Đó chính là Mầu Nhiệm của Tình Yêu !

Tình yêu của Thiên Chúa trên tôi không căn cứ trên công trình của tôi. Đó là một tình yêu hoàn toàn nhưng không. Thật vậy, tình yêu của Ngài đã đến trên tôi và chọn tôi, không phải vì tôi trổi vượt hơn những người khác. Thiên Chúa đã yêu tôi trước khi tôi hiện hữu. Khi tình yêu Thiên Chúa căn cứ trên cái nhưng không, tình yêu ấy không thể bị tiêu diệt, và tôi sẽ không bao giờ mất nó vì nó không đến do một công trình nào của tôi mà là một món quà hoàn toàn nhưng không của Thiên Chúa.

Thiên Chúa đã tuyển chọn những con người tầm thường để làm nên những công trình vĩ đại của Ngài. Có như thế người ta mới nhận thấy rằng đó chính là công trình của Thiên Chúa chứ không phải công trình của con người, vì đối với Thiên chúa không có gì là không có thể.

Thiên chúa đã tuyển chọn Đức Maria, một cô thôn nữ đơn sơ tầm thường, không giàu sang, không quyền quí, không thông minh, không lỗi lạc để làm mẹ Đấng Cứu Thế.

Các tông đồ ngày xưa, những con người quê mùa chất phát lại được tuyển chọn trở thành những sứ giả rao giảng Tin Mừng. Và Phêrô, một con người đã ba lần chối Chúa lại được mời gọi làm lãnh tụ giáo hội Chúa. Ôi, tình yêu thật mầu nhiệm !

Thật là tuyệt diệu khi thấy mọi giá trị đã được đảo ngược để từ đây từ đáy lòng của muôn người sẽ mãi mãi vang lên khúc ca tuyệt vời của lời kinh Magnificat:

Linh hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa

Và thần trí tôi mừng rỡ trong Thiên Chúa Đấng Cứu Chuộc tôi

Vì Chúa đã đoái đến phận hèn tớ nữ Ngài

Để từ nay muôn đời sẽ gọi tôi là có phúc.

Không còn phúc cho những con người quyền cao chức trọng nữa mà phúc cho những phận hèn tớ nữ nương náu dưới bóng Tình Yêu của Ngài…

Lm. Lê Văn Quảng

VỀ MỤC LỤC
Trái Tim Lạc Lõng nhưng Nhân Hậu

Câu Chuyện Thầy Lang

Bác sĩ Nguyễn Ý-ĐỨC

Vâng đây đích thực là một trái tim lạc lõng. Nó nằm cô đơn, xa lạ trong một môi trường mà các bộ phận khác đều là những tế bào cấu tạo bằng chất hữu cơ. Chung quanh nó là hằng hà sa số những dây những ống: nào là dây thần kinh, mạch máu, với những phản ứng sinh hóa học liên tục diễn ra. Ngay cả cái tên của Tim cũng mới. Nó không mang tên Trái Tim Dịu Hiền, Trái Tim Vàng, Trái Tim Nhiều Mầu, Trái Tim Tình Yêu,Trái Tim Từ Bi, Trái tim Vô Nhiễm...

Mà có tên là AbioCor.

AbioCor đã giúp một lão nhân gần giã từ cuộc đời tiếp tục an hưởng vui vẻ với gia đình thêm được 17 tháng thay vì mệnh một trong ba tháng.

Phẫu thuật ghép Tim

Mỗi năm, có cả trên 50.000 giải phẫu thay tim thiên nhiên trên thế giới. Việc thay tim cũng như các bộ phận khác đã được hoàn chỉnh và tương đối an toàn. Đó là nhờ kỹ thuật giải phẫu tân tiến hơn, có nhiều thuốc hữu hiệu để ngừa phản ứng khước từ giữa cơ thể nhận và bộ phận cho, đồng thời số người hiến tim cũng nhiều hơn.

Ghép tim đứng hàng thứ tư trong các giải phẫu bộ phận thay thế, sau ghép võng mạc, thận và gan. Bệnh nhân được chụp thuốc mê tổng quát, ngực mổ toang, tim hư lấy ra và thay bằng tim thiên nhiên của một người cho mà chức năng não đã ngưng, sống nhờ phương thức hỗ trợ.

Thường thường chỉ những người bị bệnh tim trầm trọng, với 20% hy vọng sống được một năm và không đáp ứng với bất cứ phương pháp trị liệu nào khác mới là đối tượng nhận tim tặng dữ.

Nhắc lại là giải phẫu thay tim thiên nhiên đầu tiên ở loài người được bác sĩ Christian Barnard thực hiện vào ngày 3 tháng 12 năm 1967 tại quốc gia Nam Phi.  Bệnh nhân là ông Lewis Washkansky. Diễn tiến cuộc giải phẫu rất thành công.Tuy nhiên các dược phẩm dùng để tránh phản ứng của cơ thể với tim lạ này đã khiến ông ta không chống cự được các bệnh khác. Ông ta thiệt mạng vì sưng phổi 18 ngày sau.

Tim thiên nhiên

Tim thiên nhiên có bốn ngăn: hai tâm nhĩ nằm phía trên hai tâm thất, ngăn cách bẳng những lá van. Các ngăn hoạt động đồng loạt với nhau như một hệ thống bơm để đẩy máu ra khỏi tim và tiếp nhận máu về tim. Tim co bóp làm hai giai đoạn:

* Hai tâm nhĩ phải và trái cùng bóp vào để đẩy máu xuống hai tâm thất.

* Hai tâm thất đồng thời bóp vào để đưa máu lên phổi từ thất phải và ra cơ thể từ thất trái.

Rồi tim thư dãn, tiếp nhận máu từ phổi và ngoại vi đề sẵn sàng cho nhịp bóp tiếp theo.

Tim thiên nhiên làm bằng các loại tế bào sống, cần nuôi dưỡng nên cần năng lượng do thực phẩm và không khí cung cấp. Trung bình tim đập từ 60- 100 nhịp/ một phút.

Tim nhân tạo

Háng năm, ở nước Mỹ, có khoảng 700.000 bệnh nhân thiệt mạng vì suy tim. Một số đông có thể kéo dài tuổi thọ nếu được ghép tim. Nhưng khốn một nỗi là mỗi năm chỉ có khoảng 2000 người rộng lượng hiến tim. Thành ra nếu có một trái tim nhân tạo hoàn hảo thì là một đại hạnh cho nhân loại.

Nhìn thấy nhu cầu đó, các nhà khoa học đã tận lực nghiên cứu để thay tạo hóa chế biến một con tim.

Tim nhân tạo đầu tiên có tên Liotta được ghép tại Houston vào năm 1969 như giai đoạn chuyển tiếp chờ ghép tim thật cho bệnh nhân 49 tuổi Haskel Karp. Nhưng ông ta mệnh một 65 giờ sau khi được ghép tim thiên nhiên.

Năm 1982, bác sĩ William DeVries ghép tim nhân tạo Jarvik-7 cho nha sĩ Barney Clark ở Seatles.  Tim này được bác sĩ Robert K. Jarvish sáng chế. Tim là bằng chất vải và nhựa nhân tạo, nhôm với bộ phận phát điện.

Vị nha sĩ sống thêm được 112 ngày nhờ tim này. Ông bị các biến chứng như sưng phổi, kinh phong, nhiễm trùng trước khi suy nhược các cơ quan sinh tử trong người.

Năm 2000 mẫu tim Jarvik II được thành hình và cung cấp máu lưu thông liên tục thay vì theo từng nhịp tim bóp.

Trong khi đó nhiều nhà khoa học khác tiếp tục nghiên cứu sáng chế trái tim nhân tạo.

Sau hơn ba mươi năm nghiên cứu, công ty Abiomed  bên Hoa Kỳ đã giới thiệu mẫu tim AbioCor. Theo khoa học gia Robert T.V. Kung, trưởng nhóm nghiên cứu, thì nếu thành công, tim sẽ giúp kéo dài đời sống con người. Và bệnh nhân sẽ có thể thực hiện được các công việc hàng ngày như tắm rửa, đi lại, thay quần áo, xum họp với gia đình.

Cấu trúc AbioCor

Hệ thống AbioCor có một thành phần gắn trong cơ thể và phần nằm ở ngoài cơ thể.

a- “Trái tim thay thế” lớn bằng  một trái bưởi nhỏ, nặng gần một kí lô, nằm gọn trong lồng ngực, không dây dợ, không ống nối trên da. Nó không có hình dạng một trái tim bình thường mà là một thiết bị làm bằng hóa chất mềm trong suốt với bốn miệng van.. Thay vì hai tâm thất và hai tâm nhĩ như tim thiên nhiên thì tim nhân tạo chỉ có hai tâm thất ngăn cách bằng một vách thẳng đứng. Vách có thể đàn hồi. Nằm trong vách là một máy bơm nhỏ tí tẹo nhưng công suất rất mạnh để vận chuyển máu.

Vật liệu làm trái tim là kim loại titanium và một loại hợp chất nhựa Angioflex rất bền. Angioflex có thể chịu nhịp đập 100.000 lần mỗi ngày trong nhiều năm. Hợp chất này là một đặc chế của viện Abiomed, không gây ảnh hưởng xấu cho tế bào máu cũng như tránh máu bị đóng cục

b- Một bộ phận điện tử nhỏ síu gắn dưới da để kiểm soát điều hòa tốc độ tim đập tùy theo nhu cẩu sinh học của bệnh nhân..

 c- Một bình điện bé gắn dưới da, được bình ở ngoài tiếp điện đủ để hoạt động trong từ 30 tới 60 phút, nhờ đó bệnh nhân có thể thoải mái vui chơi với con cháu hoặc bơi lội, tắm rửa. Bình điện cung cấp năng lượng cho tim nhân tạo và bộ phận điện tử kiểm soát.

d- Một bộ phận truyền năng lượng qua lớp da mà không cần dây dẫn điện để nạp điện cho bình điện nằm trong người. Da vẫn lành lặn nên không có rủi ro nhiễm trùng.

Và một bình điện bên ngoài rất nhỏ, bệnh nhân có thể đeo trên người và đi lại hoạt động như thường . ( Chú thích:có hình đính kèm)

 Máu huyết luân lưu như sau:

Bơm đẩy vách sang tâm thất phải thì van trên mở, van dưới đóng lại, máu từ thất phải được đưa lên phổi. Trong khi đó bên tâm thất trái, van dưới mở, van trên đóng để tiếp nhận máu từ phổi về.

Nhịp kế tiếp, thì vách đẩy sang thất trái, van dưới đóng, van trên mở, dồn máu vào đại động mạch để được đưa đi khắp cơ thể, trong khi đó tâm thất phải tiếp nhận máu về từ cơ thể.

 Mỗi phút nó có thể bơm khoảng 10 lít máu, trong khi đó tim thịt của Tạo Hóa bơm có 5 lít.

AbioCor có thể co bóp khoảng 180 triệu lần và bền bỉ ít nhất là 5 năm. Nhịp co bóp giống như của tim thật để đẩy máu tới  phổi và thu máu vào từ khắp cơ thể. Chỉ có điều là nhịp này rất nhẹ, người yêu ngồi ngay kế bên cũng không nghe thấy được.

Kết quả ghép AbioCor

Tháng Giêng năm 2001, Abiomed được cơ quan Thực Phẩm và Dược Phẩm Hoa Kỳ chấp thuận cho phép thử nghiệm ghép Abiocor cho con người.

Phẫu thuật đầu tiên được thực hiện với Robert Tools, 55 tuổi vào ngày thứ Hai mồng 2 tháng 7 năm 2001 tại bệnh viện Jewish ở Kentucky. Ông Tool s mắc bệnh tiểu đường, bị suy tim Bệnh nhân hưởng thọ thêm được 151 ngày trước khi bị tai biến động mach não nặng và sau khi thực hiện một thú vui mà ông ta rất thích là đi câu cá.

 Sống lâu nhất là Tom Christerson, 70 tuổi, giải phẫu ngày 13 tháng 9 năm 2001, tạ thế ngày 7 tháng Hai năm 2003. Tom đã vui vẻ với gia đình thêm được một Lễ Tạ Ơn và một Giáng Sinh-Tân niên, tổng cộng là 512 ngày. Theo người con gái, “bố tôi  đã có cơ hội vui cùng gia đình, coi TV, ăn bắp rang, uống cà phê và làm nhiều việc hữu ích cho các cháu”.

Bệnh nhân thứ tám là một cụ già 80 tuổi. Cụ kéo dài tuổi thọ được 101 ngày.

Bệnh nhân thứ 14, cụ William Wiley, 73 tuổi được ghép AbioCor vào tháng 5 năm 2004 vì bị suy tim tụ huyết. Bệnh cụ trầm trọng đến nỗi các bác sĩ nói ông chỉ còn sống được 30 ngày nữa mà thôi. Tình trạng sức khỏe của cụ quá xấu để được gắn tim thật. Cụ có thêm 116 ngày để vui sống với cụ bà , con cháu và bằng hữu xa gần.

Nói chung thì các bệnh nhân đều sống lâu hơn thời gian 30 ngày mà các nhà khảo cứu dự kiến. 

Ai được ghép AbioCor

Theo Cơ quan Thực Phẩm và Dược Phẩm Hoa Kỳ, chỉ được ghép tim nhân tạo:

a) bệnh nhân nào bị bệnh tim kinh niên ở giai đoạn cuối cuộc đời, không sống lâu quá 30 ngày;

b) Không được dự trù ghép tim nhân tạo;

c) Không đáp ứng với bất cứ phương pháp điều trị nào khác.

Thường thường các bệnh nhân có tâm thất suy nhược nhưng các bộ phận sinh tử khác của cơ thể vẫn còn hoạt động.

Các bệnh nhân được phép gắn tim nhân tạo có:

* Tâm thất phải suy yếu trầm tọng cộng thêm suy tâm thất trái. Tâm thất là bộ phận chính để đẩy máu từ tim ra nuôi toàn cơ thể cũng như lên phổi.

* Tăng huyết áp phổi không điểu trị được bằng dược phẩm;

* Chẩy ngược của van động mạch chủ ;

* Rối loạn nhịp tim trầm trọng;

* Nhồi máu cơ tim lớn với tế bào tim hư bở   ‘

* Vách thất đứt vỡ;

* Thất bại sau khi ghép tim thiên nhiên;

* Máu cục trong hai tâm thất

Không phải là bệnh viện nào cũng được ghép thử tim nhân tạo. Hiện nay mới chỉ có năm trung tâm ở Boston, Philadelphia, Louisville, Houston và Los Angeles  là hội đủ điều kiện về kỹ thuật cũng như chuyên viên giải phẫu.Trong tương lai, khi được phép dùng rộng rãi, công ty Abiomed dự trù chỉ lựa 15 trung tâm trebn khắp thế giới để thực hiện giải phẫu thay thế.

Công ty đang xin phép chính quyền để phẫu thuật được chính thức công nhận áp dụng. Tuy nhiên Cơ Quan Thực Phẩm và Dược Phẩm Hoa Kỳ chưa đồng ý vì cho rằng ích lợi của AbioCor ít hơn rủi ro.

Nếu Abiocor thành công thì mỗi năm sẽ có cả 100.000 bệnh tim được thay. Cho tới tháng 9 năm 2004 đã có 14 bệnh nhận được lựa ghép thử nghiệm với AbioCor.

Tổn phí mỗi giải phẫu tốn chừng 70.000 mỹ kim, ấy là chưa kể phí tổn hậu giải phẫu và chăm sóc theo dõi. Nhưng nếu AbioCor khiến người bệnh sống thêm được dăm năm, thì cũng không đắt lắm. Vì chăm sóc người bệnh đau tim trầm trọng tốn phí nhiều hơn, mà thay tim thật thì lại đắt gấp mươi lần.

Công Ty Abiomed mới giới thiệu sản phẩm tim nhân tạo thứ hai tên là AbioCort II

Kết luận

Với đà tiến triển hiện tại của y khoa học, thì một ngày nào đó khi xin trái tim tình yêu, lại phải hỏi nhau xem tim thiên nhiên hay nhân tạo; nhắc nhau xem có cần mua thêm bình điện sơ cua. Để thời gian yêu đương làm tình khỏi gián đoan.

Ngoài ra thận nhân tạo đang được bác sĩ David Humes, Ðại học Michigan nghiên cứu và  thử nghiệm với người bệnh bị thận suy bất thình lình. Khi thận suy, các chất cặn bã hóa học tích tụ trong máu và gây ra nhiều tác hại cho cơ thể.

Công lao của các nhà nghiên cứu khoa học với nhân loại thật là vĩ đại.

Bác sĩ Nguyễn Ý-ĐỨC

Texas- Hoa Kỳ

VỀ MỤC LỤC
 

- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến, bài vở..., xin gởi về địa chỉ

giaosivietnam@gmail.com

- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:

Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục vụ của Giáo sĩ;  Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh vực; Mỗi  Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)

- Quí vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại

www.conggiaovietnam.net

Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị

Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác nhau.

TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam

Lm. Luca Phạm Quốc Sử  USA

 

 

Được chọn giữa loài người và cho loài người; GÍAO SĨ: Xuất phát từ gíao dân, hiện diện vì gíao dân và cậy dựa vào gíao dân, để cùng làm VINH DANH THIÊN CHÚA

*************