Đối
với người Việt nam, đề tài linh mục cho đến bây giờ vẫn còn là
một đề tài lạ lẫm, bởi đó thỉnh thoảng nó lại được lôi lên sân
khấu, nhét vào phim ảnh hay được những ngòi bút đá động tới, mỗi
lần như thế thì thường gây nên nhiều ấn tượng, nhiều chú ý và
nhiều ồn ào.
Nếu gã
nhớ không lầm thì hồi trước giải phóng, Lệ Hằng, một nhà văn nữ,
đã viết cuốn tiểu thuyết mang tựa đề là “Tóc mây”, nói về cuộc
tình giữa Tố Kim, một cô sinh viên Đà lạt, với Hà vĩnh Duy (?),
một linh mục nhạc sĩ.
Tác
phẩm này đã tạo nên một cơn lốc, mà lúc bấy giờ thiên hạ gọi là
“hiện tượng tóc mây”. Vào thời điểm ấy, gã đang dạy Việt văn tại
một trường trung học hẻo lánh vùng Thất sơn khỉ ho cò gáy. Các
em nhỏ học sinh, nhất là phe kẹp tóc, đa số là người Phật giáo,
thậm chí còn có cả đôi ba cậu sư Miên, đến tuổi thì vào ở chùa
theo tục lệ, rồi sau đó mới được thả về nhà lấy vợ…thế mà cũng
nhao nhao đòi thuyết trình và hội thảo về tác phẩm này.
Hình
như trước hay sau đó ít lâu, nhạc phẩm “Vì tôi là linh mục” cũng
được ra lò và chiềng làng.
Bài
hát này đã gây được một âm vang khá lớn, thậm chí những lúc buồn
tình, các cô gái ngây thơ cũng chu mỏ và ngay cả các “ma xơ”
cũng mở miệng nghêu ngao :
- Vì
tôi là linh mục,
Không mặc chiếc áo dòng,
Nên
chi đời đau khổ,
Nên
trót đời lang thang…
Hẳn
đây là tâm sự buồn của một linh mục lỡ dại trót yêu một tín đồ
duy nhất, nên đã cởi bỏ chiếc áo chùng thâm mà đi bụi đời ?
Sau
giải phóng, hễ nghe có cuốn chuyện nào viết về linh mục, gã cũng
vội vã đi mua hay đi mượn mang về coi cọp, chẳng hạn như Bão
biển của Chu văn, Người mục tử trong sương mù…
Lúc
đầu thì đọc ngấu đọc nghiến vì tò mò, nhưng chỉ được dăm bảy
trang thì bèn giở quẻ ngáp dài ngáp vắn, ngáp lên ngáp xuống,
ngán đến tận cần cổ, đành phải cố nhướng mắt mà nuốt cho hết thế
mà nó vẫn chẳng chịu trôi.
Bởi
vì, ngay từ những trang đầu gã đã ngửi thấy sặc sụa mùi bôi bác
và đã nhận ra ý đồ đen tối của những tác giả trong luồng, đó là
chụp lên đầu những vị linh mục tội nghiệp ấy cái mũ phản động
hay cái mũ đồi trụy.
Chính
vì những toan tính bẩn thỉu và lộ liễu ấy, nên những cuốn chuyện
này đã mau chóng bị chìm vào quên lãng, chẳng cuốn hút được
người đọc, thậm chí còn phản tác dụng, khiến thiên hạ lại càng
thương cho…mấy ông cha hơn.
Xét về
nguyên do của việc tu trì, thiên hạ thối mồm thường bảo :
- Trốn
việc quan đi ở nhà chùa…Chán đời, hay thất tình thì đi…tu, bởi
vì tu là cõi phúc, tình là giây…thung.
Và
người ta đã khai thác chủ đề này, viết thành những tác phẩm nổi
tiếng, chẳng hạn như “Hồn bướm mơ tiên”, hay dàn dựng thành
những vở kịch ăn khách, chẳng hạn như “Chuyện tình Lan và Điệp”
Gã
chơi thân với một anh chàng. Anh chàng này thương một cô nàng,
nhưng đây chỉ là một tình yêu đơn phương, có nghĩa rằng thì là
anh chàng thì thương da thương diết, còn cô nàng thì lại lạnh
lùng, ngoảnh mặt làm ngơ, khiến cho lái tim của anh chàng cứ héo
hắt và quay quắt.
Thế
rồi, cô nàng đi lấy chồng, kết tóc xe duyên với một thằng bạn
cùng học chung “mí nhau” từ thuở còn mặc quần thủng đũng. Lái
tim anh chàng tan nát theo kiểu :
- Ngày
nhà em pháo nổ,
Anh
cuộn mình trong chăn,
Như
con sâu làm tổ,
Trong trái vải cô đơn.
Anh
chàng thẫn thờ thờ thẫn như kẻ mất hồn, lang thang như người cõi
trên và miệng thì lảm nhảm theo giai điệu của bài “Love story” :
- Ôi
biết nói gì cuộc tình quá lớn.
Cuộc
tình quá lớn ôi biết nói gì cuộc tình lớn quá.
Cuộc
tình lớn quá ôi biết nói gì cuộc tình quá lớn.
Cuộc
tình quá lớn ôi biết nói gì cuộc tình lớn quá…
Sau cú
sốc quá đau vì cuộc tình quá lớn bị vỡ tung, anh chàng lặng lẽ
khăn gói quả mướp, lê từng bước chân âm thầm vào một nhà dòng và
tu ở đó. Ơn Chúa tuôn đổ. Một thời gian sau, anh chàng được thụ
phong linh mục. Trong ngày mở tay, cô nàng dắt cháu bé tới và
nói :
- Con
ạ cha đi con.
Cha
mới chớp chớp đôi mắt “mơ huyền” và lãng đãng nhìn về chốn xa
xôi…Bây giờ mỗi khi nhắc lại chuyện xưa, vị linh mục này thường
hay mỉm cười nói với bè bạn :
- Nếu
không bị cô nàng đá lên đá xuống, toạc đầu xẻ mũi, thì có lẽ
mình đã làm bố cụ, chứ đâu có thèm làm cụ như anh em thấy đó.
Chúa chọn con như sét chọn một cây tầm thường. Quả là ý Ngài
nhiệm màu hết xảy.
Bên
đạo chúng ta, lý do “thất tình đi tu” chẳng phải là không có,
nhưng xem ra rất họa hiếm vì chú nhóc thường vào chủng viện hay
nhà dòng từ hồi nhỏ, tóc còn để chỏm.Thế nhưng, ở cái thuở “thò
lò mũi xanh” ấy, chú nhóc làm sao hiểu được ơn gọi là đí gì ?
Đơn
giản, chú nhóc thích đi tu chỉ vì thấy mấy “cụ” được đi giày
tây, ăn bánh tây và ở nhà tây. Ra ngoài đường được cả và thiên
hạ khoanh tay cúi đầu chào :
- Con
xin phép lạy cha ạ.
Đôi
khi cha mẹ muốn cho con cái đi tu chỉ để sau này chúng được nhàn
hạ và hạnh phúc, như lời phát biểu hăng tiết vịt của bà hiền mẫu
nọ với cha phó kia trong một cuộc hội họp hàng tháng :
- Đi
tu như các cha các dì thế mà sướng, chứ đèo bồng ở ngoài đời như
chúng con khổ lắm cha ạ.
Có chú
nhóc đi tu chỉ vì ông già, bà già thầm mong được mọi người gọi
mình là “ông cố”, “bà cố”. Bởi cái giấc mộng vàng ấy, khi thấy
chú nhóc của mình trở chứng, muốn giã từ đời tu, một ông “chuẩn
cố” đã thẳng thừng nói với “chú nhà tràng” như sau :
- Thà
rằng mày làm con chó nhà Đức Chúa Trời, còn hơn là làm vương làm
tướng ngoài thế gian, con ạ.
Những
lý do “lôm côm” ban đầu này cùng với năm tháng dần dần được đẽo
gọt, được mài dũa, để rồi kết tinh và cô đọng lại thành cái lý
tưởng phục vụ Thiên Chúa và tha nhân.
Trong
thánh lễ mở tay của cha mới, các vị giảng thuyết thường hùng hổ
đến xùi cả bọt mép đề cao vẻ đẹp tuyệt vời của thiên chức linh
mục, ít ai cả gan dám đề cập tới những thập giá của tước vị này,
khiến cho cha mới chỉ nhìn thấy bông hồng mà quên đi những gai
nhọn của nó.
Với
những lời ca ngợi và chúc tụng ấy, ngày mở tay được coi như là
đỉnh vinh quang Taborê của cha mới, không khéo thì cha mới cũng
thưa lên với Chúa như Phêrô ngày xưa :
- Lạy
Thày, chúng con được ở đây thì thích lắm. Chúng con xin làm ba
lều, một cho Thày, một cho Maisen và một cho Elia.
Thế
nhưng, tiệc rượu thì chóng tàn, ngày vui thì qua mau, vinh quang
Taborê chỉ kéo dài trong thoáng chốc, để rồi tới lúc phải xuống
núi và đối đầu với thập giá đời thường. Và đời thường thì nhiêu
khê, lắm nỗi truân chuyên và nhiều phen lao đao, xất bất xang
bang…
Các
bậc lão thành thường đề cập tới ảnh hưởng của linh mục đối với
giáo dân như sau :
- Linh
mục thánh thiện thì giáo dân đạo đức. Linh mục đạo đức thì giáo
dân loàng xoàng. Linh mục loàng xoàng thì giáo dân nguội lạnh.
Linh mục nguội lạnh thì giáo dân xấu xa. Linh mục xấu xa thì
giáo dân biến thành… quỉ dữ.
Như
thế, giáo dân bị đánh tụt một bậc so với linh mục. Đó cũng là
điều dễ hiểu bởi vì linh mục là sư phụ, còn giáo dân là đệ tử về
đàng thiêng liêng. Đệ tử làm sao hơn sư phụ. Linh mục là người
hướng dẫn. Nếu người hướng dẫn mà mù, thì như lời Chúa đã dạy :
- Mù
dẫn mù, cả hai đều lăn tòm xuống hố.
Cùng
với những ý tưởng trên, gã nhớ tới một bài giảng nhân ngày mở
tay của một cha mới. Đại khái như thế này :
“Hãy
cột một chiếc nút để xe kết hai đầu giây, đó là linh mục, bởi vì
linh mục xe kết con người với Thiên Chúa. Hãy xây một cây cầu
nối liền hai bờ bến xa cách, đó là linh mục bởi vì linh mục nối
liền đất với trời. Nói cách khác, linh mục là trung gian giữa
nhân loại và Đấng Tối Cao.
“Vì
vậy, một bên linh mục phải nắm chặt lấy bàn tay Thiên Chúa, còn
một bên linh mục phải nắm chặt lấy bàn tay con người, để rồi đặt
bàn tay con người vào lòng bàn tay của Thiên Chúa, cho tình yêu
được đâm bông kết trái và ơn tha thứ được trao ban. Chính cái
thế tay trong tay này là điều chúng ta mong mỏi nơi các linh
mục.
“Cái
thế tay trong tay ấy đòi hỏi linh mục phải gắn bó với Thiên Chúa
đã đành mà con phải gần gũi với con người. Nếu linh mục rời bỏ
một trong hai bàn tay, không nắm chặt lấy bàn tay Thiên Chúa hay
không nắm chặt lấy bàn tay con người, lúc bấy giờ linh mục sẽ
không chu toàn chức vụ của mình.
“Phải
gắn bó với Thiên Chúa, đó là bổn phận thứ nhất của linh mục.
Thực vậy, nhiệm vụ của linh mục là không ngừng đem Chúa đến cho
mọi người. Và muốn đem Chúa đến cho mọi người thì chính bản thân
linh mục phải là người có Chúa trước đã. Có Chúa trong tâm hồn
và có Chúa trong cuộc đời vì linh mục không thể cho người khác
cái mình không có.
“Đức
Kitô phải chiếm chỗ nhất trong trái tim linh mục, phải là thần
tượng của linh mục, phải là điểm khởi đầu và kết thúc của cuộc
đời linh mục, phải là trọng tâm cho mọi hoạt động của linh mục.
Trái đất xoay quanh mặt trời thế nào thì cuộc đời của linh mục
cũng phải xoay quanh Đức Kitô như vậy, để rồi linh mục có thể
hãnh diện nói lên như thánh Phaolô : Tôi sống nhưng không còn là
tôi sống, mà là chính Đức Kitô sống trong tôi.
“Tiếp
đến linh mục còn phải gần gũi với con người. Gần gũi với con
người bằng cách chia sẻ những lo lắng, cảm thông những khó khăn
và tận tình giúp đỡ những cần thiết, để rồi từ đó linh mục sẽ
chỉ cho con người nhận ra bàn tay dịu hiền và trái tim nhân hậu
của Thiên Chúa.
“Phải
gắn bó với Thiên Chúa nhưng đồng thời cũng phải gắn bó với con
người. Phải nắm chặt lấy bàn tay Thiên Chúa cũng như phải nắm
chặt lấy bàn tay con người để tạo cho được cái thế yêu thương
tay trong tay.
“Tội lớn nhất của linh mục không phải là đã trót sa ngã, đã trót vấp
phạn, bởi vì Thiên Chúa không chọn các thiên thần, nhưng đã chọn
những con người tầm thường và yếu đuối làm linh mục của Ngài.
Tội lớn nhất của linh mục, đó là đã rời bỏ một trong hai bàn tay
ấy. Hoặc là đã quay lưng chống lại Thiên Chúa, hoặc là đã thờ ơ
lạnh nhạt với anh em đồng loại. Lúc bấy giờ, linh mục chỉ còn là
một nhịp cầu đã gẫy, một nút giây đã đứt hay một người lính đã
đào ngũ. Trong chiến tranh, mục tiêu kẻ thù thường nhắm tới
trước hết để triệt hạ, để phá hủy, chính là những cây cầu…”
Từ đó,
gã không ngạc nhiên khi thấy người ta cố ý bôi nhọ và bêu rếu
các linh mục, bởi vì đó là mưu thâm chước độc của …”địch”.
Tuy
nhiên, không phải chỉ phe địch mới bôi nhọ và bêu rếu các linh
mục, nhiều khi chính con cái trong nhà cũng đã bạo phổi và mạnh
miệng chỉ trích các linh mục một cách đầy ác ý. Họ luôn hỏi rằng
:
- Linh
mục đã làm gì cho tôi ?
Nhưng
lại chẳng bao giờ dám nhìn thẳng vào lương tâm để kiểm điểm xem
:
- Tôi
đã làm gì cho linh mục.
Hễ
thấy linh mục có chút gì sai lỗi thì lập tức liền xì xầm bàn
tán, rồi mím môi mím lợi thổi phồng bong bóng. Họ đâu có ngờ
rằng rất nhiều khi chính giáo dân đã làm hư linh mục.
Sau
đây gã chỉ xin trình bày hai trường hợp, hai thái cực nho nhỏ,
trong đó giáo dân đã xô linh mục vào chân tường, đã đẩy linh mục
tới chỗ bất ổn hay đã làm hư linh mục.
Trường
hợp thứ nhất đó là thái độ quá trọng kính đến độ khúm núm, coi
linh mục như là một người thông biết mọi sự và chẳng hề sai lỗi
bao giờ. Mới ngày nào bè bạn còn “mày tao chi tớ” mí nhau, nhưng
một khi đã thụ phong linh mục, từ hòn đất được cất nên ông bụt,
thì lập tức được gọi là cha, là cụ, là cố…khiến cho thiên hạ, kể
cả những người thân yêu nhất, cũng phải “kính nhi viễn chi”.
Trọng
kính linh mục là điều rất tốt, nhưng quá trọng kính đến độ khúm
núm thì lại là điều nguy hiểm vì nó dễ làm cho linh mục quên đi
mình xuất thân từ một cục đất, mình chỉ là một dụng cụ tầm
thường trong bàn tay Thiên Chúa, đồng thời luôn mang ảo tưởng
mình là một ông bụt, mình là cái rốn của vũ trụ, rồi từ đó trở
thành quan liêu, độc tài, độc đoán và…mất dạy.
Đọc
tới đây, hẳn có người sẽ nghĩ rằng :
- Tên
này thật lếu láo, dám cả gan bạo phổi nói mấy cố mất dạy, thì
đúng là hết thuốc chữa.
Bởi
đó, gã xin lớn tiếng thanh minh thanh nga rằng :
- Mất
dạy ở đây không có nghĩa là vô phép, hỗn hào… mà đơn giản chỉ là
không còn được dạy bảo nữa mà thôi.
Nếu
hiểu như thế, cộng thêm với một chút suy nghĩ, chúng ta sẽ nhận
ra phần nào sự thật. Đây cũng là lời khuyên của một bà cố nói
với người con của mình vừa mới đỗ cụ :
- Con ơi, kể từ ngày hôm nay, nếu con không ý tứ, thì con sẽ trở nên
một người mất dạy, bởi vì với chức linh mục, con sẽ không còn
được ai dạy bảo nữa.
Đúng
thế, xuất phát từ quan niệm cho rằng linh mục là người thông
suốt mọi sự, nên trong bối cảnh của xã hội Việt Nam, linh mục
thường phải kiêm nhiệm nhiều công việc khác nhau. Từ một người
rao giảng lời Chúa và cử hành các Bí tích cho đến một người đứng
ra hòa giải các vụ tranh chấp và kiện tụng, làm cố vấn cho các
đôi hôn nhân và các gia đình, làm kỹ sư kiêm đốc công cho các dự
án xây dựng, làm quân sư quạt mo hướng dẫn bà con về cung cách
làm ăn…Ấy là chưa nói tới những linh mục còn phải lãnh nhận cả
những chức vụ phần đời, như thành viên của tổ chức này, phần tử
của tổ chức nọ, đứng đầu hợp tác xã hay làm chủ máy cày, máy
xay…
Với
những công việc vừa đa dạng, vừa bận rộn như thế, linh mục rất
dễ sao lãng việc sống gắn bó với Chúa qua những tâm tình cầu
nguyện. Từ việc sao lãng ấy, linh mục không còn nhận ra sự soi
dẫn và chỉ bảo của Chúa nữa, để rồi trở nên mất dạy dưới cái
nhìn xót xa của Chúa.
Tiếp
đến, do những thành công gặt hái được và nhất là do những trọng
kính thái quá người ta dành cho mình, linh mục cứ ngỡ rằng mình
là một bậc thày lỗi lạc, trổi vượt lên trên mọi người, ý kiến
của mình phải luôn luôn đúng…nên dễ dàng gạt phăng xi lô những ý
kiến đóng góp, những đề nghị xây dựng khi những ý kiến đóng góp
và những đề nghị xây dựng ấy khác với đường lối chủ trương của
mình.
Từ đó,
như đã trình bày, linh mục dễ rơi vào tình trạng độc tài và độc
đoán, không còn biết lắng nghe và đón nhận. Như vậy, phải chăng
linh mục cũng đã làm cho mình dần dần trở nên mất dạy ?
Ấy là
chưa nói đến những trường hợp vì đa đoan công việc, linh mục sao
lãng chuyện tìm hiểu và trau dồi thêm kiến thức đạo đức, khoa
học, xã hội…qua sách vở, báo chí và những phương tiện truyền
thông khác, để rồi trình độ mỗi ngày một xuống cấp và không sớm
thì muộn cũng sẽ bị “tụt hậu”.
Trong
ngôn ngữ thường ngày, người giáo dân được gọi là con chiên. Quan
niệm này xuất phát từ Kinh thánh. Chiên ngoan thì phải biết lắng
nghe và vâng phục chủ chăn. Điều đó rất đúng, nhưng phải làm thế
nào để xóa bỏ tính thụ động của nó, bởi vì người giáo dân hôm
nay tương đối đã trưởng thành, nên cần phải biết chia sẻ trách
nhiệm và góp phần xây dựng tích cực của mình vào cộng đoàn dân
Chúa.
Trường
hợp thứ hai là thái độ vô ơn, nghiêm khắc và thiếu cảm thông của
giáo dân đôi khi đã làm cho linh mục buồn đau đến…rơi cả nước
mắt.
Một
trong những nguyên tắc cư xử thông thường, đó là hãy nghiêm khắc
với bản thân mà khoan dung với người khác. Thế nhưng, thiên hạ
lại hành động ngược với nguyên tắc thông thường ấy, bằng cách tỏ
ra nghiêm khắc với người khác mà khoan dung với chính bản thân
mình. Quan điểm này cũng được giáo dân áp dụng vào mối liên hệ
với linh mục.
Thiên
hạ thường nói : nhân vô thập toàn, đã là người thì ai cũng có
những sai lỗi của mình, kể cả linh mục vì linh mục cũng mang
thân phận mỏng dòn. Rồi bá nhân bá tánh, năm người mười ý, bàn
tay còn có ngón dài ngón ngắn. Hay như tục ngữ cũng đã bảo :
- Ở sao cho vừa lòng người.
Ở
rộng người cười, ở hẹp người chê.
Cao
chê ngỏng, thấp chê lùn.
Béo
chê béo trục béo tròn.
Gầy
chê xương sống, xương sườn phơi ra.
Linh
mục được sánh ví như người làm dâu trăm họ, nên khó có thể làm
vừa lòng mọi người và nếu cố gắng làm vừa lòng mọi người thì rốt
cuộc sẽ chẳng làm vừa lòng một ai.
Giáo
dân hay quên mất những công ơn linh mục đã làm, mà chỉ nhìn thấy
những khuyết điểm của linh mục để lên tiếng phê bình chỉ trích
một cách gắt gao, rồi dắt díu nhau lên Tòa giám mục, nộp đơn cho
Đức cha hay cho nhà nước mà kiện tụng linh tinh.
Thưở
ban đầu, vùng Cái sắn chỉ là một cánh đồng hoang với cỏ dại mọc
um tùm. Một cha sở dẫn đoàn chiên của mình tới cắn dùi. Cha sở
ấy bỏ công sức, tiền bạc ra xây dựng, từ nhà thờ, nhà xứ đến
trường học…
Cùng
với thời gian, cha sở mỗi ngày một già. Và đã già thì cũng hay
có những sự lẩm cẩm. Trước những sự lẩm cẩm ấy, người ta đã xì
xào bàn tán, viết thư nặc danh ném vào phòng, hay tố cáo chỗ này
chỗ nọ, chỉ vì cha sở đã già.
Tòa
giám mục hay biết liền đổi cha sở đi một nơi khác. Nhận được tin
ấy, người ta mừng rỡ ra mặt, nhưng vẫn cử đại diện lên gặp Đức
giám mục để xin cho cha sở được ở lại với dáng bộ rất thiểu não.
Thế nhưng, khi được hỏi :
- Bộ
các ông đã chẳng muốn cho cha đi hay sao ?
Một
trong những vị đại diện đã trả lời :
- Cha
đi mà mình chẳng níu kéo thì coi sao được. Ôi dào, đời mà.
Nghe
câu trả lời này, đến như gã chỉ là một kẻ hậu sinh mà cũng còn
cảm thấy tê tái cõi lòng, đúng như người xưa đã bảo :
- Bạc
như dân, bất nhân như lính.
Bao
lâu linh mục còn khỏe mạnh để phục vụ giáo xứ, thì vẫn là một
người cha đáng mến đáng trọng, nhưng một khi đã đau yếu, đã già
nua và đã là một gánh nặng, thì liền trở nên một cái gai cần
phải nhổ đi. Nói vậy xem ra khí quá, nhưng trong thực tế, có
những sự việc xảy ra khiến cho gã phải suy nghĩ.
Một
cha sở trẻ chẳng may bị ung thư và qua đời. Việc chạy chữa và
mai táng tốn kém khá nhiều. Tốn kém ấy được chi trả bằng tiền
riêng của cha sở. Vì không đủ nên còn tồn đọng lại một món nợ.
Sau khi cha sở được “mồ yên mả dài”, người ta đã cãi nhau chí
chóe về món nợ này. Giáo xứ cũng như dòng họ không ai muốn trả
cả. Cuối cùng thì Tòa giám mục đành phải ép lòng ép xác mà nhận
vậy…
Một
cha sở trẻ khác vừa mới khánh thành ngôi nhà thờ cho giáo xứ thì
lâm bệnh nặng. Bệnh nặng chữa không khỏi mà tiền bạc thì lại hao
tốn. Cha sở trẻ nằm dưỡng bệnh ở nhà xứ, rồi cứ vài tuần phải đi
tái khám và mua thuốc uống tận Saigon. Cứ thế, cứ thế. Lúc đầu
chưa có chuyện gì, nhưng sau một thời gian, những tiếng eo xèo
bắt đầu nảy sinh, mỗi ngày một lớn cộng thêm với chuyện này
chuyện nọ, rồi cuối cùng cha sở trẻ đã phải khóc mà xin đi
hưu…non, như “con chim ẩn mình chờ chết”.
Có lẽ
thấm thía nhất là nỗi cô đơn của linh mục. Gã nhớ không rõ một
tác giả nào đó đã diễn tả :
-
Chiều Chúa nhật, mọi người ra về, cửa nhà thờ khóa lại. Một mình
tôi đơn độc trong khu nhà xứ rộng mênh mông. Thưa chuyện với
Chúa, thì hình như Chúa cũng xa vời. Cuối cùng thì cũng chỉ vò
võ một mình, tôi nhìn tôi trên vách.
Nỗi cô
đơn sẽ đậm đặc hơn khi linh mục đau yếu. Một cha phó đã bật mí
cho gã biết như sau :
- Ngày
nọ mình bị đau nhờ chú nhỏ giúp lễ đi tìm người cạo gió. Nhờ bà
này hay cô kia thì không ổn, bởi vì thiên hạ sẽ bảo rằng đó là
chước mốc ma quỉ. Các bà các cô, hiền thì có hiền, nhưng đôi khi
cũng dữ như sư tử Hà đông. Khi đoàn “nữ binh mùa thu” này mà đã
loan tin bằng chiến thuật rỉ tai thì còn nhanh hơn cả những máy
móc điện tử hiện đại nhất. Được dặn dò kỹ càng, chú nhỏ giúp lễ
kêu về một ông hàng xóm đang trong tình trạng say không ra say,
xỉn không ra xỉn, mới xơi đâu được ba xị rượu đế. Mà như dân
ghiền thường bảo: một xị thì mở mang trí hóa, hai xị thì giải
bớt cơn sầu, ba xị thì mũi chảy đầy râu, bốn xị thì ngồi đâu
khóc đó…Vì được thoa dầu, nên khi cạo gió thân thể mình đang
nóng bừng bừng, thì bỗng dưng cảm thấy lạnh toát ở xương sống,
hóa ra nước mũi của ông hàng xóm cứ vô tư rơi thánh thót trên
tấm lưng của mình. Lần khác khi giác, ông ấy đã đổ ụp cả một ống
dầu hôi lên người…Nhiều khi đau ốm, đành âm thầm nằm ngó lên
trần mà xem những con thằn lằn đuổi nhau.
Sau
cùng, nỗi cô đơn sẽ đặc quánh khi linh mục về già. Nhà hưu thì
nơi có nơi không. Mà có thì cũng khá xập xệ. Còn về ở với gia
đình, không phải là không bất tiện. Nếu mình có tí tiền còm giắt
cạp quần, thì con cháu xem ra hăm hở nhiệt thành. Nhưng khi tiền
đã hết, thì tình cũng chấp cánh bay cao và sự chăm sóc bèn trở
thành một gánh nặng. Có khi chưa chết mà chúng đã vội chia chác,
hay chôm chỉa được cái nào hay cái ấy.
Mặc dù
còn dài, nhưng gã xin “xì tốp” nơi đây bằng vài mẩu chuyện nhim
nhím.
Chuyện
thứ nhất : Đức giáo hoàng Piô X, ngay sau khi vừa được tấn phong
làm Giám mục Montova, đã về thăm gia đình và khoe với mẹ chiếc
nhẫn giám mục của mình :
- Này
bu, bu xem chiếc nhẫn Giám mục của con có đẹp hay không ?
Người
mẹ bèn giơ ra chiếc nhẫn cưới đang đeo trên tay và bảo :
- Nếu
không có cái này thì làm sao có cái kia.
Chuyệnthứ hai : Nghỉ hè, mấy thày rủ nhau đi Lái thiêu. Ban trưa
ghé vào một gia đình mượn con dao để bổ trái cây. Chủ nhà là một
sư huynh Lasan đã xuất và lập gia đình, bèn nói với các thày như
sau :
- Hãy
cố mà tu cho đắc đạo để làm vinh danh Chúa và cứu rỗi các linh
hồn. Còn không tu được thì cũng chẳng sao, về đây qua sẽ liệu
cho. Bởi vì lũ con của qua toàn là…thị mẹt không à. Bậc sống nào
cũng tốt. Tu là cõi phúc mà tình cũng là cõi phúc, miễn là mình
đi đúng con đường của Chúa.
Từ khi
đi chủng viện cho tới lúc ra làm cha, tỷ lệ 10%, nghĩa là cứ 10
kẻ vào tu thì chỉ có 1 người leo lên tới chức linh mục. Kẻ được
gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít. Còn bao nhiêu thì rơi
rụng dọc đường. Điều đó chứng tỏ tu không phải là chuyện dễ và
đời tu không phải là vắng bóng thập giá. Có ở trong chăm mới
biết chăn có rận và đoạn trường ai có qua cầu mới hay.
Đã cố gắng mà chẳng được làm cha cố,
thì làm ông cố cũng tốt thôi, vì không có ông cố, làm sao có cha
cố.
Gã Siêu
gasieu@gmail.com
|