I. Nhập đề : hướng nhìn người linh mục từ Trentô đến Vatican
II
Thần học về chức linh mục của Công Đồng Trentô đã kế thừa trực
tiếp gia sản của thần học kinh viện, nhất là của thánh Tôma,
bằng cách khởi đi từ chức tư tế và tương quan giữa chức tư tế và
hy tế (sacerdoce et sacrifice). Trong văn bản chính thức bằng
tiếng La tinh, linh mục được gọi là sacerdos và thỉnh thoảng mới
được gọi là presbyter. Linh mục được định nghĩa như là người cử
hành Thánh Thể và tha tội [1].
Để hiểu lý do tại sao Công Đồng Trentô có cái nhìn ưu tiên này
về chức linh mục, ta cần đặt Công Đồng này vào trong bối cảnh
lịch sử, trong những điều kiện và những ý hướng của Công Đồng,
và phải áp dụng khoa chù giải (herméneutiques) để lý giải Công
Đồng này.
Trước hết, Công Đồng đã bị hạn chế bởi cuộc tranh luận trực tiếp
với nhóm Cải Cách-Tin Lành. Nhóm này phủ nhận tính chất hy tế
của Thánh Lễ và phủ nhận chức linh mục hữu hình và công khai, vì
thế, Công Đồng đã phải phân chia công việc của mình thành hai
lãnh vực song đối với nhau : một mặt thuộc lãnh vực tín lý, mặt
khác phải đề ra những cuộc canh tân trong nội bộ Giáo Hội.
Khi các nhà Cải Cách, đặc biệt là Luther, chỉ coi chức linh mục
là thừa tác vụ rao giảng Lời Chúa (ministère de la Parole), thì
Công Đồng, vì phản ứng lại, nên đã không muốn nói đến chức năng
ấy trong Sắc lệnh tín lý (Décret dogmatique) để tỏ ra không
nhượng bộ đối phương. Nhưng trong Sắc lệnh về việc canh tân Giáo
Hội, (Décret de réformation), Công Đồng lại thường xuyên nhắc
rằng các giám mục, các cha quản xứ và toàn thể các linh mục có
bổn phận phải rao giảng Lời Chúa. Hơn nữa, Công Đồng còn khẳng
định rằng “rao giảng Tin mừng là trách vụ chính yếu của các giám
mục”[2]. Sắc lệnh canh tân của Công Đồng Trentô đã diễn tả minh
bạch ba nhiệm vụ của chức linh mục thừa tác như sau :
“Huấn lệnh của Thiên Chúa đòi buộc tất cả những ai được giao
trách nhiệm chăm sóc các linh hồn phải biết các con chiên của
mình; phải dâng hy lễ cho họ; phải nuôi dưỡng họ bằng việc rao
giảng Lời Chúa, bằng việc cử hành các Bí tích và bằng gương mẫu
của các việc lành; phải chăm sóc người nghèo và những người bất
hạnh với tình phụ tử và phải chăm chú vào những trách nhiệm mục
vụ khác”[3].
Cũng trong chiều hướng này, từ nay khả năng giáo huấn dân Chúa
sẽ là một điều kiện cần thiết để được phong chức.
Như vậy, vì phải chống lại Tin Lành, nên trong Sắc lệnh tín lý,
Công Đồng phải ưu tiên bàn về quyền Bí tích của chức linh mục.
Công Đồng giải thích lý do Chúa Giêsu thiết lập chức linh mục là
để cho Hy tế Thập giá được hiện tại hoá trong Hy tế Thánh Thể,
và vì có hy tế Thánh Thể, nên phải có người cử hành : “Vì hy tế
Thánh Thể hữu hình, nên phải có chức tư tế hữu hình”[4].
Hướng nhìn về chức linh mục như thế sẽ làm nổi bật lên quyền
bính của linh mục và sự khác biệt thuộc bản chất giữa linh mục
và người giáo dân. Từ đó, người ta nhìn linh mục như người cao
trọng, người có quyền tế lễ, có quyền làm cho bánh và rượu trở
nên Mình và Máu Đức Kitô, có quyền tha tội. Linh mục là “Chúa
Kitô thứ hai” (Alter Christus), linh mục “cao trọng hơn các
thiên thần”.
Thừa tác vụ rao giảng của linh mục không được bàn đến trong Sắc
lệnh tín lý, vì để chống lại các nhà cải cách. Như thế, Công
Đồng đã muốn nói tới cái tối thiểu bằng cách cho thấy những
khẳng định của mình đối nghịch lại với những khẳng định của các
nhà Cải cách.
Như vậy, nếu ngày nay ta muốn hiểu Công Đồng Trentô, thì ta phải
đi xa hơn việc tham chiếu Sắc lệnh tín lý. Với Sắc lệnh thành
lập các chủng viện, Công Đồng đã góp phần đào tạo khuôn mặt mới
của người linh mục- mục tử (prêtre pasteur), vì càng được huấn
luyện thì càng có khả năng loan báo Lời Chúa.
Khởi điểm thần học về chức linh mục của Công Đồng Trentô là nhìn
chức linh mục trong tương quan với các Bí tích, đặc biệt là
Thánh Thể, trong khi đó, Công đồng Vatican II đã suy tư về chức
linh mục trong một không gian rộng lớn hơn, đặt chức linh mục
trong mầu nhiệm Giáo Hội và sứ vụ của Giáo Hội.
Khi đặt chức linh mục trong mầu nhiệm Giáo Hội và sứ vụ của Giáo
Hội, ngoài chức năng thánh hoá, chúng ta thấy còn hai chức năng
khác : chức năng trong tương quan mục vụ mà trong đó người linh
mục làm chứng cho Tin mừng và chức năng phục vụ cho ân sủng nơi
tâm hồn các tín hữu, nhờ việc linh hoạt và đồng hành với cộng
đoàn.
Thượng Hội Đồng Giám Mục năm 1990 đã hướng những mối ưu tư và
những suy nghĩ của mình vào vấn đề gia tăng ơn gọi linh mục, vào
việc đào tạo – sao cho các ứng sinh hiểu biết và nối gót theo
Chúa Giêsu, đồng thời học tập cử hành và sống Bí tích Truyền
Chức Thánh là bí tích làm cho họ nên đồng hình đồng dạng với
Chúa Kitô là Đầu và Mục Tử, là Tôi Tớ và Phu Quân của Giáo Hội –
và vào việc xác định những đường hướng đào tạo trường kỳ thích
hợp để nâng đỡ cách thiết thực và hữu hiệu chức vụ và đời sống
thiêng liêng của các linh mục.
Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II, trong Tông Huấn hậu Thượng Hội
Đồng Giám Mục “Pastores dabo vobis” đã nói đến cội nguồn của
thừa tác vụ linh mục là mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, mục đích
của thừa tác vụ linh mục là phục vụ Giáo Hội và cứu độ thế giới
với hướng đi truyền giáo thật bao la, chứ không hạn hẹp, và quy
chiếu về Chúa Kitô là chìa khoá tuyệt đối cần thiết để có thể
thấu hiểu thực tại linh mục[5].
Chức linh mục ngày nay được nhìn từ một chân trời thật bao la,
nhìn trong tương quan với sứ vụ của Giáo Hội, và sứ vụ này tiếp
nối sứ vụ của Chúa Kitô. Hướng nhìn chức linh mục như vậy, vừa
khởi đi từ giáo hội học hiệp thông và Kitô học, nó không cho
phép chúng ta “giảm thiểu tối đa” căn tính của người linh mục
chỉ còn lại như một nhân vật “thánh thiêng” cử hành bí tích hay
người “phân phát các bí tích”.
Qua con đường lịch sử, chúng ta thấy rằng đối với Công Đồng
Trentô, nội dung của chức linh mục là “quyền tư tế”, là “quyền
thánh chức” (potestas ordinis), quyền cử hành Thánh Thể, linh
mục là người tế lễ. Đối với Vatican II, nội dung chức linh mục
được lồng trong một không gian rộng lớn hơn, đó là sứ vụ rao
giảng Tin Mừng của Giáo Hội và rằng tất cả công cuộc Tin mừng
hoá hướng về Hy Tế Thánh Thể. Như vậy, cùng một lúc, linh mục là
thừa tác viên Lời Chúa, thừa tác viên các bí tích và người lãnh
đạo cộng đoàn.
Trong bài chia sẻ này, chúng ta sẽ suy nghĩ về tương quan giữa
linh mục và Lời Chúa, hay nói khác đi, linh mục là thừa tác viên
Lời Chúa.
II. LINH MỤC LÀ THỪA TÁC VIÊN LỜI CHÚA
Trong ba chức năng : rao giảng, thánh hóa và lãnh đạo của linh
mục, Tông huấn hậu Thượng Hội Đồng Giám Mục “Pastores dabo vobis”
đã nói đến chức năng đầu tiên của linh mục là rao giảng Tin Mừng
:
“Trước hết, linh mục là thừa tác viên Lời Chúa. Linh mục được
hiến thánh và sai đi để loan báo Tin Mừng Nước Trời cho mọi
người, mời gọi mọi người vâng phục đức tin và hướng dẫn các tin
hữu, để mỗi ngày họ một hiểu biết và thông hiệp sâu xa hơn vào
mầu nhiệm của Thiên Chúa, đã được Đức Kitô mạc khải và truyền
đạt cho chúng ta”[6].
Linh mục, thừa tác viên của Lời Chúa, nhưng không phải trong tư
cách là “chủ” mà là “tôi tớ”, “kẻ phục vụ” Lời. Đây cũng là ý
nghĩa nguyên thủy của chữ “thừa tác” (diakonia = ministeria =
phục vụ) trong Tân ước
Các tông đồ đã dạy cho Giáo Hội phải dứt khoát ngăn chặn nguy cơ
muốn trở thành “chủ” của Lời khi xưng nhận mình và những người
kế vị chỉ là những “tôi tớ của Lời Chúa” (Lc 1,2; Cv 6,4; Rm
1,1).
Là “tôi tớ của Lời” có nghĩa là phải phục vụ Lời. Theo cha
Raniero Cantalamessa thì “công việc phục vụ Lời” đòi buộc những
thừa tác viên Lời phải có một số thái độ tinh thần cụ thể[7]:
Thái độ trước nhất phải có là sự nhất quán giữa Lời Chúa được
rao giảng với đời sống người rao giảng. Đây là cách phục vụ Lời
Chúa tiên quyết và căn bản. Các tôi tớ của Lời Chúa phải là
những người tuân theo Lời Chúa. Nếu rao giảng mà không sống thì
đâu có khác gì các ký lục và biệt phái đã từng bị Chúa Giêsu quở
trách khi Ngài căn dặn dân chúng : “Những gì họ nói, anh em hãy
làm, hãy giữ; nhưng đừng theo hành động của họ mà làm, vì họ nói
mà không làm. Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người khác,
nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay lay thử” (Mt
23,3-4).
Chúng ta thử suy nghĩ thì sẽ thấy có một điều gì “bất ổn” khi
một đàng những người rao giảng Lời Chúa cao rao một lý tưởng cao
đẹp nhưng đàng khác bản thân lại sống mâu thuẫn, chẳng hạn như
họ hô hào người khác dấn thân “vào con đường hẹp”, còn chính họ
lại vi vút giữa đại lộ thênh thang. Nếu như thế thì làm sao con
người ngày nay, những con người khao khát sự trung thực có thể
tin được, như Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã cảnh giác những người
rao giảng Tin Mừng trong Tông huấn “Loan báo Tin Mừng” thời danh
của ngài :
“Ngày nay, người ta thường hay lặp đi lặp lại rằng : thế kỷ này
khao khát sự trung thực. Nhất là khi nói tới giới trẻ, người ta
quả quyết rằng họ ghê tởm những gì là giả tạo, giả mạo và tìm
kiếm chân lý và sự trong sáng trên tất cả. Chúng ta phải tỉnh
táo trước những “dấu chỉ thời đại” ấy. Âm thầm hay lớn tiếng,
thiên hạ luôn luôn vặn hỏi chúng ta : Các người có thực sự tin
điều các người loan báo không ? Các người có sống điều các người
tin không ? Các người có rao giảng thực sự điều các người sống
không ? Hơn bao giờ hết, làm chứng bằng đời sống đã trở thành
một điều kiện thiết yếu để việc rao giảng có hiệu quả thâm sâu.
Bằng ngả này, chúng ta lại chịu trách nhiệm, đến một mức độ nào
đó, về bước tiến của Tin Mừng mà chúng ta công bố”[8].
Đối với con người ngày nay thì Lời đã được sống, Lời đã trải
nghiệm mới có một sức mạnh thuyết phục những kẻ nghe.
Tuy nhiên, nhìn vào bản thân, chúng ta đều mang một kinh nghiệm
này là cuộc đời chúng ta còn quá xa với Lời Chúa, còn có một hố
sâu ngăn cách giữa Lời và thân phận yếu đuối của con người,
“chúng ta giữ kho tàng này trong những bình sành dễ vỡ” (x. 2Cr
4,7). Nếu chưa có được sự nhất quán giữa đời sống thừa tác viên
và Lời Chúa thì trước tiên phải có sự khiêm nhường. Đây là thái
độ tinh thần thứ hai cần thiết cho những “tôi tớ của Lời Chúa”.
Họ phải tự xóa nhòa bản thân mình trước sự hiện diện của Lời
Chúa, phải khước từ vinh quang cho riêng mình. Thừa tác viên Lời
Chúa thực sự phải là người có lối suy nghĩ như thánh Gioan Tẩy
Giả, “tôi chỉ là tiếng kêu” (x. Ga 1,23), mãi mãi chỉ là tiếng
kêu của Lời Chúa mà thôi, và như thánh Phaolô, “không rao giảng
bản thân, nhưng rao giảng Đức Giêsu Kitô là Chúa”.
Đề cập đến lòng khiêm tốn làm tôi liên tưởng tới thánh Augustinô.
Ngài đã nhìn chức giám mục của ngài thật khiêm tốn. Ngài luôn
quy chiếu chức giám mục vào Chúa Kitô, vị Mục Tử duy nhất và
nhân lành, Tôi Tớ phục vụ và hiến dâng mạng sống mình vì muôn
người. Thầy Dạy và người Chỉ Đạo duy nhất. Đối với thánh
Augustinô, giám mục là người được Thiên Chúa đặt lên làm mục tử
để chăm sóc và bảo vệ dân Chúa, nhưng chỉ mình Đức Kitô mới thực
sự là Mục Tử và người Bảo Vệ dân, giám mục là thầy dạy Lời Chúa,
nhưng cả giám mục lẫn giáo dân đều ở dưới mái trường duy nhất
của Đức Kitô :
“Chúng tôi làm việc để bảo vệ, nhưng lao khổ của chúng tôi cũng
hoài công, nếu Ngài, Đấng thấu suốt tư tưởng anh em, lại không
gìn giữ. Nhưng dù anh em thức hay anh em ngủ, Ngài vẫn hằng canh
giữ anh em […]. Chúng tôi quả là người bảo vệ anh em, xem đó như
là bổn phận nằm trong trách vụ của chúng tôi, nhưng chúng tôi
muốn chính mình cũng được gìn giữ cùng với anh em. Theo một
nghĩa, quả thực chúng tôi là mục tử cho anh em, nhưng dưới cây
gậy của cùng một vị Mục Tử, thì chúng tôi là con chiên cùng với
anh em. Theo một nghĩa, từ chỗ đứng này, chúng tôi là những
người giảng dậy cho anh em, nhưng dưới sự hướng dẫn của Vị Thầy
duy nhất, thì tại đây, chúng tôi ở dưới cùng một mái trường với
anh em và chúng tôi là bạn đồng môn với anh em”.[9]
Thánh Augustinô cho rằng một quan niệm về chức giám mục quá nhấn
mạnh đến quyền bính, uy tín, địa vị, lợi ích cá nhân, dưới bất
cứ hình thức nào, mà lơ là với những đòi hỏi phải hoàn toàn hiến
thân cho chức năng, rõ ràng đi ngược lại với cái nhìn về chức tư
tế phát xuất từ Thánh Kinh và Truyền thống Giáo Hội.
Thừa tác viên Lời Chúa còn phải tạo được mối thân tình sâu sa
với Lời Chúa bằng một con tim mềm mại và cầu nguyện. Đó là thái
độ tinh thần mà mỗi ngày thừa tác viên Lời Chúa phải “nuốt lấy
Lời”. Niềm vui hạnh ngộ giữa thừa tác viên rao giảng và Lời Chúa
thật mênh mông dạt dào, tương xứng với nỗi nhọc nhằn phải chịu
trong thời gian tìm tòi và đợi trông. Ngôn sứ Giêrêmia đã mô tả
phút giây đặc biệt này như sau : “Các Lời của Người, vừa gặp
được, tôi đã ngốn lấy; Lời Người là sự sướng vui cho tôi, niềm
hoan lạc của lòng tôi”. (Gr 15,16).
Thánh Kinh đã sử dụng hình ảnh này nhiều lần để diễn tả giây
phút Thiên Chúa ban Lời Người cho các ngôn sứ của Người.
Êzêchiel cũng sử dụng hình ảnh này :
“Tôi nhìn, thì kìa có bàn tay đưa về phía tôi, bàn tay đó cầm
một cuộn sách, rồi mở ra trước mặt tôi; sách được viết cả mặt
trong lẫn mặt ngoài, trong đó có viết những khúc ai ca, những
lời than vãn và những câu nguyền rủa." Đức Chúa phán với tôi : "Hỡi
con người, thấy gì, cứ việc ăn ! Hãy ăn cuộn sách này rồi đi nói
với nhà Ít-ra-en.". Tôi mở miệng ra, và Người cho tôi ăn cuộn
sách ấy. Người lại phán với tôi : "Hỡi con người, hãy ăn cho no
bụng và nuốt cho đầy dạ cuộn sách Ta ban cho ngươi đây." Tôi đã
ăn cuộn sách, và nó ngọt như mật trong miệng tôi” (Ed 2,9-3, 3).
Hình ảnh này lại xuất hiện một lần nữa trong sách Khải Huyền với
việc thêm vào một yếu tố quan trọng khác: “cuốn sách nhỏ” thực
sự vẫn “ngọt ngào như mật” trong miệng, nhưng rồi biến thành
“đắng đót” trong lòng dạ của vị ngôn sứ :
“Rồi tiếng tôi đã nghe từ trời, lại nói với tôi và bảo : "Hãy đi
lấy cuốn sách mở sẵn trong tay thiên thần đang đứng trên biển và
đất.". Tôi đến gặp thiên thần và xin người cho tôi cuốn sách nhỏ.
Người bảo tôi : "Cầm lấy mà nuốt đi ! Nó sẽ làm cho bụng dạ ông
phải cay đắng, nhưng trong miệng ông, nó sẽ ngọt ngào như mật
ong.". Tôi cầm lấy cuốn sách nhỏ từ tay thiên thần và nuốt đi.
Trong miệng tôi nó ngọt ngào như mật ong, nhưng khi tôi nuốt rồi,
thì bụng dạ tôi cay đắng” (Kh 10,8-10).
Quyển sách ở đây tượng trưng cho sứ điệp cụ thể mà vị ngôn sứ
được mời gọi công bố trong một hoàn cảnh cụ thể, nhưng rõ ràng
cũng tượng trưng cho Lời Chúa nói chung. Thiên Chúa nói với vị
ngôn sứ : “Cầm lấy quyển sách mà nuốt đi”. Giữa việc đọc hay
nghiên cứu một quyển sách với việc nuốt lấy nó có một sự khác
biệt lớn lao. Trong trường hợp thứ nhất, quyển sách vẫn còn ở
bên ngoài, tương quan giữa thừa tác viên và Lời Chúa vẫn còn là
tương quan gián tiếp và còn ngăn cách. Lời Chúa chỉ đi qua đôi
mắt hoặc não bộ. Trong trường hợp thứ hai, Lời Chúa được “nhập
thể” trong thừa tác viên, “lời đã trở thành thịt”, một lời sống
động và hiệu năng.
Trong Tông huấn “Pastores dabo vobis”, Đức Giáo Hoàng
Gioan-Phaolô II đã suy niệm về mối tương quan này như sau :
“Vì thế, chính linh mục trước tiên phải tạo được một mối thâm
tình sâu đậm giữa bản thân mình với Lời Chúa. Khía cạnh ngữ học
hoặc chú giải mặc dầu cần thiết, vẫn chưa đủ để gọi là hiểu biết
Lời Chúa. Linh mục phải đón nhận Lời Chúa với một tấm lòng mềm
mại và nguyện cầu để cho Lời Chúa thấm nhập đến tận sâu thẳm ý
nghĩ và tình cảm của mình và làm nẩy sinh nơi mình một tinh thần
mới, làm nẩy sinh “tư tưởng của Chúa” (1Cr 2,16)[10].
Để mang Lời Chúa, thừa tác viên không những phải có sự nhất quán
và khiêm nhường, một tấm lòng mềm mại và cầu nguyện, mà còn phải
đơn sơ và khó nghèo. Thánh Phaolô mời gọi các tín hữu
Thessalonica cầu nguyện cho những người rao giảng Tin Mừng “để
lời Chúa được phổ biến mau chóng và được tôn vinh, như đã thấy
nơi anh em” (2Tx 3,1).
Thánh Phaolô có lần tâm sự với môn đệ Timôthê yêu dấu về việc
ngài không bao giờ để cho Lời Chúa bị xiềng xích, mặc dù bản
thân ngài đang bị xiếng xích : “Cha đang chịu đau khổ, cha còn
phải mang xiềng xích như một tên gian phi, nhưng Lời Chúa không
bị xiềng xích” (2Tm 2,9). Qua tâm sự này, thánh Phaolô có ý nói
rằng điều quan trọng là đừng để Lời Chúa bị xiềng xích, còn mọi
chuyện khác đều không thành vấn đề.
Một cách nào đó, Lời Chúa bị xiếng xích, kềm hãm khi những người
mang Lời cậy dựa quá nhiều vào sự khôn ngoan loài người – theo
cách nói của Chúa Giêsu – là có quá nhiều áo khoác và hành trang
quá nặng đè lên vai người tông đồ (x. Lc 10,4), chẳng hạn như
tham vọng thu quén hào nhoáng cho bản thân, thói quan liêu và
chủ nghĩa giáo sĩ, não trạng thích dùng những từ ngữ tù mù,
không sao hiểu được hay là cổ võ những kinh nghiệm chủ quan làm
lu mờ Tin Mừng. Những thứ này đã gâm nhấm Lời Chúa, làm cho Lời
Chúa xa vời với cuộc sống và không được người nghe đón nhận.
Vì rao giảng Lời Chúa không chỉ là một sự chuyển giao một sứ
điệp trên bình diện tri thức, nhưng là ‘quyền lực của Thiên Chúa
để cứu rỗi những kẻ tin’ (Rm 1,16) được thực hiện cho mọi thời
đại trong Đức Kitô, cho nên việc giảng dạy này nơi Giáo Hội đòi
hỏi các thừa tác viên phải có một nền tảng siêu nhiên hầu bảo
đảm tính xác thực và hiệu năng của sứ điệp, như cách diễn tả sau
đây của Pastores dabo vobis :
“Bởi đó, những lời nói và hơn nữa những lựa chọn, những thái độ
của linh mục phải làm sao để ngày càng nên trong suốt hơn đối
với Tin Mừng, để loan báo Tin Mừng và làm chứng cho Tin Mừng.
Chỉ bằng cách “ở trong” Lời Chúa mà linh mục có thể trở nên môn
đệ hoàn hảo của Chúa, có thể thấu triệt chân lý và có thể thực
sự trở nên tự do, vượt qua mọi trạng huống trái nghịch hoặc xa
lạ với Tin Mừng. (x. Ga 8,31-32)”[11].
III. LINH MỤC, THÙA TÁC VIÊN CỦA LỜI “NHÂN DANH ĐỨC KITÔ VÀ
NHÂN DANH GIÁO HỘI”
Linh mục loan báo Lời Chúa với tư cách là thừa tác viên của Lời
“nhân danh Đức Kitô (in persona Christi) và nhân danh Giáo Hội
(in persona Ecclesiae). Đây là một thừa tác vụ xuất phát từ bí
tích Truyền Chức và được thực hành nhờ quyền bính của Đức Kitô.
Điều này có nghĩa là khi loan báo Lời Chúa, linh mục tham dự vào
quyền làm ngôn sứ của Đức Kitô là Đầu và Mục Tử và của Giáo Hội
trong tư cách là thừa sai của Đức Kitô, “Như Chúa Cha đã sai
Thầy, Thầy cũng sai anh em”. (Ga 20,21).
Là thừa tác viên của Lời “nhân danh Đức Kitô” có nghĩa là linh
mục phải lệ thuộc vào Đức Kitô theo cách diễn tả sống động sau
đây của Pastores dabo vobis :
“Linh mục phải là người đầu tiên tin vào Lời Chúa với ý thức
tròn đầy rằng những lời lẽ trong thừa tác vụ của mình không phải
là “của mình”, nhưng là của Đấng đã sai mình. Linh mục không
phải làm chủ Lời Chúa : linh mục là người phục vụ Lời. Không
phải linh mục là người duy nhất chiếm hữu Lời Chúa : linh mục là
người mắc nợ Lời Chúa đối với dân Thiên Chúa”[12].
Là thừa tác viên Lời “nhân danh Đức Kitô” còn có nghĩa là, một
cách nào đó, linh mục được tham dự vào sứ mạng cứu rỗi của chính
Lời, không những vì các ngài nói về Đức Kitô, mà còn vì các ngài
loan báo Tin Mừng cho những kẻ nghe các ngài với chính quyền lực
đã kêu gọi các ngài, một quyền lực do việc các ngài tham dự vào
sự hiến thánh và sứ mạng của Đức Giêsu, Ngôi Lời Thiên Chúa nhập
thể. Những lời này của Chúa vẫn còn vang vọng trong tai các thừa
tác viên “Ai nghe anh em là nghe Thầy, ai khước từ anh em là
khước từ Thầy”. (Lc 10,16)
Là thừa tác viên của Lời Chúa “nhân danh Giáo Hội” trong tư cách
là Mẹ và Thầy (Mater et Magistra), linh mục là thầy dạy Lời Chúa.
Tham dự vào chức năng thầy dạy của Giáo Hội, linh mục được mời
gọi chuyển đạt Tin Mừng trong tính toàn vẹn của nó. Điều này mời
gọi linh trau dồi nơi mình một sự nhạy cảm, một trạng thái sẵn
sàng và một sự gắn bó đặc biệt đối với Truyền Thống sống động
của Giáo Hội và đối với Huấn Quyền của Giáo Hội. Tất cả mọi điều
ấy không xa lạ đối với Lời Chúa nhưng góp phần vào việc cắt
nghĩa Lời Chúa được chuẩn xác hơn và bảo vệ ý nghĩa trung thực
cho Lời Chúa.
IV. LỜI CHÚA VÀ LỜI CHÚNG TA : DUYỆT LẠI LỜI RAO GIẢNG CỦA
CHÚNG TA
Ngôn sứ Giêrêmia đã cho chúng ta nghe tuyên sấm của Giavê nói
với Dân Israel về các tiên tri giả :
“Đức Chúa các đạo binh phán như sau :
đừng nghe lời các ngôn sứ tuyên sấm,
chúng phỉnh phờ các ngươi;
điều chúng nói chỉ là thị kiến do tưởng tượng,
chứ không phải do miệng Đức Chúa phán ra.
Ngôn sứ có chiêm bao thì cứ thuật lại giấc chiêm bao, còn người
đón nhận lời Ta, thì hãy trung thành nói lại lời Ta !
Rơm với lúa có gì chung nhau không ?
Sấm ngôn của Đức Chúa.
Lời của Ta lại chẳng giống như lửa,
chẳng giống như búa đập tan tảng đá sao ?
Sấm ngôn của Đức Chúa.
Vì thế, này Ta chống lại các ngôn sứ ăn cắp lời của Ta phán với
kẻ này người kia
Sấm ngôn của Đức Chúa” (Gr 23,16. 28-30)
Một cách nào đó, Thiên Chúa đã chất vấn các tiên tri giả về việc
họ đánh tráo Lời Chúa làm lời của họ và lời của họ làm lời của
Chúa. Rơm với lúa đâu có gì chung với nhau thì Lời Chúa và lời
con người cũng đâu có gì chung với nhau !
Các tiên tri giả là những kẻ không trình bày Lời Chúa trong sự
tinh ròng nguyên tuyền, nhưng làm nhạt nhẽo và suy yếu Lời Chúa
bằng bao nhiêu hư từ, quá nhiều lời tầm thường và vô vị và từng
ngàn lời phàm trần phát ra từ tâm địa của họ. Họ “bóp méo” và
“xuyên tạc” Lời Chúa, nói theo ngôn ngữ của thánh Phaolô. (x.
2Cr 2,17; 4,2).
Chúng ta hãy để cho Lời Chúa chất vấn chúng ta, biết đâu có lúc
tôi đã tiên tri giả ! Nhiều lúc người tín hữu giáo dân xin bánh
nhưng họ chỉ nhận được hòn đá (x. Mt 7,9), bởi vì các hư từ, các
từ ngữ chết thì lám sao có thể giảm được cơn đói Lời Chúa của
người tín hữu, chữ nghĩa suông mà không có cầu nguyện chiêm niệm
thì làm sao có thể làm vui lòng Thiên Chúa khi rao giảng Lời
Người.
Thế giới và con người thời đại đã quá ngán ngẩm các từ ngữ rỗng
tuếch, các biểu ngữ không có hồn. Chúng ta cần công bố “một thời
kỳ chay tịnh” ngôn từ. Lời của Môsê xưa kia kêu gọi dân Israel
hãy đi vào trong cõi tĩnh lặng để biết lắng nghe và đón nhận Lời
của Giavê “Hãy im tiếng đi, hỡi nhà Israel, hãy lắng nghe” (Đnl
27,9) như muốn gửi đến từng anh em chúng ta rằng “Phải là người
cầu nguyện trước khi làm người rao giảng”[13].
Lời Chúa sống động và hữu hiệu phát ra từ miệng lưỡi chúng ta để
xây dựng đời sống các tín hữu sẽ tỉ lệ thuận theo mối tương quan
mật thiết giữa con tim chúng ta với tâm hồn và ánh nhìn của
Thiên Chúa như Đức giáo hoàng Phaolô VI nhận định trong Tông
Huấn “Loan báo Tin Mừng” :
“Thế giới tuy có vô vàn dấu hiệu từ khước Thiên Chúa, nhưng một
cách nghịch thường vẫn tìm kiếm Ngài bằng những đường nẻo bất
ngờ và vẫn xót xa cảm thấy cần đến Ngài, thế giới ấy đòi có
những sứ giả Tin Mừng nói về một Thiên Chúa mà họ biết và gần
gũi như thể họ đã từng thấy Đấng không thể thấy (x. Dt 11,27).
Thế giới đòi hỏi và chờ đợi ở chúng ta đời sống giản dị, tinh
thần cầu nguyện, lòng yêu thương đối với mọi người nhất là đối
với những kẻ bé mọn và nghèo khó, đức vâng phục và khiêm tốn, sự
siêu thoát và từ bỏ chính mình và mọi sự. Không có dấu hiệu về
sự thánh thiện như thế, lời chúng ta nói sẽ khó đi vào lòng của
con người thời nay. Nó có thể thành vô ích và vô hiệu”[14].
Chúa Giêsu chẳng bao giờ nói những lời hư từ. Những Lời Ngài nói
đều là “những lời đem lại sự sống đời đời” (Ga 6,68) như thánh
Phêrô đã tuyên xưng sau diễn từ về Bánh hằng sống. Ngài chỉ ban
phát “những Lời Thiên Chúa” (Ga 3,34) và chỉ nói những điều đã
nghe dạy từ Chúa Cha (Ga 12,49).
Hiểu được như thế, chúng ta sẽ không bao giờ dám dùng Lời Chúa
để phục vụ lợi ích của chúng ta hay phục vụ bất cứ một dự án
nhân loại nào. Thiên Chúa không chịu để cho Lời toàn năng của
Người bị lạm dụng để làm đẹp cho các bài diễn văn dịp này dịp
khác hay để tôn vinh cá nhân. Người cũng chẳng ban quyền năng
linh thánh của Lời Người cho các bài giảng đã được soạn sẵn nực
mùi nhân loại. Trong thời gian gần đây, Phúc âm đã bị khai thác
một cách lạm dụng để làm chỗ dựa cho đủ thứ dự án của con người,
từ đấu tranh giai cấp đến thần học giải phóng, từ thần học nữ
quyền (feminist theology) đến chủ trương xác định Thiên Chúa đã
chết. Phúc âm có những lúc đã bị uốn cong để giảng sao cũng được
miễn là phù hợp về mặt xã hội với một giai đoạn nào đó.
V. HƯỚNG TỚI VIỆC RAO GIẢNG LỜI CÓ HIỆU QUẢ
Mặc dù hiệu năng của thừa tác vụ Lời tùy thuộc thiết yếu vào sự
trợ giúp của Chúa, nhưng nó cũng đòi hỏi sự hoàn hảo thuộc bình
diện nhân loại ở trình độ cao nhất có thể. Tài liệu của Bộ Giáo
Sĩ “Linh mục và ngàn năm Kitô giáo thứ ba : Thầy dạy Lời Chúa,
Thừa tác viên bí tích và người lãnh đạo cộng đoàn” ngày
19.3.1999 đã suy nghĩ về một số điều kiện để rao giảng Lời có
kết quả như sau[15]:
Việc giảng dạy đòi hỏi linh mục phải đặc biệt lưu ý đến tầm quan
trọng của sự chuẩn bị xa. Việc chuẩn bị này được cụ thể hóa qua
việc học hỏi và tìm tòi những gì có thể giúp các linh mục trong
khi chuẩn bị.
Là thầy dạy Lời Chúa, linh mục phải có tính nhạy cảm mục vụ để
nhận thức các vấn đề thế giới ngày nay đang quan tâm và còn có
thể đề ra những giải pháp cho họ, như Sác Lệnh “về thừa tác vụ
và đời sống linh mục” của Công Đồng Vatican II đã nêu ra :
“Ngoài ra, để trả lời thỏa đáng những vấn đề do người thời nay
nêu lên, các linh mục phải hiểu cho thấu đáo những tài liệu của
Huấn Quyền, nhất là của các Công Đồng và của các đức giáo hoàng,
cũng như phải tham khảo những tác giả thân học thời danh nhất và
đã được thừa nhận[16]” cũng như “sách Giáo Lý Hội Thánh Công
Giáo”.
Là thày dạy Lời Chúa, ngoài việc chuẩn bị xa như chúng ta vừa
nói, linh mục còn cần chú ý đến sự chuẩn bị gần, một sự chuẩn bị
cần thiết cho việc giảng dạy Lời Chúa, điều này có nghĩa là
trước khi giảng dạy phải hỏi xem : “tôi đã sửa soạn kỹ lưỡng
chưa ?” và “tôi định giảng dạy những gì ?”.
Nguồn tài liệu chính để giảng giải đương nhiên là Lời Chúa trong
Kinh Thánh, nhưng là Lời Chúa đã được nghiền ngẫm trong kinh
nguyện cá nhân và hấp thụ nhờ học hỏi cũng như tiếp xúc đầy đủ
với những tài liệu xứng hợp.
Kinh nghiệm mục vụ cho thấy rõ rằng bản văn Kinh Thánh có sức
mạnh thuyết phục đánh động tâm hồn người nghe. Các Giáo Phụ và
những tác giả lớn khác của truyền thống Giáo Hội dạy chúng ta
cách thức để thâm nhập ý nghĩa Lời Mạc Khải và thông truyền Lời
đó cho người khác. Điều này rất khác xa với mọi hình thức của
“thuyết duy văn tự Kinh Thánh” (biblical fundamentalism) hay là
của việc cắt xén làm thiệt hại đến sứ điệp thần linh.
Linh mục cũng phải trau dồi về các hình thức giảng giải. Chúng
ta sống trong thời buổi thông tin được đánh dấu bằng sự truyền
thông nhanh chóng. Sứ điệp của linh mục phải được trình bày một
cách hấp dẫn.
Giống như cách thức của Đức Kitô, bài giảng của linh mục phải
tích cực, hào hừng và lôi cuốn những người nam nữ tới chân,
thiện, mỹ của Thiên Chúa. Phải trau dồi một giọng nói vui tươi
và sử dụng thứ ngôn ngữ dễ hiểu đối với mọi người thuộc các tầng
lớp xã hội khác nhau và cần phải tránh thứ ngôn ngữ tầm thường
vô vị.
“Chìa khóa’ nhân loại để giảng Lời cho hữu hiệu hệ tại việc các
linh mục phải biết những điều mình cần nói và luôn luôn có sự hỗ
trợ do nghiêm túc chuẩn bị xa hay gần. Điều này khác xa sự ứng
biến của kẻ tài tử.
Khi giảng dạy, linh mục phải biết những người đang nghe mình là
ai, cũng như hiểu biết đúng về thực tại hiện sinh và văn hóa của
các giáo đoàn mình phục vụ. Cần phải luôn tránh những lý thuyết
và những điều tổng quát trừu tượng.. Bởi đó, các linh mục phải
biết đoàn chiên của mình và dùng một kiểu nói hấp dẫn đánh động
lương tâm hơn là làm tổn thương dân chúng, cũng như không sợ
phải nói đúng sự thật.
Cuối cùng, các linh mục còn phải lưu tâm đến phong cách và sự
hợp lý về thời gian bài giảng cũng như việc sử dụng đúng tòa
giảng.
VI. THAY LỜI KẾT
Trước khi kết thúc bài chia sẻ này, chúng ta hãy cùng nhau đọc
lại một lời kinh thật đẹp của thánh Augustinô xin cho được ơn
hiểu biết Lời Chúa trong cuốn Lời Tự tình (Confesssions) của
ngài :
“Xin hãy để Lời Chúa nên nguôn vui thanh khiết cho con. Xin đừng
để con bị lừa lọc trong đó hay lấy đó mà lừa lọc người khác…Xin
lắng nghe hồn con và nghe tiếng than thở từ vực sâu kêu lên đến
Chúa…Xin rộng ban cho con thời giờ để suy ngắm các điều kín
nhiệm của luật Chúa và đừng đóng luật Chúa khi con gõ tìm. Vì
chẳng phải vô cớ mà Chúa đã muốn có ngần ấy trang sách viết đầy
dẫy những điều kín nhiệm như thế… Ôi lạy Chúa, xin hoàn tất việc
Chúa nơi con và soi sáng những trang ấy cho con ! Này đây tiếng
Chúa là niềm hoan lạc của con; tiếng Chúa vượt qua mọi niềm vui.
Xin ban cho con điều con yêu mến… Đừng khước từ thứ cỏ rả của
Chúa khi nó đang đói khát Chúa… Chớ gì các điều bí nhiệm trong
Lời Chúa mở toang cho con khi con gõ tìm. Con nài xin Chúa nhờ
Đức Giêsu Kitô, …nơi Ngài tàng chứa mọi kho tàng khôn ngoan và
thông hiểu (Cl 2,3). Đây là những kho tàng mà con tìm trong các
sách của Chúa”[17]
Dường như trong lời kinh này, thánh Augustinô đã sánh ví cơn đói
khát Lời Chúa của ngài giống như cỏ rả đang khao khát nước và
hướng lời cầu xin vào việc dành nhiều thời giờ để suy gẫm và cầu
nguyện, bời vì, theo ngài, nếu “Lời Chúa không được lắng nghe từ
trong lòng thì họ (những người rao giảng) sẽ thành kẻ huênh
hoang rao giảng Lời Chúa ngoài môi miệng”[18].
Việc suy gẫm Lời Chúa trong kinh nguyện cá nhân của linh mục sẽ
làm cho lời rao giảng của các ngài có tinh thuyết phục, mạch
lạc, xác tín, và cũng từ nguồn mạch này, các ngài kín múc được
lòng nhiệt thành hằng ngày để rao giảng Tin Mừng.
--------------------------------------------------------------------------------
[1] Công đồng Trentô, khoá 23, Décret dogmatique, ch. 1 : Les
Conciles oecuméniques, Décrets (COD), Paris, Cerf, 1994, II-2,
tr. 1509
[2] Công đồng Trentô, Décret de Réformation, can. 9 : COD II-2,
tr. 1363. Khẳng định này được lập lại vào phiên họp 24, Décret
de Réformation, can. 4 : sđd, tr. 1551
[3] Công đồng Trentô, khoá 23 (nghĩa là chính khoá họp mà trong
đó ban hành sắc lệnh tín lý về Bí tích Truyền Chức), Décret de
Réformation, can. 14 : COD II-2, tr. 1513.
[4] DS 957
[5] PDV 12
[6] PDV 26
[7] Raniero Cantalamessa, The mystery of God’s Word (bản dịch
Việt ngữ của Matthia M. Ngọc Đính, CMC, Mầu nhiệm Lời Chúa,
2001, tr. 39).
[8] [8] EN 76
[9] Thánh Augustinô, Giải thích các Thánh vịnh 126,3
[10] PDV 26
[11] PDV 26
[12] PDV 26
[13] Thánh Augustinô, De doctrina christiana 4, 15, 32 : PL 34,
100
[14] EN 76
[15] Chương II, 2
[16] LM 19
[17] Thánh Augustinô, Lời Trần Tinh, 11, 2, 2-4
[18] Thánh Augustinô, Bài giảng 179, 1 : PL 38, 966
LM. Antôn Trần
Đức Khiết