CHÚA NHẬT IV MÙA CHAY NĂM A
Trong Tin Mừng, có hai lần Chúa Giêsu chữa lành bệnh tật con người bằng cách dùng nước miếng. Một lần thánh sử Luca cho biết Chúa chữa một người vừa điếc, vừa ngọng (Lc 7, 33). Còn hôm nay là Tin Mừng thánh Gioan, Chúa chữa người mù bẩm sinh (Ga 9, 1-41). Việc chữa lành, lẽ ra phải rất tốt đẹp và phải được ca tụng, vì bị mù từ thuở mới sinh là một căn bệnh bất trị, thì nay bỗng dưng được nhìn thấy. Nhưng đã trở thành rắc rối. Bởi “ngày Đức Giêsu trộn chút bùn và làm cho mắt anh ta mở ra lại là ngày Sabbat” (ngày lễ nghỉ).
Với thái độ giữ luật hẹp hòi, định kiến và “câu nệ” đến thế, hàng lãnh đạo tôn giáo Do thái đã không thể nhận ra hành động của Chúa Kitô là hành động tốt lành, càng không bao giờ nhận ra đó là hành động của Thiên Chúa yêu thương con người. Luôn luôn sống trong sự tự tôn, họ chỉ biết lấy mình làm thước đo cho người khác. Ai không sống, không thực hành giống mình, người đó là kẻ tội lỗi. Nghĩ sao thì nói vậy. Hàng lãnh đạo tôn giáo Do thái đã nhân danh chính mình mà chỉ trích Chúa Giêsu là “người tội lỗi”; còn người mù được Chúa ban ơn sáng mắt là “kẻ sinh ra trong tội”.
Đáng thương cho những người Do thái thời Chúa Giêsu. Bởi khi gán cho anh chị em mình bản án tội lỗi, mặc nhiên họ nhìn nhận bản thân họ vô tội. Nhưng những người “vô tội” như họ sao không làm nổi một dấu lạ, dẫu là một dấu lạ nhỏ nhất, còn những người bị chính họ kết án là tội lỗi lại làm nên một dấu lạ phi thường và được thừa hưởng kết quả tuyệt vời của dấu lạ ấy? Đâu phải họ không nhận ra điều đó. Thánh Gioan cho biết: “họ bất đồng ý kiến” vì một câu hỏi được nảy sinh: “Làm sao người tội lỗi lại có thể làm được những phép lạ thể ấy?”. Giá mà họ tận dụng lời hỏi này như một lời tra vấn lương tâm, có lẽ họ đã thay đổi não trạng. Nhưng đáng thương và cũng đáng tiếc cho những người lãnh đạo tôn giáo Do thái thời đó, bởi điều ấy đã không xảy ra. Sẵn một định kiến xấu xa quá lớn về Chúa Giêsu, làm cho họ đui mù hoàn toàn. Một sự đui mù quá nguy hiểm. Hóa ra, kẻ đáng ra phải sáng thì vì kiêu căng, vì khép chặt lòng mình trước ơn ban của Thiên Chúa, đã trở nên mù. Còn kẻ đui mù, nhờ mở lòng đón nhận ơn Chúa lại là người sáng, không chỉ sáng mắt mà còn sáng tâm hồn.
Nhưng đâu chỉ xảy ra ở thời Chúa Giêsu, thời đại chúng ta đang sống cũng đang diễn ra hai thứ mù: Mù mắt và mù tối tâm hồn. Mù mắt đã là một rủi ro, một sự bất hạnh, khổ sở và đáng sợ. Nhưng mù tâm hồn không chỉ đáng sợ mà còn nguy hiểm vô cùng. Trước hết, đó là một mối nguy cho đức tin, vì người mù tối tâm hồn đánh mất đức tin ngay chính lúc ơn Chúa như sờ thấy được trước mắt họ. Mù tâm hồn còn là một mối nguy cho lòng mến. Bởi nó làm chúng ta không nhận ra Thiên Chúa, không còn yêu mến Thiên Chúa, mà chỉ còn một lối sống ảo tưởng mình thuộc về Thiên Chúa, thứ ảo tưởng mà hàng lãnh đạo tôn giáo Do thái thời Chúa Giêsu đang rơi vào. Do không còn tình mến thật đối với Thiên Chúa mà chỉ là ảo tưởng, cũng đồng nghĩa với việc chúng ta đánh mất Thiên Chúa đời đời.
Vì thế, mù không là tội. Chỉ khi nào cố ý che khuất đôi mắt tâm hồn mới là tội. Ai trong chúng ta cũng sợ mù, vì đó là nỗi bất hạnh. Nhưng chúng ta đừng quên rằng, bất hạnh nhất là khi không còn nhận ra Thiên Chúa, không còn nhận ra anh chị em quanh mình, không còn nhận ra những hoàn cảnh xảy ra cho mình, cho đồng loại là tình thương của Chúa. Chúng ta sợ mù mắt, nhưng thật đáng trách, bởi hiếm khi (nếu không muốn nói là không khi nào) chúng ta sợ mù tối tâm hồn. Hiếm khi chúng ta tự nhắc nhở mình phải tỉnh thức để tránh mù tối tâm hồn.
Hội thánh có một tấm gương mù mà sáng rất đáng để chúng ta noi theo. Tấm gương đó chính là thánh Phaolô. Ngày thánh nhân vào thành Đamas mang theo nơi mình một tâm hồn mù tối vì lầm tưởng rằng, triệt hạ các Kitô hữu là vinh danh Thiên Chúa. Nhưng cú ngã ngựa đau nhói đánh mù đôi mắt của Phaolô, lại là cú đốt cháy nát lòng Phaolô. Từ đó thánh Phaolô bừng sáng tâm hồn.
Cũng vậy, chúng ta cần ánh sáng chói chan của Chúa, để bừng dậy cõi lòng. Ánh sáng của Chúa, của tình yêu tha thứ, của tình yêu cứu độ sẽ đốt cháy nát tan mọi góc tối trong ta. Chúng ta đừng sợ ánh sáng của Chúa. Đó là ánh sáng của bí tích Thánh Thể mỗi khi chúng ta đến tôn thờ Người, rước lấy Người vào hồn ta. Ta dám để cho Người giáo dục ta bằng Thành Thần của Người, bằng sự soi sáng nội tâm để ta nhận ra đâu là chân lý, đâu là thánh ý Người, đâu là ơn bình an mà Người muốn… Đó là ánh sáng của Lời Chúa dạy ta hãy khiêm nhường, hãy bác ái, hãy làm hòa với mọi người… Đó là ánh sáng của lề luật Thiên Chúa dạy ta luôn biết nghiêm túc chỉnh đốn mình, nghiêm túc ăn năn tội, nghiêm túc trở về để xin ơn tha thứ của Chúa…. Đó là ánh sáng của lề luật Hội Thánh dạy ta hãy siêng năng cầu nguyện, hãy thi hành đời sống chứng nhân của mình bằng gương lành, gương tốt…
Hãy để ánh sáng từ nơi Thiên Chúa lọt vào cõi tâm hồn. Hãy có cái nhìn tốt về tha nhân, về những hoàn cảnh đang diễn ra. Hãy biết sợ mù tối tâm hồn.
Lm. JB NGUYỄN MINH HÙNG
(GX Bến Sắn – Phú Cường)