(Bài II, tiếp theo
kỳ trước)
Trong bài trước đã trình bày về cuộc
“Nổi loạn Tính dục” trên thế giới gây nên tang tóc đổ vỡ trong
các gia đình, đặc biệt cuộc khủng hoảng đã xâm nhập cả nơi thánh
thiêng, tu trì, làm tiêu hao ngân quĩ của Giáo Hội, và giảm sút
Ơn Thiên Triệu Linh Mục, Tu Sĩ.
Để giúp hiểu biết và giải quyết vấn
đề từ nguồn gốc, ta đã tìm lời giải thích về ý nghĩa của Tính
Dục, hay Phái Tính,( Nam-Nữ).., khởi nguyên đã được Mặc Khải từ
Kinh Thánh trong Sách Sáng Thế và những Lời Giảng của Chúa Cứu
Thế trong Sách Phúc Âm. Ngoài ra, ta cũng hiểu rằng: số kiếp con
người theo bản năng tự nhiên, phú bẩm từ khi sinh ra, là một
“hữu thể mang Phái Tính”( a sexual person), không
thể huỷ diệt Tính dục của mình được, cho đến khi chết. Nhưng vì
ý chí hùng mạnh của con người, -và dĩ nhiên cần Ơn Trên phù giúp-
con người có thể “Thăng Hoa, hay Siêu Thoát”(Sublimation) Tính
dục, như trong kinh nghiệm của các vị Thánh đã sống nếp sống
“Khắc Khổ, Thần Nhiệm”(Ascetic and Mystic), chẳng hạn như gương
Mẹ Chân Phước Teresa, Calcutta, hay Đức Cố Giáo Hoàng Gioan
Paulô I I. Sẽ bàn về khía cạnh Huyền Nhiệm, Thần Bí này, ở
bài khảo luận thứ ba , vì đây mới thực sự là phương cách
Sống và Huấn Luyện cao nhất, để giúp Giáo sĩ, Tu sĩ và những ai
“tu tại gia”, độc thân, góa bụa, hay có đôi bạn, muốn duy trì
nếp sống Khiết Tịnh, Kết Nghĩa với Chúa.
Sau đây, trong bài khảo luận
hai này, xin bàn thêm hai khía cạnh
khác: I/ Suy tư
của các vị hiền triết, đặc biệt của Văn Hóa Việt Nam, đã dùng Lý
trí và Luơng Năng, Lương Tri, để tìm hiểu “Con Tim” của con
người ra sao ? I I/Mấy Kinh Nghiệm
và Thực hành về Nếp
Sống Tu trì , Độc Thân.
I. SUY LUẬN TRIẾT
LÝ VỀ BẢN NĂNG TÍNH DỤC CỦA
CON NGƯÒI
Ngoài nguồn Mặc Khải trong Kinh
Thánh của Thiên Chúa Giáo, nhiều Tôn giáo khác trên thế giới, từ
xưa tới nay, và rất nhiều triết thuyết, triết gia, …cũng đã đề
cập đến vấn đề Tính dục của con người. Mỹ Nghệ như Điện ảnh, Hội
họa, Điêu khắc, Âm nhạc, nhất là Văn chương Thi Phú, tiểu
thuyết,v,v thật phong phú vô tận, để ca tụng Tình Ái giữa Nam-Nữ,
Vợ-Chồng, vì như đã định nghĩa về yếu tính của Con Người là:”Một
Hữu Thể mang Tính Dục, Phái Tính”( a sexual being, a
sexual person). Mọi suy tư, cảm nghiệm, và hành vi cử chỉ đều
biểu lộ đặc tính của Phái tính riêng của mình.
Dùng Lý trí, Lương Tri, Tình cảm để
phân giải ý nghĩa về đời sống Tính dục của con người một cách
vừa chân thật, thanh cao, vừa quân bình, tế nhị, thì ta phải kể
đến Minh Triết ÂM-DƯƠNG, trong nền Văn Hóa Việt
Nam.
MINH TRIẾT
ÂM-DƯƠNG CỦA VĂN HÓA VIỆT
Trong một bài báo viết trên tờ The
New York Times, và đăng lại trên tờ The Seattle Times(
Dec/11/2005), nhan đề” Ơn Thiên Triệu gia nhập Giáo Hội
vẫn còn mạnh mẽ đối với một số người”(The Call of Church
remains strong for some) ký giả Neela Banerjee, đại ý, đã
có những nhận
xét khá xác đáng về Ơn Thiên Triệu của chủng sinh gốc
Việt Nam hiện đang tu luyện tại các Chủng Viện tại Hoa kỳ. Họ
chiếm tỉ lệ 12%, tức 397 chủng sinh, trong tổng số 3.308. Được
hỏi lý do tại sao, người Công giáo Việt nam, và Cộng đồng Công
giáo còn quí trọng Thiên Chức Linh Mục trong Giáo Hội? Họ trả
lời: Tội lạm dụng Tính dục làm hoen ố cá nhân, chứ không giảm
bớt giá trị của chính Ơn Gọi. Ơn Thiên Triệu vẫn là tuyệt đỉnh
về Phục vụ và Thành công. Đó là một Hồng Ân của Chúa ban cho gia
đình. Nếu được hỏi: muốn con làm Tổng thống, làm Bác sĩ hay Linh
Mục, thì phụ huynh có thể sẽ trả lời: muốn con làm Linh Mục. Ký
giả bài báo trên đã kết thúc cuộc điều tra, đại ý viết: Sở dĩ
một thiểu số người Mỹ-Việt(chừng 1% tổng số người
Công Giáo Hoa kỳ, hơn 50 triệu), đã cung cấp cho Giáo Hội một
con số khá lớn về Ơn Gọi, chứng tỏ người Việt-Mỹ vẫn còn
bám vào Truyền thống, Gia đình, và Đức Tin(the grip
tradition, family, faith still have on many Việtnamese-Americans).
Ở đây, xin nhấn mạnh đến hai yếu tố
: Truyền Thống và Gia đình, tức là đặc điểm thuộc
VĂN HÓA Việt. Về Đức Tin, Giáo Lý thì người Công
Giáo bất cứ ở đâu trên thế giới đều học và tin như nhau, tuy
cách sống Đạo có khác biệt tuỳ sắc thái địa phương.
Trong vấn đề tìm hiểu và huấn luyện
về Tính Dục cho các giáo sĩ, tu sĩ, ta không thể bỏ qua yếu tố
Văn Hóa, tức Truyền thống và Gia Đình của người
dân Việt. Chính Văn Hóa Việt đã giúp nẩy nở và
nuôi dưỡng Ơn Thiên Triệu, trong khi Văn Hóa sự Chết(
lạm dụng dục tính, phá thai.. ) đã làm đui chột mầm non Ơn Gọi
nơi thanh thiếu niên.
Bởi vậy, việc nghiên cứu Triết Lý
Âm-Dương làm nền tảng cho mọi suy tư, sinh hoạt văn hóa của dân
tộc Việt nam, là hữu ích để giúp vào việc tìm cách huấn luyện
Tính Dục cho các chủng sinh. Vậy Minh Triết ÂM –DƯƠNG là gì?
Những đặc tính và âm hưởng của triết lý này trong đời sồng như
thế nào? ( Xin đọc thêm sách: “Thiên Chúa Giáo và Tam Giáo”,
trang, coi Index: Âm-Dương ; và sách“Đạo Thiên Chúa và Dân
Nước Việt” , trang 188-191; 276-282
ÂM- DƯƠNG là
gì?
Theo các nhà dân tộc học, và khảo cổ,
những chứng liệu khá vững chắc biện minh cho nguồn gốc Minh
Triết ÂM-DƯƠNG phát xuất từ dân Việt, chẳng hạn, những bài khảo
luận trong sách:” Tìm về Bản Sắc Văn Hóa Việt Nam”(Trần Ngọc
Thêm). Ngày nay, chẳng những người Á đông, mà cả thế giới
đều quen thuộc với hình vẽ”THÁI CỰC ĐỒ”, được trưng bày khắp nơi,
trong nhà, trên bàn thờ, ngoài cửa tiệm. Đó là hình vẽ một vòng
tròn lớn bên ngoài; bên trong vẽ một hình tròn nhỏ, chia ra hai
phần bằng nhau, một bên màu đen chỉ ÂM, một bên
màu trắng chỉ DƯƠNG; trong mầu đen, có một chấm
Trắng; trong mầu trắng có một chấm Đen. Hai phần
Đen-Trắng luôn bằng nhau về diện tích, nhưng luôn vận chuyển,
đắp đổi cho nhau khi đầy, khi khuyết, nhưng vẫn giữ mực QUÂN
BÌNH. Đây chính là biểu tượng cho Triết Lý ÂM-DƯƠNG ĐIỀU HÒA ,
đã được Qui Nạp thành Nguyên Lý, sau khi đã quan sát, và kinh
nghiệm những hiện tượng thiên nhiên trong vũ trụ, nhân sinh.
Nguyên lý ÂM-DƯƠNG còn được trừu tượng hóa bằng những nét gạch
ngang: DƯƠNG là một nét gạch ngang liền (____);
ÂM biểu thị bằng nét gạch ngang đứt (__ __).
Qua biểu tượng”Thái Cực Đồ”, trong
Triết Lý ÂM-DƯƠNG, ta có thể suy diễn những đặc tính sau đây, có
thể đem áp dụng để tìm hiểu đời sống Phái Tính, Dục Tính:
1/.
Dân Việt, từ thượng cổ đã sinh sống gần thiên
nhiên vì làm nghề trồng Lúa-Nước, nên đã quan sát các hiện
tượng thiên nhiên như khí hậu, thời tiết trong trời đất, xoay
vần nhịp nhàng điều hòa: Một năm bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông,
ngày-đêm, nắng –mưa, nóng-lạnh, giúp cho mùa màng, gặt hái được
nhiều hoa quả. Mọi loài sinh vật: thảo mộc, động vật, và cả
Nhân loại, cũng bị chi phối bởi Luật Âm-Dương: Nam-Nữ, Đực-Cái,
Trống –Mái.. để truyền sinh và gây nòi giống
2/.
Từ hiện tượng thiên nhiên bước sang lãnh vực Nhân Sinh,
Nhân Văn, muốn cho đời sống được Điều Hòa, con người
cũng cần áp dụng Luật Âm-Dương trong cách giao tế xã hội, đặc
biệt trong HÔN NHÂN như câu thường nói: Có Âm –Dương, có
Vợ-Chồng” . Theo Văn hóa Việt Nam, Phái Tính Nam-Nữ,
phải dẫn đến sự phối hợp vợ-chồng, thì đời sống con người mới có
sự Hòa hợp, Quân bình. Âm-Dương, Vợ-Chồng.. tuy hai yếu tố khác
nhau , nhưng bổ khuyết cho nhau, nâng đỡ nhau, và không tiêu
diệt nhau. Do đó, việc Hôn Nhân, tức sự kết duyên của một Người
Nam với Một Người Nữ, là việc Tự Nhiên theo bản năng con người.
Bởi vậy, Văn Hóa Việt Nam không thể chấp nhận “hôn nhân của hai
người đồng tính”(?), vì trái luật tự nhiên Âm-Dương Điều Hòa.
Hơn nữa, Hôn Nhân do Tạo Hóa an bài, xếp đặt, với mục đích để
hai người khác nhau về Phái Tính, về thể lý, về tâm lý, nhưng bổ
túc và tương trợ cho nhau trong cuộc sống lứa đôi: “Hai mà
Một, Một mà Hai.”
3/.
Trong suốt dòng Lịch sử, từ khi lập quốc, Văn hoá Hài Hòa cùa
dân Việt, luôn ca tụng Tình Yêu Lứa đôi, tức Phái Tính trong
đời sống Hôn Nhân, bằng những câu Ca dao, Tục ngữ, hoặc truyện
Cổ tích như Trầu Cau, Sơn Tinh Thủy Tinh, Hòn vọng phu.., những
bài Hát Quan họ Bắc Ninh, Hát Trống quân, Ca trù với tiếng đàn,
điệu vũ, thanh cao thoát tục, nhưng không kém lưu luyến tình ái,
để ca tụng đời sống vợ chồng, gia đình.
4/.
Ngày nay, người Việt trong nước và ngoài nước, còn giữ được nếp
sống Điều Hòa Quân Bình trong đời sống Lứa-Đôi,
Vợ-Chồng như Tổ Tiên xưa kia không?
Tại hải ngoại, qua một thời
gian giao động khi mới tới định cư trên đất khách quê người,
nhưng sau 30 năm, người dân Việt chẳng những không mất bản lãnh,
mà còn bảo tồn và phát huy Văn Hóa Truyền thống ngày càng tốt
đẹp hơn, như bài báo của ký giả Neela Banerjee đã trích dẫn ở
trên về Ơn Thiên Triệu của các Giáo sĩ tu sĩ. Phong trào trở về
nguồn, học hỏi về Lịch Sử và Việt ngữ cũng được cổ động khắp nơi.
Về Văn Nghệ, đặc biệt về Âm nhạc, nhiều buổi Trình
Diển tân cổ nhạc, vũ điệu dân tộc được ghi thành những CD, như:
Thúy Nga Paris By Night, Asia,v,v giúp cho các gia đình
thưởng thức những giờ giải trí lành mạnh, và nhất là giúp giáo
dục thế hệ trẻ biết thông cảm với những tâm tình Yêu Mến Quê
Hương, Gia đình, đặc biệt là TÌNH YÊU LỨA ĐÔI, trong Hôn
Nhân, với hầu hết những bản tình ca, được các ca sĩ,
nghệ sĩ trình diễn một cách chừng mực, tế nhị, giầu tình tứ,
nhưng không suồng sã, “khiêu dâm”(sexy)như nhạc ngoại quốc giật
gân.
Tại quê nhà, theo tin tức lọt ra
ngoài, các giới đồng hương Việt nam cảm thấy thương xót cho tình
trạng nghèo đói, tham ô, vô thần của một xã hội xáo trộn, mất Điều
Hòa, Quân Bình trong đời sống Tâm Linh của cá nhân, hôn nhân,
gia đình, nên mới gây nên những thảm cảnh như:”lấy chồng Đài
loan”, hoặc buôn bán trẻ gái làm mãi dâm, ăn chơi trụy lạc,
chuốc lấy bệnh HIV/AIDS đang lan tràn.
NÓI TÓM
LẠI, một cách không quá đáng: nhờ Minh Triết
Âm-Dương Điều Hòa soi sáng, ta có thể giải nghĩa tại sao một
số lớn những giáo sĩ can tội “lạm dụng tính dục” , mà nạn nhân
phần lớn lại là trẻ con, con trai, cùng phái tính với giáo sĩ.
Vì người có khuynh hướng” đồng tính luyến ái”, mang một
tâm trạng bất bình thường, nhất là không hiểu biết, không
cảm nhận được giá trị của Hôn Nhân, của Cha-Mẹ, của Vợ-Chồng,
của Con-Cái. Trong Văn hóa Việt Nam, bất cứ ở đâu, hầu
hết dân chúng vẫn còn coi người có khuynh hướng “đồng tính”là
chuyện bất thường và là một “tai nạn” cho Gia đình. Bởi vậy,
theo quan điểm Văn Hóa Việt, việc Tòa Thánh không chấp nhận
người có khuynh hướng đồng tính nhận chức Linh Mục, là xác đáng
để tránh hậu họa. Không hiểu biết, không tôn trọng giá trị
thánh thiêng của đời sống Hôn Nhân, thì không thể sống nếp sống
độc thân, Khiết tịnh được.
II. MẤY KINH
NGHIỆM VỀ VIỆC HUẤN LUYỆN TÍNH DỤC
Sau đây là mấy cách Tu Thân
đã thực hành, giúp cho con người giữ được thế Quân bình, Điều
hòa trong đời sống luân lý, và thể lý, đặc biệt để TIẾT DỤC,
trong nếp sống Độc Thân.
1/. Văn
Hóa Việt nam chịu ảnh hưởng giao lưu của Văn hóa Trung Hoa, đặc
biệt là Luân lý Khổng-Mạnh;
do đó, các nhà nho Việt nam đã áp dụng phương pháp Tu
Thân của các bậc hiền nhân quân tử, trong vấn đề chế ngự và điều
hòa Dục Tính, nghĩa là muốn gìn giữ sự Tiết Hạnh, thì
cần phải tránh những cám dỗ và “hấp dẫn”rất mạnh của luật
Âm-Dương giữa người khác phái. Người bình dân Việt có câu ca dao:”
Lửa gần rơm, lâu ngày cũng bén”, thì nhà nho cũng khuyên
giới thanh niên cường tráng, muốn “kiêng cữ”(abstinence) trước
khi cưới nhau, trai -gái không nên có những cử chỉ quá suồng sã,
quá thận mật. Những câu khuyên răn khôn ngoan, đề phòng sự yếu
đuối dễ sa ngã, gọi là “cẩu hợp”như:”Nam-Nữ thụ thụ bất
thân”, hay câu:”Sắc bất ba đào, dị nịch nhân”(Sắc
đẹp không phải sóng nước, nhưng dễ làm ta chết chìm, chết đuối)
Hơn nữa, Khổng giáo đã được các vua
quan Việt nam noi theo làm khuôn mẫu cho việc tổ chức gia đình,
làng Nước và chương trình đào luyện cấp lãnh đạo. Vì thế mới có
những khuôn vàng thước ngọc phải noi theo như: Tam Cương, Ngũ
Thường, tứ Đức tam Tòng . Có thể một số lời khuyên răn đã
lỗi thời, những mục đích của việc Tu Thân, Tiết Dục vẫn không
thay đổi. Vào thời buổi nào cũng vậy, sự Tiết Hạnh của
người con gái, hay con trai, trước khi cưới nhau, vẫn là lý
tưởng cao đẹp nhất
2.“NHÀ ĐỨC
CHÚA TRỜI” Là Gì?
Ngày nay, cụm từ ”Nhà Đức
Chúa Trời”, ra như xa lạ ngay cả đối với người công
giáo. Theo tài liệu của “Lịch Sử Giáo Hội Việt Nam”, tổ
chức”Nhà Tu” này có thể đã được sáng lập từ thời các vị truyền
giáo tiên khởi( Thời Cha Đắc Lộ..hay ĐGM Lambert de la Motte).
Tổ chức này vẫn hoạt động mạnh cho đến năm chia đôi đất nước,
năm 1954, tại các Giáo phận ngoài Bắc như: Hà Nội, Phát Diệm,
Thanh hóa, Vinh, Hưng Hóa, hoặc với một hình thức tương tự như
tại các Giáo phận: Bùi chu, Thái bình, Hải Phòng. Mục đích
của Nhà Tu này là qui tụ những người nam, tình nguyện dấn thân
lo việc truyền bá Phúc Âm trong Giáo Phận. Thành phần
Nhà Đức Chúa Trời(Domus Dei) gồm có: Đức Giám Mục, các Linh Mục,
các Thày Giảng, các Chủng sinh,( đang theo học tại các chủng
viện) các Chú(giúp lễ cho Cha Xứ), và các Bõ( các người lớn tuổi
giúp việc trong nhà Xứ). Tại các Giáo Xứ địa phương, mỗi Nhà Xứ
gồm có: Cha Chính Xứ, một hay nhiều Cha Phó, các Thày giảng già,
trẻ, một số đông các Chú giúp Lễ, và một số các Bô Bõ giúp việc.
Nếp sống tu trì như thế nào?
Họ cam kết sống theo lời Khuyên của Phúc Âm: Khiết Tịnh(Độc
Thân), Thanh bần, Vâng Lời. Mọi người sống chung trong một
Nhà Xứ do cha Chính xứ làm Quản nhiệm điều hành mọi hoạt động
mục vụ trong một Giáo Xứ. Mọi người cùng cầu nguyện chung, ăn
chung, cùng ở chung nhà, và cùng chia nhau các phận vụ để phục
vụ Giáo xứ. Vị Giám Mục cai quản toàn thể các Giáo Xứ trong Giáo
Phận, cắt đặt hay thuyên chuyển các vị Chánh Xứ. Vị Giám Mục ngụ
tại một trụ sở trung ương, thường gọi là “NHÀ CHUNG”, (ví dụ,
Nhà Chung Hà Nội) nơi có Giám Mục cư trú, nhưng cũng là
trụ sở vãng lai của các Linh Mục hay Thày giảng, chủng
sinh, khi có việc cần nghỉ lại ít ngày.
Phương thức Huấn luyện nếp
sống độc thân như thế nào? Khi các phụ huynh muốn dâng
con mình để phụng sự Chúa và Hội Thánh, thì đem trình diện chú
bé tuổi 12, 13 với một Linh Mục nhận làm “Cha Bảo trợ”. Trong
một Nhà Xứ, cha chính hay cha phó được quyền “Làm cha quan
thày” hay bảo trợ nhiều chú, tuỳ hoàn cảnh tài chính cho
phép. Nhiều giáo xứ giầu có thể nuôi hàng chục chú bé cho ăn học,
miễn phí. Cách thức bảo trợ, tuyển lựa này đã tạo nên một hệ
thống gia đình thiêng liêng, gọi là “Linh Tông”,
nghĩa là một Linh Mục từ khi chịu chức Linh Mục bắt đầu nhận bảo
trợ một số chú bé, sau này nếu chú trở thành Linh Mục cũng sẽ
nhận bảo trợ một số khác..thành ra có cha Cố, cha Bác, cha Chú
và anh em cùng một Cha Quan Thày. Ngoài ra, các Linh Mục cũng
được phép giới thiệu các thiếu nữ gia nhập các Dòng Nữ, nên hệ
thống Linh Tông càng được mở rộng thêm, có Nam, Nữ đề huề.
Từ khi bước chân vào Nhà Xứ, Chú bé
12 tuổi đã có thể tham dự đầy đủ vào nề nếp sinh hoạt của một
Cộng đồng tu sĩ. Chú được hoàn toàn tự do muốn ở lại tu hay xin
trở về gia đình bất cứ lúc nào. Cho đến khi Chú được lên chức
Linh Mục, trong khoảng thời gian thử thách và tu tập, chùng 15
năm(8 năm tiểu, trung học, 3 năm triết học, 4 năm Thần học), Chú
có thể quan sát, chứng kiến nếp sống Độc thân của các Linh Mục,
và các Thầy. Theo luật lệ của Địa Phận Hà Nội, được thi hành
trong các Nhà Xứ, thì chỉ có người đi tu mới được sống trong
khuôn viên Nhà Xứ. Phòng khách đặt ở ngoài cổng chính. Các Linh
Mục không được phép tiếp phụ nữ trong phòng riêng-trừ bà mẹ
ruột mới được vào phòng ngủ-( khi một chị giúp việc dọn phòng,
thì Linh Mục phải ra khỏi phòng! Và ai sai lỗi luật này sẽ bị
phạt vạ). Theo thống kê, từ khi làm Chú Bé cho đến khi chịu chức
Linh Mục, tối đa chỉ được 4% , 5% là bền đỗ đến cùng. Khi sống
trong Nhà Xứ với cha bảo trợ hay sau này chú bé vào học tại các
Chủng Viện, câu châm ngôn làm khôun vàng thước ngọc là:”Nunquam
duo, semper tres”( nghĩa là: không bao giờ “Cặp đôi”,
nhưng luôn“Cặp ba”, trong khi giao thiệp, chơi hay nói
chuyện với bạn bè, để tránh dan díu” Đồng tính luyến ái”. Ngoài
ra, để tập luyện và tự lượng sức mình có thể sống độc thân trinh
khiết suốt đời được chăng, mỗi chủng sinh phải đi thực tập hai
ba năm tại các Giáo Xứ :một năm sau khi mãn Trung Học, một hai
năm sau khi tốt nghiệp Trường Triết học.
NÓI TÓM
LẠI, Hệ thống “Nhà Đức Chúa Trời”, tại
các Giáo Phận Miền Bắc Việt Nam, là một tổ chức mang nhiều sắc
thái Văn hóa Việt, và chịu ảnh hưởng của các đạo giáo địa phương
như Khổng giáo, Phật giáo, chẳng hạn danh từ: Cụ,(Cha) Thày,
Cha Bác , Cha Chú , Chú (chủng sinh), thì bên Nhà Phật có: Sư Cụ,
Sư Ông, Sư Bác, và Chú Tiểu..). Các Linh Mục trong Giáo Hội Công
Giáo gồm có: các Linh Mục Dòng (như ĐaMinh, Phan
Sinh, Dòng Tên, Dòng Chúa Cứu Thế..), và các Linh Mục Địa
Phận(diocesan Priest, tiếng bình dân gọi là “Cha Triều”).
Các Cha Dòng do Nhà Dòng đào tạo, nâng đỡ, và sống chung
trong Tu Viện của Dòng. Còn các Cha Địa Phận do Giám Mục
huấn luyện trong các Chủng viện, và sai đi quản nhiệm trong các
Giáo Xứ. Như tình trạng hiện nay, tại Hoa kỳ, Pháp..các Linh Mục
Địa phận sống trong các Giáo Xứ, vừa lẻ loi, cô độc, không
có cộng đoàn “Nhà Tu”( như kiểu: NHÀ ĐỨC CHÚA TRỜI”)nâng
đỡ về nếp sống độc thân, cho nên dễ sa ngã. Bởi vậy, Kinh Nghiệm
Tu Thân Tu Đức về Đức Trinh Khiết của NHÀ ĐỨC CHÚA TRỜI,
-dầu cần cải tiến về nhiều phương diện cho hợp thời-, là một Nếp
Sống Độc Thân của các Linh Mục Việt Nam, rất đáng trân trọng, vì
giúp bảo tồn, nuôi dưỡng và phát triển Ơn Thiên Triệu cho các
Giáo Phận hiện nay đang thiếu các Linh Mục coi các Giáo Xứ.
3. HUẤN LUYỆN NẾP
SỐNG ĐỘC THÂN TRONG CHỦNG VIỆN XUÂN BÍCH
1. Hội các Linh Mục Xuân Bích
(Dịch từ: Society of Priests of Saint Sulpice) là gì?
Hội này do Linh Mục Jean-Jacques
OLIER (1608-1657) sáng lập, năm 1641 tại “Giáo Xứ Saint Sulpice
ở Paris(Pháp), hiện vẫn còn hoạt động. Gần 400 năm nay,
Mục đích của Hội, là qui tụ một số Linh Mục đồng chí hướng, để
cùng nhau, vừa làm việc mục vụ trong các Giáo Xứ, vừa chuyên chú
vào việc huấn luyện, đào tạo các Linh Mục cho các Giáo Phận
. Khẩu hiệu của Hội là”PER MARIAM AD JESUM( Nhờ Mẹ Maria,
đến cùng Chúa Cứu Thế). Hiện nay, Hội Các Linh Mục Xuân Bích,
quản trị và giảng dạy tại các Đại Chủng Viện trên thế giới như:
tại Pháp; tại VIỆT NAM( từ năm1930, ở Hà Nội; năm
1954, ở Vĩnh Long, và Thị Nghè(Sàigòn), từ năm 1960, ở HUẾ, và
Đà Nẵng. Tại Trung Hoa(ở Côn Minh, năm 1930, đóng cửa năm 1949);
tại HOA KỲ(ở Baltimore, ở Washington D.C, Saint Patrick’Seminary,
ở Menlo Park, CA,.: tại Nhật(Fukuoka), tại Canada, Columbia,
Venezuela, Brezil(Nam Mỹ), Benin, Congo, Zambia(Phi Châu),
Tahiti( Polynesie)
(Xin Lưu Ý: Quí Vị
muốn biết thêm về Hội các Linh Mục Xuân Bích, tại HOA Kỳ,
xin liên lạc Địa chỉ: Rev. Thomas R. Ulshafer.S.S. Phone:
410-323-5972)
2. Hiện nay,
các Chủng Viện Xuân Bích, tại HOA KỲ, huấn luyện các chủng sinh
về Tính Dục trong Nếp Sống Độc Thân, Khiết Tịnh, như thế nào?
Sau khi phát hiện cuộc khủng hoảng
về lạm dụng Tính dục nơi các giáo sĩ trong các Giáo phận tại Hoa
Kỳ, Toà Thánh và Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ đã làm việc tích cực
để đối phó với các vụ kiện, và bồi thường cho các nạn nhân. Hội
Các Linh Mục Xuân Bích quan tâm đặc biệt về tình trạng khủng
hoảng này, vì Hội trực tiếp tham gia việc huấn luyện, và giáo
dục các chủng sinh cho các Giáo phận. Hội đã mở những buổi Hội
thảo, huấn luyện cho các hội viên và bắt buộc các hội viện ký
nhận cam kết thi hành “Chính Sách đối với Hành Vi Cử Chỉ
Xấu về Tính Dục”( Policy on Sexual Misconduct)
a/ Sau đây chỉ xin
trích dẫn một số cách thức đề phòng, hoặc tránh những cử
chỉ, thái độ suồng sã, “khiêu gợi”, khi tiếp xúc với
giới phụ nữ, thanh thiếu niên nam nữ, vị thành niên, hay trẻ
nhỏ, (dưới 18 tuổi, Minors).Cũng kể vào loại”Minors” là những
người lớn, nhưng chậm tiến, mắc bệnh thần kinh, hay khuyết tật.
-
Mọi người cộng tác với Hội Xuân Bích trong các Chủng Viện,
Chương Trình Huấn luyện.. đều bắt buộc phải tham dự chương trình
dạy cách phòng ngừa những Hành vi cử chỉ xấu về Tính dục. Mọi
Hội viên trong Hội Xuân Bích phải ký một tờ Cam Kết chịu Trách
Nhiệm( an Affidavit of Responsibility), thi hành Chính Sách của
Hội.
-
Hội Xuân Bích cam đoan tích cực giáo dục các chủng sinh,
đặc biệt các chủng sinh làm việc mục vụ với trẻ nhỏ(Minors), cần
phải tránh những Hành vi Cử chỉ xấu về Tính dục, Sách nhiễu Tính
dục, Động chạm, Khai thác, Lạm dụng Tính dục.
-
Hành vi Cử chỉ Xấu về Tính dục (Sexual
Misconduct) là: những lời nói bất hợp pháp, bất xứng hay những
cách cư xử khiêu gợi dục tính- Sách nhiễu Tính dục
(Sexual Harassment) là dùng lời nói hay hành động khiêu gợi
kích dâm để tống tình, hay yêu cầu được chiều đãi thỏa mãn Dục
Tính, để được tăng lương, lên chức, thi đậu. .Sách nhiễu Tính
dục sẽ tạo nên tình trạng đe dọa, sợ sệt nơi sở làm việc, và phá
rối công việc học hành, hay tu trì.- Động chạm khêu gợi
(Sexual Contact)l à những hành vi động chạm với mục đích
kích dâm, khêu gợi như sờ mó vào đùi, cơ quan sinh dục, mông hay
ngực..- Khai thác Dục Tính ( Sexual Exploitation)
là những đụng chạm kích dâm giữa một vị giáo sư, Linh hướng, cố
vấn..với sinh viên, bất kể ai khêu gợi trước.-Lạm Dụng
Tính Dục một Trẻ Vị thành Niên (Sexual Abuse of a Minor)
là dùng bạo lực, đánh lừa, quyến dũ một thiếu niên làm Hành vi
động chạm khiêu dâm, bất kể ai khởi sự việc xấu đó.- Hành
Vi Liên Hệ đến việc Lạm Dụng Tính Dục đối với Trẻ vị thành niên
(Related Acts of Misconduct with a Minor)
là những hành vi cử chỉ, tự nó không phải là hành vi khiêu dâm,
nhưng có liên hệ, trong một bối cảnh mục vụ, giảng dạy, làm
việc, chẳng hạn như: đánh tát, phát vào mông, nói chuyện tiếu
lâm gợi dục, cho dùng dụng cụ khiêu dâm, khỏa thân, hôn môi, đấm
bóp, vật lộn, ngủ chung giường, hay chỗ ở chật hẹp, ngủ qua đêm
không có phép của phụ huynh, cố chấp trao đổi những hành vi, lời
nói về ái tình, nhưng gây khó chịu bất mãn cho người khác, cho
phép hoặc cung cấp rượu mạnh, cần sa ma tuý, hoặc giám sát thiếu
niên khi đang say rượu, say thuốc phiện.-Những Cử Chỉ tỏ
Tình Âu Yếm đối với Trẻ Nhỏ( Certains signs of affection
or approval in relation to a minor) vì không bất xứng, nên không
cấm như: vỗ vai, vỗ lưng, bắt tay, đập vào tay, khen ngợi, quàng
vai, và dắt tay em bé đi dạo chơi, cúi xuống ôm em bé. Trong
hoàn cảnh này, cần lưu ý đặc biệt đến sắc thái Văn Hóa, phong
tục tập quán của các sắc tộc
b/ Huấn luyện chủng sinh
hay nhân viên có trách nhiệm coi sóc các Trẻ Nhỏ
Hội Xuân Bích đặc biệt lưu tâm, và
khuyến khích những chủng sinh hay nhân viên tham dự những lớp
huấn luyện chuyên môn do các Giáo phận địa phương tổ chức. Ngoài
ra, dầu chưa có lý do để tin là đã xẩy ra việc “Lạm Dụng
Tính dục đối với Trẻ Nhỏ”, nhưng nếu ai khám phá thấy
những dấu hiệu khả nghi về cách giao thiệp không lành mạnh của
một Hội Viên Xuân Bích, thì phải lập tức báo cáo cho vị Bề Trên
địa hạt hay Tỉnh Dòng biết liền.
c/ Xử dụng Internet
Hội viên Xuân Bích, ban giáo sư, và chủng sinh phải dùng máy
computer thuộc Chủng Viện, hay của riêng cá nhân hay người khác,
một cách hợp pháp và hợp luân lý. Hội Xuân Bích
không dung thứ cho việc dùng Internet, e-mail vào những Hành vi
xấu về Tính dục, vô luân hay bất hợp pháp. Hội Xuân Bích dành
quyền khám xét
các tài liệu dự trữ (files) của các
nhân viên Văn phòng và các chủng sinh, khi xét thấy cần phải
làm, để bảo vệ sự an toàn, và lành mạnh của một Cộng đoàn hay là
để điều tra về những lời cáo buộc về Hành vi xấu về Tính dục.
d/ Hội Xuân Bích cam kết hợp
tác thi hành những Điều Luật của Liên Bang, của Tiểu Bang, của
Địa phương và của Giáo Luật và các thủ tục đã phác họa
trong Chính Sách của Hội Xuân Bích. Mỗi hội viên Xuân Bích có
nhiệm vụ phải tránh những hành vi xấu về Tính dục, lại phải
phòng ngừa và bảo vệ các nạn nhân của Lạm dụng Tính dục.
ĐỂ TẠM KẾT,
Cổ nhân đã nói:” Thời thế nào , kỷ cương nấy”.
Ngày trước, xã hội Việt nam tương đối được an hòa, nề nếp, nhờ
Minh Triết Âm-Dương Điều Hòa:”Thuận Vợ thuận Chồng tát Biển
Đông cũng cạn”. Người “xuất gia tu hành”cũng được xã hội trọng
vọng, không gặp nhiều khó khăn, nhiều trở ngại, cám dỗ. Tổ chức”Nhà
Đức Chúa Trời” đã là nơi nương náu, tu trì của bao tâm
hồn khát vọng đi tìm Nguồn hạnh phúc chân thật nơi Nhà Chúa.
Ngày nay, trong một thế giới tục hóa, với cơn bão”cách mạng Dục
Tính”làm tan hoang, xáo trộn đến cả nơi thánh thiêng. Do đó,
muốn cứu vãn tình thế, cần những luật lệ chặt chẽ, nghiêm minh
để bảo vệ Nếp sống tu trì, độc thân khiết tịnh.Trên đây là những
cố gắng và ưu tư của Hội các Linh Mục Xuân Bích
giúp huấn luyện hàng Giáo sĩ đối phó với cuộc khủng hoảng về
Tính dục. Những biện pháp thực hành, những lời chỉ giáo rất hữu
ích để nâng đỡ những ai muốn cam kết chấp nhận nếp sống Khiết
Tịnh Độc thân, vì Tình Yêu Thiên Chúa và Tha Nhân.
Như đã trình bày ở trên, nhờ Ơn Chúa
phù giúp, với ý chí tự do kiên trì, các vị Chân Tu, Thánh nhân
đã có thể “Siêu Thoát”, hay “Thăng Hoa” đời sống Tính dục tự
nhiên, lên “Nếp Sống Khiết Tịnh” , chính là nếp sống Khắc Khổ,
Thần Nhiệm( Ascetic and Mystic) để kết nghĩa hoàn toàn với Chúa.
Xin đón
đọc bài 3:” Huấn Luyện Tính Dục và Nếp Sống Khắc Khổ, Thần Nhiệm”
LỄ CHÚA CỨU
THẾ GIÁNG SINH 2005
L.M. Jos. Cao
Phương Kỷ
|