.:: Cong Giao Viet Nam ::.


Trang Chủ Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39) - Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity Quà tặng Tin Mừng
  Tủ Sách - Chủ Đề
  Suy Tư - Chiêm Niệm
  Văn Hóa - Xã Hội
  Y Tế - Giáo Dục
Mục Lục

DẪN NHẬP

CHƯƠNG I: SỨ ĐIỆP CỦA POPULORUM PROGRESSIO

CHƯƠNG II: PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI TRONG THỜI ĐẠI CHÚNG TA

CHƯƠNG III: TÌNH HUYNH ĐỆ, PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ XÃ HỘI DÂN SỰ

CHƯƠNG IV: PHÁT TRIỂN CÁC DÂN TỘC - QUYỀN VÀ BỔN PHẬN MÔI SINH

CHƯƠNG V: SỰ HỢP TÁC CỦA GIA ĐÌNH NHÂN LOẠI

CHƯƠNG VI: PHÁT TRIỂN CÁC DÂN TỘC VÀ KỸ THUẬT

KẾT & GHI CHÚ

Nối kết
Văn Hóa - Văn Học
Tâm Linh - Tôn Giáo
Truyền Thông - Công Giáo
THÔNG ĐIỆP CARITAS IN VERITATE - BÁC ÁI TRONG CHÂN LÝ
Tác giả: BENEDICTUS PP. XVI
Bản dịch của: UB Giáo Lý Đức Tin & TT Mục Vụ TGP Saigon
CHƯƠNG IV: PHÁT TRIỂN CÁC DÂN TỘC - QUYỀN VÀ BỔN PHẬN MÔI SINH

 

43.       “Tình liên đới nhân loại đem lại lợi ích cho chúng ta, đồng thời cũng là một bổn phận” [105]. Ngày nay nhiều người cho rằng họ không mắc nợ ai hết, ngoại trừ chính họ. Họ chỉ quan tâm đến quyền lợi của mình và khó lòng đảm nhận trách nhiệm về sự phát triển toàn diện của chính mình cũng như của người khác. Do đó, điều quan trọng là phải suy nghĩ lại về điều này: quyền lợi giả thiết bổn phận, nếu không, nó sẽ trở thành sự buông thả thuần túy [106]. Ngày nay chúng ta đang chứng kiến sự bất nhất trầm trọng. Một đàng, người ta đòi hỏi những quyền vốn không phải là thiết yếu nếu xét theo bản chất, đồng thời yêu cầu các cơ cấu xã hội phải nhìn nhận và cổ võ những quyền này. Đàng khác, những quyền sơ đẳng và căn bản nhất của con người vẫn không được nhìn nhận và vẫn bị vi phạm tại nhiều nơi trên thế giới [107]. Người ta ghi nhận có mối liên hệ giữa hai điều này: một bên là đòi hỏi “quyền thặng dư” kể cả quyền vi phạm và dung dưỡng thói xấu trong những xã hội giàu có, một bên là tình trạng thiếu thực phẩm, nước sạch, giáo dục căn bản và y tế tối thiểu trong những vùng kém phát triển trên thế giới cũng như  tại những vành đai của những thành phố lớn. Mối liên hệ nằm ở chỗ này: một khi bị tách ra khỏi khuôn khổ những bổn phận là khuôn khổ đem lại ý nghĩa đầy đủ cho những quyền cá nhân, thì những quyền này trở thành hoang dã, dẫn đến chỗ gia tăng những đòi hỏi vô giới hạn và không phân biệt. Quá nhấn mạnh đến quyền lợi đưa đến chỗ coi thường bổn phận. Bổn phận đặt giới hạn cho quyền lợi vì bổn phận chỉ cho thấy khuôn khổ nhân học và đạo đức mà quyền lợi là một thành phần trong đó, bằng cách này bổn phận giúp cho quyền lợi không trở thành sự buông thả. Vì thế, bổn phận củng cố, bảo vệ và thăng tiến các quyền như một bổn phận phải thực hiện nhằm phục vụ ích chung. Đàng khác, nếu những quyền của con người chỉ được dựa trên nền tảng duy nhất là quyết định của một tập thể công dân, thì những quyền này có thể bị thay đổi bất cứ lúc nào, và như thế, bổn phận phải tôn trọng và theo đuổi những quyền này sẽ dần phai mờ trong ý thức chung của cộng đồng. Khi đó, các chính phủ và các cơ quan quốc tế có thể quên mất tính khách quan và “bất khả xâm phạm” của những quyền này. Khi điều đó xảy ra, sự phát triển đích thực của các dân tộc sẽ bị lâm nguy [108]. Cách suy nghĩ và hành động như thế làm suy giảm quyền bính của các cơ quan quốc tế, nhất là đối với những nước đang cần phát triển nhất. Thật vậy, những quốc gia này yêu cầu cộng đồng quốc tế có bổn phận giúp đỡ họ để họ “làm chủ vận mạng của mình” [109], nghĩa là lãnh trách nhiệm về mình. Sự chia sẻ bổn phận cách hỗ tương là sức đẩy mạnh mẽ cho hành động hơn là chỉ khẳng định suông về nhân quyền.

 

44.       Quan niệm về quyền và bổn phận trong phát triển cũng phải quan tâm đến những vấn đề liên quan đến tình trạng gia tăng dân số. Đây là khía cạnh rất quan trọng của sự phát triển đích thực vì nó liên quan đến những giá trị căn bản về sự sống và gia đình [110]. Thật sai lầm khi coi việc gia tăng dân số là nguyên nhân đầu tiên gây nên tình trạng kém phát triển, kể cả từ quan điểm kinh tế. Một đàng, chỉ cần xem xét sự giảm thiểu đáng kể số tử vong của trẻ sơ sinh và sự gia tăng tuổi thọ trong các nước phát triển về kinh tế, và đàng khác là những dấu hiệu khủng hoảng trong những xã hội đang sút giảm trầm trọng về tỷ lệ sinh sản. Đương nhiên là phải chú tâm đến việc sinh sản có trách nhiệm, vốn là một trong những yếu tố quan trọng của sự phát triển con người toàn diện. Vì quan tâm đến sự phát triển đích thực của con người, Giáo hội thúc giục con người phải tôn trọng đầy đủ những giá trị nhân bản trong hành động tính dục. Tính dục không thể bị giảm thiểu thành khoái lạc hay giải trí thuần túy, cũng thế giáo dục phái tính không thể chỉ là hướng dẫn về kỹ thuật với mục đích duy nhất là làm sao khỏi bị bệnh và tránh được “nguy cơ” thụ thai. Làm như thế là coi thường và nghèo nàn hóa ý nghĩa sâu xa của tính dục, vốn là ý nghĩa cần phải được nhìn nhận và thực hiện cách có trách nhiệm, không những đối với các cá nhân mà cả với cộng đồng. Thật là vô trách nhiệm nếu chỉ nhìn tính dục như nguồn khoái lạc thuần túy, cũng như điều chỉnh tính dục bằng những kế hoạch bắt buộc kiểm soát sinh sản. Trong cả hai trường hợp, những tư tưởng và chính sách duy vật thắng thế, cuối cùng các cá nhân trở thành nạn nhận của bạo lực dưới nhiều hình thức khác nhau. Để chống lại những chính sách đó, cần phải bảo vệ quyền căn bản của gia đình trong lãnh vực tính dục [111] đối với Nhà Nước và những chính sách mang tính áp đặt của Nhà Nước, đồng thời phải cung ứng cho các người làm cha mẹ nền giáo dục thích hợp. 

Về mặt luân lý, mở ra với sự sống trong tinh thần trách nhiệm là sự phong phú về mặt xã hội và kinh tế. Các dân tộc đông người đã có thể thoát ra khỏi cảnh đói nghèo là nhờ dân số đông và tiềm năng của dân chúng. Ngược lại, những dân tộc đã từng có thời thịnh vượng nay đang trải qua giai đoạn nghiêng ngả và đôi khi suy thoái là vì tỷ lệ sinh sản giảm sút, và đây là vấn đề then chốt của những xã hội đã phát triển cao. Tình trạng giảm số sinh sản, đôi khi ở dưới mức được gọi là “mức độ thay thế”, cũng gây khó khăn cho những hệ thống bảo hiểm xã hội, làm tăng giá bảo hiểm, ăn vào nguồn dự trữ và do đó ăn vào những nguồn tài chính cần thiết cho việc đầu tư, giảm số lao động có trình độ cao và thu hẹp lại nguồn chất xám mà dân tộc cần dựa vào. Hơn thế nữa, trong những gia đình ít người, kể cả rất ít, những tương quan xã hội có nguy cơ bị nghèo nàn đi và những hình thức liên đới truyền thống cũng không còn. Những tình trạng trên là triệu chứng của việc không còn tin tưởng vào tương lai và mệt mỏi tinh thần. Vì thế, giới thiệu cho các thế hệ tương lai vẻ đẹp của hôn nhân và gia đình, và cho họ thấy hôn nhân và gia đình đáp ứng những nhu cầu sâu xa nhất cũng như phẩm giá của con người, điều này đã trở thành một nhu cầu xã hội, kể cả nhu cầu kinh tế. Trong viễn tượng này, các Nhà Nước được mời gọi đưa ra những chính sách thúc đẩy tính trung tâm và toàn vẹn của gia đình đặt nền trên hôn nhân giữa người nam và người nữ, là tế bào căn bản và sống động của xã hội [112], đồng thời phải quan tâm đến những nhu cầu kinh tế và tài chính của các gia đình, trong sự tôn trọng bản chất mang tính tương giao của gia đình.

 

45.       Đáp ứng những đòi hỏi luân lý sâu xa nhất của con người cũng tạo ra những âm hưởng quan trọng và ích lợi trên bình diện kinh tế. Thật vậy, để vận hành cách đúng đắn, kinh tế cần đến đạo đức; không phải bất cứ thứ đạo đức nào nhưng là nền đạo đức thân hữu với nhân vị. Ngày nay người ta nói nhiều đến đạo đức trong lãnh vực kinh tế, tài chính hay kỹ thuật. Các trung tâm nghiên cứu và những khóa huấn luyện đạo đức kinh doanh được thiết lập. Trong các nước phát triển, hệ thống cấp bằng chứng nhận về đạo đức đang lan rộng, phát xuất từ ý thức về trách nhiệm của kinh doanh đối với xã hội. Các ngân hàng đang đề nghị những tài khoản và những nguồn vốn đầu tư được gọi là “đạo đức”. “Tài chính đạo đức” đang phát triển nhất là qua những tín dụng và tài chính nhỏ. Tiến trình này thật đáng khen và cần được nâng đỡ. Người ta cũng thấy được những hiệu quả tích cực của nó cả trong các nước kém phát triển. Tuy nhiên, cần đề ra một tiêu chuẩn phân định lành mạnh vì tĩnh từ “đạo đức” có thể bị lạm dụng nếu sử dụng quá chung chung, có nguy cơ mang những nội dung khác nhau đến độ ẩn dưới những vỏ bọc đạo đức lại là những quyết định và chọn lựa đi ngược lại công bằng và thiện hảo đích thực của con người. 

Thật vậy, điều đó tùy thuộc phần lớn vào hệ thống luân lý mà người ta qui chiếu vào. Về chủ đề này, giáo huấn xã hội của Giáo hội có phần đóng góp đặc biệt vì giáo huấn này xây nền trên việc tạo dựng con người “theo hình ảnh Thiên Chúa” (St 1,27); từ đó phát xuất phẩm giá bất khả vi phạm của nhân vị cũng như giá trị siêu việt của những luật luân lý tự nhiên. Một nền đạo đức mà không nhìn nhận hai cột trụ này, chắc chắn có nguy cơ đánh mất ý nghĩa riêng của đạo đức và làm mồi cho những hình thức lạm dụng. Cụ thể hơn nữa, nó có nguy cơ làm nô lệ cho những hệ thống kinh tế tài chính hiện hành thay vì sửa đổi những sai trái của hệ thống đó. Cuối cùng, nó cũng có thể được sử dụng để biện chính cho việc cung cấp tài chính cho những dự án phi đạo đức. Do đó, không nên sử dụng từ “đạo đức” theo nghĩa phân biệt ý thức hệ, làm như thể những sáng kiến không mang nhãn hiệu này thì không đạo đức. Cần nỗ lực – và đây là điều tối cần thiết – để không chỉ gầy dựng lãnh vực kinh tế này hoặc lãnh vực tài chính kia mang tính đạo đức, nhưng phải làm sao để toàn bộ nền kinh tế tài chính mang tính đạo đức, không chỉ do nhãn hiệu bên ngoài, nhưng do sự tôn trọng những đòi hỏi nội tại bản chất của nó. Giáo huấn xã hội của Giáo Hội đề cập đến vấn đề này cách rõ ràng khi nhắc nhớ rằng kinh tế, trong nhiều ngành khác nhau, là một lãnh vực của hoạt động con người (113).

 

46.       Khi xem xét đến những vấn đề liên quan tới mối tương quan giữa kinh doanh và đạo đức, cũng như sự tiến hóa của hệ thống sản xuất ngày nay, xem ra sự phân biệt truyền thống giữa các công ty nhắm lợi nhuận và các tổ chức phi lợi nhuận không còn phù hợp hoàn toàn với thực tế nữa, cũng không cung cấp định hướng thực hành cho tương lai. Trong những thập niên vừa qua, đã xuất hiện một vùng trung gian giữa hai hình thức kinh doanh nói trên. Vùng đất trung gian này được làm thành do những công ty truyền thống – nhưng lại có những thỏa ước giúp đỡ các xứ kém phát triển –  những tổ chức bác ái liên kết với các công ty cá nhân hoặc nhóm công ty với định hướng lo cho phúc lợi xã hội, và những hình thức khác của cái gọi là “kinh tế dân sự” và “kinh tế hiệp thông”. Vấn đề ở đây không chỉ là “vùng đất thứ ba” nhưng là một thực tại rộng lớn và phức tạp, chạm đến đời sống riêng cũng như đời sống công, không loại trừ lợi nhuận nhưng xem lợi nhuận như dụng cụ để thực hiện những mục tiêu mang tính nhân văn và xã hội. Dù những công ty này có phân phối lợi nhuận hay không, dù cấu trúc pháp luật của những công ty này phù hợp với hình thức kinh doanh nào, điều đó không quan trọng cho bằng định hướng của các công ty đó khi coi lợi nhuận như phương thế để đạt đến mục tiêu nhân hóa thị trường và xã hội. Hy vọng rằng những loại hình kinh doanh này sẽ có được cấu trúc tài chính và pháp lý thích hợp trong mọi quốc gia. Không phủ nhận tầm quan trọng và những lợi ích kinh tế xã hội của những hình thức kinh doanh truyền thống, những loại hình mới này đang thúc đẩy hệ thống hướng đến chỗ các chủ thể kinh tế đảm nhận cách rõ ràng và đầy đủ hơn bổn phận của mình. Hơn thế nữa, chính tính đa dạng của những hình thức kinh doanh sẽ đưa đến một thị trường không những văn minh hơn mà còn mang tính cạnh tranh hơn.

 

47.       Việc gia tăng các mẫu thức kinh doanh khác nhau, và đặc biệt những mẫu có khả năng xem lợi nhuận như phương tiện để đạt được mục đích nhân bản hóa thương trường và xã hội, phải được theo đuổi trong các nước bị loại trừ hay bị gạt ra bên lề vòng ảnh hưởng của kinh tế toàn cầu. Nơi đó, phải đẩy mạnh những kế hoạch dựa trên nguyên tắc bổ trợ, được hoạch định và quản lý tốt, nhằm củng cố các quyền lợi, đồng thời cũng đảm nhận những trách nhiệm tương ứng. Trong các chương trình phát triển, nguyên tắc về vị trí trung tâm của nhân vị phải được bảo đảm, vì nhân vị là chủ thể có trách nhiệm đầu tiên trong việc phát triển. Lợi ích chính yếu phải là cải tạo cho tốt hơn hoàn cảnh sống của con người cụ thể trong một vùng xác định, để họ có thể chu toàn trách nhiệm của mình, điều mà họ không thể chu toàn do hoàn cảnh nghèo khó. Mối quan tâm xã hội không bao giờ chỉ là một thái độ trừu tượng. Để có thể thích ứng với những hoàn cảnh đặc biệt, những kế hoạch phát triển cũng phải mang đặc tính uyển chuyển; và những người lãnh nhận viện trợ cũng phải được trực tiếp hội nhập vào chương trình của kế hoạch và trở thành diễn viên chính cho việc chuyển đổi của họ. Cũng cần phải áp dụng những tiêu chuẩn cho việc thăng tiến từng cấp bậc và hỗ trợ kèm theo – bao gồm cả việc kiểm soát kết quả – vì không có một bài bản được áp dụng cách phổ quát.  Tất cả tùy thuộc vào cách thế thực hiện các chương trình. “Vì các dân tộc là những người xây dựng cho những tiến triển của chính họ, chính họ là những người đầu tiên phải nhận gánh nặng và trách nhiệm. Nhưng họ không thể làm được, nếu như bị cô lập” [114]. Ngày nay, khi thế giới càng ngày càng gắn bó với nhau, ý kiến của Đức Giáo Hoàng Phaolô VI lại càng mang tính thời sự. Sự năng động của hội nhập không mang tính chất cơ giới. Những cách giải quyết phải dựa vào nền tảng của việc đánh giá hoàn cảnh cách cẩn thận, dựa trên đời sống của các dân tộc và những con người cụ thể. Bên cạnh những dự án lớn, cần có những dự án nhỏ và nhất là sự động viên hữu hiệu tất cả mọi người của xã hội dân sự, những pháp nhân cũng như những con người cụ thể.  

Việc hợp tác quốc tế cần đến những người tham gia vào tiến trình phát triển kinh tế và nhân bản qua sự liên đới bằng sự hiện diện, đồng hành, việc đào tạo và tôn trọng. Từ cái nhìn này, các cơ quan quốc tế phải tự hỏi về hiệu quả thực sự của guồng máy quản lý nặng tính bàn giấy và thường rất tốn kém. Đôi khi những người lãnh viện trợ trở nên phụ thuộc vào những người giúp đỡ và những người nghèo lại giúp cho những cơ chế bàn giấy tồn tại; những cơ chế này để tồn tại phải tốn rất nhiều từ nguồn vốn đáng lý phải dành cho việc phát triển. Từ cái nhìn này, ước gì tất cả những cơ quan quốc tế và những tổ chức không thuộc chính quyền dấn thân cách trong sáng, khi trình bày cho những người trợ giúp ý kiến cũng như cho công luận biết về việc phân chia theo tỉ lệ số tiền được nhận, là số tiền được dành cho những kế hoạch làm việc chung, về nội dung thực tế của dự án và cuối cùng về việc hoạch định chung các trách nhiệm định hướng.

 

48.       Ngày nay đề tài phát triển gắn chặt với các trách nhiệm; những trách nhiệm này xuất phát từ mối liên hệ của con người với môi trường tự nhiên. Môi trường này được Thiên Chúa ban cho tất cả mọi người. Đối với chúng ta, việc sử dụng môi trường đặt chúng ta trước một trách nhiệm đối với các người nghèo, với thế hệ tương lai và toàn thể nhân loại. Nếu vạn vật, và đầu tiên là con người, bị xem là kết quả của một sự ngẫu nhiên hay chủ thuyết định mệnh tiến hóa, thì ý thức trách nhiệm sẽ bị giảm đi. Ngược lại, nơi thiên nhiên, người tín hữu nhận ra công trình kỳ diệu của tác động sáng tạo của Thiên Chúa, điều này buộc con người phải sử dụng có trách nhiệm, khi thỏa mãn những nhu cầu vật chất và tinh thần với việc tôn trọng sự quân bình nội tại của sáng tạo. Nếu quan niệm này bị lung lay, cuối cùng con người sẽ nhìn vạn vật như một thực tại không được chạm tới hay ngược lại con người sẽ bóc lột chúng. Cả hai thái độ này đều không thích hợp với cái nhìn của Kitô giáo về vạn vật, hoa quả sáng tạo của Thiên Chúa. 

Thiên nhiên bày tỏ kế hoạch của tình yêu và chân lý.  Thiên nhiên xuất hiện trước chúng ta và được Thiên Chúa ban tặng như không gian sống cho chúng ta. Thiên nhiên nói với chúng ta về Đấng Sáng Tạo (Rm 1,20) và về tình yêu của Ngài với con người. Thiên nhiên được hướng đến thời cuối cùng, cũng sẽ được “qui tụ trong Đức Kitô” (Ep 1,9-10; Cl 1,19-20). Do đó chính thiên nhiên cũng là một “tiếng gọi” [115]. Thiên nhiên nằm trong tầm tay sử dụng của chúng ta không phải như “một đống đối tượng được tung rải một cách ngẫu nhiên”[116], nhưng như là quà tặng của Đấng Sáng Tạo, Đấng đã định cho chúng những trật tự nội tại để con người có thể rút ra từ đó những định hướng cần thiết để “gìn giữ và canh tác” chúng   (St 2,15). Nhưng cũng phải nhấn mạnh, nếu nhìn thiên nhiên quan trọng hơn con người, thì sẽ đi ngược với sự phát triển đích thực. Cách nhìn này sẽ đưa đến những thái độ tân-ngoại giáo hay một thứ chủ thuyết đa thần mới: ơn cứu độ con người không thể chỉ đến từ ý nghĩa tự nhiên của vạn vật. Người ta cũng phải quay lưng với thái độ ngược lại, thái độ cố gắng thống trị thiên nhiên bằng kỹ thuật, vì môi trường tự nhiên không phải chỉ là vật chất mà chúng ta có thể sắp xếp theo ý muốn của chúng ta, nhưng là công trình kỳ diệu của Thiên Chúa, mang nơi mình một “văn phạm – Grammatik” cho thấy những mục đích và tiêu chuẩn để chúng được sử dụng với sự khôn ngoan và không bị bóc lột cách độc đoán. Ngày nay, nhiều điều tai hại cho sự phát triển xuất phát từ những quan niệm sai lầm này. Nếu đúc kết vạn vật hoàn toàn chỉ như tổng số những dữ kiện, cuối cùng chúng ta sẽ thấy rõ nguồn gốc của bạo lực đối với môi trường, đưa đến những hành động không tôn trọng đối với bản chất của con người. Bản chất này được tạo dựng không những từ vật chất, nhưng cũng từ tinh thần và vì thế mang nhiều ý nghĩa và mục đích siêu vượt để đạt tới, điều này có một đặc tính chuẩn mực đối với văn hóa. Con người giải thích và kiến tạo môi trường tự nhiên nhờ văn hóa; văn hóa này, đến phiên mình, được xác định từ sự tự do mang ý thức trách nhiệm, luôn chú tâm vào những nguyên tắc của lề luật luân lý.  Dự kiến cho một sự phát triển toàn diện con người không được quên những thế hệ kế tiếp, phải dựa trên tình liên đới và công bằng liên thế hệ (la justice intergénérationnels) phải chú ý đến các bình diện thực đa dạng – môi sinh, pháp lý, kinh tế, chính trị và văn hóa [117].

 

49.       Ngày nay, những vấn đề liên hệ đến việc chăm sóc và bảo vệ môi trường buộc phải chú tâm đến vấn đề năng lượng. Việc thu gom nguồn năng lượng không tái chế của một số quốc gia, của những nhóm và công ty có ảnh hưởng lớn, đặt một ngăn trở nặng nề cho việc phát triển các nước nghèo. Những nước này hoặc thiếu phương tiện kinh tế để có thể khai thác những nguồn năng lượng không tái chế đang có, hoặc thiếu tiền để cung cấp cho việc nghiên cứu những nguồn năng lượng mới thay thế. Việc thu gom các tài nguyên thiên nhiên, trong nhiều trường hợp lại xảy ra ngay giữa các nước nghèo, sẽ dẫn đến sự bóc lột và nhiều sự xung đột giữa các quốc gia cũng như ngay trong nước. Những xung đột như thế sẽ diễn ra ngày càng thường xuyên hơn ngay trên những đất nước này kéo theo những hậu quả nạng nề: chết chóc, tàn phá và những tàn hại khác. Cộng đồng quốc tế có trách nhiệm tìm những con đường mang tính cơ chế để ngăn cản sự bóc lột những tài nguyên không thể tái chế, và phải cộng tác với sự thỏa thuận của những nước nghèo để cùng với họ hoạch định tương lai.  

Trên mặt trận này, có một nhu cầu luân lý khẩn thiết về một sự liên đới cần được đổi mới, đặc biệt trong những liên hệ giữa các nước đang phát triển và những nước đạt trình độ cao về mặt kỹ nghệ [118]. Các cộng đồng phát triển cao về mặt kỹ thuật có thể và phải hạn chế sự phung phí năng lượng, hoặc bằng cách đổi mới những phương pháp sản xuất, hoặc gây ý thức mạnh mẽ hơn về môi sinh nơi người dân của mình. Cũng còn phải thêm, ngày nay việc kiện toàn khả năng sản xuất năng lượng rất khả thi và đồng thời cũng có khả năng đẩy mạnh việc tìm kiếm những hình thức khác của năng lượng. Cần phải có việc phân chia lại trên toàn thế giới những dự trữ năng lượng, để các nước không sử dụng được nguồn riêng, cũng có thể tham gia vào. Số phận của họ không thể đặt vào tay những người hưởng lợi đầu tiên hay căn cứ theo lý luận của kẻ mạnh. Đó là những vấn đề quan trọng, để có thể giải quyết cách hiệu quả, mọi người cần phải ý thức về các hệ quả thường đổ trên đầu các thế hệ mới, nhất là nhiều giới trẻ giữa các nước nghèo, là những người “đòi buộc phải được tham gia cách tích cực vào việc xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn” [119].

 

50.       Trách nhiệm này mang tính toàn cầu, không phải chỉ đụng chạm đến năng lượng, nhưng là toàn thể tạo thành, mà chúng ta không được phép trao lại cho những thế hệ tiếp nối một công trình tạo dựng đã bị bóc lột các tài nguyên. Chắc chắn con người có thể thực hiện việc quản lý đầy trách nhiệm đối với thiên nhiên, để bảo vệ, hưởng dùng và canh tác bằng những hình thức mới nhờ sự trợ giúp của kỹ thuật tân tiến, để trái đất có thể đón nhận và nuôi toàn dân đang sống. Có đủ chỗ cho mọi người trên trái đất của chúng ta: toàn thể gia đình nhân loại có thể tìm nơi đây những nguồn tài nguyên cần thiết để có thể sống đúng đắn nhờ vào thiên nhiên, là quà tặng của Thiên Chúa cho con cái của Người, nhờ cố gắng làm việc và sức sáng tạo của mình. Dù vậy, chúng ta cũng phải ý thức về trách nhiệm lớn lao là phải để lại trái đất này cho những thế hệ mới trong một tình trạng như thế nào để họ có thể sống xứng đáng và tiếp tục canh tác. Điều này đòi hỏi chúng ta phải chung tay quyết định, sau khi đã xem xét với ý thức trách nhiệm, theo con đường nào với mục đích củng cố giao ước giữa con người với môi trường, như phản ảnh tình yêu sáng tạo của Thiên Chúa, Đấng mà chúng ta hiện hữu nhờ Người và đang tiến về Người” [120]. Chúng ta hy vọng rằng, cộng đồng quốc tế và từng chính quyền phải ngăn chận một cách hữu hiệu các hình thức khai phá tai hại làm môi trường bị bóc lột. Các nhà chức trách hiện hành phải cố gắng hết sức, để những giá trị kinh tế và xã hội cho việc sử dụng các tài nguyên tự nhiên phải được công khai, cũng như những người hưởng dùng phải mang trách nhiệm, chứ không phải các dân tộc khác hay các thế hệ tương lai: việc bảo vệ môi trường, tài nguyên và khí hậu đòi buộc tất cả những người có trách nhiệm trên toàn thế giới phải hành động chung với nhau và cho thấy quyết định làm việc cách chính đáng, trong sự tôn trọng luật lệ và liên đới với các vùng yếu kém nhất trên hành tinh của chúng ta [121]. Một trong những trách nhiệm lớn nhất của kinh tế là việc sử dụng hiệu quả nhất các nguồn tài nguyên, chứ không phải phung phí, không bao giờ quên rằng ý niệm về hiệu năng không trung lập về mặt giá trị.

 

51.       Cách thức con người xử sự với môi trường, sẽ ảnh hưởng đến cách con người xử sự với chính mình, và ngược lại.  Vì thế, xã hội  hiện tại phải cẩn thận xem lại cách sống của mình, cách sống mà trong nhiều vùng trên trái đất thường hướng về chủ nghĩa hưởng lạc và tiêu thụ và không quan tâm đến những điều tai hại từ đó gây nên [122]. Chúng ta cần có một sự thay đổi tâm thức, giúp đón nhận những cách sống mới; “trong đó, những yếu tố xác định cho việc chọn lựa, tiết kiệm  và đầu tư sẽ là việc tìm chân thiện mỹ, cũng như sự hiệp thông với những người khác để có sự tăng trưởng chung” [123]. Mọi việc gây tổn thương tình liên đới và huynh đệ dân sự sẽ đưa đến tại hại cho môi trường, cũng như những tai hại môi trường đến phiên mình lại gây ra những khó khăn cho các mối liên hệ xã hội. Đặc biệt trong thời đại chúng ta, thiên nhiên đã hội nhập vào sự năng động xã hội và văn hóa sâu xa đến độ không còn là dữ kiện độc lập nữa. Việc sa mạc hóa nhanh chóng và lâm vào cảnh khổ của nhiều vùng nông nghiệp là hậu quả của nghèo đói và chậm tiến của dân chúng sống nơi đó. Khi động viên việc phát triển kinh tế và văn hóa của những dân tộc này, thì thiên nhiên cũng được bảo vệ. Biết bao nhiêu tài nguyên thiên nhiên đã bị chiến tranh tàn phá. Hòa bình của mỗi dân tộc và giữa các dân tộc cũng giúp bảo vệ thiên nhiên tốt hơn. Việc thu gom các tài nguyên, đặc biệt là nước, có thể đưa tới những xung đột giữa các dân bị ảnh hưởng. Một sự thỏa thuận hòa bình về việc sử dụng các tài nguyên có thể bảo vệ thiên nhiên và đồng thời sự sung túc của những xã hội có liên hệ. 

Giáo hội có trách nhiệm đối với công trình tạo dựng và phải làm cho trách nhiệm này được chấp nhận cách công khai. Nếu thực hiện điều này, Giáo hội không những bảo vệ trái đất, nước và không khí như những quà tặng của sáng tạo thuộc về mọi người, mà trên hết Giáo hội bảo vệ con người khỏi việc tự hủy hoại chính mình. Cần phải có sự hiểu biết đúng đắn về môi trường sinh thái của con người. Thật vậy, sự suy thoái của thiên nhiên liên hệ mật thiết với nền văn hóa đã định hình cho đời sống chung của con người. Khi môi sinh nhân bản [124] được tôn trọng trong xã hội, thì môi sinh đích thực cũng sẽ được hưởng lợi. Cũng như các nhân đức nhân bản liên hệ với nhau và sự yếu kém của một nhân đức cũng làm suy yếu các nhân đức khác, cũng thế, hệ thống môi sinh cũng được đặt nền trên sự tôn trọng một chương trình có ảnh hưởng đến cuộc sống chung lành mạnh giữa xã hội cũng như mối liên hệ tốt đẹp với thiên nhiên.    

Để bảo vệ thiên nhiên, thật sự không đủ khi đưa ra những tiêu chuẩn cổ vũ hay ngăn cản, cả việc giáo dục thích ứng cũng không đủ. Đó là những phương thế trợ lực quan trọng, nhưng vấn đề quyết định là thái độ luân lý của toàn thể xã hội. Khi quyền được sống và quyền được chết một cách tự nhiên không được tôn trọng, khi việc thụ thai, mang thai và sinh hạ của con người chỉ được thực hiện theo kỹ thuật, khi các phôi người dành cho việc khảo sát tìm tòi, cuối cùng ý niệm môi sinh nhân bản sẽ bị chao đảo và cùng với nó, ý niệm về môi sinh môi trường cũng bị loại ra khỏi ý thức chung của con người. Thật là một điều nghịch lý khi đòi hỏi các thế hệ mới phải tôn trọng môi trường tự nhiên, trong khi giáo dục và luật lệ không giúp gì để họ tự tôn trọng chính mình. Quyển sách thiên nhiên là duy nhất và không thể phân chia, cũng như môi trường của sự sống và các bình diện tính dục, hôn nhân, gia đình, liên hệ xã hội, tắt một lời của sự phát triển toàn diện con người. Những trách nhiệm của chúng ta đối với môi trường liên kết với các trách nhiệm mà chúng ta phải có đối với con người tự tại và trong liên hệ với những kẻ khác. Người ta không thể đòi buộc một trách nhiệm và giẫm đạp lên các trách nhiệm khác. Đây là một điều nghịch lý nặng nề của tâm thức và thực hành của ngày nay, làm cho con người chán nản, khuynh đảo môi trường và gây hại cho xã hội .

 

52.       Chân lý và tình yêu nối kết nhau, không thể tự sản xuất ra được, chúng ta chỉ có thể đón nhận như quà tặng. Nguồn gốc tối thượng của chúng không thể là con người, nhưng là Thiên Chúa, Đấng là Chân lý và Tình yêu. Nguyên tắc này rất quan trọng cho xã hội và cho sự phát triển, vì cả tình yêu lẫn chân lý đều không thể là sản phẩm của con người; cũng thế ơn gọi để phát triển con người và các dân tộc không dựa vào quyết định của con người, nhưng đã được ghi trong một kế hoạch có trước chúng ta và đặt để cho chúng ta một trách nhiệm mà mọi người đón nhận cách tự nguyện. Điều đã đi trước chúng ta và điều đã xây dựng chúng ta – đó là Tình yêu và Chân lý – cho chúng ta thấy điều gì là tốt đẹp và hạnh phúc của chúng ta hệ tại điều gì. Chính Tình yêu và Chân lý sẽ chỉ cho chúng ta con đường đi đến phát triển đích thực.     

Tác giả: BENEDICTUS PP. XVI (Bản dịch của: UB Giáo Lý Đức Tin & TT Mục Vụ TGP Saigon)

Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và GHVN bay lên!