|   
				
				(Bài II, tiếp theo 
				kỳ trước) 
				Trong bài trước đã trình bày về cuộc 
				“Nổi loạn Tính dục” trên thế giới gây nên tang tóc đổ vỡ trong 
				các gia đình, đặc biệt cuộc khủng hoảng đã xâm nhập cả nơi thánh 
				thiêng, tu trì, làm tiêu hao ngân quĩ của Giáo Hội, và giảm sút 
				Ơn Thiên Triệu Linh Mục, Tu Sĩ. 
				Để giúp hiểu biết và giải quyết vấn 
				đề từ nguồn gốc, ta đã tìm lời giải thích về ý nghĩa của Tính 
				Dục, hay Phái Tính,( Nam-Nữ).., khởi nguyên đã được Mặc Khải từ 
				Kinh Thánh trong Sách Sáng Thế và những Lời Giảng của Chúa Cứu 
				Thế trong Sách Phúc Âm. Ngoài ra, ta cũng hiểu rằng: số kiếp con 
				người theo bản năng tự nhiên, phú bẩm từ khi sinh ra, là một 
				“hữu thể  mang Phái Tính”( a sexual person), không 
				thể huỷ diệt Tính dục của mình được, cho đến khi chết. Nhưng vì 
				ý chí hùng mạnh của con người, -và dĩ nhiên cần Ơn Trên phù giúp- 
				con người có thể “Thăng Hoa, hay Siêu Thoát”(Sublimation) Tính 
				dục, như trong kinh nghiệm của các vị Thánh đã sống nếp sống 
				“Khắc Khổ, Thần Nhiệm”(Ascetic and Mystic), chẳng hạn như gương 
				Mẹ Chân Phước Teresa, Calcutta, hay Đức Cố Giáo Hoàng Gioan 
				Paulô I I. Sẽ bàn về khía cạnh Huyền Nhiệm, Thần Bí này, ở 
				bài khảo luận thứ ba , vì đây mới thực sự là phương cách 
				Sống và Huấn Luyện cao nhất, để giúp Giáo sĩ, Tu sĩ và những ai 
				“tu tại gia”, độc thân, góa bụa, hay có đôi bạn, muốn duy trì 
				nếp sống Khiết Tịnh, Kết Nghĩa với Chúa.  
				Sau đây, trong bài khảo luận 
				hai này, xin bàn thêm hai khía cạnh
				khác: I/ Suy tư 
				của các vị hiền triết, đặc biệt của Văn Hóa Việt Nam, đã dùng Lý 
				trí và Luơng Năng, Lương Tri, để tìm hiểu “Con Tim” của con 
				người ra sao ? I I/Mấy Kinh Nghiệm
				và Thực hành về Nếp 
				Sống Tu trì , Độc Thân.  
				  
				I. SUY LUẬN TRIẾT 
				LÝ VỀ  BẢN NĂNG TÍNH DỤC CỦA 
				CON NGƯÒI  
				Ngoài nguồn Mặc Khải trong Kinh 
				Thánh của Thiên Chúa Giáo, nhiều Tôn giáo khác trên thế giới, từ 
				xưa tới nay, và rất nhiều triết thuyết, triết gia, …cũng đã đề 
				cập đến vấn đề Tính dục của con người. Mỹ Nghệ như Điện ảnh, Hội 
				họa, Điêu khắc, Âm nhạc, nhất là Văn chương Thi Phú, tiểu 
				thuyết,v,v thật  phong phú vô tận, để ca tụng Tình Ái giữa Nam-Nữ, 
				Vợ-Chồng, vì  như đã  định nghĩa về  yếu tính của Con Người là:”Một 
				Hữu Thể mang Tính Dục, Phái Tính”( a sexual being, a 
				sexual person). Mọi suy tư, cảm nghiệm, và hành vi cử chỉ đều 
				biểu lộ đặc tính của Phái tính riêng của mình.  
				Dùng Lý trí, Lương Tri, Tình cảm để 
				phân giải ý nghĩa về đời sống Tính dục của con người một cách 
				vừa chân thật, thanh cao, vừa quân bình, tế nhị, thì ta phải kể 
				đến Minh Triết ÂM-DƯƠNG, trong nền Văn Hóa Việt 
				Nam. 
				MINH TRIẾT 
				ÂM-DƯƠNG CỦA VĂN HÓA VIỆT 
				Trong một bài báo  viết trên tờ The 
				New York Times, và đăng lại trên tờ The Seattle Times( 
				Dec/11/2005), nhan đề” Ơn Thiên Triệu gia nhập Giáo Hội 
				vẫn còn mạnh mẽ đối với một số người”(The Call of Church 
				remains strong for some) ký giả Neela Banerjee, đại ý, đã 
				có những nhận 
				xét khá xác đáng về Ơn Thiên Triệu của chủng sinh gốc 
				Việt Nam hiện đang tu luyện tại các Chủng Viện tại Hoa kỳ. Họ 
				chiếm tỉ lệ 12%, tức 397 chủng sinh, trong tổng số 3.308. Được 
				hỏi lý do tại sao, người Công giáo Việt nam, và Cộng đồng Công 
				giáo còn quí trọng Thiên Chức Linh Mục trong Giáo Hội? Họ trả 
				lời: Tội lạm dụng Tính dục làm hoen ố cá nhân, chứ không giảm 
				bớt giá trị của chính Ơn Gọi. Ơn Thiên Triệu vẫn là tuyệt đỉnh 
				về Phục vụ và Thành công. Đó là một Hồng Ân của Chúa ban cho gia 
				đình. Nếu được hỏi: muốn con làm Tổng thống, làm Bác sĩ hay Linh 
				Mục, thì phụ huynh  có thể sẽ trả lời: muốn con làm Linh Mục. Ký 
				giả bài báo trên đã kết thúc cuộc điều tra, đại ý viết: Sở dĩ 
				một thiểu số người Mỹ-Việt(chừng 1% tổng số người 
				Công Giáo Hoa kỳ, hơn 50 triệu), đã cung cấp cho Giáo Hội một 
				con số khá lớn về Ơn Gọi, chứng tỏ người Việt-Mỹ vẫn còn 
				bám vào Truyền thống, Gia đình, và Đức Tin(the grip 
				tradition, family, faith still have on many Việtnamese-Americans).
				 
				Ở đây, xin nhấn mạnh đến hai yếu tố 
				: Truyền Thống và Gia đình, tức là đặc điểm thuộc 
				VĂN HÓA Việt. Về Đức Tin, Giáo Lý thì người Công 
				Giáo bất cứ ở đâu trên thế giới đều học và tin như nhau, tuy 
				cách sống Đạo có khác biệt tuỳ sắc thái địa phương. 
				Trong vấn đề tìm hiểu và huấn luyện 
				về Tính Dục cho các giáo sĩ, tu sĩ, ta không thể bỏ qua yếu tố 
				Văn Hóa, tức Truyền thống và Gia Đình của người 
				dân Việt. Chính Văn Hóa Việt đã giúp nẩy nở và 
				nuôi dưỡng Ơn Thiên Triệu, trong khi Văn Hóa sự Chết( 
				lạm dụng dục tính, phá thai.. )  đã làm đui chột mầm non Ơn Gọi 
				nơi thanh thiếu niên. 
				Bởi vậy, việc nghiên cứu Triết Lý 
				Âm-Dương làm nền tảng cho mọi suy tư, sinh hoạt văn hóa của dân 
				tộc Việt nam, là hữu ích  để giúp vào việc tìm cách huấn luyện 
				Tính Dục cho các chủng sinh. Vậy Minh Triết ÂM –DƯƠNG là gì? 
				Những đặc tính và âm hưởng của triết lý này  trong đời sồng như 
				thế nào? ( Xin đọc thêm sách: “Thiên Chúa Giáo và Tam Giáo”, 
				 trang, coi Index: Âm-Dương ; và sách“Đạo Thiên Chúa và Dân 
				Nước Việt” , trang 188-191; 276-282   
				ÂM- DƯƠNG là 
				gì? 
				Theo các nhà dân tộc học, và khảo cổ, 
				những chứng liệu khá vững chắc biện minh cho nguồn gốc Minh 
				Triết ÂM-DƯƠNG phát xuất từ dân Việt, chẳng hạn, những bài khảo 
				luận trong sách:” Tìm về Bản Sắc Văn Hóa Việt Nam”(Trần Ngọc 
				Thêm). Ngày nay, chẳng những  người Á đông, mà cả thế giới 
				đều quen thuộc với hình vẽ”THÁI CỰC ĐỒ”, được trưng bày khắp nơi, 
				trong nhà, trên bàn thờ, ngoài cửa tiệm. Đó là hình vẽ một vòng 
				tròn lớn bên ngoài; bên trong vẽ một hình tròn nhỏ, chia ra hai 
				phần bằng nhau, một bên màu đen chỉ ÂM, một bên 
				màu trắng chỉ DƯƠNG; trong mầu đen, có một chấm 
				Trắng; trong mầu trắng có một chấm Đen. Hai phần 
				Đen-Trắng luôn bằng nhau về diện tích, nhưng luôn vận chuyển, 
				đắp đổi cho nhau khi đầy, khi khuyết, nhưng vẫn giữ mực QUÂN 
				BÌNH. Đây chính là biểu tượng cho Triết Lý ÂM-DƯƠNG ĐIỀU HÒA , 
				đã được Qui Nạp thành Nguyên Lý, sau khi đã quan sát, và kinh 
				nghiệm những hiện tượng thiên nhiên trong vũ trụ, nhân sinh. 
				Nguyên lý ÂM-DƯƠNG còn được trừu tượng hóa bằng những nét gạch 
				ngang: DƯƠNG là một nét gạch ngang liền (____); 
				ÂM biểu thị bằng nét gạch ngang đứt (__ __).  
				Qua biểu tượng”Thái Cực Đồ”, trong 
				Triết Lý ÂM-DƯƠNG, ta có thể suy diễn những đặc tính sau đây, có 
				thể đem áp dụng để tìm hiểu đời sống Phái Tính, Dục Tính: 
				1/.
				 Dân Việt, từ thượng cổ đã sinh sống gần thiên 
				nhiên vì làm  nghề trồng Lúa-Nước, nên đã quan sát các hiện 
				tượng thiên nhiên như khí hậu, thời tiết trong trời đất, xoay 
				vần nhịp nhàng  điều hòa: Một năm bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông, 
				ngày-đêm, nắng –mưa, nóng-lạnh, giúp cho mùa màng, gặt hái được 
				nhiều hoa quả.  Mọi loài sinh vật: thảo mộc, động vật, và cả 
				Nhân loại, cũng bị chi phối bởi Luật Âm-Dương: Nam-Nữ, Đực-Cái, 
				Trống –Mái.. để truyền sinh và gây nòi giống  
				2/. 
				Từ hiện tượng thiên nhiên bước sang lãnh vực Nhân Sinh, 
				Nhân Văn, muốn cho đời sống được Điều Hòa, con người 
				cũng cần áp dụng Luật Âm-Dương trong cách giao tế xã hội, đặc 
				biệt trong HÔN NHÂN như câu thường nói: Có Âm –Dương, có 
				Vợ-Chồng” . Theo Văn hóa Việt Nam, Phái Tính Nam-Nữ, 
				phải dẫn đến sự phối hợp vợ-chồng, thì đời sống con người mới có 
				sự Hòa hợp, Quân bình. Âm-Dương, Vợ-Chồng.. tuy hai yếu tố  khác 
				nhau , nhưng bổ khuyết cho nhau, nâng đỡ nhau, và không tiêu 
				diệt nhau. Do đó, việc Hôn Nhân, tức sự kết duyên của một Người 
				Nam với Một Người Nữ, là việc Tự Nhiên theo bản năng con người. 
				Bởi vậy, Văn Hóa Việt Nam không thể chấp nhận  “hôn nhân của hai 
				người đồng tính”(?), vì trái luật tự nhiên Âm-Dương Điều Hòa. 
				Hơn nữa, Hôn Nhân do Tạo Hóa an bài, xếp đặt, với mục đích để 
				hai người khác nhau về Phái Tính, về thể lý, về tâm lý, nhưng bổ 
				túc và tương trợ cho nhau trong cuộc sống lứa đôi: “Hai mà 
				Một, Một mà Hai.” 
				3/. 
				Trong suốt dòng Lịch sử, từ khi lập quốc, Văn hoá Hài Hòa cùa 
				dân Việt, luôn ca tụng Tình Yêu Lứa đôi, tức Phái Tính  trong 
				đời sống Hôn Nhân, bằng những câu Ca dao, Tục ngữ, hoặc truyện 
				Cổ tích như Trầu Cau, Sơn Tinh Thủy Tinh, Hòn vọng phu.., những 
				bài Hát Quan họ Bắc Ninh, Hát Trống quân, Ca trù với tiếng đàn, 
				điệu vũ, thanh cao thoát tục, nhưng không kém lưu luyến tình ái, 
				để ca tụng đời sống vợ chồng, gia đình. 
				4/. 
				Ngày nay, người Việt trong nước và  ngoài nước, còn giữ được nếp 
				sống Điều Hòa Quân Bình trong  đời sống Lứa-Đôi, 
				Vợ-Chồng như Tổ Tiên xưa kia không? 
				Tại hải ngoại, qua một thời 
				gian giao động khi mới tới định cư trên đất khách quê người, 
				nhưng sau 30 năm, người dân Việt chẳng những không mất bản lãnh, 
				mà còn bảo tồn và phát huy Văn Hóa Truyền thống ngày càng tốt 
				đẹp hơn, như bài báo của ký giả Neela Banerjee  đã trích dẫn ở 
				trên về Ơn Thiên Triệu của các Giáo sĩ tu sĩ. Phong trào trở về 
				nguồn, học hỏi về Lịch Sử và Việt ngữ cũng được cổ động khắp nơi.
				Về Văn Nghệ, đặc biệt về Âm nhạc, nhiều buổi Trình 
				Diển  tân cổ nhạc, vũ điệu dân tộc được ghi thành những CD, như:
				Thúy Nga Paris By Night, Asia,v,v giúp cho các gia đình 
				thưởng thức những giờ giải trí lành mạnh, và nhất là giúp giáo 
				dục thế hệ trẻ biết  thông cảm với những tâm tình Yêu Mến Quê 
				Hương, Gia đình, đặc biệt là TÌNH YÊU LỨA ĐÔI, trong Hôn 
				Nhân, với hầu hết những bản tình ca, được các ca sĩ, 
				nghệ sĩ trình diễn một cách chừng mực, tế nhị, giầu tình tứ, 
				nhưng không suồng sã, “khiêu dâm”(sexy)như nhạc ngoại quốc giật 
				gân. 
				Tại quê nhà, theo tin tức lọt ra 
				ngoài, các giới đồng hương Việt nam cảm thấy thương xót cho tình 
				trạng nghèo đói, tham ô, vô thần của một xã hội xáo trộn, mất  Điều 
				Hòa, Quân Bình trong đời sống Tâm Linh của cá nhân, hôn nhân, 
				gia đình, nên mới gây nên những thảm cảnh như:”lấy chồng Đài 
				loan”, hoặc buôn bán trẻ gái làm mãi dâm, ăn chơi trụy lạc, 
				chuốc lấy bệnh HIV/AIDS đang lan tràn. 
				NÓI TÓM 
				LẠI,  một cách không quá đáng: nhờ  Minh Triết 
				Âm-Dương Điều Hòa soi sáng,  ta có thể  giải nghĩa tại sao một 
				số lớn những giáo sĩ can tội “lạm dụng tính dục” , mà nạn nhân 
				phần lớn lại là trẻ con, con trai, cùng phái tính với giáo sĩ. 
				Vì người có khuynh hướng” đồng tính luyến ái”, mang một 
				tâm trạng bất bình thường, nhất là không hiểu biết, không 
				cảm nhận được giá trị của Hôn Nhân, của Cha-Mẹ, của Vợ-Chồng, 
				của Con-Cái. Trong Văn hóa Việt Nam, bất cứ ở đâu, hầu 
				hết dân chúng vẫn còn coi người có khuynh hướng “đồng tính”là 
				chuyện bất thường và là  một “tai nạn” cho Gia đình. Bởi vậy, 
				theo quan điểm Văn Hóa Việt, việc Tòa Thánh không chấp nhận 
				người có khuynh hướng đồng tính nhận chức Linh Mục, là xác đáng 
				để tránh hậu họa. Không hiểu biết, không tôn trọng giá trị 
				thánh thiêng của đời sống Hôn Nhân, thì không thể sống nếp sống 
				độc thân, Khiết tịnh được. 
				  
				II. MẤY KINH 
				NGHIỆM  VỀ VIỆC HUẤN LUYỆN TÍNH DỤC 
				 Sau đây là mấy cách Tu Thân 
				đã thực hành, giúp cho con người giữ được thế Quân bình, Điều 
				hòa trong đời sống luân lý, và thể lý, đặc biệt để TIẾT DỤC, 
				trong nếp sống Độc Thân. 
				1/. Văn 
				Hóa Việt nam chịu ảnh hưởng giao lưu của Văn hóa Trung Hoa, đặc 
				biệt là Luân lý Khổng-Mạnh;
				do đó, các nhà nho Việt nam đã áp dụng phương pháp Tu 
				Thân của các bậc hiền nhân quân tử, trong vấn đề chế ngự và điều 
				hòa Dục Tính, nghĩa là muốn gìn giữ  sự Tiết Hạnh, thì 
				cần phải tránh những cám dỗ và “hấp dẫn”rất mạnh của luật 
				Âm-Dương giữa người khác phái. Người bình dân Việt có câu ca dao:” 
				Lửa gần rơm, lâu ngày cũng bén”, thì nhà nho cũng khuyên 
				giới thanh niên cường tráng, muốn “kiêng cữ”(abstinence) trước 
				khi cưới nhau, trai -gái không nên có những cử chỉ quá suồng sã, 
				quá thận mật. Những câu khuyên răn khôn ngoan, đề phòng sự yếu 
				đuối dễ sa ngã, gọi là “cẩu hợp”như:”Nam-Nữ thụ thụ bất 
				thân”, hay câu:”Sắc bất ba đào, dị nịch nhân”(Sắc 
				đẹp không phải sóng nước, nhưng dễ làm ta chết chìm, chết đuối) 
				Hơn nữa, Khổng giáo đã được các vua 
				quan Việt nam noi theo làm khuôn mẫu cho việc tổ chức gia đình, 
				làng Nước và chương trình đào luyện cấp lãnh đạo. Vì thế mới có 
				những khuôn vàng thước ngọc phải noi theo như: Tam Cương, Ngũ 
				Thường, tứ Đức tam Tòng . Có thể một số lời khuyên răn đã 
				lỗi thời, những mục đích của việc Tu Thân, Tiết Dục vẫn không 
				thay đổi. Vào thời buổi nào cũng vậy, sự Tiết Hạnh của 
				người con gái, hay con trai, trước khi cưới nhau, vẫn là lý 
				tưởng cao đẹp nhất  
				2.“NHÀ ĐỨC 
				CHÚA TRỜI” Là Gì? 
				 Ngày nay, cụm từ ”Nhà Đức 
				Chúa Trời”,  ra như xa lạ ngay cả đối với người công 
				giáo. Theo tài liệu của “Lịch Sử Giáo Hội Việt Nam”, tổ 
				chức”Nhà Tu” này có thể đã được sáng lập  từ thời các vị truyền 
				giáo tiên khởi( Thời Cha Đắc Lộ..hay ĐGM Lambert de la Motte). 
				Tổ chức này vẫn hoạt động mạnh cho đến năm chia đôi đất nước, 
				năm 1954, tại các Giáo phận ngoài Bắc như: Hà Nội, Phát Diệm, 
				Thanh hóa, Vinh, Hưng Hóa, hoặc với một hình thức tương tự như 
				tại các Giáo phận: Bùi chu, Thái bình, Hải Phòng. Mục đích 
				của Nhà Tu này là qui tụ những người nam, tình nguyện dấn thân 
				lo việc truyền bá Phúc Âm trong Giáo Phận. Thành phần 
				Nhà Đức Chúa Trời(Domus Dei) gồm có: Đức Giám Mục, các Linh Mục, 
				các Thày Giảng, các Chủng sinh,( đang theo học tại các chủng 
				viện) các Chú(giúp lễ cho Cha Xứ), và các Bõ( các người lớn tuổi 
				giúp việc trong nhà Xứ). Tại các Giáo Xứ địa phương, mỗi Nhà Xứ 
				gồm có: Cha Chính Xứ, một hay nhiều Cha Phó, các Thày giảng già, 
				trẻ, một số đông các Chú giúp Lễ, và một số các Bô Bõ giúp việc. 
				 Nếp sống tu trì như thế nào? 
				Họ cam kết sống theo lời Khuyên của Phúc Âm: Khiết Tịnh(Độc 
				Thân), Thanh bần, Vâng Lời. Mọi người sống chung trong một 
				Nhà Xứ do cha Chính xứ  làm Quản nhiệm điều hành mọi hoạt động 
				mục vụ trong một Giáo Xứ. Mọi người cùng cầu nguyện chung, ăn 
				chung, cùng ở chung nhà, và cùng chia nhau các phận vụ để phục 
				vụ Giáo xứ. Vị Giám Mục cai quản toàn thể các Giáo Xứ trong Giáo 
				Phận, cắt đặt hay thuyên chuyển các vị Chánh Xứ. Vị Giám Mục ngụ 
				tại một trụ sở trung ương, thường gọi là “NHÀ CHUNG”, (ví dụ, 
				Nhà Chung Hà Nội) nơi có Giám Mục cư trú, nhưng cũng là 
				trụ sở vãng lai của các Linh Mục hay Thày giảng, chủng 
				sinh, khi có việc cần nghỉ lại ít ngày.   
				Phương thức Huấn luyện nếp 
				sống độc thân như thế nào? Khi các phụ huynh muốn dâng 
				con mình để phụng sự Chúa và Hội Thánh, thì đem trình diện chú 
				bé tuổi 12, 13 với một Linh Mục nhận làm “Cha Bảo trợ”.  Trong 
				một Nhà Xứ, cha chính hay cha phó được quyền “Làm cha quan 
				thày” hay bảo trợ nhiều chú, tuỳ hoàn cảnh tài chính cho 
				phép. Nhiều giáo xứ giầu có thể nuôi hàng chục chú bé cho ăn học, 
				miễn phí. Cách thức bảo trợ, tuyển lựa này đã tạo nên một hệ 
				thống gia đình thiêng liêng, gọi là “Linh Tông”, 
				nghĩa là một Linh Mục từ khi chịu chức Linh Mục bắt đầu nhận bảo 
				trợ một số chú bé, sau này nếu chú trở thành Linh Mục cũng sẽ 
				nhận bảo trợ một số khác..thành ra có cha Cố, cha  Bác, cha Chú 
				và anh em cùng một Cha Quan Thày. Ngoài ra, các Linh Mục cũng 
				được phép giới thiệu các thiếu nữ gia nhập các Dòng Nữ, nên hệ 
				thống Linh Tông càng được mở rộng thêm, có Nam, Nữ đề  huề. 
				Từ khi bước chân vào Nhà Xứ, Chú bé 
				12 tuổi đã có thể tham dự đầy đủ vào nề nếp sinh hoạt của một 
				Cộng đồng tu sĩ. Chú được hoàn toàn tự do muốn ở lại tu hay xin 
				trở về gia đình bất cứ lúc nào. Cho đến khi Chú được lên chức 
				Linh Mục, trong khoảng thời gian thử thách và tu tập, chùng 15 
				năm(8 năm tiểu, trung học, 3 năm triết học, 4 năm Thần học), Chú 
				có thể quan sát, chứng kiến nếp sống Độc thân của các Linh Mục, 
				và các Thầy. Theo luật lệ của Địa Phận Hà Nội, được thi hành 
				trong các Nhà Xứ, thì chỉ có người đi tu mới được sống trong 
				khuôn viên Nhà Xứ. Phòng khách đặt ở ngoài cổng chính. Các Linh 
				Mục không được phép tiếp  phụ nữ trong phòng riêng-trừ bà mẹ 
				ruột mới được vào phòng ngủ-( khi một chị giúp việc dọn phòng, 
				thì Linh Mục phải ra khỏi phòng! Và ai sai lỗi luật này sẽ bị 
				phạt vạ). Theo thống kê, từ khi làm Chú Bé cho đến khi chịu chức 
				Linh Mục, tối đa chỉ được 4% , 5% là bền đỗ đến cùng. Khi sống 
				trong Nhà Xứ với cha bảo trợ hay sau này chú bé vào học tại các 
				Chủng Viện, câu châm ngôn làm khôun vàng thước ngọc là:”Nunquam 
				duo, semper tres”( nghĩa là: không bao giờ “Cặp đôi”, 
				nhưng luôn“Cặp ba”, trong khi giao thiệp, chơi hay nói 
				chuyện với bạn bè, để tránh dan díu” Đồng tính luyến ái”. Ngoài 
				ra, để tập luyện và tự lượng sức mình có thể sống độc thân trinh 
				khiết suốt đời được chăng, mỗi chủng sinh phải đi thực tập  hai 
				ba năm tại các Giáo Xứ :một năm sau khi mãn Trung Học, một hai 
				năm sau khi tốt nghiệp Trường Triết học.  
				NÓI TÓM 
				LẠI, Hệ thống  “Nhà Đức Chúa Trời”, tại 
				các Giáo Phận Miền Bắc Việt Nam, là một tổ chức mang nhiều sắc 
				thái Văn hóa Việt, và chịu ảnh hưởng của các đạo giáo địa phương 
				như Khổng giáo, Phật giáo, chẳng hạn danh từ: Cụ,(Cha)  Thày, 
				Cha Bác , Cha Chú , Chú (chủng sinh), thì bên Nhà Phật có: Sư Cụ, 
				Sư Ông, Sư Bác, và Chú Tiểu..). Các Linh Mục trong Giáo Hội Công 
				Giáo gồm có: các Linh Mục Dòng (như ĐaMinh, Phan 
				Sinh, Dòng Tên, Dòng Chúa Cứu Thế..), và các Linh Mục Địa 
				Phận(diocesan Priest, tiếng bình dân gọi là “Cha Triều”). 
				Các Cha Dòng do Nhà Dòng đào tạo, nâng đỡ, và sống chung 
				trong Tu Viện của Dòng. Còn các Cha Địa Phận do Giám Mục 
				huấn luyện trong các Chủng viện, và sai đi quản nhiệm trong các 
				Giáo Xứ. Như tình trạng hiện nay, tại Hoa kỳ, Pháp..các Linh Mục 
				Địa phận sống trong các Giáo Xứ, vừa lẻ loi, cô độc, không 
				có cộng đoàn “Nhà Tu”( như kiểu: NHÀ ĐỨC CHÚA TRỜI”)nâng 
				đỡ về nếp sống độc thân, cho nên dễ sa ngã. Bởi vậy, Kinh Nghiệm 
				Tu Thân Tu Đức về Đức Trinh Khiết của NHÀ ĐỨC CHÚA TRỜI, 
				-dầu cần cải tiến về nhiều phương diện cho hợp thời-, là một Nếp 
				Sống Độc Thân của các Linh Mục Việt Nam, rất đáng trân trọng, vì 
				giúp bảo tồn, nuôi dưỡng và phát triển Ơn Thiên Triệu cho các 
				Giáo Phận hiện nay đang thiếu các Linh Mục coi các Giáo Xứ. 
				  
				3. HUẤN LUYỆN NẾP 
				SỐNG ĐỘC THÂN TRONG CHỦNG VIỆN XUÂN BÍCH 
				  
				1. Hội các Linh Mục Xuân Bích
				(Dịch từ: Society of Priests of Saint Sulpice) là gì? 
				Hội này do Linh Mục Jean-Jacques 
				OLIER (1608-1657) sáng lập, năm 1641 tại “Giáo Xứ Saint Sulpice 
				ở Paris(Pháp), hiện vẫn còn hoạt động. Gần 400 năm nay, 
				Mục đích của Hội, là qui tụ một số Linh Mục đồng chí hướng, để 
				cùng nhau, vừa làm việc mục vụ trong các Giáo Xứ, vừa chuyên chú 
				vào việc huấn luyện, đào tạo các Linh Mục cho các Giáo Phận 
				. Khẩu hiệu của Hội là”PER MARIAM AD JESUM( Nhờ Mẹ Maria, 
				đến cùng Chúa Cứu Thế). Hiện nay, Hội Các Linh Mục Xuân Bích, 
				quản trị và giảng dạy tại các Đại Chủng Viện trên thế giới như: 
				tại Pháp; tại VIỆT NAM( từ năm1930, ở Hà Nội; năm 
				1954, ở Vĩnh Long, và Thị Nghè(Sàigòn), từ năm 1960, ở HUẾ, và 
				Đà Nẵng. Tại Trung Hoa(ở Côn Minh, năm 1930, đóng cửa năm 1949); 
				tại HOA KỲ(ở Baltimore, ở Washington D.C, Saint Patrick’Seminary, 
				ở Menlo Park, CA,.: tại Nhật(Fukuoka), tại Canada, Columbia, 
				Venezuela, Brezil(Nam Mỹ), Benin, Congo, Zambia(Phi Châu), 
				Tahiti( Polynesie) 
				(Xin Lưu Ý: Quí Vị 
				muốn biết thêm về Hội các Linh Mục Xuân Bích, tại HOA Kỳ, 
				xin liên lạc Địa chỉ: Rev. Thomas R. Ulshafer.S.S. Phone: 
				410-323-5972) 
				2. Hiện nay, 
				các Chủng Viện Xuân Bích, tại HOA KỲ, huấn luyện các chủng sinh 
				về Tính Dục trong Nếp Sống Độc Thân, Khiết Tịnh, như thế nào? 
				Sau khi phát hiện cuộc khủng hoảng 
				về lạm dụng Tính dục nơi các giáo sĩ trong các Giáo phận tại Hoa 
				Kỳ, Toà Thánh và Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ đã làm việc tích cực 
				để đối phó với các vụ kiện, và bồi thường cho các nạn nhân. Hội 
				Các Linh Mục Xuân Bích quan tâm đặc biệt về tình trạng khủng 
				hoảng này, vì Hội trực tiếp tham gia việc huấn luyện, và giáo 
				dục các chủng sinh cho các Giáo phận. Hội đã mở những buổi Hội 
				thảo, huấn luyện cho các hội viên và bắt buộc các hội viện ký 
				nhận cam kết thi hành “Chính Sách đối với Hành Vi Cử Chỉ 
				Xấu về Tính Dục”( Policy on Sexual Misconduct) 
				a/ Sau đây chỉ xin 
				trích dẫn một số cách thức đề phòng, hoặc tránh những cử 
				chỉ, thái độ suồng sã, “khiêu gợi”, khi tiếp xúc với 
				giới phụ nữ,  thanh thiếu niên nam nữ, vị thành niên, hay trẻ 
				nhỏ, (dưới 18 tuổi, Minors).Cũng kể vào loại”Minors” là những 
				người lớn, nhưng chậm tiến, mắc bệnh thần kinh, hay khuyết tật. 
				-        
				Mọi người cộng tác với Hội Xuân Bích trong các Chủng Viện, 
				Chương Trình Huấn luyện.. đều bắt buộc phải tham dự chương trình 
				dạy cách phòng ngừa những Hành vi cử chỉ xấu về Tính dục. Mọi 
				Hội viên trong Hội Xuân Bích phải ký một tờ Cam Kết chịu Trách 
				Nhiệm( an Affidavit of Responsibility), thi hành Chính Sách của 
				Hội. 
				-        
				Hội Xuân Bích cam đoan tích cực giáo dục các chủng sinh, 
				đặc biệt các chủng sinh làm việc mục vụ với trẻ nhỏ(Minors), cần 
				phải tránh những Hành vi Cử chỉ xấu về Tính dục, Sách nhiễu Tính 
				dục, Động chạm, Khai thác, Lạm dụng Tính dục. 
				-        
				Hành vi Cử chỉ Xấu về Tính dục (Sexual 
				Misconduct) là: những lời nói bất hợp pháp, bất xứng hay những 
				cách cư xử khiêu gợi dục tính- Sách nhiễu Tính dục 
				(Sexual Harassment) là dùng lời nói hay hành động khiêu gợi 
				kích dâm để tống tình, hay yêu cầu được chiều đãi thỏa mãn Dục 
				Tính, để được tăng lương, lên chức, thi đậu. .Sách nhiễu Tính 
				dục sẽ tạo nên tình trạng đe dọa, sợ sệt nơi sở làm việc, và phá 
				rối công việc học hành, hay tu trì.- Động chạm khêu gợi
				(Sexual Contact)l à những hành vi động chạm với mục đích 
				kích dâm, khêu gợi như sờ mó vào đùi, cơ quan sinh dục, mông hay 
				ngực..- Khai thác Dục Tính ( Sexual Exploitation) 
				là những đụng chạm kích dâm giữa một vị giáo sư, Linh hướng, cố 
				vấn..với sinh viên, bất kể ai khêu gợi trước.-Lạm Dụng 
				Tính Dục một Trẻ Vị thành Niên (Sexual Abuse of a Minor) 
				là dùng bạo lực, đánh lừa, quyến dũ một thiếu niên làm Hành vi 
				động chạm khiêu dâm, bất kể ai khởi sự việc xấu đó.- Hành 
				Vi Liên Hệ đến việc Lạm Dụng Tính Dục đối với Trẻ vị thành niên 
				(Related Acts of Misconduct with a Minor) 
				là những hành vi cử chỉ, tự nó không phải là hành vi khiêu dâm, 
				nhưng có liên hệ, trong một bối cảnh mục vụ, giảng dạy, làm 
				việc, chẳng hạn như: đánh tát, phát vào mông, nói chuyện tiếu 
				lâm gợi dục, cho dùng dụng cụ khiêu dâm, khỏa thân, hôn môi, đấm 
				bóp, vật lộn, ngủ chung giường, hay chỗ ở chật hẹp, ngủ qua đêm 
				không có phép của phụ huynh, cố chấp trao đổi những hành vi, lời 
				nói về ái tình, nhưng gây khó chịu bất mãn cho người khác, cho 
				phép hoặc cung cấp rượu mạnh, cần sa ma tuý, hoặc giám sát thiếu 
				niên khi đang say rượu, say thuốc phiện.-Những Cử Chỉ tỏ 
				Tình Âu Yếm đối với Trẻ Nhỏ( Certains signs of affection 
				or approval in relation to a minor) vì không bất xứng, nên không 
				cấm như: vỗ vai, vỗ lưng, bắt tay, đập vào tay, khen ngợi, quàng 
				vai, và dắt tay em bé đi dạo chơi, cúi xuống ôm em bé. Trong 
				hoàn cảnh này, cần lưu ý đặc biệt đến sắc thái Văn Hóa, phong 
				tục tập quán của các sắc tộc 
				b/  Huấn luyện chủng sinh 
				hay nhân viên có trách nhiệm coi sóc các Trẻ Nhỏ 
				Hội Xuân Bích đặc biệt lưu tâm, và 
				khuyến khích những chủng sinh hay nhân viên tham dự những lớp 
				huấn luyện chuyên môn do các Giáo phận địa phương tổ chức. Ngoài 
				ra, dầu chưa có lý do để tin là đã xẩy ra việc “Lạm Dụng 
				Tính dục đối với Trẻ Nhỏ”, nhưng nếu ai khám phá thấy 
				những dấu hiệu khả nghi về cách giao thiệp không lành mạnh của 
				một Hội Viên Xuân Bích, thì phải lập tức báo cáo cho vị Bề Trên 
				địa hạt hay Tỉnh Dòng biết liền. 
				c/ Xử dụng Internet 
				Hội viên Xuân Bích, ban giáo sư, và chủng sinh phải dùng máy 
				computer thuộc Chủng Viện, hay của riêng cá nhân hay người khác,
				một cách hợp pháp và hợp luân lý. Hội Xuân Bích 
				không dung thứ cho việc dùng Internet, e-mail vào những Hành vi 
				xấu về Tính dục, vô luân hay bất hợp pháp. Hội Xuân Bích dành 
				quyền khám xét  
				các tài liệu dự trữ (files) của các 
				nhân viên Văn phòng và các chủng sinh, khi xét thấy cần phải 
				làm, để bảo vệ sự an toàn, và lành mạnh của một Cộng đoàn hay là 
				để điều tra về những lời cáo buộc về Hành vi xấu về Tính dục. 
				d/ Hội Xuân Bích cam kết hợp 
				tác thi hành những Điều Luật của Liên Bang, của Tiểu Bang, của 
				Địa phương và của Giáo Luật và các thủ tục đã phác họa 
				trong Chính Sách của Hội Xuân Bích. Mỗi hội viên Xuân Bích có 
				nhiệm vụ phải tránh những hành vi xấu về Tính dục, lại phải 
				phòng ngừa và bảo vệ các nạn nhân của Lạm dụng Tính dục. 
				ĐỂ TẠM KẾT,
				Cổ nhân đã nói:” Thời thế nào , kỷ cương nấy”. 
				Ngày trước, xã hội Việt nam tương đối được an hòa, nề nếp, nhờ 
				Minh Triết Âm-Dương Điều Hòa:”Thuận Vợ thuận Chồng tát Biển  
				Đông cũng cạn”. Người “xuất gia tu hành”cũng được xã hội trọng 
				vọng, không gặp nhiều khó khăn, nhiều trở ngại, cám dỗ. Tổ chức”Nhà 
				Đức Chúa Trời” đã là nơi nương náu, tu trì của bao tâm 
				hồn khát vọng đi tìm Nguồn hạnh phúc chân thật nơi Nhà Chúa. 
				Ngày nay, trong một thế giới tục hóa, với cơn bão”cách mạng Dục 
				Tính”làm tan hoang, xáo trộn đến cả nơi thánh thiêng. Do đó, 
				muốn cứu vãn tình thế, cần những luật lệ chặt chẽ, nghiêm minh 
				để bảo vệ Nếp sống tu trì, độc thân khiết tịnh.Trên đây là những 
				cố gắng và ưu tư của Hội các Linh Mục Xuân Bích  
				giúp huấn luyện hàng Giáo sĩ đối phó với cuộc khủng hoảng về 
				Tính dục. Những  biện pháp thực hành, những lời chỉ giáo rất hữu 
				ích để  nâng đỡ những ai  muốn cam kết chấp nhận nếp sống Khiết 
				Tịnh Độc thân, vì Tình Yêu Thiên Chúa và Tha Nhân.  
				Như đã trình bày ở trên, nhờ Ơn Chúa 
				phù giúp, với ý chí tự do kiên trì, các vị Chân Tu, Thánh nhân 
				đã có thể “Siêu Thoát”, hay “Thăng Hoa” đời sống Tính dục tự 
				nhiên, lên “Nếp Sống Khiết Tịnh” , chính là nếp sống Khắc Khổ, 
				Thần Nhiệm( Ascetic and Mystic)  để kết nghĩa hoàn toàn với Chúa. 
				 Xin đón 
				đọc bài 3:” Huấn Luyện Tính Dục và Nếp Sống Khắc Khổ, Thần Nhiệm” 
				LỄ CHÚA CỨU 
				THẾ GIÁNG SINH 2005                         
				 
				L.M. Jos. Cao 
				Phương Kỷ  |