THIÊN CHÚA = TÌNH THƯƠNG
ĐẠO THIÊN CHÚA = ĐẠO TÌNH THƯƠNG
( bài
Số 02, tiếp theo kỳ trước)
ĐOẠN II
QUẢNG DIỄN MỘT SỐ ĐỀ TÀI
qua NHÃN QUAN VĂN HÓA VIỆT NAM
- Trong Đoạn I, soạn giả đã toát lược những Tư
Tưởng chủ đạo và Phương pháp Lý luận của ĐGC(Đức Giáo Chủ)
về toàn bộ hai Phần trong Thông Điệp.Trong Đoạn II này,
sẽ quảng diễn những đề tài được đặt ra trong Thông Điệp như: Tình
ái “Eros”, tình ái”Agape” là gì?Tại sao công việc Từ thiện, Bác ái
thuộc về cơ cấu, căn tính của Hội Thánh?v,v…Trong Thông Điệp,
ĐGC đã dùng kiến thức về Kinh Thánh, Thần Học, và đặc biệt nhờ
Văn hóa La-Hy để diễn giảng Giáo Lý Công Giáo cho các độc
giả quen thuộc với cách lý luận của Triết Lý Âu-Mỹ. Ở đây, soạn giả,
ước mong trình bày một cách trung thực những tư tưởng của ĐGC, bằng
một ngôn ngữ, và Văn Học, Triết Lý gần gũi với dân tộc Á Châu,
đặc biệt với đồng hương Việt nam. Ngày nay, các vị truyền
giáo đã bắt đầu ý thức rằng: muốn rao giảng những “Chân Lý Mạc
Khải”, chẳng hạn: “Thiên Chúa = Tình Thương”có giá trị
phổ biến, vượt không-thời gian, thì phải tận dụng và khai thác
các tinh hoa của các dân tộc, dùng Văn Hóa, Ngôn ngữ địa phương,
làm phương tiện để diễn giảng “Lời Chúa”cho họ dễ hiểu hơn. Gọi là
“Chân Lý có giá trị phổ quát, vượt không-thời gian”, chẳng
hạn như: “ Chớ giết người”, hay “ Hãy Thảo Kính Cha Mẹ”..thì
Đấng Tạo Hóa đã khắc ghi trong tâm trí con người, trong các nền văn
hóa của các dân tộc. Do đó, Chúa Cứu Thế đến trong thế gian, để
“HOÀN CHỈNH” , thanh luyện những khuyết điểm, chứ không phá
huỷ những gì là Giá Trị, là Thiện Hảo. Vì thiếu nghiên cứu và tôn
trọng những Tinh Hoa trong các nền Văn Hóa kỳ cựu tại Trung Hoa,
Việt Nam, Ấ Độ, ...nên việc truyền bá “Tin Mừng” đã không đem
lại những thành quả mong muốn vì không hiểu biết
- Sau đây, xin quảng diễn một số đề tài quan trọng liên hệ đến Chủ
Đề:”Thiên Chúa= Tình Thương”, “Đạo Thiên Chúa=Đạo Tình Thương”;
vẫn theo dõi những dòng tư tưởng và thứ tự của các con Số ghi trong
bản văn Thông Điệp của ĐTC(Đức Thánh Cha), để độc giả dễ kiểm chứng.
Tốt nhất là quí độc giả nên tìm đọc chính nguyên bản, để tự
mình khám phá ra nhiều chi tiết kì thú, sau khi đã duyệt qua bản dẫn
nhập này.
Phần I của Thông Điệp
Tính Chất Nhất Quán, Duy Nhất của Tình Ái
trong Tạo Vật
Và trong Lịch Sử Cứu Nhân Độ Thế
( The Unity of Love in Creation and in Salvation History)
a/-Nhận xét chung về ngôn ngữ nghèo nàn
của chữ “Tình Ái”(coi: số 2)
Các ngôn ngữ, tiếng nói của các dân tộc lớn nhỏ trên thế giới,
đều thiếu danh từ để biểu lộ các sắc thái tế nhị của
chữ “Yêu Thương”(Amor, Amour, Love…). Nếu phân tách về
ý nghĩa nội dung, thì “Tình Thương Vô Biên của Đấng Tạo
Hóa”, phải khác với tình thương của cha-mẹ đối với
con-cái, khác với tình thương yêu giữa cặp trai-gái…, càng
khác xa với ý nghĩa của câu nói: hai con chim sẻ “chúng thương
nhau”(?). Tại sao ta chỉ dùng có một chữ”thương” ? Một L.M
người Canada, Cha Nhân(Gagnon) rất thông thạo tiếng Việt, thuộc lòng
“Truyện Kiều” và thơ phú Việt nam. Trong một buổi nói chuyện vui,
khi được hỏi: Theo Cha, người đã ở lâu năm tại Việt Nam, khắp miền
nam-bắc, Cha có nhận xét gì về vấn đề chữ“Tình” của
người Việt? Cha hóm hỉnh trả lời: Chữ “Amour” ( Yêu Thương), thì
người miền bắc nói chữ đầu là “Yêu”, mà người miền nam chỉ
kêu chữ sau là “Thương”. Yêu Thương mà đi lên (hướng
thượng), thì gọi là “Tình Ái( chữ Ái,có dấu sắc), còn Yêu Thương mà
đi xuống, thì kêu là”Ái Tình”( chũ Tình, hạ dấu huyền). Không
ai nói: “Ái Tình” của Thiên Chúa, nhưng có thể nói” Tình Ái” của
Thiên Chúa. Vả lại, chữ”Thương” vừa có nghĩa là Yêu , vừa có nghĩa
là”thương hại”.
- Cần nhiều danh từ khác nhau để có thể bộc lộ, diễn tả mọi
sắc thái của tình ái, nhưng vì chỉ dùng một chữ “yêu
thương”, nên ý nghĩa chữ này rất mập mờ, làm ta hiểu lầm và
dễ bị lừa gạt. Chẳng hạn như: Khi một thanh niên, ăn mặc bảnh bao
thỏ thẻ với một thiếu nữ thơ ngây, câu:”Anh yêu em” hay Anh
thương em”,(I Love You, Ngộ Ái Nị) thì trái tim nàng liền rung
động, lờ mờ đôi mắt, vì cứ tưởng lời ngon ngọt đó là thành thật.
Nhưng chẳng may khi gặp”tai nạn”, thì chàng Sở khanh kia đã”quất
ngựa truy phong” từ lâu rồi, để lại một mình em “ôm bầu tâm
sự”, cô đơn, khổ sở. Do đó, câu gạt gẫm:”Anh Yêu Em”,
thật ra chỉ có nghĩa là “Anh Yêu Anh”(ngộ ái ngộ) mà thôi, vì
anh chỉ muốn lợi dụng , chiếm đoạt em để thỏa mãn anh; khi đã được
no đủ chán chê thì quẳng em đi như đồ phế thải. Nếu anh yêu em thật
lòng, thì khi em gặp hoạn nạn, khó khăn, anh phải ra tay giúp đỡ,
chứ không thể bỏ trốn trách nhiệm, mặc em bơ vơ.
b-/ Tình “Vị kỉ”(EROS) và “Vị Tha”(AGAPE): Khác Biệt và Duy Nhất (coi số 3-8)
- ĐỨC GIÁO CHỦ đã nêu gương sáng cho thời đại chúng ta, khi Ngài
dùng những ngôn ngữ, những tư tưởng của các nhà triết học, xã hội
học, kinh tế học..để minh giải những “Chân Lý Mạc Khải, Phổ
Biến”, giúp cho các dân tộc ngoài-Thiên Chúa Giáo dễ hiểu, nên
dễ chấp nhận. Thật vậy, để phân giải nỗi khúc mắc, éo le của con
tim( như Pascal đã nói: Le coeur a ses raisons que La Raison ne
connait pas: trái tim có những lý lẽ của nó mà chính Lý Lẽ lại không
biết), ĐTC đã dùng Phạm Trù “eros”và “agape”trong Triết Lý Hy lạp,
để phân tách và gỡ rối cho “mối bòng bong tơ lòng”của người đời.
1- Phận Loại Tình Ái “Eros”và Tình Ái
“Agape : Khác biệt và Hòa hợp (coi: số 3)
Ngài đã phân loại Tình Yêu làm hai cấp bậc tuy khác biệt nhau,
nhưng phải ràng buộc lẫn nhau, hiệp nhất vời nhau thì Tình Yêu mới
đầy đủ, chân thật. Một cấp bậc gọi là: EROS: (
erotique Amour), được chuyển ngữ là”Tình Yêu VỊ KỈ”.
Loại Tình yêu này chỉ biết nhận lãnh, vơ vét, chiếm hữu cho
mình, không cho ai khác. Đó là: Tình Yêu “Ích kỉ hại nhân”(cadao),
Tình Yêu ấu trĩ, như trẻ nít hay giành giựt các trò chơi, kẹo bánh
cho mình mà không chia sẻ với anh chị em. Một hạng Tình Yêu khác gọi
là AGAPE( charitable Amour) chuyển dịch là “Tình Yêu
VỊ THA” . Đó là Tình Yêu vươn ra ngoài cái “Tôi Ích
Kỉ”,( cái Tôi đáng ghét, Le Moi est haissable), cái “Ngã” ( tham
–sân- si), hạn hẹp, để hướng về Tha Nhân, như đối tượng, như
mục đích của Tình yêu. Tình Yêu Vị Tha sẵn sàng “cho đi”,
HY SINH thời giờ, tiền bạc, sức lực để giúp đỡ những
người mình yêu mên khi gặp đau khổ, thiếu thốn. Đó là Tình Yêu Vị
Tha của Cha Mẹ hy sinh nuôi nấng dạy dỗ con cái, Tình Yêu chung thủy
của đôi vợ-chồng hy sinh đời sống cho nhau.
- Tình Thương Vị Tha cao cả nhất, mà Thiên Chúa đã ban
cho Nhân Loại:chính là TINH YÊU THƯƠNG NHẬP THÊ của Chúa Cúu
Thế. Vì Yêu Thương vô cùng, Chúa GiêSu đã xuống thế làm
người phàm như chúng ta, chịu Khổ hình, chịu Chết để chuộc tội cho
nhân loại, và đã Phục sinh vinh hiển để ban cho chúng ta đời sống
vĩnh phước.
- Việc phân loại Tình cảm con người ra hai loại như trên, cũng đã
được các Đạo giáo Việt Nam giảng dạy. Nhà Phật
cho rằng mọi điều xấu đều do “cái Ngã”, hợp thành bởi
năm yếu tố gọi là “Ngũ Uẩn”, tạo nên Dục Vọng,
nhất là ham sống, và hưởng lạc. Do đó, muốn được giải thoát khỏi
vòng Luân hồi, Nghiệp báo, thì phải “Diệt Dục”, tức
diệt cái Ngã, phá vòng Nhân-Duyên, để siêu thoát lên Cái Đại Ngã
rộng lớn. Nhà Nho như Vương Dương Minh chủ trương: cái
Tâm của con người có phần sáng láng, tốt lành, nhưng cũng có
phần tối tăm, ví như viên Ngọc bị cát bụi bám vào.
Ngọc kia chẳng dũa chẳng mài,
Cũng thành vô dụng cũng hoài Ngọc đi
(ca dao)
Do đó, việc tu thân cần tẩy trừ phần xấu, ích kỉ, tư lợi, để làm
sáng tỏ cái ĐỨC” tốt của con người, bằng cách thi thố
những việc ích quốc lợi dân, và luôn hướng thượng, chỉ dừng lại ở
điều Thiện Hảo:(”Đại học chi Đạo tại minh Minh Đức”, tại Thân
Dân, tại chỉ ư Chí Thiện)( đọc thêm: “Thiên Chúa Giáo và Tam Giáo”
trang:8184;126-130;303-308)
2- Hội Thánh có chủ trương triệt tiêu,
hủy diệt Tình Vị kỉ”Eros” không?(coi: số 4)
Hội Thánh có kết án “Eros”, Tình Vị kỉ của con người là hoàn
toàn xấu, phải trừ diệt không? Con người có thể hoàn toàn triệt để
“Diệt Dục” được không? Theo Truyền thống Hội Thánh
Công giáo, các vị thần học gia như Thánh Tôma, như ĐTC Gioan
Phao Lô II( coi:”Thần Học về Thân Xác”), thì không cho Tình
Eros tự bản thể nó là xấu, vì do Thiên Chúa phú bẩm cho con
người. Tình Eros, Vị Kỉ chỉ xấu khi tự nó không vươn lên Tình
Agape, Vị Tha, khi người ta tôn thờ nó như một vị thần dâm dục, chỉ
tìm khoái lạc cho riêng mình, và không đếm xỉa gì đến người khác.
Do đó, Tình Eros, Vị Kỉ cần được thanh luyện, thăng hoa lên Tình
Agape, Vị Tha, thì mới tránh khỏi gây ra các tội ác về lạm dụng
Tính Dục.
- Ngày nay, ta thấy nhan nhản trong xã hội vật chất vô thần, tiêu
thụ, những hình thức biểu lộ thái độ tôn sùng “Eros”, chỉ tìm khoái
lạc cho mình, mà coi tha nhân như một “đồ vật”, để tiêu
khiển, chứ không phải một con người có nhân vị cao quí đáng tôn
trọng, Những tệ nạn xã hội, thiếu Tình Vị Tha, Thương Người
như: hiếp dâm, thủ dâm, ngoại tình, phá thai, chửa hoang, mại dâm,
buôn bán người phụ nữ, bắt cóc trẻ em, hộp đêm, sách báo, Internet,
phim ảnh khiêu dâm.v,v , khiến đời sống tình cảm, tình ái, đặc biệt
của giới trẻ bị thác loạn tinh thần, thích bạo động, bắn giết.
3- Hội Thánh Công Giáo chủ trương: con
người có Xác và Hồn (số 5).
Theo Truyền thống, Thiên Chúa Giáo vẫn chủ trương: Con Người toàn
diện gồm có XÁC và HỒN. Thân Xác tự nó có giá trị, đáng tôn
trọng; nhưng nếu chỉ tôn sùng thân xác, lo tìm thỏa mãn cho Xác
mà thôi, thì sẽ sinh ra những điều tệ hại làm huỷ diệt toàn bộ con
người. Xác không đối nghịch với Hồn, Vật Chất không chống lại Tinh
Thần, nhưng Xác –Hồn Hòa hợp làm nên con người toàn vẹn.
Tình Yêu Thương chân thật giữa Vợ-Chồng phải được hòa hợp cả
Thân Xác và Linh Hồn. Vợ hay Chồng không thể coi nhau như
những, “món hàng mua được” hay“đồ vật”dùng để thỏa mãn
những đòi hỏi say đắm thuần tuý sinh lý, nhưng luôn thăng hoa lên
một Tình Yêu “Vị Tha”, nghĩa là chung thuỷ, sống chết vì người mình
trao thân hiến xác. Do đó, Kinh Thánh đã dùng hình ảnh “Tình Yêu
Thương của Vợ-Chồng”, để sánh ví với Tình Thương vô vị lợi, vô
điều kiện, vô biên của Thiên Chúa đối với Nhân Loại, và phải noi
gương Tình Thương cao cả đó để tình Yêu Thương của Vợ-Chồng được
thanh luyện, thăng hoa, hòa hợp nên một. Trong việc khắc kỉ, tu đức,
Hội Thánh kết án những phương pháp hành hạ Thân xác một cách quá
đáng, sinh ra bệnh tật, làm mất sức khoẻ.
- Trong Văn Học Sử Việt Nam, Thi sĩ Tản Đà Nguyễn Khắc
Hiếu (1889-1939)đã viết bài thơ ”Vịnh bức dư đồ rách”,
khi ngắm nhìn bức “Địa đồ” Nước Việt, treo trên tường, đã bị
rách nát, để cảm thương phận đầy đọa của một Nước Việt dưới ách đô
hộ. Trong đó có câu:
“Mình với ta, tuy Hai mà Một,
Ta với mình, tuy Một mà Hai”
Chữ “Mình”(tiếng vợ- chồng gọi nhau) ở đây, chỉ Non sông đất
Việt, chỉ đồng hương Việt được thi sĩ sánh ví như Tình Nghĩa
Vợ-Chồng. Vì lòng ái quốc, thi nhân coi mình như một phần tử của đất
nước, luôn yêu mến, hiệp nhất, đoàn kết với mọi công dân trong
nước.Thi sĩ không muốn hưởng thụ một mình, “vinh thân phì da”,
mà bỏ Lý tưởng Vị tha, Nghĩa đồng bào. Sau này, hai vần thơ tuyệt
cú này, thường được áp dụng để diễn tả mối Tình chân thật giữa
Vợ-Chồng, vừa giữ được cá tính, nhân vị riêng biệt, vừa Vị Tha, tôn
trọng lẫn nhau. Đó cũng là ý nghĩa của câu Ca dao Tục ngữ, tương tự
như câu trong Kinh Mười điều Răn: “Trước kính mến Một Đức Chúa
Trời, sau lại”Yêu người như mình ta vậy”.Amen.( Sách Kinh
Địa phận Hà nội):
“Thương Người như thể Thương thân”
(ca dao)
4- Tình Yêu Thương Vị Tha Được Mọc Lên
từ Tình Yêu Thương Bản Năng Vị Kỉ (coi số 6-7).
Đây là một Truyền Thống đặc thù của Thiên Chúa Giáo, bắt nguồn từ
Kinh Thánh. Tình Yêu “Eros” Vị Kỉ, nhận lấy cho mình rồi, phải được
phân phát đi cho người khác, tức Tình Yêu Vị Tha . Hai động tác
“nhận lấy-cho đi”, luôn sánh vai cùng một nhịp, không thể
hoàn toàn tách rời nhau. Nếu chỉ bo bo giữ lấy cho mình, thì đời
sống ích kỉ, “đóng khung, khép kín” đó, không được mở rộng và sẽ
trở nên nghèo nàn, bần tiện, keo kiệt. Theo thần học và triết học
Thiên Chúa Giáo, có một sự luận lý nội tại, một sự liên
quan về yếu tính giữa Tình Yêu Vị Kỉ và Tình Thương Vị Tha,
nghĩa là Vật Chất liên hệ với Tinh Thần, từ Tình vật dục(amor
concupiscentiae) chuyển sang Tình từ thiện( amor benevolentiae).
Ngược lại, người ta cũng không thể chỉ “Cho đi”, mà không “nhận
lấy”. Bởi vì, ai yêu thì cũng muốn người mình yêu, yêu lại. Vả lại,
nếu không nhận lãnh thì lấy gì mà phân phát cho người khác:
“có đi có lại mới toại lòng nhau” (ca
dao)
- Sách Kinh Thánh đã minh chứng sự liên hệ giữa hai loại Tình Yêu
Thương đó. Trong Sách “Diễm Ca”, nguyên thủy là những
lời ca tụng Tình Yêu của đôi vợ -chồng trong hôn nhân. Sau này, các
vị thần bí(Mystic) đã thăng hoa mối tình tự nhiên để áp dụng vào
Tình Yêu giữa Dân Do Thái và GiaVê, hay Tình Thương giữa Chúa và
Linh Hồn.
Chúa Cứu Thế cũng nói:” Ai tìm cách giữ mạng sống mình, thì sẽ
mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Ta, thì sẽ bảo tồn được mạng
sống”(Lc, 9; 24; Mt, 10:39). Đặc biệt Chúa nhấn mạnh đến sự liên
hệ giữa Thập Giá và Phục Sinh:” Hột lúa rơi xuống
đất và chết đi, thì sẽ sinh ra nhiều hạt khác”….. Gioan,
12:23-25)
Nói tóm lại, chỉ có Một Tình Yêu, nhưng
với nhiều khía cạnh biểu lộ khác nhau. Tình Yêu của con người cần
noi theo Mẫu Mực của Tinh Thương bao la của Thiên Chúa, để
thanh luyện và thăng hoa lên “Tình Mến Chúa và Yêu Người”là
Một thực tại duy nhất.
- Trong Văn Học Sử Việt nam, từ Ca dao, Tục ngữ, Thi ca…không
thiếu những áng thơ văn ca tụng Tình Ái của những “tài tử đa
tình”như:
Cụ Nguyễn Công Trứ, một danh sĩ Việt Nam, văn võ kiêm toàn,
có “tài kinh bang tế thế” như khai khẩn đất hoang miền Tiền
Hải, Nga Sơn, giúp dân giầu nước mạnh..Vậy mà về vấn đề “Tình”,
Kẻ Sĩ Nguyễn Công Trứ, cũng phải lúng túng, không hiểu nổi , chỉ
biết nghe theo bản năng của con tim, như câu thơ, dưới đậy:
“Cái Tình là cái chi chi, Chi chi cũng
chi chi với Tình” (Nguyễn Công Trứ)
Trong thơ văn và đời sống, có lúc ông đã buông thả theo dục vọng tự
nhiên như trong bài thơ”Tuổi già cưới hầu” hay khi ông viếng
chùa Thiên Tường trên núi Hồng Sơn, vẫn đem theo đào nương:
“Gót tiên theo đủng đỉnh một hai dì,
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng”
Có người phê phán thái độ của cụ Nguyễn Công là phạm đến danh giáo
của Kẻ Sĩ. Nhưng nếu ta khảo sát toàn bộ thơ văn và đời sống của
Nguyễn Công Trứ, ta sẽ nhận thấy nơi tâm hồn ông một “Chí anh
hùng”, luôn vươn lên một tình cảm thanh cao, để thực hiện Lý tưởng
Vị Tha, vì Dân vì Nước. Ngay trong vấn đề Tình cảm, ông vẫn giữ được
thái độ tôn trọng nữ sắc, chứ không có thái độ chiếm hữu, thưởng
thức cho chán chê, rồi vùi đạp, bỏ đi:
“Khuyên ai đừng dở truyện li phi:
Trân trọng lấy hương trời cho trọn vẹn”
(bài Chơi hoa)
L.M .Vũ Đình Trác đã bình phẩm như sau:”Như vậy ta mới
hiểu nếp sống thái hòa là một nếp sống đầy thận trọng, vì tiểu ngã
luôn luôn nằm trong Đại Ngã tâm Linh. Có thái hòa thì có giao hội có
tương dung. Đó là căn bản của Đạo NHÂN”( sách”Triết Lý
Chấp Sinh Nguyễn Công Trứ, trang 220).
- Đạo NHÂN là gì? Đây là Đạo Sống của Đức Khổng Tử chủ
trương và các Nho gia tuân thủ trong việc Tu thân, Tề gia, Trị quốc,
Bình thiên hạ. Xét về Nguyên tự chữ hán(……..), chữ này gồm hai bộ:
bộ nhân( …..) là người, và bộ nhị(……) là
Hai. Đạo Nhân, chính là Đạo Nhân Ái, Đạo
Yêu Người. Tình Yêu Thương chân thật là tình trao tặng giữa
Hai Người, mới là Tình Vị Tha. Nếu chỉ kiếm lợi
cho riêng mình, và làm hại người khác, là “ích kỉ hại nhân”.
Trong ngôn ngữ Việt, kẻ tàn ác, hành hạ người khác, gọi là kẻ
“bất Nhân”, nghĩa là không giữ Đạo Nhân, đồng thời không
còn là con người nữa, vì mất nhân tính.
- Trong Giai thoại về một nhà Nho Việt Nam, Thi sĩ Chu Thần Cao Bá
Quát, có kể câu chuyện như sau: Ông thua trận, bị triều đình bắt
sống, trói chân tay, bỏ vào cũi, khiêng về Kinh đô để xử tội. Dọc
đường, quân lính dừng lại bên một hồ ao để nghỉ mát, vì trời rất
nóng. Để thử tài văn chương đối đáp của thi nhân, một viên đội mới
ra vế đối:
“ Nước trong leo lẻo, cá đớp cá”
Nho Sĩ họ Cao, liền đối lại:
”Trời nắng chang chang, người trói
người”
c/- Đặc Điểm Tân Kỳ của Niềm Tin trong
KINH THÁNH (coi: số 9-11)
1- THIÊN CHÚA GIÁO là một
Tôn giáo Độc Thần. Theo Kinh Thánh trong Cựu Ước và
Tân Ước, chỉ có MỘT Vị Chủ Tể tạo thành muôn sự muôn loài, hữu hình
và vô hình. Thiên Chúa là Đấng Sáng Tạo và An Bài vũ trụ càn khôn.
Thiên Chúa là NGÔI VỊ, cầm quyền sinh tử, phán xét, định đoạt
Công-Tội, và lắng nghe Nhân Lọai KÊU CẦU, NGUYỆN XIN. Thiên
Chúa không phải là một Nguyên Lý vô hình vô tượng, trừu tượng,
vô-bản -vị( impersonal) như các nhà triết lý Đông –Tây tưởng tượng
ra, nhưng Bản Thể của Thiên Chúa là TÌNH THƯƠNG. Ngài Yêu Mến mọi
loài Ngài đã dựng nên, đặc biệt, Thiên Chúa Yêu Thương Nhân Loại.
- Thiên Chúa Yêu từng cá nhân, nhưng cũng thương hết mọi người.
Có thể nói: Ngài vừa Yêu thương theo nghĩa “eros”, vừa theo nghĩa
“Agape”. Thiên Chúa yêu thương và chọn dân tộc Do thái làm dân riêng
, nhưng Ngài cũng muốn cứu chuộc tất cả nhân loại.
Vì thế, trong Kinh Thánh thường dùng Tình Yêu trong Hôn Nhân,
Vợ-Chồng để sánh ví với Tình Yêu Thương Vô Cùng của Thiên Chúa
đối với nhân loại. Bởi vậy, Vợ-Chồng muốn yêu thương cho phải Đạo
Phu-Thê, thì phải học và bắt chước Mẫu mực nơi Tình Yêu của Thiên
Chúa.
- So sánh quan niệm và Niềm Tin vào Một Ngôi Vị Thiên Chúa và
các Triết Lý Siêu hình và niềm tin dân gian của dân tộc Việt Nam,
ta nhận thấy những điểm tương đồng và khác biệt. Tín ngưỡng dân gian
đặt niềm tin vào một vị Thần cao cả trên hết các thần thánh khác, Vị
đó được xưng tụng là “ÔNG TRỜI”, hay Hóa Công:
“Ông Trời có mắt”, nghĩa là Ngài hằng quan tâm xem xét, cai
quản vũ trụ, nhân sinh. Khi ai gặp hoạn nạn mà kêu cầu, thì được
Ngài cứu giúp. Niềm Tin vào “Ông Trời có Ngôi Vị”, cũng giống
như tín ngưỡng của dân Trung Hoa, trong Kinh Thi, đã được Đức
Khổng Tử san định.
Ngoài niềm tin vào Một Đấng Thương Đế mà hằng năm vua quan đại diện
toàn dân để tế lễ như Lễ Tế Nam Giao, các nhà nghiên cứu về
tín ngưỡng dân gian Việt Nam đã ghi lại hai nhận xét sau đây:
Một, ngoài niềm tin vào “Ông Trời”, dân chúng Việt Nam
còn thờ rất nhiều ‘Thần, Thánh”, ( đa thần, phiếm thần,
polytheism, pantheism), cũng có quyền ban ơn giáng phúc, hay gây tai
họa cho con người. (coi: Vũ Ngọc Khánh, Phạm Minh Thảo, Từ
Điển“Linh Thần Việt Nam”(NXB Văn Hóa Thông Tin, Hà nội,2002).
Hai, các nhà Nho theo triết học Trung Hoa thời nhà Tống như Lý
học, Tâm học, Đạo học, đều cho rằng: vũ trụ càn khôn phát xuất từ
một Nguyên Lý siêu việt, vô tượng, vô thanh, vô sú,
vô-bản-vị(impersonal) được gọi bằng danh xưng trừu tượng như:
Đạo, Thái Cực, Vạn Vật Nhất Thể, Đại Ngã, Phật Tính..Những quan
niệm siêu hình này, tuy diễn tả được bản tính cao siêu Tuyệt Đối của
Thiên Chúa, nhưng lại phủ nhận ý niệm về “Ngôi Vị”(Personal
God) trong Thiên Chúa Giáo, coi “Ngôi Vị Thiên Chúa”và Bản
Tính của Chúa phải hoàn toàn KHÁC BIỆT và CAO SIÊU hơn mọi
loài thụ tạo. Con Người được Kết Hiệp với Chúa, nhưng Thiên Chúa
vẫn giữ Thần Tính, và con Người vẫn giữ nhân tính của
mình. Vì nếu không phân biệt Đấng Tạo Hóa khác với các loài thụ tạo
như loài người, thảo mộc, động vật, khoáng vật, nếu chủ trương:”
Vạn vật nhất thể”, thì sẽ không đặt ra vấn đề Cầu
Nguyện, và Lễ Bái nữa, vì ai cũng như ai, mọi loài mọi vật
đều như nhau cả!
- Ngoài ra, cũng nên phân biệt hai quan niệm “TỪ BI” của Phật
Giáo, và “BÁC ÁI” của Thiên Chúa Giáo. “Từ Bi”(Compassion)
là lòng thương xót bao quát hết các sinh vật từ con kiến, con sâu
đến con người, không phân biệt cá tính. Đối với một Phật tử chân
chính, cần phải thi thố công cuộc Bố thí,Từ Bi, vì là phương
thế tốt để “Diệt Dục”, nghĩa là diệt được cái
lòng tham, sân, si, cái “Ngã ích kỉ”, “yêu mình”, khiến tâm thần
được thanh thỏa, “trống rỗng”, để hòa mình vào cái Đại Ngã mênh mông
của vũ trụ. Bởi vậy, Từ Bi, Hỉ Xả chỉ là phương tiện, còn
Diệt Dục mới là cứu cánh cần phải đạt tới. Trái lại, mục đích
chính của Đức Bác Ái là: “ Mến Chúa và “Yêu Người”.
Thiên Chúa là Nguồn Mạch, là Mẫu Mực của TìnhYêu
Thương Vị Tha. Ai “Yêu Mến Chúa “, thì phải thực hành Đức
Bác Ái Vị Tha như Chúa đã làm, phải noi guơng Chúa, hy sinh tiền
bạc, sức khoẻ, thời giờ..để giúp đỡ những người anh chị em đang đau
khổ. Do đó, Thiên Chúa và Con Người là Mục đích
phải nhằm tới, và công cuộc từ Thiện Bác ái chỉ là phương tiện
giúp ta thi hành Đức Bác Ái( đọc thêm: “Thiên Chúa Giáo và Tam
Giáo, trang:229-255).
2-Tình Yêu Thuơng Tha Thứ,
Cứu Chuộc của Thiên Chúa (coi: số 10)
Như đã trình bày ở trên, Tình Yêu Thưong của Thiên Chúa vừa là
“Eros”, vừa là“Agape”, nhưng là “Agape”, vô cùng hoàn hảo, vì là
“Tình Yêu THA THỨ”, như trong trường hợp tiên tri Hôsê
tha thứ cho bà vợ ngoại tình, ám chỉ Chúa cũng tha tội bất trung của
dân Ích riên(Israel). Mầu Nhiệm THÁNH GIÁ minh chứng
Tình Thương vô tận của Thiên Chúa đối với Nhân Loại tội lỗi. Mầu
Nhiệm NGÔI LỜI NHẬP THỂ(Logos), lại càng biểu lộ Tình
yêu “eros”, thiết tha, đăm mê và Tình Thương “Agape” tuyệt vời, cao
quí. Sách Diễm Ca , diễn tả Tình Yêu Thương giũa
Vợ-Chồng trong Hôn Nhân, theo các nhà thần bí(mystics), cũng ám chỉ
“Tình Kết Hiệp Huyền Nhiệm”(mystical Union) giữa Thiên Chúa
và Linh Hồn Thánh Nhân. Thiên Chúa Cao Siêu Vô cùng đã trở nên
Một với con người, tuy bản tính Thiên Chúa vẫn không hề
thay đổi, vẫn giữ trọn Thần Tính, và Linh Hồn vẫn giữ nhân tính
của mình.
Đây chính là trạng thái” Thiên Đàng” mà Sách Giáo Lý
Công Giáo gọi là:”Hưởng Kiến, Phúc Kiến, Hưởng Nhan Thánh Chúa”(
beatific Vision). Sách Giáo Lý số 1025 dạy:”Đời sống Thiên
Đàng chính là”Sống với Chúa Kytô”, sống trong Chúa Kytô, nhưng mỗi
nhân vị vẫn giữ lấy căn tính riêng biệt của Mình”(coi thêm Sách:
“Đạo Thiên Chúa và Dân Nước Việt” trang 417-421)
3- Quan Niệm Tiến bộ về Con Người, và
Hôn Nhân trong Kinh Thánh (coi:số 11)
Trong huyền thoại Hy lạp, triết gia Plato cho rằng: từ đầu con người
tự coi mình là hoàn toàn, sung mãn. Để “trừng phạt” tội kiêu ngạo,
nên thần Zeus mới tách con người ra làm đôi… Kinh Thánh không đề
cập đến việc “trừng phạt”, nhưng gợi ý rằng: con người nguyên thuỷ
Adong, theo bản năng, cảm thấy mình cô đơn, lẻ loi, khiếm
khuyết, nên cần một người bạn, giống như mình để trợ giúp mình, được
hoàn chỉnh hơn. Do đó, theo Sách Sáng Thế, 2:23, Thiên Chúa đã dựng
nên Bà Evà làm người “trợ tá”, là người bạn đời để bổ
khuyết những gì Ông Adong mong đợi, tìm kiếm. Ông rất ưng ý hài lòng
và thốt lên:”Đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi”.
Và Kinh Thánh kết luận:” Bởi thế, Đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó
với vợ mình, và cả Hai thành Một Xương Một Thịt”(Sách Sáng Thế,
2:24).
Ông Adong đã ra khỏi bản năng “Eros” cô đơn, vị kỉ, đóng kín,
”đã bỏ cha mẹ mình”, đã ra khỏi mình, để đi tìm người Nữ,
người khác phái tính, để kết hợp nên Một cặp Vợ-Chồng Hòa Hợp,Trọn
Vẹn. Đây chính là đôi Hôn Phối đầu tiên của nhân loại. Sự
Phối Hợp trong hôn nhân giũa một người Nam và một Người Nữ,
“Đơn Hôn”( monogamy), trong Tình Yêu Thương Vị Tha, cả
“Hai nên Một”, chính là hình ảnh về “Thiên Chúa Độc
Thần”. Hôn nhân dựa trên Tình Yêu Thương độc quyền, dứt khoát, là
hình ảnh về Tình Thương giữa Thiên Chúa và dân Chúa. Tình
Thương Vị Tha vô cùng của Một Chúa Ba Ngôi, chính là Mẫu Mực cho
Tình yêu Thương cho nhân loại.
- So sánh ý niệm về yếu tính của Hôn Nhân, Hôn Phối
giữa một người Nam và một người Nữ, có thể nói: quan niệm về Phái
Tính, Nam-Nữ, Vợ-Chồng..trong Văn Hóa Việt Nam, rất
gần với giáo thuyết của Kinh Thánh, đã được ĐGC trình bày trong
Thông Điệp:Thiên Chúa=Tình Thương. Theo các nhà dân
tộc học, căn cứ vào những di tích Lịch Sử,
và những Truyền thuyết, như Trống Đồng Đông Sơn, Ngọc Lũ.., trong Ca
dao, tục ngữ, đặc biệt Minh Triết “ÂM-DƯƠNG”, thì người dân
Việt đã có một quan niệm cao quí về Hôn Nhân, về Nam-Nữ, về vị trí
của con người trong vũ trụ.(coi: Sách: “Tìm về Bản Sắc Văn Hóa
Việt Nam”, Trần Ngọc Thêm, trang 263-272)
Người cổ-Việt quan sát, nhìn ngắm những hiện tượng thiên
nhiên, và đã biết “trừu tượng hóa” nghĩa là đặt thành những
con số, những hình vẽ “tượng trưng”, để bày tỏ quan niệm, ý tưởng
siêu hình. Chẳng hạn, cách vận chuyển đắp đổi, điều hòa của
ngày-đêm, nắng –mưa, nóng –lạnh, đực-cái, nam-nữ..Những “Cặp
Song-Trùng” này được phác họa bằng những nét thô sơ, tượng
trưng như: Dương (___), nét thẳng, Âm (_ _), nét đứt , Dương là số
Lẻ, ( 1,3,5..), Âm là số chẵn( 2,4,6..). Những gạch Âm-Dương, những
con số chẵn –lẻ, kết hợp tạo nên muôn hình vạn trạng trong trời đất.
Tại sao, Dương(Nam) là một nét ngang thẳng (__), Âm(Nữ) là nét ngang
đứt làm hai(_ _)? Vì trong Âm, Nữ, Đàn Bà đã có khả năng mang
thai(mẹ-con), sinh ra một người khác. Do đó, theo quan niệm của
người Việt, Âm-Dương, Nữ-Nam, không thể đứng một mình, nhưng luôn
luôn kết hợp với nhau, bổ khuyết cho nhau được quân bình, hoàn hảo,
“Vuông-Tròn”. Chính trong sự phối kết đó, kết quả là “tác
thành” bào thai, con cháu. Vì thế, mới có câu:”có Âm-Dương, có
Vợ-Chồng” . Trong ”Thái Cực Đồ” : một hình
tròn chia làm hai phần Trắng, Đen bằng nhau, một Chấm Đen ở trong
phần Trắng, một Chấm Trắng ở trong phần Đen, có ý chỉ, trong
Dương(Trắng) đã có mầm mống Âm( chấm Đen), và trong Âm(Đen) đã có
mầm mống Dương(chấm Trắng). Đây là lẽ tương đối: có
trắng vì có đen, cũng như có ngày là vì có đêm, có đàn ông vì có đàn
bà…, hai cái tương đối luôn lôi kéo và bổ khuyết nhau, không tranh
đấu, không tiêu diệt, đàn áp nhau, nhưng hòa hợp, nâng đỡ nhau, vì
cái này cần cái nọ.
Đây là cách biểu lộ tuyệt vời về ý nghĩa Hôn Phối: “Cả
Hai nên Một Huyết Nhục, Một Thân Thể”. Vì lý do đó, người
Việt, quen gọi người phối ngẫu là:”MÌNH”.(tức thân thể).
Trong Văn Chương Nghệ Thuật, Thơ Phú, Truyện như Truyện Kiều, Nhị Độ
Mai, Lục Vân Tiên, các thi nhân đề cao Tình Nghĩa Vợ -Chồng chung
thủy. Bộ môn Tiểu Thuyết , Tuồng, Cải Lương..,.đều có Hậu”,nghĩa
là kết thúc không bi thảm, không tan vỡ, li dị, bỏ nhau, bắn giết
Trong xã hội văn minh ngày nay, tục lệ cổ hủ “Đa Thê” đã bị
bãi bỏ, từ hai ngàn năm nay, vì ảnh hưởng của Giáo Thuyết Thiên Chúa
Giáo về Hôn Nhân:”Nhất Phu, Nhất Phụ”.
d/ Chúa GiêSu KyTô- Tình Yêu Thương Nhập
Thể của Thiên Chúa (số 12-15)
1- “Cạnh
Sườn Chúa Bị Lưỡi Đòng Đâm Thấu”(số12)
- Trong Tân Ước, Thiên Chúa đã “Hiện thực”những lời
hứa bằng hành động cụ thể là : Chính Chúa Cứu Thế Giáng Sinh, làm
Người để đi tìm những “con chiên lạc”là nhân loại lầm than,
đau khổ. Những dụ ngôn như:”người con phung phá”, “người
đàn bà tìm lại được đồng tiền bị mất”, chứng tỏ Thiên Chúa đã ra
tay Hành động để cứu chuộc nhân loại. Hành động tự nguyện, chịu
Chết trên Thánh Giá, là Tột Đỉnh của Tình Yêu Vị Tha. Bởi
vậy, cần phải nhìn ngắm, chiêm niệm: “cạnh sườn Chúa bị lưỡi đòng
đâm thấu”(Gioan,19:34), để hiểu biết ý nghĩa của Thông Điệp:”Thiên
Chúa là Tình Thương”(I Gioan, 4: 8)
2- Nhiệm Tích Thành Thể là Nhiệm Tích
Tình Thương ( số 13)
- Chúa Cứu Thế đã lập Nhiệm Tích Thánh Thể trong bữa Tiệc Ly.
Ngài đã tiên báo về cái Chết và Sống lại, bằng hành động trao cho
các môn đệ chính Bản Thân Ngài là Mình và Máu Ngài, trong hình Bánh
và hình Rượu như manna mới(Gioan,6:31-33)
Chúa Giêsu là “Ngôi Lời”(Logos) của Thiên Chúa, đã trở
nên của ăn đích thực để nuôi dưỡng nhân loại. Trong Nhiệm Tích Thánh
Thể, Chúa Giêsu đã “Trao Ban” chính Mình để làm của Ăn, đã hạ Mình
xuống đến cùng tận để kết hiệp với con người. Ngày xưa, trong Cựu
Ước, Hình ảnh cuộc Hôn Nhân giữa Thiên Chúa với dân Isrsel, được
hiểu là sự hiện diện của Chúa với dân Ngài, thì nay đã trở thành sự
Hiệp Nhất với Thiên Chúa, qua việc Chia sẻ Mình và
Máu Thánh của Chúa Giêsu.
- ĐTC Bênêditô XVI là Vị Giáo Chủ lỗi lạc về phương diện trí thức,
uyên bác về học vấn, vì đã làm giáo sư Thần học, là Bộ Trưởng Thánh
Bộ Đức Tin..trong nhiều năm trước khi lên làm Giáo Chủ. Do đó, Ngài
thường dùng điển tích hay ngôn ngữ trong Triết Lý La-Hy để giải
nghĩa Kinh Thánh. Thật là một mẫu mực cho các nhà thần học, giáo lý
viên, khi giảng giải Đạo Mạc Khải cho các dân tộc địa phương. Danh
từ gốc Hylạp“Logos”, nghĩa là “lời nói”(word),
đã được các triết gia Hylạp dùng theo ý nghĩa Triết học riêng của
họ. Chẳng hạn, Heraclitus(chết -480 B.C) dùng chữ này để chỉ
một “Thượng Trí siêu phàm(Intelligent non-human) xếp đặt vũ
trụ cho có trật tự; các nhà hiền triết “Sophists” dùng theo
nghĩa “Luận Lý”(logic, argument..); các “Stoics”(
Stoicism, phái Khắc kỉ, 300, B.C), dùng Logos, chỉ vị thần Thượng
Trí, nguồn gốc của Lý Trí trong vũ trụ. Sau đó, tư tưỏng gia
“Philo of Alexandria”(chết -50 B.C) dùng chữ Logos trong các bài
suy luận về Do Thái Giáo. Các tín hữu thời sơ khai đã dùng chữ
Logos này trong một bản Ca Vịnh ngợi khen Chúa Kytô, và Thánh
Gioan Tông Đồ coi việc dùng danh từ này là thích đáng, nên
đã đưa vào Đoạn Đầu Sách Phúc Âm theo Thánh Gioan. Sau này,
các Giáo Phụ vẫn tiệp tục dùng chữ “Logos”, theo nghĩa “Ngôi
Lời Thiên Chúa”trong Thần học, Phụng vụ.
- Bên Á Đông, nhà ngoại giao và học giả danh tiếng của Trung Hoa,
ông Ngô Kinh Hùng , đã dùng danh từ “ĐẠO”(…….)
vẫn quen thuộc trong các Đạo giáo, Triết lý Á Đông như: Lão Giáo,
Khổng Giáo, Phật Giáo, để dịch chữ “Logos” trong
“Đoạn Mở Đầu” của “Phúc Âm theo Thánh Gioan” ra tiếng Trung
Hoa( loại cổ văn). ĐTC PiôXII đã đề tựa cho bản dịch này. (Đọc thêm
sách:”Thiên Chúa Giáo và Tam Giáo”, trang: 351-354)
Chữ “ĐẠO” trong Hán văn và Việt văn có nhiều nghĩa:
“ĐẠO” theo Lão Tử trong “Đạo Đức Kinh” là Một
Nguyên Lý Tuyệt Đối Siêu Việt: Vô Danh, Vô Hình, Vô Tượng, là
Căn Nguyên sinh ra muôn vật muôn loài. Chữ “Đạo” có
nghĩa là “đường đi”, cũng có nghĩa là “lời nói” như: đàm đạo
. Ngô Kinh Hùng dịch: Gioan, 1:1-3.. như sau:
“Thái sơ hữu ĐẠO, dữ Thiên Chủ giai, ĐẠO tức Thiên Chủ, tự thuỷ
dữ giai. Vi ĐẠO vô vật, vật nhân ĐẠO sinh, thiên địa vạn hữu tư ĐẠO
dĩ thành..
3- Tính Cách Xã Hội, Cộng Đồng, Hiệp
Thông của Nhiệm Tích Thánh Thể (số 14)
Bí Tích Thánh Thể là một “Huyền Nhiệm” mang tính chất Cộng đồng, Xã
hội, vì ai hiệp thông với Bí Tích này, thì Kết Hiệp với Chúa và với
tất cả những người khác cùng hiệp thông, cùng tham dự, như Thánh
Phao Lô dạy:”Bởi vì chỉ có Một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia
sẻ cùng Một Tám Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta chỉ là Một
Thân Thể”(1 Cor 10:17). Do đó, Hiệp Thông với Chúa Kytô, cũng là
Hiệp Thông với nhau. Chúng ta trở nên “Một Thân Thể”
hiệp nhất toàn vẹn trong một đời sống duy nhất. Tình Yêu Chúa ,
Thương Người thật sự liên kết với nhau: Thiên Chúa Nhập Thể, làm
Người, đã lôi kéo hết thảy chúng ta về với Ngài.
- Tại sao Bí Tích Thánh Thể cũng được gọi là “AGAPE”?
Tình Yêu vô cùng Vị Tha của Thiên Chúa, chính là“Agape”của
Chúa, đã đến với chúng ta bằng xương thịt, để tiếp tục công việc
của Ngài trong chúng ta, và qua chúng ta.
Tất cả Lề Luật và các Tiên tri, đều tóm lược vào một giới răn gồm
hai mặt: Mến Chúa và Yêu người . Đây cũng là trung
tâm điểm của đời sống Đức Tin. Đây không chỉ là vấn đề luân
lý, đạo đức(ethos) có thể tách biệt và song song với Đức Tin nơi
Chúa Kytô. Ba điều quan trọng: Đức Tin nơi Chúa Kytô, Thờ Phượng
Ngài khi cử hành các Bí Tích, và Giới Răn Mến Chúa, Yêu người,
luôn đan quyện vào nhau như một thực tại thuần nhất. Do đó, Tham
dự Thánh Lễ phải đi đôi với việc thực hành một cách cụ thể công việc
Từ Thiện Bác ái. Việc Rước Lễ, Hiệp Lễ phải gồm hai
mặt một trật: trước là ta được Chúa Yêu, nên quá bộ đến ngự vào
“nhà ta”, sau đó, ta cũng phải “ra đi”thông hiệp với
anh chị em, vì tất cả mọi người đều là con Chúa.
- Trong Phụng vụ Công Giáo, về nghệ thuật hội họa, và
ca vịnh, hay dùng hình ảnh con chim”Bồ nông”(pelican)
đang xỉa vào thịt để máu chảy ra cho con uống, tượng trưng cho “Bí
Tính Thánh Thể” như bài ca: “O memoriale” có Đoạn Thơ:
”Pie pelicane, Jesu Domine,
me immundum munda tuo sanguine,
cujus una stilla salvum facere
totum mundum quit ab omni scelere…”
( Lạy Chúa Giêsu, “Bồ Nông Thánh”, Chúa rửa con nên tinh sạch
nhờ Máu Thánh Chúa, một giọt Máu của Chúa làm cho cả thế gian được
cứu chuộc khỏi mọi tội lỗi”).
- Trong Văn hóa Việt Nam, hình ảnh “con cò lặn lội
bờ sông”, cũng diễn tả lòng vị tha của người phụ nữ Việt, tận
tuỵ, hy sinh cho chồng cho con:
“Cái cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo đưa chồng, tiếng khóc nỉ non”…
“Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”…
(Tú Xương)
- Bữa Ăn, đối với người dân Việt, biểu lộ tinh thần
Cộng Đồng, Chia sẻ, Tình Thân Thiện của người dân Việt, có
nhiều đặc điểm như sau: Trước hết là chữ “ĂN” được
ghép thành nhiều danh từ kép như: Ăn mừng, Ăn cưới, Ăn đám hỏi, Ăn
Tết, Ăn khao, Ăn Dám Giỗ, Đám Tang ., nghĩa là dùng bữa ăn để chia
sẻ với bà con, bạn bè mỗi khi có dịp chia vui hay chia buồn. Ca
dao, tục ngữ có câu:
- “Trước Lễ Thánh, sau “đánh chén”
( Ăn tiệc, hay chia phần ăn cho người tham dự Thánh Lễ)
- “ Một miếng giữa làng hơn một sàng xó
bếp” (tục ngữ)
- “ Rượu ngon không có bạn hiền,
“Không mua, không phải không tiền, không
mua” (Nguyễn Khuyến)
- Tính chất Cộng đồng, thân mật, trong cách xếp đặt
chỗ ngồi chung quanh một chiếc mâm tròn, đặt trên chiếu, hay
trên tấm phản. Cách thức tổng hợp điều hòa”âm-dương” trong việc pha
chế nêm nhiều thứ gia vị vào món ăn, để thêm hương vị. Cùng nhau”tay
làm hàm nhai”, trong cách cuốn bánh tráng với các thứ rau, thịt,
cá nướng, tôm..khi ăn “gỏi cuốn”hay khi ăn “gỏi cá sống”.Ngoài
ra, các món ăn được thái nhỏ, đặt thành từng đĩa lớn, hay tô canh và
một nồi cơm lớn, để cùng nhau chia sẻ các phần ăn cho đồng đều: ,
không ăn mất phần của người khác. Đôi khi bất chợt có khách hay bà
con đến thăm, cũng được mời dùng bữa, gọi là “thêm đũa thêm chén”,
vì mọi người đều biết “tự chế” để đãi khách. Con cháu trong nhà cũng
được ngồi chung với ông bà cha mẹ, anh chị em. Bữa ăn là dịp tốt để
giáo dục con cháu biết “kính trên nhường dưới”,”ăn
trông nồi ngồi trông hướng”, biết “làm Dấu Thánh Giá và
“mời cả nhà dùng cơm” trước khi ăn. Con trẻ phải tập cầm đôi
đũa, so cho đều, gắp cho khéo, nhất là đừng tham ăn quá độ:”no
bụng đói con mằt”, chớ ”và lấy và để” .
4- Các Dụ Ngôn để Giảng Nghĩa về Tình
Yêu Thương của Thiên Chúa(số15)
ĐTC đã đề cập ở trên về danh từ”Logos”, Chúa Cứu Thế là “Ngôi
Lời”của Thiên Chúa đã bày tỏ ra cho nhân loại biết về Bản thể
của Thiên Chúa :”Thiên Chúa = Tình Thương. Đây là một
Mầu Nhiệm cao siêu, cần dùng những hình ảnh cụ thể hữu hình để giải
thích cho đại chúng dễ hiểu. Vì thế, Chúa Cứu Thế thường dùng những”DỤ
NGÔN” để giảng dạy, tức là dùng những câu truyện thường xẩy
ra, những sinh hoạt trong xã hội, hay những hiện tượng thiên
nhiên.., để giảng những mầu nhiệm về Nước Trời, hay những bài học
luân lý.
Sau đây, là ba Dụ Ngôn dùng làm Tiêu Chuẩn để phán
xét, phán đoán về Đức Bác Ái.
- Dụ Ngôn về Ông Lagiarô, nhà giầu keo kiệt(Luca,
16:19-31). Chúa có ý cảnh cáo những người còn đang sống ăn chơi
phung phí tiền bạc, không làm việc Phước Thiện, hãy coi chừng, một
ngày sẽ bị luận phạt như ông”Lagiarô keo kiệt”
- Dụ Ngôn”Người Samaritanô nhân hậu”(Luca, 10:25-37)
giúp ta mở rộng Tình Thương đến cho mọi người, thân cận, ruột thịt
cũng như xa lạ, đồng hương cũng như khách ngoại kiều. Vì Mọi người
trong gia đình nhân loại đều là con cái của Một Chúa. Vả lại, Tình
Yêu Thương thật không phải là tình “thương hại”, thương xót, mơ hồ,
trừu tượng, hay xúc động nhất thời, nhưng là tình Bác Ái cụ
thể, nhằm cứu vớt anh chị em đang đau khổ” bây giờ, ở đây(hic
et nunc). Hội Thánh Công Giáo phải lưu tâm đặc biệt các tín hữu về
bổn phận, và đòi hỏi này.
- Dụ Ngôn về Tiêu Chuẩn mà Chúa dùng để Phán Xét, Phân xử Kẻ
Lành, Người Ác
Trong Ngày Chung Thẩm của Thế giới( Matthêu,
25:31-46). Tiêu Chuẩn để định đoạt số phận của mỗi người là:”Chúa
đồng hóa với Người đói khát, khách ngoại kiều, đau yếu, tù đầy”,
nghĩa là Chúa sẽ áp dụng triệt để nguyên tắc:”MÊN CHÚA YÊU
NGƯỜI= MỘT, để phán Xét Công –Tội cho mỗi người.
- Trong việc Tu Thân Tích Đức, người dân Việt theo
nguyên tắc lấy chính bản thân mình làm”khuôn vàng thước ngọc”,
để đo mức độ luân lý, đạo đức, vì thế có câu: “Điều gì mình không
muốn, thì đừng làm cho kẻ khác”( Kỉ sở bất dục, vật thi ư nhân).
Do đó, một cách thực tế, nếu mình không muốn bị vu oan, thì đừng bỏ
vạ cho người khác; mình không muốn đói khát, thì hãy giúp người
nghèo khổ…Câu ca dao cùng một nghĩa, một tiêu chuẩn, “Lấy bản
thân làm Thước đo người”, như;”
“Thương người như thể thương thân”
- Trong kho tàng quí giá “Ca dao, Tục Ngữ, câu Vè
câu Đố, Hát đối, Trống quân, Truyện Cổ tích,( Trầu cau), Ngụ
ngôn(Lục súc trnh công)…, người dân Việt cũng thành thạo trong
việc dùng “Dụ ngôn”, nghĩa là đi từ những cảm giác của ngũ quan(
Vật chất )để sánh ví một cách tương tự(analogy) lên những Chân lý,
Thực tại vô hình (Tinh Thần). Đây là cách giáo dục vừa quân bình,
vừa hiệu nghiệm đối với quần chúng, nhất là với trẻ em, như câu:
“Cá không ăn muối cá ươn,
Con cưỡng cha mẹ, trăm đường con hư”
e/ Mến Chúa Yêu Người
(coi số 16-18)
1- Giải đáp vấn nạn: tại sao Mến Chúa
cũng phải Yêu Người và tại sao tình yêu lại có thể là một mệnh lệnh?
(số 16)
- Thánh
Gioan Tông đồ viết:”Nếu ai nói rằng:”tôi mến Chúa, mà lại ghét
người anh em, thì nó là kẻ nói láo; vì nếu nó không yêu người anh
em nó nhìn thấy, thì nó không thể mến Chúa là Đấng nó không thấy”(I
Gioan, 4:20). Ta phải hiểu ý nghĩa của câu đó như thế nào? Y nghĩa
của bản văn này không loại trừ việc Yêu Mến Chúa, coi đó như là
điều không thể được. Trái lại, việc Yêu Mến Thờ Phượng Chúa là một
Mệnh Lệnh, một đòi hỏi phải làm. Ở đây, Thánh Tông Đồ có ý nhấn
mạnh: Tình Mến Chúa và Yêu người liên hệ mật thiết với nhau,
không tách biệt được, đến nỗi mất điều này thì cũng chẳng có
điều nọ. Vì thế, ai nói Mến Chúa mà lại ghét người ta, là mâu
thuẫn, là nói dối. Vậy, nên hiểu ý Thánh Gioan là: Yêu
Người là đường dẫn ta tiến lên cùng Chúa. Nếu nhắm
mắt làm ngơ đối với tha nhân, thì cũng đui mù không nhìn thấy Chúa
nữa.
- Ngày nay, trong các sinh hoạt mục vụ, hay cứu tế xã hội
của các Cộng đồng Công Giáo, cũng thường nêu lên những thắc mắc,
tranh luận về ý nghĩa chân thật của “Tình Mến Chúa, Yêu
người”, như Thánh Gioan và ĐTC Bênêditô XVI, đã giải thích.
Chẳng hạn, có nên xây cất một Thánh Đường đồ sộ, nhà Xứ sang trọng,
giữa một khu lao động nghèo khổ, nhà cửa lụp sụp, tồi tàn của giáo
dân? Hay là đập phá một Nhà Thờ còn tốt, để xây một Nhà Thờ mới,
trong khi cả xóm dân nghèo không có phòng Phát thuốc, không có nhà
giữ trẻ cho dân chúng Lương-Giáo?
Tuy chưa vươn tới một mức tuyệt cao là đồng hóa tình Thương người
với tình Yêu Thiên Chúa như Chúa Cứu Thế dạy, nhưng nền Đạo Đức,
Luân Lý của dân Việt cũng đã đạt tới một trình độ đáng ca ngợi,
khi phải xếp đặt các ưu tiên trong việc cứu trợ khẩn cấp các nạn
nhân lâm vào tình trạng nguy kịch, như câu ca dao, trong “Việt
Nam phong sử” :
“ Dẫu xây chín cấp phù đồ
(chùa tháp để thờ Phật)
Không bằng làm phúc cứu cho một người”
3- Thiên Chúa là Đấng ta có thể tiếp
cận được, dầu chưa nhìn thấy.(số 17)
Thiên Chúa đã Yêu Thương Nhân Loại trước, đã đến với chúng ta
trước, khi Chúa sai Con Một là Chúa Cứu Thế xuống trần gian
để Cứu Chuộc chúng ta, cho chúng ta được sống:”(Coi:1 Gioan, 4:9).
Thiên Chúa đã tự trở nên Hữu Hình: nơi Chúa Giêsu, ta có thể
nhìn thấy Chúa Cha: (coi:Gioan, 14:9)
Theo những sự kiện, biến cố tường thuật trong Kinh Thánh, thì
Thiên Chúa đã Hiện Diện giữa chúng ta bằng nhiều cách thế,
để mời gọi ta đáp trả lại Tình Thương của Chúa:- Trong bữa Tiệc
Ly, Chúa Giêsu lập Phép Thánh Thể để Hiện Diện với chúng ta,
cạnh sười bị đâm thấu, chịu Chết trên Thánh Giá, và Sống Lại. Ngài
đã hiện ra nhiều lần để hướng dẫn, chỉ đạo cho các Tông đồ đi rao
truyền Tin Mừng. Ngài hiện diện trong Các Bí Tích, đặc biệt trong
Phép Thánh Thể. Chu kì Phụng vụ diễn lại cuộc đời của Ngài, để các
tín hữu cảm nghiệm được Ngài có mặt trong đời sống thường nhật.
Thiên Chúa đã Yêu Thương chúng ta trước, và còn tiếp tục
Yêu Thương mãi, để ta đáp lại Tình Thương ấy, một cách chân thành,
từ nội tâm chúng ta.
- Theo
ĐTC Beneditô XVI, đã viết trong Thông Điệp, thì “Tình Yêu Thương”
trong Mạc Khải không phải là “cảm xúc nhất thời”, có rồi
thôi, đến rồi đi. Nhưng Tình Yêu Thương Thật , phải lôi cuốn toàn
thể con người, huy động mọi tiềm năng trong con người: thân
xác, trí tuệ và ý chí. Tình Yêu”eros”, khi đã được thanh
luyện, trưởng thành cũng trở nên hoàn toàn, viên mãn, không còn “vị
kỉ” nữa. Tình Yêu chân thật đối với Chúa là tuân theo Ý Chúa, là
lời “Xin Vâng”. Tình Yêu Thiên Chúa luôn tăng trưởng
không bao giờ “hoàn tất”. Con người càng ngày càng Kết Hiệp
thân mật với Chúa hơn, nghĩa là Thánh Ý Chúa không phải là từ bên
ngoài áp đặt như một giới răn, nhưng cũng chính là ý muốn của
tôi. Thiên Chúa hiện diện trong tôi, còn sâu xa hơn chính
mình tôi.”Tâm tình tự Phú thác cho Chúa được tăng trưởng, để
Chúa là Niềm Hoan Lạc của chúng ta.( coi: Thánh Vịnh
73{72}:23-28)
- Trong Triết lý Việt Nam, theo Khổng giáo, từ nhà cầm
quyền như vua chúa, quần thần , giới nho sĩ đến dân chúng, đều tin
tưởng và tuân theo “Mệnh Trời”, “Thiên Mệnh” hay “Đế Mệnh”,
tức là Ý Chí của Trời, coi là điều quan trọng hơn
hết. (coi: Nho Giáo, quyển thượng, mục Thiên Mệnh,
trang 85-87). Học giả Trần Trọng Kim đã trích dẫn những lời giảng
dạy của Khổng Tử để bàn về ý nghĩa chữ “Thiên Mệnh”, hay “Ý
Trời” như sau:-“ Không biết mệnh Trời thì không lấy gì
làm quân tử”( quân tử, là bậc thánh hiền trong Đạo Khổng). Do
đó, mọi người phải “Tri Mệnh”, tức là biết vui theo Ý
Trời mà sinh sống, cư xử cho hợp với ĐẠO TRỜI, và đạo làm
người, không được theo ý riêng, theo tư tâm vị kỉ của mình. Nhưng
biết được Ý Trời mà tuân theo là điều khó, cần phải cố gắng tu luyện
bản thân lâu năm. Đức Khổng Tử, lúc năm mươi tuổi mới biết được
Mệnh Trời:” Ngũ thập nhi tri Thiên Mệnh”. Theo Ngài, Thiên
Mệnh không phải là “số mệnh”, hay là “định mệnh”vì
làm mất tự do lựa chọn, khiến con người trở nên nhu nhược, thụ
động, buông xuôi, vô trách nhiệm. Trái lại, con người phải dùng “năng
lực tự do để tự cường tự kiện..”, nghĩa là cố công tìm hiểu Ý
Trời và các hành động của Trời, để con người đem hết ý chí, nghị lực
mà hòa hợp với Thiên Ý, để cộng tác với Trời, đôn đốc và vun đắp
những gì là tốt đẹp thì càng thêm hoàn hảo. Chữ”Tự do”, không
có nghĩa là muốn làm gì tùy sở thích, vô trách nhiệm, bất kể điều
tốt hay điều xấu, nhưng là quyền tự do lựa chọn điều Tốt, bỏ điều
Xấu và chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Bởi vậy, chớ bao
giờ chống lại Ý Trời, vì sẽ bị diệt vong:” Thuận Thiên giả
tồn, nghịch Thiên giả vong”. Nhưng hãy cố gắng làm với thiện
tâm, thì Trời sẽ giúp cho:” Hoàng Thiên bất phụ hảo tâm nhân”
- Quan niệm nguyên thuỷ của Đạo Nho thời Đức Khổng Tử(551
B.C) như đã tóm lược ở trên, cũng được các vị Truyền giáo tiên khởi
tại Trung Quốc như Linh Mục Lợi Mã Đậu( (Mattêo Ricci,
1552-1610), so sánh với Thiên Chúa Giáo, và nhìn nhận có nhiều điểm
tương đồng (coi: Sách “Thiên Chủ Thực Nghĩa”, The True
Meaning of The Lord of Heaven)
4- Phúc Âm của Chúa Giêsu dạy: trong
Chúa và với Chúa, ta có thể yêu người mà ta không thích hoặc không
quen biết.(số 18)
- Muốn
thực hiện được điều Chúa dạy, trước tiên ta cần thông hiệp mật thiết
làm một với Chúa, bằng cả tình cảm và ý chí, và phải nhìn tha
nhân dưới quan điểm của Chúa Giêsu Kytô, chứ không phải do sở
thích của ta. Bạn của Chúa cũng là bạn của ta. Nhìn xa
hơn dáng dấp bên ngoài, ta linh cảm được nơi tha nhân lòng ao ước
bên trong muốn nhận thấy dấu hiệu của yêu thương, và ân cần săn
sóc.Ta có thể trao cho tha nhân ánh mắt yêu thương mà họ thèm khát.
- Cần nhấn mạnh đến sự hỗ tương giữa Tình Yêu Chúa và Yêu nhân
loại, như trong Thư I của Thánh Gioan: Nếu ta không Yêu Mến Chúa
bao giờ trong đời sống, thì ta cũng chẳng thấy gì đặc biệt nơi người
khác. Ta chẳng thấy hình ảnh Chúa nơi họ. Trái lại, nếu trong
đời sống, tôi chẳng quan tâm một chút nào tới tha nhân, tôi chỉ ra
bộ”sốt sáng”giữ Đạo một cách “chiếu lệ”, thì mối thân
tình với Chúa cũng khô cằn: có “đúng luật”, phải phép, nhưng thiếu
lòng mến. Chỉ khi nào ta phục vụ tha nhân, gặp gỡ và yêu mến họ, thì
ta mới nhìn thấy Chúa thương yêu ta chừng nào. Mẹ Chân Phước
Têrêsa, thành Calcutta, nhờ kết hiệp với Chúa trong Bí Tích Thánh
Thể, mà thêm lòng Bác Ái để phục vụ tha nhân. Bởi vậy, Mến
Chúa, và Yêu người không thể chia lìa, và làm nên Một Giới Răn.
- Mến
Chúa, và Yêu người, cả hai đều bắt nguồn từ Tình Chúa Yêu ta trước
tiên. Bởi vậy, không còn vấn đề là một “Lệnh truyền”áp đặt từ
bên ngoài, và không thể thực hiện được, nhưng là một kinh nghiệm tự
do ban phát từ nội tâm, vì tình Vị Tha, tự bản thể là
chia sẻ với tha nhân. Tình Thương tăng trưởng nhờ Tình Thương. Tình
Thương là “Thần Thiêng”vì bởi Chúa mà ra, và hiệp nhất ta với
Chúa. Nhờ mối tình liên kết đó, làm cho mọi người trở nên “Chúng
Ta”, vượt trên mọi chia rẽ, nhưng đoàn kết nên Một, để
cuối cùng , Thiên Chúa “ở trong mọi sự mọi người”(1 Cor, 15:28)
- Để Tạm Kết Thúc PHẦN I trong Thông
Điệp”Thiên Chúa là Tình Thương”
Ngày hôm nay,19/4/2006, cũng là Ngày Sinh Nhật thứ 79 của Vị Giáo
Chủ Bêneđitô XVI, chúng ta cảm tạ Thiên Chúa đã ban cho nhân
loại một vị Đại Diện Chúa nơi trần gian, một vi Lãnh Đạo Tinh Thần
thông minh xuất chúng và nhiệt tình Mến Chúa Yêu Người. Cầu nguyện
xin Ơn Trên phù trì cho Ngài được Trường Thọ, để dẫn dắt Giáo Hội và
Thế giới trong thời đại tràn ngập hận thù, bạo động, và chiến
tranh. Bởi vì, bao lâu những Tôn giáo, Triết lý, những chính sách
chính trị, kinh tế không tôn trọng Nhân Vị con người làm Mục
đích, mà chỉ coi con người làm Phương tiện để lợi dụng,
bóc lột, làm nô lệ cho một chủ nghĩa vị kỉ, thì bấy lâu thế giới còn
lạc hậu, và bất an.
- Những tư tưởng Thần học, Triết Lý uyên bác của Vị Giáo Chủ thời
danh, đã được dư luận báo chí thế giới và tại Đức Quốc ca tụng, sánh
ví như một “Thánh Tôma Aquinô thời nay”..
- Đọc Thông Điêp “Thiên Chúa là Tình Thương” và
so sánh với Văn Hóa Việt Nam, chúng ta nhận thấy có nhiều
điểm tương đồng giũa Phúc Âm của Chúa Cứu Thế và niềm tin của dân
chúng Việt nam, đã thấm nhuần nền Luân Thường Đạo Đức của Khổng giáo
Nguyên Thuỷ. Dân chúng Việt Nam luôn đặt Con Người là Tâm
Điểm, làm Cứu Cánh của Tình Yêu Thương Vị Tha, và vì thế tôn
trọng Nhân Phẩm, Nhân Quyền:
“ Thương Người như thể Thương Thân”
Ước mong mọi người Dân Việt tiến bước thêm lên mãi
trên Đường Tình Ái, để gặp được Tình Thương Tuyệt Đối,
Vĩnh Cửu, như lời quả quyết của bức Thông Điệp: “Tình Yêu
Người là bước đầu dẫn đến Tình Yêu Thương Chúa” ..
(Xin lưu ý: vì bài viết khá dài, nên tạm ngừng ở đây.
Xin đón đọc tiếp báo kỳ tới( Bài số 03): Phần II của Thông Điệp:
“HỘI THÁNH, “Một Cộng đồng Yêu Thương”, Thực Hành ĐỨC BÁC ÁI ,
Part II: CARITAS The Practice of Love by the Church as a “Community
of Love” )
Lm. Jos Cao Phương Kỷ
|