Bài 03: KHẮC KHỔ
và THẦN NHIỆM (Ascetic and Mystic)
Như đã trình bày trong hai bài thảo luận trước, việc Huấn Luyện về
Nếp Sống Độc thân, Khiết Tịnh, phải dẫn đến một lý tưởng sống cao
siêu, thoát tục để Kết Nghĩa với Chúa trong đời sống Tâm
Linh(Spiritual Life), Thần nhiệm(Mystic Life) như kinh nghiệm sống
của các vị Thần Nhiệm, Thần Bí, chẳng hạn, Thánh nữ Têrêsa Avila,
Thành nữ Têrêsa Lisieux, hay Mẹ Têrêsa Calcutta...Vì nếp sống Thần
Nhiệm cần phải được thao luyện, lâu ngày lâu năm, cần “Linh
Thao”(Spiritual Exercises), nghĩa là cần một nếp sống Khắc
Khổ, Tiết Dục, thì mới mong thành công. Do đó, xin chia làm
hai đoạn:I/. Cách Sống Khắc Khổ giúp chế ngự ham mê và thăng hoa
đời sống con người như thế nào?I I/. Kết Nghĩa với Chúa, trong Đời
Sống Tâm Linh, Thần Nhiệm là làm sao?
1. Đây là một đề tài vừa trừu
tựợng, siêu nhiên nhưng lại phong phú vô tận, vì là những kinh
nghiệm sống của mọi nguời, mọi tôn giáo, mọi thời đại. Những Kinh
nghiệm của một Nhân Loại luôn khát khao đi tìm về Cội Nguồn
của mình, như Thánh Âu Cơ Tinh( St. Augustin) đã nhận định một cách
sâu xa:” Trái tim Con Người vẫn còn khắc khoải xao xuyến, cho
đến khi được An Tâm trong Chúa”. Bởi vậy, trong bài này,
chỉ xin nêu lên một số Kinh Nghiệm Thao Luyện, mang tính chất
khả thi, thực hành, không diễn giảng dài về các lý thuyết,
hay các Trường phái Tu Đức. Vả lại, trong ít trang Điện Báo, chỉ có
thể cung cấp một số tài liệu, sách báo, hay giới thiệu tác giả..,
để thông tin và giúp độc giả sưu tầm thêm.
2.Trong Lịch Sử Tu Đức của Thiên
Chúa Giáo, đặc biệt của Công Giáo, “Trào Lưu các Vị Ẩn
Tu”(hermit), hay các Vị Tu Rừng(Desert Fathers), đã xuất hiện từ thế
kỷ 2, 3, tại miền Ai Cập. Các vị Tu sĩ đó xa lánh cảnh đời phồn hoa,
thị tứ, tìm đến chốn rừng sâu, thanh vắng để sống gần thiên nhiên,
chăm chú vào việc chiêm niệm, cầu nguyện và tập tành các nhân đức,
đặc biệt cam kết giữ mình đồng trinh. Những Vị Ẩn tu danh tiếng còn
lưu truyền như Thánh An tôn, hay những mẩu truyện về cách tu
luyện nhiệm nhặt lạ thường như “Ông Simon Cột”. Trong tiểu sử
của Thánh Lê Bảo Tịnh, cũng đã thuật lại câu chuyện
Ngài đã bỏ Địa sở để trốn lên Rừng Bạch Bát( có thể là vùng Rừng
Cúc Phương , ngày nay), sống đời Ẩ n dật. Nhưng khi Bề Trên biết
được, thì đã buộc Ngài trở về Nhà Chung Kẻ Vĩnh, và làm Giám đốc
Chủng Viện ở đấy, cho đến khi bị bắt, rồi chịu chết vì Đạo.
3. Suốt dòng Lịch Sử Hội Thánh,
không thể kể hết những Trường Phái Tu Đức như muôn hoa
tươi nở trong Vườn Thiêng của Chúa. Về lãnh vực đời sống Tâm linh,
Giáo hội thường tôn trọng đường hướng, cách thế tu luyện của cá nhân,
chỉ can thiệp khi nghịch lại Truyền Thống hay Giáo Lý của Hội Thánh.
Do đó, mãi cho đến ngày nay, ta thấy xuất hiện những Trường Phái Tu
Đức lớn như: Thánh Biển Đức(Benedictô), Thánh ĐaMinh( Dominicô)/
Thánh Phan Sinh( Franciscô), Thánh Inhã( Ignatiô), Dòng Cát
Minh(Carmelites) như Thánh Têrêsa Avila, Thánh Têrêsa Lisieux. Ngoài
ra, còn nhiều khuynh hướng đạo đức của các Dòng Nữ, không thể kể hết
được.
4. Huấn Luyện Tu Đức cho các
Chủng Sinh trong các Giáo Phận. Hội các Linh Mục Xuân Bích,
chuyên chú vào việc Đào tạo các Linh Mục làm việc mục vụ quản trị
các Giáo Xứ, trong các Giáo Phận, nên cũng cần một Đường Hướng Tu
Đức thích hợp với đời sống hoạt động Tông đồ. Trong nhiều năm, ở
nhiều nước trên thế giới, các Chủng Viện Xuân Bích đã dung một tài
liệu giáo khoa để giảng dạy Khoa Tu Đức cho các chủng sinh: Sách”TU
ĐỨC HỌC” do Linh Mục Xuân Bích Tanquerey sưu
tập, soạn thảo. Sách giáo khoa này đã phiên dịch từ nguyên bản Pháp
văn ra nhiều thứ tiếng;( bản dịch Việt ngữ có bán tại Regina Gift
Shop, 1900 Grand Ave. Carthage, Mo.64836). Ngày nay, nhất là sau cải
cách của Công Đồng Vatican I I, tình hình tôn giáo, xã hội thay đổi,
nên phương pháp Huấn Luyện về Tu Đức cho các Linh Mục Giáo phận
cũng cần phù hợp với hoàn cảnh mới. Vì thế, Hội Xuân Bích tại
Hoa Kỳ, đã gia nhập và hợp tác chặt chẽ với tổ chức”Liên
Hội các Dòng Tu Nam”, để kiện toàn phương pháp huấn luyện Tu Đức,
đặc biệt về Huấn Luyện Tính Dục cho các chủng sinh.
5. Hội các Linh Mục Xuân Bích tại
Việt Nam, thuộc Tỉnh Dỏng Pháp, đã được các Giám Mục Địa
Phận Hànội cho phép xây một Chủng Viện tại Liễu Giai, gần Hồ Tây, Hà
nội, từ 1930 cho đến 1946, đóng cửa vì chiến tranh. Năm 1950, mở lại
với một ban giáo sư mới; di tản vào Vĩnh Long, năm 1954; tạm cư tại
Thị Nghè (Sài gòn) từ 1956 đến năm 1962, thì được Đức Giám Mục Giáo
Phận Huế mời về cư trú tại Kim Long, bên bờ Sông Hương, cạnh Thành
Nội. Ngoài ra, Hội Xuân Bích cũng phụ trách quản trị Chủng viện
Thánh Gioan, và Chủng Viện Hòa Bình( banTriết lý)tại Đà nẵng. Sau
ngảy 30, tháng tư,năm 1975, tất cả các Chủng Viện đều đóng cửa, và
chỉ được phép mở lại vào năm 1994 cho đến ngày nay. Trong suốt thời
gian hơn 70 năm hoạt động, Hội Xuân Bích Việt nam đả phụ trách đào
tạo được một số lớn các Vị trong Giáo Phẩm như: ĐHY Trịnh Văn Căn,
Phạm Đình Tụng, các Vị GM như: Nguyễn Huy Mai, Trịnh Chính Trực,
Nguyễn Tùng Cương, Lê Văn Trọng, Phạm Tần, Nguyễn Văn Dụ, Nguyễn Sơn
Lâm, Nguyễn Bình Tĩnh, Nguyễn Văn Sang, Nguyễn Quang Tuyến, Nguyễn
Văn Hoan…Và một số đông các Vị Linh Mục danh tiếng như Cao Văn Luận,
Lê văn Lý, Nguyễn Văn Vinh,..Và hàng mấy ngàn các Linh Mục cho các
Giáo Phận từ bắc chí nam.
6. Hội Xuân Bích đã theo đường
hướng hay phương pháp Tu Đức, Linh Đạo nào? Khi Đại Chủng
Viện Xuân Bích tại Giáo Phận Hà Nội được mở lại vào năm 1950, vị
Giám đốc và ban giáo sư mới đảm trách, thay thế ban Giám đốc cũ. Do
đó, đường hướng giáo dục và Linh Đạo cũng cải tiến theo sự canh tân
của Giáo Hội. Một đặc điểm nổi bật là khởi sự tuyển chọn một số Linh
Mục Việt Nam bổ sung vào Ban Giám đốc, và Giáo sư. Cha Giám Đốc
Pierre Gastine, (đã sang Việt Nam từ 1930), đạm nhận chức
Giám đốc từ 1951 đến 1970. Ngài thông thạo Hán văn và Việt văn, có
thể viết và giảng khoa Triết Lý bằng Việt Ngữ. Ngài đã “nhập tịch”
vào làng nước Việt và đổi sang tên Việt là Phêrô
Bùi Đức Tín. Ngài đã có công lớn lao về việc đào tạo các
Linh Mục Việt nam, thế hệ 1950-1975. Nét nổi bật trong chiều hướng
Tu Đức Linh Đạo cho các chủng sinh là Cha Bùi Đức Tín đã từng liên
hệ mật thiết với các bạn học cũ như Cha Vuillaume, cựu Bề Trên của
Dòng các “Tiểu Đệ Chúa Giê su”(Petit Frères de Jésus)do Chân
Phước Charles De Foucauld sáng lập(1858-1916). Tôn chỉ của
Dòng là:”Chúa Giêsu là Tình Yêu”( Jésus est Caritas). Các Anh
Tiểu Đệ, các Chị Tiểu Muội nêu gương khó nghèo, kết hiệp với Chúa và
hòa mình với mọi người để sống thông cảm, yêu thương.
Một Linh Mục Xuân Bích, Cha Khổng tiến Xuân, (quốc
tịch Pháp)đã từng làm giáo sư dạy tâm lý học tại Chủng Viện Xuân
Bích, Ngài đã gia nhập Dòng các Tiểu Đệ Chúa Giêsu, và hiện nay đang
hoạt động truyền giáo ở Đại Hàn. Ngoài ra, Anh Tiểu Đệ hay lui tới
thăm viếng Chủng Viện Xuân Bích là L.M Nguyễn Kim Điền, sau này làm
Giám Mục Cần Thơ, và TGM Giáo Phận Huế. Anh Tiểu Đệ này, cũng đã nêu
gương sáng về nhân đức khó nghèo, hy sinh tính mạng vì bổn phận, và
hòa hợp với nếp sống của giới lao động.
Hàng năm, Ngày Giỗ Tổ, 21 Tháng Mười Một, Lễ Đức Mẹ Maria Dâng Mình
trong Đền Thánh, các Cựu Chủng Sinh Chủng Viện Xuân Bính khắp nơi
trong nước, thường tập họp để hâm nóng lại đời sống tận hiến cho
Chúa, theo gương Đức Mẹ Maria. Có thể nhận xét: Lớp Giáo sĩ, Tu
sĩ do Hội Các Linh Mục Xuân Bích đào tạo, sống đơn sơ, (không quan
liêu), dễ hòa hợp với giới lao động, bình dân, và hăng hái hoạt động
mục vụ, truyền giáo.
I. SỐNG KHẮC KHỔ TRONG NẾP SỐNG KHIẾT TỊNH
Như đả trình bày ở trên, sống nếp sống Khiết Tịnh, không phải là một
sự nghịch lý, bệnh hoạn, hay không thể thực hiện được. Trái lại, như
gương sáng và kinh nghiệm rất phong phú của các vị Giáo Sĩ Tu Sĩ
minh chứng, nếp sống siêu nhiên này cùng với Ơn Trên phù giúp, có
thể hoàn thành được, miễn là người tu sĩ tự do chấp nhận nếp sống
“anh hùng” ấy, bằng cách sống KHẮC KHỔ, chay tịnh, để tiết dục, và
chú trọng vào việc chiêm niệm, Kết Nghĩa với Chúa, gọi là THẦN NHIỆM.
Tu Thân bằng nếp sống Khắc Khổ, chay tịnh, thì có rất nhiều phương
pháp khác nhau tùy theo Trường phái Linh Đạo của các Dòng Tu như
Linh Đạo của Thánh Biển Đức, Thánh Phan Sinh, Thánh Inhã, Thánh
Têrêsa Avila,v,v. Sau đây, xin nêu ra một vài phương cách phổ thông,
những lời khuyên răn, chỉ giáo giúp các chủng sinh thực tập trong
nếp sống Khắc Khổ, chế ngự thân xác để tiến lên từng bậc thang Thánh
thiện,Toàn hảo( Perfection).
1/ Tính chất “ Khả Thi” của nếp sống Độc
Thân, Khiết Tịnh
Ngày nay, vì thiếu những thanh thiếu niên tự nguyện dấn thân gia
nhập các Chủng Viện và các Dòng Tu Nam Nữ, vì gương xấu của một số
giáo sĩ lạm dụng tính dục đối với trẻ em, nên một số tín hữu lầm
tưởng rằng: chính nếp sống độc thân quá khắc khổ, “phi nhân
bản”(inhuman), đã là nguyên cớ gây ra cuộc khủng hoảng. Do đó, họ đề
nghị Tòa Thánh cho phép “các Linh mục được lấy vợ, thì sẽ có nhiều
người đi tu làm linh mục”. Nhưng gần đây, Tòa Thánh đã nhất quyết
duy trì nếp sống độc thân, khiết tịnh của các Linh Mục trong Hội
Thánh Công Giáo Rôma. Nếp sống độc thân, tuy là một Lý tưởng cao cà,
khó khăn, phi thường, nhưng không phải là điều nghịch lý, trái với
bản tính con người. Trong xã hội, dân chúng vẫn cảm phục những vị
anh hùng ái quốc, hy sinh đời sống gia đình,”thê nhi”, để được thảnh
thơi lo việc cứu nước; những nhà khoa học tận tụy suốt đời cho việc
nghiên cứu, cứu nhân độ thế. Trong văn chương, thi ca, tuy là giả
tưởng, “lý tưởng”, nhưng không phải vô thực, như những truyện tình
ái lâm ly giữa “Lan và Điệp”, hay mối tình cao thượng giữa “Anh Gù
Nhà Thờ Đức Bà Paris, và nàng Du Ca”( Victor Hugo). Hàng ngày, ta có
thể chứng kiến những vị chân tu trong các tôn giáo như Mẹ Têrêsa
Calcutta, ĐGH Gioan Phao Lô I I, 22 vị Thừa sai Công giáo bị giết
chết trong năm 2005, hy sinh nếp sống gia đình để thực hiện lòng
Mến Chúa, Yêu Người. Các Ngài sống hạnh phúc, vui vẻ, và điều hòa,
quân bình. Trong tâm trạng của người dân Việt, đã gọi là một vị chân
tu”xuất gia tu hành”mà còn vương vấn cảnh “thê nhi”tùm lum, là không
đứng đắn, không nghiêm chỉnh. Do dó, các Linh Mục, các tín hữu Việt
Nam không đặt ra vấn nạn phi lý này trong một xã hội vật chất dâm
loạn, tỷ lệ ly dị lên tới 50%. Có gì bảo đảm các “Linh Mục lấy vợ”sẽ
trung thành với bà xã suốt đời chăng? Trên cõi đời này, nhiều điều
tưởng khó xẩy ra, nhưng đã xuất hiện trước mắt chúng ta. Chẳng hạn,
tại Trung Tâm thương mại”Little SaiGon”, Phước -Lộc- Thọ, Bolsa,
Santa Ana, trong cảnh phồn hoa, nhộn nhịp, ăn nhậu, mỗi ngày khách
du lịch thường thấy tận mắt một thanh niên, một vị khất sĩ, chừng
trên 20 tuổi, vận áo vàng, đầu trọc, đứng ngoài nắng, ngay cửa ra
vào, để xin bố thí, khất thực.
2/ Nếp sống chay tịnh, đơn sơ, giản dị,
vận động, tập thể dục mỗi ngày
Con người có Xác và Hồn, liên hệ mật thiết với nhau. Do đó, từ xưa
tới nay, trong mọi Trường phái Tu đức, đều tìm cách chế ngự thân xác
để việc “tu tâm dưỡng tánh” được dễ dàng tiến lên đới sống tinh thần,
siêu thoát. Lịch sử các Dòng Khổ Tu Công Giáo như Châu Sơn (Ninh
Bình), Phước Sơn, Phước Lý.. vẫn thực hành những cách thế”hãm dẹp
xác thịt” như ăn chay, đánh tội( dùng giây thắt lưng quất vào lưng),
kiêng thịt, kiêng rượu và lao động chân tay, hay trí thức. Nhờ ăn
chay trường với thức ăn đạm bạc, nhưng nhiều chất dinh dưỡng như đậu
phụ, dưa chua, canh rau…mà nghị lực dồi dào, thân xác khoẻ mạnh, cân
đối, nhờ chơi thể thao, thể dục, bớt phì nộn, béo mập. Ngoài ra,
người tu hành cũng tránh ăn mặc sa hoa, nhà lầu, xe hơi, tiện nghi
đồ dùng đắt tiền. Ngày nay, khách hành hương vẫn còn chứng giám
những gian phòng nhỏ hẹp, tấm phản gỗ dùng làm giường nằm, tại các
Thí điểm truyền giáo của các vị Thừa sai tiên khởi như Chân Phước
Junipero Sierra,( Mt Carmel, California). Cũng vì ăn uống”cao lương
mĩ vị”, tiệc tùng, cùng với tâm trạng cô đơn, nên một số giáo sĩ, tu
sĩ đã rơi vào cạm bẫy của nghiện rượu. Do say sưa, không còn kiểm
soát được dục tính, nên đã dùng bạo lực để hãm hiếp.
3/ Ba Lời Khấn: “Khiết Tịnh, Khó Nghèo,
Vâng Phục” Ràng Buộc, Hỗ Trợ nhau
Theo kinh nghiệm Tu Thân của các Dòng Tu, ba lời khấn hứa, hay cam
kết: Khiết tịnh, Khó nghèo, Vâng phục, là phương pháp Khắc Khổ
cao quí nhất để giúp người tu sĩ được Tự Do, thảnh thơi tiến
lên bậc Thiện Toàn. Bộ Ba Nhân Đức này cấu kết lại để diệt tính cái
“giả Ngả”(false-Self), tức tính vị kỷ, “yêu mình”, tự cao, tự đại,
kiêu ngạo, ham sung sướng, giầu sang, quyền cao chức trọng. Nhưng
kinh nghiệm tu đức cũng cho thấy: ba tính xấu nghịch với ba Nhân Đức
kể trên, luôn cấu kết, và chuyển biến cho nhau, dưới nhiều hình thức.
Một tu sĩ sống nghiệm ngặt về Khiết tịnh, nhưng để bù lại, lại khó
tính khó nết, ham tiền, ham quyền. Nhiều tiền, dễ :mua dâm”, nhiều
quyền dễ “cưỡng hiếp”. Nhiều khi, cá nhân tu sĩ thì không có của
riêng, nhưng cơ sở chung của Dòng quá lớn lao, nguy nga, đồ sộ, thật
“khó mà nghèo” được! Do đó, cần phải đề phòng để tiêu diệt cả ba
nết xấu, luôn biến thể dưới nhiều hình thức. Trong văn hóa, văn
chương Việt Nam, nhà thơ trào phúng Tú Xương(?)đã khéo bộc lộ tâm lý
éo le của lòng ham muốn vị kỷ như sau:
Một trà, một rượu, một đàn bà,
Ba cái lăng nhăng nó quấy ta.
Chừa được món nào, hay món ấy,
Có chăng chừa rượu với chừa trà.
Một vị Thầy Giảng già, làm thơ, “nhái lại” như sau:
Một Tiền, Một Quyền, một “Liền Bà”
Ba chước quân thù, cám dỗ ta.
Trừ được thứ nào, vui thứ nấy,
Nên chăng phải trừ tuốt luốt ba.
4/ Tính Dục và văn thơ “Hài” trong Văn
Hóa Việt Nam
Triêt gia Henri Bergson, thuộc Trường phái Triết học “Trực
Giác”(Intuition).( Theo học giả Trần Trọng Kim, các vị hiền triết Á
đông, như Việt Nam, cũng thường dùng Trực Giác, để tìm ra Chân lý).
Ông Bergson đã xuất bản cuốn sách nổi tiếng:”Le Rire”(
Cái Cười) để bàn luận về ý nghĩa của hài kịch, chuyện tiếu lâm, pha
trò: bản chất của Cười là gì? tại sao Cười? cách dàn dựng vở hài
kịch như thế nào? Sauk hi khảo cứu những tác phẩm, và tác giả nổi
tiếng về hài hước như Molière.., ông Bergson đã định nghĩa :
cái Cười có Xã hội tính( Le Rire est social). Ở đây, ý nghĩa
tiếng Cười, không hẳn là “vui mừng, ngợi khen”, nhưng là”CHÊ
CƯỜI”. Tại sao, tự nhiên ta bật cười khi thấy anh nghiện
rượu, chân thấp chân cao, đi lẹo xẹo, ngả nghiêng, hoặc chế nhạo khi
gặp cảnh:” Bây giờ chồng thấp vợ cao, Như đôi đũa lệch, so sao
cho bằng!”…Lý do, tự nhiên ta bật cười, vì cảm thấy nó “khác
đời”, không bình thường như mọi người vẫn thấy vẫn làm, nghĩa là
nó “trật ra bên lề xã hội, thói quen”; do đó, ta dùng tiếng
Cười để chê cười, nhạo cười, để bắt phải trở về với thói quen, với
tập quán trong xã hội. Bị làng xóm chê cười vì lối sống khác lạ,
lệch lạc, mất quân bình, thái quá. Áp dụng phương pháp của Henri
Bergson để khảo sát văn chương, nghệ thuật của Việt Nam, ta nhận
thấy tính chất HÀI rất sâu đậm trong những câu ca
dao tục ngữ, câu Hò, câu Đố(đố tục, giảng thanh, đố thanh giảng tục),
những chuyện Tiếu lâm, Trạng Quỳnh, Trạng Lợn..và loại thơ phú “Hồ
Xuân Hương”, Ba Giai Tú Xuất, Tú Xương, Tú Mỡ..Và ngày nay, những
ban “hài”như Vân Sơn, Tam ca, Hoài linh, Hồng Đào, Quanh
Minh..(trong các CD của Thúy Nga, Asia..) được các gia đình ưa thích
thưởng thức. Nhận xét chung, văn hóa và tinh thần người dân Việt
vẫn còn quân bình, không lệch lạc, không ”LỐ BỊCH”(grotesque) đối
với nhu cầu “Tính dục”(Sex)của con người. Trong khi “cách mạng Tính
dục”(sex revolution) đề cao quá mức, tô điểm bộ phận sinh dục, khêu
gợi, kích thích dục tính cuồng dâm của văn minh tiêu thụ, thì dân
“Hài” Việt được dịp đem ra chế diễu những cái “Lố bịch”, thái quá về
“Sex”, để giúp người đởi trở về với lương tri, với Xã Hội lành mạnh.
Bởi vậy, văn chương Hài Hước, châm biếm của tinh thần Âm-Dương Điều
hòa của Văn Hóa Việt, đã đóng góp vào việc tìm hiểu giá trị cao quí
thật của Tính Dục, và đả phá, chê cười những thói rởm, khiêu dâm,
làm rối loạn tâm thần. Người không biết xấu hổ, người “vô liêm sỉ”
là người nguy hiểm đối với xã hội.
Nói tóm lại, theo sinh lý, con người và loài cầm thú rất giống nhau
trong “hành vi tính dục”(sexual act). Nếu có khác nhau, chỉ vì con
người, “linh ư vạn vật”, ban cho hành vi đó một ý nghĩa đặc biệt cao
quí là biểu lộ tình Yêu Mến, lòng Chung Thủy, và nghĩa Vợ-Chồng.
5/ Người Lính Đào
Trong tập sách Tự Thuật của Thánh Têrêsa thành Lisieux, có đoạn tả
tâm trạng của người “lính đào ngũ” (le soldat deserté). Mới 16 tuổi,
Têrêsa đã được phép vào sống trong Dòng Kín tại Lisieux. Sống chung
với các chị đã ngoài 70, 80 tuổi, rất khó tính khó nết, không làm
sao mà chiều chuộng cho nổi được. Một chị già nua bệnh tật, có ác
cảm , luôn trách móc, bắt bẻ Têrêsa về những chuyện lặt vặt, không
đâu. Nhưng vì lòng Bác ái, Têrêsa luôn nhịn nhục, không cãi lại.
Chịu đựng một thời gian khá lâu, mỗi lần có việc phải gặp, là lại
sinh chuyện la rầy, làm tâm thần Têrêsa thêm mệt mỏi, căng thẳng vì
sức chịu đựng đã kiệt kệ. Một lần, vì nén cơn tức giận, Têrêsa, run
rẩy, không bước đi được, phải ngồi lại trên bậc cầu thang để nghỉ.
Vì sức yếu đuối của con người, để khỏi phải tranh cãi, giận dữ, đối
đầu với chị già khó tính, Têrêsa đã nghĩ ra mưu kế của “người Lính
Đào”, là chạy trốn chị ấy, để bảo toàn lòng bác ái, tha thứ.
Trong đường Tu Đức cũng như trong phép “Binh Thư, Chiến Thuật”, cần
phải biết lượng sức mình và sức quân địch, thì mới mong thắng trận
được. Nếu sức quân mình yếu, khó có thể thắng, thì nên rút lui để
bảo toàn lực lượng, chờ dịp khác sẽ tấn công. Vì thế, có câu:
”Tam thập lục kế, đào vi thượng sách” (trong 36 kế, chạy trốn là kế
hoạch tốt nhất”.
Câu chuyện ngưòi Lính Đào, cũng chính là lời cầu nguyện: “Xin
chớ để chúng con sa chước cám dỗ”, hay “tránh xa dịp tội” .
Kinh nghiệm cho thấy: các giáo sĩ tu sĩ sa ngã về “sex”, vì coi
thường sức cám dỗ của luật “Âm-Dương”, (vợ-chồng). Về vấn đề ”tránh
xa dịp tội” của các tu sĩ, cần sự cộng tác của gia đình cha mẹ, anh
chị em, bà con thân quyến, các tín hữu, bạn bè, nhất là nữ
giới để ngăn ngừa, và đề phòng những “dịp tội”.
Sau đây xin trích mấy lời khuyên thực tế giúp tránh xa mưu chước
của “Ba Thù”:
“Xét theo quá
trình trong gia đình, phần đông các giáo sĩ xuất thân từ những gia
đình khiêm tốn trong xã hội, tính tham lam và hà tiện sẽ làm chai
lòng dạ của linh mục trước ân sủng của Thiên Chúa và nỗi bất hạnh
của người khác.
Ngày nay giáo sĩ cởi mở hơn đối với xã hội, vì thế họ có nhiều cơ
hội tiếp xúc với nữ giới. Khuynh hướng đeo đuổi một cuộc sống thanh
thản và tiện nghi cũng đẩy đưa đến việc kiếm tìm sự giải trí và hoan
lạc, nhất là khi họ có một khái niệm mơ hồ đến những đòi hỏi của đức
khiết tịnh. Ðó là tại sao ngày nay các linh mục đi theo phụ nữ ra
bải biển hay đi cắm trại thật là không hiếm.
Một số linh mục coi việc làm bạn với nữ giới là một chuyện bình
thường. Ðối với vài linh mục, hình ảnh khỏa thân và tài liệu dâm ô
không còn coi là điều cấm. Giáo dân và ngay cả linh mục dường như
không còn ác cảm tới các linh mục có con riêng và vẫn còn thi hành
chức linh mục. Tạ ơn Chúa, hầu hết các linh mục Việt
Nam vẫn sống theo
nhân đức khiết tịnh”
(Trích
Thông Tấn Xã Á Châu, Nov/09/2002, Bài Phỏng Vấn ĐGM Nguyễn
Bình Tĩnh, Cựu Giám Đốc CHỦNG VIỆN XUÂN BÍCH, HUẾ)
II. ĐỜI SỐNG THẦN NHIỆM, KẾT NGHĨA
VỚI CHÚA
Đời sống Thần Nhiệm (Mystic), Thần Bí, Kết nghĩa với Chúa
mới thật sự là tuyệt đỉnh của nếp sồng Độc thân, Khiết tịnh.
Con người không thể sống hoàn toàn cô đơn, cô thế được.
Nhưng con người có khả năng “thăng hoa” đời sống dục tính tự
nhiên lên nếp sống tâm linh, “Thần nhiệm”, Kết nghĩa với Đấng Thiêng
Liêng cao cả. Đây cũng là kinh nghiệm vẫn tìm thấy trong các Tôn
Giáo lớn như Phật giáo, như LM Thomas Merton (và các Linh Mục thuộc
Dòng Biển Đức , tại Tu Viện Giệtsêmani(Kentucky)) đã viết trong sách:”Mystics
and Zen Masters”. Sau đây, là mấy phương thế thực hành do các vị
thần bí thường dùng để nuôi dưỡng đời sống Tâm linh.
1/Tính Chất ”Bí-Tích” Trong Thiên Chúa
Giáo
Trong Công Giáo, các tín hữu bắt buộc phải học biết ý nghĩa thiêng
liêng của “Bảy Phép Bí Tích” trước khi được lãnh nhận
như: Bí tích Thánh Tẩy(Rửa tội), Thêm Sức, Xưng tội, Rước Lễ, Hôn
phối, Truyền chức, và Sức dầu bệnh nhân. Theo Giáo lý, mỗi
BÍ-TÍCH đều có hai phần: Tích là Dấu Tích, hữu hình,
chỉ thể chất ngũ quan có thể cảm nhận được( trong nguyên tự chữ Nho,
chữ Tích vẽ hình một vết bàn chân); và Bí là Bí Mật, vô hình,
chỉ những thực tại thiêng liêng, là Ơn Thánh. Người tín hữu Thiên
chúa giáo, đặc biệt người Công giáo, ngay khi còn nhỏ, đã được huấn
luyện về tính chất Bí-Tích(Sacramentality), trong đời sống Đức tin,
Phụng vụ. Tinh thần “Bí -Tích”này còn bao trùm lên ý nghĩa thiêng
liêng của các hiện tượng thiên nhiên, và xã hội, nhân sinh. Chẳng
hạn, người Công giáo tin rằng: Nhìn vũ trụ bao la, muôn muôn triệu
tinh tú, vạn vật vận chuyển ĐIỀU HÒA, thì liền nhận biết có
MỘT ĐẤNG THIÊNG LIÊNG điều khiển. Người theo Đạo Công Giáo
cũng được đào luyện một tinh thần trung hòa trong lý luận, cân đối,
không thái quá không bất cập. Sách Giáo lý dạy rằng: Con người có :Xác-
Hồn, Vật chất-Tinh thần, Thiên đàng-Hỏa ngục, Tự nhiên-Siêu nhiên,
Cá nhân-Xã hội… Những cặp “Song Trùng”(hay Đạo
Hai)này biểu lộ một tinh thần quân bình, điều hòa trong nhận thức và
cách tiếp cận với thế giới bên ngoài. Triết Lý Âm-Dương Điều hòa của
Văn hóa Việt Nam cũng giúp ta hiểu biết, và quen thuộc với ý niệm
về “Bí –Tích” trong Đạo Công Giáo. Trong Bí-Tích Rửa
tội(Baptism), nước lã, dầu thánh, lời đọc là phần Hữu Hình,
đồng thời ám chỉ, biểu trưng cho thực tại Vô-Hình, chính là Ơn
Nghĩa tử với Chúa tẩy sạch mọi tội lỗi, và ban Ơn Chúa Thánh
Thần để tăng cường đời sống tâm linh, và bảo đảm cho người lãnh
Bí-Tích Ơn Trường Sinh, Vĩnh Phước.
2/Tình Yêu Tự Nhiên và Tình Yêu Siêu
Nhiên
Ngay trong lãnh vực TÌNH ÁI, Kinh Thánh và Thần Học
Công Giáo cũng nhìn nhận những thực tại tự nhiên, vật chất làm
biểu tượng ám chỉ những thực tại thiêng liêng vô hình: Do đó,
Kinh Thánh Cựu Ước so sánh Tình ái của Vợ-Chồng với Tình Thương của
Giavê đối với dân Do thái. Các tiên tri đã sánh ví tội bất trung
của dân Do thái đối với vị Chú Tể như tội bội tín của một người vợ
ngoại tình. Thánh Tông Đồ Paulô đã viết, và so sánh tình yêu
Vợ-Chồng như Tình Thương của Chúa Cứu Thế đối với Hội Thánh.
Như đã định nghĩa:con người là một “nhân vị có tính dục”(a
sexual Person), nhưng con người cũng có khả năng “thăng hoa”
đời sống tính dục tự nhiên lên nếp sống Siêu Nhiên, để hoàn toàn
dâng hiến bản thân phụng sự Chúa và tha nhân. Bởi vậy, nếu một tu sĩ
thiếu Tình Yêu siêu nhiên, Kết Nghĩa với Chúa, thì đời sống tự
nhiên trở nên cô đơn, cô độc, cô thân, cô thế, vất vưởng, vì
thiếu nơi nương náu. Do đó, theo kinh nghiệm Tu Đức của các vị Thánh
nhân, để khỏa lấp vào nỗi trống rỗng của tâm hồn, hàng triệu triệu
tu sĩ đã chạy đến nhờ bàn tay Từ ái của MẸ MARIA nâng đỡ, phù
trì, trên bước đường gian lao, và HY SINH vác Thánh Giá,
theo Chân Thày Chí Thánh để cộng tác vào công cuộc cứu chuộc nhân
loại. Ngoài ra, gương sáng về Nhân Đức Trinh Khiết của Thánh Cả
Giuse, các Thánh Nam Nữ , của các vị Thừa sai Truyền Giáo, (hơn 20
vị bị giết chết năm 2005), vì đem Tin Mừng của Chúa đến những nơi
hẻo lánh, nguy hiểm, cũng đem lại nguồn an ủi lớn lao, và khích lệ
cho những người trẻ đang tập sự trong nếp sống độc thân, khiết tịnh.
Tuy bề ngoài, vị chân tu cũng ăn uống, nghỉ ngơi, làm việc sinh sống
như mọi người khác, nhưng đời sống Nội Tâm, và Ý nghĩa cuộc đời
thì khác. Thánh Phao Lô, nhà “Đại-thần-bí” đã diễn tả cuộc sống
siêu nhiên đó là”Chúa Sống trong Tôi”
3/ Suy Niệm và Bí –Tích Thánh Thể
Để nuôi dưỡng nếp sống khiết tịnh, độc thân, các Trường phái Tu đức
của các Dòng Tu Công Giáo (như Thánh Beneditô, Thánh Ignatiô..) đã
đặt ra nhiều Phương Pháp Suy Niệm (Meditation) để thực hành, nhưng
mọi cách thế đều cùng chung một chủ đích là huy động toàn thân con
người, các giác quan, nhất là tập trung tư tưởng, tình cảm và ý chí
muốn KẾT HIỆP cùng Chúa Cứu Thế là cứu cánh của đời tận hiến. Suy
Niệm cũng là một hình thức Cầu Nguyện, nhưng đặc biệt dùng Lý trí,
để tìm hiểu và nghiền ngẫm những Chân Lý đã được mạc khải trong Kinh
Thánh.
Theo kinh nghiệm của các vị Thánh Nhân, như Đức Cố Giáo Hoàng Gioan
Phao Lô I I, việc cầu nguyện, và suy niệm trước Thánh Thể
là cách thế tốt nhất để tăng cường sức mạnh thiêng liêng, để
chống lại cơn cám dỗ trong nếp sống độc thân, cô đơn và được Chúa an
ủi khi tâm trí hoàn toàn kết hiệp với Chúa đang hiện diện. Kinh
nghiệm trong các tuần Tĩnh Huấn của Phong Trào Cursillo cũng minh
chứng một hiện tượng tâm linh khác thường. Trong phòng tối, các khóa
sinh quì cầu nguyện, và bộc lộ tâm sự với Chúa Giêsu hiện diện
trong Thánh Thể, thì hầu hết mọi người đều tuôn trào nước mắt vì quá
xúc động, vì Tình Yêu mật thiết với Thày Chí Thánh. Do đó, Dòng “Anh
Em Tiểu Đệ”hay “Tiểu Muội”do Chân Phước Charles de Foucauld sáng lập,
đã coi việc chầu Thánh Thể, trong sa mạc vắng lặng, hoặc dưới túp
lều tranh tả tơi, nóng bức, là nguồn sinh khí ban thần lực cho các
tâm hồn khiêm nhu, nghèo khó, khiết tịnh.
4/ Suy Niệm và cuộc đời “Phù Vân”
Suy niệm về cuộc đời “Phù Vân”( mây trôi nổi, chóng qua mau hết),
cũng là một nhận xét sâu xa về giá trị thật của đời người, và là một
phương thế Tu Thân khá hiệu nghiệm. Cho đời là “Bể khổ”, là “Vô
thường”, biến đổi luôn, chẳng có gì là “thường hằng bất biến”, có thể
bị người đời phê phán là bi quan, yếm thế, trốn tránh cuộc đời, vì
thiếu qui hướng về Chúa là Đấng Vĩnh Cửu. Trong các Sách dạy về Tu
Đức, cuốn sách “GƯƠNG CHÚA GIÊSU”( Imitation of Jesus Christ, thường
gọi là:Sách Gương Phúc) mở đầu bằng những lời khuyên như sau:
“ Mọi sự đều giả dối, trừ ra yêu mến và làm tôi một mình Chúa
mà thôi!”
Đây là một châm ngôn và nguyên tắc để giảng nghĩa Sách Thánh như
Sách GIẢNG VIÊN( Ecclesiastes), Các Thánh Vịnh (Psalms), Thơ của
Thánh Phao Lô Tông Đồ. Thật vậy, mọi sự trên đời là mau qua may hết,
nhưng con người không bi quan như câu nói:”chết là hết”, hay”chó
chết, hết chuyện”, vì đó là mối tuyệt vọng của kẻ vô tín ngưỡng.
Trái lại, niềm TIN bất biến vào Một Đấng Hằng Có, Vĩnh Cửu, Trường
Tồn, khiến ta càng lạc quan làm việc lành, phước thiện để lập
công nghiệp, để được sống trường sinh, vĩnh phước.
Đây chính là phương thức suy luận điều hòa, quân bình, trong tư
tưởng triết lý của Thiên Chúa Giáo.
-
Trong Sách “GIẢNG VIÊN”:( Đoạn 12, và Kết Luận,
câu:8-13):
“ Giả trá, phù vân, mọi sự đều là giả trá” (câu 8)..
“Hãy Kinh sợ Chúa, và tuân giữ Lề Luật của Chúa, vì đây là tài
sản của con người, Chúa sẽ xét xử mọi việc làm, mọi việc thầm kín,
tốt hay xấu(Câu: 13-14)
- THÁNH VỊNH (Psalms). Số 150 Ca Vịnh, là những
Thánh Thi được dùng trong Phụng vụ các Giờ Kinh, được các Giáo si,
Tu sĩ đọc hằng ngày, hằng giờ. Ý THƠ và lời văn của mỗi Thánh Vịnh
luôn nhắc nhở người tu sĩ độc thân nhận định một cách sáng suốt về
sự mong manh, hư nát của thân thể, vui thú trần gian, và lòng trung
thành, kiên tâm tin tưởng và yêu mến Chúa mới đem lại Hạnh Phúc thật.
Do đó, một tu sĩ độc thân bỏ đọc Thánh Vịnh mỗi ngày, hay đọc một
cách máy móc, thiếu cảm nghiệm, thì khó mà sống đời Khiết tịnh một
cách vui tươi, hứng khởi, lạc quan được.
- THÁNH PHAO LÔ, đã viết :( 1 Cor .7,29-31):
“Thời giờ vắn vỏi; còn có cách là những ai có vợ, hãy ở như không có;
những ai than khóc, hãy ăn ỏ như không khóc; những kẻ hân hoan, hãy
ăn ở như không hân hoan; những người mua sắm hãy ăn ở như không có
gì; những ai dùng sự đời này, hãy ăn ở như không tận hưởng, vì chưng
bộ mặt thế gian này đang qua đi.”
TẠM KẾT: TU ĐỨC của HỘI XUÂN BÍCH
Tu đức được giảng dạy và huấn luyện trong các Chủng Viện do Hội các
Linh Mục Xuân Bích quản trị, thuộc “Trường Phái Tu Đức Pháp quốc”
(French School of Spirituality, với các vị như Thánh John Eudes,
Thánh Vincent de Paul, Cardinal Bérulle, Thánh J.B de la Salle, Jean
Jacques Olier..) Chủ đích là huấn luyện cho các Linh Mục, Giáo sĩ”
đời sống nội tâm”( interior life) và” tinh thần
tông đồ, truyền giáo” (apostolic spirit). Cha Jean Jacques
Olier, vị Sáng lập Hội các Linh Mục Xuân Bích đã viết:
“Chủng Viện Xuân Bích.. đã thánh hiến, tận hiến mình để Tôn Thờ
Chúa Giêsu Kytô là Vị Thượng Tế và là Vị Tông Đồ cao cả của Chúa
Cha; và Tôn Kính Ngài đang sống động trong Hội Thánh (Phẩm trật Hội
Thánh). Hằng ngày, Chủng Viện Xuân Bích cầu nguyện cho mình và cho
toàn thể Hội Thánh được tinh thần tông đồ, để đổi mới nơi chính mình
Tình Yêu của Chúa Giêsu Kytô, và thái độ Tôn Thờ của Người đối với
Đức Chúa Cha; đặc biệt, cầu nguyện cho hàng Giáo sĩ có tinh thần
tông đồ, vì các vị này là nguồn mạch sự thánh thiện, để các ngài
phân phát cho giáo dân” (Divers écrits, I, 67)
Qua bản văn trên, có thể tóm tắt: Sứ Mệnh (Mission)
của Chủng viện Xuân Bích là canh tân tình yêu mến cúa Giêsu Kytô
trong Hội Thánh, qua việc canh tân lòng đạo đức của các Giáo sĩ Địa
phận. Do đó, các Linh Mục, Giáo sĩ phải là MÔ PHẠM, GƯƠNG MẪU
cho đời sống của các Tín Hữu. Cũng vì những lý do kể trên,
Các Chủng Viện Xuân Bích đặc biệt quan tâm để ngăn ngừa những tội
phạm về” Lạm dụng tính dục đối với trẻ em”, vì phạm
đến nhân phẩm của nạn nhân, hơn nữa, vì mâu thuẫn với niềm TIN
NƠI CHÚA GIÊSU, là cùng đích của đời Sống Tận Hiến, Khiết Tịnh.
Lm. Jos. Cao Phương
Kỷ
|