.:: Cong Giao Viet Nam ::.


Trang Chủ Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39) - Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity Quà tặng Tin Mừng
  Tủ Sách - Chủ Đề
  Suy Tư - Chiêm Niệm
  Văn Hóa - Xã Hội
  Y Tế - Giáo Dục
Mục Lục

DẪN NHẬP

CHƯƠNG I: SỨ ĐIỆP CỦA POPULORUM PROGRESSIO

CHƯƠNG II: PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI TRONG THỜI ĐẠI CHÚNG TA

CHƯƠNG III: TÌNH HUYNH ĐỆ, PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ XÃ HỘI DÂN SỰ

CHƯƠNG IV: PHÁT TRIỂN CÁC DÂN TỘC - QUYỀN VÀ BỔN PHẬN MÔI SINH

CHƯƠNG V: SỰ HỢP TÁC CỦA GIA ĐÌNH NHÂN LOẠI

CHƯƠNG VI: PHÁT TRIỂN CÁC DÂN TỘC VÀ KỸ THUẬT

KẾT & GHI CHÚ

Nối kết
Văn Hóa - Văn Học
Tâm Linh - Tôn Giáo
Truyền Thông - Công Giáo
THÔNG ĐIỆP CARITAS IN VERITATE - BÁC ÁI TRONG CHÂN LÝ
Tác giả: BENEDICTUS PP. XVI
Bản dịch của: UB Giáo Lý Đức Tin & TT Mục Vụ TGP Saigon
DẪN NHẬP

 

1.         Bác ái trong chân lý (CARITAS IN VERITATE)! chân lý mà Đức Giêsu đã làm chứng trong cuộc đời tại thế và nhất là qua cái chết và sự phục sinh của Người; tình yêu này là sức mạnh điều hướng chính yếu cho việc phát triển đích thực mỗi người và toàn thể nhân loại. Tình yêu – caritas – là một sức mạnh ngoại thường, thúc đẩy con người dấn thân thật can đảm và quảng đại trong lãnh vực công lý và hòa bình. Đó là một sức mạnh bắt nguồn từ Thiên Chúa, Đấng là TÌNH YÊU muôn thuở và là CHÂN LÝ tuyệt đối. Mỗi người sẽ tìm được hạnh phúc của mình khi sáp nhập vào kế hoạch Thiên Chúa dành cho họ, để hiện thực bản thân cách trọn vẹn. Trong kế hoạch  này, con người sẽ tìm thấy sự thật về chính mình và họ sẽ được tự do khi gắn bó với sự thật đó (Ga 8, 22). Do đó, bảo vệ sự thật, xác định sự thật này cách khiêm tốn, xác tín và làm chứng cho sự thật này trong đời sống của mình, là những hình thái đúng đắn và tối cần thiết của tình yêu. Thật vậy, tình yêu “vui khi thấy điều chân thật” (1Cr 13,6). Mọi người đều cảm nhận sự thúc đẩy nội tâm để yêu một cách chân thật: tình yêu và chân lý không bao giờ hoàn toàn rời bỏ con người, bởi lẽ tình yêu và chân lý là ơn gọi Thiên Chúa đặt để trong tâm hồn và tâm trí của từng người. Đức Giêsu Kitô thanh tẩy và giải thoát việc tìm kiếm tình yêu và chân lý của chúng ta khỏi những nghèo hèn yếu đuối thuộc nhân tính, và Người mạc khải cho chúng ta cách trọn vẹn sáng kiến tình yêu và kế hoạch hướng đến sự sống đích thực Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta. Tình yêu trong chân lý  trở thành gương mặt của Chúa Kitô; và trong Đức Kitô, tình yêu này trở thành ơn gọi của chúng ta. Ơn gọi của chúng ta là yêu thương anh em trong chân lý của chương trình Thiên Chúa dành cho họ. Thật vậy, chính Chúa Kitô là CHÂN LÝ (Ga 14,6).

 

2.         Bác ái là tâm điểm trong giáo huấn của Giáo hội về xã hội. Mọi trách nhiệm và dấn thân mà giáo huấn ấy kêu gọi đều xuất phát từ tình yêu, mà theo lời dạy của Đức Giêsu, tình yêu này là bản tóm kết toàn bộ Lề Luật (Mt 22,36-40). Tình yêu đem đến nội dung chính yếu cho liên hệ cá nhân với Thiên Chúa và với tha nhân; tình yêu là nguyên lý không những cho những liên hệ vi mô – trong bạn bè, gia đình và từng nhóm nhỏ – nhưng cả cho những liên hệ vĩ mô – trong liên hệ xã hội , kinh tế và chính trị. Đối với Hội Thánh –  được thấm nhuần Phúc Âm – tình yêu là tất cả, chỉ vì như thánh Gioan đã dạy chúng ta (1Ga 4,8.16) và tôi cũng đã gợi lên trong Thông điệp đầu tiên của tôi: “THIÊN CHÚA LÀ TÌNH YÊU – DEUS CARITAS EST”: mọi sự đều bắt nguồn từ tình yêu Thiên Chúa, mọi sự đều được định hình bởi tình yêu ấy, và mọi sự đều quy hướng về tình yêu ấy. Tình yêu là quà tặng vĩ đại nhất mà Thiên Chúa ban cho nhân loại; tình yêu là lời hứa của Người và là hy vọng của chúng ta.      

Tôi biết tình yêu đã và đang bị tước đoạt ý nghĩa, từ đó đưa đến nguy cơ là người ta sẽ hiểu sai tình yêu,  tách rời tình yêu ra khỏi đời sống luân lý và trong mọi trường hợp, đều bị mất giá trị. Trong các lãnh vực xã hội, pháp lý, văn hóa, chính trị và kinh tế, là những môi trường mà hiểm họa này nổi cộm nhất, tình yêu dễ dàng bị coi là không thích hợp trong việc giải thích và định hướng cho trách nhiệm luân lý. Vì thế, cần phải liên kết tình yêu với chân lý không những theo định hướng do thánh Phaolô chỉ dạy: VERITAS IN CARITATE – CHÂN LÝ (Sự Thật) TRONG BÁC ÁI  (Ep 4,15), nhưng ngược lại cần phải bổ túc thêm: CARITAS IN VERITATE – BÁC ÁI TRONG CHÂN LÝ.  Chân lý phải được tìm kiếm, khám phá và diễn đạt trong “nhiệm cục – économie –” của tình yêu, nhưng ngược lại tình yêu cũng phải được hiểu, được xác nhận và thực hiện trong ánh sáng của chân lý. Bằng cách này, không những chúng ta phục vụ tình yêu được chân lý soi sáng, mà còn mang lại tính khả tín cho chân lý, chứng minh sức thuyết phục và minh xác của chân lý trong bối cảnh thực tiễn của đời sống xã hội. Đây không phải là vấn đề nhỏ ngày nay, trong bối cảnh văn hóa và xã hội đang tương đối hóa chân lý, ít quan tâm tới chân lý, lại còn không muốn nhìn nhận sự hiện hữu của chân lý.

 

3          Do mối liên kết chặt chẽ với chân lý, bác ái có thể được nhìn nhận như cách diễn tả chính thực của nhân tính, là yếu tố có tầm quan trọng nền tảng cho các mối tương quan của con người – bao gồm cả bình diện công cộng. Chỉ trong chân lý, bac ái mới có thể chiếu tỏa và có thể sống một cách chính thực. Chân lý là ánh sáng trao ban ý nghĩa và giá trị cho tình yêu. Đó vừa là ánh sáng của lý trí vừa là ánh sáng của đức tin, nhờ đó, lý trí mới có thể đạt đến chân lý tự nhiên và siêu nhiên của tình yêu: lý trí có thể hiểu được ý nghĩa của tình yêu là dâng hiến, đón nhận và hiệp thông. Không có chân lý, tình yêu sẽ thoái hóa thành cảm tính . Tình yêu trở thành vỏ ốc trống rỗng, tìm cách lấp đầy bằng những gì mình yêu thích. Đó là nguy cơ trầm trọng mà tình yêu phải đối mặt trong một nền văn hóa không có chân lý. Tình yêu trở thành tế vật cho những xúc cảm và ý kiến chủ quan chóng qua, một từ ngữ bị lạm dụng và nát vụn đến độ mang ý nghĩa đối nghịch. Chân lý giải thoát tình yêu khỏi sự hạn hẹp của chủ nghĩa duy cảm là thứ tước đoạt nội dung xã hội và tương giao của tình yêu, và khỏi một thứ chủ thuyết duy tín tước đoạt khía cạnh nhân văn và vũ trụ của tình yêu, ngăn chận tình yêu có tầm nhìn nhân bản và phổ quát. Trong chân lý, tình yêu phản ánh chiều kích cá nhân và công cộng của niềm tin vào Đấng Thiên Chúa của Kinh Thánh, Đấng vừa là AGAPE – TÌNH YÊU vừa là LOGOS – LỜI: Bác ái và Chân lý, Tình yêu và Lời.

  

4.         Vì tình yêu tràn đầy chân lý, nên con người có thể nắm bắt, đón nhận và truyền đạt giá trị phong phú của nó. Thật vậy, chân lý là LOGOS – LỜI, Lời tạo nên DIA-LOGOS –ĐỐI THOẠI và do đó, kiến tạo truyền thông và hiệp thông. Khi giúp con người thoát khỏi những ý kiến và ấn tượng chủ quan, chân lý giúp họ có khả năng vượt lên trên những giới hạn văn hóa và lịch sử , giúp nhau xác định giá trị và bản chất của mọi vật. Chân lý khai mở và kết hợp tâm trí của chúng ta với LOGOS của tình yêu: đó là sứ điệp và chứng tá của tình yêu Kitô giáo. Trong môi trường văn hóa xã hội  hiện hành có xu hướng tương đối hóa chân lý, việc sống bác ái trong chân lý giúp người ta hiểu rằng việc gắn bó với các giá trị Kitô giáo không những hữu ích, nhưng còn là một yếu tố tất yếu để xây dựng một xã hội tốt đẹp và giúp phát triển con người cách toàn vẹn và đích thực. Một thứ Kitô giáo chủ trương bác ái mà không có chân lý sẽ dễ dàng bị lẫn lộn với một mớ tình cảm tốt đẹp, tuy hữu ích cho sự gắn kết về mặt xã hội, nhưng không có tác động bao nhiêu. Nói cách khác, sẽ không còn vị trí đích thực nào cho Thiên Chúa trong thế giới. Nếu không có chân lý, bác ái bị dồn vào những liên hệ hạn hẹp và cá nhân. Trong sự trao đổi giữa nhận thức và thực hành, bác ái bị loại khỏi những dự án và tiến trình thúc đẩy sự phát triển con người trong chiều kích phổ quát.

 

5.         CARITAS (Bác ái) là tình yêu được đón nhận và trao ban. Bác ái là CHÁRIS – ÂN SỦNG. Nguồn gốc của bác ái là tình yêu vô thủy vô chung của Thiên Chúa Cha ban cho Chúa Con trong Chúa Thánh Thần. Bác ái là tình yêu, từ Chúa Con tuôn trào đến chúng ta. Bác ái là tình yêu sáng tạo, từ tình yêu này chúng ta mới nhận được sự hiện hữu của mình; bác ái là tình yêu cứu độ, nhờ tình yêu này chúng ta mới được tái sinh. Đó chính là tình yêu được Đức Kitô mạc khải và hiện thực (Ga13,1) “tuôn đổ vào trong tâm hồn chúng ta nhờ Chúa Thánh Thần” (Rm 5,5). Là đối tượng tình yêu của Thiên Chúa, con người được đặt làm chủ thể của bác ái, được kêu gọi trở thành khí cụ của ân sủng để truyền đạt bác ái của Thiên Chúa, kiến tạo những mạng lưới bác ái.

Giáo huấn xã hội  của Giáo hội  đáp ứng cho tính năng động này của bác ái được đón nhận và trao ban. Giáo huấn đó là CARITAS IN VERITATE IN RE SOCIALI: loan báo chân lý (về) tình yêu của Đức Kitô trong xã hội. Giáo huấn này là một sự phục vụ cho bác ái, nhưng cứ điểm của giáo huấn là chân lý. Chân lý duy trì và biểu lộ sức mạnh giải phóng của bác ái trong những biến cố không ngừng thay đổi của lịch sử. Chân lý vừa là chân lý của đức tin vừa là chân lý của lý trí, cả hai bình diện nhận thức này vừa phân biệt với nhau vừa gặp gỡ nhau.. Chân lý này cần thiết cho sự phát triển, cho công ích xã hội  và cho sự kiếm tìm một giải pháp thỏa đáng những vấn đề kinh tế xã hội khó khăn đang đè nặng con người. Và còn cần thiết hơn nữa là chân lý này phải được yêu mến và minh chứng. Không có chân lý, không có sự tin tưởng và tình yêu đối với chân lý, sẽ không có lương tâm và trách nhiệm xã hội: hoạt động xã hội cuối cùng ra chỉ phục vụ những lợi ích riêng tư và lôgích của quyền lực, đưa đến những hậu quả phá tán xã hội, nhất là một xã hội đang trên đường tiến đến việc toàn cầu hóa và ở những thời điểm khó khăn như hiện nay.

 

6.         Caritas in Veritate là chân lý trung tâm của giáo huấn xã hội của Giáo hội. Nguyên lý ấy được thể hiện cách cụ thể qua những tiêu chuẩn hướng dẫn hành động luân lý. Trong những tiêu chuẩn đó, tôi muốn quan tâm đặc biệt đến hai tiêu chuẩn có ý nghĩa đặc biệt đối với nỗ lực phát triển trong một xã hội ngày càng mang tính toàn cầu: CÔNG LÝ VÀ CÔNG ÍCH. 

Trước tiên là công lý. UBI SOCIETAS, IBI IUS – Ở ĐÂU CÓ XÃ HỘI Ở ĐÓ PHẢI CÓ CÔNG LÝ: mỗi xã hội xây dựng một hệ thống pháp lý riêng của mình. BÁC ÁI PHẢI VƯỢT TRÊN CÔNG LÝ, vì yêu thương là trao ban cho kẻ khác điều “thuộc về tôi”; nhưng bác ái không thể hiện hữu nếu không có công lý, là điều buộc tôi phải trao trả cho kẻ khác điều “thuộc về họ”; điều thuộc về họ căn cứ vào hữu thể và hoạt động của họ. Tôi không thể “ban tặng” cho kẻ khác điều “thuộc về tôi” mà trước tiên không trao trả lại cho họ điều thuộc về họ dựa theo công lý. Ai yêu thương anh em trong tình bác ái, thì trước hết phải thực thi công lý đối với họ. Công lý không những không xa lạ với bác ái, cũng không phải là con đường thay thế hay song song với bác ái: công lý liên kết chặt chẽ với bác ái [1], công lý là yếu tố nội tại của bác ái.  Công lý là con đường đầu tiên của bác ái hay - như Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã nói – là “tiêu chuẩn tối thiểu” của bác ái [2], một thành phần cơ bản của tình yêu này trong “hành động và chân lý” mà thánh Gioan tông đồ đã khuyến khích. Một mặt, bác ái đòi buộc công lý: nhìn nhận và tôn trọng quyền lợi hợp pháp của từng cá nhân và của các dân tộc. Bác ái cố gắng xây dựng “đô thị trần gian” theo luật pháp và công lý. Mặt khác, bác ái vượt trên công bằng và đưa công bằng đến chỗ hoàn thiện trong lôgích của trao ban và tha thứ [3]. “Đô thị trần gian” được phát triển không chỉ đơn thuần nhờ những tương quan quyền lợi và nghĩa vụ, nhưng ở mức độ rộng lớn và nền tảng hơn, còn nhờ những tương quan vô vị lợi, nhân từ và hiệp thông. Cũng thế, bác ái luôn biểu lộ tình yêu của Thiên Chúa trong những tương quan nhân loại, bác ái mang lại giá trị thần học và cứu độ cho mọi dấn thân phục vụ công bằng trên thế giới.

 

7.         Tiếp đến, phải đặt mối quan tâm đặc biệt khác cho công ích. Yêu một người nào đó có nghĩa là phải chú ý đến lợi ích của người đó và cố gắng để thực hiện được. Bên cạnh lợi ích cá nhân còn có một lợi ích gắn bó với đời sống con người trong xã hội: đó là công ích. Đó là lợi ích của “chúng ta tất cả”, từ từng cá nhân, gia đình và những nhóm nhỏ, tạo thành một cộng đoàn xã hội [4]. Đó không phải là lợi ích chỉ được dành cho cá nhân mình, nhưng cho những con người liên hệ với nhau trong một cộng đồng xã hội, và chỉ trong cộng đồng này họ mới có thể đạt được lợi ích thực sự và có hiệu quả. Khao khát và nỗ lực vươn tới công ích là đòi hỏi của công lý và bác ái.. Dấn thân cho công ích có nghĩa là, một mặt bảo vệ và mặt khác phục vụ cho toàn bộ các cơ chế qui định đời sống xã hội  về mặt pháp lý, dân sự, chính trị và văn hóa, với cách thức này đời sống xã hội trở thành POLIS (thành phố). Chúng ta càng nỗ lực bảo đảm công ích cho phù hợp với những nhu cầu đích thực của tha nhân, thì chúng ta càng yêu thương họ cách hiệu quả. Mỗi Kitô hữu đều được gọi để thực hành đức bác ái này theo cách thế phù hợp với ơn gọi của mình và theo mức độ ảnh hưởng mình có trong polis. Đó là con đường mang tính cơ chế – người ta cũng có thể nói mang tính chính trị – của bác ái, con đường tuyệt hảo và hiệu quả không thua kém gì hình thức bái ái khi trực tiếp gặp gỡ tha nhân, bên ngoài trung gian cơ chế của polis. Sự dấn thân cho công ích do bác ái tác động, sẽ có một giá trị cao hơn sự dấn thân thuần túy thế tục và chính trị. Cũng như mọi dấn thân cho công lý, công ích có một vị trí trong chứng tá của đức ái, dọn đường cho thành đô vĩnh cữu qua những hoạt động trần thế. Khi hoạt động của con người trên trái đất được bác ái gợi hứng và nâng đỡ, hoạt động ấy sẽ mang tính chất xây dựng cho Nước phổ quát của Thiên Chúa, mà gia đình nhân loại đang hướng tới như điểm đến của lịch sử. Trong một xã hội ngày càng mang tính toàn cầu, công ích và sự dấn thân cho công ích phải mang những chiều kích của toàn thể gia đình nhân loại, nghĩa là cộng đồng các dân tộc và quốc gia [5], để xây dựng đô thị trần gian theo hướng hiệp nhất và hòa bình - và một cách nào đó - tạo những tiền đề cho thành đô không bị chia cắt của Thiên Chúa.

 

8.         Khi công bố thông điệp POPULORUM  PROGRESSIO vào năm 1967, vị tiền nhiệm đáng kính của tôi là Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã soi sáng đề tài lớn về việc phát triển các dân tộc dưới ánh quang chân lý và ánh sáng tình yêu của Chúa Kitô. Ngài xác quyết rằng đời sống trong Chúa Kitô là yếu tố đầu tiên và chính yếu của phát triển [6] và khuyến khích chúng ta tiến bước trên con đường phát triển này với con tim và lý trí của chúng ta [7], có nghĩa là với nhiệt tình của bác ái và sự khôn ngoan của chân lý. Đây là chân lý nguyên thủy của tình yêu Thiên Chúa, một ân sủng được ban tặng cho chúng ta, giúp đời sống của chúng ta mở ra để đón nhận ân huệ và có khả năng giúp hy vọng của chúng ta trở thành hiện thực, một hy vọng vào việc phát triển con người toàn diện và nhân loại toàn diện [8] tiến từ những điều kiện ít nhân bản đến những điều kiện nhiều tính nhân bản hơn [9] khi chiến thắng mọi khó khăn không thể tránh được trên đường đi. 

Bốn mươi năm sau ngày công bố thông điệp, tôi muốn nhắc nhớ đến vị giáo hoàng vĩ đại Phaolô VI và tôn vinh ngài, khi lấy lại những giáo huấn về việc phát triển con người toàn diện và dõi theo con đường đã được vạch ra để áp dụng cho hoàn cảnh ngày hôm nay. Tiến trình hiện tại hóa này đã bắt đầu với thông điệp SOLLICITUDO REI  SOCIALIS, qua thông điệp này, tôi tớ Chúa là Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II muốn kỷ niệm hai mươi năm ngày công bố thông điệp Populorum progressio. Cho đến lúc đó Hội Thánh chỉ kỷ niệm thông điệp RERUM NOVARUM mà thôi. Hai mươi năm sau, tôi xác tín rằng thông điệp Populorum progressio xứng đáng được xem  như thông điệp Rerum novarum của thời đại chúng ta, soi sáng con đường nhân loại đi đến hiệp nhất.   

 

9.         Bác ái trong chân lý- CARITAS IN VERITATE – là một thách thức lớn cho Hội Thánh trong một thế giới trên đường toàn cầu hóa đang phát triển và phổ biến. Nguy cơ của thời đại chúng ta là sự tương thuộc đương nhiên (de facto) giữa các dân tộc và các quốc gia lại không đi đôi với sự tương tác về mặt đạo đức của lương tri, từ đó không thể đưa đến một sự phát triển nhân bản đích thực như kết quả. Chỉ trong bác ái được ánh sáng lý trí và đức tin soi sáng,  chúng ta mới có thể đạt được những mục tiêu phát triển mang những giá trị nhân văn và nhân hóa. Việc chia sẻ của cải và tài nguyên, từ đó có thể đưa đến một sự phát triển đích thực, không thể chỉ đơn thuần do những bước tiến kỹ thuật hay những tương quan lợi nhuận, nhưng do sức mạnh của tình yêu chiến thắng điều ác bằng điều thiện (Rm 12,21), mở ra con đường hướng tới sự tương hỗ của lương tâm và tự do. 

Giáo hội không đưa ra những giải pháp kỹ thuật [10] và cũng không đòi hỏi “nhúng tay vào chính trị của Nhà Nước bằng bất cứ cách nào” [11]. Dù vậy, Giáo hội phải chu toàn trong mọi thời gian và mọi hoàn cảnh sứ mạng phục vụ chân lý nhằm xây dựng một xã hội  xứng với con người, với phẩm giá và ơn gọi của họ. Không có chân lý, con người sẽ rơi vào một nhân sinh quan mang tính thường nghiệm và hoài nghi, không đủ khả năng vượt lên trên bình diện thực tiễn do thiếu quan tâm đến việc nắm bắt các giá trị – đôi khi cả những ý nghĩa của sự vật – là những điều giúp con người phán đoán và điều hướng cuộc sống. Sự trung thành đối với con người đòi buộc sự trung thành với chân lý, vì chỉ có chân lý là điều bảo đảm cho tự do (Ga 8,32) và khả năng phát triển con người toàn diện. Chính vì thế, Giáo hội tìm kiếm chân lý, rao giảng không mệt mỏi và nhìn nhận chân lý bất cứ nơi nào nó biểu lộ. Sứ mạng phục vụ chân lý này đối với Giáo hội là sứ vụ Giáo hội không bao giờ được khước từ. Giáo huấn xã hội của Giáo hội là một phương diện đặc biệt của việc rao giảng này: đó là một sự phục vụ chân lý giải phóng. Mở rộng ra để đón nhận chân lý, dù chân lý này từ đâu đến, giáo huấn xã hội của Giáo hội đón nhận chân lý ấy, thu nhận những mảnh vụn thường bị phân tán vào trong một tổng thể và đưa chân lý ấy vào trong thực tiễn cuộc sống không ngừng thay đổi của các dân tộc và các quốc gia [12].

Tác giả: BENEDICTUS PP. XVI (Bản dịch của: UB Giáo Lý Đức Tin & TT Mục Vụ TGP Saigon)

Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và GHVN bay lên!