KINH CẦU CHO LINH MỤC |
LTS.
Ngày 7.5.2006 là Chúa nhật
Chúa Chiên Lành,
ngày cầu nguyện cho ơn thiên triệu Linh
mục và Tu sĩ. Với mục đích ấy, GSVN hân hạnh giới thiệu bản kinh
dưới đây, hy vọng sẽ được mọi người hưởng ứng và tiếp tay phổ
biến rộng rãi.
Bản kinh này được một số linh mục cao
niên và đạo đức soạn thảo, đồng thời cũng đã được Ban Biên Tập
Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam cân nhắc trước khi gửi đến quí Cha và
quí Vị.
KINH CẦU CHO LINH MỤC
Lạy Chúa Giêsu, Chúa là Đấng cứu chuộc và là Linh mục đời đời.
Xưa trên đồi Golgotha, Chúa đã chết để thiết lập một giao ước
mới, và cho toàn thể các tín hữu được tham dự vào chức Linh mục
của Chúa, để mỗi người chúng con, bằng đời sống cầu nguyện và hy
sinh, biết thi hành chức vụ tư tế; bằng đời sống bác ái và tông
đồ, biết thi hành chức vụ tiên tri; bằng đời sống dấn thân và
phục vụ, biết thi hành chức vụ vương đế theo tinh thần của
Chúa.
Hơn nữa, tại phòng tiệc ly và dưới chân thánh giá, Chúa đã thiết
lập chức Linh mục thừa tác, để tuyển chọn một số người tham gia
cách đặc biệt vào chức tư tế của Chúa. Chúa đã khắc ghi trên họ
một dấu ấn không thể tẩy xóa được. Nhờ đó, họ có khả năng dâng
lên Chúa Cha, hy lễ của Chúa cũng như của toàn dân: một hy lễ
hoà giải, qua đó Chúa liên tục hiến dâng chính mình và toàn thể
nhân loại cho Chúa Cha. Chúa đặt họ làm thừa tác viên của Bí
Tích Thánh Thể và ơn tha thứ, được tham dự vào sứ mạng phúc âm
hoá, và làm người tôi tớ của dân tộc mới mà Chúa đã cứu chuộc.
Hôm nay, chúng con cảm tạ Chúa và tha thiết cầu xin Chúa ban cho
các Linh mục, ("đặc biệt cho Cha xứ chúng con"), được trọn đời
yêu mến Chúa thiết tha, luôn phản ánh sự trong sạch, thánh thiện
và yêu thương của Chúa. Chớ gì lòng trung thành với Hội Thánh
của các ngài, nêu gương và củng cố niềm tin cho toàn thể dân
Chúa. Xin cho các ngài biết tận tuỵ chăm sóc, hy sinh và khiêm
tốn phục vụ đoàn chiên, như người mục tử tốt lành và khôn ngoan,
hầu nước tình thương của Chúa được mở rộng nơi mọi tâm hồn.
Lạy Đức Trinh nữ Maria, Mẹ Chúa Giêsu Linh mục và là Mẹ chúng
con. Xin Mẹ bầu cử cùng Chúa cho tất cả các Linh mục, ("và đặc
biệt cho Cha xứ của chúng con"), được mãi mãi trung thành với
Chúa và Hội Thánh, sống thánh thiện và nhiệt thành lo cho mọi
người nhận biết, yêu mến và phụng sự Chúa muôn đời. Amen.
GSVN
|
VỀ MỤC LỤC |
|
II. Những đòi
hỏi thiêng liêng đặc biệt trong đời Linh mục |
LTS :
Kính thưa Quí vị,
Bốn mươi năm sau
Thánh Công Đồng Vatican II, Dân Chúa tại Việt Nam vẫn chỉ biết
rất ít về những nội dung canh tân mà Giáo hội toàn cầu đã công
bố rộng rãi. Trước sự thúc bách ấy và trong khả năng hạn hẹp của
minh, GSVN sẽ cố gắng giới thiệu những bản văn quan trọng. Trước
hết là sắc lệnh
PRESBYTERORUM
ORDINIS, về
chức vụ và đời sống các Linh muc. (Bản dịch của GHHV Pio X,
1975).
Sắc Lệnh về Chức vụ & Đời sống các Linh mục
Chương III:
Đời Sống Linh Mục
II. Những đòi
hỏi thiêng liêng đặc biệt trong đời Linh mục
Trong những đức tính cần thiết hơn cả cho chức vụ Linh Mục,
phảl kể đến thái độ này, là bao giờ cũng sẵn sàng tìm ý muốn
Đấng đã sai mình chứ không phải tìm ý riêng. Thực ra công việc
của Thiên Chúa mà Chúa Thánh Thần tuyền chọn các ngài để hoàn
thành, vượt quá mọi năng lực và tầm mức khôn ngoan nhân loại; vì
“Thiên Chúa đã lựa chọn những gì yếu hèn trong thế gian để bêu
xấu những gì mạnh mẽ” (1Cor 1, 27). Vậy ý thức những sự yếu hèn
của mình, thừa tác viên đích thực của Chúa Kitô khiêm tốn làm
việc trong khi tìm xem điều gì đẹp lòng Thiên Chúa và như bị
ràng buộc bởi Thánh Thần, trong mọi sự Ngài đều tuân theo ý của
Đấng muốn cho mọi người được cứu rỗi. Ngài có thề khám phá và
tuân theo ý muốn này trong những sự kiện hàng ngày bằng cách
khiêm tốn phục vụ mọi người được Thiên Chúa ủy thác cho mình qua
các nhiệm vụ riêng cua mình cũng như qua những biên cố của đời
sống.
Nhưng vì chức vụ Linh Mục là chức vụ của chính Giáo Hội, nên
chức vụ đó chỉ có thể được chu toàn trong sự thông công phẩm
trật của toàn thể. Vậy đức bác ái mục vụ thôi thúc các Linh Mục
đang hoạt động trong mối thông hiệp này biết hy sinh ý riêng
mình, qua việc vâng lời phục vụ Chúa và anh em, bằng cách lấy
tinh thần đức tin mà lãnh nhận và tuân theo những gì được Đức
Giáo Hoàng, Đức Giám Mục của mình, cũng như các Bề Trên khác
truyền dạy và khuyên bảo, bằng cách hoàn toàn sẵn lòng tự hiến
và tự hiến hết mức trong bất cứ chức vụ nào đã được trao phó cho
mình dù là thãp kém và nghèo hèn. Thật vậy, nhờ cách đó, các
ngài duy trì củng cố sự hiệp nhất cần thiết với các anh em ngài
trong thừa tác vụ, và nhất là với những vị được Thiên Chúa đặt
làm nhà lãnh đạo hữu hình của Gìáo Hội; nhờ thế, các ngài cộng
tác vào việc xây dựng Thân Thể Chúa Kitô, Thân Thể được lớn lên
“bằng mọi mối khớp tương trợ”. Sự vâng phục này đưa con cái
Thiên Chúa tới sự tự do trưởng thành hơn, trong khi vì bác ái
thúc đẩy và để chu toàn chức vụ, các Linh Mục đã cẩn thận suy
nghĩ những phương thế mới để mưu ích hơn cho Giáo Hội, thì tự
bản tính sự vâng phục đòi buộc các ngài phài tin tưỏng đưa ra
những sáng kiến, phải tha thiết trình bày những nhu cầu của đoàn
chiên được trao phó và luôn luôn sẵn sàng tùng phục phán đoán
của những vị thi hành các phận vụ chính yếu trong việc điều
khiền Giáo Hội Chúa.
Nhờ tự ý khiêm nhượng và vâng phục trong tinh thấn trách
nhiệm mà các Linh Mục nên giống Chúa Kitô và có những cảm thức
như Chúa Giêsu Kitô, Đầng “tự hủy mình khi nhận lầy thân phận
tôi tớ… đã vâng lời cho đền chết “ (Ph 2, 7 - 9 ). Nhờ sự vâng
phục này Người đã chiến thắng và chuộc lại sự bất phục tùng của
Ađam, như Thánh Tông Đồ đã minh chứng: “vì một người không vâng
phục mà muôn người hóa thành tội nhân, thì cũng thế, vì một Đấng phục tùng mà nhiều ngưởi được trở nên công chính” (Rm 5,
19).
Sự chế dục hoàn toàn và vĩnh viễn vì Nước Trời đã được Chúa
Kitô khuyến khích mà qua các thời đại và ngay cả ngày nay vẫn
đựơc một số đông Kitô hữu sẵn lòng chấp nhận và tuân giữ một
cách đáng khâm phục, thì hiện thời vẫn luôn được Giáo Hội hết
sức quý trọng trong đời sồng Linh Mục. Thực vậy nếu vì vừa là
dấu chứng vừa là niềm khích lệ đức bác ái mục vụ và là nguồn
mạch đặc biệt làm phát sinh đời sống thiêng liêng phong phú trên
thế giới. Thực ra tự bản tính của chức Linh Mục không đòi buộc
điều đó như đã thấy thực hành trong Giáo Hội sơ khai và trong
truyền thồng của Giáo Hội Đông Phương. Trong các Giáo Hội đó,
ngoài những vị cùng với tất cả các Giám Mục, nhờ ơn thánh, đã
chọn bậc độc thân, cũng còn có những Linh Mục rất xứng đáng đã
lập gia đình; thực vậy, khi khuyến khích bậc độc thân Linh Mục,
Thánh Công Đông này không hề có ý định thay đổi tập quán khác
biệt đang thịnh hành một cách chính đáng trong Giáo Hội Đông
Phương, và thân ái khuyên nhủ tầt cả những ai đã nhận lãnh chức
Linh Mục và hiện đang sống đời đôi bạn, hãy bền chí trong ơn gọi
thánh và hoàn toàn quảng đạỉ tiếp tục hy sinh đời sống mình cho
đoàn chiên được trao phó.
Nhưng bậc độc thân có rất nhiều thuận tiện cho chức Linh Mục.
Thật vậy, sứ mệnh toàn diện của Linh Mục là tận hiến để phục vụ
một nhân loại mớì, mà Chúa Kitô Đấng chiến thắng sự chết đã
phục hồi trong thế gian nhờ Thánh Thần Người và là một nhân loại
đã được sinh ra “không bởi khí huyết, không bởi ý muốn xác thịt,
không bởỉ ý muốn của nam nhân, nhưng bởí Thiên Chúa” ( Gio 1,
13). Nhờ đức trinh khiết hay là bậc độc thân vì Nước Trời các
Linh Mục được thánh hiến cho Chúa Kitô với một lý do mới mẻ và
tuyệt hảo được dễ đdng kết hợp hơn với Người bằng một trái tim
không chia xẻ, tận hiến cách tự do hơn trong Người và nhờ Ngườì
để phục vụ Thiên Chúa và loài người, sẵn sàng hơn trong việc
phục vụ Nước Chúa và việc tái sinh siêu nhiên; như thế các ngài
có khả năng hơn để sinh nhiều con cái trong Đức Kitô. Chính nhờ
đó, các ngài tuyên bố trước mặt mọi người rằng mình muồn tận
hiến trọn vẹn cho công việc đã được trao phó, nghĩa là muốn đính
ước các tín hữu với một người bạn độc nhất và hiến dâng họ cho
Chúa Kitô như một trinh nữ thanh sạch; như thế các ngàl nhắc lại
cuộc hôn nhân mầu nhiệm đã được Thiên Chúa thiết lập và sẽ được
tỏ lộ đầy đủ ở đời sau. Cuộc hôn nhân trong đó Giáo Hội chỉ có
một vị Hôn Phu duy nhất là Chúa Kitô. Ngoài ra, các ngài còn trở
nên dấu chỉ sống động về thế giới mai sau, mà ngày nay đã hiện
diện qua đức tin và đức áí, trong đó các con cái sự sồng lại
không còn dựng vợ gả chồng nữa.
Vì những động lực đặt nền tảng trên mầu nhiệm Chúa Kitô và sứ
mệnh của Người nên việc sống độc thân trước tiên được khuyến
khích cho các Linh Mục, rồi sau đã trở nên luật buộc trong Giáo
Hội Latinh cho tất cả những ai muốn chịu Chức Thánh. Thánh Công
Đồng này phê chuẩn và xác định luật này một lần nữa đối với
những ai muốn chịu chức Linh Mục. Tín thác vào Chúa Thánh Thần,
Công Đồng rằng Chúa Cha sẽ quảng đại ban ơn độc thân là ơn rất
thích hợp với chức Linh Mục Tân Uớc, miễn là những người tham dự
chức Linh Mục của Chúa Kitô qua Bí Tích Thánh Chức cũng như toàn
thể Giáo Hội phải khiêm tốn và khẩn khoản nài xin. Thánh Công
Đồng này cũng khuyên mọi Linh Mục khi tin tưởng vào ơn Chúa đã
tự do và tự ý chấp nhận bậc độc thân thánh thiện theo gương Chúa
Kitô, hãy sống gắn bó với bậc đó bằng một tâm hồn quảng đại và
với tất cả con tim của mình. Xin họ hãy kiên nhẫn trung thành
trong bậc này và hãy nhìn nhận đó là ơn rất trọng đại mà Chúa
Cha đã ban cho mình và Chúa Con đã công khai tán thưởng, cũng như hãy
nhớ đến những mầu nhiệm cao cả được biểu lộ và thực hiện qua ơn
độc thân. Chắc hẳn nều càng có nhiều người trong thế giới ngày
nay nghĩ rằng sự chế dục hoàn toàn không thể có được, thì các
Linh Mục càng phải hiệp cùng Giáo Hội mà khiêm nhượng và kiên
nhẫn hơn nữa để cầu xin ơn trung thành, vì Chúa không bao giờ từ
chối những người kêu xin. Đồng thời các ngài lại phải luôn dùng
mọi phương thế siêu nhiên và tự nhiên mà mọi người sẵn có, nhất
là các ngài hãy tuân giữ những luật lệ khố hạnh đã được kinh
nghiệm của Gíáo Hội chuẩn nhận và không kém cần thiết trong thế
giới ngày nay. Vì vậy Thánh Công Đồng này không những yêu cầu
các Linh Mục mà còn kêu gọi tất cả các tín hữu hãy quý trọng ơn
độc thân Linh Mục cao quý này và hãy cầu xin cùng Chúa để chính
Ngài luôn rộng tay ban phát dồi dào ơn này cho Giáo Hội Ngài.
Nhờ đời sống thân hữu và huynh đệ glữa các Linh Mục với nhau
và với những người khác, các ngài có thể biết cách thẩm định và
vun trồng những giá trị nhân bản và quý mến các tạo vật tốt lành
như những ơn phúc của Thiên Chúa. Tuy sồng giữa thế gian nhưng
các ngài phài luôn biết rằng mình không thuộc về thế gian, như
lời Chúa là Thầy chúng ta đã phán dạy. Vậy sử dụng trần gian như
không sử dụng, các ngài được tự do, sự tự do giải thoát các ngài
khỏi mọi lo lắng hỗn loạn và làm cho các ngài ngoan ngoãn nghe
theo tiếng Chúa trong đời sống hằng ngày. Từ sự tự do và ngoan
ngoãn đó sẽ nảy sinh khả năng biện biệt thiêng liêng để nhờ đó
tìm ra thái độ đứng đắn đối với thế gian và của cải trần thế.
Thực vậy, thái độ đó rất quan trọng đối với các Linh Mục vì sứ
mệnh Giáo Hội được hoàn tất giữa trần gian và vì những của cải
được tạo dựng lại rất cần thiết cho sự tiến bộ bản thân của con
người. Vậy các ngài phải cảm tạ Chúa Cha trên trời, vì tất cả
những gì Ngài rộng ban cho để được sống xứng đáng. Tuy vậy, các
ngài phải phân biệt dưới ánh sáng đức tin tất cả những gì các
ngài gặp thấy để một đàng biết sử dụng một cách thích đáng những
của cải theo ý muốn của Thiên Chúa, đàng khác biết gạt bỏ những
gì phương hại đến sứ mệnh của mình.
Thật vậy, vì nhận Chúa là “phần và là gia nghiệp” của mình
(Ds 18, 20); nên các Linh Mục chỉ được sử dụng những của cải
trần gian vào những mục đích mà gíao lý Chúa Kitô và quy luật
của Giáo hội ấn định.
Về những của cải của Giáo Hội nói riêng, các Linh Mục phải
quản trị chúng theo bản chất chúng đúng như tiêu chuẩn của gíao
luật với sự giúp đỡ của những giáo dân thông thạo khi có thề.
Các ngài phai luôn luôn nhằm sử dụng chúng vào những mục đích mà
Giáo Hội phải theo đuổi khi Giáo Hội làm chủ nhưng của cải trần
gian, nghĩa là nhằm vào việc thờ phượng Chúa, cung cấp một mức
sống xứng đáng cho hàng giáo sĩ, cũng như thi hành những công
cuộc tông đồ thánh thiện, hay những việc bác ái, nhất là đối với những người nghèo túng. Còn những của cải có được nhân dịp
thi hành một vài nhiệm vụ nào đó của Giáo Hội, trừ khi có luật
ấn định cách khác, các Linh Mục cũng như các Giám Mục trước hết
phải dùng vào việc cấp dưỡng xứng đáng cho mình và việc chu toàn
những phận sự của đầng bậc mình, phần còn lại, các ngài hãy dùng
vào việc gây ích lợi cho Giáo Hội hoặc cho những công cuộc bác
ái. Bởi thế, cảc ngài không được coi chức vụ của Giáo Hội như
một mối lợi, cũng không được dùng những lợi tức để làm giàu cho
gia đình mình. Bỏi vậy các Linh Mục không bao giờ được để tâm
hồn dính bén của cải nhưng phải luôn luôn tránh mọi tham lam và
xa lánh mọi hình thức thương mại.
Hơn nữa, các ngài được mời gọi tình nguyện sống nghèo khó để
nên giống Chúa Kitô một cách rõ ràng hơn và tận tụy hơn với chức
vụ thánh. Thật vậy, dù giàu có, Chúa Kitô đã trở nên nghèo hèn
vì chúng ta để nhờ sự nghèo khó của Người mà chúng ta trở nên
giàu có. Cũng thế, chính các Tông Đồ đã làm gương chứng minh
rằng: đã lãnh nhận ơn cách nhưng không thì cũng phải ban phát
cách nhưng không, và các ngài đã biết sống khi được sung túc
cũng như khi phải túng thiếu. Việc sử dụng chung tài sản của
nhau một phần nào, theo gương đóng góp tài sản làm của chung mà
lịch sử Giáo Hội sơ khai đã ca ngợi, là một phương thế tuyệt hảo
để đạt được tình bác ái mục vụ và giúp các Linh Mục thực hiện
một cách đáng khen ngợi tinh thần nghèo khó đã được Chúa Kitô
khuyến khích.
Vì thế, các Linh Mục cũng như Giám Mục, được Chúa Thánh Thần
hướng dẫn, Ngài là Đấng đã xức dầu cho Chúa Cứu Thế và sai đi
giảng Phúc âm cho người nghèo khổ, phải tránh tất cả những gì
bằng cách này hay cách khác có thể làm mình xa cách người nghèo
khó, và hơn các môn đệ khác của Chúa Kitô các ngài phải loại bỏ
mọi thứ khoe khoang trong các đồ dùng của mình. Các ngài phải
xếp đặt chỗ ở thế nào để không ai coi đó là nơi bất khả xâm
phạm, và để không ai dù nghèo hèn đến đâu phải sợ hãi không bao giờ dám lui tới.
còn tiếp
|
VỀ MỤC LỤC |
|
THÁNH THỂ:
CHÓP ĐỈNH CỦA ĐỜI SỐNG LINH MỤC |
Nhiều người đã có
những cảm nhận khác biệt khi bước vào một nhà thờ Tin lành và
khi bước vào một nhà thờ Công giáo. Thực vậy, khi bước vào một
nhà thờ Tin lành, họ cảm thấy lạnh lẽo và trống trải. Còn khi
bước vào một nhà thờ Công giáo, họ cảm thấy ấm áp và linh
thiêng. Tại sao lại có sự khác biệt ấy ?
Tôi xin thưa : Vì
trong nhà thờ Công giáo có Chúa Giêsu hiện diện trong bí tích
Thánh Thể.
Nếu nhà thờ Công
giáo được coi như là trung tâm mọi sinh hoạt của giáo xứ, thì
phần cốt yếu của nhà thờ Công giáo chính là nhà tạm, nơi đó Chúa
Giêsu luôn ở với chúng ta qua từng biến cố, qua từng cảnh huống
của cuộc đời.
Vì thế, chúng ta
cũng có thể gọi Thánh Thể chính là con tim của Giáo hội, cũng
như của mọi người. Từ đó, chúng ta rút ra đề tài cùng nhau
chia sẻ hôm nay : Thánh Thể, chóp đỉnh của chức vụ Linh mục.
I - THÁNH THỂ, CHÓP ĐỈNH CỦA ĐỜI
SỐNG ĐỨC KITÔ
1- TỪ THẬP GIÁ
Như chúng ta đã biết
: Mục đích chính yếu của Đức Kitô khi đến trong trần gian là để
cứu chuộc chúng ta, giải thoát chúng ta khỏi vòng nô lệ tội lỗi.
Mục đích ấy được thực hiện một cách trọn vẹn qua cái chết của
Ngài trên Thập giá. Hay nói cách khác, Thập giá chính là đỉnh
cao mà Ngài hằng nhắm đến trong suốt cả cuộc đời.
Thực vậy, Thánh
Gioan đã viết :
“Đức Kitô xuống thế
không phải là để làm theo ý riêng của mình, nhưng là để chu toàn
thánh ý của Chúa Cha, Đấng đã sai phái Ngài.” (Ga 6,38).
Thánh Phaolô trong
bức thư gửi tín hữu do Thái cũng xác quyết :
“Khi bước vào trần
gian, Đức Kitô đã nói : Lạy Thiên Chúa, này con đây, con
đến để thực thi ý Ngài…Chính theo ý đó của Thiên Chúa, mà chúng
ta được thánh hóa nhờ Đức Giêsu Kitô đã hiến dâng thân mình làm
lễ tế chỉ một lần là đủ.” (Đức tin 10,5-10).
Ngay từ giây phút
đầu tiên khi nhập thể, Đức Kitô đã sống chết với ý định cứu độ
của Thiên Chúa :
“Lương thực nuôi
sống Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất
tốt đẹp công trình của Ngài. (Ga 4,34).
Lễ hy sinh của Đức
Kitô “đền bù tội lỗi cả thế gian” chính là cách diễn tả sự thông
hiệp tình yêu với Chúa Cha :
“Sở dĩ Chúa Cha yêu
mến tôi, chính vì tôi hy sinh mạng sống mình” (Ga 10,17). “Thế
gian phải biết rằng tôi yêu mến Chúa Cha và làm đúng như Chúa
Cha truyền cho tôi.” (Ga 14,31).
Ước muốn sống và
chết cho ý định cứu độ đầy yêu thương của Chúa Cha chính là động
lực cho cả cuộc đời của Đức Kitô. Chính vì cái chết trên
thập giá mà Ngài đã nhập thể :
“Lạy Cha, xin cứu
con khỏi giờ này ! Nhưng chính vì giờ này mà con đã đến.” (Ga
12, 27). “Chén đắng Chúa Cha đã trao cho Thầy, lẽ nào Thầy chẳng
uống ?” (Ga 18,11).
Và trên thập giá,
trước khi mọi sự được hoàn tất, Ngài còn nói :
“Ta khát.” (Ga
19,28).
2- ĐẾN THÁNH THỂ
Thế nhưng, đỉnh cao
Thập giá này đã được thực hiện trước một phần nào khi Ngài thiết
lập bí tích Thánh Thể vào buổi chiều ngày thứ năm tuần thánh.
Thực vậy, có lần
Ngài đã tỏ lộ ý muốn được ăn lễ Vượt qua với các môn đệ :
“Thầy những khát
khao mong mỏi ăn lễ Vượt Qua này với anh em trước khi chịu khổ
hình. Bởi vì, Thầy nói cho anh em hay, Thầy sẽ không bao giờ ăn
lễ Vượt Qua này nữa, cho đến khi lễ này được nên trọn vẹn trong
Nước Thiên Chúa."(Lc 22,15-16).
Và khi thời gian đến
và trong đêm bị nộp, Đức Kitô đã diễn tả tột độ việc từ hiến bản
thân mình trong bữa tiệc ly với mười hai tông đồ.
Hôm trước ngày chịu
nạn, khi còn hoàn toàn tự do, Đức Kitô đã biến bữa Tiệc Ly với
các tông đồ thành lễ tưởng niệm việc Ngài tự nguyện hiến dâng
cho Chúa Cha để cứu độ nhân loại :
“Anh em cầm lấy mà
ăn, đây là mình Thầy…Anh em hãy uống chén này, vì đây là máu
Thầy, máu Giao Ước, đổ ra cho muôn người được tha tội.” (Mt
26,26-28).
Bí tích Thánh Thể là
lễ tưởng niệm hy tế thập giá sẽ được thực hiện một cách đầy đủ
và trọn vẹn vào chiều hôm sau, ngày thứ sáu tuần thánh, trên
đỉnh đồi Canvê.
Đồng thời, Ngài mời
gọi các tông đồ tham dự vào lễ hiến dâng của Ngài và yêu cầu họ
lưu truyền hy lễ này mãi mãi.
Như thế, Đức Kitô
cũng đã đặt các tông đồ làm linh mục, làm tư té của Giao Ước mới
:
“Vì họ, con
xin thánh hiến chính mình con, để trong chân lý, họ cũng được
thánh hiến.” (Ga 17,19).
Nếu Đức Kitô đã
hướng tới thập giá như chóp đỉnh của đời mình, thì Ngài cũng
hướng tới Thánh Thể như vậy, bởi vì giữa thập giá và Thánh thể
có một mối liên hệ mật thết. Thánh Thể “hiện tại hóa” thập giá
và lưu truyền hy lễ của Đức Kitô cho đến tận cùng thời gian.
II - THÁNH THỂ, CHÓP ĐỈNH CỦA ĐỜI
SỐNG GIÁO HỘI
1- THÁNH THỂ ĐỐI
VỚI GIÁO HỘI
Trong Tông thư “Mane
nobiscum Domine”, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã xác quyết :
“Chúa Giêsu Kitô
đứng ở trung tâm, không chỉ của lịch sử Giáo hội, nhưng còn của
cả nhân loại. Trong Ngài, muôn loài được qui tụ lại.” (LCXOL 6).
Nếu Đức Kitô là
trung tâm của lịch sử Giáo Hội, thì Thánh Thể Ngài cũng phải là
điểm trọng tâm và chóp đỉnh của mọi sinh hoạt trong Giáo hội.
Thực vậy, chúng ta
có thể nói được rằng Thánh Thể chính là nguồn mạch và đỉnh cao
của mọi sinh hoạt trong Giáo hội vì Thánh Thể chứa đựng tất cả
kho tàng thiêng liêng của Hội Thánh, là chính Đức Kitô, lễ Vượt
Qua của chúng ta.
Đây cũng là điều
Công Đồng đã xác quyết :
“Phép Thánh Thể chí
thánh chứa đựng tất cả của cải thiêng liêng của Giáo hội, đó là
chính Đức Kitô, Ngài là mầu nhiệm Phục sinh của chúng ta; Ngài
là Bánh Hằng Sống, ban sự sống cho nhân loại bằng chính Thịt của
Ngài, Thịt đã được sống động nhờ Thánh Thần và làm cho người ta
được sống…” (LM 5).
Sở dĩ chúng ta gọi
Thánh Thể là chóp đỉnh của đời sống Giáo hội bởi những lý do sau
đây :
1- Giáo hội được
soi sáng nhờ Thánh Thể.
Thực vậy, mỗi làn
Giáo hội cử hành bí tích Thánh Thể, thì tất cả chúng ta, những
người tham dự, có thể một cách nào đó sống lại kinh nghiệm của
hai môn đệ trên đường đi Emmaus :
“Khi đồng bàn với
họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho
họ. Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người, nhưng Người lại biến
mất. Họ mới bảo nhau: "Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải
thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy
lên sao?" (Lc 24,30-32).
Chính vì thế, Đức
Thánh Cha đã xác quyết :
“Nhờ Ngài, Giáo Hội
được soi sáng. Bí Tích Thánh Thể là một mầu nhiệm đức tin, và
đồng thời là một “mầu nhiệm ánh sáng”.(GHTTT).
Nhờ việc đọc và suy
gẫm Thánh Kinh trong phần Phụng vụ Lời Chúa mà chúng ta sẽ tìm
ra đường nẻo Chúa muốn chúng ta bước đi trong cuộc đời.
2- Giáo
hội được nuôi dưỡng và được sống nhờ Thánh Thể.
Thánh Thể là của ăn
thiêng liêng nuôi sống linh hồn chúng ta như lời Chúa Giêsu đã
phán :
“Vì thịt tôi thật là
của ăn, và máu tôi thật là của uống. Ai ăn thịt và uống máu tôi,
thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy.” (Ga 6,55-56).
Chính vì thế, chúng
ta cũng có thể nói : Giáo hội được nuôi dưỡng và được sống nhờ
Thánh Thể. Đức Thánh Cha đã xác quyết :
“Giáo Hội sống nhờ
Chúa Kitô Thánh Thể; nhờ Ngài, Giáo Hội được nuôi dưỡng.” (GHTTT
6).
“Giáo Hội liên tục
sống nhờ hy tế cứu độ, và đạt đến hy tế đó không phải bằng một
kỷ niệm đơn thuần đầy niềm tin mà thôi, nhưng còn bằng một tiếp
xúc hiện tại, vì hy tế nầy trở nên hiện diện, hiện diện luôn mãi
cách bí tích, trong mọi cộng đoàn hiến dâng nó, qua tay của thừa
tác viên được thánh hiến.”(GHTTT 12).
3- Thánh
Thể làm nên Giáo hội và Giáo hội làm nên Thánh Thể.
Thực vậy, dưới một
góc độ nào đó, chúng ta có thể nói Thánh Thể đã làm phát sinh ra
Giáo hội, như sách Giáo lý Hội Thánh Công giáo đã khẳng định :
“Hội Thánh phát sinh
chủ yếu từ việc Đức Kitô tự hiến thân hoàn toàn để cứu độ chúng
ta; sự hiến thân được thể hiện trước trong việc thiết lập bí
tích Thánh Thể và được thực hiện trên Thập giá.” (GLHTCG 766).
Hơn thế nữa, mỗi
khi lên rước lễ, chúng ta được liên kết mật thiết với Đức Kitô,
cũng như được kết hiệp mật thiết với nhau để làm thành một thân
thể duy nhất là Giáo hội. Vì thế, chúng ta có thể xác quyết :
“Bí tích Thánh Thể
làm nên Giáo hội.” (GLHTCG 1396).
Cũng trong chiều
hướng ấy, Công Đồng Vaticanô II đã viết như sau :
“Nhờ bí tích của tấm
bánh Thánh Thể, sự hiệp nhất các tín hữu làm thành một thân thể
duy nhất trong Đức Kitô được tỏ bày và trở nên hiệu lực” (GH 3)
Thực vậy, nhờ bí
tích Rửa tội, chúng ta được mời gọi để tạo nên một thân thể duy
nhất. Trong khi đó, bí tích Thánh Thể sẽ thực hiện ơn gọi này :
“Khi ta nâng chén
chúc tụng mà cảm tạ Thiên Chúa, há chẳng phải là dự phần vào Máu
Đức Ki-tô ư? Và khi ta cùng bẻ Bánh Thánh, đó chẳng phải là dự
phần vào Thân Thể Người sao? Bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất
cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng
ta cũng chỉ là một thân thể.” (1Cr 10,16-17).
Đồng thời, nhờ việc
thực thi lệnh truyền của Chúa : “Các con hày làm việc này mà nhớ
đến Thầy”, Giáo hội làm nên Thánh Thể, nghĩa là Giáo hội hiện
tại hóa hy tế thập giá của Đức Kitô và làm cho bí tích Thánh Thể
được tồn tại mãi cho đến tận cùng thời gian, nhờ đó lời loan báo
của tiên tri Malakia ngày xưa trở thành sự thật :
“Quả thật, từ đông
sang tây, Danh Ta thật cao cả giữa chư dân; và ở khắp nơi, người
ta dâng lễ hy sinh và lễ vật tinh tuyền kính Danh Ta, bởi vì
Danh Ta thật cao cả giữa chư dân.” (Ml 1,1).
2- GIÁO HỘI ĐỐI
VỚI THÁNH THỂ
Thánh Thể làm nên
Giáo hội, hay nói cách khác, sở dĩ Giáo hội được sống và được
xây dựng là nhờ Thánh Thể :
“Giáo Hội sống nhờ
Thánh Thể (Ecclesia de Eucharistia vivit). Chân lý này không chỉ
diễn tả một kinh nghiệm hằng ngày của đức tin, nhưng dưới hình
thức tổng hợp nó còn gồm tóm cả cốt lõi của mầu nhiệm Giáo Hội.
Trong hân hoan, Giáo Hội cảm nghiệm dưới nhiều hình thức sự thể
hiện liên tục lời hứa: “Và Thầy, Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày
cho đến tận thế.” (Mt 28,20). Nhưng trong Bí Tích Thánh Thể, nhờ
sự biến đổi bánh và rượu thành Mình và Máu Chúa, Giáo Hội
được vui hưởng sự hiện diện này với một cường độ duy nhất. Từ
ngày Lễ Ngũ Tuần, khi Giáo Hội, Dân của Giao Ước Mới, khởi đầu
cuộc lữ hành về quê hương thiên quốc, Bí Tích thần linh vẫn tiếp
tục in dấu trên những ngày sống của Giáo Hội, lắp đầy chúng với
niềm hy vọng tín thác.
Ý thức vai trò quan
trọng của Thánh Thể trong đời sống của mình, Giáo hội cần phải
kín múc nơi Thánh Thể nguồn sức mạnh cần thiết và phải qui hướng
mọi hoạt động của mình về đó như chóp đỉnh.
Thực vậy, Đức Thánh
Cha Gioan Phaolô đã viết :
“Mọi dấn thân vào sự
thánh thiện, mọi hoạt động nhằm hoàn thành sứ mạng của Giáo
Hội, mọi nỗ lực thực hiện các chương trình mục vụ, phải múc lấy
nơi mầu nhiệm Thánh Thể, sức mạnh cần thiết và phải hướng về đó
như chóp đỉnh. Trong Bí Tích Thánh Thể, chúng ta có Chúa Giêsu,
chúng ta có hy tế cứu chuộc của Ngài, chúng ta có sự phục sinh
của Ngài, chúng ta có hồng ân Thánh Thần, chúng ta có việc tôn
thờ, sự vâng phục và tình yêu đối với Chúa Cha trên trời. Nếu
chúng ta coi thường Bí Tích Thánh Thể, làm sao có thể chữa trị
sự nghèo nàn khốn khổ của chúng ta ?” (GHTTT 60).
Ngoài ra, Giáo hội
còn có bổn phận phải cử hành thánh thể, để không ngừng hiện tại
hóa mầu nhiệm Vượt qua, bởi vì mỗi khi cử hành thánh thể, Giáo
hội loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa
sốnng lại cho tới khi Chúa lại đến. (GHTTT 5).
Đối với người Kitô
hữu cũng vậy, Thánh Thể vừa là nguồn mạch và chóp đỉnh của đời
sống, bởi vì Thánh Thể chứa đựng tất cả kho tàng thiêng liêng
của Giáo hội là chính Đức Kitô, Chiên Vượt Qua và bánh ban sự
sống. (GHTTT 1).
Khi tham dự thánh
lễ, người Kitô hữu dâng lên Thiên Chúa hy tế của Đức Kitô, và
cùng với lễ vật ấy, họ tự dâng chính mình họ cùng với những lao
công vất vả, những khổ đau buồn phiền, như lễ vật xuất phát từ
lòng cuộc đời. (GH 11).
Khi rước lễ, chúng
ta không phải chỉ được lãnh nhận ơn nọ ơn kia, mà còn được
lãnh nhận và kết hiệp với chính Đức Kitô, tác giả của mọi ơn
sủng. Ngài đến, sát cánh bên chúng ta và cùng với chúng ta chiến
đấu, như vậy chắc chắn chúng ta sẽ chiến thắng.
Như phần xác cần
phải ăn mới được sống, thì phần hồn cũng vậy, chúng ta phải
siêng năng lãnh nhận Thánh Thể để kín múc được một nguồn sức
sống dồi dào, nhờ đó sẽ dễ dàng chu toàn những bổn phận trong
phạm vi trần thế, góp phần xây dựng một thế giới xứng đáng với
phẩm giá con người và phù hợp với chương trình của Thiên Chúa :
“ Một hệ luận khác
rất có ý nghĩa của chiều hướng cánh chung trong Bí Tích Thánh
Thể là sự thúc đẩy bước chân lữ hành của chúng ta trong lịch sử,
làm nảy sinh một mầm hy vọng sống động cho mọi người hằng ngày
tận tụy với nhiệm vụ của mình. Quả thật, nếu nhãn quan Kitô giáo
mời gọi chúng ta nhìn về “trời mới”, “đất mới”(x. Kh 21,1), điều
đó không làm suy yếu, mà kích thích tâm thức của chúng ta về
trách nhiệm đối với trái đất của chúng ta (33). Tôi muốn khẳng
định lại điều này một cách mạnh mẽ vào lúc khởi đầu thiên niên
kỷ thứ ba, để các Kitô hữu hơn lúc nào hết, cảm thấy càng phải
dấn thân chu toàn những bổn phận công dân trần thế của mình. Họ
có nghĩa vụ phải đóng góp, dưới ánh sáng của Tin Mừng, vào việc
xây dựng một thế giới xứng với con người và đáp ứng đầy đủ
chương trình của Thiên Chúa.” (GHTTT 20).
Và sau cùng, khi
rước lễ chúng ta được kết hiệp mật thiết với nhau, nhờ đó góp
phần xây dựng Giáo hội, như Công Đồng đã viết :
“Được bổ dưỡng bởi
Mình Thánh Đức Kitô trong thánh lễ, họ biểu lộ cách cụ thể sự
hiệp nhất của Dân Chúa, sự hiệp nhất ấy được diễn tả đầy đủ và
được thực hiện cách kỳ diệu trong bí tích cực trọng này.” (GIÁO
HỘI 11).
III- THÁNH THỂ, CHÓP ĐỈNH CỦA ĐỜI
SỐNG LINH MỤC
1- THÁNH THỂ ĐỐI
VỚI LINH MỤC.
Trái đất xoay quanh
mặt trời thế nào, thì cuộc đời của Linh mục cũng phải xoay quanh
Đức Kitô, hay nói một cách cụ thể hơn, cuộc đời Linh mục cũng
phải xoay quanh Thánh Thể như vậy.
Cũng trong chiều
hướng ấy, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã xác quyết :
“Nếu Thánh Thể là
trung tâm và chóp đỉnh của đời sống Giáo Hội, nó
cũng là như thế đối với tác vụ linh mục. Vì vậy, khi tạ ơn Chúa
Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, tôi muốn lặp lại rằng Thánh Thể là lẽ
sống chính yếu và trung tâm của bí tích truyền chức được khai
sinh thực sự ngay từ lúc thiết lập Thánh Thể và cùng với Thánh
Thể.”(GHTTT 31).
Tất cả mọi hoạt động
của Linh mục phải được xuất phát từ Thánh Thể và phải được hướng
tới Thánh Thể :
“Những hoạt động mục
vụ của linh mục rất đa dạng. Nếu nghĩ đến những điều kiện xã hội
và văn hóa của thế giới hôm nay, thì dễ hiểu rằng các linh mục
bị rình rập bởi nguy cơ phân tán trong nhiều công việc khác
nhau. Công Đồng Vaticanô II đã nhận thấy rằng bác ái mục
vụ là mối dây liên kết đời sống và hoạt động của các ngài. Công
Đồng thêm: “ Bác ái mục vụ phát xuất trước tiên từ nơi Hy Tế
Thánh Thể, do đó Hy Tế Thánh Thể là trung tâm và gốc rễ của toàn
thể đời sống linh mục.”(GHTTT 31).
Các Đức Giám mục
Việt Nam cũng xác quyết :
“Chức Linh mục
thừa tác xuất phát từ Thánh Thể và hướng về Thánh Thể…Việc tôn
sùng bí tích Thánh thể là nguồn mạch phong phú cho cuộc đời và
sứ vụ linh mục.” (GHSMNTT 11).
Và như vậy, Thánh
Thể sẽ đem lại nguồn sức mạnh cũng như niềm an ủi và khích lệ
cho linh mục trong những hoạt động của mình :
“Bằng cách thế nầy,
Linh mục mới đủ sức thắng vượt tất cả những căng thẳng làm cho
ngài bị phân tán trong cuộc sống; mới tìm thấy trong Hy Tế Thánh
Thể, trung tâm đích thực của đời sống và tác vụ, sinh lực thiêng
liêng cần thiết để đương đầu với những công việc mục vụ đa dạng.
Như thế, những ngày sống của ngài sẽ thực sự trở nên Thánh
Thể. “ (GHTTT 31).
2- LINH MỤC ĐỐI
VỚI THÁNH THỂ
Chúng ta có thể tóm
tắt một số việc linh mục cần phải làm đối với Thánh Thể :
1- Dâng
Thánh Lễ hằng ngày.
Đức Thánh Cha Gioan
Phaolô II đã lấy lại tư tưởng của Công đồng mà khuyên các Linh
mục như sau :
“Vì thế, người ta
hiểu được tầm quan trọng cho đời sống thiêng liêng của Linh mục,
cũng như cho lợi ích của Giáo Hội và thế giới, của việc
thực thi lời khuyên của Công Đồng là cử hành Bí Tích Thánh Thể
hằng ngày, “dù việc cử hành không thể có giáo dân hiện
diện , vẫn là hành động của Chúa Kitô và Giáo Hội.” (GHTTT 31).
Như vậy, chúng ta
thấy các Linh mục được khuyến khích cử hành thánh lễ mỗi ngày,
dù có hay không có giáo dân tham dự. Và đặc biệt là ngày Chúa
nhật, các Linh mục phải tạo những điều kiện thuận lợi để giáo
dân có thể tham dự một cách dễ dàng :
“Sự cổ võ đặc biệt
hữu hiệu cho hiệp thông , đặc điểm của Bí Tích Thánh Thể, là một
trong những lý do của tầm quan trọng Thánh Lễ Chúa Nhật.
Về phương diện này và về những lý do đã khiến cho nó trở nên cần
thiết cho đời sống của Giáo Hội và của các tín hữu, tôi đã bàn
rất nhiều trong Tông Thư Ngày của Chúa (Dies Domini)
về sự thánh hoá Ngày Chúa Nhật. Tôi đã nhắc lại rằng đối với các
tín hữu, tham dự Thánh Lễ là một nghĩa vụ buộc, trừ khi họ có
một ngăn trở nghiêm trọng nào, và cũng vậy, về phần mình các Mục
Tử có bổn phận tương ứng tạo điều kiện thiết thực cho mọi người
để họ thực thi huấn giới. Gần đây nhất, trong Tông Thư Bước vào
ngàn năm mới (Novo millennio ineunte), nhằm vạch ra đường
hướng mục vụ cho Giáo Hội vào đầu thiên niên kỷ thứ ba, tôi muốn
làm nổi bật đặc biệt Thánh Lễ Chúa Nhật, nhấn mạnh vì sao Thánh
Lễ Chúa nhật rất hữu hiệu cho sự hiệp thông : Tôi đã viết “ Bí
Tích Thánh Thể là nơi đặc biệt để sự hiệp thông luôn được loan
báo và được gìn giữ. Đúng thế, nhờ tham dự vào Bí Tích Thánh
Thể, ngày của Chúa cũng trở thành ngày của Giáo Hội, như thế
Giáo Hội có thể thực hiện một cách có hiệu quả vai trò của bí
tích hiệp nhất.”(GHTTT 41).
2- Dâng
Thánh lễ một cách sốt sắng.
Đức Thánh Cha Giaon
Phaolô II đã nhắn nhủ các Linh mục như sau :
“Hằng ngày các con
lặp lại lời thánh hiến, làm chứng nhân và người loan báo phép lạ
tình yêu vĩ đại xảy ra ngay trên bàn tay các con, hãy luôn tự
vấn, nhờ hồng ân Năm đặc biệt này, để cử hành Thánh lễ mỗi ngày
với niềm hân hoan và sốt sắng như cử hành Thánh lễ đầu tiên…”
(LCXOLVCC 30).
Đặc biệt là Thánh lễ
Chúa nhật :
“Nếu thành quả đạt
được là làm cho việc cử hành Thánh lễ Chúa nhật được sốt sắng
trong mọi cộng đoàn Kitô hữu, cũng như phát triển lòng tôn sùng
Thánh Thể ngoài Thánh lễ, thì kết quả đó cũng đã thật mỹ mãn
trong Năm hồng ân vậy.” (LCXOLVCC 29).
Muốn tạo được sự sốt
sắng khi dâng Thánh lễ, linh mục cần phải chiêm ngắm và cầu
nguyện :
“Các con hãy sẵn
lòng dành nhiều thời giờ cầu nguyện trước nhà tạm.” (LCXOLVCC
30).
Trong Tông thư
“Mane nobiscum Domine”, Đức Thánh Cha cũng viết :
“Năm Thánh Thể bắt
nguồn từ sự chiêm ngưỡng thực tại mà Giáo hội kính tôn như một
mầu nhiệm trọng đại…” (LCXOLVCC 29).
3-
Phải làm chứng và loan báo tình yêu Thánh Thể.
Như trên chúng ta
vừa thấy Đức Thánh Cha đã khuyên nhủ :
“Hằng ngày các con
lặp lại lời thánh hiến, làm chứng nhân và người loan báo phép lạ
tình yêu vĩ đại xảy tra ngay trên bàn tay các con.” (LCXOLVCC
30).
Các Đức Giám mục
Việt Nam cũng mời gọi :
“Là những người quản
lý các mầu nhiệm thánh, các linh mục phải nên chứng tá đặc biệt
về đức tin, lòng sùng kính và yêu mến đối với Mầu nhiệm cực
trọng này. Điều đó phải biểu lộ rõ nét khi các ngài cử hành
Thánh lễ, cầu nguyện trước Thánh Thể và đem Mình Thánh Chúa cho
bệnh nhân. Việc tôn sùng Bí tích Thánh Thể là nguồn mạch phong
phú cho cuộc đời và sứ vụ linh mục.” (GHSMNTT 11).
KẾT LUẬN
Để kết thúc bài chia
sẻ này, tôi xin mượn lời của Đức Thánh Cha Giaon Phaolô II để ca
ngợi Thánh Thể :
“Đây là kho tàng của
Giáo Hội, quả tim của thế giới, bảo chứng của ngày cuối cùng mà
mọi người đều mong mỏi, dù không ý thức. Vĩ đại thay mầu nhiệm
này. Chắc chắn nó vượt xa chúng ta và nó thử thách cam go những
khả năng của trí óc chúng ta đòi buộc phải đi xa hơn những dáng
vẻ bên ngoài.” (GHTTT 60).
Đây chính là cơ hội
thuận tiện để chúng ta kiểm điểm lại xem : chúng ta đã có thái
độ nào đối với Thánh Thể ? Và nhất là chúng ta đã cử hành Thánh
lễ ra làm sao ? Trang nghiêm và sốt sắng hay chỉ bôi bác và máy
móc ?
GSVN
|
VỀ MỤC LỤC |
|
Hai Hướng Nhìn |
Chúng ta vừa bước qua ranh giới
năm cũ, và đang ở đầu ranh giới năm mới. Năm cũ là một chặng
đường dài. Năm mới cũng là một chặng đường dài. Đứng ở giáp ranh
hai chặng đường dài, thì ta có hai hướng nhìn: Một cái nhìn lại,
một cái nhìn đi, thì cái nhìn nào của ta cũng là cái nhìn về
những sự đụng chạm tới ta.
Những cái nhìn đụng chạm vào
đời ta trong năm cũ chắc là nhiều. Những cái sẽ đụng vào đời ta
trong năm mới, chắc không phải là ít. Những cái đụng đó làm ta
vui, buồn, lo, sung sướng, nhiều ít thì mỗi người cứ nghe lòng
mình sẽ thấy. Mà chỉ mình biết rõ lòng mình, chứ chưa chắc gì
người khác sẽ biết được đúng lòng ta. Cũng như chưa chắc gì ta
sẽ biết được lòng người khác.
Vì thế, ở đây tôi không muốn
nói tới màu sắc, tâm trạng của con người trong ngày xuân mới hôm
nay, mà chỉ đưa ra một vài suy tư nhỏ bé, với hy vọng được anh
em chia sẻ.
Suy tư của tôi là hai câu hỏi
sau đây:
1. Khi
nhìn lại, tôi nghe gọi sao?
2. Khi nhìn
đi, tôi nghe gọi gì?
Tiếng gọi của quá khứ, tiếng
gọi của tương lai. Hai tiếng gọi đó thế nào.
Anh chị em thân mến,
1. Khi
nhìn lại tôi nghe gọi sao?
Thưa tôi nghe gọi: Hãy biết ơn.
Hãy biết ơn những gì ta đã lãnh nhận. Nếu suy nghĩ kỹ, ta sẽ
thấy trong năm qua, sự ta cho đi chẳng được là bao. Nhưng sự ta
nhận lãnh thì thực là nhiều. Mà nhận nhiều, là vì ta luôn là kẻ
thiếu thốn, phải cần đến người khác. Cần để sống, cần để nên
người. Từ một lời chào đến một lời khuyên răn an ủi. Tất cả, và
bất cứ sự gì ta lãnh nhận, đều là những viên gạch xây dựng đời
ta.
Đừng chỉ coi những gì sung
sướng hay lớn lao mới là ơn.
Dù đời ta có như chiếc xe đò,
ồn ào đông đảo, chen nhau chiếm cứ, nhưng sau cùng xe lại trống
trơn, thì ta cũng đừng cho mình là cô đơn, chẳng được nhờ ai. Vì
thực sự, ta cũng đã nhận nhiều, và chính sự cô đơn cũng là một
ân huệ.
Dù đời ta có như cành mai, báo
hiệu ngày xuân, nhưng chính mình lại không có mùa xuân, vì mau
tàn và vội héo, thì cũng đừng cho mình là phù hoa, chẳng chịu ơn
ai. Vì thực sự, ta cũng đã nhận nhiều, và chính sự phù hoa cũng
là một ân huệ.
Dù đời ta có như Saolê, ngã
ngựa trên đường Đamas, thì cũng đừng coi mình là vô phước. Vì
thực sự ta đã nhận nhiều, và chính sự ta ngã đau cũng là một ân
huệ.
Dù đời ta có như một quảng của
giòng sông cả, nuôi dưỡng bao nhiêu đồng ruộng cây cỏ, có sức
tràn ngập đất đai bao la, thì cũng đừng kiêu hãnh, cho mình là
chỉ có mình. Bởi vì, quảng sông sau, bao giờ cũng mắc nợ những
dòng sông trước, và nhất là mắc nợ với nguồn mạch nguyên thủy.
Dù đời ta có như ngôi nhà lộng
lẫy, thì cũng đừng tự đắc, cho mình là do mình mà có. Bởi vì
ngôi nhà, vẫn mắc nợ với từng hạt cát, với từng viên gạch, với
từng giọt mồ hôi, với biết bao công khó.
Tóm lại, đời ta là kết tinh của
bao công ơn. Chịu ơn thì phải biết ơn. Mà biết ơn là biết nhìn
nhau với đôi mắt khiêm tốn, là biết gần lại với nhau trong thái
độ hiền hòa, là biết nói với nhau bằng những lời thân ái, là
biết tặng nhau cảm tình nồng thắm.
Hãy biết ơn như thế. Đối với
ai, thì mỗi người có thể tự trả lời. Hãy biết ơn. Đó là tiếng
gọi ta nghe được khi nhìn lại quá khứ. Còn khi nhìn đi tương
lai, ta nghe gọi gì.
2.
Thưa, khi nhìn tương lai, ta nghe gọi:
Tiến bộ là không ngừng ở một
chỗ, mà hãy bước thêm. Con người hướng về tuyệt đối, thì tuyệt
đối là đích điểm xa vời. Nên chỗ nào trong đời sống cũng là
tương đối. Lúc nào ta cũng có thể bước thêm. Bước thêm là tiến
lên, là tiến bộ. Tiến về mọi phương diện: Tiến bộ về sản xuất,
tiến bộ về hiểu biết, tiến bộ về ý chí cương quyết kiên trì.
Nhưng nhất là tiến bộ về cái nhìn, về trái tim và về đức tin.
Tiến bộ về cái nhìn, là biết
nhìn cuộc đời với con mắt thực tế hơn, khoa học hơn, tự tín hơn,
không để mình bị mê hoặc bởi những ảo vọng hão huyền, những mê
tín dị đoan, những mặc cảm sai trái. Là biết nhìn các lập trường
và đường lối khác với mình bằng thái độ cởi mở hơn, để khiêm tốn
xét lại, để sửa sai, để bổ túc cho mình.
Tiến bộ về trái tim, là biết
tránh kỷ hơn về nghi kỵ, về những hiểu lầm làm ta xa cách anh em
đồng hành, là biết đoàn kết hơn, là biết thực thi bác ái yêu
thương tích cực và rộng rãi hơn, đối với người đồng đạo, đối với
các anh em không cùng tín ngưỡng.
Tiến bộ về đức tin, là biết tin
cậy mến Chúa nhiều hơn, biết rút ra ở cuộc đời những bài học bổ
ích cho linh hồn, biết bám víu vào Đấng có thể an ủi mình ở đời
này, và ban cho mình hạnh phúc đời sau, là biết thu tích những
sự thiêng liêng sẽ không bao giờ hư hao mất mát.
Muốn tiến bộ, cần phải được an
tâm và tin tưởng. Cái gì sẽ giúp ta an tâm và tin tưởng. Thưa
lòng đạo. Lòng đạo không phải chỉ là một ý thức hệ, nhưng là một
sự sống tan hòa trong một sự sống, tức là sự sống của con người
tín hữu, thông dự vào sự sống của Thiên Chúa. Lòng đạo không
phải chỉ là tín điều, kinh kệ, lễ nghi, nhưng là sự gặp gỡ của
một tình yêu với một tình yêu. Nghĩa là sự gặp gỡ của linh hồn
với Thiên Chúa. Vì thế, lòng đạo đi vào sâu thẳm con người. Ai
biết tôn trọng và vun trồng lòng đạo, sẽ bước được nhiều bước
tiến bộ cả về vật chất, lẫn về tinh thần.
Anh chị em thân mến,
Quá
khứ gọi ta hãy biết ơn.
Tương lai
gọi ta hãy tiến bộ.
Ta nghe tiếng gọi đó. Ta chấp
nhận tiếng gọi đó. Ta muốn thực thi tiếng gọi đó. Vì thế, giờ
đây, chúng ta cùng bên nhau, chung quanh Chúa nhân từ, để tìm
nồng nàn thêm cho lòng biết ơn, và để tìm động lực thêm cho bước
tiến bộ. Xin hãy cầu cho riêng mình, cho người thân, cho Quê
Hương dân tộc. Xin cầu cho nhau. Để ít ra trong giờ phút đầu
tiên của năm mới, chúng ta cũng làm được một việc có ý nghĩa.
Amen.
+ Gm. GB. Bùi
Tuần |
VỀ MỤC LỤC |
|
LỜI SỰ SỐNG |
Sự sống quanh ta thật âm thầm mà kỳ diệu: sau
một cơn mưa, những chiếc nấm nằm sâu trong lòng đất, ngái ngủ sau
một cơn mơ dài, chỗi dậy và lớn nhanh phi thường. Sự sống của muôn
loài cỏ cây và của con người thật là mạnh mẽ, can đảm vươn lên trước
giông tố của cuộc đời. Không ai nhìn thấy sự sống, nhưng cũng không
ai có thể phủ nhận sự hiện hữu của sự sống. Bởi vì chính sự sống
đang hiện diện và từng giây từng phút giúp ta lớn lên trong cuộc
đời.
Sự sống của muôn vật cỏ cây nhắc ta liên tưởng
đến sự sống con người. Trong bất cứ nền văn hóa nào, sự sống cũng
được coi là thiêng liêng, là ân ban của Đấng Cao Cả. Con người vẫn
tin vào sự tồn tại của sự sống ở thế giới bên kia, tức là sau khi
chết. Dù hoàn cảnh khó khăn, dù đau khổ chán chường, con người vẫn
muốn vươn lên để sống. Trong những lúc bức xúc cùng cực, có người đã
tự tìm đến cái chết như một phương pháp giải thoát, nhưng thường là
những lúc quẫn trí, chứ nếu có thời gian bình tâm suy nghĩ thì họ sẽ
không đủ cam đảm quyết định tự kết liễu đời mình.
Sự sống thật thiêng liêng và kỳ diệu. Con người
có thể thích hợp mọi hoàn cảnh của cuộc sống để tồn tại. Thánh Kinh
dạy chúng ta, chính Thiên Chúa là nguyên lý và là nguồn mạch của sự
sống. Chính Ngài là sự sống và thông ban cho chúng ta sự sống thiên
linh. Qua Thánh Kinh là LỜI SỰ SỐNG, người tín hữu Kitô tìm thấy ý
nghĩa của cuộc sống nơi Thiên Chúa và nhờ đó họ xác tín hướng đi của
mình.
1- Thiên Chúa thông ban sự
sống cho con người
Dựa trên quan niệm Đông phương thời cổ cho rằng
con người được nặn bằng đất sét, tác giả Sáng thế dùng lối so sánh
con người được Thiên Chúa nắn cho nên hình nên dạng cũng như chiếc
bình gốm được nặn ra bởi người thợ gốm. Như người thợ gốm tự do nặn
ra những sản phẩm theo trí tưởng tượng của mình, Thiên Chúa cũng tự
do sáng tạo và nắn nên hình hài con người như vậy. Con người là một
sản phẩm của Đấng Sáng Tạo, tên gọi “A-đam”, nguyên tự Do Thái có
nghĩa là “người”, là tên người đàn ông đầu tiên, có cách phát âm gần
với “A-đa-ma” có nghĩa là “Đất” phù hợp với quan niệm “con người bởi
đất mà ra”.
Tuy vậy, con người được nắn cho nên hình nên
dạng này còn có cái gì cao siêu hơn chiếc bình gốm, vì Thiên Chúa,
sau khi nắn thành hình con người từ bụi đất, đã “thổi sinh khí vào
lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật” (St 2,7). Con người trở
nên một sinh vật, một vật sống, một hình ảnh của Thiên Chúa, mặc dầu
xuất xứ từ bụi đất thấp hèn. Sinh khí được Thiên Chúa thở vào, chính
là sự sống làm cho con người khác với chiếc bình gốm, mặc dù còn
mang bản tính mỏng giòn. Và, sinh khí ấy tồn tại nơi con người,là
động lực thúc đẩy mọi hành động thể lý và tinh thần của con người.
Sinh khí ấy là sự sống.
Theo truyền thống Thánh Kinh, sự sống không chỉ
là nguyên lý cho sự hiện hữu thể lý của con người, nhưng còn là khả
năng hành động. Khả năng hành động này là yếu tố để phân biệt người
còn sống với người đã chết. Nhưng trên hết, sự sống luôn được khẳng
định như một ân ban của Thiên Chúa cho con người. Bởi lẽ Thiên Chúa
là Đấng Hằng Sống. Ngài thông ban sự sống của Ngài cho các tạo vật,
để chúng được hiện hữu, tức là được sống. Ngài là nguyên lý hoạt
động của mọi loài. Thiên Chúa như một mô-tơ khổng lồ làm cho vũ trụ
chuyển động và đang dần dần đạt tới đích điểm tối hậu là sự giải
thoát. “Thiên Chúa Hằng Sống”, đó là điều kiện căn bản để con người
đặt để nơi Ngài sự phó thác và cậy trông. Vì con người mang trong
mình bản tính phải chết, chỉ có Thiên Chúa là vĩnh cửu, tồn tại muôn
đời.
Trong Thánh Kinh, sự sống thường được diễn tả
qua “hơi thở” (x St 35,18; Gr 15,19). Đôi khi sự sống chính là máu
trong cơ thể (x St 9,4; Lv 17,14). Vì lẽ đó người Do Thái không được
ăn máu súc vật, vì máu chính là sự sống. Sự sống dài hay ngắn phụ
thuộc vào tình trạng thuần khiết của sống đời sống luân lý. Tác giả
Sách Sáng thế trình bày với chúng ta sự suy giảm dần về tuổi thọ con
người vì lý do tội lỗi xuất hiện và hoành hành trên trái đất.
Ý tưởng về sự sống lại sau khi chết hay sự sống
vĩnh hằng xuất hiện khá muộn trong truyền thống Thánh Kinh. Sách
Tiên tri Đa-ni-el (được viết vào khoảng thế kỷ thứ II trước Chúa
Giêsu) được coi nhưng có những diễn đạt đầu tiên về sự sống lại:
“Trong số nhưng kẻ an nghỉ trong bụi đất, nhiều người sẽ chỗi dậy:
người thì để hưởng phúc trường sinh, kẻ thì để chịu ô nhục và bị
ghê tởm muôn đời” (Dn 12,2).
Tuy vậy, trước đó người Do thái vẫn tin vào sự
tồn tại của con người sau khi đã “nhắm mắt xuôi tay”. Vì “âm
phủ-Sheol ” là nơi cư ngụ của những ai đã kết thúc hành trình trần
thế này. Tuy vậy, con người trong nơi âm phủ không còn ca tụng Chúa,
không còn làm những việc phúc đức như khi còn sống trên trần gian
“vì ở nơi cõi chết, chẳng ai nhớ đến Ngài, ở Sheol, ai người ca tụng
Chúa?” (Tv 6,6). Chỉ có người sống mới có thể ca tụng và thực thi
những hành vi tôn thờ Thiên Chúa.
2- Đức Kitô: sự sống của
Thiên Chúa
Các Ngôn sứ trong Cựu ước luôn giáo huấn Dân
Chúa hướng về sự sống mới, sự sống do chính Đức Chúa thông ban. Sự
sống ấy không phải như quan niệm thường ngày, nhưng là sự sống vượt
lên trên sự chết. Trình thuật về những bộ xương khô trong Ngôn sứ
Edêkien cho thấy hoạt động của Thần khí Thiên Chúa thật kỳ diệu: từ
những bộ xương khô rải rác trong thung lũng, Thiên Chúa đã làm cho
chúng hồi sinh trở thành một đạo quân đông vô kể. Thiên Chúa quyền
năng sẽ mở huyệt cho Israel và làm cho họ được sống (x Ed 37,1-4).
Sự sống mới trong ân sủng của Thiên Chúa được
Đức Kitô đem đến trần gian. Chính ngài là sự sống của Thiên Chúa.
Ngày đã long trọng tuyên bố: “ Ta là Đường, là Sự thật và là Sự
Sống” (Ga 14,6). Cũng như thuở bình minh của công trình sáng tạo,
Lời Thiên Chúa đã sáng tạo mọi sự, đến thời sau hết, Lời ấy đến để
làm cho thế gian được sống và được sống dồi dào (Ga 10,10). Trọn
cuộc đời của Đức Giêsu nhằm đem sự sống đến cho trần gian, cho con
người.
a- Đức Giêsu đến để thông
ban sự sống Thiên linh cho con người:
Con Thiên Chúa đã đến trần gian. Những ai đón
tiếp Người, Người sẽ cho họ nên giống như Người, tức là được quyền
trở nên con Thiên Chúa. Nhờ Đức Giêsu, chúng ta tuy là tạo vật thấp
hèn, được nâng lên hàng danh dự vinh quang và được trở nên con
Thiên Chúa. Trong Đức Giêsu, chúng ta trở nên những dưỡng tử của
Thiên Chúa, được thông ban sự sống từ nơi Ba Ngôi. Nhờ Đức Giêsu,
chúng ta được hoà quyện vào dòng chảy tình yêu nơi cung lòng thâm
sâu của Thiên Chúa, được kết hợp và chiêm ngắm Ngài ngay khi chúng
ta còn sống ở đời này. Mối thân tình ấy chính là sự sống siêu nhiên
mà chúng ta được tham dự nhờ Đức Giêsu nhập thể. Với việc Đức Giêsu
đến trần gian, phẩm giá con người được thăng hoa, cuộc sống con
người có ý nghĩa đặc biệt. Vì Thiên Chúa đã mang lấy hình hài của
con người như chúng ta, nên con người không phải được dựng nên rồi
phó mặc cho sự hư mất, nhưng có một đích điểm cần đạt tới, đó là để
sống muôn đời trong vinh quang của Thiên Chúa.
b- Đức Giêsu đến để giao hòa
con người với Thiên Chúa:
Nhân loại tội lỗi đi trong tối tăm và sự chết.
Những kinh nghiệm đau đớn của cuộc sống đời thường đã chứng minh cho
chúng ta thấy bản chất yếu hèn của con người. Đức Giêsu đã đến để
đem sự sống cho trần gian. Ngài làm cho con người phục hồi tình
trạng nguyên thuỷ mà họ đã đánh mất khi phạm tội vì bất phục tùng.
Do sự bất tuân của Adam, nhân loại đã phải nhuốm màu đen tối của
tội. Do sự tuân phục của Đức Giêsu, con người được giải phóng khỏi
bản án nguyên tội. Dòng chảy của ơn tha thứ bắt nguồn từ thập giá
Đức Kitô đã lan toả đến với con người mọi nơi mọi thời và đem lại
cho họ niềm vui của sự sống. Phúc âm diễn tả cho chúng ta thấy niềm
vui của người phụ nữ goá bụa thành Na-im khi thấy con trai duy nhất
đã chết được sống lại (Lc 7,12); niềm vui của Mađalêna, cô gái điếm
đã được hồi phục do lời tuyên bố của Con Thiên Chúa (Lc 7,36-50);
niềm vui của gia đình Bà Mattha và Maria cùng dân thành Bêthania khi
được chứng kiến Lazarô đã chết được sống lại (x Ga 11). Khi Đức
Giêsu đem lại niềm vui cho những tội nhân bị ràng buộc bởi kỳ thị,
bởi mặc cảm, bởi tội lỗi, bởi bệnh tật là Người đem lại cho họ sự
sống. Không những chỉ đem lại cho họ niềm vui tái sinh, Người còn
làm cho họ hòa nhập với cuộc sống cộng đồng, chấm dứt tình trạng
sống trong cô lập thành kiến.
c- Đức Giêsu Phục sinh là
bảo đảm sự sống lại vĩnh cửu cho chúng ta:
Đức Giêsu sánh vì mình như người Mục Tử tốt
lành. Trong truyền thống Thánh Kinh, “người Mục tử tốt lành” bao gồm
rất nhiều đặc tính: hy sinh, quả cảm, nhân từ, nhẫn nại, hiếu hòa,
thánh thiện. Qua hình ảnh Người Mục Tử tốt lành, Đức Giêsu đã loan
báo về cuộc khổ nạn của Người. Đó là sự hy sinh vì đoàn chiên. Người
chịu chết để cho đàn chiên được sống (x Ga10,1-10), để đem cho chúng
sự an toàn và hạnh phúc. Lễ nghi của Tuần Thánh mỗi năm nhắc chúng
ta tình thương cao cả của Người Mục Tử tốt lành này. Thập giá là lời
tuyên bố hùng hồn và là chứng từ mãnh liệt về tình thương của Thiên
Chúa. Đức Giêsu đã hiến mạng sống mình vì nhân loại. Sự sống tự hiến
của Người không dẫn Ngài đến chỗ chấm hết, nhưng mở ra một cuộc sống
mới, đó là cuộc phục sinh vinh hiển, khi Người từ cõi chết sống lại.
Sự Phục sinh của Đức Giêsu chính là bảo đảm và nguồn hy vọng cho
chúng ta. Như thế, trong cuộc sống còn ám ảnh và nặng trĩu bóng dáng
của thập giá này, chúng ta vững tin vào tình thương Thiên Chúa, đồng
thời xác tín lý tưởng cuộc đời mình nơi Đấng đã chiến thắng tử thần
và đã sống lại vinh quang.
3- Sự sống lại: niềm hy vọng
của chúng ta
Con người được dựng nên cả xác và hồn. Khái
niệm “con người” diễn tả trọn vẹn thực tại này. Trong kinh Tin kính
các tông đồ, chúng ta tuyên xưng: “tôi tin xác loài người ngày sau
sống lại, tôi tin hằng sống vậy. Amen”. Những điều này nhiều khi làm
chúng ta lầm tưởng là sự sống lại chỉ dành cho phần xác, hoặc do sự
chết, xác và hồn phải lìa nhau mãi mãi.
Có sự khác biệt giữa quan niệm của người Hy lạp
và quan niệm Thánh Kinh trong vấn đề này:
- Theo quan niệm Hy lạp, xác và hồn
là hai thực tại độc lập được liên kết với nhau nơi một con người.
Xác thì nặng nề, hồn thì lanh lẹ. Xác như nhà tù giam cầm linh hồn.
Khi chết là hồn được giải phóng khỏi xác. Hai thực tại này vẫn tồn
tại nhưng là tách rời nhau. Hồn bất tử, xác bị tan rã và biến đổi
thành một hình thái hiện hữu khác nhau.
-Trong quan niệm Thánh Kinh, khái
niệm bất tử diễn tả sự sống lại. Sự bất tử này không chỉ dành cho
linh hồn, mà là cho cả con người trọn vẹn. Bởi con người được định
nghĩa là có xác và hồn. Ngay cả khi Thánh Kinh tuyên bố: mọi xác
phàm sẽ được nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa, thì chữ “xác phàm”
cũng bao hàm con người trọn vẹn có hồn-và-xác. Hạnh phúc vĩnh cửu
dành cho con người là hạnh phúc cho cả hồn lẫn xác: “Sau khi da tôi
đây bị thiêu huỷ, thì với tấm thân, tôi sẽ được nhìn ngắm Thiên
Chúa” (Sách Gióp 19,26). Như vậy, ơn cứu rỗi chính là sự sống lại
của con người, chứ không phải chỉ thân xác mà thôi.
Kinh Tin kính Công đồng Nicêa được đọc trong
Phụng vụ Chúa nhật và lễ trọng có nội dung rõ ràng hơn: “ Tôi trông
đợi kẻ chết sống lại, và sự sống đời sau. Amen”. Với lời tuyên tín
này, quan niệm về con người theo nhãn quan Kitô giáo được trọn vẹn
hơn, vì chúng ta không chỉ trông chờ “xác” sống lại, mà là “kẻ
chết”, tức là con người. Đức Tin vào sự phục sinh của Đức Kitô là
nền tảng cho sự phục sinh của thân xác loài người. Vì Đức Giêsu mang
lấy một thân xác nhân loại. Thân xác ấy đã phục sinh từ giữa những
kẻ chết và đang ngự trong vinh quang bên hữu Chúa Cha.
4- Dân tộc được tái sinh
Phụng vụ Phép Thanh Tẩy của Đêm Vọng Phục Sinh
nhằm nhắc lại cho chúng ta biến cố nền tảng của đời sống Kitô hữu:
hết thảy chúng ta được tái sinh trong sự chết của Đức Giêsu. Cuộc
vượt qua của Người trong lịch sử, đi từ cõi chết đến cõi sống đã
giúp chúng ta vượt qua con người cũ để mặc lấy con người mới, tức
là từ bỏ con người cũ để sống trong ánh sáng của Đấng Phục Sinh. Lời
tuyên thệ của ngày được thanh tẩy nhắm đến việc từ bỏ ma quỷ, từ bỏ
tội lỗi và những ma lực lôi kéo chúng ta trong cuộc tranh đấu đầy
cam go này, giờ đây được long trọng tái xác lập, như điều dốc quyết
và khơi lại sự nhiệt tâm theo Chúa.
Chính nhờ Bí tích Thanh Tẩy, chúng ta được gia
nhập Dân Tư Tế, Dân được tái sinh, Dân được mời gọi để đi từ tối
tăm đến với ánh sáng (x 1 Pr 2,9-10). Trong dân này, không còn giai
cấp, không còn phân biệt địa vị xã hội, ngôn ngữ và chủng tộc, nhưng
hết thảy đều là con của Cha trên trời và đang được mời gọi cố gắng
đạt tới sự thánh thiện. Dân này có sứ mạng loan truyền tình thương
của Chúa và giới thiệu Ngài cho tha nhân. Qua Bí tích Thánh tẩy,
chúng ta được mời gọi dấn thân để chết cho tội và sống cho Thiên
Chúa. Tông đồ Phaolô đã quảng diễn chi tiết chân lý này: “Vì được
dìm vào trong cái chết của Người (Đức Kitô), chúng ta đã cùng được
mai táng với Người. Bởi thế cũng như Người đã được sống lại từ cõi
chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được
sống một đời sống mới” (Rm 6,4 tt). Đêm Vọng Phục Sinh đưa chúng ta
hướng về một tiến trình can thiệp của Thiên Chúa trong lịch sử cứu
độ. Từ những giao ước ký kết với Israel, những biến cố kỳ diệu vượt
qua Biển đỏ, chúng ta thấy mình được hòa vào trong chuỗi dài những
sự kiện đó, để hôm nay chúng ta tiếp tục bước đi, với niềm tự hào là
hậu duệ của Israel mới, dân lữ hành trong đức tin được thừa hưởng
mọi lời hứa Thiên Chúa đã cam kết với Dân Ngài.
Lễ Phục sinh mời gọi chúng ta ý thức về sự
sống, sự sống đời này và sự sống đời sau. Nếu xác tín sự sống là ân
ban của Thiên Chúa, thì chúng ta có bổn phận làm tăng trưởng và phát
huy ý nghĩa cao cả của sự sống. Sự sống con người, sự sống của muôn
loài đang bị nguy cơ đe dọa trước phong trào hưởng thụ và tục hóa.
Sự sống đã trở thành một món hàng để khai thác, thành một sản phẩm
của phòng thí nghiệm. Phẩm giá con người bị đe dọa khi sự sống không
được tôn trọng. Đã có nhiều nỗ lực phong trào bảo vệ sự sống trong
Giáo hội và trên Đất nước Việt nam chúng ta như chống phá thai, an
táng các thai nhi bị sát hại, thông tin tuyên truyền chống HIV và
SIDA, nuôi dưỡng thăm viếng trẻ cô nhi và người tàng tật, lên án
những hình thức buôn bán phụ nữ và trẻ em, buôn bán ma tuý. Những
hoạt động này cần được nhiều người cộng tác và hưởng ứng.
Kết luận: Sự sống đời đời là nhận biết Thiên
Chúa là Cha (x Ga 17,1-3). Con người mang trong mình sự sống của
Thiên Chúa, Đấng yêu thương họ và mời gọi họ từ hư vô đến hiện hữu.
Đức Kitô là LỜI SỰ SỐNG đã xuất hiện trên trần gian để đem lại cho
chúng ta sự sống thật, để rồi khi đón nhận và tuân giữ Lời Người,
chúng ta thực sự trở nên hiện thân của Đức Kitô nơi cuộc đời này như
Thánh Phaolô Tông đồ: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là
Đức Kitô sống trong tôi. Hiện nay tôi sống trong xác phàm, là sống
trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng
vì tôi” (Gl 2,20). Cuộc sống với Đức Kitô và trong Đức Kitô đã được
thực hiện ngay từ bây giờ, trong hoàn cảnh cụ thể của mỗi người, nếu
chúng ta quảng đại để cho LỜI SỰ SỐNG sinh hoa kết trái nơi chúng
ta.
+
GM Giuse Vũ Văn Thiên, Hải phòng
- Thứ Năm Tuần Thánh 2006 |
VỀ MỤC LỤC |
|
CHÚA NHẬT CHÚA CHIÊN NHÂN LÀNH |
Chúa Nhật IV Mùa Phục Sinh, thường được gọi là Chúa Nhật Chúa Chiên
Lành. Câu xướng trước Phúc Âm cuả các năm A, B và C đều trích trong
Phúc Âm Thánh Gioan (10,14): “Ta là Mục tử nhân lành, Ta biết chiên
của Ta, và chiên của Ta biết Ta!” Các bài Phúc Âm năm A, B và C đều
trích trong Phúc Âm của Thánh Gioan:10, 1-10 (Năm A); 10,11-18 (Năm
B); 10, 27-30 (Năm C).
Trong các bài Tin Mừng trên đây, Chúa Giêsu xác định Ngừoi chính là
cửa của đoàn chiên, và cũng chính là người chăn chiên nhân lành.
Chỉ những chủ chiên nào đi theo cửa của Ngừơi (theo đường lối của
Người) mới là chủ chiên thật (Gioan 10,2).
Suy nghĩ về Chúa Nhật Chúa Chiên Lành, Cha M. D. Phillippe, O.P.
viết những lời suy niệm sau đây:
“Mọi công việc trong cuộc đời truyền giáo của Chúa Kitô, vị Chủ Chăn
Nhân Lành, đều đơn giản là những công việc của tình thương xót đối
với đoàn chiên, đối với mọi người. Tuy nhiên, chính nơi cơn “hấp
hối” tại vườn “Cây Dầu” và trên Thánh Giá mà chúng ta cảm nghiệm
được trọn vẹn Lòng Thương Xót của Chúa.
“Mọi khổ đau của những người tội lỗi, mọi hậu quả của tội lỗi, Chúa
Kitô đều vui lòng mang lấy vào mình. Không một khổ đau nào của nhân
loại xa lạ với Chúa Kitô. Người thấu suốt tất cả và mang lấy tất cả
vào trong thâm sâu của trái tim Người. Người đã sống những giây phút
thật căng thẳng mà không ai có thể cảm nghiệm được. Người mang lấy
tất cả vì tình yêu vô biên đối với mọi người chúng ta. Tình thương
xót của Chúa thật huyền diệu và đi đến tuyệt đỉnh!
“Là vị Mục Tử nhân lành, Chúa Kitô biết những điều Người phải
làm. Người biết từng con chiên với những yếu đuối và những nhu cầu
của từng con chiên. Người biết rằng để trở nên một Mục Tử nhân lành
theo đúng ý nghĩa, người chủ chăn phải yêu mạng sống của con chiên
hơn mạng sống của mình; phải muốn đặt mình vào hạng những người tội
lỗi, vào hạng những người bị ruồng bỏ để có thể cứu vớt mọi người;
phải dám ‘tự hủy ra không’ để có thể chấp nhận mọi bất hạnh, khinh
chê, và bị coi như tầm thường hơn hết mọi người!
Khổ hình Thập Giá với ý nghĩa đặc biệt trọn vẹn của khổ đau để cứu
chuộc, đã tỏ cho chúng ta thấy rõ tình thương xót vô biên của Chúa.
Không từ chối gì cả, Người đã chấp nhận mọi khổ đau, mọi nhục nhã,
mọi gánh nặng tới mức không còn có thể chịu đựng hơn được nữa. Như
vậy, lòng Thương Xót của Chúa không phải chỉ ở chỗ tìm đến để giúp
đỡ những người yếu đuối , mà còn ở chỗ, như một người mẹ, cúi mình
xuống tận những kẻ đã sa ngã và cúi xuống sâu hơn họ để cứu vớt họ
và nâng họ lên (chứ không phải kéo họ lên ; Người đã vác con
chiên lạc lên vai và đưa về đoàn, đưa về lại cuộc sống).
Tự hạ mình xuống sâu thẳm, Chúa Kitô đã muốn bị coi như kẻ đáng tội
hơn cả Babara (Mat-theu 27,16...), như một kẻ tội phạm công khai,
như một kẻ nói phạm thượng, như một kẻ thù của lề luật Moise, kẻ
không chịu giữ ngày Sabat, một kẻ nguy hiểm quấy phá dân chúng. Hơn
nữa, Chúa Kitô còn muốn trở nên như một đồ vật mà người ta che mắt
không dám nhìn, đến nỗi khi đã chết rồi còn bị người ta đâm vào cạnh
sườn thấu tới trái tim.
“Như vậy, Tình thương xót của Chúa là một thực thể bao quát tất cả
con người , không một chi thể nào trong thân thể của Người không bị
thương tích, và linh hồn Người cảm thấy buồn sầu đến chết đi trong
cơn hấp hối (Mat-thêu 26,38).
Hy lễ thập giá thật là một sự tôn thờ tuyệt đỉnh và cũng biểu lộ
tình Chúa thương xót đến tuyệt đỉnh. Nơi trái tim của Chúa Giêsu
chịu treo trên thập giá vừa mang sự Thờ Phượng (Chúa Cha), vừa mang
tình thương xót nhân loại như anh em để giúp đỡ họ, an ủi họ, chuộc
lấy mọi tội lỗi của họ và đem lại cho họ nguồn sống mới.” (Dịch theo
bản tiếng Anh, trong Magnificat, April 2005, Fourth Sunday of
Easter; những chữ ở ngoặc đơn là chú thích của người dịch).
Ðọc những dòng trên đây, chúng ta càng hiểu biết sâu xa hơn tình
thương xót cuả Chúa Giêsu, Ðấng Chăn chiên nhân lành, đối với đoàn
chiên như thế nào, đến nỗi đã chấp nhận mọi khổ đau đến cùng cực và
đổ đến giọt máu cuối cùng cho đoàn chiên của Chúa! Và khi không còn
sống ở trần gian nữa, Người vẫn tiếp tục “nuôi sống đoàn con” bằng
chính Mình và Máu Thánh Người hiện diện thật sự trong Hình Bánh và
Hình Rượu (Bí tích Thánh Thể), và thánh hóa đoàn chiên bằng các
“phép Bí tích nhiệm mầu.”
Thực sự, qua hoạt động của Chúa Thánh Thần, Chúa Giêsu vẫn ở với
Giáo Hội “ mọi ngày cho đến tận thế!”( Mattheu 28,20) Chúa Giêsu vẫn
là vị Chủ Chăn chính điều hành Giáo Hội và qua các thời đại Chúa
luôn luôn dẫn dắt đoàn chiên Chúa nhờ sự lãnh đạo của các vị chủ
chăn Chúa chọn. Chúa đã chọn Thánh Phêrô và các Thánh Tông đồ và
thành lập Giáo Hội Chúa kể từ ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống trên
các Ngài và thánh hóa các Ngài. Từ đó, qua từng thế kỷ, Chúa vẫn
tiếp tục gọi và chọn một số người để làm Chủ chiên chăn dắt Ðoàn
chiên Chúa.
Chúa chọn ai?
“Chúa chọn những người mà Chúa muốn (Matco 3,13 ) và trao cho những
nhiệm vụ theo Thánh ý Chúa: Người thì làm Tông đồ, người thì làm
Ngôn sứ, người thì chuyên rao giảng Tin mừng, người chuyên lo việc
quản trị và giảng dạy... (Thơ Epheso 4,11). Không ai có quyền đặt
mình vào địa vị trong Giáo Hội, nhưng tất cả đều do Chúa chọn và cắt
đặt .
“Nhưng tại sao Chúa chọn con?”
Vào những ngày sắp chịu chức Linh Mục, theo sự hướng dẫn của Cha
Linh hướng và Cha Giảng Phòng (giảng tĩnh tâm để chuẩn bị chịu chức
Linh mục) tôi thường cầu nguyện và nói thầm với Chúa: “Tại sao Chúa
chọn con?”... Rồi vào ngày Lễ Truyền Chức cũng như dịp Lễ “Mở Tay”
(Lễ Tạ Ơn) tôi thật cảm động khi nghe ca đoàn hát: “Không phải vì
con Chúa chọn con! Nhưng vì bí nhiệm tình yêu Chúa!...”
Vâng, “không phải vì con Chúa chọn con” nhưng Chúa chọn “những ai mà
Chúa muốn” (Matcô 3,13), sau khi Chúa đã lên núi một mình để cầu
nguyện suốt đêm ( Luca 6,12 ). Ðó thật là một sự kỳ diệu của Ơn Gọi
theo Thánh Ý Chúa. Chúa gọi Phêrô dù Ông đã “chối Chúa tới ba lần dù
Chúa đã cảnh cáo Ông trước!” và lại còn đặt Ông làm Giáo Hoàng đầu
tiên của Giáo Hội. Chúa đã chọn Phaolô ngay trên con đường Ông đi
tìm bắt và bách hại đoàn chiên non trẻ của Chúa! Và suốt đời Ông vẫn
phải mang những “yếu đuối” của mình ‘Ai yếu đuối mà tôi không yếu
đuối!’... (2 Cor. 11,29 ) Mọi người được Chúa gọi và chọn đều cảm
thấy mình bất xứng và thật lo lắng trước trách nhiệm được trao phó”
như Ðức Ðương Kim Giáo Hoàng Benedicto XVI, khi được bầu chọn lên
ngôi Giáo Hoàng, trong “Lời Tâm Tình Ðầu Tiên của Ngài” cũng chia sẻ
kinh nghiệm đó: “Tôi cảm thấy bất xứng và... thật lo lắng trước
trách nhiệm được trao phó...” nhưng “Ơn Chúa đủ cho tôi!” (2Cor.
12,9…); nên Ðức Giáo Hoàng cũng nói tiếp: “Tôi cảm thấy như bàn tay
quyền năng của Thiên Chúa nắm chặt lấy tay tôi. Tôi như nhìn thấy
ánh mắt tươi cười của Chúa và lắng nghe Chúa nói với tôi đặc biệt
vào lúc này: “Con đừng sợ!”. Với tâm tình đó, những người được chọn
đều khiêm tốn như Mẹ Maria để thưa lời “Xin Vâng!”.
Như vậy, chúng ta mới hiểu tại sao Chúa Giêsu đã “lên núi thức suốt
đêm để cầu nguyện” (Luca 6,12) trước khi chọn các Tông đồ. Hơn nữa
trong đêm trước khi tự trao mình để chịu cuộc khổ nạn để cứu chuộc
nhân loại, trong Bữa Tiệc Ly, Chúa đã cúi mình xuống để rửa chân
cho các Tông đồ để dạy cho các Ông bài hoc phục vụ trong khiêm tốn
và Chúa đã tâm tình và căn dặn các tông đồ nhiều điều mà Phúc Âm
theo Thánh Gioan đã ghi lại suốt các đoạn 13, 14, 15; còn toàn đoạn
17 ghi lại những lời Chúa Giêsu cầu nguyện thiết tha với Ðức Chúa
Cha cho các Tông đồ đang hiện diện, cũng như cho các Chủ chăn qua
mọi thời đại; đặc biệt trong câu “Con không xin Cha cất họ ra khỏi
thế gian; nhưng xin gìn giữ họ khỏi mọi sự dữ!” (Gioan, 17,15).
Trong thời gian giúp các giáo xứ Hoa Kỳ, khi gặp gỡ Giáo dân, thường
có những người sau khi chào hỏi đã nói với tôi một cách thân tình
“Thank you Father for being a priest!” (Cám ơn Cha đã là một Linh
Mục!”. Chúng ta thường có lòng yêu mến và hằng cầu nguyện cho các
chủ chăn trong Giáo hội; nhưng đặc biệt trong ngày Chúa Nhật Chúa
Chiên Lành, chúng ta hãy dâng nhiều hy sinh và lời cầu nguyện cho
Ðức Giáo Hoàng cũng như cho các chủ chăn trong toàn thể Giáo Hội,
cách riêng các chủ chăn Chúa sai đến làm việc giữa chúng ta.
Chúa Nhật IV Mùa Phục Sinh cũng là Ngày Thế Giới đặc biệt cầu nguyện
cho Ơn Gọi (World Day of Prayer for Vocations): Trong Thánh lễ cũng
như trong các kinh nguyện, chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện cho có
nhiều người được Chúa gọi và chọn để trở nên các nhà Truyền giáo và
Chủ Chăn để rao giảng và chăn dắt Ðoàn chiên Chúa.Chúng ta cũng cầu
xin với Mẹ Maria, Mẹ Hàng Gíao Sĩ, chuyển cầu cho chúng ta; nhất là
trong tháng này là Tháng Hoa dâng kính Mẹ.
Lm. Anphong Trần Ðức Phương
|
VỀ MỤC LỤC |
|
NÓI VỚI CHÚNG TA:
CÁC MỤC TỬ
TRONG HỘI THÁNH CHÚA KITÔ |
Mỗi
đầu hè, khi mà màu hoa lửa, hoa học trò, bắt đầu những đốm cháy
đỏ trên cành cây đã trút lá, cháy giữa một bầu trời xanh, cũng
là lúc Hội Thánh bước vào mùa hoa thiêng liêng, mùa hoa của
những kinh Kính Mừng ủ ấp trong bầu tim đỏ chất chứa lòng yêu
mến của mỗi người, bật thốt trên môi miệng, kính dâng Người Mẹ
hoàng mỹ của mình: ĐỨC MARIA.
Cứ
mỗi mùa hoa lại về, các mục tử trong Hội Thánh không quên tổ
chức nhiều hình thức khác nhau: khuyến khích từng cá nhân đừng
quên lần chuỗi Mân Côi, sống các mầu nhiệm kinh Mân Côi, hoặc
đọc kinh Mân Côi chung, kinh Mân Côi “sống”, kinh Mân Côi gia
đình, dâng hoa, rước kiệu, lễ lạy… để gọi về trong lòng mỗi tín
hữu, trước là dâng lên Chúa sự tôn thờ của mình nhờ công nghiệp
của Đức Mẹ, sau là tỏ lòng yêu mến Đức Mẹ, là mời gọi họ học lấy
các gương nhân đức của Đức Mẹ để sống đạo mỗi một ngày một vững
chải hơn…
Nhưng đã có những hình thức nào cho chính các mục tử? Thật bất
hạnh cho họ, bởi họ có thể đảm nhận trách vụ nhắc nhở người khác
rất tốt, nhưng có khi chính lòng họ lại cứ trống rỗng, cứ loa
toan mọi chuyện. Lòng họ chỉ đầy những bận bịu, tính toán, tổ
chức, xây dựng cơ sở vật chất, xây dựng xong lại khánh thành đợt
một, khánh thành đợt hai… Họ phải đối đầu với xã hội bên này,
chạy chọt với việc ký giấy tờ bên kia…Các mục tử ngập đầu, ngập
cổ với bao lo toan trần thế. Có phải lòng đạo đức đã có… giáo
dân lo? Hình như chúng ta nghĩ thế! Tuy suy nghĩ ấy không thành
văn, không tỏ hiện rõ ràng, nhưng có lẽ đang trở thành hiện thực
nơi nhiều vị mục tử trên quê hương này!
Nguy cơ của sự giảm thiểu lòng đạo đức, sẽ đến một ngày, đẩy các
mục tử đến chỗ chỉ còn là cái trống thật to: nói hay, nhưng rỗng
ruột. Mỉa mai quá: người nắm nhiệm vụ hướng dẫn đạo đức, lại
chưa đủ tư cách đạo đức. Bởi vậy, chúng ta, những mục tử của
Chúa hãy xét mình, xét mình nữa. Hãy ăn năn tội, ăn năn tội thật
lòng. Hãy im lặng để phản tỉnh. Vì nhờ im lặng, ta phản tĩnh
thật sâu.
Yếu
đuối, lỗi lầm là điều có thật. Các mục tử, dù được gọi là các
mục tử của Chúa, do Chúa tuyển chọn, cũng không tránh khỏi. Dẫu
sao, một khi biết mình vẫn còn đó nhiều yếu đuối, lỗi lầm, họ
thật hạnh phúc vì vẫn còn cơ may cho họ tìm về bên Chúa.
Có
một mẫu gương sống với Chúa thật tuyệt vời, trở thành chuẩn mực
cho chúng ta, những người lãnh trách nhiệm mục tử trong Hội
Thánh, học lấy để đi về phía Chúa. Đó chính là MẪU GƯƠNG MARIA.
Mùa
hoa lại về. Trước khi nhắc nhở giáo dân học đòi bắt chước nhân
đức của Đức Mẹ, chúng ta đừng quên noi gương trước bằng suy niệm
mẫu gương của Đức Mẹ, cầu nguyện nhiều hơn, sám hối nhiều hơn,
siêng năng lần chuỗi Mân Côi, và ý thức từng lời kinh mà mình
đọc… để thực sự cùng với Đức Mẹ sống bên cạnh Chúa Kitô qua mỗi
chặng đường trần thế của Chúa, mà mỗi mầu nhiệm Mân Côi gợi lại
trong ta… Chúng ta hãy sống thảo hiếu với Đức Mẹ, nhờ Đức Mẹ mà
hồi tâm, chỉnh đốn chính cuộc sống của mình.
Lm. VŨ XUÂN HẠNH |
VỀ MỤC LỤC |
|
ƠN GỌI PHỤC VỤ |
Chúa nhật IV Phục Sinh, Lễ Chúa
Chiên Lành, ngày thế giới cầu nguyện cho ơn thiên triệu. Chúa
Giêsu Mục Tử Nhân Lành chính là mẫu gương tuyệt hảo cho mọi Ơn
Gọi Phục Vụ.
1. Chúa Giêsu là Mục tử nhân lành
Từ Abraham cho đến Môisen, Đavit,
biết bao Tổ phụ Do thái đã từng là những người chăn chiên.Từ
kinh nghiệm của nghề chăn chiên, họ đứng ra lãnh đạo dân tộc.
Quan niệm của họ về Thiên Chúa cũng dựa trên kinh nghiệm đó nên
họ gọi Thiên Chúa la Mục tử và coi mình là đoàn chiên của Ngài.
Các Ngôn sứ thường dùng hình ảnh này
để nói về tương quan thân tình giữa Thiên Chúa và dân của Người.
Nhất là trong Ed 34, Sách Giôna chương cuối và TV 23.
Đặc biệt chương 10 Phúc âm Thánh
Gioan: Chúa Giêsu là Mục tử nhân lành, là Cửa chuồng chiên.
Mục tử và đàn chiên là một hình ảnh
rất đẹp gắn liền với dân du mục. Khác với hình ảnh những đứa trẻ
chăn trâu, chăn bò ở làng quê Việt nam, chúng đi sau đàn vật.
Người mục tử đi trước đàn chiên, dẫn chiên đến đồng cỏ xanh
tươi, tìm suối mát cho chiên, dẫn về đàn những con chiên lạc,
bảo vệ chiên khỏi thú dữ, biết từng con chiên một.
Chúa Giêsu là Mục tử nhân lành, mọi
Kitô hữu là đàn chiên của Chúa .Chúa ban cho đàn chiên sự sống
cách dồi dào, đó là sự sống đời đời. Mỗi con chiên đều quý giá
vô ngần đối với Chúa. Người hy sinh mạng sống vì chiên. Mối
tương giao này giống như tương giao Chúa Cha và Chúa Con ,dựa
trên sự hiểu biết riêng tư về nhau tức là trên tình yêu.
Không những là mục tử Chúa Giêsu còn
là Cửa “Tôi là cửa cho chiên ra vào. Ai qua tôi mà vào thì sẽ
được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ”. Câu trả lời
đó khẳng định Chúa Giêsu chính là Cửa Cứu Độ.
Cánh cửa mở ra một chân trời mới
:Cánh cửa tương lai; Cánh cửa đại học; Thời mở cửa; Bước qua
ngưỡng cửa hy vọng; Cửa Nước Trời. Tại sao Chúa Giêsu là Cửa Cứu
Độ ? Bởi vì Ngài là trung gian duy nhất và trọn hảo giữa Thiên
Chúa và nhân loại. Ngài có vai trò thủ lãnh trong sự thánh hoá.
Ngài thông truyền giáo huấn Thiên Chúa. Ngài đền tội và cầu khẩn
cho nhân loại trước mặt Thiên Chúa. Ngài thâu hợp toàn thể nhân
loại và vũ trụ cho Thiên Chúa. Khi nhập thể Ngài thông truyền ân
sủng Thiên Chúa cho mọi chi thể. Bằng hy lễ cứu độ thập giá
trong tâm tình vâng phục yêu mến Chúa Cha, Ngài lập nên công
phúc cứu độ loài người. Đức Giêsu phục sinh vinh quang mở đầu
cho sự giao hoà giữa Thiên Chúa và nhân loại đưa nhân loại về
với Thiên Chúa để dự phần đời sống thần linh cách dồi dào phong
phú. Như thế Đức Giêsu là Cửa Cứu Độ duy nhất, là người mở đầu,
là Đấng hướng dẫn, thông truyền ân sủng nên Người là Mục tử tốt
lành vì đem lại sự sống phong phú và dư đầy cho đàn chiên.
Kitô giáo là đạo đi từ con người tới
Thiên Chúa. Đây quả thật là “Đạo bất viễn nhân”, không xa nhưng
rất gần gũi với con người. Bởi lẽ đạo ấy đi vào chính giữa lòng
đời, đã nhập thể vào chính cuộc đời ,làm men , làm muối, làm ánh
sáng để biến đổi lòng người, biến đổi trần thế.
Thánh Grệgôriô Cả nói rằng : Chúng
ta đi theo Chúa Giêsu là đi theo con đường cứu độ, được nuôi
dưỡng nơi đồng cỏ xanh tươi muôn đời. Quả thế, đồng cỏ của những
người được chọn là chính thánh nhan Thiên Chúa luôn hiện diện.
Khi con người không ngừng chiêm ngưỡng thánh nhan, lòng trí họ
được thoã thuê mãi mãi nhờ lương thực ban sự sống. Vậy hãy tìm
kiếm đồng cỏ này, hãy làm cho lòng bừng cháy niềm khát khao
những kho tàng trên trời.
2. Đức Giêsu vị Mục tử hết mình
phục vụ đoàn chiên
Cả cuộc đời Đức Giêsu từ khi nhập
thể làm người đến tử nạn phục sinh có thể tóm tắt cách đơn giản
là phục vụ đoàn chiên vì yêu thương. Đỉnh cao phục vụ là thí
mạng vì đoàn chiên. Việc gặp gỡ Người , kết hợp với Người sẽ dần
dần biến đổi chúng ta trở nên những người phục vụ. Mỗi người
Kitô hữu đều có trách nhiệm phục vụ anh chị em mình trong tư
cách tham dự vào trách nhiệm Mục tử của Đức Giêsu.
Trong sứ điệp ngày thế giới cầu
nguyện cho ơn thiên triệu năm 2002, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô
II đã chọn chủ đề Ơn Gọi Phục Vụ. Khởi đi từ Đức Kitô: Người
không đến để phục vụ,”nhưng để phục vụ và trao ban mạng sống để
cứu chuộc nhiều người” ( Mt 20,28). Người đã rửa chân cho các
môn đệ và tuân phục chương trình của Chúa Cha cho đến chết, chết
trên thánh giá ( x.Pl 2,8).Vì thế, Chúa Cha đã tôn vinh Người,
ban cho Người một danh hiệu mới và đặt Người làm Chúa trên trời
dưới đất ( x Pl 2,9-11). Đức Thánh Cha xác định :Một cách huyền
nhiệm, ơn gọi phục vụ luôn là một ơn gọi thông phần một cách rất
riêng tư vào trong sứ vụ cứu độ” ( số 2). ”Ơn gọi linh mục hoặc
ơn gọi tu trì, bởi chính bản chất của nó, luôn là những ơn gọi
để quãng đại phục vụ Thiên Chúa và người lân cận”(số 3).
Đức Thánh Cha đã từng nói rằng
”Trong thời đại chúng ta, một thời đại tuy đã bị tục hoá, giải
thiêng nhưng vẫn được thúc đẩy đi tìm sự thánh thiện; một thời
đại rất cần có những vị thánh làm sáng tỏ sự hiện diện đầy yêu
thương và quan phòng của Thiên Chúa. Nhân loại đang cần có những
linh mục thánh thiện và những tâm hồn được thánh hiến, họ là
những người ngày ngày sống hết mình cho Thiên Chúa , cho tha
nhân, họ là những bậc cha mẹ sống chứng nhân ngay trong bầu khí
gia đình nhờ ân sủng của bí tích hôn nhân, họ là những người trẻ
có kinh nghiệm gặp gỡ Đức Kitô và được Người thu hút để hướng
dẫn anh chị em đồng loại tới cội nguồn tin mừng”( Sứ điệp ngày
thế giới cầu cho ơn thiên triệu lần thứ 36).
Ngài gởi lời mời gọi thiết tha đến
các bạn trẻ “ cha hy vọng các con có thể biết cách lắng nghe
tiếng Thiên Chúa mời gọi các con phục vụ. Đó là con đường mở ra
biết bao hình thức của sứ vụ vì lợi ích của cộng đoàn :từ các
tác vụ được phong cho đến các tác vụ khác nhau được thiết lập và
được nhìn nhận là những thừa tác vụ,như dạy giáo lý,linh hoạt
phụng vụ,giáo dục giới trẻ và những diễn tả khác nhau về đức ái”
( Số 4)
3 . Ai phục vụ Thầy,người ấy phải
theo Thầy
Một xã hội thiếu bóng dáng những
người sống đời tận hiến là một xã hội thiếu lòng quãng đại, một
xã hội bị khủng hoảng về ý nghĩa cuộc sống. Chính sự có mặt của
những người sống đời tận hiến phục vụ như là một nhắc nhở rằng,
con người có khả năng sống yêu thương, phục vụ như Đức Kitô và
sống quãng đại hy sinh dấn thân cho người khác.
Những người trẻ lớn lên thường lập
gia đình, điều đó thật tốt đẹp. Nhưng Chúa Giêsu vẫn muốn một số
người trẻ dâng hiến đời mình cho Chúa, ở bên Chúa cách đặc biệt
để được sai đi. Vì thế Đức Thánh Cha nhắn nhủ những người trẻ ”
Lời mời gọi của Chúa Giêsu vẫn còn vang vọng ngày hôm nay “Nếu
ai phục vụ Thầy,người ấy phải theo Thầy” (Ga 12,26). Đừng e ngại
đón nhận lời mời gọi này.Chắc chắn các con sẽ gặp phải những khó
khăn hy sinh, nhưng các con sẽ hạnh phúc khi phục vụ, các con sẽ
là chứng nhân của niềm vui mà thế gian không thể ban tặng. Các
con sẽ là những ngọn lửa sống động của một tình yêu vô biên và
vĩnh cửu. Các con sẽ nhận biết những phong phú thiêng liêng của
chức vụ linh mục, quà tặng và mầu nhiệm thần linh” (Số 5).
Người sống đời tận hiến chấp nhận hy
sinh quyền được lập một tổ ấm. Họ dâng tình yêu lứa đôi cho một
tình yêu cao hơn trong ơn gọi tu trì để có thể yêu mãnh liệt và
bao la hơn. Đức Thánh Cha khẳng định “Họ không tìm kiếm những
lợi lộc vị kỷ,nhưng hiến mình cho kẻ khác, khi cảm nghiệm niềm
vui của tính nhưng không qua việc hiến tặng bản thân” (số 4).
Người đi tu là người muốn nên trọn
lành,muốn đạt đến đỉnh cao của sự toàn thiện. Đó cũng tựa như
người leo núi. Muốn có ánh sáng thì phải lên cao. Để lên cao
phải vất vả, nhiều khi phải leo lên những sườn dốc cheo leo. Leo
núi là một cuộc mạo hiểm. Đó không phải là một cuộc dạo chơi
nhàn hạ. Nó đòi hỏi sức khoẻ, sức chịu đựng dẻo dai, tài khéo
léo và nhất là sự can đảm. Đời sống tu trì cũng vậy. Nó đòi hỏi
một sức khoẻ tinh thần ,thể xác, sự khôn ngoan, nhẫn nại, lòng
can đảm, sức chịu đựng bền bỉ. Nếu không người ta sẽ sợ hãi
chóng mặt, dừng lại và rút lui. Đổi lại, người leo núi được
hưởng những niềm vui mà người khác không biết đến. Đó là được ở
trong ánh sáng không bao giờ tắt, được chiêm ngưỡng cảnh trời
đát bao la hùng vĩ, cảnh mây bay lững lờ tận dưới xa chân mình,
càng leo những núi cao càng khám phá ra muôn vàn những đỉnh núi
khác.(x.Hoa trong kẻ đá,trang 9,Lm Thiện Cẩm)
4 . Cầu nguyện cho những người Mẹ
Ơn gọi tu trì là ân huệ đến từ Thiên
Chúa. Gia đình là chủng viện đầu tiên, dòng tu đầu tiên ươm mầm
ơn gọi phát triển. Các bậc cha mẹ là những người phát hiện và
vun trồng cho ơn gọi lớn lên, trổ sinh hoa trái.
Bài Tin mừng hôm nay đặc biệt thích
hợp cho các người Mẹ. Giống như người mục tử, giống như Chúa
Giêsu, một bà mẹ luôn có mối tương giao gần gũi sâu sắc với đàn
con cái.Người Mẹ yêu thương chăm sóc từng đứa con, tuỳ tính tình
mỗi đứa để có cach giáo dục thích hợp. Không gì mà người Mẹ
không làm để bảo vệ con khỏi nguy hiểm. Bà sẵn sàng chấp nhận
mọi gian khổ để tìm kiếm đứa con lầm đường lạc lối trở về.
Ơn gọi tu trì thường do người Mẹ
phát hiện và dìu dắt từng bước. Hầu như linh mục nào cũng giống
Mẹ và rất kính yêu Mẹ của mình.Tấm lòng người Mẹ bao la như biển
cả.Trái tim người Mẹ nhân hậu bao dung như đất trời. Bởi vậy
ngày thế giới cầu cho ơn thiên triệu cũng cần dành lời cầu
nguyện đặc biệt cho mọi người Mẹ trên thế giới. Xin cho mọi
người Mẹ luôn sống vai trò mục tử nhân lành với con cái và luôn
biết quãng đại dâng con mình cho Chúa, cho giáo hội trong Ơn Gọi
Phục Vụ.
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An |
VỀ MỤC LỤC |
|
THÁNH GIUSE:
Mẫu gương người công chính |
I. DẪN NHẬP:
Theo thuật ngữ Kinh Thánh, từ
công chính chỉ dùng riêng để nói về Thiên Chúa, như Chúa Giêsu đã
từng tuyên xưng “Lạy Cha là Đấng công chính” (Ga 17,25). “Chỉ
mình Thiên Chúa là Đấng khôn ngoan chính trực; nơi người chẳng có
chút bất công” (Rm 16,27; Tv 92,16); nhưng con người cũng có thể
được gọi là công chính và được công chính hóa (x. ICr 1,30), nhờ làm
theo Thánh Ý của Người. Vậy, trước khi đi vào đề tài, xin giới thiệu
đôi nét về thuật ngữ này:
II. CÔNG CHÍNH:
1. Thiên Chúa
công chính:
- Thiên Chúa công chính, vì Người
thánh thiện và tốt lành từ bản chất, Người luôn trung thành với giao
ước và giữ trọn lời hứa. Vì “giả như Thiên Chúa không công chính,
thì làm sao Người phán xét thế gian được?” (Rm 3,6).
- Đức Giêsu Kitô là Đấng công
chính, vì Ngài không có tội gì hết, đến mức cả viên đội trưởng trước
tòa Philatô cũng phải cất tiếng tôn vinh: “Quả thật, ông này là
người công chính” (Lc 23,47), Ngài lại là Đấng cứu độ con người
và làm cho con người trở nên công chính hóa (x. Cv 13,38-39; Rm
3,24; ICr 1,30). Ngài trung thành với Thiên Chúa một cách tuyệt đối,
Ngài lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết
trên cây thập tự (x. Pl 2,8).
2. Con người
cũng có thể trở nên công chính:
- Người công chính là người trung
thành với Thiên Chúa và luôn sống đẹp lòng Người (x. Lc 1,6).
- Là người luôn thực thi Thánh Ý
Chúa, người biết việc này phải làm và việc kia không được làm (x. Mt
3,15). Vì “người ta được Thiên Chúa coi là công chính, không phải
vì nghe biết Lề Luật, nhưng là vì tuân giữ Lề Luật” (Rm 2,13).
- Cũng như trong tám mối phúc (x.
Mt 5, 3-19): người công chính là người chính trực, hiền lành, hoàn
hảo… có quan hệ tốt với Thiên Chúa vì tuân theo Thánh Ý Người (x. Mt
5,20), không như nhóm kinh sư (x. 5,21-48), hay như nhóm pharisiêu
(x. Mt 6,1-18), mà là đức công chính của người môn đệ Chúa (x. Mt
6,19-7,20), sống như Lời Chúa dạy để trở nên người môn đệ đích thực
(x. Mt 7,21-27).
- “Đức Giêsu chính là Đấng đã
bị trao nộp vì tội lỗi chúng ta và đã được Thiên Chúa làm cho sống
lại để chúng ta được nên công chính” (Rm 4,25).
3. Thánh
Giuse, Đấng công chính (Mt 1,19):
Nhiều người cho rằng: “Ông Giuse
đã đính hôn với Bà Maria rồi (x. Mt 1,18), nhưng khi thấy vợ mình
mang thai thì lại định tâm bỏ trốn, vì biết rằng chủ nhân của bào
thai đó không phải của mình (x. Mt 1,19); hành động ấy không quân tử
chút nào sao lại khen ông là người công chính?”.
Theo lời giải
thích của Cha Giáo Tanila Hoàng Đắc Ánh, OP:
“Thánh
Giuse cư xử như vậy mới thật là công chính”:
- Vì ông muốn giữ trọn luật Môsê.
Luật cho phép ly dị trong trường hợp người vợ mang thai khi chưa
chung sống với chồng. Mà trước khi về ở với Ngài, Đức Maria đã có
thai, nên Ngài muốn ly dị.
- Vì Ngài muốn cư xử công bình
hợp lý với Đức Maria. Công bình hợp lý ở chỗ có tội mới bị phạt.
Nhưng Ngài biết Đức Maria là người vô tội nên không đưa ra pháp
luật, mà luật pháp bấy giờ rất khắt khe đối với trường hợp phụ nữ
mang thai không có người thừa nhận. Theo luật Môsê, thì người phụ nữ
không chồng mà có thai thì kể là người phụ nữ ngoại tình, tội của họ
là phải bị ném đá cho đến chết (x. Ga 8,5), hoặc lôi ra mà thiêu
sống (x. St 38,24), hay phải bị một hình thức xử tử nào đó (x. Lv
20,10; Đnl 22,20tt).
- Ngài cư xử khiêm nhường, không
dám nhận mình là người cha của một Hài Nhi mà Ngài biết là do Thiên
Chúa.
Cha Giáo nhấn mạnh: “Lý do thứ
ba mới thật là đáng nói”.
Với những giải thích nêu trên,
cũng khá đủ để chứng minh rằng: Thánh Giuse là người công chính như
Kinh Thánh đã khen tặng. Chưa kể đến những việc làm trong suốt cuộc
đời của Ngài, hằng luôn vâng theo Thánh Ý Thiên Chúa (x. Mt 1,18-25;
2,13-23; Lc 2,1-7.22).
Vâng,
Thánh Giuse là một người công chính. Ngài chỉ luôn ao ước sống công
chính trước mặt Thiên Chúa. Vì thế mà Ngài đã quyết định không muốn
tố giác Đức Maria và cũng không định tâm bỏ Bà cách kín đáo nữa, để
tránh tối đa điều sẽ làm cho Đức Maria phải đau khổ.
III. GƯƠNG CÔNG
CHÍNH CỦA THÁNH GIUSE ĐƯỢC THỂ HIỆN RÕ NÉT NƠI CÁC NHÂN ĐỨC CỦA
NGƯỜI:
Kinh Thánh nói rất ít về cuộc đời
và sự nghiệp của Thánh Giuse, nhưng chỉ cần thế thôi, cũng đủ để
chúng ta nhận ra các nhân đức trong con người và đời sống của Ngài.
Xin nêu lên một vài nhân đức tiêu biểu như:
1. Đức khiêm
nhường:
Thánh Giuse là một người rất
khiêm nhường: Ngài thừa nhận vị trí của Ngài với sự kính trọng đối
với Đức Maria và Chúa Giêsu. Ngài biết Ngài thua kém các Đấng trong
bậc thang ân sủng. Dù vậy Ngài vẫn chấp nhận vai trò vị hôn thê của
Đức Maria và người canh phòng Con Thiên Chúa. Đó là nhân đức giúp ta
nhận thức và hành xử trong tương quan liên hệ của chúng ta, đối với
Thiên Chúa và với tha nhân.
Nhân đức này còn là bài học giúp
chúng ta không cho mình là tốt hơn hoặc vượt hơn những gì là thực
tại của mình, vì đó là tính kiêu ngạo; đồng thời, cũng giúp chúng ta
không đánh giá thấp chính mình, hoặc từ chối những gì mình có mà cho
rằng mình kém hơn, vì đó là sự khiêm nhường giả hình.
Sách nhân đức dạy rằng: “Một
người khiêm nhường không cho mình hơn những gì mình có, nhưng cũng
không tự nghĩ mình kém hơn những điều mình có”.
Khiêm nhường đúng đắn sẽ là một
nhân đức, nó thừa nhận sự lệ thuộc hoàn toàn vào Thiên Chúa. Và theo
luật luân lý, nó nhìn nhận sự bình đẳng mình cũng chỉ là một loài
thụ tạo đối với các loài thụ tạo khác; có chăng mình cao cấp hơn một
số loài thụ tạo khác, thì đó là một đặc ân Chúa ban và phải biết tạ
ơn Người. Khiêm nhường không chỉ đối lập với kiêu căng, nó còn đối
lập với sự hạ thấp chính mình thái quá, tức là không nhìn nhận những
ân huệ Chúa ban và sử dụng chúng theo như ý muốn của Chúa.
2. Đức vâng
lời:
Đức vâng
lời của Thánh Giuse bao phủ lên mọi khía cạnh trong cuộc đời của
Ngài. Ngài vâng lời khi nhận kết hôn với Đức Trinh Nữ Maria. Ngài
vâng lời đón nhận Đức Maria về nhà mình, mặc dù đã biết Bà mang
thai. Ngài vâng lời để Đức Maria cuốn gói đến nhà Bà Isave hàng ba
tháng trời. Ngài vâng lời đi Bêlem để kê khai nguyên quán cùng với
Đức Maria và đã chấp nhận cảnh đời nghèo hèn khi phải chọn hang bò
lừa làm nơi sinh Chúa Hài Nhi. Ngài đã vâng lời khi đem Chúa Giêsu
và Mẹ Người trốn sang Aicập giữa đêm đông lạnh giá. Ngài đã vâng lời
khi đem Chúa Hài Nhi lên Giêrusalem dâng hiến theo như Luật dạy, và
chấp nhận Thánh Ý nhiệm mầu của Thiên Chúa khi lạc mất con, phải tìm
kiếm khổ sở suốt ba đêm ngày.
Chúng ta học được gì nơi nhân đức
vâng lời của Ngài? Thưa, vâng lời chính là một minh chứng tình yêu
của Thánh nhân đối với Thiên Chúa. Và Thánh Ý của Thiên Chúa cũng là
cách thức và là cơ hội Chúa dùng để thử thách mỗi người chúng ta.
Chúng ta có bổn phận chứng tỏ tình yêu của mình đối với Chúa, bằng
sự vâng lời, tín thác và hy sinh. “Tình yêu mà không có hy sinh
là tình yêu giả dối”; cũng vậy, “nơi nào không có vâng lời
thì ở nơi đó không có tình yêu. Nơi nào càng yêu nhiều, thì càng
vâng lời nhiều”.
3. Đức yêu
thương:
Thánh Giuse có nhiều nhân đức
đáng ca ngợi và noi giương, Ngài đáng được noi gương bắt chước, đặc
biệt về tình yêu mến của Ngài đối với Đức Giêsu và Mẹ Maria đã đành.
Nhưng Ngài còn đáng được ca ngợi và noi gương ở đời sống lao động và
làm việc cần mẫn, cho tình yêu và vì tình yêu. Bí mật của tình yêu
đích thực cũng chính là ở chỗ đó.
Trong nhân
đức này, Thánh Giuse cho chúng ta nhận ra sự quan phòng của Thiên
Chúa trong tất cả mọi công việc bổn phận hàng ngày, tùy theo bậc
sống của mỗi người chúng ta.
Vâng, Thiên Chúa không muốn hành
động một cách đơn độc. Để biến đổi cuộc đời mỗi người chúng ta,
Người muốn sử dụng lòng nhiệt tâm, nhiệt tình của con người nhân
loại như một công cụ làm máng chuyển ơn thánh của Người. Qua đức yêu
thương, khiêm tốn và chính trực của Thánh Giuse, chúng ta có thể
nhận ra rằng mỗi người đều có một vai trò riêng trong kế hoạch của
Thiên Chúa, và cách thế duy nhất để chu toàn trọng trách ấy là không
ngừng điều chỉnh cách nghĩ, lời nói cũng như hành động của mình cho
phù hợp với đường lối của Thiên Chúa.
4. Đức khiết
tịnh:
Chúng ta vẫn tin rằng, Thánh
Giuse là người suốt cuộc đời thanh tịnh hiến dâng. Truyền thống của
Giáo Hội xưa nay vẫn tin và dạy rằng: Sở dĩ Thánh Giuse giữ mình như
vậy, là vì Ngài luôn thi hành Thánh Ý Thiên Chúa, bảo vệ danh giá
của Mẹ Maria và gìn giữ phẩm giá của Con Mẹ, người Con mà Ngài biết
rõ là được sinh ra bởi quyền phép của Thiên Chúa, mà Ngài có trách
nhiệm dưỡng dục.
Đối với chúng ta, chúng ta có thể
thực hành nhân đức này được không? Thưa, tuy khó thực hiện hơn các
nhân đức khác, nhưng mỗi người chúng ta đều có thể thực thi. Vì nhân
đức khiết tịnh là nhân đức giúp con người tiết chế ước muốn khoái
lạc dục tình theo các nguyên tắc Đức Tin. Với những người đã kết
hôn, đức khiết tịnh giúp tiết chế sự thèm muốn không thích hợp cho
đời sống vợ chồng. Với những người chưa kết hôn, đức khiết tịnh giúp
kìm giữ sự thèm muốn làm điều dâm ô tục tĩu, ảnh hưởng xấu đến luân
lý. Với những ai quyết định sống bậc tu trì, đức khiết tịnh giúp ước
ao được thánh hiến hoàn toàn.
5. Đức khôn
ngoan:
Tuy Phúc Âm không ghi lại lời nào
của Thánh Giuse. Nhưng hành động và việc làm của Ngài đã nói lên rất
nhiều điều, vì “đức khôn ngoan được chứng minh bằng hành động” (x.
Mt 11,19). Chúng ta nhận thấy Ngài hành động hoàn toàn là điều khôn
ngoan, kể cả trong sự im lặng.
Trong nhân đức khôn ngoan có ẩn
chứa một đời sống âm thầm cầu nguyện. Ngài cũng thường xuyên cầu
nguyện bằng đời sống vừa chiêm niệm vừa hoạt động: khi chiêm niệm,
Ngài cầu nguyện trong thinh lặng; khi hoạt động, Ngài cầu nguyện
bằng chính những công việc bổn phận hằng ngày. Dù là chiêm niệm hay
hoạt động, Ngài luôn cầu nguyện bên Chúa Giêsu và Mẹ Maria với hết
tâm tình, sức lực và trí khôn của Ngài.
Qua nhân đức này, Thánh Giuse dạy
chúng ta rằng: khôn ngoan chính là biết nhận thức đúng đắn về những
việc phải làm hoặc những việc cần phải tránh.
Kinh Thánh dạy rằng: “người
khôn ngoan là người biết tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính
của Người” (Mt 6,33; xem thêm I Côrintô và II Côrintô).
Còn Sách luân lý thì dạy rằng:
Đức khôn ngoan là một nhân đức bản trụ, thuộc về trí tuệ, nhờ đó con
người nhận ra đâu là điều tốt phải làm và đâu là điều xấu cần phải
tránh. Sự khôn ngoan có thể nhận được trực tiếp nhờ ơn sủng Chúa
ban, nhưng cũng có thể huấn luyện và nâng cấp bằng thực hành trí tuệ
của riêng mình. Vì thế đức khôn ngoan được coi là tự nhiên khi được
phát triển bằng nỗ lực riêng và cũng được gọi là ơn siêu nhiên, vì
do Thiên Chúa ban để thực thi chương trình cứu độ của Người.
IV. THAY LỜI KẾT-
THÁNH GIUSE TRONG LÒNG NGƯỜI KITÔ HỮU:
1. Noi gương
và cầu xin:
Thánh Giuse hẳn nhiên đáng cho
mọi người Kitô hữu học hỏi và kêu cầu Ngài nguyện giúp cầu thay cho
chúng ta trước tòa Thiên Chúa.
Thánh Giuse, vốn là người luôn
thực thi Thánh Ý Chúa một cách tức khắc và chu toàn. Ước gì, mỗi
người Kitô hữu chúng ta, đặc biệt là những người cha trong gia đình,
luôn biết hướng nhìn lên Thánh nhân như một mẫu gương tin yêu phó
thác và hy sinh, đặc biệt là bổn phận bảo vệ gia đình và giáo dục
con cái.
Như việc Ngài cộng tác thực thi
kế hoạch cứu độ của Chúa một cách nhạy bén, trong sáng, khôn ngoan,
kín đáo, khiêm tốn và khó nghèo. Mong sao, mỗi người Kitô hữu chúng
ta cũng có một lương tâm trong sáng và nhạy bén, luôn biết chú tâm
đón nhận ý Chúa trong mọi hoàn cảnh; nhờ đó, chúng ta được ơn Chúa
hướng dẫn để có thể vượt qua mọi khó khăn và thử thách trong đời
sống thường ngày. Vì trong đời sống của chúng ta, thường khi gặp
những lúc khó khăn, thử thách, nhất là cuộc sống giữa vợ chồng, cha
mẹ và con cái hoặc giữa những tương quan liên đới của ta với người
khác. Ước chi mỗi người chúng ta cũng có những quyết định tự quyết
khi có những vấn đề quan trọng trong lắng nghe và cầu nguyện, để ý
muốn của chúng ta luôn hợp với ý muốn của Thiên Chúa.
2. Những ngày
lễ kính:
Lễ Thánh Giuse
- Bạn trăm năm Đức Maria (19-03, Lễ trọng):
Chỉ có Phúc Âm thánh Máthêu và
thánh Luca mới nói về Thánh Giuse. Theo hai Thánh Sử, Thánh Giuse
thuộc chi tộc Đavít: người được xem như dây liên hệ giữa dòng dõi
Đavít với Đấng Mêsia.
Những chặng đường đời của Thánh
Giuse cho chúng ta thấy rõ: Thánh nhân là con người của niềm tin và
phó thác, một người được chia sẻ để hiểu biết Mầu Nhiệm của Thiên
Chúa. Thánh nhân là con người thinh lặng, ít nói nhưng cần cù lao
động.
Như được Thiên Chúa chọn làm Bạn
Trăm Năm của Đức Trinh Nữ Maria; Ngài cũng được trao phó cho việc
chăm sóc Con Thiên Chúa, như một người cha.
Thánh nhân sống bao lâu, chúng ta
không rõ mấy. Kinh Thánh cho chúng ta thấy lần cuối cùng Ngài xuất
hiện tại Giêrusalem, khi trẻ Giêsu lên 12 tuổi.
Giáo Hội Phương Tây chính thức
tôn kính Thánh Giuse vào khoảng thế kỷ 14,15. Trong phụng vụ Rôma,
thánh lễ này bắt đầu được cử hành vào năm 1621.
Đức Thánh Cha Piô XI đã công bố:
Thánh Giuse là quan thầy của cả Hội Thánh.
Lễ Thánh Giuse
Thợ - Bổn mạng của những người lao động (01-05, Lễ trọng):
Chính Đức Thánh Cha Piô XII đã
xác định lễ Thánh Giuse Thợ vào ngày 01-05; đó cũng là ngày toàn thế
giới mừng ngày Quốc Tế Lao Động. Trong ngày này, Thánh Giuse được
tôn kính như một mẫu gương lao động để mọi người noi theo. Điều này
cũng nói lên ý thức và giá trị lao động của con người trong cuộc
sống trần thế.
Thánh Giuse đã lao động bằng
chính đôi tay và sức lực của mình để phục vụ lương thực và nhu cầu
sống cho gia đình Thánh Gia. Lao động ngày hôm nay khác với ngày
xưa, nhưng cũng có cùng một ý nghĩa khi con người sử dụng thân xác
và trí óc của mình để lao động, họ thể hiện chính cuộc sống ý nghĩa
và đích thực của mình để phát triển nhân vị và làm cho cuộc sống đó
có giá trị ở giữa trần gian.
Hơn ai hết, người Kitô hữu lại
cần phải có ý thức về đời sống lao động chân chính của mình, mọi
công việc và thành quả của lao động đều phải qui hướng về Thiên
Chúa.
3. Cầu nguyện:
Lạy Thiên Chúa là Cha toàn năng,
Cha đã giao phó Mẹ Maria và Đức Giêsu cho Thánh Giuse, và Thánh nhân
đã trung thành chu toàn sứ mệnh của mình để cộng tác vào công trình
cứu độ nhân loại của Cha. - Xin nhậm lời Thánh nhân cầu thay nguyện
giúp, cho Hội Thánh biết luôn luôn cộng tác với Đức Giêsu để hoàn
tất công trình Cha đã khởi sự. Chúng con cầu xin…
Lạy Thiên Chúa tạo thành trời
đất. Cha đã muốn cho con người lao động để tiếp tục công trình của
Cha. - Xin nhậm lời Thánh Giuse chuyển cầu, cho chúng con biết noi
gương Ngài để lại, mà chu toàn nhiệm vụ Cha đã giao phó, hầu sau này
được hưởng niềm vui Cha đã hứa cho những ai trung thành với Thánh Ý
Cha. Chúng con cầu xin…
JB. Bùi
Ngọc Điệp
|
VỀ MỤC LỤC |
|
HỌ CŨNG LÀ MỘT CON
NGƯỜI |
Man
is imperfect.
Con người là bất
toàn.
Đây là câu châm ngôn của
trường phái Alfred Adler của chúng tôi. Họ không bao giờ lên án,
nhưng luôn khuyến khích chúng tôi: không có gì phải mặc cảm, không
có gì phải lo sợ, không có gì phải e ngại, không có gì phải xấu hổ,
không có gì phải chán nản, không có gì phải thất vọng khi thấy chúng
ta lầm lỗi, vì chúng ta còn là con người chưa phải thần thánh. Điều
quan trọng không phải là lỗi lầm, nhưng là sau lầm lỗi chúng ta có
biết chổi dậy và lên đường trở về nhà Cha hay không?
Khi nói đến những người lãnh đạo,
thường chúng ta nghĩ ngay đến những con người cao siêu, thánh thiện,
tài ba, lỗi lạc, ít có người nghĩ đến những con người cũng mang
những yếu hèn của một kiếp người như chúng ta để cảm thông, để
nâng đỡ và nhất là để thêm lời cầu nguyện cho họ. Bài viết nầy tôi
muốn chia xẻ với quí anh chị em về khía cạnh đó, một khía cạnh rất
thực tế, một khía cạnh rất là người của bất cứ một con người nào, dù
là một con người rất thánh thiện và tài ba như vua thánh Đavit chẳng
hạn, cũng đã có lúc trót lỗi lầm, để chúng ta biết rõ thân phận của
kiếp người chúng ta và học ở đó một bài học khiêm tốn và thông cảm.
Hãy trở lại với câu chuyện vua
thánh Đavit. Một buổi chiều kia, một buổi chiều đẹp trời, Đavit chổi
dậy và đi bách bộ trên sân thượng, ông thấy một người đàn bà đang
tắm. Người đàn bà ấy rất đẹp và ông đã bị quyến rũ.
Sau giấc ngủ, Đavit đi bách bộ
trên sân thượng nhà vua, việc đó không có gì sai trái cả, nhưng
chính sự chán nản, chính khi tâm hồn xuống dốc cho thấy sức mạnh của
sự dữ trong mỗi con người chúng ta. Sự dữ là một phần của con người.
Nó nằm sẵn trong chúng ta và chỉ cần một sự khơi nhẹ cũng đủ để làm
nó lộ diện.
Từ ngày hôm đó, Đavit âm thầm
cho người điều tra về người đàn bà ấy và được biết bà ta là
Bathseba, con gái Eliam, vợ của Uria. Đavit đã cho người đi đưa bà
ta về và Đavit đã ngủ với bà ta.
Một con người tốt lành như Đavit
nhưng chỉ trong phút chốc đã phạm tội. Thật vậy, chúng ta mang những
kho tàng quí báu của chúng ta trong những chiếc bình sành, chỉ cần
một chút bất cẩn là có thể làm tiêu tan ngay. Blessed Claude de la
Colombiere nói: “Tôi cảm thấy trong tôi khả năng của mọi tội”.
Quả thế, trong bản tính con người
yếu hèn của chúng ta, nhất là trong những lúc buồn phiền, chán nản,
thất vọng hay những lúc chúng ta bất hòa, giận dữ người khác, chúng
ta có thể liều mình dám làm bất cứ điều gì ngay cả những tội tầy
đình mà chúng ta không bao giờ dám nghĩ đến trước đây. Đó cũng là
trường hợp vừa xảy ra ngay tại cung điện Roma. Một người lính vệ
binh của Đức giáo hoàng vì quá tức giận trong phút chốc đã rút súng
bắn chết ngay cả hai vợ chồng của viên đại tá, vị chỉ huy trưởng của
anh ta, và sau đó anh ta cũng dùng ngay chính khẩu súng đó để tự
sát.
Quả thật, may mắn cho chúng ta
nếu chúng ta biết nhận thức ra được những điều đó. Ít ra nó cũng
ngăn ngừa chúng ta khỏi bị khủng hoảng bỡi những điều xâu mà chúng
ta thấy nơi những người khác. Chúng ta không thể biết được lúc nào
nó có thể xảy ra cho chúng ta.
Tiến trình của sự dữ luôn là một
tiến trình chậm, nhưng nó vẫn luôn hoạt động. Nó thường bắt đầu với
một yếu điểm vô tội. Đó có thể là một sự tò mò, một hiếu kỳ của con
người mà ai trong chúng ta cũng đều có. Nhưng chỉ trong một thời
gian ngắn, cái yếu điểm ấy đã phát triển một cách nhanh chóng, trở
thành một tội ác, một kẻ giết người ở cuối câu chuyện của Davit:
Uria đã bị giết chết bỡi mưu đồ của Đavit.
Đây là cách thế mà sự dữ thường
phát triển trong mỗi con người chúng ta. Nó bắt đầu không có gì là
quan trọng, không có gì đáng quan tâm. Nó quá tầm thường đến độ
không ai để ý, chẳng hạn như tôi nói láo, đó có thể là một điều nhỏ.
Nhưng đã một lần tôi nói láo, tôi phải nói một lần nữa để người ta
tin. Không bao lâu tôi đã rơi vào tình trạng một kẻ chuyên môn nói
láo. Lấy một ví dụ: một người muốn lập công với cấp trên của mình để
có được một chỗ đứng quan trọng trong cộng đồng như lòng mong ước.
Một hôm anh đến thưa với cấp trên rằng:
Anh Nguyễn văn A đang âm mưu tìm
cách tẩy chay ngài để chiếm địa vị của ngài.
Thế là anh được hỏi: Anh biết
Nguyễn văn A đang âm mưu thế nào ?
Vì đã trót nói láo nên phải nói
láo luôn để họ tin:
- Anh ta đã triệu tập những người
chống đối ngài.
- Ở đâu ? Ở đường Charles, số nhà
100, nhà ông David Nguyễn.
- Gồm những ai ? - Gồm ông Peter
Trịnh, bà Anna Lê , ông Joseph Nguyễn..
- Vào ngày nào ? - Ngày 26/11/97
lúc 10:00am, vào chính lúc ngài cho ra mắt tập sách của ngài.
- Khi nào thì họ ra tay hành động
? - Vào tháng sau. Họ tính làm gấp nên chúng ta phải hành động trước
họ, càng sớm càng tốt, không được chậm trễ. Tuyệt đối là ngài phải
giữ bí mật, nếu để lộ bí mật thì nguy to cho ngài và cho cả chúng
tôi nữa vì tất cả dân chúng đều nghe theo lời anh ta.
Và nếu vị lãnh đạo ấy thiếu khôn
ngoan, sáng suốt thì chắc chắn anh Nguyễn văn A sẽ phải đền tội đủ.
Có ai biết cho rằng đó chỉ là một sự giàu óc tưởng tượng của những
con người chuyên môn nói láo.
Cũng vậy, một người không đi học
nhưng muốn khoe khoang là một người có học, bị người bạn hỏi thăm:
Anh đang làm gì ? Có còn đi học không ? Vì không dám trả lời rằng
không, nên nói có. Thế rồi, người bạn hỏi tiếp: Anh đang theo học
trường nào ? Đã lỡ nói láo nên phải nói láo luôn: trường U of M (university
of Minnesota) –Học môn gì ? –Computer science –Lấy mấy lớp ? Lấy 4
lớp …và cứ như thế đến vô tận.
Một ví dụ khác là ly dị. Ly dị
không phải là mới xảy ra bây giờ. Nó đã có lâu đời trong lịch sử. Nó
có thể bắt đầu với cảm giác chán chường. Có lẽ người chồng có cảm
giác sợ hãi mình trở nên già và đã phóng sự sợ ấy lên người vợ. Sự
lo âu sợ hãi của anh làm anh ta buồn chán và bắt đầu mất đi sự thích
thú với vợ mình. Những cảm giác đó làm việc trong vô thức để rồi
dần dần khiến anh xa dần vợ anh. Anh ta bắt đầu thích đi tìm một
người đàn bà khác, một cái gì mới mẻ hơn. Vì thế, khi có dịp may
đến, dĩ nhiên anh sẽ không bỏ lỡ cơ hội để làm quen, để gây mối tình
thân thiện, hay để nối lại mối tình xưa nghĩa cũ đối với những bạn
bè ngày xưa. Chẳng hạn, vào một ngày cuối tuần nào đó, có thể tình
cờ gặp lại một người bạn cũ, chắc chắn anh sẽ không bỏ lỡ cơ hội tốt
để ngỏ ý mời cô bạn đi ăn tối và cùng nhau đi xem phim cuối tuần. Và
dĩ nhiên cô bạn cũng sẽ vui vẻ đáp lại lời mời của anh. Từ đó, hai
người có dịp gặp gỡ trở lại và dần dần họ trở thành thân mật với
nhau hơn trước. Sau một thời gian, họ thấy rằng họ đang trên con
đường nguy hiểm, nhưng họ nói với nhau: “Chúng ta sẽ xếp đặt. Chúng
ta sẽ có giới hạn. Chúng ta chỉ là những người bạn tốt của
nhau”. Họ thật là điên cuồng bỡi lẽ lý luận của con tim thì khác
với lý luận của lý trí và cảm xúc của con người thì khó có thể giới
hạn được. Dĩ nhiên là ở cuối chặng đường, họ sẽ tìm cách để có thể
đi đến quyết định ly dị hôn nhân của họ để họ có thể lấy nhau và
chung sống với nhau.
Thật vậy, sự dữ bắt đầu với một
yếu tố hết sức tầm thường, tầm thường đến độ không một ai có thể ngờ
được nên chẳng mấy ai đề phòng. Như mọi sự sống, sự dữ bắt đầu với
một hạt giống, nó đâm chồi đâm rễ và mọc lên. Hãy xem trong câu
chuyện Đavit, sự dữ tiến hành thế nào ? Người đàn bà mang thai và
đưa tin cho Đavit. Đavit sau khi nghe biết sự việc, đã tìm cách che
giấu tội mình. Một điều mà ông ta hết sức quan tâm đó là cứu bộ mặt
của ông. Ông ta không muốn nhận tội mình và vì thế ngày càng lún sâu
vào vũng lầy của sự dữ. Từ nay mọi quyền lực của ngai vàng đều được
xử dụng cho mục đích nầy là: bảo vệ danh dự của ông. Không có lý do
nào để Đavit ra lệnh cho Uria rời bỏ chiến trường về hoàng cung và
rồi cho về nhà để ngủ với vợ trong lúc chiến trường đang gay cấn.
Nhưng không may cho Đavit, Uria đã không về nhà nhưng ngủ lại hoàng
cung, và như thế mưu đồ của Đavit thất bại. Đavit thấy mình thất
bại, vội vàng xoay sang thủ đoạn khác. Ông tìm cách để cho Uria được
đẩy ra ngoài địa đầu chiến tuyến, chỗ nguy hiểm nhất để Uria bị giết
chết. Lần nầy thì mưu đồ của ông đã thành công. Ông đã làm công việc
đó để cứu sỉ diện của ông. Nhưng điều đó không đúng chút nào lại còn
mang thêm một trọng tội khác.
Sau khi Đavit đã được sứ giả cho
biết Uria đã bị giết chết, Đavit đã đổi ngay thái độ. Ông không còn
hay nổi trận lôi đình nữa, cũng không còn hay gắt gỏng, cau có, nóng
giận, khó tính và lo sợ nữa. Ông xem ra trầm tĩnh hơn, bỡi lẽ bây
giờ ông có thể lấy Bathseba làm thiếp mà không còn phải sợ mất sỉ
diện nữa.
Chính việc nầy, chính việc che
dấu tội của Đavit còn xấu hơn gấp trăm ngàn lần tội mà ông đã phạm
với bà Bathseba. Nếu ông đã xưng thú, đã nhận lỗi, điều đó không đến
nỗi quá xấu. Tội ác tầy đình bắt đầu khi ông cố gắng che dấu tội
mình. Vì thế, Thiên Chúa đã sai tiên tri Nathan đến nói cho ông dụ
ngôn nầy:
Trong một thành kia có hai người,
một người giàu và một người nghèo. Người giàu thì có vô số chiên
lừa, còn người nghèo chỉ có một con làm gia sản. Một ngày kia,
người giàu, có khách đến thăm. Ông không muốn giết chiên mình để
đãi khách mà đi bắt con chiên của người nghèo giết đi mà đãi khách.
Đavit nghe đến đó thì nỗi trận lôi đình lên và phán bảo: “Người đó
đáng chết!” Lương tâm của Đavit tốt đối với việc quan tâm đến người
khác. Ông ta thấy rõ ràng rằng người giàu đã làm một việc bất công
và ông không chấp nhận điều đó. Nhưng ông đâu có biết rằng chính ông
cũng đã làm như vậy. Đavit đã sống trong sự yên hàn bấp bênh của
lương tâm bằng việc dấn thân cho một thế giới bên ngoài.
Trong khi lên án tố cáo người
khác, con người không còn năng lực nào còn lại để đối diện và nhận
ra lỗi mình. Sự nhiệt thành cũa Đavit đối với công việc bên ngoài là
một sự chạy trốn. Cái tội mà Đavit lên án nơi người giàu là một tội
đáng phạt. Tuy nhiên, lòng đam mê công lý của Đavit cho thấy sự bất
công quá đáng nơi chính ông ta. Sự sốt sắng cải thiện và sự dấn thân
phục vụ để tác động những người khác quả thật có thể đó là một sự
che lấp tinh vi của một sự sợ sệt và tội lỗi cá nhân.
Các nhà tâm lý học cho chúng ta
thấy rằng qua những đam mê hoạt động của chúng ta, chúng ta cố gắng
dập tắt cái cảm giác sợ sệt và tội lỗi để làm chúng ta trở nên có
giá trị hơn dưới con mắt người khác bằng những công việc hoạt động.
Chính những hoạt động đó có thể làm chúng ta trở thành những con
người hết sức hấp dẫn mà rất ít người có thể nhận ra có một sự chạy
trốn nào đó ở đàng sau bộ mặt hấp dẫn đó. Và đây chính là trường hợp
của Đavit. Nhưng Thiên Chúa có muôn ngàn cách thế để cảnh tĩnh những
con người Ngài muốn tuyển chọn. Ngài đã sai tiên tri Nathan đến
cảnh cáo Đavit: “Chính ngươi là người nhà giàu mà ngươi đã lên án
đó!” Từ bấy giờ, Đavit bắt đầu mở bừng mắt ra và ông đã thú nhận
những tội lỗi mình.
Lời Chúa là một cái gì sống động
và hữu hiệu. Lời đó được nói với Đavit qua một người khác. Đavit cần
một người trung gian để đưa ông đến việc chấp nhận và xưng thú tội
mình: “Tôi đã phạm tội chống lại Giavê”.
Bao lâu chúng ta còn che dấu lỗi
mình, bấy lâu chúng ta còn cảm thấy mình không được đón nhận. Khi
chúng ta thật sự chấp nhận sự đón nhận của Thiên Chúa và tin rằng sự
đón nhận của Ngài là vô giới hạn, bấy giờ chúng ta mới có thể xưng
thú tội mình. Việc chúng ta dấu tội là một dấu chỉ cho thấy chúng ta
không hoàn toàn tin vào tình yêu Thiên Chúa. Nó nói lên một sự thiếu
kém lòng tin. Thỉnh thoảng, chúng ta gặp những người không biết chấp
nhận lỗi mình, không bao giờ biết nói lên lời xin lỗi, họ là những
con người đáng được thương hại vì họ là những con người đau khổ hơn
cả bỡi sự bất an của tâm hồn họ. Sự an bình không tìm được trong sự
che dấu nhưng trong sự tha thứ. Bấy giờ sự tha thứ mặc khải cho họ
một chiều sâu mới trong tình yêu Thiên Chúa. Trong giây phút tha
thứ, chúng ta cảm nghiệm được tình yêu của Ngài lớn lao hơn những
lầm lỗi của chúng ta và sự chấp nhận của Ngài là vô điều kiện. Sự
tha thứ tạo nên một mối giây liên hệ mới giữa con người và Thiên
Chúa. Chỉ có những con người có sự can đảm dám xưng thú tội mình mới
có thể thật sự chấp nhận chính mình và tìm thấy được sự an bình mà
thế gian không thể ban cho và lấy đi được.
Lm. Lê Văn
Quảng
|
VỀ MỤC LỤC |
|
Hiểu Biết Căn Bản về Dược
Thảo |
Câu
Chuyện Thầy Lang
Bác sĩ
Nguyễn Ý Ðức
Dược Thảo hiện nay đang
được công chúng mọi nơi rộng rãi sử dụng, đặc biệt là tại
các quốc gia kỹ nghệ phát triển.
Riêng tại Hoa Kỳ, trong
năm 1998, dân chúng đã tiêu hơn 4 tỷ mỹ kim để mua các lọai
dược thảo. Từ năm 1990 tới 1997, số người dùng dược thảo
tăng 380%, số người đi khám bác sĩ giảm, mà số người đi khám
bệnh thầy thuốc không chính thống cũng nhiều hơn.
Dược thảo được bầy bán
khắp nơi, ngay cả trong tiệm chuyên bán âu dược. Những môn
thuốc cuả Mẹ Thiên Nhiên như lá, củ, rễ, vỏ, hoa.đã mau
chóng trở nên phương tiện trị liệu ưa thích của người dân.
Họ mua dùng để chữa từ các bệnh thường thấy như cảm cúm, đau
nhức , tiểu đường, tới một số bệnh trầm trọng hơn như ung
thư các loại, tê liệt tứ chi, liệt kháng HIV-ADS, viêm siêu
gan A,B,C.
Biết bao nhiêu người đang
dùng St. Jolhn Wort để chữa trầm cảm; ginkgo biloba để trì
hoãn sự hóa già, sa sút trí nhớ; melatonin cho rối loạn giấc
ngủ do chệch múi giờ; saw palmetto cho ung thư nhiếp hộ
tuyến; lá đu đủ cho ung thư gan; sừng tê giác cho ung thư
đường ruột; mã hoàng ephedra để giảm nghẹt mũi.
Theo cơ quan Y Tế Quốc Tế,
hiện có trên 4 tỉ ( 67% dân số ) người dùng dược thảo trên
thế giới. Kỹ nghệ chế biến dược thảo, bốc thuốc, hiện rất
phát triển, thịnh vượng, thu vào 12 tỉ mỹ kim trong năm
1998.
Để đáp ứng nhu cầu, đòi
hỏi của dân chúng, chính quyền các quốc gia cũng đã bắt đầu
lưu ý, dành ngân khoản, lập cơ quan nghiên cứu về công dụng
và sự an toàn của dược thảo.
Định
nghĩa
Theo định nghĩa của cơ
quan Y Tế Thế Giới, một sản phẩm được coi là dược thảo khi
thành phần chủ động gồm một bộ phận của thảo mộc nằm trên
không hay dưới đất, trong hình dạng nguyên thủy hay được chế
biến. Khi có pha lẫn bất cứ hoá chất hay khoáng chất thì
thuốc không còn là dược thảo nữa.
Lịch sử
dược thảo
Dược thảo đã giữ vai trò
quan trọng trong việc bảo vệ sức khỏe con người từ nhiều
ngàn năm, nhất là ở các quốc gia đang mở mang..
Ở Việt Nam ta, các vị
lương y ( cụ Lang, Đông Y sĩ ) đã sử dụng dược thảo từ thời
lập quốc với hai loại thuốc: thuốc Bắc, cây cỏ nhập từ Trung
Hoa; thuốc Nam dùng cây cỏ thổ sản quốc gia, trong những
bài thuốc gia truyền, theo kinh nghiệm qua nhiều thế hệ.
Các vị danh y như Tuệ
Tĩnh, Hải Thượng Lãn Ông đã để lại những tác phẩm đông y giá
trị. Bộ sách Nam Dược Thần Hiệu của Tuệ Tĩnh viết vào thế kỷ
17 liệt kê trên năm trăm vị thuốc có gốc thảo mộc và động
vật và ông chữa bệnh theo phương châm “ thuốc Nam Việt
chữa người Nam Việt ”.
Mới đây, ở Hà Nội, Giáo
sư Đỗ Tất Lợi tái bản bộ sách “ Những cây thuốc và vị thuốc
Việt Nam ” với trên 800 vị thuốc, cây thuốc được phân tích.
Dược Sĩ Lợi, trên 90 tuổi, được đào tạo về Tây Y dược,
nhưng đã dành trọn đời nghiên cứu, bảo tồn, truyền bá y dược
học cổ truyền Việt Nam. Bộ sách “ Cây Thuốc và Ðộng Vật Làm
Thuốc” của nhiều tác giả cũng là tác phẩm có giá trị.
Tại Trung Hoa, dược thảo
được ghi nhận từ năm 168 Trước Thiên Chúa, rất phổ thông và
đang được hệ thống hóa. Năm 1977, quốc gia này đã xuất bản
một dược thư gồm trên 5000 dược thảo.
Dược thảo du nhập Nhật
Bản năm 411 sau TC qua ngả Triều Tiên và nền y học thảo dược
rất phát triển và đáng tin cậy.
Ai Cập đã tìm ra tài liệu
cho thấy dược thảo được dùng từ năm 2000 trước TC. La Mã -
Hi Lạp đã dùng dược thảo từ thời Aristole, và sách dược thảo
cuả Dioscorides viết vào thế kỷ thứ nhất sau TC có ghi trên
600 vị thuốc cỏ cây.
Nền y học Ayurvedic Ấn
Độ cũng dùng dược thảo từ trên năm ngàn năm để hỗ trợ việc
trị bệnh và phòng bệnh do sự mất thăng bằng của tâm trí.
Ở Pháp, nhất là Đức, các
bác sĩ y khoa biên toa âu dược chung với dược thảo.
Tại Đức, một ủy ban gồm
nhiều bác sĩ, dược sĩ, chuyên gia về chất độc đã hoàn thành
một tài liệu với trên 400 chuyên đề tả công dụng, tác dụng
phụ, phân lượng của nhiều dược thảo.
Bên Anh, một công trình
tương tự cũng đã được hoàn tất.
Bên Mỹ, dược thảo rất
thông dụng với thổ dân bản xứ. Năm 1716, nhà thám hiểm Pháp
Lafitau đã tìm ra sâm Mỹ ở vùng New World. Hiện nay sâm là
tài nguyên xuất cảng quan trọng của Hoa Kỳ. Cơ quan The
American Botanical Council, Austin-Texas, dựa vào hai công
trình của Đức và Anh, đã soạn thảo một tài liệu nói về 26
dược thảo thông dụng.
Với cơ quan Thực phẩm và
Dược phẩm Hoa kỳ ( FDA ) thì dược thảo được xếp hạng như
thực phẩm phụ, được bầy bán không cần thử nghiệm, nghiên cứu
như âu dược, mặc dù dược thảo có tính cách trị bệnh và cũng
có tác dụng phụ. Dược thảo không được quảng cáo là có công
dụng trị bệnh mà chỉ được nói chung chung về ích lợi của sản
phẩm, thí dụ thuốc làm lợi tiểu tiện, bổ gan, tăng cường
miễn nhiễm...
Khi thuốc bị coi là không
an toàn thì cơ quan này sẽ không cho bầy bán.
Đa số dược thảo hiện có
trên thị trường đều được sản xuất theo kinh nghiệm đã dùng
hay dựa vào những bài thuốc được lưu truyền trong giòng họ
và được coi như đáng tin cậy. Vì dược thảo không được cơ
quan FDA cấp bằng đặc quyền chế tạo, nên các nhà sản xuất
không chịu bỏ vốn cho chi phí nghiên cứu khoa học như âu
dược.
Mấy năm gần đây, Viện Sức
Khỏe Hoa Kỳ, đã thành lập một trung tâm nghiên cứu về dược
thảo cũng như các phương tiện trị liệu không chính thống, và
đã dành một ngân khoản là 50 triệu trong tài khóa 1999 cho
việc nghiên cứu này. Đó là do áp lực của người tiêu thụ dược
thảo mồi ngày một tăng, vì nhiều lý do như:
a) Âu dược quá đắt, đôi
khi không công hiệu, mà lại có nhiều tác dụng độc hại, không
muốn; b)Dân chúng thích dược thảo có nguồn gốc trực tiếp từ
cây cỏ hơn là âu dược hóa chất;
c) Bất bình với nhóm tài
phiệt bao thầu quản trị y tế giới hạn việc sử dụng tây y để
kiếm nhiều lợi nhuận..
Một vài
đặc điểm về dược thảo.
Trước khi nghĩ tới việc
dùng dược thảo cho bệnh tật, tưởng cũng nên tìm hiểu một vài
dữ kiện về loại thuốc này:
1- Sự an
toàn của dược thảo.-
Ý kiến chung coi dược
thảo an toàn hơn âu dược, ít gây chứng bệnh phụ và rất ít
khi gây tai nạn tử vong.
Tuy nhiên dược thảo vẫn
là một loại thuốc, khi dùng ta cần cẩn thận, không nên nghĩ
vì nó là cây thiên nhiên thì không có hại.
Cam thảo ( licorice ) là
một trong những thuốc cây cỏ dùng nhiều nhất trên khắp thế
giới để chữa bệnh lở bao tử, ho, suyễn, nhưng nếu dùng lâu
ngày, có thể gây cao huyết áp, nhức đầu, mệt mỏi. Khi mới
dùng lần đầu, nên dùng với phân lượng nhỏ rồi tăng dần cho
tới liều chỉ dẫn bởi nhà sản xuất.
Một thí dụ khác là cà phê,
một loại họ thảo ta dùng mỗi buổi sáng để nâng cao tinh thần.
Nếu uống hai ly mỗi sáng thì có tác dụng tốt như ý muốn, năm
ly là có nhức đầu, nóng nẩy, 15 ly thì bắt đầu thấy ù tai,
chóng mặt.
Dược thảo bán trên thị
trường không được thử nghiệm về sự tinh khiết và hiệu nghiệm,
nên đôi khi có lẫn chất không cần như phấn hoa, phấn lá...và
có thể gây dị ứng.
2- Công
hiệu của dược thảo.
Các nhà sản xuất cũng như
hơn 4 tỉ người đang dùng dược thảo đều cho là thuốc công
hiệu trong việc trị bệnh và ngừa bệnh. Đã có nhiều nghiên
cứu khoa học hỗ trợ ý kiến này.
Có điều là tác dụng của
dược thảo thường từ từ, nhẹ nhàng, cần thời gian lâu để có
hiệu qủa, do đó tốt trong việc phòng bệnh.
Dược thảo, với nhiều
chất thuốc khác nhau, có tác dụng vào nhiều bộ phận cơ thể
hơn là âu dược, với một dược chất, tác dụng vào một bệnh chỉ
định.
Dược thảo thường không đủ
mạnh để trị cấp cứu, nhất là các bệnh do vi khuẩn gây ra,
nên thuốc kháng sinh vẫn là thuốc căn bản.
3- Dược
thảo không gây ghiền.
Thường thường cỏ cây gây
ghiền như cây thuốc phiện, cần sa... không được phép bán
công khai tại tiệm thuốc âu dược hay tiệm thuốc thiên nhiên.
Dược thảo không có kích thích tố hay chất chống viêm
steroid, nhưng một vài dược thảo có tác dụng hỗ trợ sự tiết
các chất này trong cơ thể.
4-
Nguồn gốc dược thảo.
Theo các nhà sản xuất,
thì dược thảo đều do cây cỏ được trồng trong môi trường có
kiểm soát, đôi khi không dùng hoá chất diệt sâu bọ, cỏ dại
hoặc phân bón nên phẩm chất tốt, thiên nhiên. Nhiều khi cây
cỏ mọc hoang cũng được dùng để chế thành thuốc.
5- Chọn
lựa dược thảo
Như đã nói ở trên, nhà
sản xuất không cần chứng minh sự an toàn và công hiệu của
dược thảo khi tung ra thị trường, mà chỉ khi nào có chuyện
xẩy ra thì thuốc đó mới bị bỏ đi. Tiêu chuẩn bào chế của mỗi
nhà sản xuất đều khác nhau, nên tỷ lệ dược liệu đều thay đổi.
Tỷ lệ này cũng thay đổi tùy theo cây cỏ được trồng ở địa dư
nào, được hái vào mùa nào, được tồn trữ ra sao và phần nào (rễ,
thân hay lá ) của cây được sử dụng để bào chế thuốc.
Những điều này gây khó
khăn không ít cho giới tiêu thụ khi mua thuốc. Vì thế các
nhà sản xuất đã tổ hợp với nhau để thống nhất sản xuất. Hiện
có hai tổ hợp lớn: American Herbal Products Association và
National Nutritional Foods Association.
Khi mua, nên lựa sản phẩm
do sự liên kết với các công ty tín nhiệm có cơ sở nghiên cứu
đầy đủ về phân lượng, tinh khiết và công hiệu. Cũng nên lựa
sản phẩm có nhãn hiệu với chỉ dẫn cách dùng, tác dụng phụ,
loại cây cỏ, ngày hết hạn.
Những
điều cần lưu ý khi dùng dược thảo
Tại Hoa Kỳ,Tây y được
xây dựng trên căn bản sinh hóa học hiện đại. Cơ quan Thực
Phẩm và Dược Phẩm, với nhiệm vụ điều hợp thực dược phẩm, bảo
vệ sức khoẻ con người, thường nhìn dược thảo với con mắt dè
dặt, nghiêm khắc. Họ cho là dược thảo không có công dụng trị
liệu và nguy hiểm.
Một luật gia than phiền
là hiện giờ có hai chế độ dược phẩm: một chế độ muốn được
bầy bán phải chứng minh có công hiệu trị liệu và tuân theo
luật lệ; chế độ kia được bán tự do, không cần kê khai giá
trị.
Bác sĩ Marcia Angel, Chủ
bút tập san Y học uy tín New England Journal of Medecine
khẩn khoản kêu nài dân chúng đừng tự chữa bệnh, tự dùng
dược thảo vì thuốc có nhiều thành phần không khai báo được
pha thêm vào như chì, thạch tín, rất nguy hiểm.
Còn giáo sư dược khoa
nổi danh Varro Tyler cho là sự nghiên cứu về dược thảo của
các quốc gia Âu Châu rất đáng tin cậy, tuy nhiên, độc tính
dài hạn của thuốc cần được theo dõi, tác dụng phụ có hại
thường được che dấu, giảm thiểu.
Dù vậy, dược thảo vẫn
được người dân tiêu thụ, vì niềm tin có bệnh thì vái tứ
phương, vì có ngay khi cần, không phải mất công lấy hẹn,
ngồi chờ bác sĩ, cũng như khi gặp trọng bệnh mà Tây Y bó
tay. Tuy nhiên cũng nên lưu ý mấy điều để tránh chuyện chẳng
lành:
1- Thông báo cho bác sĩ nếu đang dùng dược thảo
để tránh tác dụng không tốt giữa âu dược và thuốc cỏ cây.
Không dùng ginkgo biloba (bạch quả ) với thuốc trị đau nhức
Aspirin, thuốc ngừa tai biến não Ticlid, Persantine; âu dược
trị trầm cảm với St John Wort...
2-
Không dùng dược thảo khi mang thai, nuôi con
bằng sữa mẹ, không cho con nhỏ dùng dược thảo vì ở trẻ em và
thai nhi, gan chưa đủ sức vô hiệu hóa độc chất cuả dược thảo.
Xin đan cử một thí dụ: khi uống một ly cà phê, người lớn chỉ
cần 5 giờ để loại khỏi cơ thể mà con nít cần đến cả 80 giờ.
3-
Tuy dược thảo có nguồn gốc thiên nhiên nhưng
không thiên nhiên với cơ thể con người. Cho nên thuốc có thể
gây bất lợi khi dùng, nhất là vì thiếu kiểm soát nên thành
phần không thống nhất, phẩm chất không tinh khiết, đôi khi
pha lẫn chất có hại cho cơ thể.
4- Không nên dùng dược thảo quá dăm tuần lễ vì an
toàn dùng dài hạn chưa được chứng minh, cũng như không dùng
quá nhiều vì nguy cơ gây độc cho gan và thận. Cũng không nên
dùng nhiều dược thảo khác nhau một lúc vì tác dụng tương
phản của thuốc.
5-
Dược thảo cũng có tác dụng phụ như bạch qủa
gây xuất huyết; mã hoàng (ephedra ) gây tăng huyết áp, nhức
đầu, rối loạn nhịp tim; St John wort làm chóng mặt, mệt mỏi
khô miệng, mất định hướng... Mã Hoàng hiện nay đã bị cấm bầy
bán tại Hoa Kỳ.
Và cuối cùng là không nên
quá tin tưởng ở lời quảng cáo, giới thiệu của nhà sản xuất
vì những lời này không được cơ quan trách nhiệm xác định giá
trị, đồng thời cũng nên tìm hiểu về đặc tính trị liệu của
loại dược thảo đang dùng.
Bác sĩ Nguyễn Ý Ðức
|
VỀ MỤC LỤC |
NHỮNG TẠI HẠI CỦA BỆNH TƯỞNG |
Tại bệnh viện tâm thần nọ, có môt bệnh nhân cứ tưởng mình
là hạt thóc, vì thế khi thấy con gà, anh sợ run cả người, ôm đầu
chạy trốn vì sợ gà mổ. Sau mấy tháng chữa trị, bệnh anh đã thuyên
giảm.
Một hôm bác sĩ dẫn anh đi một vòng quanh khu vực nhà bếp của bệnh
viện xem anh khỏi hẳn chưa. Thình lình anh trông thấy một con gà
mái, khiếp sợ qúa, vội vàng, sợ sệt trốn sau lưng bác sĩ.
Bác sĩ dịu dàng bảo: “Đừng sợ! Này sao anh lại sợ con gà? Bây giờ
anh đã hết bệnh rồi. Anh có biết rằng mình là con người chứ không
phải làm hạt thóc không.?
Bệnh nhân đáp một cách mạnh dạn: “Tôi biết chứ, tôi là con người
mà tôi không phải hạt thóc! Nhưng con gà nó đâu có biết như vậy, nó
cứ tưởng tôi là hạt thóc mới chết chứ.”
* Một
Phút Suy Tư:
Tâm thần được phân định dưới nhiều
dạng khác nhau, tùy mức độ nặng nhẹ! Nặng thì có thể giết người, nhẹ
thì cười cười nói nói, hoặc trầm uất hoặc hoang tưởng. Ta cùng suy
nghĩ đến những chứng bệnh “tưởng” tâm linh trong Hội Thánh.
Có kẻ tuởng mình khôn ngoan nên kiêu căng và ngạo mạn, người
khác tưởng mình dốt nát nên mặc cảm tự ty, có kẻ tưởng mình tài giỏi
nên không chịu nghe ai góp ý. Bất chấp Cộng đồng, đường ta ta cứ đi,
việc ta ta cứ làm. Có người tưởng mình vô dụng nên chẳng dám làm
công việc nào, đi nhà thờ giữ luật rồi lầm lì ra về…
Dù là bệnh tưởng ở khía cạnh nào đều là không tốt
cả. Hội Thánh sẽ gặp nhiều rắc rối nếu có qúa nhiều người mắc bệnh
“tưởng”. Chúa Giêsu đến thế gian để bạn nhận ra giá trị thật
của mình. Nên có những nhận định đúng về chính mình, dưới ánh sáng
Lời Chúa. Bạn cần lắng nghe và tương giao với Chúa từng giây phút.
Vì thế thánh Phaolô khuyên: “Bởi vậy, ai tưởng mình đang đứng
vững, thì hãy coi chừng kẻo ngã.” (1Corintô 10, 12)
Đức Maria ca ngợi Chúa: “Chúa dơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp
tan phường lòng trí kiêu căng.” (Luca 2, 51)
Phó tế: GB Huyền Đồng-Nguyễn văn Định
|
VỀ MỤC LỤC |
CHẾT |
(Viết để cầu
nguyện cho Camie Hồng Dương vừa được Chúa gọi về ngày 17/4/2006)
Từ thưở tạo thiên lập địa
cho đến ngày nay, chưa từng có ai thoát được cái chết. Quả thật, già
trẻ lớn bé, vua quan quyền cao chức trọng cho đến dân cùng đinh
nghèo hèn đều phải qua chung một ngưỡng cửa của sự chết và rời khỏi
thế gian. Hình như ai cũng biết điều này và vì vậy người ta đâm ra …
sợ chết!!! Người ta sợ và tránh, không dám nói đến chữ “chết”, làm
như không nhắc đến chữ “chết” thì mình khỏi phải chết.
Tại sao người ta lại kinh
hãi sự chết đến như vậy??
Phải chăng, chúng ta sợ chết
vì chúng ta không còn được nhìn thấy, được chuyện trò với những
người đã chết. Chúng ta không biết họ có còn hiện hữu ở một hình
thức nào khác nữa không và họ đi về đâu, sướng khổ ra sao; hay chết
là hết, hết thật sự, không còn hiện hữu dù ở bất cứ cõi giới nào.
Những người vô thần tin chết
là hết, không có đời sau. Có lẽ họ nghĩ rằng thân xác con người với
bộ não và năm giác quan: nghe, thấy, nếm, ngửi, sờ đã tạo nên phần
tinh thần của con người - hay nói theo kiểu những người tin vào Chúa
hay Phật thì gọi đó là linh hồn. Vì vậy khi thân xác con người chết
đi, thì tinh thần hay linh hồn cũng không còn nữa. Như nhà đèn hay
lò biến điện bị phá hủy thì chúng ta không có điện. Nói một cách
khác, những người vô thần tin rằng thân xác tạo ra tâm linh. Có
người lại nói, linh hồn không có vì không ai sờ thấy hay cảm nghiệm
được linh hồn. Nhưng liệu có ai thấy được điện đâu nhưng nó vẫn hiện
hữu. Người ta biết được có điện vì thấy bóng đèn bật sáng, các vật
dụng bằng điện hoạt động khi bật nút mà thôi. Nếu nghĩ như những
người vô thần thì chết là điều đáng sợ và phải sợ, vì chết đồng
nghĩa với sự hủy diệt, mất đi vĩnh viễn.
Còn chúng ta, những kẻ tin
vào Thiên Chúa mà cũng sợ chết sao?? Á à, có người có thể nói rằng
sợ chết vì sợ phải trả lẻ, rằng thì con người ai mà chẳng yếu đuối
và phạm tội nên sợ phải ra trước sự phán xử công minh của Thiên
Chúa. Điều này hợp lý, nhưng chẳng phải chúng ta - các môn đồ của
Chúa Giêsu - vẫn thường nghe nói hay chúc tụng tình yêu và lòng
thương xót của Thiên Chúa sao?? Phải chăng chúng ta chỉ nghe, chỉ
nói như chim két mà không thật sự tin vào tình yêu và lòng thương
xót của Ngài???
Điều quan trọng chúng ta ai
cũng biết là một ngày nào đó, có thể là lát nữa đây, có thể là ngày
mai, tháng tới, năm tới hay một ngày tháng nào đó, cái chết sẽ đến
với người thân yêu của mình và rồi đến phiên “tôi”, chính “tôi”
chết! Liệu chúng ta đã chuẩn bị cho người thân yêu của mình hay
chính mình để khi ngày chết của ta đến thì chúng ta đã sẵn sàng, hân
hoan về cùng Chúa.
Trong cuộc sống, chúng ta
chuẩn bị nhiều thứ cho mình và người thân. Chẳng hạn cho con ăn học
là bậc làm cha mẹ chuẩn bị để khi lớn lên ra đời, con mình được nhẹ
nhàng tấm thân, ăn nên làm ra. Càng thương con, cha mẹ càng tìm đủ
mọi phương tiện cho con học hành. Lớn lên một chút, trái tim lúc
lắc, sét ái tình đánh cho tơi tả, người ta dắt nhau đi học giáo lý
hôn nhân, chuẩn bị cho cuộc sống lứa đôi cho đời sống gia đình, v ..
v .. và v..v…
Vậy mà đối với cái chết -
một điều mà chưa ai thoát khỏi thì người ta lại lẩn tránh, không dám
nhắc tới, làm như không nhắc thì nó sẽ không bao giờ tới vậy đó.
Chúng ta không dám đối diện với sự thật rằng thì rồi một ngày chính
“tôi” sẽ phải chết. Người ta không muốn hay không dám chuẩn bị cho
người thân và chính mình hành trang để bước qua ngưỡng cửa của sự
chết.
Nói quơ đủa cả nắm như vậy
thể nào cũng bị mắng cho là con nhà có đạo mà dốt nát. Thật ra thì
là người Công giáo có đạo hạnh nên hể thấy cái chết lúp ló trước cửa
thì ta có lật đật cho mời Cha đến để được ơn giải tội, được lãnh bí
tích xức dầu. Còn thì ngày ngày (?) đọc kinh xin ơn chết lành để
khỏi phải chết tươi ăn năn tội chẳng kịp cũng …. đủ rồi!!
Nhưng, lỡ như Chúa muốn ta
chết bất đắc kỳ tử thì sao nà?? Ôi lạy Chúa, con van xin Ngài đừng
dắt con đi theo kiểu đó vì các bà bạn trong nhóm đọc kinh của con sẽ
“sung sướng“ mà đi rêu rao rằng thì con mang nhiều tội trọng ác
nghiệt nên mới vô phúc phải chết tươi như thế đó. Nghĩ tới chết tươi
chẳng kịp mời Cha xức dầu thì hoảng kinh hồn vía làm dấu thánh giá
lia lịa và năn nỉ ỉ ôi với Chúa.
Chừng thấy ông X bị bệnh nằm
liệt giường hàng mấy năm trời, chẳng tự mình tiêu tiểu vệ sinh gì
được phải nhờ người thân chăm sóc. Lại than thở rằng thì: thôi phần
tôi, tôi xin Chúa cho tôi bệnh chi thì chết ngay để không bị hành hạ
thân xác. Ừ, hay là ta xin Chúa cho đủ giờ để lãnh nhận bí tích xức
dầu thôi, nhưng đừng để con vật vờ dở sống dở chết nha Chúa.
Tội nghiệp Chúa, chắc Ngài
phải phân vân xem nhậm lời cầu nào đây cho vừa ý con cái!!! Nghĩ cho
cùng, nếu ta cụ bị sẵn sàng thì khi nào hay cách nào Chúa gọi thì ta
cũng đã …. sẵn sàng. Và như ta đã nhận ra thế gian là cõi tạm và cái
ngày Chúa gọi ta có thể rất thình lình và khó ai biết trước đuợc,
cái ngày ta sẽ rời khỏi nơi tạm bợ này để trở về trả lẻ trước mặt
Thiên Chúa; thì chắc chắn ta phải sống khác hơn, phải chuẩn bị chu
đáo hơn.
Vậy mà ta nhìn chung quanh
thử xem, chúng ta - những kẻ được lãnh nhận nhiều bí tích và nhờ Ơn
Chúa mà có đức tin - có sống khác hơn kẻ vô thần hay người không có
đức tin chăng?? Hàng ngày, chúng ta có sống theo điều răn của Chúa
Giêsu là Mến Chúa Yêu Người không? Chúng ta có làm mọi việc với tất
cả tâm tình yêu mến không?
Nhiều lần tôi xét mình rồi
tự an ủi: ừ thì ai sao tôi vậy, tại người ta làm bậy nên tôi làm …
theo!! Không phải lỗi tôi!! Tôi nói tôi xét mình nhưng nghĩ quanh
quẩn một hồi thì hình như là tôi xét người và biện hộ cho mình thì
đúng hơn. Tôi dễ dãi với chính tôi nhưng tôi lại khe khắc với anh
chị em quanh mình!! Nếu mỗi ngày tôi suy nghĩ như vậy thì đến giờ
tôi hấp hối, cái giờ Chúa gọi tôi bất ngờ, liệu rằng tôi có nghĩ
khác hơn không?? Chắc là không!! Thành nếp rồi, cứ theo nếp củ mà
suy ra thôi!!
Thật là đáng sợ!! đáng kinh
sợ hơn cả sự chết vì tôi đang đánh cuộc rủi may cho việc mệnh hệ đời
đời của mình. Trong những dịp quan trọng ở nơi trần thế tạm bợ như
khi tôi đi thi tôi chuẩn bị bài vở cẩn thận, khi tôi nộp đơn đi làm
và tha thiết mong mình được nhận làm việc tôi cũng chuẩn bị có khi
tập dượt trước cẩn thận, ngày đầu tiên tôi hẹn hò với người tôi yêu,
ngày cưới v..v.. tôi dành nhiều giờ để chuẩn bị quần áo, tóc tai
v..v.. và v .. v….. Còn ngày giờ tôi đi trình diện với Đấng có thể
ban cho tôi sự sống đời đời thì tôi lại phó mặc cho may rủi!! Bạn
ơi, tôi nói với bạn mà cũng là nói với chính tôi rằng trước tiên
mình phải tận nhân lực thì sau đó mới tri thiên mệnh, chưa làm hết
sức của mình thì đổ thừa cho người hay trách Chúa sao được!!
Như vậy thì chuẩn bị cách
nào đây cho ngày trọng đại đó, cho giờ chết của chính mình???
Ta thử bắt đầu một ngày sống
của mình với tâm tình suy nghĩ đây là ngày cuối Chúa để ta nơi trần
gian này, vậy thì ta làm gì ngày hôm nay?? Xin hãy tạm ngừng một
chút, khoan đọc tiếp nhưng hãy thành thật trả lời cho chính mình:
Ngày hôm nay ta sẽ làm gì nếu biết Chúa cất ta đi đêm nay??
Bạn thử viết ra vài điều mà
bạn sẽ làm nếu tối nay Chúa dắt bạn đi và giả dụ ngày giờ chết Chúa
đã báo cho bạn biết là điều tối mật, tuyệt đối bạn không thể chia sẻ
cho bất kỳ ai dù là vợ chồng hay cha mẹ, con cháu, anh chị em hay
bạn hữu.
Ngày hôm nay và lúc này đây,
bạn còn có thì giờ để suy nghĩ xem hành trang gì mình mang theo được
trong cuộc vượt biên bí hiểm với Chúa và không bao giờ trở lại đây
nữa. Chuyến ra đi này bạn không mang theo được vàng bạc, tiền của
nhưng bạn có thể “gửi chính thức”, “chuyển tiền” qua những người
sống quanh mình, những người Chúa gửi đến cho mình bằng cách sống
quảng đại hơn, cho đi, chia sẻ những thứ mình có. Bạn nhớ không,
Chúa nói dù là việc nhỏ bé nhất và bạn làm cho người bé mọn nhất thì
Chúa cũng ghi công, cũng chuyển thành tiền mua vé, mua chỗ cho ta
trong nước Thiên Chúa. Như vậy chính tình yêu mến, cách ta cư xử với
những người quanh ta sẽ quyết định chỗ của ta trong nhà của Thiên
Chúa, ta càng yêu mến đối xử tốt với những người quanh ta thì đó
chính là vàng, là đô la, là vé để ta vượt biên cửa Chết và vào nước
Trời.
Khi suy nghĩ, ghi ra những
điều mình muốn làm trước khi rời khỏi trần thế, ta sẽ nhận ra các
điều quan trọng hay ưu tiên chúng ta cần phải làm. Phải thường xuyên
kiểm soạn lại hành trang vì ta không biết chắc ngày giờ Chúa đến đón
ta. Có những điều bạn khắc khoải, mơ ước được làm thì hãy bắt tay
làm ngay đi, đừng chần chờ nữa và hãy làm với tất cả lòng yêu mến.
Chúng ta phải bắt đầu từ giới răn thương yêu của Chúa thôi, bạn ơi.
Khi ta chú tâm làm mọi việc với tất cả tâm tình yêu thương, ta cũng
sẽ nhận ra được tình Chúa tình người nhiều lắm ở quanh ta. Nếu bạn
nghĩ rằng môi trường bạn sống toàn là thủ đoạn, toan tính, thù hằn,
lường gạt … bạn hãy làm người chiến sĩ tiền phong của Chúa, bạn thử
kiên trì đốt lên ngọn lửa yêu thương và cầu nguyện, bạn sẽ cảm
nghiệm được tình yêu và sự hiện hữu của Chúa.
Nếu ngày nay là ngày cuối ở
trần thế thì ta có đi lễ không? Có viếng Chúa không? Chắc là phải có
để xin Thiên Chúa, Mẹ Maria và các Thánh phù trợ cho ta trong bước
đăng trình về với các Ngài. Rồi ta làm gì nữa đây?? Có lẽ ta đi thăm
Cha Mẹ già, thăm con cháu, ta thăm anh chị em, những người bạn thân;
ta đi giải hòa với những người thân – vì ai mà để bụng giận người
dưng kẻ lạ bao giờ!!! Ta sẽ nói với vợ/chồng và con cháu, với bạn bè
những lời yêu thương, ta sẽ cố làm cho xong công việc đang dở dang
….. Bạn ơi nếu ta sống một ngày với đầy ắp những yêu thương như vậy
và yêu mến Thánh Ý Chúa, chấp nhận vâng theo ý Ngài không than van,
không trả giá thì … thiên đường là ngay đây rồi. Ngài dắt ta đi hay
để ta ở đều là ân phúc từ Trời ban.
Có người sẽ nói mỗi ngày bao
nhiêu là công việc, giờ đâu mà thăm nom, giờ đâu mà hòa giải với mấy
bản mặt ó đâm, chuyên làm mất lòng ta hay tệ hơn còn làm ta điêu
đứng?? Này bạn, khi tôi nói tôi không có giờ để đi thăm Mẹ già - hay
nói một cách khác tôi đã không xếp công việc thăm nom Mẹ là một việc
ưu tiên trong chương trình của tôi, vì ngày nào Chúa cũng cho tôi 24
giờ như nhau, còn sử dụng thì giờ đó ra sao thì Chúa ban cho tôi tự
do để lựa chọn. Khi người ta thật lòng muốn, muốn một cách mãnh
liệt, ta sẽ tìm ra được thì giờ và phương cách để thực hiện ý muốn
của mình.
Ý thức và chuẩn bị cho cái
chết của chính mình không phải là một việc tiêu cực đâu bạn. Tiêu
cực là khi ta không có đức tin và không tin vào tình yêu của Thiên
Chúa kìa. Hãy gẫm lại xem, Chúa hạ mình xuống làm người và chết cho
ta, phải rồi Chúa Giêsu chết cho chính mỗi người chúng ta. Bạn ơi có
tình yêu nào mạnh mẽ hơn, cao cả hơn tình yêu của bậc cha mẹ chết
cho con cái, chết để cứu mạng cho con mình; có tình yêu nào lớn hơn
việc hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu. Bạn ơi, đó là tình yêu của
Thiên Chúa, của chính Chúa Giêsu cho bạn, cho tôi!! Khi ta cảm
nghiệm được tình yêu mãnh liệt này của Thiên Chúa, ta sẽ không còn
sợ chết nữa. Nhưng làm sao để ta cảm nghiệm được đây??
Phải cầu nguyện đối thoại
với Chúa thôi!! Bạn ơi, khi ta cầu nguyện và tìm nghe tiếng Chúa, ta
sẽ cảm được sự hiện diện của Chúa và sẽ thấy được câu trả lời của
Ngài cho những điều ta thắc mắc, băn khoăn. Cầu nguyện nhiều với
Chúa ta sẽ thấy gần gũi, thân mật với Chúa hơn, ta sẽ cảm nghiệm
được tình yêu và nhận ra được ân sủng của Ngài trong cuộc sống của
mình. Có bao giờ bạn để ý là khi ta liên lạc, lui tới thăm nom với
người nào nhiều thì thân tình thêm thắm thiết không?? Có khi là thân
nhân ruột thịt mà ta không cảm thấy gần gũi thân thiết bằng người
bạn hàng xóm chỉ vì ta ít khi liên lạc, thăm nom nhau. Khi có việc
ta thường chạy đến nhờ vả những người mà ta thân thiết vì dễ thông
cảm, dễ nói hơn.
Cũng vậy khi ta cầu nguyện
là ta nói chuyện, kể lể với Chúa; càng nói chuyện nhiều với Chúa ta
sẽ thấy gần hơn, thân hơn và cũng thành thói quen nữa. Ta có thể tập
thói quen tốt này ngay bây giờ, thay vì để tư tưởng của ta lang
thang, nghĩ vẩn vơ bất định hướng ta có thể bắt đầu tập nói chuyện
với Chúa thí dụ khi ta bị kẹt xe giữa giờ cao điểm thay vì buông một
câu chửi thề, ta có thể nói: Chúa ơi, kẹt xe quá mà Chúa biết con
đang vội vàng, con sắp trễ làm rồi và con rất sợ khuôn mặt hắc ám
của ông xếp khi con đi trễ … Nghĩa là nói, kể với Chúa mọi điều, mọi
việc, thay vì: tí nữa “mình” sẽ làm điều này thì ta tập nghĩ/nói:
Chúa ơi, lát nữa con tính, con làm ….v..v… Bạn làm thử xem, lúc đầu
hơi ngượng ngập nhưng chừng một buổi hay vài ngày bạn sẽ quen dần.
Điều này có lợi lắm vì khi
ta cảm thấy gần gũi thân thiết chuyện trò với Chúa ta cũng đang củng
cố đức tin của mình. Tin cậy và kính yêu Chúa ta sẽ cảm thấy bình
an, phó thác và không còn sợ hãi điều gì ngay cả sự chết. Chết không
còn là lưỡi hái ghê rợn của tử thần mà là một cái gì êm đềm thoáng
chút xao xuyến vì ta biết khi đến giờ Chúa dắt ta về, ta sẽ được
diện kiến đấng quyền uy bao trùm vũ trụ, hơn thế nữa đó là người
Cha, người anh, người bạn nhân từ mà ta hay nói chuyện ngày đêm.
Chắc chắn Chúa Giêsu phải đón ta trịnh trọng lắm không phải vì công
lao của ta mà vì Ngài yêu ta và ta biết chắc điều đó vì ta cảm
nghiệm được tình yêu vô biên của Ngài.
Bạn ơi, chúng ta thường sợ
chết vì chúng ta cậy sức mình, sức con người hữu hạn kém cỏi. Chúng
ta chạy đông chạy tây tìm mọi cách nào là thiền, là liên lạc tâm
linh, là gọi hồn người chết bên kia của tử … phải chăng là để ta
trấn an sự sợ hãi của chính mình về cái chết. Chúng ta quên đi cách
hay nhất vẫn là tìm đến suối nguồn tình yêu của Thiên Chúa, nương
tựa nơi Ngài, cậy trông nơi Ngài. Thiết lập được mối dây liên hệ mật
thiết với Thiên Chúa thì dù sống hay chết ta vững tin vào Ngài và
can đảm bước tới.
Như vậy nếu hôm nay là ngày
giờ chết của bạn, của tôi; ngày Chúa dắt bạn và tôi về - bạn ơi,
chúng ta có quà gì mang về cho Chúa chưa? Hãy chuẩn bị cho Chúa một
món quà đặc biệt nhất, món quà mà Ngài đã hạ mình làm “người” để tìm
kiếm và căn dặn các môn đệ đi tìm mang về cho Ngài. Đó là là tình
yêu của chúng ta. Ngài yêu ta và khao khát được ta yêu Ngài.
Nếu ta tin vào tình yêu mãnh
liệt này của Thiên Chúa thì ngay giờ này nếu ta phải đi về với Ngài,
ta cũng có món quà mà Ngài trông đợi - nếu như ta muốn trao cho
Ngài.
Đó là tình yêu của chính ta
- chắc chắn là ta có thể cho Ngài tình yêu, ta có thể yêu mến Chúa
với trọn cả xác hồn và rước Chúa làm trung tâm điểm cho cuộc sống
của ta.
Với món quà tình yêu, ta có
thể xin Chúa bất cứ điều gì. Vậy nếu tôi chân thành yêu mến Chúa,
yêu mến người bạn Camie Dương của mình và liên lỉ cậy trông, thầm
thì cầu xin Chúa cho linh hồn Camie Hồng Dương được an vui bên Chúa,
bạn nghĩ Chúa Tình Yêu nở từ chối sao??? Bạn ơi, Tình Yêu mạnh hơn
sự chết!!!
Vân Diễm
|
VỀ MỤC LỤC |
|
- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến,
bài vở..., xin gởi về địa chỉ
giaosivietnam@gmail.com
- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục
vụ của Giáo sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các
Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn
gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực
Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh
vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức
Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và
Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quí vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại
www.conggiaovietnam.net
Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị
Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã
sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác
nhau.
TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca
Phạm Quốc Sử
USA
|
|
*************
|
|