CHÚA KHÔNG BỎ RƠI
CN 5 TN NĂM B
Có thống khổ, bệnh tật, nhưng cũng có chữa lành. Trong tất cả những trường hợp
nói trên, chỉ có hai trường hợp được kể tên cách rõ ràng: ông Gióp và mẹ vợ
thánh Phêrô. Đó là nội dung Lời Chúa của Chúa nhật thứ V thường niên năm B.
Tuy nhiên, dù có nêu cụ thể hay không, những trường hợp được chữa lành đều dạy
ta bài học hy vọng: CHÚA KHÔNG BỎ RƠI CON NGƯỜI. Vì thế, dù phải sống trong đau
khổ, thậm chí, nhiều khi đau khổ như biến đời ta nên tăm tối, như không còn lần
ra lối, ta vẫn không để tuyệt vọng lấn át hy vọng.
Hãy thắp sáng hy vọng. Hãy thắp sáng niềm cậy trông vào Đấng không hề bỏ rơi ta.
Đấng không bỏ rơi sẽ càng gần ta hơn, khi ta hướng về Người mà nguyện cầu. Hãy
thắp sáng hy vọng bằng cầu nguyện. Hãy cầu nguyện nhiều. Càng đau khổ, càng cầu
nguyện. Cầu nguyện là lối mở để hy vọng ùa về.
Đức Hồng y Phanxicô Saviê Nguyễn Văn Thuận dạy chí lý:
“Người hy vọng là người cầu nguyện. Đối tượng của lời cầu nguyện cũng là đối
tượng của niềm hy vọng. Người hy vọng là cộng tác viên của Thiên Chúa. Ngài tìm
gọi họ để hoàn tất việc tạo dựng và cứu chuộc của Ngài”
(Đường Hy Vọng, Chương 36 - Hy Vọng, số 964).
Tin tưởng Thiên Chúa không bỏ rơi, và đặt hy vọng tuyệt đối vào Người, đó là
điều ta thấy nơi ông Gióp, một người đau khổ tột cùng. Ông hầu như rơi vào tuyệt
vọng nhưng vẫn sáng ngời hy vọng. Chỉ trong có một ngày, trời đất xung quanh ông
như hoàng toàn sụp đổ:
“Trong lúc bò của ông cày ruộng và lừa cái ăn cỏ bên cạnh, dân Sơva đã xông vào
cướp lấy; còn các đầy tớ, chúng dùng gươm giết chết…Lửa của Thiên Chúa từ trời
giáng xuống đốt cháy chiên dê và đầy tớ… Người Canđê chia thành ba toán ập vào
cướp lấy lạc đà; còn các đầy tớ, chúng dùng gươm giết chết… Con trai, con gái
ông đang ăn tiệc uống rượu trong nhà người anh cả của họ, thì một trận cuồng
phong từ bên kia sa mạc thổi thốc vào bốn góc nhà; nhà sập xuống, đè trên đám
trẻ; họ chết hết…”
(G 1, 13-19).
Mất mát đến trắng tay, nhưng đau khổ vẫn không buông tha, nó còn tấn công chính
con người ông:
“Ông mắc những chứng ung nhọt ác tính từ bàn chân cho tới đỉnh đấu. Ông ngồi
giữa đống tro, lấy mảnh sành mà gãi”
(G 2, 7-8). Ông Gióp mất tất cả: tài sản, của cải, gia đình, uy tín, sức khỏe.
Bạn bè cho rằng, sở dĩ ông bị dồn vào con đường cùng là do ông phạm tội. Vợ ông
đay nghiến, xúi giục ông nguyền rủa Thiên Chúa mà chết cho rồi.
Nỗi tuyệt vọng trong ông Gióp lớn đến mức, ông phải thốt lên:
“Tựa người nô lệ mong bóng mát, như kẻ làm thuê đợi tiền công, cũng thế, gia tài
của tôi là những tháng vô vọng, số phận của tôi là những đêm đau khổ ê chề”
(G 7, 2-3. Nội dung bài đọc I).
Nhưng ông Gióp không đánh mất đức tin. Chính nhờ đức tin, ông thắp lên hy vọng
giữa tuyệt vọng. Trong đức tin, ông nhìn thấy Thiên Chúa. Trong đức tin, ông kêu
cầu Thiên Chúa:
“Lạy Đức Chúa, xin Ngài nhớ cho, cuộc đời con chỉ là hơi thở, mắt con sẽ chẳng
thấy hạnh phúc bao giờ”
(G 7, 7. Nội dung bài đọc I).
Ông trả lời cho mọi người rằng, ông không phạm tội, không bao giờ dám xúc phạm
Thiên Chúa. Nhưng ông không thể hiểu tại sao ông phải đau khổ. Đau khổ là một
mầu nhiệm đối với ông. Dù ông không hiểu, nhưng ông không bao giờ để lòng mình
rời xa Chúa. Ông trở thành con người của hy vọng.
Cái nhìn đức tin là cái nhìn thiêng liêng xuyên thấu mọi biến cố, đã cho ông
Gióp một tinh thần vững như bàn thạch. Một lòng trung thành với Đấng mình tôn
thờ, ông phó mặc mọi sự đời mình trong tay Chúa. Ông không mất niềm cậy trông,
không suy suyễn đức tin, không gia giảm lòng mến dù đau khổ vây bủa quanh ông
đến cùng cực. Niềm hy vọng vào Đấng không bỏ rơi, đã cho ông sức mạnh vượt qua.
Cái nhìn đức tin xuyên thấu nâng đỡ suốt những ngày dài đời ông. Cái nhìn đức
tin xuyên thấu giúp ông vượt trên đau khổ. Cái nhìn ấy đưa tinh thần ông lên cao,
đang lúc ông bị vùi sâu xuống. Cái nhìn ấy đẩy tình yêu Chúa trong ông Gióp lên
đến mức tinh ròng, đến mức tuyệt đẹp, đang lúc mọi hoàn cảnh quanh ông đang bấn
loạn, chao đảo, tưởng chừng nghĩa yêu đương chỉ còn là sự sụp đổ.
Chưa đến mức ngặt nghèo như ông Gióp, nhưng đau ốm như mẹ vợ của thánh Phêrô và
nhiều người, hay bị quỷ ám như một số người khác mà bài Tin Mừng nhắc đến, cũng
là tình trạng bấp bênh, đau khổ của chính nạn nhân hay của những người thân phải
cưu mang họ. Họ là những khuôn mặt đại diện cho tất cả chúng ta. Bởi không ai
trong chúng ta toàn năng, nhưng luôn luôn mang nơi mình một kiếp sống đầy bất ổn,
thiếu thốn, yếu đuối…
Chúa Giêsu đã không đứng ngoài cuộc. Người không dửng dưng trước những tác oai
tác quái của bệnh tật, của ma quỷ trên cuộc đời của con người. Đối với bà mẹ vợ
của thánh Phêrô,
“Chúa lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy”.
Đối với những người khác,
“Chúa Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ”.
Như những người trong Tin Mừng được Chúa chữa khỏi. Chúng ta tin, Chúa không bỏ
rơi chúng ta. Ánh mắt Người dõi theo từng bước, suốt đời ta. Có thể hoàn cảnh,
bệnh tật, khốn khổ… của ta vẫn còn đó. Nhưng ta tin rằng, Chúa nhìn thấy và thấu
biết nỗi lầm than của ta.
Giữa lúc đau khổ có nguy cơ khuynh đảo đức tin, đe dọa cắt rời ta xa Thiên Chúa,
thì hy vọng múc nguồn từ cầu nguyện – không phải xin Chúa cất đau khổ, nhưng là
để cho thánh ý Chúa thể hiện, để cho lòng can đảm đứng ra gánh vác – sẽ là điều
quý giá không thể nói hết.
Bài Tin Mừng đã không kết thúc bằng bất cứ hình ảnh nào, nhưng lại đẩy chúng ta
chạy tới chiêm ngắm hình tượng Chúa Kitô cầu nguyện. Đúng hơn, Sau khi tất cả
những Lời Chúa được công bố, thì cao trào của mọi diễn tả, đã được đẩy tới đỉnh
điểm:
“Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu
nguyện ở đó”.
Hình như phụng vụ của Hội Thánh cố tình giải quyết mọi đau khổ của con người
bằng hình tượng Chúa Kitô cầu nguyện. Hãy cầu nguyện, vì Chúa hằng cầu nguyện.
Hãy cầu nguyện, vì Chúa là nguồn hy vọng của ta. Hãy cầu nguyện, vì đó là sức
mạnh của người đau khổ. Hãy cầu nguyện, vì nó củng cố hy vọng trong ta. Hãy cầu
nguyện, vì Chúa yêu người đặt niềm trông cậy vào Chúa.
Ta cầu nguyện theo gương của Chúa, vì Chúa là gương sáng cho ta về niềm hy vọng.
Ta cầu nguyện với Chúa, vì Chúa chữa lành niềm hy vọng của ta, như đã chữa trị
cho nhiều người. Ta cầu nguyện trong Chúa, vì sự kết hợp giữa ta với Chúa, sẽ
biến đau khổ đời ta thành thánh giá cứu chuộc.
Đức Hồng y Phanxicô Saviê Nguyễn Văn Thuận dùng chính Tin Mừng để chứng minh
hiệu quả của lòng hy vọng vào Chúa:
“Con trai bà góa thành Naim chết được khiêng đi chôn, Lazarô chết thối trong mồ,
Chúa còn gọi chỗi dậy được. Con hãy hy vọng và khiêm tốn hối cải. Chúa sẽ cho
con sống lại”
(Đường Hy Vọng, Chương 3 - Bền Chí, số 55).
Bởi dù không phải ai cũng được giải thoát khỏi đau khổ, nhưng chắc chắn, ai mắc
phải đau khổ, cũng đều được nên giống Chúa Kitô thập giá, đều được Thiên Chúa
yêu thương.
Chúa không bỏ rơi con người, đó là niềm xác tín trong đời ta.
Chúa không bỏ rơi chính ta, đó càng phải là niềm xác tín mãnh liệt giữa những
khổ đau mà ta đang đối diện.
Hãy tin. Hãy tín thác. Và hy vọng vào Chúa.
Lm. JB NGUYỄN MINH HÙNG
Tác giả:
Lm. JB Nguyễn Minh Hùng
|