Với căn tính xã
hội, con người là hữu thể trong tương quan liên vị. Tôi chỉ thực sự là tôi
trong tương quan với một ai đó. Chính vì thế sự tương quan liên vị là một nhu
cầu sinh tồn của con người. Sự tương quan này được thể hiện rõ nét qua sự tiếp
xúc. Một trong những cách thế để tiếp xúc hữu hiệu với tha nhân là đối thoại
tức là nghe và nói. Thật bất hạnh cho những ai thiếu hay mất khả năng nói và
nghe. Thoạt sinh ra mà bị câm điếc thì đúng là kém may mắn. Dân gian truyền
miệng rằng hễ một người câm, không nói được thì trời cho điếc luôn để khỏi uất
ức, tức tối khi nghe những lời không hay về mình mà không phản bác lại được.
Thế nhưng y học thì cho thấy ngược lại: chính vì bị điếc nên người ta mới bị
câm. Vì không nghe được nên con người không thể tập nói. Trẻ nói được là nhờ
bắt chước, lặp lại những gì đã nghe.
Bài Tin mừng
Chúa Nhật XXIII TN B tường thuật chuyện Chúa Giêsu chữa lành cho một người câm
điếc mà dịch chính xác hơn là điếc và ngọng. Đây là một trong những dấu chỉ của
thời Thiên Sai mà Thánh kinh đã loan báo. Mất đi khả năng nghe và nói xét về
thể lý là một khốn khổ và bất hạnh. Thế nhưng sự bất hạnh và khốn khổ ấy dường
như chỉ hạn hẹp ở đương sự và có chăng là nơi vài người thân thích. Tuy nhiên
nếu xét về bệnh điếc, câm hay ngọng về tinh thần thì sự khốn khổ và bất hạnh nó
di hại cho nhiều người và hậu quả cũng khó mà khắc phục. Dù hai lãnh vực thể lý
và tinh thần tuy khác nhau nhưng có sự trùng hợp đó là do bởi điếc (không nghe
được, không chịu nghe, nghe không rõ, không đúng, không chính xác) nên người ta
đâm ra điếc hay ngọng là không nói được hay nói không được những điều cần nói,
nên nói và phải nói. Ở đây chúng ta đặc biệt phân tích về căn bệnh
tinh thần. Với các bài Thánh Kinh được trích đọc trong Chúa Nhật XXIII TN B
này, chúng ta có thể tìm ra một vài nguyên nhân chính của căn bệnh câm điếc.
1.Thiên Chúa
nói với chúng ta bằng nhiều cách thế, tuy nhiên cách thế thông thường mà Người
phán dạy chúng ta là qua con người mà đa số là những người phận nhỏ. Đọc lịch
sử thánh, chúng ta nhận ra điều này: ngoài những dấu lạ điềm thiêng thì “thuở
xưa, nhiều lần và nhiều cách Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các
ngôn sứ, nhưng vào thời sau hết này Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh
Tử” (Dt 1,1). Con Thiên Chúa đã làm người trong thân phận nghèo hèn, ngay hoàn
cảnh chào đời đến thời gian khôn lớn. Chúa Giêsu đã chọn gọi mười hai người
cộng tác đặt làm tông đồ để rao giảng Lời Thiên Chúa vốn là những người thấp
cổ, bé phận.
Thánh Giacôbê
Tông đồ qua bài đọc thứ hai cảnh tỉnh ta về cái lề thói thích thiên tư, gần gũi
với những người sang giàu. Đây là một trong những nguyên cớ khiến ta bị điếc về
tâm linh. Rất nhiều nhà lãnh đạo quốc gia hay tôn giáo vẫn có nghe nhưng họ
thường nghe lời từ những người thuộc quyền thân cận. Và thế là nhiều khi có
nghe cũng như không. Để khỏi bị điếc, tức là để nghe đúng, nghe chính xác thì
không gì hơn là biết cúi xuống, gần dân, gần những người thấp cổ, bé phận, gần
những người nghèo khổ lầm than.
2.Vẫn có đó
nhiều người nghe rõ, nghe đúng, nhưng làm như không nghe, không biết. Biểu hiện
nơi những người này là không dám nói, có nói thì nói không đúng hoặc nói kiểu
nói ngọng. Bài đọc thứ nhất cho ta chìa khoá tìm ra nguyên nhân của căn bệnh
này đó là sự sợ hãi, thiếu can đảm. Thiên Chúa truyền cho ngôn
sứ Isaia: “Hãy nói với những kẻ nhát gan: “Can đảm lên, đừng sợ!”.
Đức cố Gioan Phaolô II đã khai mở triều đại Giáo hoàng của Ngài với đoàn tín
hữu bằng chính lời của Chúa Kitô: “Các con đừng sợ!” Trong thời gian rao giảng
Tin Mừng, không ít lần Chúa Kitô nhắn nhủ các môn đệ rằng “hãy can đảm lên,
đừng sợ!” khi phải rao giảng chân lý. Và sau khi từ cõi chết sống lại thì hai
từ “đừng sợ” vẫn được Người lặp đi lặp lại nhiều lần.
Sợ khổ, sợ bị
thua thiệt, sợ bị bách hại…là những cái sợ khiến nhiều người hành xữ như chẳng
thấy, chẳng nghe và họ đã không dám mở miệng bảo vệ công lý, rao truyền chân
lý, nhất là không dám tố giác tội lỗi, cách riêng tội lỗi của những người đang
nắm trong tay quyền cao, chức trọng. Ngoài ra cũng cần kể đến một vài nguyên cớ
khiến người ta dù có nghe đúng hoặc thấy rõ mà vẫn sợ không dám nói. Có thể vì
có tật thì giật mình hoặc há miệng thì sợ mắc quai. Có thể do lầm lỗi hay khiếm
khuyết nào đó của ta khiến ta thấy ngượng miệng khi phải nói điều gì đó phải
nói. Dễ dàng thông cảm với người còn chút tự trọng và chút liêm sỉ, ngại ngần
lấy cái rác trong mắt tha nhân khi mà cái xà nhà đang ở trong mắt mình. Cũng
cần kể đến những trường hợp “ăn xôi chùa, ngọng miệng”. Tệ nạn cũng là quốc nạn
của nhiều nước hiện nay là tham nhũng – hối lộ. Hậu quả kéo theo là những vị
hữu trách “nói không được”, những điều cần nói hoặc phải nói theo bổn phận và
trách nhiệm của mình.
“Ephata: Hãy mở
ra!” Không chỉ hãy mở tai, mở mắt để thấy và để nghe hiện trạng của đất nước,
của xã hội, của giáo hội mà con phải mở lòng ra để biết cảm thông với tha nhân
trong sự liên đới trách nhiệm. Vẫn còn quá nhiều vị lãnh đạo ngoài xã hội vẫn
chưa chu toàn chức vụ “công bộc” của nhân dân và vẫn còn một số mục tử chưa
xứng là tôi tớ của đoàn Dân Thiên Chúa trong trách vụ làm “sứ ngôn”.
Dù khuyết tật
về thể lý, nhưng người câm vẫn có thể nói bằng thái độ, cử chỉ hay bằng văn tự.
Là Kitô hữu, chúng ta đã được Chúa Kitô thông chia nhiệm vụ ngôn sứ. Nếu vì lẽ
gì đó mà chúng ta vẫn chưa can đảm lên tiếng hoặc có nói mà như không nói, vì
chỉ nói chung chung, một kiểu nói ở đâu cũng đúng, nói lúc nào cũng chẳng sai
mà lại chẳng nhắm cho ai cả, thì chúng ta chưa hẳn thực sự là con người và chắc
chắn không thể nào là con cái Chúa chính danh, đúng phận. Chính vì thế Chúa
Kitô vẫn đang mãi phán truyền lớn tiếng: EPHATA!: HÃY MỞ RA!
Lm Giuse
Nguyễn Văn Nghĩa – Ban Mê Thuột