II. LIÊN LẠC GIỮA LINH MỤC VỚI NHỮNG NGƯỜI KHÁC |
LTS :
Kính thưa Quí vị,
Bốn mươi năm sau
Thánh Công Đồng Vatican II, Dân Chúa tại Việt Nam vẫn chỉ biết
rất ít về những nội dung canh tân mà Giáo hội toàn cầu đã công
bố rộng rãi. Trước sự thúc bách ấy và trong khả năng hạn hẹp của
minh, GSVN sẽ cố gắng giới thiệu những bản văn quan trọng. Trước
hết là sắc lệnh
PRESBYTERORUM
ORDINIS, về
chức vụ và đời sống các linh muc. (Bản dịch của GHHV Pio X,
1975).
Sắc Lệnh về Chức vụ & Đời sống các Linh mục
CHƯƠNG II
THỪA TÁC VỤ CỦA LINH MỤC
II. LIÊN LẠC GIỮA LINH MỤC VỚI
NHỮNG NGƯỜI KHÁC
Tất cá các Linh
Mục, hiệp nhất với các Giám Mục, đều tham dự cùng một chưc Tư Tế
và thừa tác vụ duy nhât của Chúa Kitô; cho nên, chính tính cách
duy nhất của việc thánh hiến và sứ mệnh đòi phải có sự hiệp
thông phẩm trật giữa các ngài và hàng Giám Mục; đôi khi mối hiệp
thông đó được biểu hiện một cách rất cao đẹp trong việc cùng cử
hành phụng vụ, và một cách minh nhiên trong khi cử hành Phép
Thánh Thể. Do đó, vì ơn Chúa Thánh Thần ban cho các Linh Mục khi
lãnh nhận Chức Thánh, các Giám Mục phải coi các ngài như những
trợ tá và cố vấn cần thiết trong thừa tác vụ, cũng như trong
chức vụ dạy dỗ, thánh hóa và chăn dắt dân Chúa. Ngay từ thời xa
xưa của Giáo Hội, các bản văn phụng vụ đã mạnh dạn công bô điều
đó khi long trọng cầu xin Chúa ban cho Linh Mục sắp thụ phong
“tinh thần ân sủng và khôn ngoan, để ngài giúp đỡ và điều khiển
dân chúng với một tâm hồn trong sạch”; cũng như xưa trong sa mạc,
tinh thần của Môisen đã lan truyền sang tâm trí của bảy mươi
người khôn ngoan “để dùng họ như những trợ tá, ông dễ dàng cai
trị đám quần chúng đông đúc trong dân”: chính vì sự hiệp thông
trong cùng một chức Tư Tế và thừa tạc vụ, các Giám Mục phải coi
các Linh Mục như anh em và bạn hữu, và hêt sức lo lắng đến lợi
ích vật chất và nhất là thiêng liêng của các ngài. Thực vậy,
trước hết các ngài gánh lấy trọng trách thánh hóa các Linh Mục
của mình: do đó các ngài phải hết sức chú tâm đến việc đào luyện
liên tục các Linh Mục của mình. Các Giám Mục phải sẵn sàng lắng
nghe, hơn nữa phải hỏi han và đối thoại với các Linh Mục về
những vấn đề cần thiết cho công việc mục vụ và ích lợi cho giáo
phận. Nhưng để thực hiện điều đó, phải tùy theo phương thức
thích nghi với những hoàn cảnh và nhu cầu ngày nay, tùy hình
thức và tiêu chuẩn do quy luật ấn định, mà thành lập một hội
đồng hay một nguyên lão viện các Linh Mục, đại diện cho Linh Mục
Đoàn, để có thể góp ý kiến giúp đỡ Giám Mục một cách hữu hiệu
hơn trong việc quản trị địa phận.
Phần các Linh
Mục, nên nhớ rằng: các Giám Mục lãnh nhận sung mãn Bí Tích Thánh
Chức, nên phải tôn trọng nơi các Ngài quyền bính của Chúa Kitô,
Chủ Chăn tối cao. Vậy các Linh Mục phải kết hiệp với Giám Mục
bằng tình thương yêu chân thành và lòng vâng phục. Được thấm
nhuần tinh thần cộng tác, đức vâng phục của Linh Mục, đặt nền
tảng trên chính việc tham dự vào thừa tác vụ của Giám Mục, mà
các Linh Mục đã lãnh nhận khi chịu Bí Tích Thánh Chức và bài sai
do Đức Giám Mục trao.
Ngày nay, sự
hiệp nhất giữa các Linh Mục và các Giám Mục lại càng khẩn thiết
hơn, vì trong thời đại chúng ta, bởi nhiều lý do, các công cuộc
tông đồ không những cần phải mang rất nhiều hình thức khác nhau,
nhưng thật ra còn cần phải vượt khỏi giới hạn giáo xứ hay giáo
phận. Vậy, không một Linh Mục nào có thể chu toàn đầy đủ sứ mệnh
của mình một cách lẻ loi và hầu như riêng rẽ, nhưng phải hiệp
sức với các Linh Mục khác, dưới sự điều khiển của các vị lãnh
đạo trong Giáo Hội.
Khi gia nhập
hàng Linh Mục nhờ Bí Tích Thánh Chức, tất cả các Linh Mục liên
kết mật thiết với nhau bằng một tình huynh đệ do bí tích; nhưng
đặc biệt trong một giáo phận, khi được chỉ định phục vụ dưới
quyền Giám Mục của mình, các ngài hợp thành một Linh Mục Đoàn
duy nhất. Thực vậy, tuy giữ những chức vụ khác nhau, nhưng các
ngài vẫn thi hành một thừa tác vụ Tư Tế duy nhất cho loài người.
Thật thế, tất cả các Linh Mục đều được sai đi để cùng cộng tác
vào một công việc: hoặc thi hành thừa tác vụ ở giáo xứ hay liên
xứ, hoặc giúp vào công cuộc nghiên cứu khoa học hay dạy học,
hoặc làm việc chân tay khi được Giáo Quyền hữu trách chấp nhận
và được coi là có lợi ích để chia xẻ số phận của chính các công
nhân, hoặc sau hết, chu toàn những công việc tông đồ khác, hay
những việc chuẩn bị cho công cuộc tông đồ. Nhưng tất cả các
Linh Mục đều
phải hướng về mục đích duy nhất này là xây dựng Thân Thể Chúa
Kitô; việc này đòi hỏi rất nhiều nhiệm vụ khác nhau cũng như
nhiều thích nghi mới mẻ, nhất là trong thời đại chúng ta. Bởi
thế, điều rất quan trọng là tất cả các Linh Mục, triều cũng như
dòng, phải giúp đỡ nhau, để luôn luôn là những cộng tác viên của
chân lý. Vì vậy, mỗi vị liên kết với những thành phần khác của
Linh Mục Đoàn bằng những mối dây đặc biệt của tình bác ái tông
đồ, của thừa tác vụ và tình huynh đệ: điều này đã được biểu hiện
trong phụng vụ ngay từ thời xa xưa, khi các Linh Mục hiện diện
được mời cùng với Giám Mục chủ phong đặt tay trên vị tiến chức,
và khi các ngài đồng tâm cùng cử hành Bí Tích Thảnh Thể. Vậy,
mỗi Linh Mục hiệp nhất với các anh em Linh Mục khác bằng mối dây
bác ái, cầu nguyện và cộng tác dưới mọi hình thức, và như thế,
thể hiện được sự hiệp nhất mà Chúa Kitô đã thiết lập giữa các
môn đệ mình, để thế gian nhận biết Chúa Con đã được Chúa Cha sai
đến.
Bởi vậy, những
Linh Mục lớn tuổi hãy thực sự đón nhận các Linh Mục trẻ như là
những người em và hãy giúp đỡ họ trong những công tác cũng như
những gánh nặng đầu tiên của thừa tác vụ; hơn nữa, các ngài nên
cố gắng hiểu biết tâm trạng của họ, dù khác với tâm trạng mình,
và theo dõi các công việc của họ với lòng nhân hậu. Cũng thế,
các Linh Mục trẻ phải kính trọng tuổi tác và kinh nghiệm của các
vị lớn tuổi cũng như phải bàn hỏi với các ngài về những vấn đề
liên quan đến việc coi sóc các linh hồn và sẵn lòng cộng tác với
các ngài.
Trong tinh thần
huynh đệ đó, các Linh Mục đừng quên lòng hiếu khách, phải lo làm
việc thiện và san sẻ của cải, nhất là phải chú tâm đên những vị
đau yếu, phiền muộn, lao lực, cô đơn, bị đày ải và ngay cả những
vị bị bách hại. Các ngài cũng hãy sẵn lòng và vui vẻ họp nhau để
tỉnh dưỡng tâm hồn, vì nhớ lại những lời mà chính Chúa đã mời
gọi các Tông Đồ mệt mỏi: “Các con hãy đến nơi thanh vắng và nghi
ngơi một chút” ( Mc 6, 31). Ngoài ra, để giúp nhau vun trồng đời
sống thiêng liêng và trí thức, để có thể cộng tác với nhau đắc
lực hơn trong thừa tác vụ, và để tránh những nguy hiểm có thể
xẩy ra do sự cô đơn, các Linh Mục phải cổ võ một đời sống chung,
hoặc một lối sống cộng đoàn nào đó. Việc này có thể thực hiện
theo nhiều hình thức khác nhau tùy những nhu cầu khác biệt thuộc
cá nhân hay mục vụ: như ở chung nơi nào có thể hoặc ăn chung
hoặc ít là có những cuộc họp mặt thường xuyên và định kỳ. Cũng
nên thành lập và nhiệt liệt khuyến khích các hiệp hội Linh Mục
mà nội quy đã được giáo quyền hữu trách chuẩn nhận, những hiệp
hội này cổ võ các Linh Mục nên thánh trong khi thi hành thừa tac
vụ bằng cách tổ chức một đời sống thích nghi đã được thỏa thuận
với nhau và bằng sự tương trợ huynh đệ; như vậy những hiệp hội
đó hướng về việc phục vụ toàn thể hàng Linh Mục.
Sau hết, vì liên
kết với nhau trong chức Linh Mục như thế, nên các ngài phải biết
rằng mình đặc biệt có trách nhiệm đối với những vị đang gặp
những hoàn cảnh khó khăn; các ngài phải kịp thời giúp đỡ, và nếu
cần phải khuyên bảo một cách tế nhị. Đối với những vị khiếm
khuyết vê một vài vấn đề nào đó, các ngài phải luôn lấy tình bác
ái huynh đệ và quảng đại mà đối xử, lại phải cầu nguyện rất
nhiều với Chúa cho các vị đó, và phải luôn tỏ ra mình là anh em
bạn hữu đích thực của họ.
Do Bí Tích Thánh
Chức các Linh Mục Tân Uớc, thi hành nhiệm vụ rất cao cả và cần
thiết là làm Cha và làm Thầy trong Dân Chúa và cho Dân Chúa,
nhưng đồng thời cùng với mọi Kitô hữu, các ngài cũng là môn đệ
Chúa Kitô, được mời gọi dự phần trong Nước Chúa nhờ ơn gọi của
Người. Thật vậy, cùng với tất cả những ai được tái sinh trong
suối nước Rủa Tội, các Linh Mục là những anh em giữa các anh em
mình, là chi thể của cùng một Thân Thể duy nhât của Chúa Kitô mà
mọi người có nhiệm vụ xây dựng.
Như vậy các Linh
Mục phải lãnh đạo làm sao để không tìm tư lợi, nhưng tìm lợi ích
cho Chúa Giêsu Kitô; các ngài hợp tác với giáo dân và cùng với
họ, xử sự theo gương Thầy, Đấng đến ở giữa mọi người “không để
được phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến mạng sống mình thay cho
nhiều ngựời” (Mt 20, 28). Các Linh Mục phải thành thật nhìn nhận
và nêu cao phẩm giá và vai trò riêng biệt của giáo dân trong sứ
mệnh Giáo Hội. Các ngài cũng phải thành thật kính trọng sự tự do
chân chính mà mọi người có quyền được hưởng trong xã hội trần
gian. Các ngài phải sẵn lòng lắng nghe giáo dân lưu ý đến các
nguyện vọng của họ trong tinh thần huynh đệ, nhìn nhận kính
nghiệm và khả năng chuyên môn của họ trong các lãnh vực khác
nhau của hoạt động nhân sinh, để cùng với họ có thể nhận biết
những dấu chỉ của thời đại. Trong khi nghiệm xem các tinh thần
có phải từ Thiên Chúa đến hay không các ngài phải lầy tinh thần
đức tin mà khám phá, vui mừng mà nhận biết, và chuyên cần phát
triển những đoàn sủng đa dạng của giáo dân, từ đoàn sủng bé nhỏ
nhất đến đoàn sủng cao cả nhất. Trong những đặc ân mà Thiên Chúa
ban tràn đầy trên các tín hữu, phải đặc biệt lưu tâm đến những
ơn lôi kéo một số giáo dân tiến xa hơn trên đường thiêng liêng.
Cũng thế, các ngài phải tin tưởng trao phó nhiệm vụ cho các giáo
dân trong việc phục vụ Giáo Hội, để cho họ được tự do và có lãnh
vực hoạt động, hơn nữa lúc thuận tiện, phải khuyên khích họ tự
ý đảm trách công việc.
Sau cùng, các
Linh Mục được đặt giữa giáo dân để dẫn đưa mọi người về hiệp
nhất trong đức ái, hãy “thương yêu nhau với tình bác ái huynh đệ,
thi đua tôn trọng lẫn nhau” (Rm 12, 10). Vậy các ngài phải tìm
cách hòa hợp các tâm trạng khác nhau, để không ai cảm thấy mình
xa lạ trong cộng đoàn tín hữu. Các ngài là những người bênh vực
ích chung mà các ngài coi sóc nhân danh Giám Mục, và đồng thời
là những người can đảm bảo vệ chân lý để các tín hữu không bị
lôi cuốn bởi bất cứ luồng lý thuyết nào. Các ngài phải đặc biệt
lo lắng đến những kẻ đã xao lãng việc lãnh nhận các bí tích, và
những kẻ có lẽ đã mất đức tin; như những người chăn chiên nhân
lành các ngài đừng quên lui tới thăm nom họ.
Các ngài phải
lưu tâm đến những qui tắc về đại kết để đừng quên những anh em
không được cùng chúng ta thông hiệp trọn vẹn với Giáo Hội.
Sau hết các ngài
phải đặc biệt coi sóc tất cả những người chưa nhận biết Chúa
Kitô là Đấng Cứu Chuộc mình.
Nhưng chính các
Kitô hữu phải ý thức rằng mình có trách nhiệm đối với các Linh
Mục của mình, và phải lấy lòng thảo hiếu mà đối xử với các ngài
như những chủ chăn và như là Cha mình vậy; cũng thể, họ phải
chia xẻ những nỗi lo âu của các ngài, giúp đỡ các ngài bằng lời
cầu nguyện và bằng việc làm càng nhiều càng hay, để các ngài có
thể thắng vượt những khó khăn một cách dễ dàng hơn, và chu toàn
trách vụ của mình một cách hữu hiệu hơn.
còn tiếp
|
VỀ MỤC LỤC |
|
LEVEZ-VOUS!
ALLONS!
ĐỨNG DẬY!
TA ĐI NÀO! |
ĐỨC GIOAN
PHAOLÔ II
ĐỨNG DẬY! TA ĐI
NÀO!
Hương Vĩnh
dịch
LỜI DỊCH GIẢ:
LÊNH ĐÊNH TRÊN
MẶT ĐẠI DƯƠNG
Những ai có
dịp tham gia một chuyến hải trình bằng du thuyền sẽ đánh giá cao
những vị thuyền trưởng cùng nhân viên phục dịch trên những du
thuyền đó. Đặc biệt, những du thuyền xuôi ngược theo những hải
trình ở vùng Biển Caribbean, thường ghé qua những trạm
ngừng tại Cayman Island, Cozumel, Belize city và Costa Maya
với cảnh trí thật tuyệt vời!
Trong những
trạm trên đây, trạm dừng tại bãi biển COZUMEL là nơi mà tháng 11
năm 2005 vừa qua đã xảy ra một trận bão tố dữ dội khiến sóng
biển dâng lên tràn ngập miền duyên hải và cuốn lôi những quán xá
xuống biển. Những vết tang thương hiện còn để lại nơi đó. Những
hàng dừa cao và cây xanh bóng mát xinh đẹp trước kia nay trở nên
hoang tàn.
Qua mạng
truyền hình trong thời gian đó, thường xuất hiện hình ảnh những
chiếc du thuyền bập bềnh trên sóng nước thật hãi hùng! Chắc chắn
các vị thuyền trưởng lúc bấy giờ phải tận dụng hết khả năng để
giữ vững con tàu vượt qua mọi cơn phong ba bão táp.
Cương vị của
Đức Giáo Hoàng trong Giáo Hội Công Giáo cũng tương tự vai trò
của vị thuyền trưởng trên một du thuyền ở giữa đại dương. Vị
thuyền trưởng đem hết sức mình để cùng với các cấp chỉ huy và
thủy thủ đoàn cố gắng lèo lái con tàu an toàn, hầu mọi du khách
được vui hưởng những ngày thích thú bình an trong chuyến hải
trình. Tương tự, Đức Giáo Hoàng cùng với Giám Mục Đoàn ngày đêm
cật lực chèo chống con thuyền Giáo Hội vượt qua đại dương trần
thế trong mọi thời kỳ đảo điên ngõ hầu đến bến an toàn.
Ngày 02-04-2006 tới đây kỷ
niệm một năm Đức Thánh Cha Gioan Phao-lồ II băng hà. Ngài là một
vị Giáo Hoàng hiện đại nêu gương “MỤC TỬ CHÂN CHÍNH” cho hết mọi
mục tử trong Giáo Hội Công Giáo ngày nay. Những tâm tình mục tử
của ngài đã được chính ngài ghi lại trong quyển tự thuật dưới
nhan đề “LEVEZ-VOUS! ALLONS!” (ĐỨNG
DẬY! TA ĐI NÀO!) vào năm 2003, nhân dịp kỷ
niệm 45 năm tấn phong giám mục và 25 năm triều đại giáo hoàng
của ngài. Ngài được yêu cầu viết ra những hoài niệm liên tục kể
từ năm 1958 là năm ngài được bổ nhiệm giám mục.
Đức Thánh Cha
thuật lại những gì Chúa Quan Phòng đã tiên liệu cho ngài. Độc
giả say mê quyển sách đó vì những “TÂM TÌNH CỦA NGƯỜI MỤC TỬ” tỏ
lộ nơi Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, khi Ngài còn là Giám Mục,
Tổng Giám Mục, cho đến Hồng Y rồi Giáo Hoàng.
Suốt chiều
dài lịch sử Giáo Hội, một số giáo hoàng đã trải qua những cơn
“phong ba bão táp” kinh hồn của những thời đại tương ứng, như
Đức Thánh Cha Piô XII trong thời Đệ Nhị Thế Chiến. Riêng Đức
Thánh Cha Gioan Phaolô Đệ Nhị cũng gặp những đại họa không kém
phần dữ dội, từ sự sụp đổ của chế độ Cộng Sản tại các nước Đông
Âu và Nga Sô đến những băng hoại về mặt luân lý mà ngài mệnh
danh là “VĂN MINH SỰ CHẾT”, chà đạp lên triệu triệu sinh mạng
thai nhi và con người mỗi năm.
Khi viết về
cuộc đời của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, những khía cạnh trên
đây đã được nhiều tác giả nhắc tới. Tuy nhiên Giáo Hội đang đứng
trước một thách đố lớn lao xảy ra ngay trong lòng Giáo Hội: đó
là “THÁI ĐỘ SỐNG CỦA CÁC MỤC TỬ”
trong vai trò dẫn dắt đoàn chiên của Chúa.
Đành rành môi
trưòng mục vụ của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã xảy ra trong
một thời điểm khác, với một không gian và thời gian đặc thù,
nhưng “TINH THẦN CŨNG NHƯ TÂM TÌNH MỤC TỬ” của ngài thì chung
cho hết mọi mục tử, vượt qua mọi không gian và thời gian cố định,
để trở nên ngọn đèn soi sáng các mục tử khắp nơi, ngõ hầu “chăn
dắt những đoàn chiên con và chiên mẹ của Chúa Kitô” theo tâm
tình và ý hướng của Chúa.
Khi tham gia
những cuộc du thuyền trên đại dương, những chuyện bất trắc
thường xảy ra cho du khách, như bị mất tích khi lên bờ du ngoạn,
hoặc thất lạc khi đi mua sắm nhưng quên giờ giấc về tàu… Đó cũng
là những hình ảnh bi thương thường xảy ra trong con tàu Giáo Hội.
Sự kiện một số người lìa bỏ Giáo Hội ra đi một nơi vô định hay
bị trễ tàu…trong thời đại nào cũng có. Ca dao Việt-Nam có câu:
“Lênh đênh qua cửa Thần Phù,
Khéo tu thì
nổi, vụng tu thì chìm.”
Trách nhiệm
các cấp mục tử trong Giáo Hội thật nặng nề biết bao! Các mục tử
phải dẫn dắt Giáo Hội để không một ai bị chết chìm hay phải hư
mất giữa đại dương trần thế, như lời cầu nguyện của Chúa Giêsu
trong bữa tiệc ly: “Con đã canh giữ và không một ai trong họ
phải hư mất…” (Gio 17, 12).
Khi nhắc tới
khuôn mặt khả kính của Đức Cha Karol
Joséf Vojtyla, Tổng Giám Mục Tổng Giáo Phận
Cracovie – tức Đức Thánh Cha Gioan Phao-lồ II sau nầy - người ta
không thể quên được khuôn mặt khả ái của
Đức Cha Phi-líp-phê Nguyễn-Kim-Điền, Tổng
Giám Mục Tổng Giáo Phận Huế, Việt-Nam, trước đây.
Trong “THƯ
MỤC VỤ” ngày 19/10/1985, gởi các linh mục, nam nữ tu sĩ và toàn
thể giáo dân Giáo Phận Huế, Đức Tổng Giám Mục Phi-lip-phê
Nguyễn-Kim-Điền đã viết:
Năm 1981, khi
nhóm họp Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới, tôi đã tuyên bố điều
nầy: "Trong quá khứ, nhiều Giám Mục đã chết để bênh vực quyền
lợi Giáo Hội. Nhưng hiện nay, có Giám Mục nào sẵn sàng chết để
bênh vực nhân quyền không?"
Ngày nay tôi
được toại nguyện: Thiên Chúa kêu gọi tôi chịu lao tù và chết để
bênh vực nhân quyền và công lý.
……
Nhưng khi
luật lệ ngược với Thánh Ý Thiên Chúa, vi phạm nhân quyền mà luật
căn bản nhất là tự do tín ngưỡng, lúc đó, như tôi đã đăng ký
trong biên bản lập tại sở công an tỉnh Bình Trị Thiên ngày
15/10/1984: ‘Như các thánh Tông Đồ
khi xưa và các vị Tử Đạo mọi đời, tôi phải tuân phục luật Chúa
hơn luật loài người’.
Kết quả của
việc đăng ký trên là lao tù và chết chóc. Những kết quả nầy, vị
chủ chăn của anh chị em, ngày hôm nay đã sẵn sàng đón nhận. Ngài
vui lòng đón nhận những kết quả đó như phần thưởng Chúa ban sau
25 năm Giám Mục, trong đó, 22 năm phục vụ Giáo Phận HUẾ.
……
Giờ đây, thưa
anh chị em thân mến, tôi chỉ xin anh chị em một điều: Đội ơn
Thiên Chúa với tôi, và tăng thêm lời cầu nguyện để tôi hoàn toàn
trung tín với Thiên Chúa và Giáo Hội cho đến hơi thở cuối cùng.”
Với lời
nguyện ước “trung tín cho đến hơi thở cuối cùng”, Thiên Chúa đã
ban cho ngài một cái chết đầy quả cảm, một cái chết đã chinh
phục lòng thương mến của mọi người – giáo dân cũng như lương dân.
Trong tang lễ
của ngài ngày 15 tháng 6 năm 1988, một người ngoại đạo đã thổ lộ
những tâm tình thương mến qua những vần thơ dưới đây. Tác giả đã
ký tên “TỪ TÂM”, nhưng không rõ đó là tên thật, bút hiệu hay
pháp danh.
LÒNG NGƯỜI NGOẠI ĐẠO
Kính gởi
Hương Hồn Đức
cố Tổng Giám Mục Phi-lip-phê Nguyễn-Kim-Điền
ngày ngài
quá cố 08-06-1988
Con đến Phủ-Cam
giữa ngày tang lễ,
Góp nỗi buồn
trong muôn vạn niềm đau.
Hàng triệu tín
đồ sát cánh bên nhau,
Vạn vật đổi
thay, lòng TIN bất diệt.
Cha với con
tuy chưa từng quen biết,
Lòng kính yêu
Cha vô bến vô bờ.
Sống giữa muôn
người con vẫn bơ vơ,
Nhiều lúc tâm
tư hướng về tôn giáo.
Nhưng, tổ tiên
con tám đời ngoại đạo,
Lẽ nào con
trái ý tổ tiên mình.
Con sống sao
cho trọn nghĩa trọn tình,
Dù quá gian
lao, dù nhiều đau khổ.
Nếu phải chết
để đền ơn tri ngộ,
Con tiếc chi
chút bèo bọt hình hài.
Con đứng từ xa,
cúi mặt trước quan tài,
Tình mến bao
la, ngậm ngùi trong thương tiếc.
Con trân trọng
kính gởi Cha lời CHÀO VĨNH BIỆT
Đến Giáo Hội
Việt-Nam lời chia buồn thắm thiết
Của người con
ngoại đạo kính yêu Cha.
Vừng trán
thông minh, can đảm hiền hòa,
Thắm đượm tình
thương qua nhiều di ảnh.
Ánh mắt long
lanh, chứa đầy sức mạnh,
Giản dị trên
đầu chiếc nón bài thơ.
Cha mất đi,
một chuyện quá bất ngờ,
Đau xót xiết
bao “người còn kẻ mất”.
Thể xác Cha
nằm yên trong thánh thất,
Linh hồn Cha
về cạnh Đức Chúa Trời.
Cha để lại cho
đời
Một lòng TIN
bất diệt,
Với khuôn mặt
trang nghiêm,
Với tinh thần
quyết liệt,
Lưu lại ân
tình trong hàng triệu con chiên,
Khi nhắc tên
Cha “GIÁM MỤC NGUYỄN KIM ĐIỀN”
Thánh đường Phủ-cam Ngày tang lễ
15-06-1988
TỪ TÂM
Khi còn là
tổng giám mục Cracovie, Đức Cha Karol Vojtyla đã hỗ trợ
“Phong Trào Ốc Đảo” và ngài đã tham dự những trại hè
được tổ chức cho giới trẻ thuộc phong trào. Trong cuộc hành
hương vào năm 2003 ở Cracovie của Đức Thánh Cha Gioan Phao-lồ
II, những thành viên ốc đảo đã hát lên như sau:
Chúa đã đến
bên bờ biển;
Ngài không
kiếm tìm những người khôn ngoan,
những kẻ giàu
có,
Ngài chỉ xin
con theo Ngài.
Lạy Chúa, Chúa
đã nhìn con trong đôi mắt,
Chúa mỉm cười
và gọi tên con.
Chiếc thuyền
của con, con để lại trên bờ,
Cùng với Chúa
con sẽ vượt qua một đại dương khác.
Và Đức Thánh
Cha Gioan Phao-lồ II đã nói với họ: theo một nghĩa nào đó, bài
hát của những ốc đảo đã đưa ngài ra khỏi quê hương, cho tới tận
Roma. Nội dung thâm sâu của bài hát đã nâng đỡ ngài, ngay cả khi
phải đối diện với sự quyết định của mật nghị các Đức Hồng Y. Và
rồi, suốt chiều dài triều đại giáo hoàng của ngài, không bao giờ
ngài tách lìa khỏi bài hát đó.
Chúa đã ban
cho Đức Tổng Giám Mục Karol Vojtyla được toại nguyện trong việc
thể hiện lý tưởng ngài đã chọn lựa, cũng như Đức Tổng Giám Mục
Phi-lip-phê Nguyễn Kim Điền được hoàn tất hành trình ngài đã dấn
thân.
Trong tâm
tình kính mến Đức Thánh Cha Gioan Phao-lồ II và ước mong nhiều
mục tử ngày nay sẽ theo bước chân ngài, chúng tôi chuyển dịch
tác phẩm “LEVEZ-VOUS! ALLONS!” (ĐỨNG DẬY! TA ĐI
NÀO!). Ngoài ra chúng tôi cũng mong muốn chia sẽ dịch phẩm
nầy với toàn thể Cộng Đồng Dân Chúa, vì như Đức Thánh Cha Gioan
Phao-lô II đã minh định: ơn gọi của mọi tín hữu được nhận lãnh
Bí Tích Thánh Tẩy là “trở nên hoàn thiện như Cha trên Trời là
Đấng Hoàn Thiện”.
Sách gồm có
SÁU CHƯƠNG, ngoài “LỜI GIỚI THIỆU” và phần “DẪN NHẬP”.
Những đoạn
Phúc Âm trưng dẫn trong tài liệu nầy được trích từ quyển “KINH
THÁNH TRỌN BỘ - CỰU ƯỚC VÀ TÂN ƯỚC” do Tòa Tổng Giám Mục Thành
Phố Saigon thực hiện năm 1998.
Tiến trình
phong thánh cho Đức Thánh Cha Gioan Phao-lồ II đã bắt đầu vào
tháng 5 năm 2005 khi Giáo Phận Roma kêu gọi các tín hữu Công
Giáo đứng ra làm chứng xem Đức Thánh Cha có xứng đáng nên thánh
không.
Phải có một
phép lạ xảy ra sau khi Đức Thánh Cha băng hà để có thể tiến hành
phong chân phước cho Ngài. Và cần thiết phải có một phép lạ nữa
sau khi phong chân phước để có thể phong thánh cho Ngài.
Toà thánh đã
chắc chắn phép lạ đầu tiên trong tiến trình phong chân phước cho
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, đó là việc khỏi bệnh mà giới y
khoa không giải thích được của một nữ tu người Pháp bị bệnh
Parkinson như ngài.
Trong cuộc
phỏng vấn của đài truyền hình Rai của Ý và hãng tin Reuters của
Đức, Đức ông Slowomir Oder, người đứng đầu ủy ban điều
tra phong thánh cho Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã cho biết
rằng tiến trình điều tra sơ khởi bắt đầu vào tháng 10 năm 2005,
về việc lành bịnh của một nữ tu ẩn danh ở Pháp.
Ngài nói rằng
nữ tu người Pháp này bị suy yếu giống như Đức Thánh Cha Gioan
Phaolô II trong giai đoạn cuối đời của ngài và đã được lành bệnh
một cách lạ lùng khi cầu nguyện với Đức Thánh Cha sau khi ngài
qua đời. Đức Ông Slowomir Oder nói rằng những điều tra viên của
Tòa Thánh sẽ bắt đầu nghiên cứu chính thức và chi tiết hơn về sự
lành bệnh lạ lùng nầy.
Hương Vĩnh
Mùa Xuân Bính
Tuất - 2006
LỜI GIỚI THIỆU
Ngài Karol
Joséf Wojtyla - trở thành Giáo Hoàng Gioan Phaolô II vào năm
1978 – sinh ngày 18 tháng 5 năm 1920 ở miền Wadowice,
Ba-Lan. Ngài theo học ngành kịch nghệ tại Đại Học Cracovie.
Sau khi đại học nầy bị quân đội Đức Quốc Xã đóng cửa, ngài Karol
thoát được, khỏi bị giam giữ tại các trại tập trung ở Đức quốc.
Từ năm 1942,
ngài theo học ở chủng viện chui tại Cracovie. Sau Đại Thế Chiến
Thứ Hai, ngài học môn thần học ở đại học cho tới khi được phong
chức linh mục vào năm 1946. Tiếp theo sau những năm học tiến sĩ,
linh mục Wojtyla trở thành giáo sư thần học luân lý và đạo đức
học về xã hội tại Đại Chủng Viện Cracovie và Phân Khoa Thần Học
ở Lublin.
Năm 1958, Đức
Thánh Cha Piô XII bổ nhiệm ngài làm Giám Mục phụ tá ở Cracovie.
Năm 1964, ngài được Đức Thánh Cha Phaolô VI bổ nhiệm làm Tổng
Giám Mục Cracovie và được phong tước vị Hồng Y năm 1967.
Khởi từ triều
đại giáo hoàng của ngài vào ngày 16 tháng 10 năm 1978, Đức Thánh
Cha Gioan Phaolô II đã thực hiện nhiều chuyến tông du tại nhiều
nơi trên thế giới. Ngài đã ban hành nhiều văn kiện tôn giáo (thông
điệp, tông huấn), và xuất bản một số sách trong đó có quyển tự
thuật, nhan đề “Bước Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng” (năm 1994)
và gần đây là quyển “Đứng Dậy! Ta Đi Nào!” (năm 2003) –
một tác phẩm chứa đựng những suy tư về cuộc đời và sứ vụ giám
mục của ngài.
Đức Thánh Cha
Gioan Phaolô II đã viết:
“Khi đến ‘giờ
của Ngài’, Chúa Giêsu nói với những người ở với Ngài trong
vườn Giết-sê-ma-ni là Phê-rô, Gia-cô-bê và Gioan – những môn đệ
mà Ngài đặc biệt yêu thương: ‘Đứng dậy! Ta đi nào!’ Chúa
Giêsu không phải một mình ‘ra đi’ làm trọn Thánh Ý Chúa Cha: họ
cũng phải ra đi với Ngài nữa.
Tôi nói điều
đó nhằm nhắc tới nơi chốn mà tình yêu Chúa Kitô Đấng Cứu Thế đã
dẫn đưa tôi, bằng cách kêu gọi tôi ra khỏi quê hương tôi để sinh
hoa kết quả ở nơi khác, một hoa trái được tồn tại, nhờ Ân Sủng
của Ngài. Vì vậy, để làm vang động lại lời của Thầy Chí Thánh và
Chúa chúng ta, tôi cũng lặp lại với mỗi một người trong anh em,
thưa Chư Huynh rất thân mến trong chức giám mục: ‘Đứng dậy!
Ta đi nào!’ Hãy đi trong sự phó thác nơi Chúa Kitô. Ngài sẽ
đồng hành với chúng ta để đạt tới mục đích mà chỉ một mình Ngài
biết được.”
DẪN NHẬP
Khi phát hành
quyển sách “Ma vocation: don et mystère” (Ơn gọi của
tôi: tặng phẩm và huyền nhiệm” ghi lại những kỷ niệm và suy
tư về lúc khởi đầu cuộc đời linh mục của tôi, tôi đã nhận được
nhiều chứng từ đón tiếp nồng hậu đối với quyển sách đó, nhất là
về phía giới trẻ.
Theo những gì
người ta nói với tôi, đối với nhiều người trong giới trẻ đó,
phần bổ sung của Tông Huấn “Pastores dabo vobis” (“Thầy
sẽ ban cho các con những mục tử”) được xác nhận là một sự hỗ
trợ quí báu để trao ban cho họ một sự nhận thức đúng đắn về ơn
gọi của họ.
Điều đó khiến
tôi rất vui. Cầu xin Chúa Kitô tiếp tục dùng những suy tư đó để
đem nhiều người trẻ khác lắng nghe tiếng mời gọi của Ngài: “Các
anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới
người.” (Mc 1, 17).
Nhân dịp kỷ
niệm 45 năm tấn phong giám mục và 25 năm triều đại giáo hoàng
của tôi, tôi được yêu cầu ghi lại những hoài niệm liên tục kể từ
năm 1958 là năm tôi trở thành giám mục. Tôi thiết tưởng phải
chấp nhận lời thỉnh cầu đó, cũng như tôi đã chấp nhận sự gợi ý
để cho ra đời quyển sách trước đây.
Một lý do nữa
để thu thập và sắp xếp cho có thứ tự những ký ức và suy tư đó
phát sinh bởi một trình tự tăng tiến của một tài liệu dành cho
sứ vụ giám mục. Đó là Tông Huấn “Pastores gregis” (“Các
mục tử đoàn chiên Chúa”) mà trong đó tôi đã trình bày một
cách có hệ thống những ý tưởng được phát biểu suốt khóa họp
khoáng đại lần thứ X của Thượng Hội Đồng Giám Mục diễn ra trong
dịp kỷ niệm năm thánh 2000.
Trong khi
lắng nghe những nghị phụ trình bày cũng như nắm bắt ý nghĩa
những văn bản đề nghị, tôi cảm thấy thức dậy trong tôi nhiều kỷ
niệm, cũng như nhiều năm tôi được giao phó việc phục vụ Giáo Hội
ở Cracovie và trải qua những kinh nghiệm mới tại Roma, trong tư
cách người kế vị Thánh Phê-rô.
Tôi đã cố
gắng viết ra những tư tưởng đó với niềm ước mong cũng được chia
sẻ với những người khác về chứng tá tình yêu Chúa Kitô, trải qua
bao thế kỷ, luôn mời gọi những người mới kế vị các tông đồ, ngõ
hầu tuôn tràn Ân Sũng của Ngài trên con tim những anh em khác,
qua trung gian những chiếc bình sành mỏng dòn.
Những hoài
niệm của tôi luôn chan chứa những lời Thánh Phao-lô nói với vị
giám mục trẻ tuổi Timothée: “Chúa đã cứu độ và kêu gọi chúng
ta, không phải vì chính những công việc chúng ta đã làm, nhưng
là do kế hoạch và ân sủng của Ngài. Ân sủng đó, Ngài đã
ban cho chúng ta từ muôn thuở trong Đức Kitô Giêsu.” (2Tm
1, 9).
Tôi hiến tặng
những trang sách nầy như là dấu ấn tình yêu của tôi đối với anh
em trong chức giám mục và đối với hết thảy dân Chúa. Ước mong
những trang sách nầy soi sáng cho những ai muốn biết sự cao cả
của sứ vụ giám mục và nỗi tân khổ cũng như niềm vui do sứ vụ đó
mang lại trong tác vụ hằng ngày!
Tôi mời gọi
hết mọi độc giả hãy cùng tôi cất lên bài ca “Tạ Ơn” (“Te
Deum”) để cảm tạ Hồng Ân Thiên Chúa. Hãy hướng mắt về Chúa
Kitô, được nâng đỡ bởi niềm hy vọng không lừa dối, chúng ta hãy
cùng nhau tiến vào thiên niên kỷ mới: “Đứng dậy! Ta đi nào!”
(Mc 14, 42).
Gioan Phao-lồ
II
(CÒN TIẾP)
MỤC LỤC để tiện theo dõi trong
nhiều kỳ
Lời Dịch Giả:
Lênh đênh trên mặt đại dương
Lời Giới
Thiệu
Dẫn Nhập
Chương I.-
Ơn Gọi
Chương II.-
Hoạt động Giám Mục
Chương III.-
Cam kết khoa học và mục vụ
Chương IV.-
Tình phụ tử của Giám Mục
Chương V.-
Tập thể tính Giám Mục
Chương VI.-
Thiên Chúa và lòng can đảm |
VỀ MỤC LỤC |
|
LỜI NHẬP THỂ |
“Lời đã trở nên xác phàm và cư
ngụ giữa chúng ta” (Ga,1,14)
Vì yêu thương, Thiên Chúa đã muốn ngỏ lời với
con người. Ngài ngỏ lời với họ bằng nhiều phương thế khác nhau. Lời
mà Ngài muốn ngỏ với con người không xa lạ với cuộc sống đời thường,
nhưng rất đỗi gần gũi, thân thương. LỜI đã trở nên xác phàm.
1- Ngôn ngữ của Thiên Chúa
nhập thể trong ngôn ngữ loài người.
Khi nói đến Mầu nhiệm Nhập thể, chúng ta nghĩ
ngay đến việc Con Thiên Chúa làm người nơi cung lòng Đức Trinh Nữ
Maria, ngay từ giây phút Mẹ thưa với Thiên Thần: “Này tôi là tôi tớ
Chúa, xin hãy thành sự nơi tôi như lời Ngài nói” (Lc 1,38). Tuy vậy,
chúng ta có thể khẳng định Lời Chúa đã nhập thể ngay từ buổi bình
minh của nhân loại, khi Lời ấy được nói bằng ngôn ngữ con người, đó
là Thánh Kinh. Thánh Kinh là Lời của Thiên Chúa nói với con người,
theo phong cách của con người, để con người có thể hiểu được và lĩnh
hội điều Thiên Chúa muốn mạc khải cho họ. Từ thuở ban sơ, Lời ấy đã
nhập vào lời của con người, mang nét đặc trưng của nền văn hóa Lưỡng
Hà, với những câu ngạn ngữ, với những hình ảnh so sánh bình dân,
những nét văn phong của thời đại.
Nếu Thiên Chúa nói với chúng ta bằng Lời của
Ngài, chúng ta không thể hiểu được. Trên núi Sinai, khi Thiên Chúa
nói với Ông Môi-sen để truyền ban Luật Giao ước, dân chúng chỉ nghe
thấy tiếng ầm ầm vang dậy như tiếng sấm, trời đất rung chuyển, khói
bốc lên như lò lửa khiến mọi người kinh hoàng đến nỗi họ phải thưa
với Ông Môi-sen: “Xin chính Ông nói với chúng tôi, chúng tôi mới dám
nghe; nhưng xin Thiên Chúa đừng nói với chúng tôi, kẻo chúng tôi
chết mất” (Xh 20,19).
Công Đồng Vatican II đã nói đến “sự hạ cố kỳ
diệu của Đức Khôn ngoan vĩnh cửu” khi nói về Mạc khải trong Thánh
Kinh. (MK 13). Quả vậy, khi ngỏ lời với con người, Thiên Chúa đã
chấp nhận hạn chế bớt vinh quang của mình để chấp nhận “thích ứng”,
để rồi Lời của Ngài đã “trở nên tương tự với ngôn ngữ loài người”,
là ngôn ngữ còn nhiều giới hạn. Sự “hạ cố kỳ diệu” để ngỏ lời với
con người đã là khởi đầu của Màu nhiệm Nhập thể. Vâng, khi ngỏ lời
với nhân loại, Thiên Chúa đã khởi đầu chương trình “Lời nhập thể”
của Ngài. Qua đó, Ngài muốn khẳng định với họ rằng: Ngài yêu thương
họ và luôn mong họ được hoàn thiện. Chúng ta thấy rõ nội dung giáo
huấn này qua các ngôn sứ trải qua nhiều thời đại khác nhau.
2- Thiên Chúa nhập thể qua
việc tạo dựng con người
Thiên Chúa muốn để lại dấu ấn của Ngài nơi
gương mặt con người. Khi sáng tạo nên con người. Ba Ngôi Thiên Chúa
bàn tính: “Chúng Ta hãy dựng nên con người giống hình ảnh Chúng Ta,
giống như Chúng Ta…” (St 1,26). Thiên Chúa là Đấng vô hình. Loài
người không thể nhìn thấy Ngài được. Qua việc sáng tạo con người.
Thiên Chúa muốn qua gương mặt của con người để phản ánh chính gương
mặt của Ngài. Nói cách khác, Thiên Chúa muốn gửi gắm hình ảnh của
Ngài nơi gương mặt con người. Ngài muốn NHẬP THỂ, muốn LÀM NGƯỜI, để
rồi từ nay Thiên Chúa không còn xa con người, nhưng bất kỳ ai, nếu
đối xử thân tình nhân đạo với nhau là họ được gặp gỡ Thiên Chúa,
Đấng đang hiện diện nơi mỗi con người. Như người cha để lại dấu ấn
của mình nơi con cái, Thiên Chúa muốn cho con người nhận ra Ngài
trong khuôn mặt của anh chị em mình. Gương mặt của tha nhân nhắc bảo
chúng ta hình ảnh của Thiên Chúa. Vì vậy, thân phận con người không
phải chỉ là hạt bụi, không phải chỉ đớn hèn vì bởi đất mà ra, mà con
người còn có sứ mạng cao quý là phản ánh chính vinh quang của Thiên
Chúa, trở nên một với Ngài.
Sau cuộc thảm sát tàn khốc trong Đại chiến thế
giới lần thứ hai (1939-1945), con người được mời gọi suy tư về trách
nhiệm của mình đối với tha nhân. Con số những nạn nhân bị giết trong
lò thiêu của Đức Quốc Xã đã đặt ra cho nhân loại những dấu hỏi ai
oán: chiến tranh đã làm gì đối với những nhân vị mang hình ảnh của
Thiên Chúa ? Một số triết gia thời kỳ này (được gọi là “Hậu -
Auschwitz” – một địa danh gợi lại sự giết chóc kinh hoàng của Đức
Quốc Xã từ năm 1940-1945), đã đặt lại vấn đề liên quan đến đạo đức.
Điển hình là triết gia Emmanuel Levinas (1906-1995), một người gốc
Do Thái mang quốc tịch Pháp, đã nhấn mạnh đến trách nhiệm của mỗi
người khi nhìn khuôn mặt của tha nhân. Gương mặt của tha nhân gợi
lên cho tôi một bổn phận, một trách nhiệm. Tôi nhìn thấy gương mặt
của tôi nơi khuôn mặt của tha nhân. Sự hiện diện của tha nhân luôn
nhắc tôi phải làm gì đối với họ. Bởi tôi phải đồng cảm với nỗi đau
cũng như niềm vui của họ. Thiên Chúa là Đấng nối kết mọi người vì
mọi người đều mang hình ảnh của Ngài. Thiên Chúa đã muốn “nhập thể”
khi để lại dấu ấn của Ngài nơi gương mặt của con người để mời gọi
con người có trách nhiệm với nhau.
3- Đức Giêsu – Lời nhập thể
Nếu LỜI đã nhập thể ngay từ khi Thiên Chúa muốn
nói với con người, tức là từ thuở hồng hoang của công trình sáng tạo,
thì đến lúc “thời gian tới hồi viên mãn” (x Gl 4,4), Thiên Chúa lại
muốn cho Lời ấy mang lấy thân phận cụ thể của con người. LỜI không
chỉ còn là ÂM THANH hay NGÔN NGỮ, nhưng đã hóa thành XÁC THỊT. Nhập
thể làm người, đó là điều chỉ có Thiên Chúa mới làm được. Đó là ngôn
ngữ hùng hồn nhất để diễn tả tình thương của Thiên Chúa. Thiên Chúa
đã trao ban cho con người chính Lời của Ngài, chính Con Một của Ngài.
Và khi trao ban Con Một là Ngài trao ban tất cả. Con Thiên Chúa đã
trở nên yếu hèn, đã đau khổ vì chúng ta. Nhờ việc Ngôi Lời đến trong
xác phàm, con người có thể được trở nên Con Thiên Chúa nếu biết mở
rộng tâm hồn đón nhận Lời của Thiên Chúa. Đây là sự trao đổi kỳ diệu
tuyệt vời. Một vị vua cao cả đã mặc lấy thân phận của thường dân để
cho thường dân được trở nên hoàng đế.
Từ ban đầu, Thiên Chúa chỉ phán một Lời. Lời ấy
đã âm vang đến tận cùng trái đất. Lời ấy đã làm Chúa Cha hài lòng.
Qua Đức Giêsu Ngôi Lời nhập thể, Lời của Thiên Chúa đã “hạ cố” đến
trần gian, không chỉ nói lời của con người như trong Cựu ước, nhưng
SỐNG thân phận con người, CHIA SẺ cuộc sống con người. Người đã trở
nên giống con người trong mọi sự ngoại trừ tội lỗi (x Dt 4,15). Thư
Do Thái đã khẳng định: vì đối tượng cứu độ không phải là các thiên
thần, nên Lời Thiên Chúa đã trở nên người phàm để chung chia thân
phận với họ. “Bởi thế, Người đã phải trở nên giống anh em mình về
mọi phương diện, để trở thành một vị thượng tế nhân từ và trung tín
trong việc thờ phượng Thiên Chúa, hầu đền tội cho dân. Vì bản thân
Người đã trải qua thử thách và đau khổ, nên Người có thể cứu giúp
những ai bị thử thách” (Dt 3,17-18)
Con người qua mọi nơi mọi thời luôn khát vọng
vươn lên gặp gỡ Đấng Tối Cao. Nay, để đáp ứng ước vọng ấy của con
người, Thiên Chúa đã “cúi mình xuống” để nâng họ lên. Vì nếu tự sức
mình, con người không thể vươn lên được. Chính Thiên Chúa đã có sáng
kiến đến gặp gỡ con người, “Ngài đã yêu thương chúng ta trước” (1 Ga
4, 19).
4- Những ai đón nhận Người…
Đức Giêsu, Ngôi Lời nhập thể đang hiện hữu nơi
cuộc đời này. Sứ vụ Đấng Cứu thế không hoàn toàn chấm dứt với biến
cố Người về trời. Bởi lẽ Người luôn hiện diện giữa chúng ta khi
chúng ta cầu nguyện nhân danh Người. Người ở đây,nơi chúng ta thực
thi Lời Người qua nghĩa cử bẻ bánh, nghĩa cử huynh đệ yêu thương.
Người hiện diện nơi mỗi con người, dù người đó đón nhận Người hay
không.
Cũng như thân xác chúng ta hằng ngày được nuôi
dưỡng bởi lương thực vật chất. Lương thực ấy, qua sự vận hành của
các cơ năng, trở thành máu thịt, trở thành sức mạnh thể lý và tinh
thần của chúng ta. Qua Lời Chúa, chúng ta được nuôi dưỡng và được
tăng thêm sức mạnh. Mình và Máu Đức Giêsu mà chúng ta lãnh nhận cũng
được biến đổi thành máu thịt của ta. Nhờ được nuôi dưỡng bởi Lời
Chúa và Mình Chúa, chúng ta mang gương mặt của Đức Giêsu, chúng ta
có cử chỉ của Đức Giêsu, có lời nói của Đức Giêsu, có cái nhìn, lòng
bao dung, sự quảng đại của Đức Giêsu. Bởi Đức Giêsu Nhập Thể đang
“nhập” vào “thân thể” của tôi. Ngài biến đổi tôi thành thân thể thần
linh của Ngài, để trở thành một chi thể trong thân thể bao la là
chính Giáo hội.
Như thế, mỗi tín hữu là một “Thần linh nhập thể”
hay là chính Đức Kitô nhập thể. Người đang hiện diện trong họ, qua
lời nói, cử chỉ và cách sống. Người tín hữu sống mà ý thức rằng “Tôi
sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl
2,20). Chính Đức Kitô là nguồn sống của tôi (x Cl 3,4). Cánh tay của
tôi là cánh tay của Chúa; đôi mắt của tôi là đôi mắt của Chúa. Mọi
việc tôi làm đều phản ánh sự hiện diện của Đấng đã “Nhập thể”, đã
“vào đời” để làm cho đời này toả hương hạnh phúc.
Thiên Chúa của chúng ta không phải là một vị
thần linh từ trên cao ngó nhìn loài người với lòng thương cảm. Ngài
là Cha chúng ta. Ngài đã muốn đến với con người để nói với họ rằng:
“Cha yêu con từ thuở đời đời”. Tâm tình ấy cũng không chỉ được thể
hiện qua ngôn ngữ mà bằng một NGÔI VỊ, bằng NGƯỜI CON CHÍ ÁI. Đạo
của chúng ta là Đạo làm người để nâng cao con người và giải thoát họ.
Sách Trung Dung, thuộc bộ Tứ Thư, có ghi lại lời Đức Khổng Tử: “Đạo
bất viễn nhân. Nhân chi vi Đạo nhi viễn nhân, bất khả dĩ vi Đạo” (Đạo
vốn ở nơi người chớ chẳng xa. Nhưng nếu người ta làm cho đạo tách xa
mình thì chẳng phải là Đạo nữa rồi – Sách Trung Dung, chương 13).
Đạo đã làm người, hiện diện nơi con người, vì yêu thương con người
và muốn ở lại giữa con người.
Nhưng, nếu Thiên Chúa muốn làm người để sống
thân tình với chúng ta thì con người lại “không muốn làm người”, con
người đang muốn lợi dụng tự do để hạ thấp phẩm giá của mình, làm cho
mình không còn xứng với phẩm giá cao cả mà Thiên Chúa muốn tạo nên
cho họ. Con người luôn bị cám dỗ khước từ thiên chức làm người để
muốn làm Thiên Chúa. Cơn cám dỗ của Adam Evà từ thời nguyên tổ vẫn
tồn tại. Tệ hơn nữa, con người còn muốn tạo ra một thứ “thượng đế”
theo ý mình, nhằm phục vụ sự ích kỷ của mình. Chiến tranh, khủng bố,
buôn bán phụ nữ trẻ em, nghiên cứu nhân bản người, đồng tính luyến
ái, hôn phối theo hợp đồng, chết êm dịu… là những hình thức nô lệ
mới mà con người đang lạm dụng để làm biến dạng chính mình và tha
nhân. Bởi đó, con người không còn là hình ảnh của Thiên Chúa, mà trở
thành một thứ hàng hóa, một sản phẩm được chế tạo tuỳ ý muốn, theo
đơn đặt hàng của nền kinh tế thị trường..
Kết luận:
Màu nhiệm Nhập Thể mời gọi chúng ta hãy sống nhân bản hơn. Hãy quý
trọng và phát huy phẩm giá con người, khởi đi từ chính bản thân mình
để rồi có thể làm cho hình ảnh Thiên Chúa rực sáng nơi khuôn mặt của
anh chị em. Sống Màu nhiệm Nhập thể là ý thức trách nhiệm cổ võ sự
hiệp nhất và yêu thương. Đó cũng chính là sứ điệp của Thánh Kinh; đó
chính là Thánh ý Đấng Tối Cao khi sai Con của Ngài nhập thể cứu độ
trần gian.
Hải phòng - Mùa Chay thánh
2006
+ GM. Giuse Vũ văn
Thiên
|
VỀ MỤC LỤC |
|
Sứ điệp của Nước |
Nước cần thiết cho sự sống, cho sự phát triển
của cơ thể con người, cho sự tăng trưởng của súc vật và cây cối.
Cơ quan hàng không Nasa Hoa Kỳ khi phóng phi
thuyền lên các hành tinh khác: Cung trăng , Hoả tinh, Saturn…đều đặt
câu hỏi: nơi đó có nước hay không? Và họ sẵn sàng bỏ nhiều tốn phí,
nhiều thì giờ để tìm dấu vết của nước trên những hành tinh xa lạ
ngoài trái đất này.
Trong vùng sa mạc toàn cát khô nóng bỏng, nơi
rất hiếm nước, người ta với kỹ thuật hiện đại tìm cách dẫn nước từ
các sông ngòi miền rừng núi hay miền đồng bằng trù phú vào, để biến
sa mạc khô chồi thành vùng trù phú mầu mỡ trồng cấy được, và xây phố
chợ thành thị cho dân cư tới ở, như bên Hoa Kỳ và bên Trung Đông.
Hay chương trình dẫn thuỷ nhập điền cho vùng thiếu nước, để cày cấy
phát triển vùng đồng ruộng còn hoang vu.
Có thể nói không có nước, không có dấu vết của
sự sống. Khi ta dùng nước để ăn uống, tắm giặt, ta cho là điều tự
nhiên. Nhưng nước là của châu báu Trời ban cho địa cầu. Nước từ trên
nguồn cao đổ xuống, nước chảy trong lòng sông, ngoài biển cả, nước
uốn mình theo ghềnh thác lượn khúc trong những con suối nơi rừng rậm...
1. Nước mang sứ điệp gì cho
đời sống con người ?
Không có gì mềm hơn nước được. Nhưng khi giòng
nước chảy đổ về, tưởng không có gì mạnh bằng sức nước. Như chúng ta
vẫn thường nói: Nước chảy đá mòn. Hay cảnh hoang tàn sau trận lụt
lội bên Việtnam, bên Mosambique, bên Hoa Ky, ben Bangladesch, tai
nạn sóng thần ben vùng bờ biển đông nam châu Á...
Vì nước vô hình thể, không có độ cứng dày, nên
người ta không đo lường được chiều cao, chiều sâu rộng cùng độ dài
của nước. Nước là yếu tố cần thiết không thể thiếu cho sự sống,
nhưng nước vẫn là một mầu nhiệm cho con người.
Giòng nước chảy tới đâu, nó mang sức sống, sức
tươi mát đến nơi đó. Về phưong diện này, nước là chất trong lành
không có gì là nguy hiểm. Khi giòng nước chảy tới đâu, cho dù đục
hay trong, được dùng hay không được dùng, nước mang chất phù sa phì
nhiêu đến ruộng đồng, cho sinh vật, thực động vật trong thiên nhiên.
Khi nước chảy qua ghềnh thác, gặp các tảng đá
to lớn chắn ngang lối, nươc cứ im lìm xuôi giòng chảy trườn qua
không gây ra điều xích mích hay hận thù với nuí đá. Đây là phương
cách sống khôn ngoan thức thời : Lấy nhu thắng cương. Lấy nhược
thắng cừơng!
Chảy trong khe lạch, con suối nhỏ, trong lòng
sông lớn hay ngoài biển cả, giòng nước có hình thù to nhỏ hay lượng
nước nhiều ít tuỳ theo nơi chứa đựng nó. Cho dù sông sâu hay lòng
suối nông cạn, khi nước chảy qua không có gì có thể làm ngưng nước
chảy được. Đó là đặc tính can đảm của nước.
Một giòng nước khi chảy qua, không quay trở lại
chỗ cũ đã chảy qua. Nước là của châu báu và chỉ chảy qua một lần rồi
chảy đi tiếp. Như một vị hiền triết đã suy niệm: Không ai tắm hai
lần trên cùng một giòng sông!
Khi nước chảy qua, nó cuốn lôi trôi đi những
chướng ngại vật ngăn cản trên đường không một lời hay một mảy may cử
chỉ nào rủ rê hay gây hiềm thù xích mích. Trên đường xuôi chảy, nước
có thể bị gió trời gây ảnh hưởng làm chậm trễ lại, nhưng không bao
giờ nó quên đích điểm đạt tới: chảy ra ngoài đại dương. Đặc tính
này nói lên sức dẻo dai bền bỉ và trung thành đi tới đích điểm.
Nước có thể bị làm vẩn đục mất sức trong lành,
nhưng nước lại có khả năng tự làm ra trong sạch được. Nước tự đổi
mới chính mình và mang lại cho người dùng nước sức sống tươi mát đổi
mới.
2. Làn nước Bí tích Rửa tội
Nước là yếu tố căn bản cho sự sống. Vì thế
trong phép Rửa, Nước là thành tố quan trọng. Không có nước không thể
có phép Rửa được ( xx Mk 1,9-11; Didache - Traditio Apostolica,
chương 7.1.- 7.3. bản Griechisch Lateinisch Deutsch; Herder Freiburg
- Wien-New York 1991, tr. 118-119).
Trong nhiều Tôn giáo Nước là dấu chỉ cho khát
vọng căn bản của con người. Qua làn nước, con người có những cảm
nghiệm như sau:
1. Họ khám phá ra dòng nước chảy có khác chi
những cách thế sống khác nhau, tìm lối hướng về tự do.
2. Nước mang đến nguồn sống tươi mát, đổi mới,
gột bỏ những gì là cũ, là gìa nua vì bị tiêu dùng hao mòn.
3. Được tắm rửa trong nước, chính là giũ sạch
những vẩn bụi đè nặng tâm hồn và thân xác, vướng trở cho đời sống.
4. Qua làn nước chảy, họ cảm nghiệm được đời
sống cũng trôi đi như dòng nước, để tìm đến một đời sống thật.
5. Đời con người cũng như dòng nước chảy. Họ
cảm thấy mình không đứng vững trên một nền tảng. Bởi vì thấy mình bị
những bóng tối sự dữ đe dọa. Thấy mình là người bất lực trước những
sức mạnh đang bao trùm xung quanh. Và vì thế họ đi tìm sức trợ giúp,
như điểm tựa cho đời sống.(xx Dieter Emeis, Sakramentenkatechese,
Herder Verlag, Freiburg i. Br. 1991, tr. 69)
Qua phép Rửa bằng nước, người chịu phép Rửa
lãnh nhận sự sống Thiên Chúa. Đó là Ân Đức của Ngài. Nước Rửa có sức
tẩy sạch những gì là cũ, dơ bẩn do tội lỗi gây ra, mang đến sự chết,
và đem vào đời sống mới. Nước Rửa có sức chữa lành, thánh hóa và đem
lại sự tươi mát cho tâm hồn ( W. Hoffsuemmer, Geschichten zur Taufe,
chương Das Wasser der Taufe, Mainz 1991, 1. Auflage, S. 41)
Đời sống mới nhận lãnh qua phép Rửa làm con
Chúa là qùa tặng, là Ân đức do Chúa ban cho. Đời sống này không thể
hiểu là một kho tàng, để từ đấy lấy ra mà tiêu dùng. Trái lại đời
sống này phải được phát triển.
Đời sống đó là nhân chứng cho sự sống Thiên
Chúa giữa trần gian. Là niềm hy vọng cho chính mình và cho người
khác.
Lm. Nguyễn ngọc Long
|
VỀ MỤC LỤC |
|
TRÁCH NHIỆM LIÊN ĐỚI |
Sống trong một xã hội tiến bộ, ai cũng cảm thấy
thoải mái. Nhưng cuộc sống đó không phải tự nhiên mà có. Trái lại,
đó là một thành quả phi thường của những trách nhiệm liên đới. Đúng
hơn, phải nói qua bao đời, xã hội được xây trên nền tảng trách nhiệm
liên đới giữa những cá nhân khác nhau. Bởi vậy, muốn xây dựng lại
cộng đoàn, trước tiên phải nghĩ ngay tới tinh thần trách nhiệm liên
đới. Nhìn vào đó, chúng ta có thể thấy ngay trình độ cộng đoàn.
Cũng từ đó, ta tìm được điểm khởi hành cho mọi hoạch định cho cộng
đoàn trong tương lai.
TRÁCH NHIỆM LIÊN ĐỚI LÀ GÌ ?
Để đạt một mục đích chung, người ta không thể
sinh hoạt riêng rẽ. Nhưng để có thể sinh hoạt chung, con người phải
phấn đấu với chính mình. Nghĩa là, từ trong ý thức, con người luôn
phải nỗ lực nghĩ tới người khác. Tha nhân trở thành một yếu tố
thiết yếu và xứng đáng góp phần hoàn thành trách nhiệm với chúng ta.
Nhưng muốn được thế, chúng ta cần có một điểm chung để quy tụ muôn
người. Bởi vậy, liên đới mô tả “một khẳng định chắc chắn và kiên
trì gắn liền với công ích; nghĩa là cho ích lợi của tất cả và từng
người, vì tất cả chúng ta đều thực sự chịu trách nhiệm đối với tất
cả mọi người.” (Gioan Phaolô II, Sollicitudo rei socialis, số 38)
Làm sao có thể đạt tới tình trạng kiên định với
công ích như thế ? Dĩ nhiên, mỗi người có quan điểm khác nhau về
công ích. Thế nhưng, thực tế vẫn là thực tế. Cần phải có sự đồng
thuận về công ích. Không thể đứng trước những đau khổ của dân nghèo
đói và bị đàn áp mà nói công ích chỉ nhắm tới quyền lực của một đảng
phái hay quyền lợi của đế quốc. Công ích phải là một thực tại khách
quan, phù hợp với mọi người trong mọi hoàn cảnh. Trong thông điệp
Mater et Magistra, Đức Cố Giáo Hoàng Gioan XXIII đã ngầm định nghĩa
công ích là tổng hợp tất cả các điều kiện sống về phương diện xã hội.
Nhờ đó, con người có khả năng sẵn sàng và hoàn toàn thể hiện sự toàn
hảo của mình (x. số 65). Như vậy, công ích nhằm phục vụ con người.
“Con người vừa là nền tảng, nguyên nhân và cứu cánh của mọi cơ chế
xã hội.” (số 219) Bất cứ cộng đoàn hay cơ chế xã hội nào khai thác
con người như một phương tiện và chà đạp con người đều không nhằm
công ích. Trên trần gian, mọi sự phải là phương tiện phục vụ con
người.
Nếu không ý thức được địa vị tối cao của mình
trong vũ trụ, con người dễ đánh mất chính mình. Nhưng để có thể
thực hiện được mục tiêu lớn lao đó, con người không thể không sống
liên đới với nhau. Thái độ bất cần đến người khác sẽ làm cho xã hội
không thể tồn tại và phát triển được. Chính vì liên đới với nhau,
con người mới phát triển như ngày nay. Hoàn cảnh xã hội ngày nay đã
thay đổi rất nhiều. Nhờ “những tiến bộ về khoa học và kỹ thuật,
hiệu năng sản xuất lớn hơn và tiêu chuẩn sống cao hơn,” (số 59) con
người càng cần liên đới trách nhiệm mới có thể gìn giữ và phát huy
những giá trị cần thiết cho cuộc sống xã hội.
Muốn duy trì xã hội trong trật tự và hòa bình,
con người phải ý thức và thực hành liên đới trách nhiệm mới “đạt tới
thiện ích công bình xã hội.” ( số 20) Nhiều người tưởng chỉ có mình
mới có thể làm ích cho cộng đoàn. Nhất là khi ở vai trò lãnh đạo,
họ tự biến mình thành nhân vật bất khả thay thế. Họ dễ trở thành
những anh hùng cô đơn. Nhiều thuộc cấp chẳng quan tâm tới ích chung
vì tưởng trách nhiệm thuộc cấp trên. Họ quay cuồng với những bận
tâm riêng. Đó là nguyên nhân làm tổn thương sức sống xã hội và giáo
hội.
Con đường cứu thoát dân tộc và xã hội Việt Nam
chính là cổ động và thực thi tinh thần trách nhiệm liên đới, một
“tình liên đới đích thực” (ĐGH Benedict XVI : Zenit 29/08/05). Điều
kiện sống giới hạn ảnh hưởng mạnh tới lòng người. Mạnh ai nấy lo.
Sống chết mặc bay. Tình liên đới không còn đất sống.
Ngay trong công việc cá nhân thường ngày cũng
có thể tìm thấy chiều kích liên đới. Thật vậy, “nhờ công việc làm
ăn, con người tự cam kết làm việc không chỉ cho riêng mình, nhưng
cho tha nhân và với tha nhân nữa. Mỗi người cộng tác với người khác
và mưu ích cho họ. Người ta làm việc để nuôi sống gia đình, cung
cấp phương tiện để thỏa mãn các nhu cầu cộng đồng, quốc gia, và cuối
cùng cho toàn thể nhân loại. Hơn nữa, con người cộng tác với đồng
nghiệp cũng như với những nhà buôn và khách hàng để ngày càng phát
triển sợi giây liên đới.” (ĐGH Gioan Phaolô II : Centesimus annus,
số 43, xc Laborem exercens, số 8) Liên đới có mặt trong mọi lãnh
vực, nhất là trong cộng đoàn đức tin. Không liên đới, không thể thi
hành mệnh lệnh truyền giáo của Chúa và không thể chu toàn bổn phận
Kitô hữu giữa dòng đời hôm nay.
Giữa trần gian tăm tối, làm sao có thể thấy rõ
được sợi giây liên đới đó ? Có tự nhận mình tăm tối, chúng ta mới
thấy cần đến ánh sáng là Đức Kitô. Người chính là sợi giây nối kết
chúng ta. Không có Người, chúng ta không thể đạt tới “công ích
lớn lao nhất là sự hiệp thông giữa con người.” (New Catholic
Encyclopedia, 2nd Ed. tr. 302) Ngược lại, không có sự hiệp thông đó,
cộng đoàn sẽ phải hứng chịu sự thiệt hại khôn lường. Hậu quả khôn
lường đã được phơi bày qua thống kê về Giáo hội Việt Nam hiện tại.
Suốt 45 năm qua, dân số Công Giáo Việt Nam không tăng triển. Tỷ lệ
Công giáo năm 1960 là 7,17%, năm 2004 là 7,04% (theo Lm Antôn
Nguyễn Ngọc Sơn : VietCatholic 21/09/2005).
Khác với Giáo hội Đại hàn, Giáo hội Việt Nam
hầu như chỉ đón nhận thêm những thành viên mới qua con đường hôn
nhân mà thôi, chứ không qua những nỗ lực làm chứng trong việc tranh
đấu cho công bình xã hội như Giáo hội Đại Hàn. Mặc dù làm việc bác
ái rất nhiều, nhưng Giáo hội Việt Nam vẫn không tạo nổi chứng từ lôi
kéo mọi người. Lý do vì sống giữa một xã hội đầy dẫy bất công, Giáo
hội Việt Nam vẫn làm ngơ hay ngại ngùng dấn thân cho công lý. Công
lý có tiếng nói mạnh hơn bác ái cả về bản chất lẫn chiều kích. Công
lý đụng chạm tới mọi người. Trong khi đó, bác ái tùy thuộc nhiều
vào khả năng vật chất. Chính vì ngại dấn thân, thiếu hiểu biết và
thiếu tổ chức, chúng ta mới thấy đầy dẫy những bất công. Bất công
cao thành núi che khuất dung nhan Đức Kitô trong Giáo hội. Người ta
có thể không đồng ý về quan điểm hay đường lối tranh đấu. Nhưng
trước những sự kiện bất công khách quan, chúng ta cũng không
có được một tiếng nói. Đúng hơn, bất công đã được cơ chế hóa, áp
đảo cả tiếng nói của Giáo hội. Tha nhân chờ đợi một tiếng nói từ
phía chúng ta là những thành viên của Giáo hội. Nhưng đôi khi chúng ta vẫn làm ngơ! Thất bại của
chúng ta là ở chỗ đó.
Đội ngũ truyền giáo hùng hậu gồm linh mục,
chủng sinh, tu sĩ, giáo lý viên (75.353 người trong tổng số
5.776.972 tín hữu) đã làm gì để lôi kéo mọi người theo Đức Kitô ?
“Trung bình mỗi người ưu tuyển đó chưa cuốn hút được 2 người theo
đạo một năm.” (Lm Antôn Nguyễn Ngọc Sơn : VietCatholic 21/09/2005)
Sự kiện đó giải thích tại sao trong vòng nửa thế kỷ, Giáo hội Việt
Nam vẫn dậm chân tại chỗ. Có phải tại họ không được đào tạo tới nơi
tới chốn hay không sống Tin Mừng đúng mức ? Nhưng vấn đề thực sự là
họ “có biết liên đới và cộng tác với nhau để hình thành nên một sức
mạnh tổng hợp” (Lm Antôn Nguyễn Ngọc Sơn : VietCatholic 21/09/2005)
để đem tình thương và công lý đến cho mọi người hay không.
Chỉ trong vòng nửa thế kỷCàng phân tích càng
thấy vấn đề liên đới trách nhiệm quá lớn. Một chiều sâu thăm thẳm
tận trong nếp sống văn hóa, giáo dục và xã hội, chứ không thuần túy
chỉ là vấn đề đạo đức. Đạo đức không thể thay thế tất cả. Cần thực
tế hơn mới có thể giải quyết vấn đề.
TINH THẦN CỘNG ĐOÀN VIỆT NAM
Tinh thần Công giáo Việt Nam có thể hiển lộ
trong nếp sinh hoạt cộng đoàn. Sinh hoạt với nhau hằng tuần, người
Công giáo Việt nam có nhiều dịp gần gũi và chia sẻ với nhau. Trong
mối tương quan sống động đó, biết bao nhiêu công cuộc bác ái, đạo
đức, xã hội v.v. đã hoàn thành giữa hằng ngàn bàn tay ân cần và trái
tim bốc cháy. Chính vì thế, chúng ta mới được các giám mục Hoa kỳ
khen ngợi.
Thế nhưng, càng nhìn sâu vào những sinh hoạt
truyền giáo, càng thấy chúng ta dừng chân tại chỗ, nếu chưa nói tuột
dốc ? Từ trong nước đến hải ngoại, các cộng đoàn Công Giáo Việt nam
đều có nét tương tự. Những nỗ lực hầu hết còn đóng khung trong bốn
bức tường nhà thờ và còn giới hạn trong câu kinh, nghi lễ. Ngay
trong bốn bức tường nhà thờ, chúng ta cũng chưa ổn định. Cả trong
nghi lễ, chúng ta vẫn còn lơ mơ. Giáo dân đổ lỗi cho linh mục.
Linh mục quy trách cho giáo dân. Thực tế, không ai có thể đứng
ngoài nhìn vào cộng đoàn để quy trách cho người khác.
Về phía giáo dân, trách nhiệm đó không nhỏ.
Những người ý thức hơn đã gia nhập hội đoàn để góp phần xây dựng
Giáo hội. Nhưng ngay trong nội bộ hội đoàn cũng có những vấn đề.
Chẳng hạn, hội đoàn hiện diện và sinh hoạt theo thói quen, thiếu sự
phối trí chặt chẽ, liên đới và chia sẻ trách nhiệm để hoàn thành sứ
mệnh truyền giáo của Giáo hội giữa trần gian. Nhiều hội đoàn hội
họp chỉ để nghe báo cáo và kinh kệ dài dòng. Thiếu sáng kiến. Kế
hoạch hành động không theo sát những trăn trở của Giáo hội. Đó là
chưa kể đến những mâu thuẫn giữa các hội đoàn và những tiêu cực
nhiều mặt. Điều này có thể kiểm chứng qua những kết quả truyền giáo.
Từ trong nước đến các hải ngoại, đa số tân tòng đều qua con đường
hôn phối. Nếu các hội đoàn đoàn kết và được huấn luyện chu đáo hơn,
chắc chắn đã làm chứng cho Chúa mãnh liệt hơn và sẽ thấy kết quả lời
chứng đó qua con số tân tòng. Dĩ nhiên, Phúc âm hóa không đo bằng
kết quả số người nhập đạo. Nhưng cũng không thể lấy ý tưởng mơ hồ
biện minh cho sự yếu kém trong nỗ lực truyền giáo hôm nay.
Để đẩy mạnh công cuộc truyền giáo, không thể
không đề cập việc đóng góp của giáo dân. Nhiều người dị ứng đối với
tiền bạc. Thực tế, kinh nghiệm chua cay có lẽ làm cho họ tưởng
“tiền” bao giờ cũng ghép chung với “tệ” và “bạc.” Nhưng, tiền bạc
thực sự cũng là mồ hôi, nước mắt. Biết bao công trình tốt đẹp đã
được xây nên nhờ tiền bạc. Công cuộc truyền giáo và bác ái của Giáo
hội sẽ ra sao, nếu không có sự đóng góp tiền bạc của giáo dân ? Thực
tế, giáo dân Việt Nam đóng góp ra sao ?
Không ai có thể đếm được hết các nhà thờ đồ sộ
ở Việt Nam và Hải ngoại. Nếu không có tiền bạc đóng góp của giáo
dân, làm sao những công trình đó mọc lên được ? Đó là chưa kể đến
những công cuộc bác ái lớn lao và kiên trì trong các viện mồ côi,
phong cùi, bệnh viện v.v.
Thế nhưng, việc đóng góp bình thường trong các
thánh lễ thì sao ? Từ Việt Nam, qua Uc, sang tới Hoa kỳ, người giáo
dân Việt Nam gần giống nhau về mặt đóng góp tiền giỏ nhà thờ. Sau
khi quan sát và dò hỏi nhiều nơi, chúng tôi tạm đưa ra những số liệu
tạm thời như sau. Bên Việt Nam, một xứ đạo lớn, có bảy lễ cuối tuần,
tổng kết trung bình tiền đóng góp trong nhà thờ chừng hai triệu Việt
Nam, khoảng một trăm ba mươi (130) Mỹ kim. Bên Uc, tại Trung Tâm
Công giáo Sydney, một địa điểm tập trung nhiều giáo dân Việt Nam
nhất, khoảng mười hai ngàn người, số tiền đóng góp trong nhà thờ
cuối tuần chừng bốn ngàn (4.000) Uc kim. Bình quân mỗi người bỏ vào
giỏ chừng ba mươi (30) xu một tuần. Bên Hoa kỳ, một xứ đạo chừng
bốn ngàn giáo dân, mỗi tuần trung bình đóng góp khoảng năm ngàn
(5.000) Mỹ kim. Nghĩa là, khá hơn giáo dân Việt Nam ở Uc, vì mỗi
người ở Mỹ bỏ vào giỏ nhà thờ chừng hơn một đô. Nhưng so với số
tiền họ kiếm được mỗi tuần, số đóng góp đó chiếm bao nhiêu phần trăm
?
Cùng một số lượng giáo dân, giáo xứ Mỹ sẽ thu
nhập hằng tuần khác hẳn. Nếu giáo xứ Mỹ có chừng năm ngàn giáo dân,
trung bình số thu nhập phải trên hai chục ngàn (20.000) Mỹ kim. Cứ
nhìn vào giáo xứ Mỹ, chúng ta sẽ thấy họ có rất nhiều dịch vụ. Dịch
vụ nào cũng phải trả tiền. Mỗi giáo xứ phải có vài thư ký. Nếu
không thu nhập được số tiền lớn như thế, làm sao họ có thể trang
trải được ? Trong khi đó, một giáo xứ Việt Nam thuê một thư ký chưa
xong. Sức đóng góp ít, làm sao dám mở rộng hoạt động ? Một cộng
đoàn Việt Nam ở bên Uc có khoảng trên năm trăm (500) giáo dân. Giám
mục địa phận sẵn sàng tặng không một nhà thờ. Nhưng cộng đoàn không
dám nhận, vì sợ phải trả tiền bảo trì mỗi năm mất chừng vài chục
ngàn. Họ cam lòng thuê nhà thờ giáo xứ Uc. Thực tế, ăn nhờ ở đậu,
làm sao thoải mái bằng làm chủ ? Chính vì thế, khi cộng đoàn muốn
thuê hội trường để sinh hoạt cho giới trẻ, giáo xứ Uc đã từ chối
thẳng thừng. Sức đóng góp yếu quá, làm sao có thể vươn lên được ?
Tương lai giới trẻ đi về đâu ?
Có người nói, mặc dầu đóng góp hằng tuần không
cao, nhưng mỗi lần kêu gọi xây nhà thờ hay giúp người nghèo, giáo
dân Việt Nam không thua ai. Có thật như thế không ? Hãy nhìn vào
thực tế giáo xứ Mỹ. Tại một nhà thờ Mỹ tại Houston, sau khi cha xứ
kêu gọi đóng góp tu bổ nhà thờ, xây hội trường và mua đất làm chỗ
đậu xe, giáo dân đã đóng góp trên sáu triệu (6.000.000) Mỹ kim. Số
giáo dân ở đó chỉ khoảng hai ngàn (2.000) người. Tại Bắc Cali và
Los Angeles, nhà thờ chính tòa trị giá trên dưới trăm triệu Mỹ kim.
Có người nói người Mỹ giàu nên đóng góp nhiều. Không sai. Nhưng
giả sử thay vì số giáo dân Mỹ là giáo dân Việt Nam, cũng giàu có như
họ, số đóng góp có cao như thế không ? Có phải cứ giàu là đóng góp
nhiều không ?
Chẳng cần phải giàu như người Mỹ, chúng ta vẫn
có thể phát triển gấp mười lần bây giờ, nếu chúng ta lắng nghe lời
Chúa và noi gương quảng đại của người Mỹ. Trong Tin Mừng, Chúa
không lưu ý tới số tiền dâng cúng, nhưng chỉ để ý đến tấm lòng hi
sinh cao độ của bà góa. Tuy thế, Chúa không hoàn toàn bỏ qua tỷ lệ
tiền dâng cúng so với tiền bạc hiện có. Quả vậy, Chúa nói về bà góa
: “… còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình, mà bỏ vào đó
tất cả những gì bà có để sống.” (Lc 21:4) Nghĩa là, bà đã dâng cúng
một trăm phần trăm gia tài của bà. Chúa không đòi chúng ta phải hi
sinh đến độ như thế. Giáo hội Công giáo cũng không bao giờ bắt giáo
dân phải mười phần trăm lợi tức hằng năm. Nhưng chính lúc tự do như
thế, người giáo dân mới có thể thấy rõ sự thật về mình như thế nào
trong việc xây dựng Nước Chúa ở trần gian.
Hơn nữa, có người đưa ra lý do : vì Việt Nam
phải nuôi Việt Nam, nên không đóng góp được nhiều. Ai cũng biết
chúng ta còn phải gánh đỡ gánh nặng cho thân nhân còn kẹt tại quê
nhà. Nhưng thực sự đó có phải là lý do chúng ta không đóng góp hay
đóng góp quá ít không ? Cùng làm một nghề và số lương bằng nhau,
nhưng mức chi tiêu của Mỹ bao giờ cũng trội hơn Việt Nam. Người Hoa
cũng chịu chi hơn người Việt. Bằng chứng tại Houston có hai khu vực
tập trung người Việt hay Việt gốc Hoa. Miền Nam Houston phát triển
hơn vì có nhiều người Hoa. Miền Bắc Houston rất đông người Việt,
nhưng các tiệm ăn thưa thớt và không ngon bằng, vì ta sống theo
triết lý “cơm nhà quà vợ.” Khách đến thăm Houston, muốn ăn ngon,
phải xuống tận miền Nam, mới mãn nguyện.
Một lý do khác cũng có thể soi sáng vấn đề.
Xuất thân từ một xứ truyền giáo người Việt nam không có thói quen
đóng góp cao, vì Tòa Thánh đã trang trải những phí tổn cho tòa giám
mục và chủng viện. Thực ra, ngay cả các linh mục chưa chắc biết rõ
như vậy. Hơn nữa, phần lớn những đóng góp của giáo dân dành cho
việc xây dựng và phát triển giáo xứ, nghĩa là cho chính giáo dân.
Đã đến lúc phải tìm nguyên nhân sâu xa của việc
đóng góp trong chiều kích tinh thần trách nhiệm liên đới, mới có thể
thấu hiểu vấn đề. Nhưng ngay cả khi đã tìm thấy được nguyên nhân
rồi, chúng ta cũng không hi vọng có thể giải quyết vấn đề một sớm
một chiều. Vấn đề nằm sâu trong lãnh vực đức tin và văn hóa. Cần
phải đợi một thời gian rất dài … phải mất nhiều thế hệ …
ĐỨC TIN VÀ THỰC TẾ
Đức tin có một chiều kích rất thực tiễn. Càng
tin bao nhiêu, càng hi sinh bấy nhiêu. Chỉ có đức tin mới là động
lực mạnh nhất khiến chúng ta có thể “yêu mến Thiên Chúa hết lòng,
hết linh hồn, và hết trí khôn” (Mt 22:37) Có lẽ giáo dân Việt Nam
mới chỉ khai triển giới răn này dưới khía cạnh “hết lòng” mà thôi.
Nghĩa là, đạo vẫn còn vụ tình cảm. Đạo hình thức là một kiểu diễn
tả tình cảm. Chúng ta chưa có cố gắng để yêu Chúa “hết linh hồn, và
hết trí khôn.” Cứ nhìn vào các cuộc tĩnh tâm và các lớp học giáo lý
Kinh thánh và giáo lý sẽ thấy ngay. Kiến thức về đạo không cao, làm
sao yêu Thiên Chúa “hết linh hồn, và hết trí khôn” ? Một hôm gọi
điện thoại đến nhà một ông trùm để trả lời cho ông biết về vị trí
câu Tân ước ông mới hỏi, vô tình tôi gặp con gái của ông. Mặc dù là
sinh viên ngành y sắp ra trường, cô cũng không có chút hiểu biết gì
về Kinh thánh. Bằng chứng, cô trả lời tôi : “Vấn đề Kinh thánh, con
không chuyên, xin cha nói truyện với ba con.” Trời đất ! Chỉ mới
nghe về Kinh thánh, cô đã nghĩ ngay đó là lãnh vực chuyên môn dành
cho những linh mục, tu sĩ, cùng lắm là ông trùm. Chứ giáo dân tầm
thường như cô chỉ chuyên về truyện đời mà thôi. Phân biệt như thế
làm sao yêu Chúa chưa hết trí khôn ?
Chính đức tin khiến chúng ta thấy ngay mối liên
hệ giữa Thiên Chúa và người thân cận. Nhờ đó, chúng ta có thể dấn
thân phục vụ để thể hiện tình “yêu người thân cận như chính mình.”
(Mt 22:39) Đức tin còn đi xa hơn nữa khi thúc đẩy chúng ta “yêu
thương nhau như Thầy đã yêu thương chúng con.” (Ga 15:12) Đó là một
sự đóng góp lớn lao và sâu xa nhất Chúa dành cho chúng ta. Đến lượt
mình, chúng ta có dám chết vì người anh em không ? Chết là một hình
thức phục vụ cao đẹp nhất. Ngược lại, phục vụ cũng là một cách chết
cho anh em.
Nhưng chúng ta đã phục vụ tới mức nào và như
thế nào ? Giáo hội Công giáo không bao giờ bắt buộc giáo dân đóng
góp mười phần trăm lợi tức hằng năm như một số giáo hội. Trong Sáu
Điều Răn Hội thánh xưa cũng không hề đề cập tới những vấn đề đóng
góp. Ngay cả trong Sáu Điều Răn Hội thánh mới được viết lại, cũng
chỉ kêu gọi giáo dân “góp phần hỗ trợ các mục tử,” nhưng không ấn
định mức hỗ trợ bao nhiêu và như thế nào.
Tuy nhiên, khi không ấn định như thế, Giáo hội
tỏ ra tôn trọng tự do của giáo dân. Chính trong tự do, người ta mới
có thể thấy sự thành thực của lòng người và mức độ hi sinh tự đức
tin. Tất cả giá trị lớn lao đều phát xuất từ đó. Đóng góp tài
chánh là một trong những hình thức hi sinh. Tiền bạc là giá trị tạo
lập từ mồ hôi, nước mắt, thời giờ, sức lực, khả năng … của con người.
Đó là một giá trị nhân bản.
Thế nhưng, vấn đề đóng góp tài chánh không phải
là vấn đề riêng của Giáo hội Việt Nam. Vấn đề có chiều kích toàn
cầu. Nếu không, tại sao Giáo hội phải soạn lại và viết thêm khoản
trợ giúp cho các mục tử làm chi ? Tuy thế, vấn đề cũng khác nhau
trong mỗi giáo hội địa phương. Chẳng hạn, nhìn vào giáo hội Hoa kỳ,
ai cũng thấy có sự khác biệt giữa giáo xứ Mỹ và Việt Nam. Nơi cộng
đoàn Mỹ, các dịch vụ đều được trả lương, kể cả ca đoàn và người giúp
lễ. Con số người phục vụ có lương trong một giáo xứ Mỹ có khi lên
tới năm mươi (50). Ca đoàn cũng phải trả lương. Người đánh đàn nhà
thờ lãnh khoảng hai trăm Mỹ kim mỗi lần phục vụ. Đám cưới tại nhà
thờ Mỹ bao giờ phải trả gấp ba bốn lần tại nhà thờ Việt Nam.
Nếu đóng góp “tà tà” theo kiểu Việt Nam, giáo
xứ Mỹ lấy tiền đâu trả cho các người làm việc như thế ? Đóng góp
theo kiểu Việt Nam nhiều lúc không đủ để thuê một (1) thư ký làm
toàn phần cho nhà xứ. Đó là truyền thống đã có từ Việt Nam. Ơ
Việt Nam, có lẽ rất ít nhà xứ thuê thư ký lo việc sổ sách. Mọi sự
đều do cha xứ. Giúp cha xứ chỉ là một vài ông trùm chạy ra chạy vô
cuối ngày hay cuối tuần mà thôi. Nếu cứ sống đạo theo kiểu hiện tại,
Giáo hội Việt nam sẽ không nhìn thấy tương lai.
Vấn đề trở nên khẩn trương đối với Giáo hội
Việt nam. Tại sao ? Vì Giáo hội không đủ khả năng tài chánh để
thực hiện những kế hoạch truyền giáo lớn lao cho đồng bào và cho
những dân tộc láng giềng. Làm sao có thể thi hành mệnh lệnh rao
giảng Tin Mừng cho muôn dân, nếu dân Chúa không chia sẻ trách nhiệm
liên đới trong nỗ lực truyền giáo hôm nay ? Chính vì thiếu con mắt
đức tin, nhiều người không nhận ra trách nhiệm liên đới, một yếu tố
cực kỳ quan trọng và cần thiết cho sự sống còn và phát triển của
Nước Chúa ở trần gian.
Lm. Đỗ Vân Lực, OP.
Houston
dzuize@yahoo.com
|
VỀ MỤC LỤC |
|
GIÁO THUYẾT & TRUYỀN THỐNG |
Bạn nghĩ thế
nào khi có một Linh mục có tiếng tăm trong Hội Thánh quan tâm như
sau: “Giáo hội Công giáo có cả một kho tàng
về giáo thuyết và truyền thống giúp người Tín hữu sống đạo; nhưng họ
lại không giỏi mang người khác về với Chúa Kitô.”
Sau đây là 6
điều ngài chia sẻ như sau:
1- Quá khứ của chúng ta sửa soạn
tốt để trở thành các Mục tử hơn là những người bắt cá người.
2- Nghe về tên Đức Giêsu và nghe
về sứ điệp của Người trong cách thế mà có thể mang người ta lại với
Chúa là hai điều khác nhau lắm!
3- Giáo hội đã xây dựng lên một
lâu đài Tín lý mênh mông quanh vấn đề Đức Tin, nhưng sứ điệp quan
trọng căn bản nhất là: “Đức Giêsu là Chúa” thì chưa bao giờ thay đổi:
a/ Giáo
hội thường nhấn mạnh và đặt trọng tâm vào việc giáo dục người Tín
hữu về Tín điều, lý thuyết, cầu nguyện, linh đạo và luân lý.
b/ Trình
bày kho tàng Tín lý cho người thời nay, mà không đặt trọng yếu cho
họ biết Đức Giêsu là Chúa thì cũng thì cũng giống như một khối gánh
nặng trên vai các trẻ nhỏ bảo chúng vác.
4- Tại sao có những nơi trên thế
giới, nhiều người Công giáo đã bỏ đạo chạy theo các thực tại của các
phái Kitô giáo khác; bởi vì họ được lôi cuốn vào điều tuyên giảng
rất đơn thuần và hiệu lực. Đó là điều làm cho họ có sự tiếp cận trực
tiếp với Đức Giêsu, và họ cũng cảm nghiệm được quyền năng của Chúa
Thánh Thần.
5- Giáo hội cần phải nuôi dưỡng
và hướng dẫn người Tín hữu; nhưng Giáo hội cũng cần phải thấy được
nhu cầu đưa người ta tới Đức Tin trước, như sau:
a/ Chúng
ta phải rao giảng sứ điệp căn bản, thuần nhất và dễ hiểu, không
những chỉ cho các người tân tòng, mà còn cho mọi Tín hữu.
b/ Không
như các giáo phái Kitô khác, họ đặt trọng tâm lặp đi lặp lại và hầu
như chỉ chuyên chú vào việc tái sinh (born again). Giáo hội Công
giáo dạy dỗ và hướng dẫn người Tín hữu để họ trưởng thành trong Đức
Tin, và dẫn dắt họ bước qua những giây phút đau khổ đang khi đó họ
vẫn kiên trì trong Đức Tin của mình.
6- Linh mục này nói với ĐGH
Benedicto và các viên chức Giáo triều rằng: “Các vị phải hỏi mình
một câu hỏi quan trong là: “Chúa Giêsu có chỗ đứng nào trong đời
sống của tôi” còn quan trọng hơn là câu hỏi: “Chúa Giêsu có chỗ đứng
nào trong thế giới tân tiến ngày hôm
nay?”
a/ Khi người
ta có thể tuyên xưng : Chúa Giêsu là Chúa thì có nghiã là Ngài có
toàn quyền trên đời sống của tôi. Tôi không còn sống cho mình nữa,
mà cho Người đã chết và sống lại vì tôi.
b/ Hành động
tuyên xưng Đức Tin này là Lời dạy của Người và gương sáng của người
chiếu soi và thanh tẩy mọi tâm hồn.
Trên đây là
lời giảng phòng của Linh mục dòng Phanxicô, vị linh hướng của Phủ
Giáo Hoàng nói với ĐGH Benedicto và các viên chức Tòa thánh, trong
ngày tĩnh tâm cuối năm 2005 vừa qua.
Khi đọc xong
những lời của vị Linh mục trên đây, tôi
thấy
trong chúng ta dễ
có
những
thiếu sót cần sửa lại
như sau:
1/ Tôi
ít
tích cực giúp người khác, đón Đức Giêsu làm chủ đời mình, như đọc
bức tâm thư là Kinh Thánh, để lắng nghe Ngài dạy.
2/ Tôi
đã trình bày Tín lý, lý thuyết, nhưng ít
tập cho
Tín hữu
cách gặp gỡ, nói chuyện
thân mật
với Chúa
trong mọi lúc thăng trầm của cuộc sống, nên họ dễ chao
động, lo lắng, bỏ cuộc...
3/
Tôi hay để ý đến hình thức, lễ nghi long trọng bề ngoài, cái ngọn
mà thiếu cái gốc, đó đời sống nội tâm, như lời thánh Phaolô nói:
“Rõ ràng anh là bức tâm thư của Đức Kitô được giao cho chúng tôi
viết, không phải viết bằng mực đen; nhưng bằng Thần Khí của Thiên
Chúa hằng sống, không phải ghi trên những tấm bia bằng đá, nhưng
trên những tấm bia bằng thịt, tức là lòng người.” (2Cor3,3)
4/
Tôi ít giúp người khác cách nuôi sống Đức Tin như là chân lý nằm
trong cuộc sống bằng những việc làm cụ thể, nhất là trong
gia đình của họ giữa vợ, chồng, con cái, cha mẹ và các
bạn hữu, ngoài cộng đồng nữa.
5/
Tôi cần noi gương Đức Mẹ khi sinh Chúa Giêsu trong hang đá, đã
gần gũi Chúa, nghe các lời mục đồng nói: “Mẹ Maria đã
ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng.”
(Lc 2, 19), để giúp anh em gặp Đức Kitô thật sự, không
phải chỉ nghe nói về Chúa; nhưng nói với Chúa những điều
họ khao khát mong đợi.
Phó tế GB Nguyễn văn Định (Huyền
Đồng)
* johndvn@yahoo.com
|
VỀ MỤC LỤC |
|
MÙA
CHAY:
CẢM
NGHĨ VỀ VIỆC DÙNG TIỀN CỦA
“TIỀN CỦA LÀ MỘT ÔNG CHỦ XẤU NHƯNG CŨNG LÀ MỘT ĐẦY TỚ TỐT”
|
1. Người ta
thường nói rằng “Có tiền mua tiên cũng được”:
“Tiền của”
vốn là niềm ao ước của mọi người trên thế gian này, không phân biệt
đẳng cấp, học thức hay địa vị. Người ta thường quan niệm: “Hạnh
phúc có được trên đời này, ấy chính là đầy đủ vật chất lẫn tinh thần”.
Từ những hạnh phúc nhỏ như được làm cha mẹ, có một địa vị trong xã
hội, có tiền của vật chất, có tình yêu, có tình bạn.... Những sự ấy
mà có được sự kết hợp hài hòa, chắc hẳn nó sẽ cho ta một cuộc sống
hạnh phúc toàn diện.
Phải lắm, đó là những hạnh phúc
trong đời sống hằng ngày mà mỗi người chúng ta đã cố xây đắp và cố
giữ gìn, nhưng nó có bao giờ tồn tại vĩnh cửu đâu?
2. Chẳng ai
muốn xây nhà mình trên cát:
Có người nói: "Loài người
sinh ra, vốn khổ lụy cho chính những gì do bản thân mình tạo ra?"
Lại có cách nói khác tương tự: "Loài người sinh ra đồng tiền
và phải làm nô lệ cho nó".
Thuở nguyên thủy, loài người chưa
có ý niệm trao đổi vật chất, thì cũng không cần phương tiện để trao
đổi. Phát triển dần theo quy luật tự nhiên, càng văn minh loài người
càng nhiều nhu cầu đòi hỏi, nên đã thiết lập ra đồng tiền làm đơn vị
đo lường để dễ dàng trao đổi vật chất. Lúc này, đồng tiền trở thành
phương tiện trao đổi.
Thời nay, ai cũng phải kiếm tiền
để đảm bảo cho cuộc sống của mình, không có tiền thì không thể có
vật chất xung quanh, vì vật chất góp một phần lớn để củng cố cho
tinh thần. Nhưng có thể nói: "Người thông minh là người biết
sử dụng đồng tiền, chứ không phải là làm nô lệ cho nó". Kiếm
tiền và sử dụng đồng tiền là hai nghĩa hoàn toàn khác nhau. Đi buôn
ai cũng muốn lãi suất cao, làm công thì mong thù lao tỉ lệ nghịch
với công do mình sản sinh ra, và kết quả những công việc đó được đo
bằng đồng tiền. Nhưng khi có đồng tiền trong tay rồi, thì mỗi người
sử dụng nó có khác nhau. Do đó, nếu số tiền kiếm ra được mà bị thất
thoát đi, thì sự đau khổ nơi mỗi con người cũng khác nhau. Nhưng nếu
chúng ta ý thức rằng: “tiền bạc chỉ là vật nay có mai không”.
thì có lẽ ta sẽ bớt đi phần lớn khổ đau trong cuộc đời.
3. Vậy, tiền
có phải là nguyên nhân chính quyết định hạnh phúc hay khổ đau không?
Khi ta có tiền để mua được một
chiếc xe ô tô đẹp và ở trong một biệt thự rộng lớn cùng gia đình, vợ,
con… Hoặc rất vui khi xin được một việc làm hợp ý, đúng nghề, lương
cao. Cũng như khi nhìn thấy một đôi vợ chồng nào đó cùng con cái đi
trên một chiếc xe đẹp vui vẻ cười nói… Thì ta thường cho đó là hạnh
phúc và là điểm chuẩn để mơ ước và cố gắng thực hiện cho mình. Điều
đó không thể nói là sai, nhưng đó chỉ là hạnh phúc bên ngoài mà ta
thường thấy và luôn mong ước.
Nhiều khi một túp lều tranh hai
trái tim vàng trong cuộc sống yên lành của một gia đình nào đó, cũng
đủ để chúng ta mơ ước một đời. Nếu có thêm biệt thự thì tất nhiên
hạnh phúc từ gốc vẫn không mất. Nhưng vật chất đều có sinh có diệt (vật
chất không vĩnh cửu) hôm nay ở trong biệt thự, ngày mai vẫn có thể
lại ở trong túp lều tranh. Dù thế nào đi chăng nữa, hạnh phúc vẫn
không mất nếu trong ta vẫn muốn giữ, muốn xây, nhưng rất cần sự củng
cố về tinh thần.
4. Tinh thần
quyết định tất cả:
Để tạo dựng cho mình ý thức đó,
thì đòi hỏi nơi ta một quá trình học hỏi và luyện tập, tất nhiên
không thể thiếu tác động giáo dục của gia đình và xã hội từ thuở ấu
thơ. Vậy, tạo cho mình một hạnh phúc vĩnh cửu là một điều rất khó,
nhưng tất cả đều từ tâm mà ra. Trong cuộc đời “mất và được” luôn là
lẽ tất nhiên, hôm nay không còn nữa cái mình nâng niu hôm qua và
chắc chắn là sẽ có nuối tiếc; nhưng mỗi người có một tình cảm khác
nhau và cũng có một bản lĩnh khác nhau, nên mức độ nuối tiếc cũng
khác nhau, và vì thế mà khổ đau nơi mỗi người cũng không thể giống
nhau.
Thánh Phaolô đã từng có kinh
nghiệm này khi viết thư gởi cho cộng sự viên của mình: “Thật
thế, cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc, vì buông
theo lòng ham muốn đó, nhiều người đã lạc xa đức tin và chuốc lấy
bao nỗi đớn đau xâu xé” (ITi 6,10).
5. Ăn mày có
thể là ta?
Khi cuộc đời thành đạt và ta dùng
công sức giúp đời thì tiếng thơm sẽ vang vọng, nhưng biết làm sao
nếu sau này điều ta làm hôm nay lại là sai. Đâu có gì bền vững với
thời gian. Dù có công sức, có trí, có tài được làm quan chẳng hạn;
nhưng “Quan nhất thời, dân vạn đại”. Hiểu được như vậy,
thì ta không còn dùng quyền lực để ức hiếp dân lành để mai này tạo
nghiệp xấu cho mình và hậu thế. Vậy, nếu khi đời đã trao trách nhiệm
cho ta tạo dựng Non sông Đất nước, Giáo hội hay Nhân loại thì tất
nhiên ta không thể chối từ. Vận mệnh Đất nước, Giáo hội hay Nhân
loại không cho phép ta chỉ nghĩ về mình nữa mà phải nghĩa đến hạnh
phúc của cả dân tộc, dân thánh và muôn người. Nhưng đến một ngày nào
đó, tự tâm ta lại cho mình quyền được hưởng lộc, vinh hoa, phú quí
của giang sơn và nói rằng do công sức mình đã từng tạo dựng. Thì
than ôi !!!
Ai có thể biết được: “Hôm
nay làm vua mai thua làm giặc” như lịch sử đã từng chứng
minh, khi quyền lực trong tay đã hết, còn bị kẻ thắng cuộc truy lùng,
sát hại, thì biết trách ai đây? Nếu hiểu rõ thực tế đó theo thuyết "nhân
quả" thì mấy ai còn thấy khổ đau, và sẽ không giành giật,
không vụ lợi, vì ý thức rằng: "nhân nào thì sinh ra quả ấy".
Nếu mỗi người chúng ta đều biết ý
thức hành động của mình “phân đúng, phân sai” rõ ràng
thì thiết nghĩ trong tương lai chắc bớt khổ đau và tạo dựng hạnh
phúc vững hơn.
Có người cả cuộc đời được an
hưởng hạnh phúc, bởi sống trong nhung lụa, hạnh phúc nhiều hơn khổ
đau, vui nhiều hơn buồn mà tự quả quyết đời tôi là vậy, thì thật
không rõ có khi nào họ nghĩ rằng: “ăn mày có thể là ta, đói
cơm rách ái hóa ra ăn mày”. Còn những ai đã có quá khứ hạnh
phúc, nay lại tạo dựng thêm những nhân tốt, nhân mới, bằng lòng hảo
tâm thì trong tương lai chắc chắn sẽ vẫn được hưởng quả do nhân tạo
ra.
Lời Chúa trong Kinh Thánh dạy
rằng: “Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người
sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn, mà đổ
vào vạt áo anh em. Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ
đong lại cho anh em bằng đấu ấy" (Lc 6,38). Quả thật, với
việc lành ta làm cho người khác mà được Thiên Chúa trả đáp hậu đãi
như vậy; nhưng với việc dữ ta gây ra cho người khác, thì thử hỏi:
khi Thiên Chúa đong lại cái đấu của Ngài thì nào có ai đỡ nổi đấu ấy.
6. Người khôn
dùng tiền bạc để mua nhân nghĩa:
Trong Kinh Thánh, Lời Chúa Giêsu
dạy rằng: "Thầy bảo cho anh em biết: hãy dùng tiền của bất
chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước
anh em vào nơi ở vĩnh cửu” (Lu 16,9).
Tình bạn bao đời vẫn là tri âm
tri kỷ, có ai muốn mất bạn bao giờ; nhưng đôi khi vì danh vọng mà
nhiều khi bán đứt bạn bè. Một người bạn đã từng cùng ý chí xây dựng
cuộc đời, trao tâm sự của mình cho nhau đến mức cả cái “bí mật cũng
bật mí”, ấy thế mà giận nhau nó lại nói chuyện mình cho đời, hỏi có
giận bạn không?
Nói thì nói vậy, nhưng chẳng lẽ
trên đời này ta không có bạn? Ta thường trách bạn nhiều hơn là phải
nghĩ làm gì cho bạn, để rồi người không vừa lòng thì ta giận, còn ta
không vừa lòng thì ta phản. Còn khi trong ta có lòng cảm thông và vị
tha, thì chắc chắn ta không bao giờ mất bạn, mà dẫu có thể mất bạn
đi chăng nữa, có chăng cũng chỉ mất một người vì không thể mất trái
tim này cho đời. Gạt bỏ trong mình lòng ganh tị, mặc cảm tự ti, trọn
tâm này ta trao cho bạn, thì cũng có ngày người hiểu ta. Để rồi mà
có những thời gian ngồi thưởng thức cùng bạn mình ly rượu tri kỷ
chẳng hề say: “Say rượu, hết say rồi lại tỉnh. Say tình, tỉnh
rồi vẫn còn say”. Hay dẫu có say, thì đó chính là những giọt
say tình, chẳng bao giờ phôi phai.
7. Đừng đánh
mất chính mình:
Thấy người đời làm lên sự nghiệp,
có công danh, tiền bạc, chức vị… Nhìn lại mình thật đen đủi, hẩm hiu
vì mình có thành đạt gì đâu.
Ngày trước “thằng ấy”, nó có hơn
mình cái gì đâu, thậm chí còn kém nữa đàng khác, bây giờ nó đã là
vương là tướng một vùng… So sánh như vậy chỉ dẫn đến bi quan, ích kỷ
mà thôi, hhông thể so sánh trong cuộc sống với nhau như thế được, vì
cuộc đời này mỗi người có một thế mạnh, nào ai biết hết được mọi
điều, vì “nhân vô thập toàn” mà.
Khi gặp hoạn nạn cô đơn buồn tẻ,
ta thường hay nhớ tới tuổi ấu thơ, luyến tiếc một quãng đời tươi đẹp
đã qua. Nhớ lại quá khứ thấy tràn đầy hạnh phúc, nhìn vào hiện tại
khổ đau! Có lẽ ta kêu lên tiếng trách trời?
Đừng trách trời như thế, hãy học
lấy tinh thần của thánh Phaolô: “Phần tôi, tôi rất vui lòng
tiêu phí tiền của, và tiêu phí cả sức lực lẫn con người của tôi vì
linh hồn anh em” (IICr 12,15).
Trước mắt ta, là cả một ngày mai,
dù không hiểu rằng điều gì sẽ xảy ra; nhưng ta vẫn luôn có cả một
tiền đồ trước mặt, có cả một cuộc tranh đấu để tự khẳng định mình.
Ta sẽ có thể được tất cả, hoặc có ít thôi, thậm chí không có gì!
Điều này tương lai sẽ trả lời. Nhưng sau này ta vẫn có thể có, những
cái không phải là tiền bạc cũng không phải là danh vọng, nhưng đó
chính là “niềm tin”.
Vậy. Để đem lại cho mình một quan
niệm sống đúng nghĩa, giảm bớt khổ đau. Ta luôn nhớ rằng: Cuộc đời
này luôn có một phạm trù tương phản và tồn tại: Tiền bạc - Bần hàn;
Danh vọng - Lầm than; Tình bạn - Kẻ thù; Hạnh phúc - Khổ đau… Những
cặp phạm trù ấy luôn luôn đi đôi với nhau, và có thể đổi chỗ cho
nhau. Nhưng dù ta có đạt được tất cả hoặc ta mất tất cả, nên nhớ
rằng: “Đừng đánh mất chính mình”.
8. Nhận định,
thay lời kết:
Ngày hôm nay, người ta chỉ quan
tâm đến việc kiếm tiền sao cho thật nhiều. Vì, theo quan điểm khách
quan về mặt vật chất, thì tiền cần thiết cho cuộc sống. Làm sao
chúng ta có thể mua thức ăn, đồ dùng, hàng hóa và nhiều thứ khác cho
nhu cầu cuộc sống hàng ngày mà không có đồng tiền nào?
Để có tiền chúng ta phải chịu khó
lao động, sản xuất thật nhiều để thu nhận được nhiều tiền của. Một
khi đã có càng nhiều tiền, thì cuộc sống càng nhiều tiện nghi. Đối
với người trí thức, tiền là thứ ưu tiên cho họ cải thiện kiến thức,
tiền giúp họ mua sách báo, thiết bị học tập, nguyên liệu nghiên cứu…v,v.
Đây là phương thức lao động chân chính.
Tuy nhiên cũng không ít người
kiếm tiền bằng những hành vi bất chính… điều này chắc chắn sẽ dẫn
đến một đời sống bất ổn và tâm hồn cũng sẽ bất an.
Tiền thì cần thiết cho cuộc sống
vật chất cũng như kiến thức của chúng ta. Thực vậy, nó không phải là
thứ duy nhất mà chúng ta quan tâm đến trong thời đại hôm nay.
Cuộc sống sẽ tồi tệ nếu chúng ta
lãng phí tất cả thời giờ cho chúng! Kiếm được nhiều tiền hơn, chúng
ta cần phải biết làm sao để sử dụng nó cho đúng mức. Chúng ta cần
phải xem nó như người đầy tớ và không bao giờ để cho nó làm chủ
chúng ta.
Với tiền mà chúng ta kiếm được,
chúng ta phải tằn tiện để chia sẻ cho những công việc phúc lợi và tổ
chức từ thiện. Danh ngôn Tây Phương có câu: “Người có hạnh
phúc thực sự chính là người biết quan tâm đến hạnh phúc của người
khác”. Chính vì thế mà đã có những tổ chức trên thế giới
càng ngày càng tình nguyện tài trợ hay giúp đỡ các nước nghèo và
người nghèo ở khắp nơi mà không cần trả đáp. Cũng có những thanh
niên tình nguyện sẵn sàng bỏ công bỏ của, sẵn sàng đi bất cứ nơi đâu
để giúp đỡ người nghèo khó và túng thiếu. Có phải do tiền mà họ làm
được như vật không? Câu trả lời tuyệt đối là “không”. Bởi vì: tiền
không phải là tất cả. Như một số kinh nghiệm từng nói dưới đây:
- Tiền có thể mua được nhà, nhưng
không mua được tổ ấm.
- Tiền có thể mua được giường,
nhưng không mua được giấc ngủ ngon.
- Tiền có thể mua được lịch,
nhưng không mua được thời giờ.
- Tiền có thể mua được sách vở,
nhưng không mua được kiến thức.
- Tiền có thể mua được thực phẩm,
nhưng không mua được sự ngon miệng.
- Tiền có thể mua được địa vị,
nhưng không mua được sự kính trọng.
- Tiền có thể mua được máu, nhưng
không mua được sự sống.
- Tiền có thể mua được thuốc chữa
bệnh, nhưng không mua được sức khỏe.
- Tiền có thể mua được tình dục,
nhưng không mua được tình yêu.
- Tiền có thể mua được bảo hiểm,
nhưng không mua được sự an toàn.
Và như bạn biết đấy, tiền bạc
cuối cùng vẫn chỉ là phù du, chẳng có nghĩa lý gì hết nếu ta không
biết sử dụng nó.
Vì chưng: "Chúng ta không
thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được" (x.
Lc 16,13; Mt 6,24).
JB. BÙI
NGỌC ĐIỆP
|
VỀ MỤC LỤC |
|
ÍT SUY TƯ VỀ
TÍNH ĐẶC THÙ CỦA CƠ QUAN
BÁC ÁI CARITAS CỦA GIÁO HỘI
(Dưới ánh sáng
Thông Điệp “THIÊN CHÚA LÀ TÌNH YÊU” của Đức Benedicto XVI)
|
Bài này
viết không có mục đích bình luận Thông điệp “Thiên Chúa là Tình
Yêu” (Deus Caritas est) của Đức Benedicto XVI. Việc này chắc
phải dành cho các đấng thẩm quyền cao và chính Đức thánh cha
cũng đã cắt nghĩa rõ ràng trong thông điệp của ngài. Ở đây,
chúng tôi chỉ muốn nêu lên một vài suy tư chính, có tính cách
lịch sử mà Đức Thánh Cha đã nói đến trong thông điệp đầu tiên
của ngài: Cơ quan Bác Ái CARITAS hoàn vũ.
Đây là một
tổ chức công giáo thời đại, trong đó tất cả các hoạt động xã hội
và bác ái đều được thực hiện với danh nghĩa Giáo Hội hoàn vũ.
Các tổ chức này trải rộng trên một địa bàn từ cấp giáo phận đến
giáo xứ, hiện diện trên hơn 200 quốc gia và nhiều nơi khác trên
khắp thế giới.
Trong Thông
điệp về TÌNH YÊU rất quan trọng này, Đức Benedicto XVI đã cắt
nghĩa một cách rất sâu sắc cho chúng ta hiểu thế nào là Tình Yêu
đích thực. Chúng ta là người Kito hữu cũng như các tổ chức bác
ái phải thi hành các công tác bác ái xã hội để hoàn thành xứ
mạng “lan truyền, chia sẻ Tình yêu
và Công Lý xã hội trên khắp thế giới”.
TìNH YÊU KITO GIÁO: Cốt lõi của niềm tin
Đây là thông
điệp đầu tiên của Đức Thánh Cha Benedicto XVI nói về Tình yêu
Kitô giáo. Đối với người tín hữu Kito giáo, “Tình yêu là cốt
lõi của Niềm Tin”. Nó có tầm quan trọng đặc biệt nên Đức
Thánh Cha đã mở đầu thông điệp của ngài bằng lời thánh Gioan:“Chúa
là Tình Yêu, và ai ở trong Tình Yêu, kẻ đó ở trong Chúa, và Chúa
ở lại với họ” để rồi cũng trong ý thánh Gioan, ngài nhắc lại
cho chúng ta: “Chúng tôi đã nhận ra Tình Yêu Thiên Chúa gởi
đến cho chúng tôi và chúng tôi đã tin vào Tình Yêu đó” Ga 4,
16) (1). Ngài mở ra cho chúng ta một viễn tượng về Giáo Hội,
một hành trình công tác mà thánh Phêro xưa kia đã đáp lại lời
Chúa gọi “Hãy ra khơi – Duc in altum, mar adentro” mở đầu cho
thiên niên kỷ mới này. Ngài cũng cho chúng ta thấy: “Trên thế
giới thỉnh thoảng người ta vẫn liên đới tên Chúa với việc trả
thù và ngay cả dùng tên Ngài để kêu gào thù hận và bạo
lực” và do đó “sứ điệp này thật hợp thời và thực tế”
(1). Vì vậy ngài đưa ra cho chúng ta một đường hướng, một
công thức để chúng ta thi hành: “Tất cả
chúng ta đã được Chúa thương yêu một cách nhưng không thì chúng
ta cũng phải chia sẻ tình yêu đó cho tha nhân”.
Với một suy
tư rất thâm trầm nhưng đơn giản và rõ ràng, rất cơ bản nhưng
không cầu kỳ khó hiểu, ngài đã cho chúng ta thấy Tình Yêu Thiên
Chúa và Tình yêu loài người là hai thứ tình yêu thánh và trần
tục nhưng luôn liên quyện với nhau trong cùng một tư duy và hình
thái độc nhất. Từ đó ngài vẽ ra cho chúng ta, cho Giáo Hội một
con đường, một công thức cụ thể để chúng ta noi theo. Đó là tác
động Thiên Chúa yêu thương ta và chúng ta yêu mến Chúa phải đựợc
thể hiện qua hành động rao giảng lời Chúa, cử hành các phép bí
tích và thực thi nhiệm vụ bác ái: Bác ái giữa người này với
người kia, giữa các bạn hữu với nhau, giữa các hội viên / đoàn
viên với nhau cũng như giữa các tổ chức / hội đoàn với nhau,
giữa quốc gia này với quốc gia nọ.
Rõ ràng đức
thánh cha đã muốn mọi ngừơi ôn lại lời hứa và quyết tâm đáp trả
lại tình yêu Thiên Chúa đã được Chúa ban cho loài người một cách
bí nhiệm và nhưng không qua Đức Kito. Yêu Chúa và thương người
là hai thứ tình yêu có liên hệ mật thiết không thể tách rời, bởi
lẽ nó liên đới với chính Chúa Kito là Thiên Chúa thực và là
người thực sự. Thực vậy “ Nếu nói rằng tôi yêu Chúa nhưng tôi
ngoảnh mặt đi hoặc ghét bỏ tha nhân hay không nhận ra “bạn mình
/ tha nhân” nơi những người anh em khác là tôi nói dối” (Ga 4,
20). Do đó, chúng ta phải luôn luôn đối sử và làm tất cả mọi
điều tốt lành cho tha nhân, cho mọi người gần cũng như xa với
con mắt và tấm lòng người Samaritano nhân hậu qua biểu tượng Đức
Kito là đấng đã xuống trần, thương yêu đến chết để cứu chuộc
chính chúng ta.
Tình yêu
Thiên Chúa và yêu Chúa phải được thể hiện qua hành động yêu mến
tha nhân. Đây là căn bản cốt lõi của giáo lý Giáo Hội, là viễn
tượng và hướng dẫn duy nhất cho toàn thể cộng đồng Giáo Hội. Nó
cũng là bổn phận của mỗi một tín hữu Kito giáo, có nhiệm vụ thực
thi bác ái biểu hiện qua tình yêu Chúa ba ngôi để Chúa kết hợp
chúng ta lại với Chúa cho đến khi Chúa ớ trong tất cả chúng ta.
Không thể có Giáo Hội thực sự nếu không có loan truyền lời Chúa,
cử hành bí tích và chứng nhân bác ái qua các cơ quan / hội đoàn.
Những nhiệm vụ này luôn luôn đi song hành, không thể tách biệt.
Có vậy mới tạo được cộng đồng Giáo Hội tình yêu, một dấu chỉ rõ
ràng Thiên Chúa yêu thương nhân loại.
Thực hành sứ
vụ bác ái theo như thông điệp của Đức Benedicto XVI là chúng ta
đã làm sống lại cơ chế của Giáo Hội sơ khai mà các thánh tông đồ
đã ý thức được và thực hiện: “.…Tất cả những ai đã trở thành
tín hữu hợp thành một cộng đoàn và cùng có chung mọi thứ. Họ bán
của cải tài sản và chia cho mỗi người tùy theo nhu cầu cá nhân”
(Cv2,44-45) (20). Cộng đoàn như vậy không còn cách biệt kẻ
giàu ngừơi nghèo vì tất cả mọi người đều có chung của cải. Họ
sống chung với nhau, “tuân giữ lời các tông đồ dạy”, xây
dựng “cộng đoàn” (koinonia), giữ việc “bẻ bánh”
và “cầu nguyện” (Cv 2, 42). Ngày nay với đà phát triển
và biến đổi của thế giới, Giáo Hội không thể là những cộng đoàn
được thực hành một cách sát nghĩa như vậy được . Nhưng Giáo Hội
vẫn phải giữ tinh thần của một Giáo Hội cộng đồng như xưa. “Tất
cả các tổ chức bác ái của giáo Hội, từ cấp nhỏ bé nhất ở
cấp giáo xứ đến giáo phận, quốc gia cho đến hoàn vũ đều phải làm
tất cả mọi sự trong khả năng của mình hầu cung ứng những nhu cầu
thiết yếu trong những trường hợp cấp bách đặc biệt cho những
người cùng khổ theo gương người Samaritano nhân hậu và tinh thần
bác ái Kito…để không thể để xẩy ra tình trạng nghèo đói
đến nỗi có người không sống được đúng phẩm giá vì quá thiếu thốn”.
Ngày 18 tháng
1 năm 2006, sau khi tuyên bố tông huấn đầu tiên “Thiên Chúa là
Tình yêu” / Deus Caritas est, trong một tóm lược vắn gọn về
thông điệp của ngài, Đức Benedicto XVI đã đề cập đến những tổ
chức / hội đoàn bác ái Caritas của Giáo Hội.
“….Riêng
tôi, tôi cũng cố gắng chứng tỏ cho anh chị em rằng chính hành
động Chúa thương yêu chúng ta là một tác động tình yêu duy nhất.
Tình thương này cũng phải đựơc thể hiện như là một sứ vụ của
Giáo Hội và của các tổ chức của Giáo Hội. Nếu thực sự Giáo Hội
là biểu hiện của tình yêu Thiên Chúa đã ban cho loài người thì
đó chính thực là nền tảng của niềm tin đã tạo thành Giáo Hội và
liên kết chúng ta lại với Giáo Hội để chúng ta hy vọng có được
đời sống vĩnh cửu và sự hiện diện của Thiên Chúa ở trần thế này.
Tất cả những tác động đó tạo thành sứ vụ của Giáo hội.”
Trong thực tế,
Giáo Hội cũng phải thực hiện tình yêu của mình như là sứ vụ “Tình
yêu Giáo Hội”, sứ vụ “Tình yêu cộng đồng và cộng
đoàn”. “Khi đã hiểu và ý thức được như
vậy về tính đặc thù của Tình yêu bác ái của Giáo
Hội, thì cơ quan bác ái Caritas của Giáo Hội không đơn thuần
giống như những tổ chức từ thiện thường tình khác. Nó nhất thiết
phải là chứng tá tình yêu tinh tuyền, sâu thẳm nhất của Chúa đã
tạo dựng nên chúng ta, đánh động tâm can chúng ta và thúc đẩy
chúng ta yêu người, phản ảnh Tình yêu Thiên Chúa nơi con người.”
Để biểu lộ
tình yêu Thiên Chúa, Giáo Hội -như một tổ chức- có bổn phận yêu
thương qua việc “rao giảng lời Chúa”, “cử hành các bí
tích” và “thực hành bác ái”.
Do thành tích
thực hành bác ái, đức cố giáo hoàng Gioan Phaolo II đã công khai
chính thức công nhận cơ quan Caritas hoàn vũ. Như vậy là với tư
cách tổ chức bác ái Caritas hoàn vũ, tất cả các cơ quan dưới
danh nghĩa Giáo hội, đã thực hành những công tác bác ái một cách
bền bỉ ở khắp mọi nơi cùng với việc thờ phượng và rao truyền Tin
Mừng Chúa mà giáo hội tuyên xưng.
Cơ quan
Caritas là một tổ chức thời đại, một trong ba nhiệm vụ cơ bản
của giáo hội. Giáo hội không còn một chọn lựa nào khác, bởi lẽ
không thể có một cộng đồng hội thánh được tổ chức bằng Lời Chúa
và việc phụng thờ Thiên Chúa mà lại không bao hàm chiều kích sứ
vụ thứ ba này của Hội Thánh là công tác bác ái, chứng nhân cho
Tin Mừng đã được Đức Kitô hoàn thành trong lịch sử và cho đến
ngày tận thế. Theo như thông điệp Thiên Chúa là Tình yêu của Đức
Benedicto XVI thì cơ quan Caritas là một tổ chức của Giáo Hội
hoàn vũ có nhiệm vụ thi hành một trong ba sứ vụ của Giáo Hội là
làm chứng Lời Chúa qua việc làm, tuyên xưng đức tin và cử hành
phụng vụ.
Các nguyên
tắc và luật lệ của tổ chức Bác ái đã được Đức thánh cha phê
chuẩn với những căn tính của cơ quan khi thi hành công tác sứ vụ
“nhân danh Giáo Hội”: Không kỳ thị phân biệt phe phái,
không hạn chế, không biên cương. Do đó mỗi khi nhân viên của
tổ chức Caritas của Giáo Hội phẩm trật làm công tác thi hành sứ
vụ bác ái theo đúng tinh thần của tổ chức là họ đã rao giảng Tin
Mừng Chúa.
Tổ chức bác
ái Caritas hoàn vũ là dấu hiệu đích thực của Niềm Tin Kito Giáo:
Tình yêu Chúa Kito đã kích động Giáo Hội thực hiện
tình yêu Thiên Chúa.
LÀM CÔNG TÁC
BÁC ÁI TỨC LÀ RAO TRUYỀN PHÚC ÂM KHÔNG CẦN LỜI NÓI
Căn tính của
cơ quan bác ái Caritas chính là tinh thần Chúa Kito, nghĩa là
mọi việc làm, cử chỉ, lời nói, hành động đều noi gương ngài. Tận
hiến, Phục vụ và cộng đoàn/chia sẻ để thần khí làm sống lại và
thúc đẩy việc làm, soi sáng và khuyến khích mọi người thực thi
sứ vụ đúng đường lối căn tính đặc thù của tổ chức Caritas trên
toàn thế giới.
Để được như
vậy, tất cả mọi người khi thi hành nhiệm vụ, không được để tinh
thần bác ái Kito giáo giảm mất bản chất của nó mà Đức Benedicto
XVI đã vạch ra rõ ràng trong thông điệp TÌNH YÊU của ngài:
Ngoài khả năng
nghiệp vụ chuyên môn, nhân viên bác ái cần có “con tim”,
“tình người”. Họ phải được dẫn đến gặp Chúa trong
Đức Kito để Ngài đánh thức tình yêu trong họ và mở lòng họ ra
cho tha nhân.
Hành động bác ái
phải độc lập với chính đảng và cương lĩnh ý hệ. Cương lĩnh của
người Kito hữu -cương lĩnh ngừơi Samaritano nhân hậu, cương
lĩnh của Đức Kito- là “trái tim mở rộng nhìn “ để
thấy đâu cần tình yêu là hành động.
Công tác bác ái
không được dùng làm phương tiện mà ngày nay người ta gọi là “chủ
trương cải tạo”. Tình yêu là “hiến dâng nhưng không”,
nó không được dùng để đạt những “hậu ý khác”. Tuy nhiên,
như vậy không có nghĩa là ta gạt bỏ Chúa và Đức Kito ra ngoài
khi làm việc bác ái…..Cũng không bao giờ nên tìm cách đẩy người
khác vào đạo khi làm việc bác ái. Tình yêu tinh tuyền và không
hậu ý sẽ là chứng tá hay nhất về Chúa. Người là đấng yêu ta và
thúc đẩy ta yêu. Người Kito hữu biết lúc nào nên nói về Chúa, và
lúc nào nên im lặng để cho tình yêu nói thay. Họ nhận biết Chúa
là Tình Yêu và nơi nào ta thực thi tình yêu tinh tuyền, ở đấy
Ngài sẽ xuất hiện.
KẾT LUẬN:
Để kết luận
ta nên giữ nằm lòng lời giáo huấn trong thông điệp “Thiên Chúa
là Tình yêu” của Đức Benedicto XVI:
Không thể có một cộng đồng giáo hội trong một Giáo Hội phổ quát
mà trong đó không có tổ chức để thực hành sứ vụ bác ái. Do đó
không một thành viên tín hữu nào lại có thể cảm thấy mình bị lạc
lõng trong những tổ chức bác ái của cộng đoàn mà họ là thành
phần trong giáo hội hoàn vũ phổ quát và hiệp nhất, một cộng đồng
Kito giáo thực sự trong mạng lưới hiệp thông để cùng nhau làm
việc thiện.
Pace Island,
Florida. March 2, 2006
Bác Sĩ Nguyễn
Tiến Cảnh
|
VỀ MỤC LỤC |
|
Giấc Ngủ Trưa |
Câu
Chuyện Thầy Lang
Bác sĩ
Nguyễn Ý-Ðức
Giấc Ngủ Trưa
“Trưa mùa hè, trời
nắng chang chang, gió im phăng phắc. Trong nhà, ngoài ngõ,
vắng vẻ, tĩnh mịch. Ở một chái bên, bà ôm cháu vào lòng. Hai
bà cháu nằm trên cái võng, đưa đi đưa lại, tiếng kêu kẽo cà
kẽo kẹt, theo một điệu.
Bà cất tiếng hát, bà
ru:
“Cái ngủ mày ngủ cho
lâu
Mẹ mày đi cấy ruộng
sâu chưa về”.
Cháu nghe êm tai, ra
chừng thiu thiu ngủ, mà bà cũng ra dáng lim dim hai con mắt.
“Ừ, cái ngủ mày ngủ
cho say,
Mẹ mày vất vả chân tay
tối ngày”(1)
Đọc đoạn văn xưa trên nửa
thế kỷ, người viết rút ra được hai bài học Giáo Khoa Thư :
Tình gia đình, tình bà
cháu của nguời Việt ta. Ông bà trông nom cháu cho các con
tần tảo kiếm gạo nuôi gia đình. Người Già Việt Nam sao mà hy
sinh, sao mà hữu dụng!
Bài học thứ hai là về sức
khỏe, về giấc ngủ ban trưa, mà người viết muốn có ít lời ghi
lại...
Ngủ trưa vẫn là một thói
quen của mọi sinh vật trên trái đất từ nhiều ngàn năm và căn
cứ trên lẽ phải thông thường thực tế từ kinh nghiệm sống.
Một chuyên viên về giấc
ngủ, tiến sĩ Gregg Jacobs, có ý kiến như sau: “Ich lợi của
giấc ngủ giữa ngày đã được nhiều người để tâm nghiên cứu và
khoa học xác nhận. Chúng ta hy vọng là vào một thời điểm nào
đó, viên chức công tư sở có thể làm mươi phút ngủ trưa thay
vì mươi phút giải lao”.
Cố Thủ Tướng Anh Quốc
Winston Churchill thú nhận có một tật xấu là sau mỗi bữa ăn
trưa ông phải ngủ nửa tiếng, nhưng sau đó ông làm việc rất
có hiệu quả. Theo ông Thủ Tướng ghiền cigars : “ Tạo hóa
không có ý bắt loài người phải lao động từ tám giờ sáng tới
nửa đêm mà không có một thời gian ngắn thư giãn. Dù chỉ hai
chục phút thôi cũng đủ tái tạo tất cả sinh lực trong người”.
Khi còn bé, con trẻ rất
ham chơi, lén lén ra vườn nghịch ngợm, bỏ ngủ trưa. Ông bà
thường canh chừng bắt các cháu phải lên giường ngủ. Tai các
lớp mẫu giáo, trẻ em cũng được dành nửa giờ sau khi ăn để
nhắm mắt ngủ. Ngay cả con trâu con bò, sau một ngày vất vả
phụ người cầy bừa ruộng, cũng nằm dưới gốc tre, lim dim cặp
mắt, để lấy sức kéo cầy buổi chiều
Cái lệ ngủ trưa được
nhiều quốc gia, nhất là ở vùng nhiệt đới, vẫn còn áp dụng.
Việt Nam ta khi xưa thì
từ các thầy thông thầy phán tới thứ dân, lao động đều làm
một giấc ngủ trưa trong cả bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông. Chỉ
có một số quốc gia kỹ nghệ tiến bộ, để tiết kiệm thời giờ,
người ta làm việc một lèo từ sáng đến chiều, với nửa giờ ăn
trưa, vài phút giải lao uống cà phê, hút thuốc. Mà giờ ăn
trưa lại được dùng vào việc chạy đi mua đồ bán sale, còn mệt
hơn.
Vì thế Tiến sĩ Antonia
Will bình luận về giờ giấc làm việc này như sau: “Hệ thống
giờ giấc làm việc hiện đại được thành hình mà không để ý tới
nhu cầu thực tế của cơ thể. Người ta chỉ nghĩ tới giải lao
uống cà phê mà không nghĩ tới thư giãn nhắm mắt; chỉ nghĩ
tới sự kích thích nhân tạo chứ không đếm xỉa tới sự phục hồi
sức khỏe tự nhiên. Ðây là một lỗi lầm rất lớn”.
Gerald Celente, Giám Ðốc
một tổ chức nghiên cứu sinh học ở Nữu Ước cho rằng con người
cần một chút thời gian để nạp lại bình điện và hài hòa tâm
trí.
Theo bác sĩ Jesse Hanley
thì con người cần một nghỉ ngơi sau buổi trưa, vì vào thời
điểm đó đa số đều cạn sinh lực. Nang thượng thận vào giữa
trưa không còn sản xuất được đủ kích thích tố cần thiết cho
các chức năng của cơ thể. Nếu không nghỉ, con người sẽ cảm
thấy lo lắng, bồn chồn, phải đi kiếm cái gì để kích thích
như uống ly cà phê, chai nước ngọt. Nhưng chỉ với mươi mười
lăm phút ngủ là nang thượng thận hoạt động lại bình thường
ngay.
Tuy nhiên, do thói quen,
có người cảm thấy bối rối, ngượng ngùng khi nói ra là mình
muốn ngủ trưa. Có người lại sợ sau khi chợp mắt tỉnh dậy thì
lờ đờ, không làm việc được.
Ích lợi
ngủ giữa ngày
Về sinh học, khi làm việc
liên tục không có lúc nghỉ thì cơ thể sẽ tích tụ những mệt
mỏi.
Và sự gắng sức không
những làm tiêu hao sinh lực mà còn tạo ra nhiều hóa chất cặn
bã và chất độc làm tê liệt thần kinh. Hậu quả này chỉ được
giải trừ bằng sự ngủ.
Kinh nghiệm cho thấy với
sự mệt mỏi vừa phải chỉ cần một thời gian ngắn để lấy lại
sức nhưng nếu mệt mỏi nhiều hơn thì thời gian phục hồi phải
gấp đôi. Làm việc tới kiệt sức cũng khiến nang thượng thận
suy nhược vì phải liên tục sản xuất kích thích tố để đối phó.
Bình thường, nang này hoạt động mạnh vào buổi sáng sớm, tăng
dần cho tới trưa, rồi giảm dần cho tới mức thấp nhất vào
khoảng thời gian từ 3 tới 5 giờ chiều.
Một kiến trúc sư có tiếng
người Mỹ, ông Buckminster Fuller, đã áp dụng phương thức cứ
sau ba giờ làm việc thì ngủ nửa tiếng, ngày cũng như đêm.
Ông ta cho biết là trong người rất tỉnh táo, hiệu năng làm
việc tăng rất cao và sau mấy tháng, đi khám sức khỏe thấy
kết quả mọi thứ đều tốt.
Theo kinh nghiệm của
nhiều người, ngủ trưa khiến họ trở nên tinh nhanh, linh lợi
hơn và có thể giải quyết được nhiều việc tế nhị, rắc rối.
William Anthony, tác giả
sách Nghệ Thuật Ngủ Trưa Tại Sở The Art of Napping at Work,
cho hay một chút ngủ nghỉ nơi làm việc là phương thức rẻ
tiền và tự nhiên nhất để tăng sản xuất của nhân viên.
Tác giả Charles P. Kelly,
một chuyên gia nổi tiếng về sự ngủ, kể lại kinh nghiệm cá
nhân về vấn đề này.
Khi còn học Đai học, ông
ta phải đi làm thêm, bán hàng qua điện thoại. Một hôm ông ta
mệt quá, nằm ngủ thiếp đi nửa giờ đông hồ. Khi tỉnh dậy, ông
ta cứ lo là không đủ thì giờ để rao bán cho đủ số khách hàng
đúng như tiêu chuẩn. Nhưng kết quả ngược lại: không những đủ
mà còn vượt quá chỉ tiêu vì buổi chiều hôm đó ông ta thấy
trong người sảng khoái, nói năng lưu loát, thuyết phục hơn
những ngày trước. Từ đó, ông ta tiếp tục ngủ nửa giờ sau mỗi
bữa ăn trưa để có thể làm việc trễ hơn vào buổi tối.
Trong lịch sử, có nhiều
dẫn chứng về ích lợi ngủ giữa ngày.
Nhà phát minh Thomas
Edison thường được coi là ngủ rất ít, không tới tám giờ một
ngày. Nhưng ông ta cho hay là trong khi làm việc, ông ta ngủ
khi nào thấy trong người mệt mỏi, kém tập trung. Không bao
giờ ông ta làm việc quá bốn giờ giữa hai thời gian ngắn ngủ
và nghỉ.
Cựu Tổng Thống Mỹ Harry
Truman đặt lệ là ngủ một giờ sau bữa ăn trưa; Tổng Thống
Teddy Roosevelt đều ngủ trưa trong thời gian đi vận động
tranh cử.
Theo thống kê của các
hãng bảo hiểm và cơ quan công lộ Hoa Kỳ thì một số đáng kể
tai nạn xe hơi xẩy ra vì người lái quá cố gắng, lái xe liên
tục không nghỉ trong nhiều giờ. Trong khi đó thì nhiều người
thấy rằng sau vài giờ lái xe, chỉ tạt vào lề đường, nhắm mắt
mươi phút là tỉnh táo, hơn là uống một ly cà phê đặc.
Trong một cuộc điều tra
về vấn đề ngủ của các phi công, do cơ quan Không Gian Hoa Kỳ
thực hiện, thì các phi công đều nhận là họ có ngủ giữa ngày,
một điều cấm kỵ khi bay. Phi hành đoàn thường vượt qua nhiều
múi giờ, nên giấc ngủ bị rối loạn, đôi khi họ chỉ ngủ dưới
sáu tiếng một ngày. Kết quả nghiên cứu cho hay nhiều phi
công ngủ ngày nhưng họ không ghi vào phiếu lộ trình.
Những người làm việc ca
đêm thường có nhiều khó khăn trong việc tiêu hóa thức ăn. Họ
ăn vào giờ khác với nhịp sinh học bình thường nên dịch vị
bao tử tiết ra không đúng lúc cho sự tiêu hóa. Ngoài ra khi
đã có một số bệnh như kinh phong, tiểu đường, thì làm ca đêm
cũng khiến bệnh trầm trọng hơn. Cho nên để tránh những trở
ngại đó, đã có đề nghị cho phép người làm ca đêm ngủ một lúc
trong khi làm việc hoặc trước ca. Sự ngủ này giúp họ tỉnh
táo hơn để làm việc suốt đêm.
Trong lịch sử y khoa Hoa
Kỳ, đã có nhiều vụ làm việc không nghỉ rồi xẩy ra tai nạn
nghề nghiệp.
Một bác sĩ chuyên về tê
mê bị đưa ra tòa vì ngủ trong khi đánh thuốc mê cho một bệnh
nhân để giải phẫu. Nhân chứng nói là trong thời gian giải
phẫu gia làm việc, ông bác sĩ tê mê phải theo dõi tình trạng
người bệnh. Nhưng ông ta đã chợp mắt ngủ ngồi mất mấy phút,
đúng vào lúc huyết áp người bệnh xuống thấp, ông ta không
biết để đối phó, nên bệnh nhân thiệt mạng. Ra tòa, ông ta
khai là vì quá mệt sau mấy ca mổ liên tục trong ngày.
Trẻ sơ sinh có một thời
biểu ngủ chưa ổn định rất cần giấc ngủ giữa ngày để tăng
trưởng. Ở các em, nhịp sinh học circadian ngày làm, đêm ngủ
chưa được thiết lập. Mới sanh, bé ngủ vài tiếng rồi thức dậy
chơi độ hơn một tiếng rồi lại ngủ. Thời gian từ 2 đến 8 tuần
lễ, bé thay đổi nhịp ngủ/thức mỗi 4 giờ. Từ 3 tháng tới 1
tuổi, bé bắt đầu ngủ đêm nhiều hơn, khoảng 6 đến 8 giờ và
ngủ ngày ít đi vào mỗi sáng và chiều. Sau một thời gian, trẻ
thơ chỉ giữ giấc ngủ ban ngày vào sau trưa cho tới khi lên 3
hoặc 4 tuổi.
Giờ ngủ
và vị thế ngủ
Tùy theo từng người nhưng
đa số đều cho rằng giấc ngủ khoảng giữa trưa là tốt hơn cả.
Theo kết quả nghiên cứu
của bác sĩ Nathaniel Kleitman thì với một giấc ngủ ban đêm,
khả năng lao động của con người tăng dần từ lúc ngủ dậy, tới
một cao điểm trong ngày rồi xuống dần, thấp nhất vào lúc đêm.
Bây giờ nếu ta ngủ ngắn hạn vào buổi trưa, thì sẽ có hai cao
điểm của khả năng lao động thay vì một cao điểm.
Nhiều người chớm thấy mệt,
kém tập trung, thấy không còn sinh lực là nghỉ ngay hoặc đi
kiếm ly cà phê, uống chai nước ngọt để lấy sinh lực.
Vị thế để nghỉ trưa cũng
quan trọng. Có người ngồi ngay thẳng trên ghế làm việc, có
người ngồi xếp bằng dưới đất, cũng có người nằm gác chân lên
bàn, tháo bỏ giầy cho thư giãn, rồi nhắm mắt ngủ.
Sửa
soạn cho phút ngủ trưa
Ngủ trưa đúng cách cần
sắp xếp cho chu đáo và một vài quy luật:
Kiếm chỗ vắng, yên tịnh,
thoải mái để chợp mắt.
Tắt đèn, bỏ điện thoại.
Có miếng vải đen che mắt tránh ánh sáng càng tốt.
Đặt đồng hồ báo thức 10
phút. Ngủ nhiều quá đâm ra ngây ngất lờ đờ vì rơi vào tình
trạng ngủ say, khó thức dậy.
Nhắm mắt, thư giãn, để
lắng tâm hồn.
Chú tâm vào nhịp thở,
theo dõi không khí đi vào mũi, cuống họng, phổi.
Thở hơi to để có thể nghe
hơi thở và tập trung vào đó.
Nhiều người cho rằng chỉ
nằm yên lặng nhắm mắt cũng có công hiệu phục hồi sinh lực
như ngủ nhưng khác nhau về diễn biến. Khi ngủ thì con ngươi
thu nhỏ, và ngủ càng say con ngươi càng nhỏ. Còn khi nhắm
mắt nghỉ thì con ngươi vẫn nở rộng
Khi ngủ trưa, nhiều người
tự nhiên thức dậy mà không cần báo thức, vì họ ngủ lâu mau
tùy theo nhu cầu giải tỏa mệt mỏi của cơ thể. Do đó sự mệt
mỏi hết rất mau, tránh được sự tích tụ mệt mỏi. Và công năng
lao động cao hơn.
Không
tin, quý vị hãy thử mà coi.
Nhưng nhớ đóng cửa, kẻo
ông bà chủ bắt gặp, đang nhất nghiệp trở thành thất nghiệp
thì gặp rắc rối với người bạn đường.
Bác sĩ
Nguyễn Ý Ðức
Texas-Hoa Kỳ
(1) Quốc Văn Giáo Khoa
Thư- Trần Trọng Kim-Đỗ Thận-Nguyễn Văn Ngọc- Đặng Đình Phúc-
1948
|
VỀ MỤC LỤC |
|
NHỮNG BIẾN CHỨNG TRONG
CUỘC ĐỜI |
LTS. Kính thưa
Quí vị
Tác giả Linh Mục Lê
Văn Quảng (Doctor of Psychology) có ý chia sẻ với một số hoàn cảnh
người thân trong
bài viết dưới đây; nhưng giá trị nội dung của bài viết còn có thể hiểu và áp dụng rộng rãi trong hầu khắp
các hoàn cảnh tương tự của cuộc sống đời thường.
NHỮNG BIẾN CHỨNG TRONG
CUỘC ĐỜI
Ở Việt Nam có những khó khăn ở Việt Nam. Ở Mỹ
có những khó khăn ở Mỹ. Đâu đâu cũng có những khó khăn, những trở
ngại. Càng văn minh nhiều thì càng khó khăn nhiều. Nhưng, những khó
khăn đó chúng ta có thể vượt thắng để có được một gia đình ấm êm,
hạnh phúc nếu chúng ta biết cảm thông và cùng giúp nhau thắng vượt.
Tôi đang làm việc truyền giáo ở Đài Loan. Mỗi
năm tôi có dịp trở về Mỹ thăm mẹ già tôi và những người thân mà
trong thời gian học hành cũng như phục vụ ở Mỹ tôi đã có dịp giao
tiếp với họ. Nhiều người đã hỏi tôi vấn đề nầy:
- Thưa cha, trước đây nhà con rất là lanh lẹ,
tháo vát, lịch sự, dễ thương, nhưng từ khi đi học tập cải tạo về, và
nhất là thời gian gần đây sau khi sang đất Mỹ, nhà con hoàn toàn đổi
tính: khó tính và hay gắt gỏng. Con phải cố gắng lắm để cho bầu khí
trong gia đình được êm ấm. Nhưng rồi, không biết con sẽ chịu đựng
được bao lâu nữa? Cha có cách nào giúp con không?
Rất tiếc những lần gặp gỡ như thế, thời gian và
khung cảnh không cho phép tôi thảo luận nhiều về vấn đề đó, nhưng
tôi rất cảm thông và thành thật muốn chia xẻ những khó khăn của một
số gia đình anh chị em đang gặp phải, nhất là đây là những gia đình
mà tôi đã từng quen biết và còn thân thiết nữa. Tôi muốn dùng bài
viết nầy để chia xẻ một chút kinh nghiệm cũng như một ít kiến thức
mà tôi đã học được với một số anh chị em đang gặp phải cùng một hoàn
cảnh như trên. Hy vọng nó có thể giúp anh chị em hiểu được đâu là
nguyên nhân của những biến chứng đó.
1. Hậu Quả Của Những Kinh
Hoàng Trong Cuộc Sống
Hãy nhớ rằng tất cả chúng ta đều là nạn nhân
của một cuộc chiến cũng như sự kết thúc cuộc chiến một cách vô nhân
đạo. Chiến tranh đã cướp đi biết bao nhiêu nhân mạng cũng như biết
bao nhiêu tài sản của dân tộc chúng ta. Khi chiến tranh còn đang
tiếp diễn, mọi người đều ước mong sớm có hòa bình. Nhưng rồi, sau
khi chiến tranh kết thúc mọi sự càng bi đát hơn. Một số người không
ít đã phải đi học tập cải tạo trong những trại tập trung hết sức
khắc nghiệt và tàn nhẫn. Một số khác không thể nào chung sống được
với những con người không cùng chung lý tưởng nên họ đã bỏ nước ra
đi, sẵn sàng chấp nhận tất cả những thương đau như lang thang trong
rừng sâu nước độc hay cuộc sống trôi giạt bồng bềnh trên biển cả. Họ
sẵn sàng hy sinh tất cả ngay cả mạng sống mình để đi tìm một cuộc
sống tự do, ấm no, hạnh phúc. Chính sự bỏ nước ra đi của hàng triệu
người Việt Nam vào cuối thế kỷ 20 đã làm cho cả thế giới kinh hoàng,
bỡi họ đã chứng kiến những cảnh tượng hết sức hãi hùng khủng khiếp
đã xảy ra cho một dân tộc đã một thời chiến đấu cho sự hòa bình của
thế giới. Và hậu quả của những cảnh tượng hãi hùng đó đã đem lại một
sự bất hạnh cho nhiều người và nhiều gia đình Việt Nam trong nước
cũng như ngoài nước trong suốt cuộc đời còn lại của họ.
Thật vậy, có những bằng chứng rõ ràng cho thấy
có sự tương quan giữa những khủng hoảng về tinh thần và những người
tỵ nạn Việt Nam trong suốt hai thập niên qua. Khác với những nhóm
người di dân khác, người tỵ nạn Việt Nam đã phải rời bỏ quê hương
một cách bất đắc dĩ. Tái định cư ở một nước mới là một sự chọn lựa
bắt buộc, đúng hơn là một sự đào trốn, một sự bỏ nước ra đi vì không
chịu nổi một cuộc sống quá bi đát lầm than. Rời bỏ quê hương để ra
đi là một sự mất mát: mất tổ quốc, mất gia đình, mất gia sản, mất sự
nghiệp, mất văn hóa, mất ngôn ngữ, mất truyền thống, mất phong tục,
nghĩa là mất tất cả di sản thiêng liêng quí giá của ông bà tổ tiên
bao ngàn đời để lại. Chính những điều đó đã làm cho nhiều người tỵ
nạn trở thành những con bệnh tâm thần, bỡi lẽ họ ra đi không có sự
chuẩn bị. Họ ra đi trong sự xáo trộn, trong sự bất an, trong sự hiểm
nguy, và tương lai trước mặt họ là cả một vùng trời đen tối đầy thử
thách đang chờ đón họ.
Chính vì thế, tiến trình di dân của người tỵ
nạn đã được xem là một yếu tố quan trọng trong tiến trình tâm bệnh.
Sự liên hệ giữa việc khủng hoảng tinh thần và người Việt tỵ nạn nằm
trong vấn đề phải thích nghi vào xã hội mới. Đối với người tỵ nạn,
cái khó khăn trong viêc hội nhập một nền văn hóa mới chính là cái
hậu quả của những kinh nghiệm hãi hùng, ghê rợn mà họ đã phải chứng
kiến hay đã phải trải qua, chẳng hạn như: nhà cữa, của cải, sự
nghiệp đều bị tước đoạt; thân xác bị đánh đập, tra tấn cách dã man;
bị đưa đi lao động khổ sai trong các trại tù cải tạo; hoặc phải
chứng kiến những cái chết rợn rùng của những người đồng bạn. Kinh
nghiệm về những điều hãi hùng đó đã làm cho nhiều người tỵ nạn khó
hội nhập được vào môi trường mới.
Hơn nữa, tất cả những người tỵ nạn đều bị tách
rời khỏi những người trong đại gia đình họ hoặc cộng đồng của họ.
Việc họ phải đến một quốc gia có truyền thống tôn trọng cá nhân hơn
gia đình, đàn bà hơn đàn ông, và trẻ con hơn là người già, đã khiến
họ cảm thấy lạc lõng giữa lòng xã hội. Vì thế, họ không chỉ đối diện
với xã hội mới, có nền văn hóa hoàn toàn khác biệt mà đồng thời họ
cũng còn phải đối diện với sự mất mát gia đình, cộng đoàn, và hệ
thống xã hội của chính họ nữa.
Trong môi trường mới, cá nhân đóng một vai trò
quan trọng trong tiến trình hội nhập. Mức độ hội nhập, thích nghi sẽ
khác biệt tùy theo nhóm, dân tộc, và đặc tính cá nhân, tùy thuộc vào
khả năng hội nhập của mỗi người. Sự thành công trong việc hội nhập
tùy thuộc vào những yếu tố như: ước muốn thích nghi, khả năng nhận
ra giá trị của nền văn hóa khác biệt, sức mạnh nâng đỡ của mạng lưới
con người trong xã hội mới, và sự giải quyết những ám ảnh tâm lý của
quá khứ còn lưu lai trong tâm hồn họ.
Rất nhiều người tỵ nạn đã phải trải qua hoặc
chứng kiến những biến cố hãi hùng trước khi họ được định cư ở một
nước thứ ba. Chính những biến cố nầy vẫn còn đang tiếp tục ảnh hưởng
đến sự phát triển đời sống tâm lý của họ và là những ngăn trở lớn
lao cho việc thích nghi vào xã hội mới. Sự thích nghi vào cuộc sống
mới bao gồm việc học hành những kỷ thuật đối phó mới cũng như những
lối cư xử và giao tế mới.
Nhưng nhiều người đã học những cách thế để sống
còn xem ra thật là phi lý và phi nhân. Chẳng hạn nhiều người tỵ nạn
đã chứng kiến những cảnh hãm hiếp, đánh đập dã man, những cảnh giết
người tàn nhẫn trên đường vượt biển, nhưng họ vẫn còn được sống sót
nhờ việc họ giả dạng khù khờ, ngơ ngáo. Cái phản ứng nầy thường có
đối với những người được sống sót sau những cuộc tàn sát. Để được
sống còn, họ phải giả điếc làm ngơ, hoặc phải vâng lời một cách khờ
khạo, vì họ biết rằng nếu họ tỏ ra khôn ngoan hoặc chất vấn, họ cũng
sẽ bị tiêu diệt như những đồng bạn của họ. Sự sợ hãi nầy vẫn còn
tiếp tục xảy ra với những người tỵ nạn, đã khiến cho cuộc sống họ
trở nên bất bình thường và dĩ nhiên khó thích nghi với xã hội mới.
Một yếu tố quan trọng khác mà thiết tưởng chúng
ta cũng cần nên biết, đó là quan niệm không mấy rõ ràng về cái lý do
tại sao họ lại đến cư ngụ ở một đất nước xa lạ nầy với mọi sự mới mẻ
phải bắt đầu từ con số không. Với cảm giác hận thù, giận dữ còn ghi
khắc sâu trong đáy lòng họ về một cuộc chiến tranh phi lý mà họ cho
rằng chính đất nước nầy đã đem lại chiến tranh và rồi đã bỏ họ ra đi
một cách vô trách nhiệm để rồi chính quê hương họ, dân tộc họ, bà
con họ, xóm làng họ phải chịu cảnh chết chóc, cảnh chia ly, cảnh ăn
xin nơi vùng đất mới. Làm sao họ có thể đón nhận một nền văn hóa như
vậy để hội nhập vào xã hội mới khi họ vẫn còn mang đầy mặc cảm đó?
Một số khác còn mang mặc cảm tội lỗi nầy nữa là:
chính sự ra đi của họ đã khiến cho những người ở lại phải chịu lấy
một cuộc sống lầm than vì họ đã phải chi phí quá nhiều cho những
người ra đi, hoặc vì những người ra đi mà kẻ ở lại phải chịu nhiều
bắt bớ đánh đập, tra tấn dã man, đã khiến cho cuộc sống của họ mang
đầy những mặc cảm. Quả thật, không phải dễ dàng để hội nhập vào cuộc
sống mới đối với những người như vậy.
2. Những Cảm Giác Đau Buồn
Đi Kèm Với Một Ngôn Ngữ Mới
Nói đến việc hội nhập một môi trường mới, xã
hội mới, văn hóa mới thì cũng phải nói đến việc học một ngôn ngữ mới.
Ngôn ngữ đóng một vai trò quan trọng trong việc thích nghi vào đời
sống mới. Hầu hết những người lớn tuổi gặp rất nhiều khó khăn trong
vấn đề học một ngôn ngữ xa lạ. Ngoài vấn đề khó khăn của ngôn ngữ,
cảm giác kèm theo khi họ học ngôn ngữ lại còn quan trọng hơn nữa đối
với họ. Học một ngôn ngữ mới, có nghĩa là rời bỏ quê hương của mình,
mất đi nguồn gốc của mình, mất văn hóa của mình, mất căn tính của
mình, mất tất cả những cái tinh túy của mình để trở thành một kẻ vô
gia cư, vô tổ quốc, đến ăn nhờ ở đậu ở một nước đã phản bội mình.
Cái cảm giác đau buồn đó đã xé nát tim họ và đã ám ảnh họ trong suốt
cuộc đời. Và đây là một ví dụ: một bà mẹ kia mà gia đình của bà một
nửa đã chết vào những ngày cuối cùng của tháng tư năm 1975, còn lại
một nửa khác thì bị bọn hải tặc giết chết trên đường vượt biển, chỉ
còn bà và đứa con gái nhỏ nhất được sống sót. Một đêm kia bà đã nằm
mơ thấy chồng bà hiện ra giận dữ ra lệnh cho bà không được để đứa
con gái nói tiếng Mỹ nữa mà phải nói tiếng Việt: “Bà hãy bảo với con
rằng: mầy hãy nhớ mầy không phải là người Mỹ mà là người Việt Nam.
Mầy phải nói tiếng Việt không được nói tiếng Mỹ nữa.”
Bên cạnh những phức tạp chồng chất đó, chính
việc phải chiến đấu với ngôn ngữ cũng mang lại cho họ ký ức về thời
gian tốt đẹp quá khứ, thời gian mà việc đối thoại với những người
chung quanh không có gì là khó khăn cả. Và cũng chính ký ức về một
qúa khứ huy hoàng đó đã làm tăng thêm cảm xúc buồn chán và sự thất
vọng trong cuộc sống mới. Sự bắt đầu đi học một ngôn ngữ khiến họ có
cảm giác tuổi nhục nầy là: phải làm lại cuộc đời ngay từ đầu như một
đứa trẻ mới chập chững vào đời, khởi sự đi học để nhận biết cuộc
sống và biết cách làm sao để thích nghi vào cuộc sống. Điều đó đã
khiến họ cảm thấy tự ái và đã mang lại cho họ những cảm giác chán
chường trong cuộc sống.
Cuối cùng, việc học ngôn ngữ của một nền văn
hóa mới cũng còn gây ra một sự tái định nghĩa về liên hệ gia đình để
rồi tạo một sự xung khắc, một sự lẫn lộn, một sự sứt mẻ, một sự tái
cấu trúc về một vai trò xã hội mà họ không muốn có. Chẳng hạn, trẻ
con thâu nhận ngôn ngữ và văn hóa mới một cách mau lẹ hơn những
người lớn đã gây ra tình trạng đảo lộn gia đình. Người lớn trở thành
người lệ thuộc trẻ con trong những công việc phải giao tiếp với thế
giới bên ngoài. Điều đó đã tạo nên một sự đảo lộn trật tự truyền
thống trong gia đình mà họ được hấp thụ và gìn giữ từ bao năm trước,
khiến họ khó có thể chấp nhận xã hội mới với một trật tự mới.
Ngôn ngữ đã là một vấn đề phức tạp, vấn đề học
vấn và công ăn việc làm theo đó lại là cả một con đường dài đầy
chông gai và thử thách. Cái học vấn ngày xưa của họ có thể không còn
thích hợp với môi trường mới vốn cần những kiến thức chuyên môn và
thực nghiệm. Vì thế, họ bắt buộc phải làm lại cuộc đời từ đầu. Tuy
nhiên, bắt đầu làm lại cuộc đời đối với những người lớn tuổi và đã
có những kiến thức chuyên môn như bác sĩ, luật sư, giáo sư…thật
không phải là một vấn đề dễ dàng cho lứa tuổi của họ. Nhưng, nếu họ
không đủ ý chí và nghị lực để trau giồi kinh sử nữa thì chắc chắn
người vợ phải ra đi làm để gia đình có thể sinh sống, bấy giờ trật
tự và giá trị truyền thống của gia đình cũng bắt đầu thay đổi, bỡi
vì ai là người làm ra tiền người ấy sẽ là người cảm thấy có giá trị
và uy quyền trong xã hội mới nầy. Quả thật, không có gì đau khổ và
mang nhiều mặc cảm cho bằng khi người đàn ông cảm thấy mình bất lực,
không còn khả năng gánh vác nổi trách nhiệm của người chủ trong gia
đình. Chính điều đó đã làm cho họ trở nên trầm tư, ít nói, gắt gỏng,
khó chịu đối với những người chung quanh.
Trên đây là một số những nguyên nhân tôi muốn
nêu lên để giúp anh chi em có thể hiểu được những biến chứng mà một
số anh chị em đang gặp phải nơi những người thân yêu của chúng ta.
Nếu hiểu được những nguyên nhân sâu xa đó, tôi thiết tưởng anh chị
em có thể dễ dàng cảm thông và chấp nhận nhau hơn.
Xin kính chúc anh chị em luôn giữ mãi được gia
đình êm ấm và tràn đầy tình thương trên một quê hương còn quá xa lạ
nầy !!
Lm Lê Văn Quảng
quangtaiwan@yahoo.com
|
VỀ MỤC LỤC |
|
- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến,
bài vở..., xin gởi về địa chỉ
giaosivietnam@gmail.com
- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục
vụ của Giáo sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các
Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn
gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực
Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh
vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức
Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và
Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quí vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại
www.conggiaovietnam.net
Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị
Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã
sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác
nhau.
TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca
Phạm Quốc Sử
USA
|
|
*************
|
|