“Chính
anh em là chứng nhân về những điều này”(Lc 24,48). Những điều này là những điều
gì đây? Chúa Giêsu đã minh nhiên khẳng định: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng
Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại; phải nhân danh
Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để
được ơn tha tội” (Lc 24,47).
Phải nhìn nhận rằng cuộc tử
nạn và phục sinh của Chúa Kitô là một chủ đề chính của lời rao giảng của các
tông đồ. Đã có lúc, có nhiều đấng vì muốn nhấn mạnh đến mầu nhiệm Phục sinh nên
thích chưng ảnh tượng Chúa Phục sinh trong cung thánh Nhà thờ, thế mà Hội Thánh
vẫn không chuẩn nhận. Theo luật hiện hành thì phải chưng ảnh tượng Chúa chịu
nạn (Crucifix), dù rằng mầu nhiệm Chúa Phục sinh chính là mầu nhiệm nền tảng
của Kitô giáo, vì như lời thánh Phaolô Tông đồ rằng: Nếu Chúa Kitô không sống
lại thì Kitô hữu là những người khốn khổ nhất (x.1Cr 15,12-14).
Khi chổi dậy từ cõi chết thì thân xác của Đấng
Phục Sinh có nhiều thay đổi về diện mạo bên ngoài khiến Maria Mađalêna làm
tưởng là người giữ vườn, hai môn đệ trên đường đi Emmau cùng đi bộ với Người
khoảng 12 cây số cũng không nhận ra. Các tông đồ và môn đệ trên bờ hồ
Giênêzaret sau một đêm đánh không được con cá nào rồi vào bờ gặp Người trên bờ
biển đã không nhận ra Thầy chí thánh. Tuy nhiên dù diện mạo có đổi thay nhưng
trên thân xác Đấng Phục Sinh vẫn còn có đó các dấu đinh và dấu lưỡi đòng nơi
tay chân và cạnh sườn (x.Ga 20,19-29). Cả hai mầu nhiệm Tử nạn và Phục sinh
luôn song hành với nhau, không thể tách rời. Mầu nhiệm Phục sinh khẳng định
rằng Chúa Kitô chính là Thiên Chúa thật, vì chỉ có Thiên Chúa mới có thể làm
chủ sự sống và sự chết. Mầu nhiệm Tử nạn lại mạc khải cho chúng ta biết: “Thiên
Chúa là Tình Yêu” (1Ga 4,8). Không có
tình yêu nào cao quý cho bằng tình yêu của người hiến dâng mạng sống vì người
mình yêu (x.Ga 15,13). Cũng như các Tông đồ xưa, Kitô hữu chúng ta mọi thời cần
phải làm chứng rằng Đấng tử nạn đã phục sinh đồng thời phải làm chứng rằng Đấng
phục sinh là Đấng đã tử nạn.
Đấng tử nạn
đã phục sinh: Khi
tuyên bố chân lý này, chúng ta tuyên tín rằng Chúa Kitô chính là Thiên Chúa
thật. Người đã phục sinh như lời Người đã tiên báo. Nhìn nhận Chúa Kitô là
Thiên Chúa có nghĩa là kính dâng lên Người sự thần phục của chúng ta. Không chỉ
chúng ta mà mọi vật mọi loài cần phải suy phục Đấng đã phục sinh như là nguyên
lý và là cứu cánh của mọi hiện hữu. Cùng với thánh Phaolô chúng ta tuyên xưng:
“Trong Người, muôn vật được tạo thành trên trời cùng dưới đất, hữu hình với vô
hình. Dẫu là hàng dũng lực thần thiêng hay là bậc quyền năng thượng giới, tất
cả đều do Thiên Chúa tạo dựng, nhờ Người và cho Người…” (Col 1,16).
Sự suy tôn, thần phục không chỉ thể hiện bằng việc nhìn
nhận những gì chúng ta là, chúng ta có, đều do bởi Đấng đã phục sinh mà còn thể
hiện bằng việc gắn bó với Người và hết tâm hết lòng tuân giữ lời Người phán
dạy. Thánh Gioan khẳng định qua bài đọc thứ hai: “Căn cứ vào điều này, chúng ta
nhận ra rằng chúng ta biết Thiên Chúa: đó là chúng ta tuân giữ các điều răn của
Người…”(1 Ga 2, 4). Các Tông đồ xưa đã thực thi điều này khi khẳng khái trước
mặt quan quyền rằng: Phải vâng lời Chúa hơn là vâng lời phàm nhân (x.Cvtđ 4,19).
Đấng phục
sinh là Đấng đã tử nạn: Chân lý này
gợi mở cho chúng ta niềm hy vọng, khi cho thấy tình yêu bao la của Thiên Chúa
trong Đức Kitô. Vì yêu thương thế gian, Thiên Chúa đã ban chính Con Một (x.Ga
3,16). “Thiên Chúa đã muốn làm cho tất cả sự viên mãn hiện diện ở nơi Người,
cũng như muốn nhờ Người mà làm cho muôn vật được hoà giải với mình. Nhờ máu
Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất
và muôn vật trên trời” (Col 1,19-20). Các dấu đinh trên tay chân và dấu lưỡi
đòng trên ngực vẫn còn đó trên thân mình Đấng Phục Sinh khẳng định rằng dù trời
đất có qua đi thì tình của Người dành cho chúng ta mãi không hề thay đổi.
Tuyên xưng Đấng phục sinh là
Đấng đã tử nạn thì cũng là nhìn nhận tội ác của con người, của chính mỗi người
chúng ta. Vì chúng ta, Đức Kitô đã chịu nộp, chịu khổ hình thập giá. Như thế
lời tuyên xưng này luôn bao hàm lời mời gọi hoán cải ăn năn để được ơn tha tội.
Thiên Chúa đã rộng ban ơn tha thứ, sự giải hòa, qua cái chết của Đức Kitô.
Thánh Tông đồ dân ngoại khẳng định rằng Chúa Kitô đã chết cho chúng ta ngay khi
chúng ta còn là kẻ phản nghịch. Ơn cứu độ đã được trao ban, nhưng chúng ta có
nhận được sự thứ tha hay không, vẫn còn tuỳ ở mỗi người chúng ta. Nói như thánh
Âugustinô: “Thiên Chúa dựng nên tôi, không cần có tôi, nhưng Người không thể
cứu tôi mà không cần có tôi”. Và sự sám hối, ăn năn chính là một cách thế căn
bản để đón nhận hồng ân tha thứ, hồng ân cứu độ.
Chính anh em là chứng nhân
về những điều này. Lời truyền của Đấng Phục sinh năm xưa vẫn còn vọng vang đến
những người tin là các Kitô hữu. Ước gì bà con lương dân, anh chị em khác đạo
không chỉ nghe các bài ca “Hallêluia, Chúa đã sống lại”, mà còn nhìn thấy các
Kitô hữu, cách riêng các mục tử trong Hội Thánh biết sám hối ăn năn, thay đổi
đời sống. Các Tông đồ xưa, đã làm chứng nhân trước hết bằng việc dứt bỏ sự ích
kỷ, háo danh, hám lợi để sống quảng đại, xả thân vì Danh Chúa và vì hạnh phúc
của tha nhân. Các Ngài đã dần bỏ sự hèn nhát mà hiên ngang làm chứng cho sự
thật cho dù phải trả bằng chính giá máu… Xin lỗi Đức cố Giáo Hoàng Phaolô VI,
không chỉ hôm nay mà cả trước đây lẫn sau này người ta vẫn thích nghe theo các
chứng nhân hơn là các nhà giảng thuyết. Cha ông dân Việt đã từng cảm nghiệm
rằng: “lời nói gió bay, gương bày lôi kéo”.
Lm.
Giuse Nguyễn Văn Nghĩa – Ban Mê Thuột